You are on page 1of 13

I.

Sự chuyển hóa tiền thành tư bản:


1. Công thức chung của tư bản
Bản thân tiền tệ không phải là tư bản, tiền chỉ trở thành tư bản khi sử dụng nó để bóc lột
người khác, Để hiểu rõ tiền biến thành tư bản như thế nào. Mác đã dùng công thức lưu thông
hàng hóa giản đơn và công thức chung của tư bản sau đây để so sánh:
+ Lưu thông hàng hóa giản đơn: H – T – H (hàng – tiền – hàng)
+ Lưu thông tiền là tư bản: T – H – T (tiền – hàng – tiền).
- So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và lưu thông tư bản
+ Điểm giống nhau: cả hai công thức đều diễn ra mua và bán; đều có hai nhân tố là tiền và
hàng; có quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, giống nhau chỉ là hình
thức, còn bản chất hoàn toàn khác nhau.
+ Công thức H – T – H: Quá trình bắt đầu bằng hành vi bán (H – T), kết thúc bằng hành vi
mua (T – H). Điểm bắt đầu và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền tệ chỉ đóng vai trò trung
gian. + Ngược lại công thức: T – H – T, điểm xuất phát là mua (T – H), điểm kết thúc là bán
(H – T), tiền là điểm xuất phát và cũng là điểm kết thúc, hàng hóa đóng vai trò trung gian.
- Trên cơ sở so sánh, chúng ta nhận thấy: Mục đích của vận động của T – H – T không phải
là giá trị sử dụng, mà là giá trị. Nếu tiền ứng trước và tiền thu về sau khi bán hàng bằng nhau
thì quá trình vận động T – H – T là vô nghĩa. Vì vậy, trong quá trình vận động tư bản phải có
sự tăng lên về lượng, nghĩa là số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng trước. Do đó, công thức
vận động đầy đủ của tư bản phải là: T – H – T’ trong đó T’ = T + T, T là số tiền tăng
thêm được Mác gọi là giá trị thặng dư.
Công thức T – H – T’ được gọi là công thức chung của tư bản, vì nó phản ánh mục đích vận
động của tư bản, và tất cả các loại hình tư bản như: tư bản công nghiệp, tư bản thương
nghiệp, tư bản cho vay đều vận động dưới dạng đó.
Như vậy, mục đích lưu thông của tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư. Do đó,
sự vận động của tư bản là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là k có giới hạn.
2. Mâu thuẫn của công thức chung
Thoạt nhìn vào sơ đồ: T – H – T’– H – T’’ người ta thấy hình như quá trình lưu thông đẻ ra
giá trị thặng dư cho nhà tư bản.. Nhưng trong mọi trường hợp thì dù trao đổi ngang giá hay
không ngang giá bản thân tiền tệ trong lưu thông đều không tạo ra một giá trị nào.
-Trường hợp trao đổi ngang giá:chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị,từ tiền thành hàng cà từ
hàng thành tiền,tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên trước sau k đổi.Tuy nhiên về GTSD
thì cả 2 bên trao đổi đều có lợi vì có hàng hóa thích hợp nhu cầu của mình
- Trường hợp trao đổi k ngang giá
+TH1: giả sử 1 nhà tu bản đều bán giá cao hơn giá trị hàng hóa 10%, như vậy khi anh ta bán
hàng sẽ thu lợi được 10%, nhưng khi đóng vai trò là người mua, anh ta lại bị mất 10%, như
vậy cuối cùng anh ta cũng không thu được giá trị thặng dư.
+TH2:Trường hợp mua hàng thấp hơn giá trị 10% cũng vậy.
+TH3: giả sử trong xã hội có một bọn người chuyên đầu cơ, bịp bợm chuyên mua rẽ bán đắt
mà kiếm được nhiều lãi.Hắn mua rẻ 5 đồng,bán đắt 5 đồng =>10 đ giá trị thặng du la do trao
đổi k ngang giá, đấy là số tiền lưa gat. Trong trường hợp này, phần giá trị mà anh ta thu được
khi là người bán hoặc người mua, chẳng qua là phần giá trị mà người khác bị mất đi. Còn xét
chung cả Xh tong số giá trị hàng hóa k tăng lên.
