You are on page 1of 138

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ NGỌC THƯ

KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ

“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ

THÁI NGUYÊN- 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ NGỌC THƯ

KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ


“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ

MÃ SỐ: 602201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ

Người hướng dẫn khoa học


PGS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN

THÁI NGUYÊN- 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với PGS .TS Nguyễn Đức Tồn đã
nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hƣớng dẫn em thực hiện luận văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa
Ngữ Văn Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, Viện Ngôn ngữ học cùng các
thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, các em sinh viên và
những ngƣời thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Tác giả
Đỗ Ngọc Thư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TH: Tín hiệu
THTM: Tín hiệu thẩm mĩ
THHT: Tín hiệu hằng thể
THTMHT: Tín hiệu thẩm mĩ hằng thể
BTTV: Biến thể từ vựng
BTQH: Biến thể quan hệ
BTKH:Biến thể kết hợp
YNTM: Ý nghĩa thẩm mĩ
CÁC KÍ HIỆU CỦA CÁC TẬP THƠ
Thơ thơ: T1
Gửi hƣơng cho gió:T2
Ngọn quốc kì:T3
Riêng chung: T4
Mũi Cà Mau: T5
Cầm tay: T6
Một khối hồng: T7
Hai đợt sóng: T8
Tôi giàu đôi mắt: T9
Hồn tôi đôi cánh: T10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
I.Lý do chọn đề tài................................................................................................1
II.Lịch sử vấn đề....................................................................................................2
III.Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu...................................................................3
IV.Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................4
V.Phƣơng pháp nghiên cứu...................................................................................4
VI. Những dự kiến đóng góp.................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.1.Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ........................................................................6
1.1.1. Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ- Tín hiệu thẩm Mĩ ...6
1.1.1.1.Tín hiệu......................................................................................................7
1.1.1.2.Tín hiệu ngôn ngữ...................................................................................10
1.1.1.3.Tín hiệu thẩm mĩ.....................................................................................13
1.2. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ...........................................................17
1.2.1 Tính đẳng cấu......................................................................................... ..17
1.2.2. Tính cấp độ................................................................................................19
1.2.3. Đặc tính tác động......................................................................................20
1.2.4.Tính biểu hiện.............................................................................................21
1.2.5. Tính biểu cảm............................................................................................23
1.2.6. Tính biểu trƣng..........................................................................................24
1.2.7. Tính truyền thống và cách tân...................................................................25
1.2.8. Tính hệ thống.............................................................................................26
1.2.9. Tính trừu tƣợng và cụ thể..........................................................................28
1.3. Tín hiệu thẩm mĩ và ngôn ngữ văn học........................................................30
1.4. Tín hiệu thẩm mĩ văn chƣơng.......................................................................32
1.5. Tiểu kết chƣơng I.........................................................................................34
CHƢƠNG 2: TÍN HIỆU THẨM MĨ “MÙA XUÂN” TRONG THƠ XUÂN
DIỆU
2.1. Dẫn nhập.......................................................................................................37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.Kết quả khảo sát............................................................................................39
2.3.Tín hiệu hằng thể “Xuân”.............................................................................41
2.4.Các biến thể của tín hiệu hằng thể “Xuân”...................................................48
2.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Xuân”.........................................................48
2.4.2.Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Xuân”..........................................51
2.4.3.Biến thể quan hệ của tín hiệu thẩm mĩ “Xuân”..........................................57
2.4.3.1.Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ...........................................57
2.4.3.2. Các tín hiệu BTQH là động từ /cụm động từ.........................................70
2.5. Tiểu kết chƣơng 2.........................................................................................72
CHƢƠNG 3: TÍN HIỆU THẨM MĨ “TRÁI TIM” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
3.1.Dẫn nhập........................................................................................................76
3.2.Kết quả khảo sát............................................................................................80
3.3. THTM hằng thể “Tim/Trái tim”..................................................................80
3.4.Biến thể của tín hiệu hằng thể “Trái tim”.....................................................81
3.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Trái tim”.....................................................82
3.4.2. Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Trái tim”....................................85
3.4.2.1. Ý nghĩa thẩm mĩ “tình yêu" của BTKH “trái tim”.................................86
3.4.2.2.Ý nghĩa thẩm mĩ “trái tim công dân”của BTKH“Trái tim”....................89
3.4.3. Biến thể quan hệ của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ trái tim.............................98
3.4.3.1.Những THBTQH là những động từ hoặc cụm động từ...........................99
3.4.3.2. Những tín hiệu biến thể quan hệ là những tính từ hoặc cụm tính
từ.....102
3.4.3.3.THBTQH là danh từ chỉ thời gian,không gian của THTM Trái tim trong
thơ Xuân Diệu...................................................................................................104
3.5.Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................105
KẾT LUẬN…………………………………………………………..…...….109
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….…………………………113
PHỤ LỤC………………………………………………...…………...………118

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU

I. Lí do chọn đề tài

1. Nói đến tín hiệu thẩm mỹ là nói đến vấn đề có liên quan đến nhiều chuyên
ngành, bởi vậy nó được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn
ngữ thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. Một tín hiệu ngôn ngữ thông thường khi
đi vào thế giới thơ ca thì đã được chuyển hóa thành một tín hiệu nghệ thuật, tín
hiệu thẩm mĩ - ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu văn chương. Tín hiệu văn chương
nói riêng và tín hiệu thẩm mĩ nói chung có thể được hiểu là tín hiệu thuộc hệ thống
các phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật bao gồm toàn bộ những yếu tố
của hiện thực, tâm trạng, cảm xúc... Những yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn
chương; như các yếu tố của chất liệu mằu sắc với hội họa; âm thanh, tiết tấu với âm
nhạc... được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ.
Như vậy, một tín hiệu thẩm mĩ phải hội tụ đủ các nhân tố sau: 1) cái biểu
hiện, đây là hình thức vật chất nghệ thuật. 2) Cái được biểu hiện là các giá trị ý
nghĩa thẩm mĩ. 3) Chủ thể sáng tạo( thế giới phát ngôn và tiếp nhận). 4) Thuộc một
hệ thống tín hiệu thẩm mĩ nhất định.
Chính vì vậy khi xem xét cấu trúc của tín hiểu thẩm mĩ cần thấy tính hệ
thống của nó được biểu hiện ở bình diện trừu tượng và cụ thể. Thuộc bình diện trừu
tượng là những hằng thể “ nguyên mẫu” có tính cố định, bất biến. Thuộc bình diện
cụ thể là những biến thể của tín hiệu thẩm mĩ trong mỗi lần xuất hiện nó mang tính
hiện hữu cụ thể sinh động.
Thực tế cho thấy nghiên cứu giá trị của tín hiệu thẩm mĩ là nghiên cứu những
biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện và việc nghiên cứu hệ thống tín hiệu thẩm mĩ
cũng chính là nghiên cứu cấu trúc hình tượng mang tính cụ thể hiện hữu của tác
phẩm nghệ thuật. Tìm hiểu các tín hiệu văn chương là phải tìm hiểu các yếu tố
ngôn ngữ giúp biểu hiện nó. Khi phân tích một tín hiệu văn chương, chúng ta phải
bám sát vào tổ hợp ngôn ngữ biểu hiện nó để phân tích.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chính vì vậy, để hiểu và đánh giá đúng đắn và có cơ sở khoa học một tác
phẩm văn học rất cần sự khảo sát, đánh giá hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm. Do đó gần đây vấn đề Tín hiệu thẩm mĩ đã được nhiều học giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên ở Việt Nam công việc nghiên cứu
THTM văn chương cũng mới chỉ là bắt đầu.
2. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và Thơ Mới nói riêng,
Xuân Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học hết sức rực rỡ. Đặc biệt trong lĩnh
vực thơ tình yêu thì có lẽ cho đến nay vẫn chưa có ai xứng đáng hơn Xuân Diệu với
danh hiệu: Nhà thơ tình lớn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại - như nhiều nhà
phê bình văn học trong và ngoài nước nghiên cứu Xuân Diệu đã đánh giá: Thế Lữ,
Hà Minh Đức, Hoài Thanh- Hoài Chân, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng
Mạnh, Nguyễn Bùi Vợi, Alêchxây Vaxiliep, Mirây Găngxen, Blaga Đimitrôva...
Nhưng trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng này, hầu như còn ít có người
quan tâm tới tài năng của Xuân Diệu trong lĩnh vực ngôn ngữ. Ở đây chúng tôi
muốn bàn về “Mùa xuân- Trái tim” trong thơ tình Xuân Diệu dưới góc độ là những
tín hiệu thẩm mĩ nhằm góp phần khẳng định một cách tiếp cận mới các hình tượng
văn học từ góc độ lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ để góp thêm tiếng nói ca ngợi tài
năng xuất chúng của nhà thơ, đồng thời phục vụ cho việc giảng dạy các tác phẩm
văn học trong nhà trường hiện nay, và ở mức độ nhất định góp phần nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mĩ các thi phẩm của Xuân Diệu nói riêng, các tác phẩm thơ ca
nói chung.
II. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương có rất nhiều hướng đi,
song những năm gần đây, nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi dưới cái nhìn
của ngôn ngữ học hiện đại; trong đó vấn đề lí thuyết về tín hiệu tỏ ra rất có ưu thế.
Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mĩ đã được các tác giả như Hoàng Tuệ,
Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh... quan tâm nghiên cứu nhiều.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhiều luận án triển khai theo hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định được ý
nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học; đồng thời
đã có những đóng góp bổ sung quan trọng vào lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ. Có thể
kể đến các luận án của tác giả Trương Thị Nhàn “ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của
THTM- không gian trong ca dao”, Phạm Thị Kim Anh “Tín hiệu thuộc trường
nghĩa cây trong thơ Việt Nam”, Bùi Thị Hồng “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Huy Cận”, Lê Thị Tuyết Hạnh “Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân
Quỳnh” ... Nhiều luận văn và các bài viết khác cũng góp phần khẳng định thế mạnh
của hướng nghiên cứu này.
Các nhà nghiên cứu Xuân Diệu mới tập trung vào tìm hiểu các tác phẩm của
ông từ góc độ văn học. Những công trình nghiên cứu các tác phẩm của nhà thơ từ
góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều. Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí
thuyết Tín hiệu thẩm mĩ nói chung, đặc biệt tín hiệu Tín hiệu thẩm mĩ Mùa
xuân/Trái tim trong thơ ông hầu như cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình
chuyên khảo nào. Đây chính là lí do chính để đề tài luận văn của chúng tôi dành
cho vấn đề còn bỏ ngỏ này.
III. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
1. Mục đích : Dựa trên những cơ sở lý thuyết về tín hiệu thẩm mĩ, chúng tôi
mong muốn tiếp tục thể nghiệm phương pháp nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của
tín hiệu học nói chung, ngôn ngữ học nói riêng, đồng thời đóng góp tiếng nói
khẳng định thêm những thành công của thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca
lãng mạn nói chung, qua đó khắc họa phong cách ngôn ngữ của thi sĩ này.
2. Đối tượng nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ có ý nghĩa quan trọng trong phong
cách thơ tình Xuân Diệu nói riêng và trong dòng văn học lãng mạn nói chung là các
tín hiệu “Mùa xuân” và “trái tim” vốn đã trở thành những biểu tượng quen thuộc,
thân thiết không chỉ đối với người Việt Nam mà cả nhân loại, đồng thời chúng đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn
đi vào văn chương và trở thành những tín hiệu thẩm mĩ, những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của đề tài là các tập thơ: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió,
Ngọn quốc kỳ, Riêng chung, Mũi Cà Mau, Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng,
Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh. Đây là những tác phẩm của Xuân Diệu viết
trước và sau CMT8
V. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng các phương
pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:

1. Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân loại:

Luận văn tiến hành thống kê tần số xuất hiện của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ
“Mùa xuân”-“Trái tim” trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của chúng - dưới dạng
hằng thể , biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất hiện với các tín hiệu
thẩm mĩ này.

2. Phương pháp phân tích diễn ngôn và ngữ dụng học tức phân tích nghĩa của
từ theo ngữ cảnh sử dụng: Phương pháp này được áp dụng khi khảo sát sự xuất
hiện của các từ ngữ chỉ “mùa xuân” và “trái tim” cùng với các từ ngữ khác xuất
hiện kèm theo ở những ngữ cảnh khác nhau trong thơ Xuân Diệu với tư cách là
những tín hiệu thẩm mĩ văn chương, phân tích ý nghĩa của các từ ngữ đó trong từng
hoàn cảnh sử dụng, đối tượng sử dụng.

3. Phương pháp xác lập ngữ cảnh trống để tìm sự khác biệt ngữ nghĩa giữa
các từ đồng nghĩa: Các từ ngữ cùng chỉ về “mùa xuân” hoặc “trái tim” tuy là
đồng nghĩa nhưng ở mỗi ngữ cảnh sử dụng từ chúng lại có sự khác nhau về ý
nghĩa, về sắc thái biểu cảm - đánh giá và phạm vi sử dụng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn
VI. Những dự kiến đóng góp

Thực hiện đề tài “Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “Mùa xuân” và “trái tim”
trong thơ Xuân Diệu”, chúng tôi mong muốn có được những đóng góp nhất định
đối với sự phát triển chuyên ngành Việt ngữ học trong lĩnh vực tín hiệu thẩm mĩ
văn chương vốn còn chưa được nghiên cứu nhiều ở nước ta. Đồng thời luận văn
cũng mong muốn góp thêm cứ liệu làm rõ cơ chế hình thành - giải mã tín hiệu thẩm
mĩ văn chương gắn với cấu trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả.
Chúng tôi hi vọng rằng những kết quả đạt được của luận văn này sẽ có những bổ
sung đối với bộ môn phong cách học và giúp ích thiết thực cho việc giảng dạy tác
phẩm của Xuân Diệu trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MỸ

Tín hiệu thẩm mĩ (THTM) có liên quan đến nhiều chuyên ngành, bởi vậy
nó phải được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn ngữ trong
tác phẩm văn học. Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về tín hiệu thẩm mĩ
trong các tác phẩm văn học, chẳng hạn như: M.B.Khrapchencô, Iu.A.Philipiep, Đỗ
Hữu Châu, Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Nguyễn Lai…

Vận dụng các cơ sở lí thuyết ngôn ngữ học như: các lí thuyết về tín hiệu,
hoạt động giao tiếp, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để xem xét các
tín hiệu thẩm mỹ, các luận án tiến sĩ của Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh và
một số tác giả khác đã có những đóng góp nhất định vừa bổ sung vào lí thuyết về
THTM vừa khẳng định ưu thế của hướng nghiên cứu này. Luận văn của chúng tôi
cũng dựa vào những thành tựu của các nhà khoa học nói trên để xây dựng cơ sở lí
luận cho việc nghiên cứu một số tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng trong thơ Xuân Diệu,
đồng thời chỉ ra cơ chế hình thành-giải mã tín hiệu thẩm mỹ văn học gắn với cấu
trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả. Hi vọng rằng những nỗ lực
của luận văn này sẽ có những bổ sung nhất định vào việc nghiên cứu THTM trong
tác phẩm văn học.

1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ

Như chính tên gọi của khái niệm đã chỉ ra một cách hiển minh, Tín hiệu thẩm
mĩ trước hết về mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu, bởi vậy để nghiên cứu
THTM phải xem xét nó trong phạm trù chung - tức phạm trù tín hiệu. Đồng thời
các THTM còn cần phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống tín
hiệu ngôn ngữ được sử dụng làm phương tiện thể hiện trong tác phẩm văn học.

1.1.1 Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ-Tín hiệu thẩm mĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.1.1.1. Tín hiệu

Trước hết, như đã nói trên,THTM vốn là một loại tín hiệu cho nên nó cũng
mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì?

Theo P. Guiraud: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ
thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác (Dẫn theo ĐHC [ 7 ]). Theo cách
hiểu như vậy thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả năng gợi ra trong kí ức
của con người một hình ảnh nào đó thì đều được coi là TH cả, không phân biệt
nguồn gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay không v.v .
Chẳng hạn, một bầu trời đầy sao có khả năng gợi ra hình ảnh về một ngày hôm sau
sẽ nắng đẹp trong nhận thức của con người; một hồi kẻng được đánh lên để báo
hiệu khi có hội họp hoặc giờ ra chơi đã tới theo quy ước giữa những người nào đó;
một câu hỏi nhưng chính là một lời tỏ tình trong câu ca dao:

“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Vườn hồng đã có lối vào hay chưa?”

Và câu trả lời nhưng cũng có thể là “ bật đèn xanh” cho lời tỏ tình đó:

“Chàng hỏi thì thiếp xin thưa

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”

Các nhà nghiên cứu về lí thuyết thông tin gọi đó là những yếu tố mang tin
(thông tin), còn các nhà nghiên cứu nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang nghĩa..

Kế thừa thành quả của những người đi trước, Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra những
đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một tín hiệu, gồm các nhân tố sau:

- Nó phải có một hình thức cảm tính: tức là TH phải cho phép con người cảm
nhận được bằng giác quan;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Nó phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó (phải mang
một nội dung ý nghĩa), " một tín hiệu là một khái niệm về quan hệ giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt(ý nghĩa)”;

- TH phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó;

- TH phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định.

Các nhà nghiên cứu Tín hiệu học đã phân các tín hiệu thành những phạm trù
(hay loại) khác nhau. Ch.S.Pierce phân chia tín hiệu thành ba loại chính: Hình hiệu
(icones), dấu hiệu hay dấu vết (indexes) và biểu trưng (symboles). Ch. W. Morris
dựa vào mối quan hệ giữa tín hiệu với các loại sự vật mà chúng biểu thị để chia tín
hiệu thành hai loại:các chỉ hiệu (single indexes) và định hiệu (singnes
caracterisant). Tiếp theo ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu
trưng (symbole).

P.Guiraud lại dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con
người, trong đó tác giả quan tâm tới những tín hiệu biểu hiện.Những tín hiệu biểu
hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ
giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan, ví dụ như bức
ảnh, bản nhạc, v.v . P. Guiraud tiếp tục phân chia tín hiệu thành tín hiệu tự nhiên
(là đối tượng của khoa học tư nhiên ) và tín hiệu nhân tạo; trong tín hiệu nhân tạo
ông lại chia thành tín hiệu không giao tiếp và tín hiệu giao tiếp. Ông còn dựa theo
đặc tính thể chất của TH mà phân chia các TH thành TH thị giác, TH thính giác,
TH xúc giác.Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành
TH thứ cấp (còn gọi là kí hiệu) và TH sơ cấp...Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn
nhau của các loại tín hiệu.

Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại tín hiệu theo quan điểm riêng
của mình.Theo ông, tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các phương
diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau.Mỗi lần vận dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn
một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu chí phân loại mà Đỗ
Hữu Châu đưa ra là:

1/Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện;

2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu;

3/ Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện;

4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu.

Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được các loại tín hiệu
như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v.v, trong đó tín hiệu ngôn ngữ được coi
là một loại tín hiệu đặc biệt.

Ch.S. Pierce đề ra quan niệm tam diện về tín hiệu, nhưng phải đến khi Ch.
W. Morris hệ thống hóa và xây dựng một lí thuyết tổng quát về tín hiệu thì ba chiều
của tín hiệu mới thực sự có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
đặc biệt với ngành tín hiệu học. Ch. W. Morris cũng như Ch.S. Pierce chia ra ba
chiều của tín hiệu:

Thứ nhất là chiều kết học;

Thứ hai là chiều nghĩa học;

Thứ ba là chiều dụng học.

Nhưng Ch. W. Morris còn cho rằng có thể tách ra trong quá trình tín hiệu
hóa ba cặp nhị diện cũng là ba cặp quan hệ nhị diện như sau:

* Chiều kết học: là chiều của quan hệ hình thức giữa các tín hiệu với nhau.

* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và sự vật: đó là chiều nghĩa học của tín hiệu
học.

* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và người lí giải: đây là chiều dụng học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như vậy, TH ngôn ngữ sẽ nằm trong loại TH nhân tạo, thuộc loại TH âm
thanh, là TH giao tiếp. Vậy TH ngôn ngữ là gì?

1.1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ

Trên cơ sở lí thuyết Tín hiệu học, mỗi TH gồm có hai mặt là cái biểu hiện
(cbh) ( tức hình thức vật chất cảm tính) và cái được biểu hiện(cđbh)( tức nội dung ý
nghĩa), F. de Saussure xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết
liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một
hình ảnh âm thanh," hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là
có cái kia.Trong đó khái niệm được gọi là cái được biểu hiện(cđbh) và hình ảnh âm
thanh được gọi là cái biểu hiện(cbh). [31; 84 ]

Dựa trên tính nhị diện của tín hiệu ngôn ngữ, F. de Saussure cũng nói tới hai
loại tín hiệu ngôn ngữ : Tín hiệu võ đoán và tín hiệu có lí do tương đối.

Theo quan niệm của Ch.S. Pierce qua cách phân loại đã nêu ở trên, đại đa
số tín hiệu ngôn ngữ thuộc loại ước hiệu, loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa cái
biểu đạt và cái được biểu đạt là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên
do. Loại tín hiệu này sẽ mất tư cách là tín hiệu nếu không có cái lí giải.

Theo Ch.W. Morris, tất cả các tín hiệu đều nằm trong quan hệ với các tín
hiệu khác và quy định lẫn nhau. Do đó các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống
nhất định. Ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ
thống. Chính F. de Saussure cũng đã khẳng định điều này và cho rằng giá trị của
mỗi yếu tố là do các yếu tố khác trong hệ thống quy định. Tuy nhiên, Đỗ Hữu Châu
đã chỉ rõ : Mặc dù F. de Saussure có khẳng định vai trò của hệ thống đối với tín
hiệu ngôn ngữ nhưng do xác định một cách riêng rẽ từng tín hiệu tách rời một nên
ông chỉ thấy có hai mặt ( cbđ, cđbđ ) quy định lẫn nhau. [7, tập 1, 695 ]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [7] , Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ
là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật
chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người làm ra. Ông xác
định TH ngôn ngữ là loại TH thính giác, TH giao tiếp, TH nhân tạo, ước hiệu (võ
đoán) v.v… Đỗ Hữu Châu đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức
năng của các TH ngôn ngữ so với các hệ thống TH nói chung và TH mang chức
năng giao tiếp nói riêng. Đó là: Ngôn ngữ không chỉ thuần tuý mang chức năng
giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự
sống của con người và còn mang chức năng thi pháp v.v… Vì vậy, TH ngôn ngữ
vừa là TH giao tiếp, vừa có thể là TH nhận thức, TH biểu hiện v.v… riêng đối với
chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức năng khác nhau có liên quan
đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả, chức năng
dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.

Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa ( tức các đơn vị có
hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ hay một câu nói nào đó
có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ
những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người nói
v.v…Chẳng hạn, nghe câu thơ Trám bùi để rụng, măng mai để già ( Tố Hữu) ta
biết ngay nhà thơ đang nói về một số đặc sản của vùng núi rừng Việt Bắc. Hoặc khi
nghe lời đối thoại sau:

“ Vải hôm nay bán được mấy xu hả dì?

-Kém hôm qua năm xu?

-Hàng họ thế này thì ăn bằng gì?

(Chí Phèo-Nam Cao)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chúng ta có thể nhận ra các nhân vật làm nghề dệt vải hoặc buôn bán vải
vóc.

Ở bất kì cấp độ nào, mỗi TH ngôn ngữ cũng đều phải bao hàm một hình thức
ngữ âm(cbh) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbh), và giá trị của TH ngôn
ngữ cũng do những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định. Vậy những
mối quan hệ hệ thống của TH ngôn ngữ là những quan hệ nào?

F.de Saussure đã nêu hai loại quan hệ chung nhất. Đó là :

1) Quan hệ đồng nhất - đối lập và quan hệ khác biệt;

2) Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến {Saussure F.D: 1973 “Giáo
trình ngôn ngữ học đại cương].

Trong ngôn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại
quan hệ khác như: quan hệ tôn ti (giữa các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện
thực hoá ( giữa bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện
dạng)

Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và liên
tưởng(hay trực tuyến), điển dạng ( hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể) trong
hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết quan trọng giúp chúng ta lí giải về
các TH ngôn ngữ trong quá trình hoạt động thực hiện các chức năng của ngôn ngữ
trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của văn học) có liên
quan đến những nhiệm vụ mà đề tài luận văn này cần giải quyết.

