Professional Documents
Culture Documents
Nhu vay, cùng với một lượng tư bản đầu tư bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ khác nhau nên
tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể yên phận kinh doanh ở ngành có tỷ suất
lợi nhuận thấp. Do đó, nhà tư bản ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da,
làm cho sản phẩm của ngành da tăng lên, kết quả gía cả của ngành da sẽ hạ xuống, tỷ suất lợi
nhuận giảm. Trong khi đó, số nhà tư bản đầu tư ngành cơ khí giảm, kéo theo lượng hàng hóa
giảm, sẽ làm cho gía cả của sản phẩm của ngành cơ khí sẽ tăng lên, tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng
lên. Hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác sau một thời gian tỷ suất lợi
nhuận của các ngành sẽ xấp xỉ bằng nhau, được gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân (p’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng gía trị thặng dư và
tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành khác nhau của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
P’=(m/ c+v)*100%
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân được hình thành thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều
được tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư
vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.
Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau, của những lượng vốn tư bản đầu tư
bằng nhau khi đầu tư vào các ngành khác nhau, có ký hiệu là: p
p = p’ x k
Sự bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển đến một trình độ nhất định, cạnh tranh cao và khả năng di chuyển vốn đầu tư nhanh
chóng. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân không làm chấm
dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
3. Sự chuyển hóa của gía trị hàng hóa thành gía cả sản xuất :
Khi có sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì gía trị hàng hóa
được chuyển hóa thành gía cả sản xuất.
Gía cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Nếu ký hiệu giá cả sản
xuất là Gsx thì: Gsx = k + p
Tiền đề trực tiếp của gía cả sản xuất chính là sự hình thành lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
Khi gía trị hàng hóa chuyển thành gía cả sản xuất thì gía cả thị trường của hàng hóa xoay
quanh gía cả sản xuất.
Ví dụ: Quá trình hình thành lợi nhuận bình quân và gía cả sản xuất
Clệch
Ngành Gsx và w
C V M C+V+M P’ Gsx
SX
Nhu vay, trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật gía trị thặng dư – quy luật kinh tế
cơ bản của CNTB biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân. Quy luật gía trị – quy luật
kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa biểu hiện thành quy luật gía cả sản xuất.
4. Sự phân chia gía trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản:
a. Tư bản thương nghiệp ,lợi nhuận thương nghiệp
*Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản :
Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra
chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.
Công thức vận động của tư bản thương nghiệp :T – H – T’
Công thức này giống công thức chung của tư bản, tuy nhiên nó chỉ giới hạn trong lĩnh vực
lưu thông. Ở công thức này, tư bản thương nghiệp thay mặt người mua ứng tư bản tiền tệ để
mua hàng hóa của nhà tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận trong
quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp được tách ra, có nhiệm vụ chuyển hàng thành
tiền (H’ – T’), nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông và không mang hình thái tư bản sản
xuất.
Tư bản thương nghiệp trong chủ nghĩa tư bản được tách ra từ tư bản công nghiệp do sự phát
triển của phân công lao động xã hội, nhưng với chức năng chuyên môn riêng nên tư bản
thương nghiệp vừa phụ thuộc, vừa độc lập với tư bản công nghiệp. Sự ra đời và phát triển
của tư bản thương nghiệp đã làm cho lưu thông hàng hóa thuận lợi, thị trường mở rộng, tốc
độ chu chuyển của tư bản tăng lên và từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa nói chung.
* Lợi nhuận thương nghiệp:
Hoạt động của tư bản thương nghiệp, nếu gạt đi những chức năng khác liên quan như: bảo
quản, đóng gói, chuyên chở, mà chỉ giới hạn ở chức năng chủ yếu là mua và bán, thì không
tạo ra gía trị cũng như gía trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện gía trị và gía trị thặng
dư và góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tái sản xuất TBCN. Tuy không
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó vẫn tham gia vào quá trình phân chia gía trị thặng
dư, dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp trên thực tế là chênh
lệch giữa gía bán và gía mua. Nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn gía trị và khi
bán thì họ bán đúng với gía trị của hàng hóa, nhưng vẫn có được lợi nhuận do tư bản công
nghiệp chuyển nhượng cho.
Ví dụ : Một nhà tư bản công nghiệp có lượng tư bản ứng trước (k) là 900 đơn vị tiền tệ
(đvtt); với tỷ lệ c/v = 4/1, như vậy sẽ có: 720c +180v; giả sử m’ =100%, thì tổng gía trị hàng
hóa sẽ là :720c + 180v + 180m = 1080 đvtt
Nếu tư bản công nghiệp trực tiếp bán hàng hóa đúng với giá trị, thì họ sẽ thu được toàn
bộ 180m và tỷ suất lợi nhuận công nghiệp sẽ là:
180đvtt
P’CN = -------------- x 100% = 20%
900đvtt
Gỉa sử nhà tư bản công nghiệp không bán hàng hóa mà chuyển cho tư bản thương
nghiệp bán hàng hóa và tư bản thương nghiệp ứng ra 100 đvtt tư bản để mua từng phần hàng
hóa của tư bản công nghiệp. Như vậy, tổng tư bản ứng ra là 900 đvttt + 100 đvtt = 1000 đvtt .