Như vậy, lu thong k đẻ ra giá trị thặng dư, ở ngoài lwuuw thông,nếu ng trao đổi đứng 1 mình
với hàng hóa thì giá trị hàng hóa k tăng lên, nếu nguoi SX muốn tạo giá trị mới cân sức lao
động của mình nhưng giá trị bản thân hàng hóa vẫn k tăng lên.
Vì vậy, giá trị thặng dư được tạo ra từ lưu thông, nhưng không phải trong lưu thông. Đó
chính là mâu thuẫn công thức chung của tư bản.
3. Hàng hóa sức lao động
a. Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong mỗi con người, trong nhân cách sinh
động của con ng,mà người đó có khả năng đem ra sử dụng để tạo ra của cải vật chất.
Sức lao động là điều kiện cơ bản của sản xuất nhưng k phải trg bất kì điều kiện nào sức lao
động cũng là hàng hóa
b. Điều kiện, sức lao động biến thành hàng hóa:
Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể ,làm chủ đc sưa LĐ có quyền đem
bán sức lao động của mình.
Hai là, người có sức lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại sức lao động
là tài sản duy nhất. Để tồn tại phải bán sức lao động để sống
Sức LĐ biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.Sự xuất hiện
của hàng hóa sức LĐ làm cho SX HH phổ biến và báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
c. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
- Giá trị của hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức LĐ.Giá trị hàng hóa sức lao động đặc
biệt có yếu tố tinh thần và lịch sử, do đó tùy thuộc vào điều kiện mỗi nước và từng thời kỳ
mà giá trị của hàng hóa sức lao động cao hay thấp.
Lượng giá trị hàng hóa sức LĐ do những bộ phận sau hợp thành
+Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết ddeer tái sản xuất sứ LĐ,
duy trì đời soongsg bản thân conng nhân
+phí tôn dao tao ng coogn nhân
+giá trị tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái ng công nhân.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thông thường là ở chỗ
nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của người mua, nhưng hàng hóa sức lao động khác với hàng
hóa thông thường là quá trình tiêu dùng nó đã sản xuất ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân
nó mà nhà tư bản đã mua. Phần lớn hơn đó, chính là giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu giá
trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung
của tư bản.
-Ý nghĩa:đánh dấu bước phát triển mới của lịch sử: Xã hội từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn
sáng nền kinh tế hàng hóa TCBN hay KT thị trường.NHờ phát hiện ra hàng hóa sức Lao
động Mác đã tìm ra chìa khóa giải quyết mâu thuẫn CT chug TB, tìm ra nguồn gốc đích thực
của giá trị thặng dư
II.Quá trình SX giá trị thặng dư;
1.Sự thống nhất giữa sản xuất ra giá trị sử dụng và sản xuất ra giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất của chủ nhĩa tư bản, trước hết vẫn là việc kết hợp sức lao động với tư liệu
sản xuất để sản xuất ra giá trị sử dụng. Quá trình sản xuất, nhà tư bản là người nắm tư liệu
sản xuất, bóc lột sức lao động của người làm thuê.
Giả sử nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân đúng giá trị là 3 USD để sử dụng
trong 10 giờ. Giả định cứ 1 giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là
0,60 USD. Kết quả sau 5 giờ làm việc, người lao động biến số tư liệu sản xuất có giá trị là 20
USD thành hàng hóa mới có giá trị là 23 USD. Nếu dừng lại ở đây thì người công nhân
không bị bóc lột. Nhưng, về lý nhà tư bản mua sức lao động trong 10 giờ chứ không phải 5
giờ. Vì vậy, người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 5 giờ nữa. Lần này, nhà tư bản chỉ
cần bỏ ra 20 USD để mua tư liệu sản xuất và người công nhân tiếp tục lao động 5 giờ nữa và
nhà tư bản lại thu 23 USD nữa.
Từ giả thiết trên cho chúng ta thấy: nhà tư bản chỉ bỏ ra 43 USD và thu về 46 USD, phần
chênh lệch 3 USD do đâu mà có, 3 USD đó chính là do sức lao động của người công nhân
tạo ra.,
Kết luận:
+ giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao độngdo công
nhân làm thuê tạo ra và bi nhà tư bản chiếm không.