Chính vì vậy, mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ đã được Đỗ
Hữu Châu đặt trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng
xã hội của ngôn ngữ được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống; qua
những mối quan hệ ngang ( tuyến tính, ngữ đoạn , tiếp đoạn cú đoạn:khả năng kết
hợp của các yếu tố ngôn ngữ với nhau để tạo thành một đơn vị cao hơn ) và mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan hệ giữa các cấp độ của hệ thống ngôn ngữ.Trong các kết hợp cụ thể, mối
quan hệ giữa hình thức ngôn ngữ (cbđ) và ý nghĩa (cđbđ) rất khác nhau.Ví dụ :
tín hiệu bến trong những kết hợp sau là rất khác nhau về đối tượng được nó biểu
trưng:

(1) Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

(ca dao)

(2) Để lòng anh hóa bến

Nghe thuyền em ra đi.

(Chế Lan Viên)

1.1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ (THTM)

Khái niệm THTM xuất hiện cùng với khuynh hướng cấu trúc trong nghiên
cứu mĩ học và nghệ thuật từ những năm giữa thế kỉ XX và được tiếp nhận vào Việt
Nam từ những năm 70 qua những bản dịch các công trình khoa học xuất hiện trong
các bài viết của Đỗ Hữu Châu(Lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh
sáng của phương pháp luận khoa học của Mác), Nguyễn Lai(Từ một số luận điểm
của Mác suy nghĩ về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ), Hoàng Trinh(Từ kí hiệu học
đến thi pháp học) ,Trương Thị Nhàn (Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm
mĩ không gian trong ca dao)

Trong công trình của mình, các nhà nghiên cứu tuy chưa đưa ra một định
nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất về tín hiệu thẩm mỹ, song họ đều thừa nhận THTM là
yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương
tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mĩ, được chúng ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới
tinh thần của chúng ta (Dẫn theo [30, 17]).

Những phương tiện này đã được M.B. Khrapchenco nêu cụ thể : nhân hoá,
ẩn dụ cố định, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật đã được mài
mòn và cố định hoá về mặt ý nghĩa mà theo tác giả phù hợp với điều kiện hoạt
động chức năng quan trọng của kí hiệu là phải có một cách hiểu thường xuyên
được nhiều người biết đến Theo Hoàng Trinh, đó có thể là một bức hoạ, một vở
múa, một hình ảnh ẩn dụ, một figure ( hình thể từ ngữ ) là ẩn dụ, hoán dụ trong văn
học mang đặc tính của biểu trưng với cái biểu trưng và cái được biểu trưng của nó.
Các nhà phong cách học có thể giới hạn khái niệm THTM trong phạm vi hẹp hơn là
những tín hiệu nghệ thuật chìa khoá có giá trị tổ chức để biểu hiện tư tưởng tình
cảm của bài văn (Đái Xuân Ninh, dẫn theo Nhàn,số 93), hay những “ thần cú”,
những “nhãn tự”, những TH ngôn ngữ mang phẩm chất thẩm mĩ: những đối thoại
có tính thẩm mĩ trong văn học {48}v.v

Khi vào thế giới nghệ thuật, các TH thông thường sẽ chuyển hoá thành
THTM, mang những nét đặc thù của nghệ thuật. Có thể hiểu một cách chung nhất ,
THTM là yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Nói đến
phương tiện nghệ thuật là nói đến hai mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất chính
là những hình thức vật chất được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật ( như: đường
nét, màu sắc trong hội họa, hình khối trong kiến trúc, âm thanh, tiết tấu trong âm
nhạc, ngôn ngữ trong văn học). Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩ ,
nhiều tầng khái quát hoá, trừu tượng hoá có tính thẩm mĩ [8, 755]. Philipiep cũng
khẳng định rằng từ một hình thức vật chất cụ thể thì mặt tinh thần, mặt nội dung ý
nghĩa có thể đồ sộ hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống
(Dẫn theo [30,18])

Ở đây có sự phân biệt khá rạch ròi giữa phương tiện và chất liệu khi ta nhìn
nhận tín hiệu trong chức năng của chúng. Nếu như trong các loại hình nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn
khác, chất liệu có thể được cảm nhận một cách trực tiếp bằng các giác quan, thì đối
với văn học chất liệu là ngôn ngữ. Không thể xác định tín hiệu thẩm mỹ chỉ dựa
trên chất liệu cũng như trong văn học, không thể đồng nhất tín hiệu ngôn ngữ thông
thường được dùng làm chất liệu trong tác phẩm văn học với phương tiện của nghệ
thuật là tín hiệu thẩm mỹ . Chính vì vậy, Lotman đã viết: “Văn học nói bằng một
thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên
với tư cách là một hệ thống cấp hai . ( Dẫn theo M.B. Khrapchenco, Những vấn đề
lí luận và phương pháp luận nghiên cứu,VH.,H.,2002,tr.64). Hoặc có thể nói theo
Đinh Trọng Lạc là TH ngôn ngữ - văn học ấy đóng vai trò là hệ thống TH thứ nhất
làm cơ sở cho hệ thống TH thứ hai THTM

Như vậy có sự chuyển hóa các kí hiệu ngôn ngữ phổ thông thành các yếu tố
của tín hiệu nghệ thuật, hay nói khác đi, tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật được xây
dựng trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên.

Trên cơ sở phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, tác giả Đỗ
Hữu Châu đã giải thích cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ như sau. THTM là phương
tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú
pháp THTM. TH ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức CBH của
THTM [ 8,576 ]. Để trả lời cho câu hỏi: Thế nào là một THTM?”, Đỗ Hữu Châu
chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc thế
giới hiện thực: THTM phải tương ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong thế
giới hiện thực. Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay một nỗi
buồn nào đó [ 8, 576 ].

Từ đó có thể hiểu THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những chi
tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục đích
biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đỗ Việt Hùng cũng có ý kiến tương tự: “nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ
thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì ngôn ngữ nghệ thuật là hệ
thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu hiện của ngôn ngữ nghệ
thuật bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật - lôgíc của ngôn ngữ tự
nhiên. Cái được biểu hiện là các lớp ý nghĩa hình tượng. Đây chính là trường hợp
mà hệ thống thứ nhất sẽ được dùng làm bình diện thể hiện hoặc làm cái biểu đạt
cho hệ thống thứ hai” [Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học ]

Từ những điều đã được trình bày trên đây, để hiểu rõ mối quan hệ giữa TH
ngôn ngữ và THTM, có thể hình dung theo sơ đồ sau:

cbh:âm thanh ngôn ngữ

cbh:tín hiệu ngôn ngữ---------------------------------------

Cđbh:ý nghĩa ngôn ngữ

THTM : -------------------------------------------------------

Cđbh: ý nghĩa thẩm mỹ

(Dẫn theo Luận án PTS của Nhàn, tr.28)

Từ sơ đồ này, có thể thấy rằng cả cái hợp thể CBH và CĐBH tạo thành TH
ngôn ngữ đã trở thành CBH cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
trong tác phẩm văn học. Chính vì thế, trong văn học không được đồng nhất phương
tiện văn học THTM với TH ngôn ngữ thông thường được sử dụng làm chất liệu
của tác phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết
định của chủ thể sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch. bally, giữa cách dùng
ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không vượt qua
được [22, 9].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Điều đáng lưu ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện trong ngôn ngữ tự nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện trong tín hiệu thẩm mỹ lại là luôn có lí do và là lí do liên
hội. Tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên muốn trở thành tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm
nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa nghệ thuật mang tính biểu
trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.

Trong Luận văn này, để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi chấp nhận cách
hiểu về THTM như sau: “THTM là TH thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện
của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm
trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc thuộc đời sống hiện
thực và tâm trạng), những yếu tố của chất liệu (các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ
với văn chương; các yếu tố của chất liệu mầu sắc với hội họa; âm thanh có nhịp
điệu với âm nhạc) được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục
đích thẩm mỹ [ 1, 23], [30, 26] .

Trong các tác phẩm nghệ thuật , THTM được biểu hiện rất đa dạng đối với
từng ngành nghệ thuật, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ; điều cần thiết là phải xem
xét nhìn nhận THTM qua những đặc trưng cụ thể.

1.2 NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ

1.2.1 Tính đẳng cấu

Đẳng cấu là sự giống nhau về quan hệ, về nội dung nhưng khác nhau về hình
thức biểu hiện. Iu.A. Philipiep đã rất chú ý tới đặc tính về sự đẳng cấu thông tin của
THTM: Những biểu hiện vật lí của TH có thể khác nhau nhưng ý nghĩa của TH
vẫn chỉ là một ([ Dẫn theo [30, 17]).

Đỗ Hữu Châu cũng đã khẳng định: “ Rất nhiều THTM được sử dụng trong
văn học, trong hội họa, trong điện ảnh, trong âm nhạc như những tín hiệu đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghĩa (có thể là đồng cảm xúc), chỉ khác nhau ở sự thể hiện bằng các chất liệu
riêng của từng ngành. [ 8, 572] . Chẳng hạn, các từ thuyền và bến là cái biểu hiện
bằng ngôn ngữ của hai tín hiệu thuyền , bến. Hai tín hiệu này xuất hiện trong một
bức vẽ, trong một cuốn phim và trong các bài hát: con thuyền không bến , con
thuyền xa bến ,…bằng hình vẽ, bằng hình ảnh hay bằng chuỗi âm thanh có nhạc
tính,…Như vậy, một tín hiệu thẩm mỹ của một nền văn hóa có thể chuyển hóa vào
nhiều ngành nghệ thuật qua chất liệu, phương tiện đặc trưng của từng ngành này.

Tính đẳng cấu của THTM không chỉ biểu hiện qua các ngành nghệ thuật
khác nhau mà còn qua từng hệ thống, từng kết cấu, từng lần xuất hiện khác nhau
của các TH trong hệ thống. Theo Phạm Thị Kim Anh: “ Nghĩa của từng tín hiệu là
khác nhau, quan hệ nghĩa giữa các tín hiệu trong từng cặp cũng khác nhau, song
nếu cùng đặt vào trong một hệ thống nào đó, chúng lại có quan hệ, ý nghĩa, cảm
xúc giống nhau. ”[ 1, 20 ]

Điều này cho phép chúng ta đặt các tín hiệu trong quan hệ với các yếu tố cấu
thành tác phẩm, ở phương diện trực tuyến, lại có thể xem xét trên trục đồng đại hay
lịch đại. Đó cũng là cơ sở cho quan hệ lựa chọn và quan hệ kết hợp.

Có thể nhấn mạnh thêm rằng tính đẳng cấu của THTM còn được thể hiện
trong tương quan giữa các hệ thống hoạt động của THTM. Tham gia vào một hệ
thống, tức là tham gia vào một kết cấu, một mạng quan hệ không giống với trong
các hệ thống khác THTM có thể đồng nghĩa trong những hình thức kết cấu khác
nhau của các hệ thống.

Chẳng hạn, các THTM được thể hiện qua một loạt những câu ca dao sau đều
có ý nghĩa chung nói về thân phận thụ động, không tự quyết định được số phận của
người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa.../ Thân em như hạt mưa rào.... / Thân em
như tấm lụa đào…/ Em như giếng nước giữa đàng... Chúng đều nói về thân phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.vn
của người phụ nữ trong xã hội xưa: bị phụ thuộc vào kẻ khác, bất lực và không tự
định đoạt được số phận của mình.

Giữa chất liệu hiện thực và tín hiệu thẩm mĩ cũng có quan hệ đẳng cấu. Hãy
xét ví dụ: nước, non trong bài Thề non nước của Tản Đà: Hiện tượng tự nhiên
“ non ” với đặc tính cố định, ở trên cao, thích hợp để có thể biểu trưng cho người
con gái đợi chờ, ngóng trông; đó là cơ sở để nhà thơ xây dựng hình tượng “ non ”
trong bài thơ. Còn “ nước ” là thứ chất lỏng có đặc tính trôi chảy, lưu động, giống
như người con trai “lãng du” nay đây mai đó nên thích hợp đối với việc xây dựng
hình tượng “non” trong bài thơ. “ non, nƣớc ” cũng là những tín hiệu mang tính
biểu trưng để nói về tình yêu quê hương, đất nước. Người ta thường tìm ra các lớp
nghĩa khác nhau trong tác phẩm dựa trên tính đẳng cấu này. Những hình ảnh tượng
trưng, ước lệ cũng phần nào được lí giải trên cơ sở tính đẳng cấu giữa chất liệu hiện
thực và tín hiệu thẩm mĩ

Như các ví dụ đã dẫn trên đây cho thấy, các tín hiệu thẩm mĩ thường đi với
nhau thành từng cặp, bởi vậy cũng có sự đẳng cấu giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ
với nhau.Tuy nhiên giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ có khi diễn ra sự đổi chiều; khi
đó ý nghĩa thẩm mĩ cũng có sự thay đổi tương thích(sự thay đổi nghĩa của chính
từng tín hiệu thẩm mĩ và của cặp tín hiệu thẩm mĩ ) , như hình ảnh tấm lụa đào
trong kết hợp sau:

Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai

(ca dao)

Ý nghĩa của hình ảnh tấm lụa đào trong câu ca dao trên nói về vẻ đẹp, cái
thanh cao cần phải được gìn giữ, chứ không phải là thân phận người phụ nữ bị phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuộc, không tự quyết định được hoàn cảnh, số phận của mình như trong câu ca dao
đã dẫn trước.

Tóm lại, đẳng cấu là đặc tính quan trọng của THTM, nó giúp ta nhìn nhận
TH trong nhiều quan hệ khác nhau (quan hệ cấp độ, quan hệ đồng nhất và đối lập,
quan hệ dọc, quan hệ ngang).

1.2.2 Tính cấp độ

Các nhà nghiên cứu có quan điểm về phân chia cấp độ THTM khác nhau. Có
quan điểm phân biệt THTM với hình tượng thẩm mĩ, khi đó THTM là các yếu tố
tạo nên hình tượng thẩm mĩ. Mở rộng khái niệm THTM thì toàn bộ hệ thống thẩm
mĩ cũng là một tín hiệu thẩm mĩ.

Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản sau :

a) Cấp cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, một sự vật, hiện tượng thuộc thế
giới khách quan, ví dụ: Mặt trời, Con thuyền, Nỗi nhớ v.v đó là những tín hiệu
thẩm mĩ đơn hay THTM cơ sở có chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở
cấp độ cao hơn trong tác phẩm . Tín hiệu thẩm mĩ đơn được tạo nên bằng các từ
hay cụm từ, có thể là những từ ngữ, thành ngữ, điển cố hay những hình ảnh đơn lẻ
, mang ý nghĩa thẩm mỹ. Đỗ Hữu Châu viết: “ Phương tiện sơ cấp của văn học là
các tín hiệu thẩm mỹ. Rồi cái THTM đó mới được thể hiện bằng các tín hiệu ngôn
ngữ thông thường…” [8, 564]

b) Cấp độ xây dựng (TH phức ):THTM ứng với nhiều sự vật, hiện tượng ..
được xây dựng từ những tín hiệu đơn nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của
phép cộng đơn giản những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức được tạo ra để
biểu hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn chương.

F. de Saussure đã chỉ ra rằng: “ Thường chúng ta không nói bằng những tín
hiệu riêng lẻ mà bằng nhóm những tín hiệu, bằng khối có tổ chức cũng là tín hiệu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.vn
[31, 153]. Nói cụ thể hơn,THTM phức là tổ hợp của nhiều tín hiệu đơn (mang ý
nghĩa thẩm mĩ); đó có thể là những hình tượng văn học, hình tượng nhân vật trong
tác phẩm kể cả một tác phẩm đồ sộ.

Ví dụ: Thành ngữ kiến bò miệng chén và câu Kiều sau đây: “lo gì việc ấy mà
lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu... Nếu như thành ngữ: Kiến bò miệng chén
chỉ nói về cái quẩn quanh của sự vật, không đi đến đâu, thì trong câu nói của
Hoạn Thư, Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ này bằng cách: đặt câu thành ngữ
trong lời nói của Hoạn Thư mà ý nghĩa mang lại là làm toát lên cái đáo để của mụ.
Như vậy, nếu thành ngữ trên được coi là THTM đơn thì câu thơ trên của Nguyễn
Du là THTM phức. Theo đó, tín hiệu ngôn ngữ được mở rộng và biến đổi không
ngừng, làm phong phú cho ngôn ngữ đời sống cũng như trong văn học .

1.2.3 Đặc tính tác động

Đặc tính này có cơ sở từ bản chất của tín hiệu như ý kiến của P.Guiraud mà
chúng tôi đã từng dẫn lại ở trên: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó
đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác”. Hiệu quả tác động của
THTM trước hết là hình thành nên những hình tượng nghệ thuật. Như vậy có thể
hiểu, hình tượng nghệ thuật, đó là sản phẩm của thế giới tinh thần được THTM làm
dấy lên trong thế giới chủ thể tiếp nhận. Tuy nhiên việc đòi hỏi tín hiệu thẩm mĩ
trong tác phẩm phải có một khả năng tác động như nhau đến toàn thể công chúng
là một điều khó có thể xảy ra. Chẳng hạn, một người nông dân bình thường không
thể cảm nhận được ý nghĩa thẩm mĩ khi đọc một bài thơ như các nhà thơ, và càng
không thể bằng một nhà nghiên cứu phê bình văn học.

Đặc tính tác động của THTM còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp nghệ
thuật mang tính đối thoại đặc thù của nó. Khi đó THTM là TH đặc biệt có khả năng
kích thích mạnh mẽ thế giới, tư tưởng của chúng ta, do đó nó trở thành yếu tố kích
thích của sự điều chỉnh sống động những tâm trạng xã hội khác nhau [Dẫn theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 http://www.lrc-tnu.edu.vn
[30, 17]). Cũng theo Đái Xuân Ninh, hiệu quả tác động của xung động tín hiệu
mang lại là gây nên một tình huống mới trong nhận thức và hành động của chủ thể
tiếp nhận theo hướng mà người phát mong muốn, làm mới, làm phong phú, làm
thay đổi nhận thức thẩm mĩ và có thể điều chỉnh cả hành vi con người. ở đây chúng
ta có thể nhận thấy nổi lên vai trò của chủ thể tiếp nhận - đối tượng tác động của
THTM. Nhờ có chủ thể tiếp nhận thì THTM mới có thể phát huy được hiệu quả sức
kích thích của nó, và mới có thể xác định được nội dung (hình tượng ) và tính tư
tưởng, tính cảm xúc của THTM trong tác phẩm. Khi đó tính hai mặt không thể tách
rời của tín hiệu cùng với hiệu lực thông báo mới trở thành hiện thực. Đó là lí do có
thể giải thích vì sao ở từng thời đại khác nhau, ở từng đối tượng tác động(tức chủ
thể tiếp nhận) khác nhau mà ý kiến khen chê về cùng một bài thơ cũng rất khác
nhau; đó là chưa kể đến những liên tưởng nghịch hướng, phi thẩm mĩ từ phía người
tiếp nhận có thể làm phương hại đến giá trị thẩm mĩ của tác phẩm.

1.2.4 Tính biểu hiện

Đây là đặc tính quan trọng lên quan đến sự thực hiện chức năng chung của
nghệ thuật - đó là chức năng phản ánh hiện thực. THTM phải mang nội dung hiện
thực nhất định, phải gắn với hiện thực. Điều này có nghĩa là mỗi tín hiệu thẩm mĩ
ứng với một sự vật, hiện tượng thuộc thế giới vật chất hay tinh thần.

Vấn đề nói trên có cơ sở từ đặc tính của TH nói chung. Theo F. de Saussure,
“... tín hiệu là một thực thể có hai mặt nội dung và hình thức không tách rời nhau;
trong đó dấu hiệu vật thể có vai trò rất quan trọng đối với người tiếp nhận. Nếu
không có nội dung thì không có gì để truyền đạt; và nếu có nội dung nhưng không
qua lời nói, chữ viết thì người tiếp nhận cũng không thể biết được nội dung mà
người nói muốn truyền đạt.” [ 31, 105 ]

Nguyễn Lai cũng đã khẳng định: “...tín hiệu bao giờ cũng mang một nội
dung thông báo đến một đối tượng nào đó. Nếu không mang một nội dung thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 http://www.lrc-tnu.edu.vn
báo tín hiệu không còn là tín hiệu” [22, 34]. Cũng theo tác giả, sự xuất hiện một tín
hiệu phải đảm bảo các điều kiện sau đây:

1/Thông báo một nội dung nào đó;

2/Cho ai đó;

3/Thông qua một dấu hiệu vật thể nào đó;

Hay nói cách khác, một tín hiệu không có giá trị thông báo thì không thể trở
thành tín hiệu. Và mặt khác, một tín hiệu khi muốn có một giá trị thông báo thì
trong tính hiện thực của nó không thể không hướng tới một đối tượng tiếp nhận.
Như vậy, điều đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là: chỉ có qua đối tượng tiếp nhận ,
tính hai mặt không thể tách rời của tín hiệu cùng với hiệu lực thông báo mới trở
thành hiện thực. [22, 34]

Như vậy, chủ thể tiệp nhận có hoạt động rất năng động. Chính hoạt động này
một phần làm nên tính đa nghĩa cho tín hiệu thẩm mỹ.

M.B.Khrapchenco cho rằng: “THTM phải có chức năng thay thế ( thay thế
những hiện tượng trong thực tế )” ( Dẫn theo [ 8, 572]). Theo Đỗ Hữu châu, THTM
phải ứng với một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới hiện thực, phải có vật
quy chiếu trong thế giới hiện thực... Sự biểu hiện (hay tái hiện) hiện thực của
THTM trong những ngành nghệ thuật khác nhau nói chung đều dựa trên năng lực
miêu tả, thay thế, tái hiện, dẫn các sự vật, hiện tượng, các phạm vi khác nhau của
đời sống vào trong tác phẩm, vào những phương tiện vật chất được sử dụng.Trong
hội họa đó là những đường nét, màu sắc.., trong âm nhạc, đó là những âm thanh,
nhịp điệu, tiết tấu có khả năng khơi gợi những hiện thực của đời sống, của tâm
hồn.Trong văn học, đó là những từ ngữ, kết cấu mang nội dung biểu vật, biểu niệm
nhất định, gắn với hiện thực v.v... phản ánh trình độ nhận thức, năng lực cảm xúc
của con người. Mặt khác, sự biểu hiện của THTM còn liên quan đến quá trình liên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 http://www.lrc-tnu.edu.vn
tưởng ở chủ thể tiếp nhận, bởi vậy lượng thông tin biểu hiện trong THTM cũng
không phải nhất thành bất biến...(lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh
sáng của phiương pháp luận khoa học của Mác)

1.2.5 Tính biểu cảm (tính bộc lộ)

Đặc tính này thể hiện chức năng thông báo của THTM trong mối quan hệ
của nó với nhân tố người viết (hay tác giả). Để đạt đến một giá trị thẩm mĩ nhất
định,THTM không thể chỉ dừng ở nội dung đơ thuần tái tạo hiện thực. Ngoài
những thông tin về hiện thực, THTM còn thông tin về những cảm xúc, tâm trạng
nhất định của người nghệ sĩ với bạn đọc. Chính vì vậy, nằm trong cấu trúc của
THTM, tính biểu cảm là một đặc tính quan trọng, mang dấu ấn chủ quan của người
sáng tác. M.B.Khrapchenco đã chỉ ra rằng “có một hệ số cảm xúc nhất định, một
cơ cấu cảm xúc thuộc cấu trúc THTM”. Theo tác giả , “cảm xúc vừa là cái để
truyền đạt trong THTM vừa là cái xác định gián tiếp các đối tượng và hiện thực
làm cơ sở cho việc hiểu một THTM”(dẫn theo [30,23 ]). Chẳng hạn, trong những
câu thơ sau của Tố Hữu, chúng ta thấy không chỉ có cát, nắng, gió của xứ Thanh
mà còn có cả niềm cảm xúc dâng trào của nhà thơ khi ông trở lại vùng quê xưa, nơi
có những người mẹ đã từng che chở, nuôi dưỡng mình trong những năm kháng
chiến:

Tôi trở về quê mẹ nuôi xưa

Một buổi trưa nắng dài bãi cát

Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa

Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát...

(Tố Hữu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong THTM, cảm xúc - vốn là tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo, đã
được khách quan hoá thành một thành phần quan trọng trong cơ cấu nghĩa của tín
hiệu.