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp sẽ là :
180
P’chung = --------------- x 100% = 18%
900 + 100
Theo tỷ suất lợi nhuận chung này thì lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp và thương
nghiệp thu được là:
PCN = 900đvtt x 18% = 162đvtt
PTN = 100đvtt x 18% = 18đvtt
Như vậy, nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp với
gía là: 900đvtt + 162đvtt = 1062đvtt. Nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hóa cho người
tiêu dùng theo đúng gía trị hàng hóa, tức là: 1062đvtt + 18đvtt = 1080đvtt. Chênh lệch giữa
gía bán và gía mua chính là lợi nhuận thương nghiệp (phần chênh lệch này còn gọi là chiết
khấu thương nghiệp).
Vậy lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình
sản xuất, mà nhà tư bản công nghiệp phải chuyển nhượng cho tư bản thương nghiệp, do bán
hàng hóa cho nhà tư bản công nghiệp.
Ngoài ra, tư bản thương nghiệp còn thu được lợi nhuận cao hơn do đầu cơ để nâng giá
bán, hoặc bán cao hơn giá trị thực của hàng hóa.
c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa, ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
* Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa:
Tín dụng tư bản chủ nghĩa là hình thức của tư bản cho vay, được thể hiện dưới hai hình thức
cơ bản là tín dụng thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương nghiệp: là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua
bán chịu (bán trả chậm) hàng hóa với nhau.
Đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa, và thường thì gía bán chịu phải cao hơn
gía bán hàng hóa lấy tiền ngay bởi vì trong đó gồm cả lợi tức. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu
của tín dụng thương nghiệp không phải là để thu lợi tức, mà để thực hiện gía trị hàng hóa,
góp phần tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm môi giới, là hình thức tín
dụng giữa ngân hàng với các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác
trong xã hội .
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển dự trên sự phát triển của tín dụng thương nghiệp.
Đồng thời, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho tín dụng thương nghiệp phát triển hơn.
* Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng tư bản chủ nghĩa là tổ chúc kinh doanh tư bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay.
Ngân hàng có 2 nghiệp vụ chính là: nhận gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân
hàng trả lợi tức cho người gửi tiền, trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức của người
đi vay. Tỷ suất lợi tức cho vay phải cao hơn tỷ suất lợi tức nhận gửi.
Lợi nhuận ngân hàng là khoảng chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi, trừ đi
những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng với các khoản thu khác về kinh
doanh tư bản tiền tệ.
Trong cạnh tranh, ngân hàng cũng tham gia quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, nghĩa
là lợi nhuận ngân hàng cũng có xu hướng ngang bằng lợi nhuận bình quân.
Ngân hàng còn đóng vai trò thủ quỹ cho xã hội, quản lý tiền mặt, phát hành tiền giấy, trung
tâm thanh toán của xã hội. Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện vay vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh, di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dễ dàng hơn, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển của tiền tệ, giảm lượng tiền mặt lưu thông.
* Phân biệt tư bản ngân hàng và tư bản cho vay:
Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản không hoạt động, thu nhập của tư bản cho vay là
lợi tức (chỉ là một phần của lợi nhuận bình quân). Lợi tức vận động theo quy luật của tỷ suất
lợi tức. Nguồn vốn của tư bản cho vay là tư bản nhàn rỗi.
Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, tư bản chức năng nên tư bản ngân hàng cũng tham gia
vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận ngân hàng vận động theo quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có: tư bản tiền tệ của chủ ngân
hàng, tư bản tiền tệ nhàn rỗi của các nhà tư bản công thương nghiệp, tư bản tiền tệ của các
nhà tư bản chuyên cho vay, tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư.
d. Công ty cổ phần, tư bản giả và thị trường chứng khoán:
* Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp lớn mà vốn của nó được hình thành từ sự
đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có gía trị do công ty cổ phần phát hành, ghi nhận quyền sở
hữu cổ phần của người mua cổ phiếu (cổ đông), đồng thời còn đảm bảo cho cổ đông có
quyền được lĩnh một phần thu nhập (gọi là cổ tức) của công ty căn cứ vào gía trị cổ phần và
tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua, bán trên thị trường chứng
khoán theo thị gía cổ phiếu.
Thị gía cổ phiếu phụ thuộc vào hai nhân tố chính:
- Mức cổ tức mà cổ phiếu mang lại, cổ tức càng cao thì thị gía cổ phiếu càng lớn và ngược
lại.
- Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng. Tỷ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng càng cao thì thị gía cổ
phiếu càng thấp và ngược lại. Ngày nay, thị giá cổ phiếu, còn chịu tác động của nhiều yếu tố
như: kỳ vọng về cổ tức, triển vọng phát triển của công ty cổ phần, tình hình chính trị ở trong
và ngoài nước, tâm lý nhà đầu tư…
* Tư bản giả:
Thị giá chứng khoán thường xuyên biến động, được C. Mác gọi là tư bản giả
Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có gía và mang lại thu nhập cho
những người sở hữu chứng khoán đó.
Tư bản giả có các đặc điểm sau:
Có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó, có thể mua bán được. Vì là tư bản giả nên sự
tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị trường không cần có sự thay đổi tương ứng của tư
bản thật.
* Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các loại chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu, công
trái...
Thị trường chứng khoán được chia thành: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường
không chính thức (OTC) và thị trường chính thức.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản, thị trường chứng khoán là thị trường phản ứng rất nhạy
bén với những thay đổi của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường chứng khoán như là
“phong vũ biểu” của nền kinh tế tư bản.