+ ngày lao động của công nhân luôn có hai phần: thời gian lao động cần thiết mà ng công
nhân tạo ra 1 lượng giá trị ngang giá trị sức lao động; thời gian lao động thặng dư, để tạo ra
giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
+mâu thuận chung của TB đc giải quyết: việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong
lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó, và chỉ có trong lưu thông nhà tư
bản mới mua được thứ hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động, quá trình sử dụng hàng hóa
sức lao động đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
2.Bản chất tư bản.TBBB.TBKB
a. Bản chất của tư bản:
không phải mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó
nằm trong tay nhà tư bản và sử dụng để bóc lột lao động làm thuê. tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao đông không công của công nhân làm thuê.Bản chất tư
bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trg đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thawg dư
do giai cấp công nhân làm ra
b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến: Trong tư liệu sản xuất, khi tham gia vào quá trình sản xuất có bộ phận chỉ
hao mòn dần, giá trị được chuyển dần dần vào sản phẩm mới như: máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, có loại lại được chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới như nguyên liệu, nhiên liệu. Quá
trình bảo tồn và chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới của các loại tư bản là nhờ có lao động
cụ thể của người lao động và quá trình di chuyển đó chúng cũng không hề làm tăng lên về số
lượng giá trị của hàng hóa sau quá trình sản xuất.), tức tư bản bất biến, nghĩa là giá trị không
thay đổi. Vậy, tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái là tư liệu sản xuất, giá
trị của nó được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng sgiá trị ,kí hiệu C
- Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động của công nhân, một mặt giá trị
của nó chuyển thành tư liệu tiêu dùng của người công nhân; mặt khác trong quá trình lao
động, bằng lao động trừu tượng người công nhân đã tạo ra giá trị mới bao gồm giá trị sức lao
động cộng với giá trị thặng dư. Vậy, tư bản khả biến là bộ phận tư bản biểu hiện là giá trị sức
lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà
tăng lên, tức là biến đổi về lượng ,kí hiệu V
Tóm lại: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư,
còn tư bản khả biến mới là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư
3.Tỷ suất giá trị thặng dư (m’):
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Mác trình bày tỷ suất
giá trị thặng dư bằng chữ m’ và xác định công thức của tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’= (m/v) *100% hay m’=(Thời gian LĐ thặng dư/ Thời gian LĐ tất yếu)*100%
m’ nói lên trình độ bóc lột cua nhà tư bản đối với công nhân làm thuê
Khối lượng gía trị thặng dư (M)
Mác dùng chữ M là ký hiệu khối lượng giá trị thặng dư và V là tổng số tư bản khả biến. Do
đó, công thức về khối lượng giá trị thặng dư là:
M=m’V=(m/v)*V
CNTB phát triển thì M càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng
4. Những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu trong khi năng suất lao động xã hội,giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu không đổi.
Việc kéo dài thời gian lao động trong ngày chỉ có giới hạn và vấp phải sự phản kháng của
người lao động .Về mặt kte, ngày lao động phải dài hơn thời gian Lđ tất yếu nhưng k thể
vượt quá giới hạn về tinh thần và thể chất của ng LĐ
b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
khi SX TBCH phát triển đến giai đoạn địa công nghiệp cơ khí,kĩ thuật tiến bộ làm năng suất
LĐ tăng ,các nhà tư bản chuyển snag phg thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng NSLĐ
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được là do rút ngắn thời gian lao động cần
thiết bằng cách nâng cao năng suất LĐXH nhờ đó tăng thời gian LĐthăng dư trong đkiện độ
dài ngày LĐ nhưu cũ.
Trg giai đoạn đầu của CNTB ,SX GTTD tuyệt đối là phương pháp chủ yếu ,đến giai đoạn
tiếp sau, khi kĩ thuật phát triển , SX GTTD tương đối là pp chủ yếu.Hai phương pháp trên
được các nhà tư bản sử dụng kết hợp để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong
quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản
c. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư có được do tăng năng suất lao động cà biệt,làm
cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó
Để có được giá trị thặng dư siêu ngạch, nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, công nghệ,làm tăng
NSLĐ làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa giảm xuống thấp hơn giá trị xã hội. Nếu xét riêng
đối với từng nhà tư bản, thì giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời, nhưng xét
trên phạm vi xã hội, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên
Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến
kỹ thuật, công nghệ mới, tìm kiếm bí quyết công nghệ để nâng cao năng suất lao động, giảm
giá trị cá biệt của hàng hóa, từ đó cũng nâng cao năng suất lao động của xã hội nói chung.