Cùng một nội dung hiện thực nhưng nếu với ý nghĩa biểu cảm khác nhau thì
sẽ tạo nên cái mới, cái sinh động, cụ thể và riêng biệt cho THTM trong mỗi lần
xuất hiện.

1.2.6 Tính biểu trƣng

Tính biểu trưng là đặc tính của THTM khi xét trong mối quan hệ giữa cái
biểu hiện và cái được biểu hiện. Đây là mối quan hệ có lý do, liên quan đến năng
lực biểu trưng hóa của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật, hiện tượng được đưa vào
làm THTM trong tác phẩm. Theo Từ điển tu từ phong cách học Tiếng Việt của
Nguyễn Thái Hoà [T103] “tính biểu trưng là khả năng gợi ra một đối tượng khác
ngoài sự thể hiện cụ thể của dấu hiệu đó và được cộng đồng chấp nhận”.

Ch.S. Pierce cho rằng: “Biểu trưng có quan hệ với đối tượng của nó chỉ qua
một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán cho nó trong một hoàn cảnh nào
đó... Nghĩa đó là do con người trong cộng đồng đặt ra mà thôi” (dẫn theo [tr.186]).
Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện nó là một đối tượng
nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, đó là ý nghĩa xã hội nào đó được cả
cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho cái biểu hiện này chính là tính
có lý do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy lối tư duy, quan niệm
xã hội ... gắn với một cộng đồng nào đấy, từ đó hình thành ý nghĩa xã hội nào đó,
được cả cộng đồng chấp nhận như vừa được nói tới. Ví dụ : Hình ảnh con cò trong
ca dao Việt Nam thường gắn với thân phận thấp bé (Con cò mà đi ăn đêm / Đậu
phải cành mềm lộn cổ xuống ao.), đức tính chịu thương chịu khó (Cái cò lặn lội bờ
sông / Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non), có khi lại được hiểu là thân phận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ trong xã hội xưa vất vả, lam lũ một nắng hai sương lo cho chồng cho
con...

Cũng do tính biểu trưng mà hiệu lực, giá trị của tín hiệu thẩm mỹ phụ thuộc
vào cách tri nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một quy ước nào
đấy của cả cộng đồng mà có khi lại trái ngược với cộng đồng khác. Chẳng hạn, đối
với cộng đồng ấn Độ giáo, Phật giáo như Nhật Bản, Việt Nam, biểu trưng hoa sen
được hiểu theo ý nghĩa đạo đức trong trắng, tiết độ, cứng rắn, một hình ảnh đức
hạnh, biểu hiện của người hiền nhưng với cộng đồng từ Địa Trung Hải đến ấn Độ
và Trung Hoa thì hoa sen trước hết là bộ phận sinh dục, là âm hộ mẫu gốc, bảo
đảm cho các cuộc sinh thành và tái sinh truyền lưu mãi mãi.

Điều này cũng liên quan đến tính truyền thống và cách tân trong việc lựa
chọn chất liệu (cái biểu hiện) cấu tạo nên THTM .

1.2.7 Tính truyền thống và cách tân

Tính truyền thống và cách tân của THTM liên quan đến vấn đề cái mới của
nó. Theo Đỗ Hữu Châu:“Truyền thống và cách tân là hai phương diện biện chứng
của THTM”. [8, 559] Nói đến tính truyền thống là nói đến tính cố định, tính lặp lại,
tính kế thừa, có sẵn của THTM trong kho tàng nghệ thuật của một dân tộc. Nói
đến cách tân là nói đến sự đổi mới, sự sáng tạo trong việc sử dụng THTM của mỗi
tác giả, thậm chí là trong từng tác phẩm. Nếu không có sự cách tân thì tín hiệu thẩm
mỹ sẽ trở nên bị mài mòn, bị mất đi giá trị gợi hình tượng, gợi cảm xúc. Trái lại,
nếu không có truyền thống thì THTM sẽ bị mất đi những điều kiện nhất định về
mặt liên tưởng giúp ích cho việc lĩnh hội THTM trong tác phẩm.

Phải bắt nguồn từ ca dao thì những câu thơ sau của Nguyễn Du mới có sức
lay động lòng người đến như vậy: Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm trường. Nếu theo truyền thống thì ca dao chỉ diễn tả được quy luật như một
lẽ thường, đó là cảnh chia lìa xuôi ngược. Song Nguyễn Du đã cách tân ở chỗ dùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 http://www.lrc-tnu.edu.vn
lẽ thường ở đời đó mà khơi sâu được bi kịch tình yêu, hết sức nghiệt ngã giữa Thuý
Kiều và Thúc Sinh, khi hai người chia tay nhau để chàng Thúc về quê thưa chuyện
với Hoạn Thư mong được lấy nàng Kiều. Đây cũng là cuộc chia tay chưa biết ngày
gặp lại, chưa biết sự thể sẽ thế nào nên nó thấm đẫm một mầu sắc tâm trạng.

Những yếu tố truyền thống mang tính cố định, ổn định như điển cố, những
ước lệ, tượng trưng khi được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ sẽ có sức khơi gợi thẩm
mĩ lớn lao.

Cái mới trong cách sử dụng tín hiệu thẩm mĩ của các tác giả có thể được thể
hiện ở việc xây dựng một THTM hoàn toàn mới, nhưng chủ yếu vẫn là ở sự cách
tân các THTM, ở việc đổi mới các THTM có sẵn trong truyền thống, mang lại cho
chúng những ý nghĩa thẩm mỹ mới. Điều này chỉ có được thông qua sự sáng tạo
của người nghệ sĩ.

1.2.8 Tính hệ thống

Tín hiệu nói chung và tín hiệu thẩm mĩ nói riêng bao giờ cũng thuộc về một
hệ thống nhất định, bởi vậy nó chịu sự chi phối của những yếu tố khác trong cùng
hệ thống thông qua những quan hệ nhất định.

F. de Saussre đã chỉ ra rằng: “Thường người ta không nói bằng tín hiệu riêng
lẻ, mà bằng từng nhóm tín hiệu, từng khối có tổ chức vốn cũng là tín hiệu”.
[31,107].Và khi nói đến vấn đề tính có tổ chức ở lĩnh vực này, ta không thể không
nói đến tính hệ thống - một đặc tính làm nên bản chất tín hiệu của ngôn ngữ .
Theo Nguyễn Lai, khi nói đến tính hệ thống của ngôn ngữ, bên cạnh cách nhìn
theo hướng lịch đại dĩ nhiên ta còn phải nhìn nó theo hướng đồng đại. Đối lập trong
bản thân nó và đối lập với cái xung quanh nó,..[22, 35-36].

Trong ngôn ngữ, đó chính là tính hình tuyến của tín hiệu. Chẳng hạn, trong
ngôn ngữ toàn dân, khéo đối lập với thô vụng, nhưng trong cách nói của Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Du thì lại thể hiện một sắc thái mỉa mai hết sức tinh tế: “ Trăm năm trong cõi người
ta/Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.” Như vậy, do áp lực của các nhân tố xung
quanh ( tính hình tuyến) mà nghĩa của TH có thể có những biến đổi nhất định. Hay
ví dụ:

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức

(Lưu Trọng Lư)

Từ nghe vốn là để nói về một hoạt động tiếp nhận âm thanh bằng thính giác,
nhưng ở đây nó lại được dùng để nói về những rung động sâu lắng trong hồn người
trước vẻ đẹp quyến rũ của mùa thu. Nghĩa của từ nghe có sự biến đổi so với ngữ
nghĩa thông thường là do tác giả đã sáng tạo đặt nó trong kết hợp với mùa thu . Nếu
thay thế mùa thu bằng loại sự vật, hiện tượng như: nhạc, tiếng mưa… thì không thể
có cách hiểu như trên.Thực chất là nghĩa của từ đã chịu sự chi phối của những yếu
tố trong hệ thống. Có thể suy ra là nghĩa cụ thể của ngôn ngữ chỉ có thể được xác
định thông qua một tập hợp nhiều từ. Điều đó đòi hỏi không chỉ đối với người sử
dụng ngôn ngữ như là tín hiệu mà ngay cả với người tiếp nhận thì cũng đòi hỏi phải
nhận ra tập hợp có tính hệ thống trên. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du viết: Lửa tâm
càng dập càng nồng. Thông thường không ai nói dập cơn ghen nhưng khi kết hợp
với lửa thì rõ ràng là phải có dập. Chính tính hệ thống là cơ sở của tính sáng tạo
trong sử dụng ngôn ngữ, tạo ra được sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa các yếu tố
ngôn ngữ, mang lại những giá trị mới cho tín hiệu ngôn ngữ.

Tính hệ thống của THTM được xem xét từ hai khía cạnh: Khía cạnh nội tại (cấu
trúc), với những quy luật thuộc cấu trúc tác phẩm. Khía cạnh ngoại tại (chức năng) với
những quy luật về sự hoạt động thực hiện các chức năng giao tiếp của sáng tạo nghệ
thuật .

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Riêng với khía cạnh cấu trúc tác phẩm, cần phân biệt hai bình diện : bình
diện trừu tượng và bình diện cụ thể của hệ thống.Thuộc bình diện trừu tượng là
những điển dạng (hằng thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các điển
dạng làm nên cấu trúc bề sâu, bất biến của tác phẩm. Thuộc bình diện cụ thể là
những hiển dạng (hay biến thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các hiện
dạng làm nên cấu trúc bề mặt, mang tính cụ thể biểu kiến của tác phẩm. Nghiên
cứu THTM thực chất là nghiên cứu những biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện.
Chính vì vậy, thực chất của việc nghiên cứu hệ thống THTM là nghiên cứu cấu trúc
hình thức, mang tính cụ thể, biểu kiến của tác phẩm nghệ thuật. Đây cũng là vấn đề
hằng thể và biến thể sẽ được bàn tiếp ở mục sau.

1.2.9 Tính trừu tƣợng và cụ thể

Đây cũng chính là vấn đề hằng thể và biến thể của THTM.

Trong Tín hiệu học, người ta phân biệt điển dạng (hay hằng thể) và hiện
dạng (hay biến thể) của mỗi tín hiệu. Điển dạng là TH trong tính trừu tượng bất
biến của nó, còn gọi là hằng thể của TH. Hiện dạng là TH trong tính cụ thể, khả
biến của nó, còn gọi là các biến thể của TH. Trên thực tế, người ta chỉ gặp các hiện
dạng hay biến thể của TH với những biểu hiện không hoàn toàn giống nhau trong
những lần xuất hiện.

Đối với THTM cũng vậy. Nghiên cứu các THTM trên thực tế chính là
nghiên cứu các biến thể của chúng. Như vậy, có thể hiểu biến thể của THTM là
THTM trong các lần xuất hiện của nó. ở mỗi lần xuất hiện, THTM được biểu đạt
bằng một hình thức CBH - biến thể, mang một nội dung CĐBH - biến thể, đồng
thời có những mối quan hệ mới với những yếu tố cùng xuất hiện trong hệ thống
mà THTM tham gia, và được cảm nhận với cảm xúc mới v.v…

Ngoài ra, có thể xác định mối quan hệ hằng thể - biến thể giữa các THTM -
sự vật, hiện tượng mang tính khái quát, chung, với các THTM - sự vật, hiện tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 http://www.lrc-tnu.edu.vn
mang tính cụ thể, riêng so với các TH TM khái quát, chung ấy. Chẳng hạn, Núi
với tư cách THTM khái quát, chung hay hằng thể, có thể được biểu hiện qua những
biến thể - bộ phận của núi: đèo, dốc, đá, hang… nhằm diễn đạt ý nghĩa về sự khó
khăn hay thử thách. Thuyền có thể được biểu hiện qua những biến thể - bộ phận
của nó: mái chèo, cánh buồm… nhằm diễn đạt ý nghĩa người đi.

Biến thể của TH nói chung, THTM nói riêng được thể hiện ở hai dạng sau:

*Biến thể từ vựng: Đây là tập hợp những từ ngữ gần nghĩa hoặc cùng trường
nghĩa có thể thay thế cho nhau. Đây là cơ sở cho sự lựa chọn của các nhà văn, nhà
thơ.

Ví dụ:

Tổ quốc ta như một con tàu

Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

(Xuân Diệu)

* Biến thể kết hợp: Cùng một tín hiệu nhưng có sự biến đổi ít nhiều do kết
hợp với những tín hiệu khác nhau ở trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết
quả của tính hình tuyến; khi trở thành THTM thì từ ngữ cũng biến đổi ít nhiều
trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Có thể nói, biến thể kết hợp là biến thể
của các tín hiệu cùng hiện diện trong lời nói. Khi xuất hiện trong những tổ hợp
khác nhau TH ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Ví
dụ:

- Gió hiu hiu thổi một vài bông lau...

(Nguyễn Du - Truyện Kiều)

Gió cho ta cảm xúc về một khung cảnh yên tĩnh, buồn vắng. Còn trong câu
thơ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngôi nhà không mặc kệ gió lung lay..

(Chính Hữu - Đồng chí)

Gió lại trở thành một tín hiệu cho một trạng thái mạnh mẽ, có sức tàn phá
ghê gớm.

Chính những biến thể kết hợp này của TH đã mang lại những ý nghĩa thẩm
mỹ mỗi lần một mới khi xuất hiện trong ngữ cảnh, khẳng định sức sáng tạo của
người nghệ sĩ...

Có thể nói mối quan hệ giữa hằng thể và biến thể là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, giữa cái bất biến và cái khả
biến, cái vô hình và cái biểu kiến, phải thấy được mối quan hệ hai mặt này thì mới
đánh giá được giá trị của THTM.

Tín hiệu thẩm mĩ được xét trong đề tài của Luận văn này là các TH đơn (TH
cơ sở) và là những TH thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của tác phẩm văn học.
Mỗi TH ứng với một yếu tố hiện thực (Mùa Xuân hay Trái tim ) được đưa vào
trong thơ Xuân Diệu với tư cách là những THTM và được biểu đạt bằng các hình
thức ngôn ngữ nhất định. Vì vậy, rất cần làm sáng tỏ một số vấn đề hữu quan về
mối quan hệ giữa THTM với ngôn ngữ trong tác phẩm văn học.

1.3. TÍN HIỆU THẨM MĨ VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC

Các yếu tố của hiện thực muốn trở thành THTM trong tác phẩm văn học phải
nhờ có ngôn ngữ biểu đạt. Cấu trúc đặc biệt của hệ thống TH ngôn ngữ cho phép
mỗi hình thức ngôn từ có thể phản ánh, biểu đạt được một sự vật, hiện tượng nào
đó thuộc hiện thực khách quan cũng như từng hiện tượng thuộc thế giới tinh thần
của con người. Nhờ vậy, chủ thể tiếp nhận có thể lĩnh hội được từ văn học những
hiện thực trực tiếp thông qua ngôn từ và chính nhờ thế mà ngôn từ trở thành chất
liệu, thành phương tiện để xây dựng nên tác phẩm văn chương. Rõ ràng là ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ được sử dụng trong tác phẩm văn học vừa là chính nó, lại cũng vừa là cái biểu
hiện cho THTM, mang những nội dung thuộc THTM (tức ý nghĩa thẩm mĩ). Cùng
một dấu hiệu hình thức(thể chất) nhưng mang hai giá trị khác nhau: giá trị TH ngôn
ngữ (thuộc hệ thống ngôn ngữ) và giá trị THTM( thuộc hệ thống của tác phẩm văn
học). Hai giá trị này có sự tác động và chi phối lẫn nhau, tạo thành đặc tính riêng
của ngôn ngữ văn học so với thứ ngôn ngữ thông thường(ngôn ngữ tự nhiên). Có
thể nói rằng nói đến ngôn ngữ văn học là nói đến ngôn ngữ trong những phẩm chất
thẩm mĩ của nó, nói đến sự vượt chuẩn mực của nó so với ngôn ngữ thông thường.
Có thể đồng tình với quan niệm cho rằng ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ - THTM,
mang những đặc tính của THTM, những nội dung của THTM. Chính các từ ngữ
xưa nay được gọi là các “nhãn tự”, các “thần cú”, hay các từ ngữ được sử dụng
như những yếu tố mang tính ước lệ, tượng trưng, các điển cố văn học, các yếu tố
ngôn ngữ được sử dụng trong lối chơi chữ của văn học… chính là những yếu tố
ngôn ngữ - THTM như vậy.

Trong vai trò là CBH của THTM, các yếu tố ngôn ngữ cũng chính là các
biến thể của THTM, là sự cụ thể hoá về mặt hình thức(CBH) của THTM trong tác
phẩm văn học. Có thể xét mối quan hệ hằng thể - biến thể của THTM trong tác
phẩm văn học theo tương quan giữa một bên là các THTM hằng thể, mang tính
chất trừu tượng, bất biến, chung cho nhiều ngành nghệ thuật, nhiều lần xuất hiện
khác nhau, với một bên là các đơn vị ngôn ngữ - CBH của THTM hằng thể đó. Mỗi
THTM hằng thể có thể ứng với một hay một số biến thể ngôn ngữ nhất định.
Chẳng hạn, TH Thuyền ứng với các từ: thuyền, ghe, nốc, độc mộc, mảng…, TH
đƣờng ứng với các từ: đường, đàng, lối, nẻo, cung, dặm, ngõ, ngả.Trong khá nhiều
trường hợp, việc sử dụng một biến thể ngôn ngữ nào đó cũng đem lại giá trị gợi
cảm, cụ thể hoá cho THTM ở một nét nghiã thẩm mĩ nào đó. Ví dụ: trong tương
quan giữa núi và non thì có thể dễ dàng nhận thấy rằng núi có tính chất trung tính
hơn, còn non gợi nên tính chất văn chương, thơ mộng… Có thể nói non là biến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể(biến thể từ vựng) của THTM hằng thể núi. Rõ ràng là sự cụ thể hoá về hình
thức ngôn ngữ (CBH) đã gắn liền với sự cụ thể hoá về nội dung thẩm mĩ (CĐBH).

Mặt khác, như đã nói trên đây, quan hệ hằng thể - biến thể của THTM còn
được biểu hiện thành quan hệ giữa các TH chỉnh thể và TH bộ phận (chẳng hạn,
giữa núi, non với đèo, dốc; giữa thuyền với cánh buồm, mái chèo…), quan hệ
giữa các TH trừu tượng với các TH cụ thể, mang những đặc điểm về trạng thái, tính
chất, quan hệ cụ thể khác nhau (chẳng hạn, giữa núi nói chung với núi cao, núi
hiểm, núi Tản, núi Đọi, núi cao biển rộng, hang sâu núi hiểm, núi với chim, núi
với cây, núi với con ngƣời v.v…). Trong văn học, mối quan hệ này được bộc lộ
qua mối quan hệ giữa một bên là một yếu tố ngôn ngữ biểu đạt hằng thể của THTM
(từ núi chẳng hạn) với một bên là những yếu tố ngôn ngữ mang nội dung ngữ nghĩa
cụ thể hơn: các từ đồng nghĩa biểu vật, biểu niệm(đèo, dốc), các cụm từ miêu tả -
cụ thể hoá(núi cao, núi thẳm…), các kết cấu diễn đạt mối quan hệ giữa TH hằng
thể với các TH khác cùng xuất hiện( chẳng hạn, chim bay về tổ, núi cao, biển rộng
sông dài). Chính sự biến đổi về hình thức ngôn ngữ biểu đạt của THTM trong kết
cấu văn bản tác phẩm văn học thường xảy ra cùng với sự biến đổi về nội dung thẩm
mĩ được biểu đạt, mang lại cái mới, cái cụ thể, sinh động cho THTM trong mỗi lần
xuất hiện của nó.

Chính vì vậy, có thể xét biến thể của THTM trong tác phẩm văn học qua:

1. Các hình thức ngôn ngữ diễn đạt một THTM hằng thể trong tác
phẩm;

2. Các hình thức ngôn ngữ diễn đạt các biến thể của THTM hằng
thể nói trên;

3. Các hình thức kết cấu diễn đạt mối quan hệ giữa THTM hằng
thể đó với THTM khác cùng xuất hiện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đây chính là cơ sở lí luận định hướng cho chúng tôi trong việc thu
thập, thống kê và phân tích tất cả những tư liệu có liên quan đến nhưng
THTM hằng thể mùa xuân và trái tim trong các tác phẩm thơ ca của nhà
thơ Xuân Diệu.

1.4 TÍN HIỆU THẨM MĨ VĂN CHƢƠNG

Qua sự trình bày trên đây, có thể thấy rằng văn học sử dụng tín hiệu thẩm mĩ
dưới hình thức âm thanh ngôn ngữ. Bước vào thế giới văn chương, tín hiệu ngôn
ngữ chuyển thành tín hiệu văn chương (THVC). Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và
cái được biểu hiện trong THTM văn chương(THVC) được thể hiện như sau.

Cái biểu hiện của THVC là tín hiệu ngôn ngữ với hai mặt: CBH là âm thanh
ngôn ngữ hoặc chữ viết; CĐBH là ý nghĩa ngôn ngữ. Nhưng do THVC mang tính
chất phi vật thể, việc cảm thụ các THVC diễn ra một cách gián tiếp, mang tính ước
lệ, cho nên ý nghĩa thẩm mĩ ( YNTM) , hình tượng nghệ thuật chỉ diễn ra trong ý
thức của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, chỉ được cảm thấy chứ không hiện
ra bằng chất liệu bản thể. Cũng chính từ tính chất phi vật thể này mà THVC có khả
năng khơi gợi ý nghĩa với số lượng phong phú phức tạp;THVC cũng mang đậm sắc
thái tinh thần, sắc thái tâm lý, và phụ thuộc vào các nhân tố của ngữ cảnh giao tiếp
nghệ thuật. Theo Nguyễn Lai, đó là kết quả của quá trình chuyển mã ngữ nghĩa hết
sức phức tạp theo nguyên tắc cộng hưởng có định hướng của nhiều vòng đồng tâm
[Tìm hiểu sự chuyển hoá từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng ]

Cái được biểu hiện của THVC : Do tính đa trị của ngôn ngữ nên thông
thường , khó có thể nói được rạch ròi những nội dung thông tin ngữ nghĩa, thông
tin cảm xúc, giá trị văn hóa, tư tưởng...trong một tín hiệu ngôn ngữ cụ thể, mà
thường thường những nội dung này đan lồng vào nhau, hàm chứa trong nhau. Ví
dụ:

Đâu phải đường xanh. Đường qua máu chảy


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Năm mươi năm, máu đỏ thành hoa

Cuộc sinh nở nào đau đớn vậy

Rất tự hào mà xót tận da.

(Tố Hữu )

Khó có thể gọi rõ ràng từng thành phần thông tin, thành phần biểu cảm hay
những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, lịch sử trong một tín hiệu ngôn ngữ,
cũng như việc giải mã nó không chỉ đơn thuần là một lớp nghĩa.

Tín hiệu thẩm mĩ là một khái niệm có tính liên ngành, bởi vậy phải xem xét
nó dưới nhiều góc độ. Do những điểm chưa tương đồng giữa những quan điểm
nghiên cứu mà vấn đề còn phải được tiếp tục tìm hiểu, bởi vậy đề tài của chúng tôi
không thể bao quát hết những vấn đề về lí thuyết cũng như không tránh khỏi những
bất đồng ý kiến với những người cùng nghiên cứu. Mong muốn của chúng tôi là
tìm ra những cơ sở lý luận cho việc nhìn nhận, phẩm bình những THTM trong tác
phẩm văn học, và là những yếu tố thuộc cấu trúc hình thức của ngôn ngữ tác phẩm;
tức là chúng tôi quan niệm, THTM là yếu tố ngôn ngữ thuộc tác phẩm văn học làm
thành hình thức của tác phẩm... Như vậy, nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ chính là
việc nghiên cứu ngôn ngữ như là một yếu tố cấu thành tác phẩm, gắn với thể loại
và phong cách tác giả.

1.5 TIỂU KẾT

Tín hiệu thẩm mĩ (THTM) vốn là một loại tín hiệu cho nên nó cũng mang
những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Những dấu hiệu nhận biết của một
tín hiệu gồm: Nó phải có một hình thức cảm tính cho phép cảm nhận được bằng
giác quan; Nó phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó (tức phải
mang một nội dung ý nghĩa); Nó phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó và
phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tín hiệu ngôn ngữ được coi là một loại tín hiệu đặc biệt - là loại TH thính
giác, TH giao tiếp, TH nhân tạo, ước hiệu(võ đoán) v.v

Các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Ngôn ngữ là một loại
tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ thống. Chính các nguyên tắc đồng
nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và liên tưởng(hay trực tuyến), điển dạng
(hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể) trong hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ
sở lí thuyết quan trọng giúp lí giải về các TH ngôn ngữ trong quá trình hoạt động
thực hiện các chức năng của ngôn ngữ trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ
thuật (giao tiếp của văn học).