Giá trị thặng dư siêu ngạch còn được gọi là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối vì cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động,
Giá trị thặng dư siêu ngạch cũng có những điểm khác với giá trị thặng dư tương đối :
- Giá trị thặng dư siêu ngạch phản ánh quan hệ bóc lột trong từng xí nghiệp tư bản,và mối
quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản còn giá trị thặng dư tương đối phản ánh quan hệ bóc
lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá trị thặng
dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, còn giá trị thặng dư tương đối tồn tại tương
đối lâu dài.
5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Mỗi phương thức SX có 1 quy luật kte tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản
chất nhất của phương thức sản xuất đó.Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thăng dư là quy luật
tuyet đối của phuong thuc SX TBCNThaatj vậy, GTTD do lao động không công của công
nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản, phản ảnh mối quan hệ kinh tế bản chất
nhất của CNTB- quan hệ tư bản bóc lột làm thuê.
Mục đích SXTBCN là SX ra gía trị thặng dư.SX ra GTTD tối đa không chỉ phản ánh mục
đích cua nền SX TBCN mà còn vạch rõ phương tiện , thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để
đạt mục đích như tăng cường bóc lột công nhân bằng cách tăng cường độ lao đông, kéo dài
ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng SX.
Quy luật GTTD ra đơi và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của CNTB.Nó là động lực vận
động , phát triển của chủ nghĩa tư bản , đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của CNTB
ngay càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng 1 XH cao hơn
CNTB ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định nhưng sự thống trị của CNTB tư nhân
vẫn tồn tại, bản chất bóc lột của CNTB vẫn k đổi.TRg điều kiện hiện nay, SX giá trị thăng dư
có những đặc điểm mới:
+Do kĩ thuật và coogn nghệ hiện đại => khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ
tawg năng suất lao động, chi phí LĐ sống trong 1 đơn vị SP giảm nhanh vì máy móc thay thế
nhiều LĐ sống.
+Cơ cấu LĐ XH có sự biến đổi lớn,LĐ phức tạp, LĐ trí tuệ tăng lên thay thế LĐ giản đơn,
LĐ cơ bắp=> tỷ suát, khối lượng gia tri thang dư tăng nhiều.
+sự bóc lột của các nước TBCN được mở rộng dưới nhiều hình thức.Sự tách biệt giữa nước
giàu nước nghèo càng tăng và trở thành mâu thuẫn nổi bật thời hiện đại
III.Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện giá trị thặng dư:
1.Chi phí SX, lợi nhuận, tỷ suất lời nhuận:
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) :
Để sản xuất hàng hóa nhà tư bản ứng trước một số một số tiền để mua sắm tư liệu sản xuất
(c: lao động quá khứ, lao động vật hóa) và thuê mướn công nhân (v: lao động hiện tại, lao
động sống tạo ra gía trị mới v + m).
Nếu lấy gía trị hàng hóa ký hiệu là (W) thì gía trị hàng hóa phải là: W = c + v + m
Nếu gọi chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là (k), thì k = c + v
Vậy: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất
hàng hóa
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì công thức gía trị hàng hóa (w =
c + v+ m) sẽ chuyển thành (w = k + m). Như vậy, giữa chi phí thực tế (giá trị hàng hóa) và
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về cả mặt lượng lẫn mặt chất.
Về mặt lượng: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay gía trị
hàng hóa :(c + v) < (c + v + m)
Khi nghiên cứu phạm trù chi phí sản xuất, C. Mác giả định tư bản cố định hao mòn hết trong
một năm, nên tổng tư bản ứng trước và tổng chi phí sản xuất bằng nhau và cùng ký hiệu là (k
= c + v). Tuy nhiên, trong thực tế tư bản ứng trước bao gồm tư bản cố định và tư bản lưu
động, trong đó tư bản cố định được sử dụng lâu dài và hao mòn dần, cho nên chi phí sản xuất
tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước.
Ví dụ: Tư bản ứng trước là 1.000 USD, trong đó có 500 USD là tư bản cố định; 500 USD là
tư bản lưu động trong đó bao gồm 400 USD là nguyên, nhiên, vật liệu và 100 USD là tiền
công lao động. Nếu tư bản cố định hao mòn hết trong 10 năm, nghĩa là khấu hao 50 USD
mỗi năm, thì :Chi phí sản xuất (k): 400 + 50 + 100 = 550 USD
Tư bản ứng trước: 500 + 400 + 100 = 1000 USD
Về mặt chất: Chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã
hội cần thiết để sản xuất và tạo ra gía trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k)
chỉ phản ánh chi phí mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất.
Việc hình thành phạm trù chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k), đã che đậy thực chất bóc lột
của tư bản đối với lao động. Vì gía trị hàng hóa (w) = k + m, trong đó k = c+v. Nhìn vào
công thức trên thì sự khác biệt giữa c và v đã biến mất và tưởng như k sinh ra m. Chính ở đây
chi phí thực tế (chi phí lao động) bị che lấp bởi chi phí sản xuất tư bản (k), sức lao động (v)
là nguồn gốc của gía trị bị biến mất và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa (k) sinh ra gía trị thặng dư (m). Chi phí sản xuất là biểu hiện bên ngoài của kinh doanh
tư bản.
b. Lợi nhuận (p) :
Giữa gía trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng chênh lệch,
cho nên sau khi bán hàng hóa, giả định gía cả = gía trị, thì nhà tư bản không những bù đắp
được chi phí sản xuất, mà còn thu về được số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này được
nhà tư bản gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
Như vậy, lợi nhuận thực chất là gía trị thặng dư nhưng được quan niệm là con đẻ của toàn bộ
chi phí sản xuất (tư bản ứng trước).
Khi hình thành phạm trù chi phí sản xuất TBCN và lợi nhuận, thì gía trị hàng hóa bây giờ
được biểu hiện:w = k + p
So sánh lợi nhuận và gía trị thặng dư cho thấy :
Về mặt lượng: Xét từng tư bản cá biệt, lợi nhuận và gía trị thặng dư có thể không bằng nhau,
lợi nhuận có thể cao hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với gía trị thặng dư, tuỳ thuộc vào gía cả
hàng hóa do tác động của quan hệ cung - cầu, cạnh tranh... Nhưng xét trong toàn xã hội, thì
tổng lợi nhuận vẫn ngang bằng với tổng gía trị thặng dư do tổng gía cả hàng hóa= tổng gía trị
hàng hóa
Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và gía trị thặng dư là một, lợi nhuận chẳng qua là biểu hiện
bên ngoài của giá trị thặng dư.. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ giữa
tư bản và lao động làm thuê, nó làm cho người ta tưởng rằng gía trị thặng dư không phải chỉ
do lao động làm thuê tạo ra, mà còn do cả tư liệu sản xuất tạo ra.
c. Tỷ suất lợi nhuận (p’):
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trc
Lợi nhuận thực chất là gía trị thặng dư (m), còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là tư
bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), vì vậy công thức tỷ suất lợi nhuận (p’) là:
P’ =(m/ c+v)x 100%
Lợi nhuận là hình thức biểu hiện của gía trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự biểu
hiện của tỷ suất gía trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ với nhau.
Về mặt lượng: p’< m’ vì : P’= (m/c+v)x100% còn m’= (m/v) x 100%
Về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Còn
p’chỉ nói lên mức doanh lợi và hiệu quả của việc đầu tư tư bản.
d. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận :
* Tỷ suất gía trị thặng dư:
Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với tỷ suất giá trị thặng dư. Ví dụ: một tư bản có chi phí sản
xuất (tư bản ứng trước) là 1000$, trong đó có 800$ giá trị tư liệu sản xuất (c) và 200$ giá trị
sức lao động (v)
Nếu m’ = 100% thì: 800c + 200v + 200m => p’ = 20%
Nếu m’ = 200%, thì 800c + 200v + 400m => p’ = 40%
* Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Trong điều kiện tỷ suất gía trị thặng dư không đổi nếu cấu tạo hữu cơ của tư bản càng cao thì
tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
Ví dụ: một tư bản có chi phí sản xuất (tư bản ứng trước) là 1000$.