THTM là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Khi
vào thế giới nghệ thuật, các TH thông thường sẽ chuyển hoá thành THTM, mang
những nét đặc thù của nghệ thuật. Tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật được xây dựng
trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên. THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực,
những chi tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì
mục đích biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định Cả cái hợp thể CBH và CĐBH tạo
thành TH ngôn ngữ đã trở thành CBH cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mĩ của
THTM trong tác phẩm văn học. Tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên muốn trở thành tín hiệu
thẩm mĩ trong tác phẩm nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa
nghệ thuật mang tính biểu trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định. Những cái
xưa nay vẫn được gọi là “thần cú, nhãn tự” là những TH ngôn ngữ mang phẩm
chất thẩm mĩ như thế.

THTM có những đặc tính sau: Tính đẳng cấu, Tính cấp độ, Đặc tính tác
động, Tính biểu hiện, Tính biểu cảm (tính bộc lộ), Tính biểu trưng, Tính truyền
thống và cách tân, Tính hệ thống, Tính trừu tượng và cụ thể (đây cũng chính là vấn
đề hằng thể và biến thể của THTM).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mỗi THTM hằng thể có thể ứng với một hay một số biến thể ngôn ngữ nhất
định. Sự cụ thể hoá về hình thức ngôn ngữ (CBH) đã gắn liền với sự cụ thể hoá về
nội dung thẩm mĩ (CĐBH). Quan hệ hằng thể - biến thể của THTM còn được biểu
hiện thành quan hệ giữa các TH chỉnh thể và TH bộ phận. Chính sự biến đổi về
hình thức ngôn ngữ biểu đạt của THTM trong kết cấu văn bản tác phẩm văn học
thường xảy ra cùng với sự biến đổi về nội dung thẩm mĩ được biểu đạt, mang lại
cái mới, cái cụ thể, sinh động cho THTM trong mỗi lần xuất hiện của nó. Tín hiệu
thẩm mĩ văn chương lại có thể tiếp cận bằng rất nhiều con đường, nhiều hướng
khác nhau. Luận văn sử dụng phương pháp thống kê và phân tích ngữ cảnh làm
định hướng chính cho việc khảo sát hai tín hiệu thẩm mĩ “mùa xuân” và “trái tim”
trong thơ Xuân Diệu.

Chính vì vậy, có thể xét biến thể của THTM trong tác phẩm văn học qua:

1)Các hình thức ngôn ngữ diễn đạt một THTM hằng thể trong tác phẩm;

2)Các hình thức ngôn ngữ diễn đạt các biến thể của THTM hằng thể nói trên;

3) Các hình thức kết cấu diễn đạt mối quan hệ giữa THTM hằng thể đó với
THTM khác cùng xuất hiện.

Đây chính là cơ sở lí luận định hướng cho luận văn trong việc thu thập,
thống kê và phân tích tất cả những tư liệu có liên quan đến các THTM “mùa xuân”
và “ trái tim” trong thơ Xuân Diệu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chƣơng 2
TÍN HIỆU THẨM MĨ “MÙA XUÂN” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

2.1 DẪN NHẬP

Mùa xuân vốn là bạn muôn đời của thi nhân. Từ lâu, xuân đã trở thành đề
tài quen thuộc của thi ca dân tộc. Nói đến mùa xuân- mùa thi vị nhất trong năm,
bằng phong cách riêng của mình, mỗi nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp riêng của nó với
vẻ tươi tắn, căng tràn nhựa sống không vơi cạn. Trong quan niệm của người
phương Đông, giữa con người ( tiểu vũ trụ) và vũ trụ luôn có một sự tương thông.
Chính vì điều đó , người ta thường lấy những quy luật của tự nhiên để nói tới quy
luật chi phối con người. Tứ thời Xuân - Hạ - Thu -Đông gắn liền với Sinh -
Trưởng-Lão- Bệnh. Mùa xuân gắn với sự sinh sôi nảy nở, sự phát triển của tạo vật.
Trong mối giao cảm sâu sắc, mùa xuân đã trở thành một hình tượng nghệ thuật mà
thi nhân gửi gắm biết bao nỗi niềm sâu kín.

Các nhà Thơ Mới khi đứng trước mùa xuân thường bâng khuâng rạo rực.
Đồng nhất mùa xuân với con người, nên dường như họ đã tìm thấy ở mùa xuân
cái sức sống dạt dào, không khí trẻ trung, sôi nổi của tuổi trẻ. Đó là nguồn cảm
hứng vô tận luôn luôn tươi mới. Mùa xuân được các nhà Thơ Mới “cô” lại trong
các bài thơ của mình, đem lại cho bạn đọc một thứ hương ngào ngạt say đắm. Hẳn
chúng ta không thể nào quên Hàn Mặc Tử với “ Mùa xuân chín”, “Xuân đầu”;
Nguyễn Bính với “Xuân về”, “Mùa xuân xanh”, “Thơ xuân”; Huy Cận với “Thơ
xuân”, “Xuân”, “Xuân ý”. Cái sức sống của mùa xuân đất trời đã đem lại cho hồn
thơ Hàn Mặc Tử những cảm xúc tươi vui:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trêu giàn thiên lý bóng xuân sang”

(Mùa xuân sang)

Với Nguyễn Bính, thì mùa xuân cũng rất đậm đà hương vị riêng của đồng
quê nơi ông sinh ra và lớn lên:

Mùa xuân là cả một mùa xanh

Giời ở trên cao lá ở cành

Lúa ở đồng tôi và lúa ở

Đồng nàng và lúa ở đồng quanh.

(Mùa xuân xanh)

Mùa xuân- mùa của sức sống, của tuổi trẻ. Chỉ có những tâm hồn trong
sáng, yêu thiên nhiên hết mình thì mới cảm được vẻ đẹp của mùa xuân trong thơ
Nguyễn Bính:

Đã thấy xuân về với gió đông

Với trên màu má gái chưa chồng

Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.

(Xuân về)

Nhưng có lẽ ít ai say mê mùa xuân, dành cho mùa xuân nhiều câu thơ, nhiều
bài thơ đặc sắc, say đắm lòng người như Xuân Diệu. Ông đã sống hết mình với
nàng thơ, đa tình với mùa xuân. Trong lòng Xuân Diệu luôn luôn có một khát khao
sức sống và muốn sống nhiều hơn nữa. Chính vì vậy, hơi thở mùa xuân nồng nàn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấm đậm trong từng áng thơ của nhà thơ tình số một Việt Nam - nhà thơ mới trong
những nhà Thơ Mới.

Trong Luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu hình tượng nghệ thuật
“mùa xuân” được thể hiện qua những tín hiệu thẩm mĩ (THTM) trong các thi phẩm
của thi sĩ Xuân Diệu dưới ánh sáng của lý thuyết tín hiệu thẩm mĩ.

Nói đến THTM, như đã được phân tích ở chương 1, là nói đến vấn đề lí luận
liên ngành, bởi vậy nó cần được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là đối với tín
hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. Một tín hiệu ngôn ngữ thông
thường, khi đi vào thế giới thơ ca, nó đã được chuyển hóa thành một tín hiệu nghệ
thuật, tín hiệu thẩm mĩ-ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu văn chương. Theo quan
niệm đã nêu “THTM được hiểu là tìn hiệu thuộc hệ thống các phương tiện biểu
hiện của các ngành nghệ thuật bao gồm những yếu tố của hiện thực, tâm trạng, cảm
xúc. Những yếu tố của chất liệu ngôn ngữ văn chương , như các yếu tố của các chất
liệu màu sắc với hội họa, âm thanh , tiết tấu với âm nhạc...được lựa chọn và sáng
tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ”. Một TH được gọi là THTM
phải hội tụ đủ các yếu tố sau:Cái biểu hiện hay còn gọi là giá trị ý nghĩa thẩm mĩ.
Chủ thể sáng tạo và hệ thống tín hiệu thẩm mĩ nhất định. Chính vì vậy khi xem xét
cấu trúc của THTM cần thấy tính hệ thống của nó được biểu hiện ở bình diện trừu
tượng và cụ thể . Thuộc bình diện trừu tượng là những hằng thể “nguyên mẫu” có
tính cố định, bất biến. Thuộc bình diện cụ thể là những biến thể của THTM trong
mỗi lần xuất hiện nó mang tính hiện hữu cụ thể sinh động. Với cách hiểu như vậy,
THTM trong văn chương chính là tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ và các tín hiệu ngôn
ngữ chỉ “mùa xuân” thực sự là những tín hiệu thẩm mĩ như vậy. Chúng tôi quy
ước viết tắt các dạng THTM như sau: Tín hiệu hằng thể(THHT), tín hiệu biến thể
từ vựng ( BTTV), tín hiệu biến thể kết hợp (BTKH) , tín hiệu biến thể quan
hệ (BTQH).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tư liệu khảo sát của Luận văn gồm khoảng 400 bài thơ của Xuân Diệu trong
những tập thơ sau: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió, Ngọn quốc kì, Riêng chung, Cầm
tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh I,II,III .
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thống kê, thu được kết quả như sau.

2.2 KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Tần số xuất hiện của các THTM chỉ “xuân” hay “ mùa xuân” trong thơ
Xuân Diệu được thể hiện qua bảng sau:

STT Tín hiệu thẩm mĩ Số lần xuất hiện Tỉ lệ xuất hiện

( lần) ( %)

1 Xuân 125 46,64

2 Mùa Xuân 38 14,2

3 Gió xuân 25 9,33

4 Nắng 19 7,1

5 Lúa xuân 14 5,22

6 Tết 7 2,61

7 Tháng Giêng 6 2,24

8 Buổi đầu 3 1,12

9 Hoa gạo 3 1,12

10 Hoa mai 3 1,12

11 Hoa xoan 3 1,12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 http://www.lrc-tnu.edu.vn
12 Mạ 3 1,12

13 Lộc 2 0,75

14 Tháng ba 2 0.75

15 Tuổi xanh 2 0,75

16 Đầu năm 1 0,37

17 Năm mới 1 0,37

18 Thần Vui 1 0,37

19 Má đào 1 0,37

20 Lá bàng non 1 0,37

21 Chồi nhọn 1 0,37

22 Đâm chồi 1 0,37

23 Sương nguyên tiêu 1 0,37

24 Tuần tháng mật 1 0,37

25 Trời xanh 1 0,37

26 Vườn non 1 0,37

27 Nguyên Đán 1 0,37

28 Giao thừa 1 0,37

Tổng 268 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Qua bảng thống kê trên, có thể nhận thấy các THTM có tần số xuất hiện
không đồng đều, trong đó THHT xuân có tần số xuất hiện cao nhất (125). Ngoài ra,
còn có một số THTM khác là các BTTV của THTM này có tần số xuất hiện cụ thể
từ cao xuống thấp như sau: Mùa xuân (38),Gió xuân(25), Nắng xuân(19), Lúa
xuân(14), Tết (7), tháng giêng(6),Hoa gạo(3), Hoa xoan(3), Tháng ba(2),Đầu
năm(1), nguyên tiêu (1), nguyên đán(1)...

Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát ý nghĩa thẩm mĩ của THHT xuân và
các BTTV, BTKH và BTQH của THHT xuân trong những ngữ cảnh cụ thể trong
thơ Xuân Diệu.

2.3 TÍN HIỆU THẨM MĨ HẰNG THỂ “XUÂN”

Trong Tín hiệu học, người ta phân biệt điển dạng (hay còn gọi là hằng thể).
Điển dạng là TH trong tính trừu tượng bất biến của nó, còn gọi là hằng thể của TH.

Theo thống kê, THTM “xuân” xuất hiện trong thơ Xuân Diệu tới125 lần.
Trong ngôn ngữ toàn dân, Xuân (danh từ) chỉ mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ
thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mùa đứng đầu trong năm, có thời gian là 3
tháng. Mùa này có thời tiết tốt và có điều kiện lý tưởng cho sự sinh sôi nảy nở của
vạn vật. Với ý nghĩa này, xuân còn được gọi cụ thể hoá hơn bằng tên gọi đồng
nghĩa gần như hoàn toàn là mùa xuân.

Trong các thi phẩm, THHT xuân được Xuân Diệu sử dụng với những sắc
thái ý nghĩa và cung bậc tình cảm khác nhau trong những hoàn cảnh cụ thể khác
nhau. Do đó mỗi lần mùa xuân xuất hiện trong thơ Xuân Diệu là một lần tươi mới
Đó có thể là buổi đầu xuân đến êm ái dịu dàng:

Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui

Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời

Sao buổi đầu xuân êm ái thế?


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cánh hồng kết những nụ cười tươi.

(Nụ cười xuân)

Hay khi mùa xuân sắp qua đi, mùa hè đang tới gần, nhà thơ đã cảm nhận
được qua cơn gió tháng 3 mà tâm hồn phảng phất nỗi buồn, tiếc nuối:

Nhẹ nhàng gió thổi tháng 3

Trong hơi thanh mát có hòa nồng say

Xuân còn hè đã thoảng bay

Một niềm xa vợi ngất ngây khí trời.

(Chớm sang vị hè-T10)

Nhà thơ vui bao nhiêu khi mùa xuân bắt đầu đến thì lại càng buồn bấy nhiêu
khi xuân sắp qua đi.

Chính vì mang nặng tình yêu mùa xuân tha thiết nên mặc dù nó mới chỉ sắp
tới, nhưng nhà thơ đã ở trong tâm trạng lo sợ mùa xuân đi qua mau, thời gian trôi
qua mau vì đó là quy luật tất yếu của thời gian:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

(Xuân không mùa)

Cũng có khi mùa xuân được nói đến trong thơ ông vào thời điểm ban đêm
hay ban ngày mà lúc nào cũng đẹp, cũng đắm say.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đó là khi bóng đêm buông xuống , đất trời giao hòa trong không khí mát mẻ,
tĩnh lặng, nhà thơ cảm thấy không gian êm dịu, rộng lớn khôn cùng, chỉ còn nghe
hơi thở của mùa xuân:

Bóng đêm biếc thở đều hơi gió mát

Chung quanh ta im lặng đã buông rèm

Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát.

(Bóng đêm biếc)

Ngày đến khi xuân về Xuân Diệu cảm thấy khung cảnh tươi vui bởi những
tiếng chim ca, nước sông và bầu trời xanh biếc, rặng liễu xanh mướt buông rèm,
thiên nhiên ảo huyền như một bức tranh:

Mùa xuân về trong tiếng chim ca

Trên nước xanh sông, trong liễu rèm

(Thơ tình Mùa Xuân-T6)

Nhưng cũng có khi mùa xuân trong thơ ông là “chất xúc tác” để cây cối đâm
chồi nảy lộc:

Từ trong ruộng đất, đợi chút mùa xuân

Lại đâm chồi tung tóe một màu xanh

(Con sáo sang sông-T4)

Từ sự liên tưởng này, mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đã được liên hội với sự
đổi thay đầy sức sống mới của đất nước. Bởi vậy, khi chiến tranh kết thúc, toàn dân
bắt tay vào xây dựng lại đất nước, nhà thơ sung sướng ngắm nhìn nhân dân lao
động không ngừng, thấy rằng công việc ấy chính là làm nên mùa xuân:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đứng trên đồi dẻ Nhã Nam

Nhìn xa đất nước đang làm mùa xuân

(Đứng trên đồi dẻ Nhã Nam-T7)

Người ta đã từng nói chủ nghĩa xã hội là mùa xuân của nhân loại. Chính vì
thế Xuân Diệu đã đồng nhất mùa xuân với chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành
hình ảnh so sánh với Bác Hồ để khẳng định một điều như khẳng định một chân lí:
Bác đã trở thành bất tử cũng như mùa xuân không bao giờ mất, bởi vì Bác đã sống
mãi trong lòng tuổi trẻ của nhân loại:

Bác ơi, nụ cười Bác nở bông hoa trí tuệ

Ánh mắt Bác là ngôi sao thiên tuế

Bác vào trong tuổi trẻ của loài người

Là chủ nghĩa xã hội, Mùa xuân chiến thắng đời đời

(Đứng bên chân Bác- 1970 ,T10)

Đặc biệt mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường hay được liên hội với tình
yêu, với sự rung cảm của trái tim yêu đương. Đây chính là nét rất riêng trong các
bài thơ tình của Xuân Diệu.

Dựa trên đặc điểm khách quan là mùa đầu tiên và cũng là mùa đẹp nhất của
một năm, nên mùa xuân đã được nhà thơ Xuân Diệu liên tưởng với những rung
động mới mẻ của tình yêu đầu đời:

Hoa thứ nhất có một màu trinh bạch

Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ

(Tình thứ nhất)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mùa xuân về làm cho cây lá đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua sắc. Chính vì
thế Xuân Diệu “đặt” Mùa xuân trong mối tương quan với hoa lá để nói nên khát
vọng của mình vun đắp cho tình yêu, mang lại hạnh phúc cho người yêu như “mối
tình cây và đất”:

Em là hoa thắm lá xanh

Anh như đất ủ muốn thành mùa xuân

(Qủa trứng và lòng đỏ-T6)

Càng yêu say đắm, càng không thể sống thiếu người thương. Trong mạch
liên tưởng như vậy, Xuân Diệu cảm thấy Mùa xuân về dù càng làm cho cảnh sắc
nên thơ, nhưng cũng không thể hút được lòng mình khi người thương xa vắng. Bởi
vậy, mùa xuân càng đẹp lại càng khơi dậy tình yêu mãnh liệt khiến cho thi sĩ càng
thêm khao khát mong mỏi phút giây gặp gỡ:

Mùa xuân đã về, hương đẫm ướt

Em đi chưa về anh ngẩn ngơ...

Tất cả mùa xuân đẹp lắm rồi

Về cho anh gặp với em

(Xuân bên Hồ Tây-T10)

Và nhà thơ cảm thấy hình ảnh cây cối mong xuân về để đâm chồi nảy lộc,
làm xanh biếc cả đất trời cũng chính là sự khát khao mong đợi của mình:

Anh như cây cối chờ xuân biếc

Hôm sớm trông mong ngọn gió lành.

(Thơ bát cú)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Do đó, với Xuân Diệu, yêu và được yêu là niềm hạnh phúc vô biên, là niềm
hạnh phúc được dâng tặng. Niềm hạnh phúc ấy được ví như cả một mùa xuân:

Là hoa, là nụ hay là cành

Là cả mùa xuân em tặng anh

Ôi những lá sương ôm lóng lánh

Tay em đưa đến với ngày xanh

Vườn hồng hoa chậm hay hoa ủ

Trước sức xuân sang chợt nở đều

Đêm hoa bếp hồng em chụm thổi

Ngày thành lụa tuyết để em thêu

(Vui)

Có thể khẳng định, nói đến mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là nói đến tình
yêu đôi lứa. Mùa xuân và tình yêu trong thơ ông lúc nào cũng xoắn xuýt như một
cặp tình nhân. Xuân Diệu say đắm mùa xuân như say đắm với tình yêu. Ông luôn
khao khát được thả hồn mình bơi trong “vườn tình ái” tràn ngập ánh nắng, với
bướm chim, và chất đầy trong tim cả một bầu trời thanh sắc. Nhưng xuân không
dừng đợi, tình chẳng bền lâu!, nên Xuân Diệu luôn vội vàng, lo âu, luôn đòi hỏi
hết cả tâm hồn người yêu dấu:

Phải nói yêu trăm năm bận đến nghìn lần

Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân

Đem chim bướm thả trong vườn tình ái

(Phải nói)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cũng như ông, đã yêu là phải yêu cuồng nhiệt, yêu mãnh liệt, và phải yêu
bằng tất cả, bằng đủ mọi giác quan và hành động - từ lời nói đến ánh mắt và nụ
cười... . Có những lúc thi nhân xúc động mãnh liệt đến bất lực không sao nói hết
được tình yêu của mình. Ông cảm thấy (hay là mong muốn?) tơ lòng mình giăng
kết thành tấm võng để ôm trọn và ru giấc người yêu thì mới thoả :

Gió xa quá, trời xuân êm bát ngát

Biết lời gì nói hết được yêu em

Giữa lòng anh tơ giăng như mắc võng

Em nằm đi-anh ru giấc êm đềm

(Bóng đêm biếc)

Chính vì thế, khi dâng tặng tình yêu nhưng không được đền đáp thì thi nhân
cảm thấy mùa xuân vốn đẹp là thế mà bây giời thì nặng nề trống trải làm sao:

Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm

Trên cánh hồng và trong những trái tim?

(Mời yêu)

Như vậy, có thể thấy mỗi khi đọc thơ Xuân Diệu ta lại cảm nhận được hình
ảnh mùa xuân trong thơ ông luôn hiện lên với rất nhiều cung bậc cảm xúc khác
nhau trong không gian và thời gian mỗi lần xuất hiện. Đó chính là nhờ Xuân Diệu
có tình yêu vô bờ đối với thiên nhiên với muôn vàn tạo vật đổi thay dù rất nhẹ
trong không gian và thời gian.

2.4 CÁC BIẾN THỂ CỦA TÍN HIỆU HẰNG THỂ “XUÂN”

2.4.1 Biến thể từ vựng của THHT “xuân”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như đã nói, trong thơ Xuân Diệu, xuân còn có tên gọi đồng nghĩa gần như
hoàn toàn là mùa xuân. Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường được nói tới trong
những ngữ cảnh khác nhau với những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Bởi vậy, để
góp phần vào sự thể hiện những sắc thái, cung bậc tình cảm khác nhau này, mùa
xuân trong thơ Xuân Diệu cũng thường được biểu thị bằng những tín hiệu khác
nhau. Điều này có nghĩa là các THTM cùng chỉ mùa xuân trong mỗi lần xuất hiện
lại mang những hình thức ngôn ngữ biểu đạt một khác. Đây chính là các BTTV hay
là các tên gọi đồng nghĩa của “mùa xuân”. Mỗi tên gọi đồng nghĩa ấy, nói như
V.Hum-bôn, “biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta về đối tượng”, tr(dẫn
theo[Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb KHXH, H.,2006. 205]).
Điều đó chứng tỏ những từ ngữ biểu thị mùa xuân trong thơ Xuân Diệu rất phong
phú và đa dạng. Để làm được điều này, nhà thơ phải có tài năng vận dụng linh hoạt
và sáng tạo ngôn ngữ độc đáo. Chính điều ấy đã lý giải tại sao độc giả lại đã rất yêu
thơ xuân của Xuân Diệu, và đồng thời còn bởi mùa xuân trong thơ ông luôn hiện
lên sinh động, giàu cảm xúc, toát lên một tâm hồn thi sĩ yêu tha thiết mùa xuân,
luôn khát khao giao cảm với cuộc đời trần thế.

Như kết quả khảo sát đã cho thấy, các tín hiệu thẩm mĩ cùng chỉ mùa xuân
trong thơ Xuân Diệu có tần số xuất hiện và ý nghĩa thẩm mĩ khác nhau. Chúng tôi
sẽ tập trung nghiên cứu những tín hiệu có tần số xuất hiện cao và có giá trị lớn nhất
về mặt ý nghĩa thẩm mĩ.

Qua quá trình khảo sát, thống kê, chúng tôi thu được các BTTV trong thơ
Xuân Diệu là những đơn vị đồng nghĩa, gần nghĩa, cùng trường nghĩa hoặc đồng
sở chỉ chỉ mùa xuân như sau.

Trước hết là BTTV tết. Như có thể dễ dàng nhận thấy, BTTV này, cũng như
các BTTV khác được trình bày dưới đây, đều nằm trong quan hệ chỉnh thể - bộ
phận với THHT “ xuân”/ “mùa xuân”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tết: là ngày lễ đầu tiên của mùa xuân và cũng là ngày lễ lớn nhất trong năm,
có vui chơi, hội hè theo truyền thống dân tộc. Tên gọi này vốn được biến âm từ từ
tiết mà ra. Tiết vốn có ý nghĩa gốc ban đầu hay ý nghĩa từ nguyên là “đốt tre”[Nhữ
Thành, Ngữ nghĩa từ Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 1977]. Từ ý nghĩa gốc này
đã diễn ra sự chuyển nghĩa chỉ các khúc đoạn được phân cắt ra thực sự bằng hành
động vật lí hay chỉ bằng thao tác tư duy. Mỗi khúc đoạn ấy được gọi là một tiết. Do
đó có tiết học (45 phút), tiết trời (mỗi tiết là 15 ngày)… Tên gọi tiết trời đầu tiên
của một năm mới là tết.