Nếu m’ = 100% và cấu tạo hữu cơ (c/v = 4/1), thì: 800c + 200v + 200m => p’ = 20%
Nếu m’ = 100% và cấu tạo hữu cơ (c/v = 9/1), thì 900c + 100v + 100m => p’ = 10%
* Tốc độ chu chuyển của tư bản:
Nếu tốc độ chu chuyển TB cnag lớn, tần suất sinh ra giá trị thặng dư trg năm của tư bản ứng
trc càng nhiều lần , giá trị thặng dư tăng lên làm tỷ suất lợi nhuận cang tăng
* Tiết kiệm tư bản bất biến:
Trong điều kiện lượng gía trị thặng dư và bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng
nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Như vậy, tiết kiệm tư bản bất biến sẽ làm tăng tỷ suất lợi
nhuận.
Bốn nhân tố trên đây được các nhà tư bản sử dụng khai thác một cách triệt để nhằm thu được
tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
2.Lợi nhuận bình quân và giá cả SX
a.Cạnh tranh trong nội bộ ngành và hình thành gía trị thị trường
Cạnh tranh nội bộ ngành, là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản
xuất ra một loại hàng hóa nhằm giành những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất và tiêu
thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch .
Biện pháp cạnh tranh trong nội bộ ngành là cải tiến kỹ thuật, công nghệ để nâng cao năng
suất lao động làm cho gía trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn gía trị xã hội để thu được
lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả cạnh tranh nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành gía trị gía trị xã
hội của hàng hóa. Như vậy, sự hình thành gía trị xã hội của hàng hóa diễn ra một cách tự
phát, làm cho gía trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn gía trị xã hội, và có xu hướng giảm
xuống.
b.Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ở các ngành khác nhau, sản
xuất ra những hàng hóa khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Mục đích cạnh tranh giữa các ngành là tìm kiếm ngành đầu tư có lợi nhuận cao, do đó trong
xã hội có hiện tượng nhà sản xuất di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang
ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Ví dụ: có 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản đầu tư vào mỗi ngành đều bằng nhau là 100
USD, tỷ suất gía trị thặng dư đều bằng 100% (m’ =100%); tốc độ chu chuyển của tư bản ở
các ngành đều bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Ngành SX Chi phí SX (k) m’ m P’

Cơ khí 80c +20v 100% 20 20%

Dệt 70c +30v 100% 30 30%

Da 60c +40v 100% 40 40%

Nhu vay, cùng với một lượng tư bản đầu tư bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ khác nhau nên
tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể yên phận kinh doanh ở ngành có tỷ suất
lợi nhuận thấp. Do đó, nhà tư bản ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da,
làm cho sản phẩm của ngành da tăng lên, kết quả gía cả của ngành da sẽ hạ xuống, tỷ suất lợi
nhuận giảm. Trong khi đó, số nhà tư bản đầu tư ngành cơ khí giảm, kéo theo lượng hàng hóa
giảm, sẽ làm cho gía cả của sản phẩm của ngành cơ khí sẽ tăng lên, tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng
lên. Hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác sau một thời gian tỷ suất lợi
nhuận của các ngành sẽ xấp xỉ bằng nhau, được gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân (p’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng gía trị thặng dư và
tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành khác nhau của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
P’=(m/ c+v)*100%
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân được hình thành thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều
được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư
vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.
Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau, của những lượng vốn tư bản đầu tư
bằng nhau khi đầu tư vào các ngành khác nhau, có ký hiệu là: p
p = p’ x k
Sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển đến một trình độ nhất định, cạnh tranh cao và khả năng di chuyển vốn đầu tư nhanh
chóng. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân không làm chấm
dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
3. Sự chuyển hóa của gía trị hàng hóa thành gía cả sản xuất :
Khi có sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì gía trị hàng hóa
được chuyển hóa thành gía cả sản xuất.
Gía cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Nếu ký hiệu giá cả sản
xuất là Gsx thì: Gsx = k + p
Tiền đề trực tiếp của gía cả sản xuất chính là sự hình thành lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
Khi gía trị hàng hóa chuyển thành gía cả sản xuất thì gía cả thị trường của hàng hóa xoay
quanh gía cả sản xuất.