Nước ta có nhiều tết khác nhau như: Tết Nguyên Đán, Tết Thượng Nguyên
(Rằm tháng Giêng), Tết Trung Nguyên (Rằm tháng Bảy), Tết Hạ Nguyên hay Tết
Cơm Mới (Rằm tháng Mười), Tết Trung thu, Tết Hàn thực(3/3 âm lịch), Tết Đoan
Ngọ(5/5 âm lịch)…

Trong thơ Xuân Diệu, TH Tết được dùng để nói về mùa xuân xuất hiện 7
lần. Chẳng hạn:

“Những Tết tươi lên vạn sắc màu

Em nhỉ, mấy xuân đằm thắm lạ

Không em Tết có vị gì đâu”

(Chầm chậm đừng quên)

Hay:

Lá cây duối chạm đầu đôi mái.

Hương áo em anh vẫn giữ gìn.

Vừa sau Tết xóm thôn trăng giãi

Anh hãy còn nhớ mãi như in

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nhớ mãi như in –T10)

TH “giao thừa” được sử dụng 1 lần. Đây là khoảng thời gian chuyển giao từ
năm cũ sang năm mới. Theo âm lịch của Việt Nam thì đó là khoảnh khắc từ cuối
đêm 30 Tết sang đầu ngày mùng một Tết. Giao thừa là giây phút thiêng liêng để
đón chào mùa xuân về. Và bao giờ cũng vậy, cứ vào đêm giao thừa Đài phát thanh
Tiếng nói Việt Nam thường ngâm thơ Bác:

Hai tư năm, những trung thu, ngày Tết

Trăng sáng Bác nhớ nhi đồng

Những giao thừa, thơ Bác động ngàn phương.

( Muôn thủơ Bác Hồ- T9)

TH tháng giêng được xuất hiện 6 lần, là tháng đầu của mùa xuân. ở đây nhà
thơ muốn nói tới tháng đầu của năm âm lịch Việt Nam, vì năm âm lịch là thời điểm
của mùa xuân, của tết. Vào thời điểm xuân sang bầu trời trong xanh, hoa trái đua
nở:

Ngày trong lắm là êm, hoa đẹp quá

Nhan sắc ơi cây cỏ chói đầy sao

Tháng giêng cười không e lệ chút nào

Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm

(Mời yêu)

Trong thơ Xuân Diệu, Tháng Giêng còn mang một dấu mốc lịch sử lớn lao
mà nhân loại sẽ không thể nào quên được. Đó là ngày vị lãnh tụ kính yêu của nước
Nga, của giai cấp vô sản toàn thế giới đã qua đời:

Mạc Tư Khoa tháng giêng hai mươi bốn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Những mái nhà nặng trĩu tuyết mùa đông

Trắng xóa cây.Bốn mươi độ dưới không

Rét cắt thịt- Lê Nin vừa mới mất

(Mạc Tư Khoa tháng giêng năm 1942 –T8)

2.4.2 Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “xuân”

Như đã nêu, nói đến Biến thể kết hợp là nói đến cùng một tín hiệu nhưng
có sự biến đổi ít nhiều về ý nghĩa thẩm mĩ do kết hợp với những tín hiệu khác nhau
ở trước và sau nó trong cùng một câu thơ, dòng thơ, hoặc cùng xuất hiện với nó
trong những câu thơ, khổ thơ đi trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết quả
của tính hình tuyến; khi trở thành THTM thì từ ngữ cũng biến đổi ít nhiều trong
quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Khi xuất hiện trong những tổ hợp khác nhau,
ý nghĩa của cùng một THTM đã ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm
xúc khác nhau. Đặc biệt, với tư cách là những BTKH, THTM xuân hay mùa xuân
trong thơ Xuân Diệu đã mang những ý nghĩa biểu trưng độc đáo phản ánh tài năng
xuất chúng của ông hoàng thơ ca.

Trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân về đã mang lại sức sống cho tự nhiên, cho
tạo vật ở trạng thái dâng trào, tràn đầy hương sắc. Và đó cũng là lúc sự sống có
biểu hiện thắm tươi và hấp dẫn nhất. Xuân Diệu cảm thấy yêu cuộc sống cuồng
nhiệt, muốn thu vào mình tất cả tự nhiên bằng đủ mọi giác quan và hành động - từ
lời nói đến ánh mắt và nụ cười... Chính vì thế, nhà thơ càng thêm yêu mùa xuân
mãnh liệt, thấy mùa xuân có sức hấp dẫn mình ghê gớm như một tình nhân:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.

(Vội vàng)

Đặc biệt, mùa xuân với tư cách là biến thể kết hợp trong thơ Xuân Diệu
còn mang ý nghĩa chỉ tuổi trẻ, cái tuổi tươi đẹp và tràn trề sức sống.

Trước hết, có thể nhận thấy THTM xuân/mùa xuân được Xuân Diệu sử
dụng với tư cách BTKH để chỉ những con người trẻ trung nhờ biện pháp nhân cách
hoá. Chúng ta nhận ra được ý nghĩa này chính là dựa vào các BTQH có ý nghĩa chỉ
tuổi tác.Trong mối quan hệ giữa THHT và các TH BTQH này, mùa xuân luôn xuất
hiện với tư cách là biểu tượng của tuổi trẻ. Chúng tôi đã khảo sát và thu thập được
các BTQH cùng có ý nghĩa chỉ tuổi trẻ: tuổi xanh, một lứa trẻ, thiếu niên, trăng
tròn, thanh tân, má đào, vẻ tơ rằm...

Theo trường liên tưởng như vậy, khi ca ngợi những người lính trẻ ở khắp
mọi miền của Tổ Quốc xung phong tình nguyện vào miền Nam tham gia quân giải
phóng, Xuân Diệu đã ví họ như “những cánh chim xuân”:

Những cánh chim xuân vỗ khắp nơi

Mùa xuân một lứa trẻ băng khôi.

(Anh lính trẻ mới vào quân giải phóng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mừng đất nước xây dựng và phát triển được tròn 20 năm, Xuân Diệu rất vui
và tự hào cảm thấy đất nước ta như một thanh niên cường tráng tràn đầy sức xuân -
– sức của tuổi trẻ:

Hai mươi tuổi trẻ trên đà

Việt Nam dân chủ cộng hòa sức xuân

(Cây số 20-T8)

Trong cuộc đời của mỗi người, đẹp nhất là tuổi thanh xuân. Do vậy, Xuân
Diệu thích nhất và nói nhiều nhất đến tuổi 19, cái tuổi vừa bước vào thời kì xuân
sắc của tuổi trẻ:

19 tuổi mặt trời đang óng ả

Ánh sáng ca lanh lảnh tiếng đời ngân

Bông hạnh cười 19 tuổi thanh tân

Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc

Hình ảnh “Mặt trời óng ả”, “19 tuổi thanh tân”, “thân hình măng mọc”
mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ những phẩm chất đẹp nhất, viên mãn nhất của tuổi trẻ hiện
ra trên từng đường nét khỏe khoắn thanh tú của cơ thể. Chính vì thế, trong một bài
thơ của mình, Xuân Diệu đã sử dụng TH mùa xuân với tư cách là BTKH với ý
nghĩa theo lối thực vật hóa để biểu thị sự phát triển của sức trẻ đã đến độ viên mãn,
tràn đầy:

Mùa xuân chín ửng trên đôi má

Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười

(Nụ cười xuân)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cho nên cũng có thể nói rằng với Xuân Diệu mùa xuân chính là tuổi trẻ.
Thậm chí có lúc thi sĩ còn cực đoan khi cho rằng chỉ có tuổi trẻ mới có ngày xuân:

Cảm ơn tuổi trẻ bay về lại

Cho tôi lại thấy mặt ngày xuân

(Hiểu)

Cuộc đời mỗi con người đã ngắn ngủi, tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi hơn. Xuân
Diệu là người hiểu thấu hơn ai hết cái vô giá cũng như giới hạn của tuổi trẻ. Những
khát vọng đẹp đẽ nhất của cuộc đời người chỉ có thể đạt được khi còn trẻ mà thôi.
Ông cho rằng: cuộc đời chỉ đáng quí, đáng yêu khi người ta còn trẻ. Một khi tuổi
trẻ đã qua, cuộc sống coi như chấm dứt. Ông mường tượng ra tuổi già:

Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc

Mắt sáng phai rồi má hóp không

Do đó ông luôn cảm thấy tiếc nuối cái sự sống căng tràn của tuổi xuân thì:

Ôi thanh niên người mang hết xuân thì

Hình ngực nở, nụ cười tươi màu tóc láng

Thanh niên hỡi lòng người thơm quá mất.

(Thanh niên)

Trong nhiều câu thơ khác của Xuân Diệu, BTKH của THTM “xuân”/”mùa
xuân” lại có ý nghĩa chỉ “năm”, để tính thời gian đã qua đi hay tuổi của con người.
Cách sử dụng TH xuân/mùa xuân ở ý nghĩa này có giá trị thẩm mĩ khác với khi
người ta dùng từ “tuổi” là ở chỗ thể hiện thái độ lạc quan yêu đời, thấy mình luôn
trẻ mãi không già! Chẳng hạn: xuân 18, 79 mùa xuân…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khi ca ngợi tinh thần dũng cảm của liệt sĩ trẻ tuổi Nguyễn Thị Non, dù bị tra
tấn đánh đập dã man, nhưng vẫn kiên cường bất khuất, không chịu khuất phục
trước kẻ thù, Xuân Diệu đã vô cùng xúc động:

Xuân 18, tuổi trẻ nguyện hi sinh

Cho trẻ muôn đời dòng nước biếc

Tuổi xuân em mới qúa trăng tròn

Tay chân gãy hết thù tra tấn

Chẳng chịu lời khai mắng địch đồn.

(Nguyễn Thị Non,liệt sĩ-T9)

Hay:

Hây hây 19 xuân hồng

Ước ao hạnh phúc mơ mòng lứa đôi

(Đánh lên đầu giặc Mĩ-T7)

Với Bác Hồ cũng như vậy. Người bao giờ cũng luôn lạc quan yêu đời, thậm
chí ngay cả lúc sắp đi vào cõi vĩnh hằng. Khi ca ngợi Bác Hồ trong ngày Người
“vào cuộc trường sinh”, Xuân Diệu đã tránh nỗi đau khi Bác mất, không nói đến
tuổi thọ của Người một cách trực tiếp mà dùng từ “mùa xuân” :

Tất cả Bác Hồ từ khi tuổi trẻ đến 79 mùa xuân

Bác rất thanh tao, Bác rất nhẹ nhàng

Bao giờ cũng ung dung và quắc thước

(Xem triển lãm “Nhân dân thế giới thương tiếc Bác Hồ”- T10).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Với Xuân Diệu, mùa xuân luôn mang ý nghĩa biểu trưng cho cái đẹp, biểu
trưng cho sức mạnh tuổi trẻ. Mùa xuân của đất trời, mùa xuân của con người . Mùa
xuân luôn được ví với tuổi trẻ . Sinh thời Bác Hồ cũng đã từng dùng cặp song hành
này: “ Một năm khởi đầu từ mùa xuân, đời người khởi đầu từ tuổi trẻ . Tuổi trẻ là
mùa xuân của xã hội”Trong nhiều bài thơ, Xuân Diệu đã thể hiện điều đó:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời quá chật

Không cho dài thời trẻ cuả nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

(Vội vàng).

Đặc biệt hơn, và đây là sáng tạo độc đáo về từ ngữ của Xuân Diệu, khi nhà
thơ sử dụng BTKH mùa xuân để chỉ mùa thu thành công của Cách mạng tháng
Tám. Bởi vì Cách mạng tháng Tám đã mang lại những sự thay đổi mới mẻ cho tất
cả mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân Việt Nam, cũng giống như mùa xuân mang
lại sức sống mới cho mọi cảnh vật sau sự tàn phá của mùa đông ảm đạm và khắc
nghiệt. Do đó, mùa thu cách mạng thành công đó cũng chính là mùa xuân của dân
tộc, là thời điểm bắt đầu của một cuộc sống mới ấm no, tự do và hạnh phúc:

Mùa thu tháng tám năm bốn mươi Nhăm

Khởi nghĩa đi lên dân chúng rầm rầm

Màu đường phố gầm gầm, nghe nong nóng

Và từ ấy - trên thời gian to rộng

Thu Việt Nam có nghĩa một mùa xuân

(Nhớ mùa tháng tám-T4)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xuân Diệu mãi mãi là mùa xuân trong thơ ca Việt Nam, trong lòng độc giả
và nhân dân Việt Nam. Đặc biệt dù năm tháng đã trôi qua, thời gian sẽ có thể làm
biến đổi nhiều thứ, nhưng có thể tin rằng dù thế nào thì thơ Xuân Diệu vẫn sống
mãi với thời gian:

Cây đời mãi mãi xanh tươi

Tình yêu mãi mãi cần lời thiết tha

Thơ anh mãi mãi là hoa

Cho đôi lứa hái làm quà tặng nhau

(Thơ anh mãi mãi là hoa- Vương Trọng)

2.4.3 Biến thể quan hệ của THTM “xuân”

Như đã trình bày, BTKH là những biến thể nảy sinh trong quá trình sử dụng
một THTM. Nó có ý nghĩa được cụ thể hóa thêm bởi một số yếu tố phụ trợ cùng
xuất hiện trực tiếp ở trước và sau THTM “mùa xuân” trong mỗi khổ thơ, đoạn thơ
để tìm ra những liên hệ, hàm nghĩa bổ sung của nó. Các TH phụ trợ cùng xuất hiện
với các BTKH này chính là các BTQH. Có khi chúng ta cần phải đặt các đơn vị
ngôn ngữ cùng xuất hiện ấy với TH mùa xuân trong những trường liên tưởng khác
nhau để có thể cảm thụ hết các sắc thái ý nghĩa của tín hiệu mùa xuân trên mọi
khía cạnh.

Xuất phát từ cơ sở lí luận như vậy, chúng tôi tiến hành tập hợp các tín hiệu
cùng xuất hiện trên trục tuyến tính với tín hiệu “mùa xuân” (tức các BTQH) và
phân loại chúng như sau: Các tín hiệu là những danh từ hoặc cụm danh từ, các tín
hiệu là những động từ hay cụm động từ, để cụ thể hóa, làm rõ nghĩa cho các THTM
chỉ “mùa xuân” (bao gồm THHT và THBTTV).

2.4.3.1 Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đó là những TH chỉ sự vật, hiện tượng liên quan đến mùa xuân như ngày
xuân, gió xuân, lúa xuân, mầm xuân, mùa xuân dân tộc, mùa xuân xã hội, sáng
xuân, buổi chiều mùa xuân, cỏ xuân, trời xuân...

Như vậy, các BTQH là danh tư/danh ngữ này có ý nghĩa đen và cùng thuộc
nhóm chỉ các sự vật, hiện tượng thường xuất hiện vào mùa xuân ở nước ta. Điều
đó cũng có nghĩa trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân thường được ông miêu tả cùng
với cỏ cây hoa lá trong không gian và thời gian khác nhau.

Ngoài ra, theo tư liệu thống kê, chúng tôi thấy trong thơ Xuân Diệu còn xuất
hiện nhóm BTQH gồm các TH mang nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng, đó là những
TH đã có sự chuyển nghĩa.

Xuân Diệu gửi gắm vào mùa xuân biết bao tình cảm, nỗi niềm. Hơi thở mùa
xuân trong thơ ông vừa đẹp đẽ nồng nàn, vừa đắm say tha thiết. Ông luôn đón chào
mùa xuân bằng tất cả tấm lòng rạo rực, si mê.

Như chúng ta biết, Tố Hữu là nhà thơ - chiến sĩ cách mạng, mùa xuân trong
thơ ông thường gắn liền với khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tấn công và là lời kêu
gọi, cổ vũ hào hùng toàn quân và dân ta trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam -
Bắc:

“Anh chị em ơi!

Hãy giương súng lên cao chào xuân 68

Xuân Việt Nam-Xuân của lòng dũng cảm”

(Bài ca Xuân 68)

Xuân Diệu vốn là thi sĩ lãng mạn, nên mùa xuân được hiện nên trong thơ ông
chủ yếu là tính chất nên thơ, nên mộng của sắc xuân với các cung bậc của ánh sáng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 http://www.lrc-tnu.edu.vn
của trăm hoa đua nở. Đó chính là thiên đường của nhân gian mà con người không
phải mất công đi tìm kiếm ở nơi cực lạc nào.

Người đọc đã từng say mê thơ Xuân Diệu bởi hương sắc tuyệt vời của không
gian mùa xuân với bản hợp xướng của đàn ong tìm mật, sự dịu dàng của gió xuân
và sự giao thoa giữa ong và hoa, của hoa mận nở..., tất cả như ùa vào thơ ông, đã
làm nên rung động trái tim của những người yêu thơ thi sĩ này:

“Sáng xuân mở cửa ong vào

Hút hoa mận nở như hoa chíu cành.

Gió xuân động khẽ trên cành

Ngỡ ong say chạm vào bên hoa cười”

(Cành hoa mận-Chùm thơ cây)

Từ xưa đến nay, ở Việt Nam, mùa xuân luôn được coi là mùa đẹp nhất trong
năm, là mùa của sự hồi sinh, cây cối đâm chồi nảy lộc, nhất là ở một nước có nền
văn hoá nông nghiệp lúa nước như Việt Nam. Bởi vậy, qua các BTQH của THTM
“xuân”/“mùa xuân” trong thơ ông, chúng ta có thể nhận thấy Xuân Diệu đã say
sưa viết rất nhiều về cỏ cây hoa lá mùa xuân. Đó là mầm, là cỏ mùa xuân, là hoa
xuân và đặc biệt là lúa xuân. Trong thơ Xuân Diệu tất cả đều đã trở thành những
THTM báo xuân về. Chúng ta có thể tìm hiểu và phân tích một số TH BTQH ấy.
Đó có thể là lá bàng :

Lá bàng non ngon lành như ăn được

Trời tạnh mà lá mới ướt như mưa

Nhựa bàng đỏ thắm đầu lá biếc

Gió rào rào tốc áo lá còn thưa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Xuân- T4 )

Các hình ảnh “lá bàng non” và “lá biếc” là những THTM thật điển hình và
tiêu biểu cho mùa xuân miền Bắc. Bởi vì, mùa đông lá bàng vốn có màu đỏ, và
nhiều khi cây bàng rụng hết lá, chỉ con trơ lại thân cây với những cành khô khẳng
khiu. Mùa xuân đến, nhờ những giọt mưa xuân, cây bàng được hồi sinh. Từ sau lớp
vỏ thân cây sù sì giờ như bật tung ra những chồi non nhọn hoắt. Bởi vậy “những
chồi nhọn” và “lá xanh rờn” đã trở thành những TH báo xuân sang:

Những chồi nhọn vui tươi châm khoảng thắm

Cánh lao xao chuyển ánh lá xanh rờn

(Xuân-T4 )

Các TH BTQH ấy có thể là những hàng ổi trên bờ đê bên Hồ Tây bật chồi
biếc cứ mỗi độ xuân về:

Hây hây những bóng xanh cây ổi

Cong một bờ đê đã bật chồi

(Xuân bên Hồ Tây- T10 )

Hay đó chỉ là những chiếc lá đầu tiên vừa nhú, trong thơ Xuân Diệu cũng là
TH của mùa xuân:

Cây trồng-ta chẳng trồng nêu tết

Những lá đầu tiên vừa nhú biếc

(Những thơ tình mùa xuân- T6)

Các BTQH ấy còn có thể là danh từ biểu thị những chùm hoa xoan với màu
tím trắng li ti cạnh bờ sông:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đường đi theo dọc Hồng Hà

Mưa sau cơn hạn mượt mà cỏ xuân

Lại còn tím trắng hoa xoan

Đến lùm gai cũng chen vàng sắc hoa

(Mùa Xuân-T7)

Hay biểu thị bầu trời xanh, hàng cây xanh, khu vườn non mướt lá xanh,
đường đi ngập cỏ non xanh...Tất cả những sự vật ấy khi vào thơ Xuân Diệu cũng
đều đã trở thành những THTM có ý nghĩa tượng trưng báo hiệu mùa xuân đã đến:

Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!

Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu.

Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy

Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều.

(Xuân đầu- T1)

Trong đoạn thơ trên, nhà thơ không hề thông báo trực tiếp mùa xuân đã về,
thế nhưng người đọc vẫn nhận được thông điệp “mùa xuân đến” chính là nhờ qua
khung cảnh thiên nhiên và qua điển tích văn học: Mối tình Phạm Thái - Quỳnh Như
và mối tình Kiều-Kim đều được bắt đầu trong buổi gặp gỡ vào mùa xuân.

ở miền Bắc trước đây, người nông dân luôn cấy lúa xong trước khi ăn tết.
Bởi vậy, BTQH biểu thị hình ảnh “ruộng xanh” trong thơ Xuân Diệu cũng là một
TH TM rất đặc trưng cho mùa xuân nơi đây:

Ánh xuân mỗi sớm hồng tươi mướt

Những ống khôi cao bèn nhận trước


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ruộng xanh đã cấy đến chân trời

Long lanh mạ soi mình xuống nước.

(Thơ tình mùa xuân-T6)

Chúng tôi đã thống kê và thấy rằng từ “lúa” được nhà thơ nhắc tới 14 lần
nhằm ca ngợi vai trò của cây lúa đối với sự đổi thay và phát triển của đất nước:

-Vũ Thắng trăm phần cấy lúa xuân

-Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại

Hạnh phúc ta trồng vụt nở hoa

-Trăm phần trăm ấy lúa xuân reo

(Tặng hợp tác xã Vũ Thắng-T10)

Lúa xuân khi mới về

Đã ai quen mà biết.

-Ô!cái lúa xuân này

Đẻ trên tay dưới nách.

-Lúa xuân là chị lúa xanh

Đến khi lúa chín là anh lúa vàng.

(Lúa xuân xã Nam Bình-T10)

Các BTQH của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là danh từ còn có thể
là tên gọi của các loài chim di cư tránh rét, nay trở về khi xuân sang. Hình ảnh đàn
chim trong thơ Xuân Diệu cũng là THTM báo hiệu xuân về:

Cớ sao chim tụ về đây


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lao xao ríu rít bạn bầy đùa kêu.

(Mùa Xuân-T7)

Hay từng đàn bướm chấp chới đi tìm phấn hương cũng là lúc đất nước vào
xuân. Thậm chí, với Xuân Diệu, chính đàn bướm kia đã tạo nên mùa xuân:

Bươm bướm trắng nở mùa xuân đất nước

Bướm hoan hỉ trên cành không hẹn trước

(Hội nghị non sông)

Qua cái rét cắt da, cắt thịt của Mùa Đông, Mùa Xuân đến mang lại bầu trời
trong xanh quang đãng, tiết trời ấm áp, đặc biệt với những cơn gió xuân “nhẹ như
hơi thở”, thật nồng nàn, dễ chịu. Vì vậy, trong các thi phẩm của mình, nhà thơ
Xuân Diệu đã nói rất nhiều đến gió và BTQH “gió” đã xuất hiện tới hơn 200 lần.
Trong số đó“Gió xuân” là tín hiệu được nhắc đến trong thơ Xuân Diệu tới 25 lần:

Nhẹ nhàng gió thổi tháng ba

Trong hơi thanh mát có hòa nồng say

Xuân còn hè đã thoảng bay

Một niềm xa vợi ngất ngây khí trời.

(Chớm sang vị hè-T10)

Hay:

Bên cạnh Hồ Tây gió thổi xuân

Gió đưa xuân sắc cảnh thanh tân.

(Xuân bên Hồ Tây-T10)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Gió xuân động khẽ cành trên

Ngỡ ong say chạm vào bên hoa cười.