Ví dụ: Quá trình hình thành lợi nhuận bình quân và gía cả sản xuất
Clệch
Ngành Gsx và w
C V M C+V+M P’ Gsx
SX

Cơ khí 80 20 20 120 30% 130 + 10

Dệt 70 30 30 130 30% 130 0

Da 60 40 40 140 30% 130 - 10

T. cộng 210 90 90 390 390 0

Nhu vay, trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật gía trị thặng dư – quy luật kinh tế
cơ bản của CNTB biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân. Quy luật gía trị – quy luật
kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa biểu hiện thành quy luật gía cả sản xuất.
4. Sự phân chia gía trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản:
a. Tư bản thương nghiệp ,lợi nhuận thương nghiệp
*Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản :
Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra
chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp :T – H – T’
Công thức này giống công thức chung của tư bản, tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong lĩnh vực
lưu thông. Ở công thức này, tư bản thương nghiệp thay mặt người mua ứng tư bản tiền tệ để
mua hàng hóa của nhà tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận trong
quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp được tách ra, có nhiệm vụ chuyển hàng thành
tiền (H’ – T’), nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không mang hình thái tư bản sản
xuất.
Tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản được tách ra từ tư bản công nghiệp do sự phát
triển của phân công lao động xã hội, nhưng với chức năng chuyên môn riêng nên tư bản
thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công nghiệp. Sự ra đời và phát triển
của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa thuận lợi, thị trường mở rộng, tốc
độ chu chuyển của tư bản tăng lên và từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa nói chung.
* Lợi nhuận thương nghiệp:
Hoạt động của tư bản thương nghiệp, nếu gạt đi những chức năng khác liên quan như: bảo
quản, đóng gói, chuyên chở, mà chỉ giới hạn ở chức năng chủ yếu là mua và bán, thì không
tạo ra gía trị cũng như gía trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện gía trị và gía trị thặng
dư và góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tái sản xuất TBCN. Tuy không
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó vẫn tham gia vào quá trình phân chia gía trị thặng
dư, dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp trên thực tế là chênh
lệch giữa gía bán và gía mua. Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn gía trị và khi
bán thì họ bán đúng với gía trị của hàng hóa, nhưng vẫn có được lợi nhuận do tư bản công
nghiệp chuyển nhượng cho.
Ví dụ : Một nhà tư bản công nghiệp có lượng tư bản ứng trước (k) là 900 đơn vị tiền tệ
(đvtt); với tỷ lệ c/v = 4/1, như vậy sẽ có: 720c +180v; giả sử m’ =100%, thì tổng gía trị hàng
hóa sẽ là :720c + 180v + 180m = 1080 đvtt
Nếu tư bản công nghiệp trực tiếp bán hàng hóa đúng với giá trị, thì họ sẽ thu được toàn
bộ 180m và tỷ suất lợi nhuận công nghiệp sẽ là:
180đvtt
P’CN = -------------- x 100% = 20%
900đvtt
Gỉa sử nhà tư bản công nghiệp không bán hàng hóa mà chuyển cho tư bản thương
nghiệp bán hàng hóa và tư bản thương nghiệp ứng ra 100 đvtt tư bản để mua từng phần hàng
hóa của tư bản công nghiệp. Như vậy, tổng tư bản ứng ra là 900 đvttt + 100 đvtt = 1000 đvtt .
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp sẽ là :
180
P’chung = --------------- x 100% = 18%
900 + 100
Theo tỷ suất lợi nhuận chung này thì lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp và thương
nghiệp thu được là:
PCN = 900đvtt x 18% = 162đvtt
PTN = 100đvtt x 18% = 18đvtt
Như vậy, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với
gía là: 900đvtt + 162đvtt = 1062đvtt. Nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa cho người
tiêu dùng theo đúng gía trị hàng hóa, tức là: 1062đvtt + 18đvtt = 1080đvtt. Chênh lệch giữa
gía bán và gía mua chính là lợi nhuận thương nghiệp (phần chênh lệch này còn gọi là chiết
khấu thương nghiệp).
Vậy lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình
sản xuất, mà nhà tư bản công nghiệp phải chuyển nhượng cho tư bản thương nghiệp, do bán
hàng hóa cho nhà tư bản công nghiệp.
Ngoài ra, tư bản thương nghiệp còn thu được lợi nhuận cao hơn do đầu cơ để nâng giá
bán, hoặc bán cao hơn giá trị thực của hàng hóa.
c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa, ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
* Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa:
Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức của tư bản cho vay, được thể hiện dưới hai hình thức
cơ bản là tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua
bán chịu (bán trả chậm) hàng hóa với nhau.
Đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa, và thường thì gía bán chịu phải cao hơn
gía bán hàng hóa lấy tiền ngay bởi vì trong đó gồm cả lợi tức. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu
của tín dụng thương nghiệp không phải là để thu lợi tức, mà để thực hiện gía trị hàng hóa,
góp phần tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới, là hình thức tín
dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác
trong xã hội .
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển dự trên sự phát triển của tín dụng thương nghiệp.
Đồng thời, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho tín dụng thương nghiệp phát triển hơn.
* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chúc kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay.
Ngân hàng có 2 nghiệp vụ chính là: nhận gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân
hàng trả lợi tức cho người gửi tiền, trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức của người
đi vay. Tỷ suất lợi tức cho vay phải cao hơn tỷ suất lợi tức nhận gửi.
Lợi nhuận ngân hàng là khoảng chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi, trừ đi
những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu khác về kinh
doanh tư bản tiền tệ.
Trong cạnh tranh, ngân hàng cũng tham gia quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, nghĩa
là lợi nhuận ngân hàng cũng có xu hướng ngang bằng lợi nhuận bình quân.
Ngân hàng còn đóng vai trò thủ quỹ cho xã hội, quản lý tiền mặt, phát hành tiền giấy, trung
tâm thanh toán của xã hội. Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện vay vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dễ dàng hơn, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển của tiền tệ, giảm lượng tiền mặt lưu thông.
* Phân biệt tư bản ngân hàng và tư bản cho vay:
Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản không hoạt động, thu nhập của tư bản cho vay là
lợi tức (chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân). Lợi tức vận động theo quy luật của tỷ suất
lợi tức. Nguồn vốn của tư bản cho vay là tư bản nhàn rỗi.
Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tư bản chức năng nên tư bản ngân hàng cũng tham gia
vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận ngân hàng vận động theo quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có: tư bản tiền tệ của chủ ngân
hàng, tư bản tiền tệ nhàn rỗi của các nhà tư bản công thương nghiệp, tư bản tiền tệ của các
nhà tư bản chuyên cho vay, tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư.
d. Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán:
* Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự
đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có gía trị do công ty cổ phần phát hành, ghi nhận quyền sở
hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (cổ đông), đồng thời còn đảm bảo cho cổ đông có
quyền được lĩnh một phần thu nhập (gọi là cổ tức) của công ty căn cứ vào gía trị cổ phần và
tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua, bán trên thị trường chứng
khoán theo thị gía cổ phiếu.
Thị gía cổ phiếu phụ thuộc vào hai nhân tố chính:
- Mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại, cổ tức càng cao thì thị gía cổ phiếu càng lớn và ngược
lại.
- Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng càng cao thì thị gía cổ
phiếu càng thấp và ngược lại. Ngày nay, thị giá cổ phiếu, còn chịu tác động của nhiều yếu tố
như: kỳ vọng về cổ tức, triển vọng phát triển của công ty cổ phần, tình hình chính trị ở trong
và ngoài nước, tâm lý nhà đầu tư…
* Tư bản giả:
Thị giá chứng khoán thường xuyên biến động, được C. Mác gọi là tư bản giả
Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có gía và mang lại thu nhập cho
những người sở hữu chứng khoán đó.
Tư bản giả có các đặc điểm sau:
Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó, có thể mua bán được. Vì là tư bản giả nên sự
tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần có sự thay đổi tương ứng của tư
bản thật.
* Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các loại chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu, công
trái...
Thị trường chứng khoán được chia thành: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường
không chính thức (OTC) và thị trường chính thức.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản, thị trường chứng khoán là thị trường phản ứng rất nhạy
bén với những thay đổi của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường chứng khoán như là
“phong vũ biểu” của nền kinh tế tư bản.

You might also like