(Cành hoa mận-Chùm thơ cây)

Gió xuân về mang lại không khí trong lành, cây cối như xanh tươi hơn, sinh
động hơn:

Hôm nay nắng đẹp trời ưa

Sang xuân hoa cải gió đưa rập rờn

(Một mảnh đất-T10)

Những làn gió xuân thổi về làm lá lúa dập dờn như reo múa khiến nhà thơ
thấy như những ngón tay uốn lượn mềm mại của con người:

Gió xuân-lá lúa như reo múa

Như ngón tay dài của đất thanh

(Lá lúa xuân-T10)

Là người luôn muốn gắn bó với cuộc sống, với mùa xuân, với tuổi trẻ và tình
yêu, nhưng trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu vẫn thấy mình cô độc giữa
cuộc đời lạnh giá, không hòa hợp được với xã hội, nên tình yêu, tuổi trẻ cũng như
mùa xuân với nhà thơ thật mong manh. Nhưng từ khi được ánh sáng của cách
mạng, lí tưởng của Đảng soi rọi vào tâm hồn, ông đã thấy mình như đang sống giữa
lòng nhân dân, trong mùa xuân huy hoàng của dân tộc và của nhân loại. Trái tim
của nhà thơ đã gắn bó máu thịt với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng và hòa
chung với nhịp đập của trái tim đất nước.

Chính vì thế, khi miền Bắc bắt tay vào sản xuất và dựng xây cuộc sống mới
ấm no, hạnh phúc, miền Nam “đi trước về sau” vẫn còn phải trên tuyến đầu chống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mĩ. Lòng nhân dân miền Bắc triệu người như một vẫn luôn “hướng về Nam”, quyết
tâm ủng hộ và chi viện cùng đồng bào miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước.
Xuân Diệu đã cảm nhận được và như thấy cơn gió xuân miền Bắc đã thổi mang tới
đồng bào miền Nam tất cả những tình cảm ruột thịt, thiêng liêng ấy của đồng bào
miền Bắc với một ý chí thống nhất nước nhà:

Khúc hát đồng ca muôn triệu chí

Gió xuân thổi tới tận Miền Nam.

(Lá lúa xuân T10)

Kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy các BTQH của THTM mùa xuân
trong thơ Xuân Diệu là danh từ/danh ngữ còn có thể là các TH chỉ không gian và
thời gian.

Đối với nhóm thời gian có thể chia thành hai phạm trù khác nhau:

Thứ nhất: quan niệm về thời gian như một bộ phận quan trọng cấu thành hệ
thống quan điểm về vũ trụ, nhân sinh của nhà thơ, như Hoàng Trung Thông cho
rằng: “Tuổi trẻ, tình yêu, thời gian” là một đề tài có sức hấp dẫn lớn trong thơ Xuân
Diệu.

Thứ hai: phạm trù thời gian được sử dụng như một yếu tố hình thức để kiến
tạo nên từng tác phẩm cụ thể.

Trong phạm trú thứ nhất, Xuân Diệu luôn luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt
ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và thời gian ngắn ngủi của một kiếp người. Bởi
vậy, mỗi ngày tháng qua đi, ông nuối tiếc nên cảm thấy thời gian trôi đi nhanh quá:

Thong thả chiều vàng thong thả lại

Rồi đi...Đêm xám tới dần dần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cứ thế mà bay cho đến hết

Những ngày, những tháng, những mùa xuân.

(Giờ tàn)

Vì thế, ông luôn sợ mùa xuân đi mất và cuộc đời mình cũng sẽ chẳng còn gì:

Xuân đang tới, cũng là xuân đang qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân đã già

Và xuân hết cũng là tôi cũng mất.

(Vội vàng)

Trong phạm trù thứ hai: với bản chất của một hình tượng nghệ thuật, thời
gian trong tác phẩm nghệ thuật được chia thành 2 nhóm: thời gian cụ thể và thời
gian trừu tượng.

Xuân Diệu đã khai thác hình tượng thời gian trừu tượng trong tác phẩm nghệ
thuật hết sức độc đáo. Ông sáng tạo nên một hình tượng thời gian mang ý nghĩa
khái quát cao bằng cách biến những khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi thành thời
gian vô tận, vĩnh hằng: “ Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi”

Thời gian trong thơ Xuân Diệu là một thế giới thiên nhiên riêng với những
bước chuyển mùa xao xuyến:

Một ít nắng vài ba sương mỏng thắm

Mấy cành xanh năm bảy sắc yêu yêu

Thế là xuân tôi không hỏi chi nhiều

Xuân đã đến trong lòng tôi lai láng.

(Xuân không mùa)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dù trừu tượng, nhưng Xuân Diệu vẫn cảm nhận được rất cụ thể bằng cảm
giác sự vận động của thời gian - cảm giác ấm hơi hơi . Sự vận động của thời gian
trong tự nhiên đã được nhà thơ cảm nhận như có thể cầm nắm được, giống như ta
cầm nắm một vật hữu hình:

Thế là xuân ngày chỉ ấm hơi hơi

Như được nắm một bàn tay son sẻ.

(Xuân không mùa)

Trên đây chúng tôi đã trình bày TH thời gian qua hình tượng thời gian trừu
tượng. Thời gian cụ thể được thể hiện bằng các TH BTQH của THTM mùa xuân
trong thơ Xuân Diệu là các con số đánh dấu những mốc thời của mùa xuân gắn với
sự kiện cụ thể của đời sống đất nước hoặc của một địa phương, một cá nhân: cuối
xuân 67, Đông xuân năm 70, Tháng giêng 1924, Tết Đinh Mùi 1967.Thí dụ:

Đất Thái Bình cuối xuân 67

Xã Đông Hà huyện cũ Thanh Quang

Ao căng nước như mình lúa mẩy

Muốn nuôi đời phải biết lo toan

(Một ao cá ở Thái Bình-T9)

Vào thời điểm này, miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng CNXH. Thái Bình
không chỉ dẫn đầu cả nước về năng suất lúa mà còn có phong trào phát triển mạnh
mẽ cả về chăn nuôi thủy sản.

Hay trong vụ cấy lúa Đông Xuân năm 1970, mặc dù có rất nhiều ý kiến
phản đối, nhưng nhờ sự quyết tâm của Đảng, nhân dân ta đã thu được một vụ lúa
xuân thắng lợi:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sang vụ Đông Xuân năm 70

Định rồi Đảng ủy chẳng chùn lui

Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại

Hạnh phúc ta trồng vụt nở tươi

(Tặng hợp tác xã Vũ Thắng-T10)

Hay tháng Tám gắn với phong trào cách mạng của Quy Nhơn. Nhân dân
Quy Nhơn đã nổi dậy kháng chiến chống Pháp thắng lợi, giành được tự do, nhà thơ
đã vô cùng vui sướng và ngợi ca:

Tháng Tám Quy Nhơn dậy thắm cờ

Mùa xuân dân tộc nảy chồi tơ

Chín năm kháng chiến quê ta vững

Cán bộ đi về đất tự do

(Tâm sự với Quy Nhơn)

Các TH thời gian cụ thể có thể chỉ một thời điểm cụ thể của mùa xuân gắn
với một sự kiện cụ thể: cuối xuân, ngày xuân, sáng xuân, một sớm mai xuân, buổi
chiều mùa xuân, hôm xuân ấy...Chẳng han:

Ngày xuân thăm Hà Bắc

Yêu ở mãi lòng người

Nhớ nhung còn ở đất

(Bác Hồ về thăm một làng ở Hà Bắc-T9)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Và một sớm mai xuân về thăm làng một cô gái ở một vùng đồng bằng sông
Hồng, nhà thơ bỗng cảm thấy như đã rất quen thuộc:

Một sớm mai xuân em ở bên

Bờ sông Hồng thắm gió bay lên

Làng em bãi cát giăng thoai thoải

Anh đến lần đầu như đã quen

(Một sớm mai xuân-T10)

Cũng có những TH có ý nghĩa chỉ thời điểm xác thực nào đó của mùa xuân,
nhưng lại mang tính chất phiếm chỉ, tượng trưng: sang xuân, hôm xuân ấy, lúc
xuân thì...

Áng hương tuổi trẻ hôm xuân ấy

Phảng phất còn như đượm xóm làng

Như đã đưa vào trong vĩnh viễn

Mối tình vương vấn lúc xuân sang

(Một sớm mai xuân-T10).

Như vậy, Xuân Diệu đã sử dụng linh hoạt các TH ngôn ngữ chỉ thời gian để
nói về mùa xuân. Các BTQH ấy không chỉ có ý nghĩa đa dạng, phong phú, mà mỗi
phương tiện ngôn ngữ - biến thể quan hệ như hàm ẩn biết bao tình cảm của nhà thơ
với cuộc sống, đất nước và mùa xuân.

Bên cạnh các BTQH nói về thời gian, còn cần phải nói tới các TH BTQH nói
về không gian của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu. Qua các BTQH này, có
thể nhận thấy không gian trong thơ Xuân Diệu là không gian của trần thế, tự nhiên,
gần gũi với đời sống con người, chẳng hạn như một khu vườn, một con đường, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 http://www.lrc-tnu.edu.vn
căn phòng, một dòng sông...Hoặc cũng có khi là một không gian do thi nhân tưởng
tượng. Không gian mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường thấm đẫm màu sắc thắm
tươi, hương hoa rực ngát như ở chốn thiên đường:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây là của cành tơ phơ phất

Của yến oanh, này đây khúc tình si

Và này đây, ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa

(Vội vàng)

Không gian mùa xuân trong thơ Xuân Diệu có khi là một con đường thơ,
nhưng khi in dấu bước chân của tình yêu nó cũng trở thành thế giới của ánh sáng,
của tiếng chim ca chan chứa xuân tình. Lúc này, hình ảnh con đường là không gian
trong trẻo, nơi ái tình đang chớm nở trong buổi “xuân đầu đầy hồi hộp và e ấp”:

Trời xanh thế, hàng cây thơ biết mấy

Vườn non sao đường cỏ mộng bao nhiêu

Như Phạm Thái gặp Quỳnh Như thưở ấy

Như chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều

(Xuân đầu)

2.4.3.2 Các Tín hiệu biến thể quan hệ là động từ hoặc cụm động từ

Trong thơ Xuân Diệu, những động từ này thường làm vị ngữ cho các tín hiệu
thẩm mĩ - danh từ chỉ mùa xuân, và chúng cũng thường đóng vai trò chỉ các hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 http://www.lrc-tnu.edu.vn
động liên quan đến mùa xuân, có ý nghĩa tả thực, chỉ hoạt động khi mùa xuân đến,
cũng có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ sức sống tràn đầy của mùa xuân.

Tình yêu của Xuân Diệu đối với mùa xuân luôn cuồng nhiệt say mê, như
đắm say một người con gái, khiến nhà thơ muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn
“thâu trong một cái hôn nhiều”, nhưng “yêu như thế hãy vẫn còn chưa đủ”. Mạnh
mẽ và mãnh liệt hơn, nhà thơ muốn cắn. Động từ cắn thể hiện cung bậc cảm xúc
mạnh mẽ tới cực đỉnh của thi nhân đối với mùa xuân:

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi

(Vội vàng)

Các BTQH là động từ của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu còn cho
thấy nỗi khao khát mong tìm lại mùa xuân của nhà thơ khi xuân đã đi qua. Trong
gió mây nhà thơ “lục lọi” để tìm kiếm mùa xuân. Đây là một tứ thơ, một hình ảnh
thật là sáng tạo:

Gió mây lục lọi anh tìm

Có con chim biết nào đem xuân về

(Tìm-T10)

BTQH là động từ trong thơ Xuân Diệu cho thấy không chỉ nhà thơ đi tìm
mùa xuân khi xuân đã đi qua, mà còn cho thấy nhân dân ta quyết làm cho mùa
xuân – cho cuộc đời sống lại. Đó là trường hợp nói về sự hồi sinh sau chiến tranh.

Chiến tranh có sức tàn phá mạnh mẽ, nên khi chiến tranh kết thúc nhân dân
ta phải bắt tay vào xây dựng lại để cuộc sống hồi sinh. Nhà thơ đi thăm huyện ý
Yên và thấy cảnh vật nơi đây cũng như nhiều nơi khác trên đất nước như đang
được sống lại:

Tôi rời nhà huyện ủy


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thăm cảnh vật hồi xuân

(Bản đồ huyện ý Yên)

Khi đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào xây dựng và làm giàu quê
hương, nhà thơ đã nói cuộc sống mới chính là mùa xuân của đất nước mà chúng ta
phải xây dựng:

Sang xuân đất nước sang đà

Xây dựng mùa xuân xã hội.

(Mùa xuân trong rừng Cúc Phương)

2.5 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Trong thơ Xuân Diệu, để chỉ mùa xuân ngoài THHT xuân có tần số xuất
hiện cao nhất còn có một số THTM khác có tư cách là các BTTV của THTM này.

THHT Xuân vốn có ý nghĩa chỉ mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết
ấm dần lên, thường được coi là mùa đứng đầu trong năm. Mùa này có thời tiết tốt
và có điều kiện lý tưởng cho sự sinh sôi nảy nở của vạn vật. Với ý nghĩa này, xuân
còn được gọi cụ thể hoá hơn bằng BTTV mùa xuân. Các ý nghĩa thẩm mĩ của
THTM xuân/mùa xuân trong thơ Xuân Diệu đã được phát triển trên cơ sở các nét
nghĩa cơ bản này của ý nghĩa gốc.

THHT xuân được Xuân Diệu sử dụng với những sắc thái ý nghĩa và cung
bậc tình cảm khác nhau trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Do đó mỗi lần
mùa xuân xuất hiện trong thơ Xuân Diệu là một lần tươi mới.

Mùa xuân trong thơ ông có thể là “chất xúc tác” để cây cối đâm chồi nảy
lộc.Do đó mùa xuân đã được nhà thơ liên hội với sự đổi thay đầy sức sống mới của
đất nước. Với Xuân Diệu, công cuộc xây dựng đất nước chính là làm nên mùa
xuân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xuân Diệu còn đồng nhất mùa xuân với chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành
hình ảnh so sánh với Bác Hồ để khẳng định Bác đã trở thành bất tử cũng như mùa
xuân không bao giờ mất, bởi vì Bác đã sống mãi trong lòng tuổi trẻ của nhân loại.

Đặc biệt, mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường hay được liên hội với tình
yêu, với sự rung cảm của trái tim yêu đương. Đây chính là nét rất riêng trong các
bài thơ tình của Xuân Diệu.

Mùa xuân là mùa đầu tiên và cũng là mùa đẹp nhất của một năm, nên được
Xuân Diệu liên tưởng với những rung động mới mẻ của tình yêu đầu đời.

Nói đến mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là nói đến tình yêu đôi lứa. Mùa
xuân và tình yêu trong thơ ông lúc nào cũng xoắn xuýt như một cặp tình nhân.
Xuân Diệu say đắm mùa xuân như say đắm với tình yêu. Ông luôn khao khát, luôn
đòi hỏi hết cả tâm hồn người yêu dấu, cũng như ông, đã yêu là phải yêu cuồng
nhiệt, yêu mãnh liệt, và phải yêu bằng tất cả, bằng đủ mọi giác quan và hành động -
từ lời nói đến ánh mắt và nụ cười...

Mùa xuân về làm cho cây lá đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua sắc. Chính vì
thế Xuân Diệu “đặt” Mùa xuân trong mối tương quan với hoa lá để nói nên khát
vọng của mình vun đắp cho tình yêu, mang lại hạnh phúc cho người yêu, như “ mối
tình cây và đất”.

Mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường được nói tới trong những ngữ cảnh
khác nhau với những tình cảm, cảm xúc khác nhau. Bởi vậy, để góp phần vào sự
thể hiện những sắc thái, cung bậc tình cảm khác nhau này, Xuân Diệu thường sử
dụng những tín hiệu thẩm mĩ khác nhau. Đây chính là các BTTV hay là các tên gọi
đồng nghĩa của “mùa xuân”. Mỗi tên gọi đồng nghĩa ấy, nói như V.Hum-bôn,
biểu hiện “quan điểm riêng” của Xuân Diệu về mùa xuân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các BTTV khác trong thơ Xuân Diệu đều nằm trong quan hệ chỉnh thể - bộ
phận với THHT “ xuân” và “mùa xuân”.

Đặc biệt, mùa xuân với tư cách là biến thể kết hợp trong thơ Xuân Diệu còn
mang ý nghĩa chỉ tuổi trẻ, cái tuổi tươi đẹp và tràn trề sức sống. Cho nên với Xuân
Diệu, mùa xuân chính là tuổi trẻ. Những khát vọng đẹp đẽ nhất của cuộc đời người
chỉ có thể đạt được khi người ta còn trẻ. Một khi tuổi trẻ đã qua, cuộc sống coi
như chấm dứt.

Trong nhiều câu thơ khác của Xuân Diệu, THTM “xuân”/”mùa xuân” với
tư cách BTKH lại có ý nghĩa để tính thời gian đã qua đi hay tuổi của con người.
Cách sử dụng THTM xuân/mùa xuân ở ý nghĩa này có giá trị thẩm mĩ khác với
khi người ta dùng từ “tuổi” là ở chỗ hàm ẩn một thái độ lạc quan yêu đời, thấy
mình luôn trẻ mãi không già!

Đặc biệt hơn, xuân Diệu còn sử dụng BTKH mùa xuân để chỉ mùa thu thành
công của Cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám đã mang lại những sự thay
đổi mới mẻ cho tất cả mọi lĩnh vực đời sống của nhân dân Việt Nam, cũng giống
như mùa xuân mang lại sức sống mới cho mọi cảnh vật sau sự tàn phá của mùa
đông ảm đạm và khắc nghiệt. Do đó, mùa thu cách mạng thành công đó cũng chính
là mùa xuân của dân tộc, là thời điểm bắt đầu của một cuộc sống mới ấm no, tự do
và hạnh phúc

Về các BTQH của THTM HT “mùa xuân” có thể được phân thành hai
nhóm: Các tín hiệu là những danh từ hoặc cụm danh từ và các tín hiệu là những
động từ hay cụm động từ, để cụ thể hóa, làm rõ nghĩa cho các THTM chỉ “mùa
xuân” (bao gồm THHT và THBTTV).

Các tín hiệu là danh từ, cụm danh từ là những TH chỉ sự vật, hiện tượng liên
quan đến mùa xuân, thường xuất hiện vào mùa xuân ở nước ta. Điều đó cũng có
nghĩa là trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân thường được ông miêu tả cùng với cỏ cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoa lá trong không gian và thời gian khác nhau. Tất cả đều đã trở thành những
THTM báo xuân về.

Các BTQH của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu là danh từ/danh ngữ
còn có thể là các TH chỉ không gian và thời gian.

Qua các BTQH chỉ thời gian, có thể thấy từ góc độ vũ trụ quan và nhân sinh
quan của mình, Xuân Diệu luôn luôn nhìn thấy sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian
vô tận của vũ trụ và thời gian ngắn ngủi của một kiếp người. Bởi vậy, mỗi ngày
tháng qua đi, ông nuối tiếc nên cảm thấy thời gian trôi đi như vội vã.

Với bản chất của một hình tượng nghệ thuật, thời gian trong thơ Xuân Diệu
có thể là thời gian trừu tượng hay thời gian cụ thể. Dù trừu tượng, nhưng Xuân
Diệu vẫn cảm nhận được rất cụ thể bằng cảm giác sự vận động của thời gian.

Thời gian cụ thể được thể hiện bằng các BTQH của THTM mùa xuân trong
thơ Xuân Diệu là các con số đánh dấu những mốc thời của mùa xuân gắn với sự
kiện cụ thể của đời sống đất nước hoặc của một địa phương, một cá nhân.

Xuân Diệu đã sử dụng linh hoạt các TH ngôn ngữ chỉ thời gian để nói về
mùa xuân. Các BTQH ấy như hàm chứa biết bao tình cảm của nhà thơ với cuộc
sống, với đất nước và mùa xuân.

Các BTQH nói về không gian của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu
cho thấy không gian trong thơ ông là không gian của trần thế, tự nhiên, gần gũi với
đời sống con người. Hoặc cũng có khi là một không gian do thi nhân tưởng tượng.
Không gian mùa xuân trong thơ Xuân Diệu thường thấm đẫm màu sắc thắm tươi,
hương hoa rực ngát như ở chốn thiên đường. Bởi nhà thơ vô cùng yêu thiên nhiên
và cuộc sống.

Các BTQH là động từ/cụm động từ trong thơ Xuân Diệu thường làm vị ngữ
cho các tín hiệu thẩm mĩ - danh từ chỉ mùa xuân, và chúng cũng thường có ý nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỉ các hoạt động, trạng thái liên quan đến mùa xuân, diễn ra khi mùa xuân đến,
cũng có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ sức sống tràn đầy của mùa xuân.

Các BTQH là động từ của THTM mùa xuân trong thơ Xuân Diệu còn cho
thấy nỗi khao khát mong tìm lại mùa xuân của nhà thơ khi xuân đã đi qua. Không
chỉ nhà thơ đi tìm mùa xuân, mà con người còn có thể làm nên mùa xuân - đó là
khi nhân dân Việt Nam xây dựng cuộc sống mới ấm no hạnh phúc sau chiến tranh.

Chƣơng 3

TÍN HIỆU THẨM MĨ “TRÁI TIM” TRONG THƠ XUÂN DIỆU

3.1 Dẫn nhập

Xuân Diệu không phải người đầu tiên đưa “trái tim” vào thơ ca. “Trái tim”
được hiểu như một biểu tượng của tình cảm, của tình yêu con người, đã trở thành
hình tượng thẩm mĩ xuất hiện khá phổ biến trong văn học thế giới và Việt Nam,
thậm chí không chỉ trong văn học mà còn cả trong giao tiếp đời sống của nhiều dân
tộc. Rất nhiều nhà thơ nổi tiếng trên thế giới có cùng quan niệm: Trao tình yêu là
hiến trọn trái tim cho người mình yêu.

“Còn tim em trong ngực

Trao tôi làm của riêng”

(Các Mác)

Hay:

“Cho em hết trái tim

Tôi chẳng còn gì cả

Trở thành kẻ ăn xin

Đói tình tôi mệt lả


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngày mai dù gục ngã

Kẻ hành khất không tim

Chẳng cầu xin gì cả

Chỉ xin em trái tim”

(Lécmantốp)

Nhà thơ tình thế giới- Tagor đã từng khẳng định giá trị của trái tim là tình
yêu:

Trái tim anh là tình yêu

Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên

Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó trường cửu

Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.

Và Becgôn - nhà thơ tình yêu được thế giới ngưỡng mộ đã nói hộ nỗi khao
khát của bao người:

Em bao giờ cũng dâng tặng trái tim

Những khúc ca, niềm đau khổ

Ở Việt Nam, khi văn hóa Phương Tây du nhập vào, các nhà thơ đã đưa “trái
tim” trở thành biểu tượng của ý chí, tình cảm và đặc biệt là tình yêu con người.
Cho đến nửa cuối thế kỷ XX, tên gọi của trái tim đã trở nên hết sức quen thuộc,
thậm chí được dùng phổ biến và có thêm ý nghĩa biểu trưng, như một hình ảnh ước
lệ. Nhà thơ Tố Hữu đã dùng hình ảnh này khá nhiều, mặc dù có xu hướng biểu
trưng tư tưởng, tình cảm công dân nhiều hơn. “Trái tim” đối với nhà thơ là hiện
thân của tình cảm, lí tưởng cách mạng cao đẹp:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

( Từ ấy)

Và nhà thơ nói với người yêu:

Trái tim anh đó

Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để yêu em...

Trong văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, một số nhà thơ trẻ
trong kháng chiến chống Mĩ đã định danh trái tim theo qui ước bằng một tên gọi
khác, bằng mĩ từ theo phương thức ẩn dụ của tình yêu nhiều khi là để mang lại sắc
thái mới mẻ cho hình ảnh biểu trưng đã có phần cũ mòn này, làm tăng giá trị biểu
cảm cho cách diễn đạt qua thủ pháp cường điệu:

Em có biết không cái ngày ấy thế này

Có một màu hoa trong nắng chiều tha thiết

Có một người nghĩ về em cháy ruột

Một trái tim đập được vì em.

Nhà thơ Xuân Quỳnh cũng có xu hướng đi tìm một cách lý giải, một tên gọi
mới cho tình yêu với mong muốn đổi mới sự sáo mòn để trái tim trở về đúng nghĩa
thực của nó:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Biết làm sống những hồng cầu đã chết

Biết lấy lại những gì đã mất

Biết rút gần khoảng cách yêu tim

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chả có

Vẫn ngừng đập lúc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi!

(Tự hát)

Xuân Diệu là nhà thơ không nằm ngoài quy luật của hiện tượng văn học
chung ấy, ông cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của nền thơ ca thế giới. Xuân Diệu cũng
thường dùng phương tiện ngôn ngữ có ý nghĩa biểu trưng này- một tên gọi vừa
giản dị, vừa hoa mĩ của trái tim để chỉ tình yêu. Xuất phát từ việc cảm thụ và tìm
hiểu hệ thống tác phẩm của nhà thơ Xuân Diệu, chúng tôi nhận thấy rõ một điều
không thể phủ nhận. Đó là từ chỉ bộ phận cơ thể trái tim đã được coi như một tín
hiệu thẩm mĩ đắc dụng trong việc biểu hiện các cung bậc tình cảm, tình yêu ở mọi
sắc thái đa dạng của nó, do một quá trình khái quát nghệ thuật, dưới tác động điều
chỉnh của một loạt nhân tố giao tiếp trong và ngoài văn bản, đạt đến ý nghĩa biểu
trưng nghệ thuật nhất định, để bản thân ý nghĩa từ vựng thông thường của tín hiệu
thẩm mĩ “trái tim” chỉ là hình thức cho một nội dung ý nghĩa thẩm mĩ cao hơn,
bao hàm một thi pháp của Xuân Diệu. Trong thơ Xuân Diệu, mùa xuân và trái tim
đối lập với chiều thu và đêm lạnh. Mùa xuân và trái tim thể hiện tư tưởng nghệ
thuật và thi pháp của Xuân Diệu. Đó là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc
đời trần tục, trần thế này. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên đưa vào thơ ca tình yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 http://www.lrc-tnu.edu.vn
đích thực, là tình yêu giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm hồn “ Hỡi xuân hồng
ta muốn cắn vào ngươi”, “ Yêu là chết ở trong lòng một ít”... Khác với Huy Cận,
Nguyễn Bính, thi pháp coi con người với tuổi trẻ và tình yêu là chuẩn mực của cái
đẹp. Xuân Diệu cho mọi cảm nhận của thơ tình hay hoặc không hay là vấn đề của
trái tim. Ông là nhà thơ tình số một, “ông hoàng của thơ tình” Việt Nam, Người
đọc thơ Xuân Diệu vô thức biến mình thành người có thị hiếu thẩm mĩ. Điều này
thể hiện ở con số thống kê của chúng tôi: Từ Xuân xuất hiện trong 137 câu thơ, còn
từ ngữ chỉ Trái tim được sử dụng trong tới 111 câu thơ ( xem bảng thống kê 3.2).

“Trái tim” không những biểu thị ý nghĩa lớn hơn một TH ngôn ngữ, ý nghĩa
của một hình ảnh ẩn dụ-tượng trưng đa định hình, mà còn thực tại hóa một số nét
nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi này, khiến những nét nghĩa đó trở thành
một biểu trưng nghệ thuật mang sắc thái riêng cá nhân. Và ở đó chính là nơi nhà
thơ thể hiện sự “tự cảm thấy” của mình , thể hiện “lăng kính nhìn sự vật, hiện
tượng, cuộc sống , con người...của tác giả” - như cách nói của thi pháp học (Trần
Đình Sử). Điều đó khi trở thành yếu tố lặp lại trong hệ thống tác phẩm của tác giả
đã góp phần xác định giọng điệu riêng của nhà thơ Xuân Diệu.

3.2 Kết quả khảo sát

Khảo sát khoảng 400 bài thơ của Xuân Diêu chúng tôi thu được kết quả như
sau:

STT Tín hiệu thẩm mĩ Số lần xuất hiện Tỉ lệ xuất hiện

( lần) ( %)

1 Trái tim 80 57,55

2 Tim 31 22,30

3 Ngực 28 20,15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tổng 139 100

Qua bảng thống kê, chúng ta thấy các THTM có tần số xuất hiện không đồng
đều, trong đó THTM trái tim có tần số xuất hiện cao nhất: 80 lần (chiếm 57,55%) .
Từ tim xuất hiện 31 lần( chiếm 22,30%). Ngoài ra còn có THTM khác là biến thể
từ vựng, nằm trong quan hệ chỉnh thể – bộ phận với THTM HT trái tim là ngực
xuất hiện 28 lần (chiếm 20,15%).

Sau đây luận văn sẽ xem xét ý nghĩa thẩm mĩ cụ thể của từng THTM này
trong thơ Xuân Diệu.

3.3 Tín hiệu thẩm mĩ hằng thể “tim/trái tim”

Theo thống kê,THTM “tim/trái tim” trong thơ Xuân Diệu xuất hiện tới 139
lần. Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2006
( trang 993) đã nêu các nghĩa:

1.Tim(danh từ) một bộ phận trung tâm của hệ tuần hoàn có chức năng điều
khiển việc vận chuyển máu trong cơ thể

VD:Qủa tim hơi to. Tim đập bình thường.

2.Tim của con người coi là biểu tượng của tình cảm, tình yêu .

VD:Trái tim yêu thương,Chinh phục trái tim,Một người không có trái tim.

3.Phần điểm ở chính giữa của một số vật.

VD:Bom rơi trúng tim đường

Ý nghĩa nghĩa gốc( ý nghĩa thứ nhất) của tim được sử dụng chẳng hạn trong
các câu thơ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mẹ làm y tá thường đêm trực

Ngày thoắt đôi tay băng vết máu

Chăm sóc thuốc men cơn nóng lạnh

Lo từng tim đập chậm hay mau

(Các cháu đi sơ tán)

Trái tim em thức đập

Nơi gốc của thời gian

Một nhịp mạnh nhịp khẽ

Ấy tay anh nồng nàn

(Trái tim em thức đập)

Trái tim đưụơc nói đến trong những câu thơ này mang ý nghĩa tả thực, đó là
trái tim sinh học- trái tim như một cơ quan chính của hệ tuần hoàn có tác dụng đưa
máu đi nuôi cơ thể.

3.4 Biến thể của tín hiệu hằng thể “trái tim”

Khi tiến hành phân tích các biến thể của một THTM HT nói chung, THTM
HT “tim/trái tim” nói riêng, chúng tôi đều tìm hiểu trên cả hai trục: trục dọc và
trục ngang. Trục dọc là những BTTV của THTM , tức là là những tên gọi đồng
nghĩa, gần nghĩa hoặc cùng trường từ vựng với THTM đang xét.

Trục ngang là các từ ngữ đứng trực tiếp ở trước hoặc sau THTM đang xét
trong cùng một dòng thơ hoặc một cặp câu thơ. Trong thực tế sử dụng, THTM“trái
tim” có nhiều biến thể khác nhau. Chúng tôi chia những biến thể này thành ba dạng
sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 http://www.lrc-tnu.edu.vn
-BTTV: như đã giải thích, là những tên gọi đồng nghĩa, gần nghĩa, cùng
trường từ vựng với TH “tim/trái tim”, hoặc tên gọi đồng sở chỉ trái tim. Trong thơ
Xuân Diệu đôi khi các TH ngực, lồng ngực được dùng như BTTV của TH trái tim.

- BTKH: là những biến thể được tạo thành bởi chính bản thân THTM
“tim/trái tim” được sử dụng trong các ngữ cảnh mà nó kết hợp với những yếu tố
phụ trợ khác trên trục tuyến tính.

- BTQH: Là các yếu tố phụ trợ được kết hợp với THTM “tim / trái tim” trên
trục tuyến tính, có thể kết hợp trực tiếp ngay trước hoặc sau nó trong cùng một câu
thơ, hoặc có quan hệ gián tiếp với nó khi xuất hiện trong cùng một đoạn thơ hay
khổ thơ.

Sau đây Luận văn khảo sát từng loại biến thể đã nêu.

3.4.1 Biến thể từ vựng của THHT “trái tim”

Khi tiến hành khảo sát , thống kê các TH cùng chỉ trái tim, chúng tôi thu
được một vài đơn vị từ ngữ đôi khi được Xuân Diệu sử dụng trong thơ như đơn vị
đồng nghĩa ngữ cảnh, đồng sở chỉ cùng gọi trái tim với tư cách là biến thể từ vựng
của THTM này.Đó là:

- Ngực: Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy BTTV này nằm trong quan hệ
chỉnh thể- bộ phận với THHT “trái tim”. Ngực (danh từ)-phần thân từ cổ tới
bụng,cả tim và phổi, ứng với bộ xương sườn. VD: Lồng ngực, vỗ ngực, tức ngực...

- Lồng ngực là nơi chứa đựng trái tim.

Đôi khi nhà thơ không muốn dùng từ tim hay trái tim mà thay bằng từ
“ngực/ lồng ngực” để chỉ thay thế cho bộ phận cơ thể này của con người. Chẳng
hạn, trong thơ Xuân Diệu TH ngực được dùng theo lối hoán dụ để chỉ trái tim biểu
trưng cho tình cảm khao khát.Ví dụ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ôi đôi chân! Sao mà chúng hay tìm

Ôi cái ngực! Sao mi thường đập mạnh.

(Yêu mến)

Hay trong đoạn thơ sau, Ngực cũng được Xuân Diệu sử dụng để thay cho
tim biểu trưng cho tình cảm hay nỗi đau đớn, nghẹn ngào phải nén lại không thể
bầy tỏ, giải thoát ra nổi khỏi trái tim mình:

Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc

Anh chỉ xin về một chút thương

Số anh là khổ phận anh là

Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực

Đem ái tình dâng kẻ tặng ta

(Muộn màng)

Xuân Diệu vốn là người có tình yêu say đắm, sẵn sàng dâng hiến tất cả cho
người mình yêu. Chính vì vậy, thi sĩ không bao giờ thấy thỏa mãn khi yêu, mà luôn
cảm thấy người yêu giữ một khoảng cách đối với mình. Cho nên ông luôn giận
hờn-đòi hỏi. Khi ở bên người yêu, ông muốn người yêu hãy sát lại gần mình, thật
gần để nghe hơi thở, để cho ngực mà cũng chính là trái tim của hai người hoà vào
nhau cùng nhịp đập yêu thương:

Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài

Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 http://www.lrc-tnu.edu.vn
“ Gần hơn nữa! thế vẫn còn xa lắm!”

( Xa cách)

Hay trong đoạn thơ sau, nhà thơ nói đến trái tim cũng là nói đến ngực – hai
đơn vị song hành luôn xuất hiện cùng nhau để thi sĩ bày tỏ những khát vọng
“ngông cuồng”, muốn thâu tóm cả đất trời vào trong lòng mình, ghì chặt lấy để cho
thỏa mãn, lấp được khoảng trống cô đơn trong lòng:

Giơ tay muốn ôm cả trái đất

Ghì trước trái tim, ghì trước ngực

Cho đầy nước mắt khoảng cô đơn

Bao la muôn trời sâu vạn vực

(Bài thơ tuổi nhỏ)

Có lúc thi sĩ quá đau khổ vì tình yêu bạc bẽo, đầy rẫy những dối trá, tình ái
giả dối làm trái tim bị tổn thương. Trái tim đó giờ như đóa hồng khô không hương
không sắc, trái tim bị phụ bạc giờ đã lạnh lẽo như đống tro tàn. Nhà thơ ôm ngực
cũng là ôm lấy trái tim đau đớn của mình:

Hoa ái tình chung phận đóa hồng khô

Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ

Đã chung phận của tro tàn đất lạnh

Tôi ôm ngực thử tìm xem biên giới

Của tủi sầu. Nhưng, hỡi người yêu hỡi

(Dối trá)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Và tiếng đập của ngực cũng chính là tiếng đập của trái tim nhà thơ khi nói
với người yêu dấu :

Mười giây...nửa phút...em nói với anh

Ta ở bên nhau, ngực nghe tiếng đập

Như khát khao được uống ngụm nước lành

Như lâu nhớ thương trên đường bỗng gặp

(Ở đầu dây nói-Hồn tôi đôi cánh)

Có trường hợp Xuân Diệu hình tượng hoá trái tim của mình như con chim
hồng bằng biện pháp tu từ ẩn dụ hoá. Khi đó đã xuất hiện một BTTV mới của TH
“trái tim”:

Em, em ơi, tình non đã già rồi

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.

(Giục giã - Gửi hương cho gió)

3.4.2 Biến thể kết hợp của Tín hiệu hằng thể “trái tim”

BTKH là cùng một TH nhưng có sự biến đổi ít nhiều về YNTM khi kết hợp
với những TH khác nhau ở trước và sau nó. Như vậy, BTKH là những biến thể của
các TH cùng hiện diện trong lời nói nhưng khi xuất hiện trong những tổ hợp khác
nhau TH sẽ ít nhiều biến đổi để tạo ra nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.
Đặc biệt, qua kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy với tư cách là những
BTKH,THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu đã mang những ý nghĩa biểu trưng,
hay YNTM, độc đáo khác nhau. Đó là trái tim – biểu tượng của tình yêu nam nữ,
nhà thơ sẵn sàng dâng hiến tất cả cho người yêu và trái tim công dân – biểu tượng
tình cảm nói chung của một con người hết lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 http://www.lrc-tnu.edu.vn
hi sinh bản thân để phục vụ Tổ quốc. Trái tim đó cũng biểu trưng cho tinh thần đấu
tranh không ngừng nghỉ với bè lũ xâm lăng để bảo vệ Tổ quốc. Trước hết ta đi tìm
hiểu YNTM trái tim của tình yêu.

3.4.2.1 Ý nghĩa thẩm mĩ “tình yêu” của BTKH trái tim

Khi TH trái tim xuất hiện trong thơ Xuân Diệu với tư cách là biến thể kết
hợp thì nó mang ý nghĩa biểu trưng cho tình cảm, tình yêu đôi lứa:

Trái tim em thức đập

Nơi gốc của thời gian

Một nhịp mạnh, nhịp khẽ

Ấy tay anh nồng nàn

Anh gìn giữ trái tim

Cho em yên giấc ngủ...

Tim em hút tay anh

Một nhịp hồng nóng hổi

Anh không hề dám nghĩ

Trái tim em lạc đường

Anh thức hoài thức hủy

Anh là trái tim thương

(Trái tim em đập thức)

TH trái tim được nhà thơ sử dụng để bày tỏ tình yêu chân thành tha thiết với
nhân vật trữ tình là “em”. Trái tim đó không còn là trái tim sinh học với chức năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 http://www.lrc-tnu.edu.vn
đưa máu đi nuôi cơ thể, là cơ quan chính của hệ tuần hoàn trong con người nữa, mà
“trái tim em”- đó là nơi chịu sự tác động và biểu hiện của mọi trạng thái cảm xúc
tâm hồn của người yêu. Nghĩa của “trái tim” trong đoạn thơ trên được tăng cấp:
Trái tim thức, trái tim hút tay, trái tim lạc đường, trái tim thương. Những kết hợp
này mang nghĩa tạo hình rất lớn.

Trong đoạn thơ sau, Xuân Diệu đã nhân cách hoá hình tượng trái tim, do đó
trái tim được nhà thơ coi như người yêu bé nhỏ mà ông muốn giục giã... Khi đó TH
trái tim cũng ở trong vai trò là một BTKH :

Em, em ơi, tình non đã già rồi

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.

(Giục giã - Gửi hương cho gió)

Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn
cho mình một tôn chỉ sống: sống để yêu và phụng sự cho tình yêu! Phụng sự bằng
trái tim nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và hăm hở. Chính điều này làm thơ tình
Xuân Diệu với trái tim “yêu như điên dại” tiếp tục khám phá thế giới tình yêu
“đích thực”.

Vì thế, trong những câu thơ sau đây, YNTM vừa nói trên đã được tái xuất
hiện khi BTKH chỉ trái tim được Xuân Diệu nhân hóa như hai thực thể biết nói,
biết trao nhau những lời thì thầm yêu thương:

Thấy anh, em xiết nỗi mừng

Nhìn em gương mặt sáng bừng đêm khuya

Làng không một tiếng chân đi

Trái tim ta chuyện thầm thì cùng nhau

(Anh về Ấm Thượng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Và có lúc trái tim đập rộn ràng của đôi trai gái xa nhau lâu ngày giờ mới gặp
mặt đã thay thế cho hàng ngàn vạn lời muốn nói:

Và ngó mê nhau ta mỉm cười

Và lặng lẽ thấy lòng cao chín bệ

Không cần nói trái tim dường mở hé

Hoa muôn năm nghe nở tiếng thần tiên

(Kỉ niệm)

Khi tình yêu rung động tột đỉnh thì trái tim tưởng chừng như cũng tạm
ngừng lại(hay cũng chính là con người đã lặng đi) trong niềm đắm say hạnh phúc
vô biên đó:

“Trái tim ngừng trong một lúc vô biên

Thời gian hết đất trời không còn nữa”

(Kỉ niệm)

Định danh lại “trái tim” cũng chính là cách Xuân Diệu muốn định nghĩa lại
tình yêu. Tình yêu không phải là cái gì xa xôi, kì lạ mà nó có thật và rất gần gũi, tự
nhiên trong đời sống của mỗi con người. Trái tim được nhân hóa khiến cũng biết
bày tỏ tình cảm tha thiết yêu thương của “Anh” và “Em” :

Trái tim anh nói bồi hồi

Mà tim em cũng trao lời vấn vương

Đất trời chìm giữa yêu thương

Thời gian cũng gượng trên đường vô biên

(Kỉ Niệm-Hồn Tôi Đôi Cánh)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cũng có khi BTKH “Tim” trong thơ Xuân Diệu chỉ là biểu tượng của nơi
chứa đựng tình cảm. Khi thi nhân không còn tồn tại về thể xác nơi trần thế nữa,
nhưng trái tim- biểu tượng của linh hồn thi nhân vẫn tồn tại để sưởi ấm những linh
hồn đau khổ ở cõi u minh:

Tôi đã yêu khi hết tuổi rồi

Không sương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng

Vào đêm tối, tôi sẽ làm đuốc sáng

Rọi u minh tỏ rạng ánh hồn sâu

Đến ru thơ bao kẻ hãy buồn đau

Tim ấp mộng những hồn sầu rã mục

(Đa Tình)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.4.2.2 Ý nghĩa thẩm mĩ “Trái tim công dân” của BTKH “trái tim”

Bên cạnh trái tim mang YNTM tình yêu ta còn bắt gặp trái tim công dân
không kém phần đặc sắc trong thơ Xuân Diệu. Đó chính là biểu tượng tình cảm nói
chung của một con người hết lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh bản
thân để phục vụ Tổ quốc.

Trước Cách mạng tháng Tám, nhà thơ Xuân Diệu đắm say với tình yêu là
vậy. Nhưng trái tim thi sĩ cũng luôn dằn vặt, trăn trở bởi nỗi niềm không được thỏa
mãn. Từ khi được ánh sáng của Đảng rọi sáng tâm hồn, nhà thơ đã thức tỉnh mọi
giác quan cách mạng, thoát khỏi cõi u mê và tìm ra được cho mình một ánh sáng,
một lối đi, một chân lí sống. Đảng đã khai sinh ra thi sĩ một lần nữa và trong trái
tim nhà thơ, tình yêu đối với Đảng thật vững chãi, được khắc sâu vào tận cùng của
con tim:

Đảng cho tôi xương sống của tâm hồn

Một rễ xâu các tế bào rời rã

Một tiếng gọi của biển người sâu cả

Đã vào làm cốt lõi của tim tôi

Đường Đảng cho tôi đi rộng mãi chân trời

(Đấu tranh- Riêng Chung)

Có những khi thi sĩ ví trái tim mình như một thứ vật chất nào đó có thể đem
ra đổi chác:

- Đổi trái tim có được không

Bạn trên đường xin anh đổi hộ

- Biết lựa những lời dễ nghe, bồng bế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đổi cho tôi một trái tim như thế!

(Cầu an- Riêng chung)

Nhưng cũng có khi trái tim đó là tình cảm đau đớn dằn vặt, trăn trở không
yên:

Trái tim tôi nó thường đau khổ

Trái tim tôi nhoi nhói một bên

Gây sự và trăn trở không yên.

(Cầu an- Riêng chung)

Từ láy “ nhoi nhói” có nghĩa là bị đau nhức đột ngột, tựa như có một vật
nhọn đâm xói mạnh. Và trái tim đau khổ đó luôn “đau nhói một bên” vì một suy tư
nào đó. Trái tim đó như biểu tượng một con người cụ thể có tâm hồn, có cảm xúc.
Biết đau đớn, biết trăn trở không yên và thậm chí trái tim đó “ sẵn sàng gây sự ’’.
Có lúc nhà thơ coi trái tim như một kẻ cứng đầu khó bảo, trái tính, trái nết bất cứ
lúc nào. Nhưng trái tim đó lại vô cùng chân thật, không hề giả dối cho nên dù có
đổi được trái tim khác khéo léo biết nói lời hay, những lới dễ nghe thì nhà thơ cũng
không muốn đánh đổi trái tim chân thật của mình để lấy một trái tim như thế:

Nhưng mà-không! Tôi chẳng đổi đâu

Tôi không muốn lá mặt và lá trái

Sắp ngã ngũ thì mình hăng hái

Nhà thơ mượn hình ảnh trái tim để phê phán tính cơ hội, giả dối trong xã hội.
Ông ví trái tim mình hoang dã, rậm rạp như rừng, để có thể suốt đời phải dùng lý trí
đấu tranh với nó, để mong thoát khỏi những cám dỗ, những tình cảm khát khao
thấp hèn:

Tôi xin mang một trái tim rừng

Để tôi đấu tranh với nó không ngừng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Cầu an - Riêng chung)

Cách mạng đã đem trái tim cô đơn, quằn quại giữa “ một cái kềm bằng sắt”
đặt vào giữa trái tim lớn của nhân dân anh hùng. Nhà thơ nói lên niềm tự hào của
dân tộc, và cũng là niềm tự hào của riêng nhà thơ. Là một nhà thơ dấn thân, Xuân
Diệu đã tham gia ngay từ đầu cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc và đã trở thành
một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng. Ba lô trên lưng, Xuân Diệu
đã đi khắp mọi miền đất nước, đến với chiến sĩ, công nhân và nông dân. Từ cuộc
sống dấn thân ấy, ở Xuân Diệu đã hình thành một cảm xúc mới: Cảm xúc của cả
dân tộc chiến đấu cho độc lập tự do- và dòng thơ “ công dân” ấy vẫn chan chứa
chất thơ vì không hề gạt ra một bên những kích thước của một cảm hứng thơ chân
chính về hai cuộc kháng chiến trường kì, chia sẻ cuộc sống gian khổ mà hào hùng
cùng toàn dân tộc.

Miền Bắc đã được giải phóng, miền Nam vẫn còn tiếp tục chiến đấu để thống
nhất nước nhà, nhà thơ ví đất nước như một trái tim bị đánh cắp. Một nửa đã được
tự do, một nửa vẫn bị kiềm kẹp, ngạt thở trước chế độ tàn bạo của bọn cướp nước
và bè lũ bán nước. Nhà thơ căm hờn khi cảnh đẹp của quê hương bị chiếm đóng
ngột ngạt. Bằng tình yêu đối với “em”, bằng tình yêu đối với quê hương đất nước,
nhà thơ thề sẽ giành lại nửa trái tim đất nước- Miền Nam yêu thương.

Anh còn nợ với em thăm Huế đẹp

Về Quy Nhơn, quê má đẻ ra anh

Sài Gòn! Sài Gòn! Miền Nam sắt thép

Ta hẹn thề giành lại nửa tim ta.

(Khúc hát tình yêu và đất nước- Một khối hồng)

Sống và hít thở không khí của miền Bắc, nhà thơ vui sướng được tự do, được
là chủ đất nước, được ngắm nhìn phong cảnh tuyệt đẹp của đất nước mình. Nhà thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 http://www.lrc-tnu.edu.vn
rung động ví SaPa như là người tình nhân tuyệt vời mà mình ngày đêm yêu dấu sẵn
sàng dâng hiến toàn bộ trái tim yêu:

Những giờ trong sáng chiều hôm

Những đêm sương thoảng còn ôm dáng đồi

Lên cao hít thở khí trời

Trái tim anh muốn ngàn đời yêu em.

(Sa Pa- Hồn tôi đôi cánh)

Trái tim công dân trong thơ Xuân Diệu còn mở rộng không gian biểu hiện
tình cảm của những con người cùng chí hướng, cùng lí tưởng. Và trái tim ấy dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không bao giờ chết. Ngày 23 tháng 9 năm 1970,
Davit Ipsin, chủ tịch hội sinh viên toàn nước Mĩ cùng với 25 sinh viên khác bắt đầu
tuyệt thực để phản đối nhà cầm quyền Sài Gòn bắt bớ sinh viên miền Nam hôm 30
tháng 8. Xúc động trước nghĩa cử cao đẹp của bạn, anh sinh viên Sài Gòn cũng
đang tuyệt thực sung sướng muốn gửi trái tim biết ơn đến những người cùng lí
tưởng với mình:

Anh sinh viên Sài Gòn sức lả bảy ngày, hôm nay rất tỉnh!

Chao ôi, anh áy náy trong sướng vui như thể nghẹn ngào

Có cách gì gửi được trái tim anh máu vẫn dâng trào

Sang bên kia Thái Bình Dương đặt vào trong lồng ngực bạn

Anh cảm kích vô cùng, mến thương vô hạn

Tâm hồn anh đang chăm lo cho bạn đang nhịn đói vì ta

Lí tưởng nối chung những khúc ruột già.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Sức mạnh những người tuyệt thực-Hồn tôi đôi cánh)

Trong những trận tuyến ác liệt, trái tim nhà thơ luôn hướng về đó, trái tim
của tình yêu đồng đội, trái tim của lòng căm thù giặc tới tận xương tủy, trái tim sẵn
sàng quét sạch lũ cướp nước:

Tiền tuyến của ta kia, trái tim ta ở đó

Lũ xâm lược đang còn phải quét cho sạch nó

(Từ Cao Lạng tới Vĩnh Linh-Tôi giàu đôi mắt)

Có lúc trái tim trong thơ Xuân Diệu hừng hực ngọn lửa căm hờn đối với giặc
Mĩ, nhưng trái tim đó lại có ánh sáng hơn tất cả ngàn tỉ mĩ kim của Mĩ, sáng hơn
tất cả bom đạn chiến tranh, vì trái tim đó có ánh sáng của chính nghĩa, của tình yêu
con người, của lòng yêu tự do và hòa bình. Đó cũng là trái tim yêu nước và căm
thù giặc:

Sao cái nước nhỏ này lại sáng hơn cái nước của ngàn tỉ mĩ
kim

Ánh sáng của trái tim mà lại chinh phục được toàn thế giới

Khoan khoái vô biên và cũng biết mấy căm hờn

Cái bọn làm giàu trên máu, tiền bạc giết hết nghĩa nhơn

Cái bọn giành ăn giật xé, rứt vú mẹ của trẻ con

Cái bọn nhe răng nanh mòn

Cắn vào ánh sáng!

(Ánh sáng trên cửa biển Hải Phòng-Tôi giàu đôi mắt)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Miền Bắc đã giải phóng, miền Nam vẫn trong trận chiến ác liệt. Miền Bắc
không chỉ gửi tới miền Nam lương thực thực phẩm, súng đạn, con người mà còn
gửi cả mười bảy triệu trái tim yêu thương, trái tim lo lắng tới khúc ruột miền Nam:

Ôi tấm lòng của mười bảy triệu nhân dân miền Bắc

Máu của tim mình đã gửi vào Nam

Đêm ngày mạch máu còn gửi luôn luôn

Thịt của thịt ta giằng ra sao được!

(Tôi lắng nghe những phố hè trong ấy-Tôi giàu đôi mắt)

Và có lúc tình yêu quê hương đất nước bị xâm lăng khiến trái tim thi sĩ như
muốn vỡ ra vì căm giận. Và trái tim đó như lời thề sẽ đem lại mùa xuân cho mặt
đất quê hương:

Ta yêu mình đến nỗi trái tim ta xé vỡ...

Ta muốn nói với mình-Hỡi trái tim ta

Đạp cỏ dại dưới chân, quyết phát quang bờ cõi

Đem lại mùa xuân trên mặt đất liền quê

Xương dính xương, thịt dính thịt-ta thề!

(Lời thề-Mũi Cà Mau)

Xuân Diệu từ nhà thơ lãng mạn chủ nghĩa đến nhà thơ hiện thực xã hội chủ
nghĩa là một bước chuyển biến dài, một sự đổi mới trong tâm hồn và cả trong trái
tim nhà thơ cùng với sự đổi mới của nhân dân, của đất nước và của nhân loại:

Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao

(Những đêm hành quân)

Và, trái tim ấy của nhà thơ đã được tôi luyện trong cuộc đấu tranh gian khổ
của nhân dân . Trái tim chung thủy này của thi sĩ cũng chính là của nhân dân trao
giữ:

Lúc gian khổ thử lòng người chung thủy

Trái tim này, tôi thấy đã mòn đâu

Trái tim nhân dân gửi vào ngực của tôi

Tràn thương mến-đến nứt ra-mà chẳng vỡ!

(Nhân dân đáng yêu-Hồn tôi đôi cánh)

Xuân Diệu còn ngợi ca trái tim của những người vợ, người mẹ Việt Nam anh
hùng, họ sẵn sàng nhường nhịn, hi sinh tất cả để cho đất nước được hòa bình. Đó
là trái tim lớn, trái tim của nhân dân. Nó làm thành mạch nguồn cảm hứng cho thi
pháp của Xuân Diệu:

Mẹ nhường nhịn cả máu xương mình đó

Nhân dân đáng yêu trái tim của cả bầu trời!

Trái tim chúng ta hiến máu cho cả cuộc đời

Có yêu mến mới căm thù như thế

(Nhân dân đáng yêu-Hồn tôi đôi cánh)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Miền Bắc giành được chính quyền và hoàn toàn giải phóng đã hai bảy năm.
Cứ đến ngày kỉ niệm Cách mạng tháng Tám thành công, trái tim nhà thơ vui sướng
như nở hoa:

Hai mươi bảy năm trong trái tim tôi mỗi mùa lại nở

Tưởng hãy còn nghe khởi nghĩa bước rần rần

“Giành lấy chính quyền về tay nhân dân!”

(Nhân dân đáng yêu-tháng8 và tháng 9-năm1972)

Xuân Diệu cũng ca ngợi trái tim của liệt sĩ Nguyễn Thái Bình- con người đã
vứt bỏ tất cả tuổi thanh xuân, vinh hoa, công danh, tiền bạc. Bạo lực không làm anh
khiếp sợ, sự tàn bạo càng làm trái tim anh chất ngất căm thù. Trái tim đó như quả
bom vì đại nghĩa có thể nổ tung bất cứ lúc nào:

Hiện nay trái bom duy nhất của tôi là trái tim.

Trái tim này có thể nổ vì đại nghĩa

(Nguyễn Thái bình –T10)

Khi viết về Bác Hồ, Xuân Diệu luôn dành những câu thơ, lời thơ đẹp nhất để
tỏ bày tình cảm kính yêu vô bờ đối với Bác. Có lúc thi sĩ ví Bác như một vị thần ,
vị thánh. Tiếng nói của Bác có sức mạnh lay động hàng triệu triệu trái tim con
người ; tiếng nói đó có sức mạnh như gang, như thép tôi luyện triệu tấm lòng đứng
lên đấu tranh quyết đánh thắng giặc Mĩ:

Đường dân tộc mỗi lần sang ngoặt lớn

Tiếng nói Bác Hồ rõ ràng , ấm cúng

Có sức diệu kỳ lay động trái tim

Có sức thép gang tôi triệu tấm lòng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nghe tiếng gọi Bác Hồ toàn dân đánh thắng giặc Mĩ-T8)

Hình tượng Bác Hồ trong thơ Xuân Diệu đã trở thành biểu tượng tinh hoa
của núi sông, là hồn của dân tộc, là một phần cơ thể không thể thiếu của đất nước
Việt Nam.

Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh! Đất nước hải hà

Lòng của ruộng hay tim gan của núi

Đất hằng nở rời sông hằng chảy tưới

Hồ Chí Minh là tinh túy non sông

(Đi theo Bác Hồ-T8)

Vì Bác đã trường tồn mãi mãi trong trái tim, trong tâm hồn của mỗi người
dân Việt Nam:

Bác Hồ ơi! Bác là dòng máu đỏ

Mãi trẻ trung trong ngực chúng con đây!

(Đi theo Bác Hồ-T8)

Có những khi một hàng tre, một cánh đồng, thậm chí một cọng rơm cũng là
biểu tượng của Tổ quốc Việt Nam. Tất cả những cái đó đều gần gũi thân thiết trong
trái tim con người Việt Nam:

Tổ quốc thân yêu ngàn lần ca ngợi

Nay càng thêm tha thiết với tim ta

Mỗi cây tre xóm, mỗi cánh đồng vàng rọi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mỗi cây rơm đứng nghĩ ngợi bên nhà

(Hỡi hùng khí nước Việt Nam muôn thủa- T8)

Đất nước Việt Nam , đất nước của tinh thần đoàn kết và một trái tim chất
chứa yêu thương đồng bào ruột thịt, nhưng cũng chất chứa căm hờn lũ xâm lăng:

Cả miền Bắc triệu người đồng một dạ

Chỉ lăm lăm giục giã, mắt săn tìm

Những đỉnh núi trong Nam đều gọi cả

Cửu Long gần dồn dã ở trong tim!

(Hỡi hùng khí nước Việt nam muôn thưở-T8)

3.4.3 Biến thể quan hệ của các Tín hiệu thẩm mĩ chỉ trái tim

Để chỉ ra được YNTM của một THTM nói chung, THTM chỉ trái tim nói
riêng, còn phải xét THTM ấy trong mối tương quan ngữ nghĩa với các TH cùng
xuất hiện trong câu thơ, đoạn thơ và khổ thơ, tức là các BTQH. BTQH như trên đã
nêu là những biến thể nảy sinh trong quá trình sử dụng một TH nào đó, cùng xuất
hiện với nhưngTH này còn có những TH khác có vai trò bổ sung ý nghĩa cho nó.
Cùng kết hợp với nó để biểu đạt một khung ngữ nghĩa chung.

Qua cứ liệu điều tra, có thể phân các BTQH của THTM trái tim xuất hiện trong
các bài thơ của Xuân Diệu ra hai loại theo tính chất từ loại: NhữngTHBTQH là
những vị từ( bao gồm động từ hoặc cụm động từ và những tính từ hoặc cụm tính
từ) và các danh từ hoặc cụm danh từ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.4.3.1 Những THBTQH là những động từ hoặc cụm động từ

Trong thơ Xuân Diệu, những vị từ (gồm động từ,tính từ) thường làm vị ngữ
cho các THTM- danh từ chỉ trái tim, và chúng cũng thường đóng vai trò chỉ các
hoạt động liên quan đến trái tim. Có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ các cung
bậc cảm xúc khác nhau của trái tim. Những kết hợp này làm trái tim trở thành hình
tượng sinh động. Đó là, trái tim đập, trái tim than thở, trái tim ngừng, trái tim lạc
đường, trái tim mở hé, trái tim lưu lạc, trái tim buồn, trái tim đau... Trong các kết
cấu tín hiệu thẩm mĩ này, các từ đi kèm vừa có chức năng định tố vừa có chức
năng vị ngữ để tạo thành kết cấu chủ- vị. Các vị ngữ đi kèm với danh từ trái tim rất
phong phú đã cho thấy khả năng dùng từ rất linh hoạt của Xuân Diệu. Dưới đây,
chúng tôi trình bày một số khả năng cơ bản của kết hợp này.

Trái tim Xuân Diệu đang lúc tuổi thanh xuân căng tràn sức sống, trái tim trẻ
trung đó vô cùng nhạy cảm với tất cả những chuyển biến rất nhẹ của thời gian:

Một buổi chiều mùa xuân lồng lộng

Đã thầm mang rạo rực mùa hè

Một buổi chiều anh lắng tai nghe

Cả trái tim đựng tràn trề nhựa đất

(Một buổi chiều)

Trái tim đó có khi được ẩn dụ hóa như một món quà để thi sĩ có thể đem
“tặng” cho người yêu:

Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc

Anh chỉ xin về một chút thương

(Muộn màng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trái tim trong thơ Xuân Diệu còn có thể dùng để bao bọc cả những trái tim

Tay ấp ngực dò xem chiều máu lệ

Nghìn trái tim mang trong một trái tim

(Cảm xúc)

Xuân Diệu là nhà thơ luôn có khát khao giao cảm với cuộc đời trần thế. Khi
cảm xúc dâng tới độ cuồng nhiệt say mê nhà thơ thường không bao giờ che giấu
nổi niềm khao khát cháy bỏng của mình. Ông thường diễn tả cảm xúc đó bằng một
loạt các động từ mạnh: ôm, xiết, bám, say và cuối cùng thi sĩ muốn ghì lấy:

“ Giơ tay muốn ôm cả trái đất

Ghì trước trái tim ghì trước ngực”

( Bài thơ tuổi nhỏ)

Trái tim trong thơ Xuân Diệu có lúc được nhân hóa như con người cụ thể,
khi thương nhớ ai trái tim đó cũng biết buồn đau than thở:

Suối thương nhớ thầm qua trong bóng mát

Trái tim chiều than thở giữa lau cao

(Tình mai sau)

Có lúc động từ “nhoi nhói” cũng dùng để diễn tả những cảm xúc đau đớn của
trái tim:

Trái tim tôi nhoi nhói một bên

Gây sự và trăn trở không yên

(Cầu an-T4)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Và với tình yêu đơn phương, thi sĩ tự nhận mình là chàng Trương Chi, yêu
nhưng không lấy được người mình yêu, suốt đời mang hình bóng người ấy trong
tim, suốt đời đi tìm hình bóng trong mộng tưởng:

Anh là người thuyền chài Trương Chi

Trong trái tim mang em đọng lại

Mang em ngày thắm và đêm biếc

Trong trái tim-nhưng vẫn còn tìm

(Bá Nha Trương Chi-T6)


Khi đứng bên mồ liệt sĩ Bế Văn Đàn, anh còn rất trẻ nhưng trái tim đã
ngừng đập vì Tổ Quốc, Xuân Diệu đã sử dụng TH trái tim kết hợp với động từ “
ngập ngừng” để diễn tả dòng cảm xúc vừa thương xót đau đớn, vừa tự hào vì con
người đã dám ngã xuống để làm nên lịch sử:

Thời gian ngừng bước lặng im

Bên mồ liệt sĩ trái tim đã dừng

Trái tim ta cũng ngập ngừng


Nửa chừng giọt lệ, nửa chừng lời ca

(Mộ Bế Văn Đàn-T4)

Xuân Diệu đã dùng lời thơ hết sức trân trọng, ngợi ca những chiến sĩ kiên
cường, dù bị tra tấn dã man cũng quyết không khai, trái tim họ cứng hơn sắt thép:
Ôi giữ lấy sợi tơ mành hơi thở

Giữ lấy tim gan không chịu rụng rời


Kẹp sắt móc cổ treo móc ngược

Kẹp sắt rút từng mảnh thịt không khai!

(Thép cứng nhất là thép người)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.4.3.2 THBTQH là những tính từ hoặc cụm tính từ

Những BTQH cuả THHT “trái tim” thuộc nhóm từ chỉ tính chất thường làm
định ngữ cho TH “trái tim” hoặc có khi các tính từ ấy được phức tạp hóa và trở
thành một cụm tính từ diễn tả một đặc điểm nào đó của trái tim. Cũng có khi chúng
có sự chuyển nghĩa.

Xuân Diệu ca ngợi những người mẹ Việt Nam rất đời thường và giản dị, cả
một đời chắt chiu, dành dụm, kể từ những vật bình thường nhất, nhưng tất cả đã
làm nên phẩm chất vĩ đại của các mẹ:

Khi mẹ trở lại thăm nhà, mẹ vẫn cứ mang trái tim vĩ đại

Dọn bếp hót tro, nhặt những chân ghế bàn còn lại

Mẹ nhìn phân biệt bằng mắt yêu thương

Cái chum đang còn đựng được, miếng gương có thể soi
gương

(Sự sống chẳng bao giờ chán nản-T9)

Chính những động từ và tính từ chỉ hành động và phẩm chất xuất hiện cùng
với hình ảnh trái tim với tư cách những BTQH của THTM này trong thơ Xuân
Diệu đã khiến cho trái tim Việt Nam trở thành biểu tượng lương tâm của thời đại,
giàu tình yêu thương, sáng ngời chính nghĩa:

Trái tim chúng ta là một đá nam châm cực mạnh

Trái tim đập giữa cuộc đời, như chiếu lên trời tỏa ánh!

Trái tim dũng mãnh, đập hộ cho cả thế gian.

Ở đây sáng ngời chính nghĩa, ở đây tình nghĩa Việt Nam

(Sự sống chẳng bao giờ chán nản)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xuân Diệu yêu đến cuồng nhiệt sự sống, cuộc sống và ghét cay ghét đắng sự
hững hờ, lạnh lùng, lối sống thụ động, đơn điệu. Ông tuyên bố:

Sống toàn tim! Toàn trí, sống toàn hồn!

Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan.

(Thanh niên-T2)

Xuân Diệu không phải chỉ yêu cuộc sống mà nhà thơ còn muốn truyền nhiệt
tình sống của mình cho mọi người. Nhà thơ sẵn sàng dâng hiến tất cả trái tim, nhiệt
huyết cho đời. Thi sĩ tự ví mình như con chim dâng tiếng hót cho đời đến lúc trái
tim héo mòn mới thôi:

Hát vô ích thế mà chim vỡ cổ

Héo tim xanh cho quá độ tài tình

Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ

Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh

(Lời thơ vào tập gửi hương- T2)

3.4.3.3 THBTQH là danh từ chỉ thời gian, không gian của THTM trái tim
trong thơ Xuân Diệu

Như đã trình bày ở trên, “ mùa xuân”, “trái tim” trong thơ Xuân Diệu gắn
liền với tình yêu và tuổi trẻ. Từ trong chiều sâu các cặp phạm trù này đã có quan hệ
với thời gian. Yếu tố thời gian làm nên tiêu chí thi pháp của thơ ông. Do đó, nghiên
cứu thơ Xuân Diệu nói chung, các THTM mùa xuân và trái tim nói riêng, phải
khảo sát yếu tố thời gian.

Xuân Diệu thường trực nỗi băn khoăn về thời gian. Điều băn khoăn day dứt
đó có thể lý giải được. Bởi lẽ thường tình, yêu khao khát cuộc sống, yêu da diết con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 http://www.lrc-tnu.edu.vn
người tất có băn khoăn về thời gian. Xuân Diệu quý và tiết kiệm thời gian trong
đời thường, điều đó cũng được ông thể hiện trong thơ ca. Ông suy tính điều gì cũng
nghĩ đến cái chết, cái kết thúc. Xuân Diệu đã từng nói rằng: thơ tình của ông luôn
luôn là sự hồi tưởng. Lạ lắm! Tình yêu muốn vô biên song cuộc đời, lòng người lại
hữu hạn (Hoàng Trọng Phiến). Thời gian ở thơ Xuân Diệu gắn với không gian xác
định. Trái tim với tư cách tín hiệu thẩm mĩ nó là: Trái tim đập giữa cuộc đời, như
chiếu lên trời tỏa sáng\ Tiền tuyến của ta kia, trái tim ta ở đó/máu của tim mình đã
gửi vào Nam\ Đặt trái tim trong đá/ Đời ta mang hạnh phúc trái tim tháng Mười\
Hai mươi bẩy năm trong trái tim tôi mỗi mùa lại nở\ Tháng ngày càng khắc Bác
vào tim con.

Với các BTQH chỉ thời gian và không gian của THTM trái tim chúng ta
thấy tình cảm nói chung trong thơ Xuân Diệu luôn gắn bó với cách mạng. Nói riêng
về tình yêu thì với Xuân Diệu tình yêu là muôn đời và thuỷ chung son sắt:

Những giờ trong sáng chiều hôm,

Nhưng đêm sương thoảng còn ôm dáng đồi

Lên cao hít thở khí trời

Trái tim anh muốn ngàn đời yêu em

(SaPa –T10)

Hoặc:

Tình yêu muốn hóa vô biên

Ông rất sợ thời gian qua mau, nên lao động văn chương cật lực, yêu đương
cũng vội vàng:

Mau với chứ, vội vang lên với chứ,

Em, em ơi, tình non đã già rồi;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Giục giã)

Xuân Diệu rất sợ cô độc, nên ông chắt chiu và trân trọng từng chút tình . Đối
với thế hệ trẻ ông dành tất cả tình yêu thương. Với trái tim nhân hậu, ông tha thiết
tình người, khao khát cầu xin:

Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ

Một giây cũng cam một phút cũng đành.

(Lời thơ vào tập Gửi hương – T2)

Do vậy, trái tim trong Xuân Diệu là một tín hiệu thẩm mĩ đa thanh, đa
nghĩa. Nó làm thành nhánh nhỏ trong trường yêu lớn.

3.5 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Xuân Diệu không phải người đầu tiên đưa “trái tim” vào thơ ca. “Trái tim”
được hiểu như một biểu tượng của tình cảm, của tình yêu con người, đã trở thành
hình tượng thẩm mĩ xuất hiện khá phổ biến trong văn học thế giới và Việt Nam. Ở
Việt Nam, do sự tiếp xúc và du nhập văn hóa Phương Tây, các nhà thơ đã đưa “trái
tim” trở thành biểu tượng của ý chí, tình cảm và đặc biệt là tình yêu con người.
Cho đến nửa cuối thế kỷ XX, tên gọi của trái tim đã trở nên hết sức quen thuộc,
thậm chí được dùng phổ biến và có thêm ý nghĩa biểu trưng, như một hình ảnh ước
lệ.

Xuân Diệu cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của nền thơ ca thế giới. Ông cũng
thường dùng phương tiện ngôn ngữ có ý nghĩa biểu trưng này- một tên gọi vừa
giản dị, vừa hoa mĩ của trái tim để chỉ tình yêu. Trong các tác phẩm của nhà thơ
Xuân Diệu, từ chỉ bộ phận cơ thể trái tim đã trở thành tín hiệu thảm mĩ đắc dụng
biểu hiện các cung bậc tình cảm, tình yêu với mọi sắc thái đa dạng của nó. Trong
thơ Xuân Diệu, cũng như TH Mùa xuân , TH trái tim đã thể hiện tư tưởng nghệ
thuật và thi pháp của Xuân Diệu. Đó là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 http://www.lrc-tnu.edu.vn
đời trần tục. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên đưa vào thơ ca tình yêu đích thực,
tình yêu giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm hồn. Xuân Diệu cho mọi cảm nhận
của thơ tình là vấn đề của trái tim. Ông là “ông Hoàng của thơ tình” Việt Nam.
Người đọc thơ Xuân Diệu vô thức biến mình thành người có thị hiếu thẩm mĩ. Điều
này thể hiện ở con số thống kê: Từ Xuân xuất hiện trong 137 câu thơ, còn từ ngữ
chỉ Trái tim được sử dụng trong tới 111 câu thơ.

“Trái tim” trong thơ Xuân Diệu không những biểu thị ý nghĩa lớn hơn một
TH ngôn ngữ, ý nghĩa của một hình ảnh ẩn dụ-tượng trưng đa định hình, mà còn
thực tại hóa một số nét nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi này, khiến
những nét nghĩa đó trở thành một biểu trưng nghệ thuật mang sắc thái riêng cá
nhân của nhà thơ tài hoa. Và ở đó chính là nơi nhà thơ thể hiện sự “tự cảm thấy”
của mình , thể hiện “lăng kính nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc sống , con người...của
tác giả” - như cách nói của thi pháp học (Trần Đình Sử). Điều đó khi trở thành yếu
tố lặp lại trong hệ thống tác phẩm của tác giả đã góp phần xác định giọng điệu
riêng của nhà thơ Xuân Diệu.

Qua thống kê, chúng ta thấy các THTM có tần số xuất hiện không đồng đều,
trong đó THTM trái tim có tần số xuất hiện cao nhất: 80 lần (chiếm 57,55%) . Từ
tim xuất hiện 31 lần( chiếm 22,30%). Ngoài ra còn có cácTHTM khác là biến thể
từ vựng, nằm trong quan hệ chỉnh thể – bộ phận với THTM HT trái tim là ngực
xuất hiện 28 lần (chiếm 20,15%).

Luận văn đã xem xét ý nghĩa thẩm mĩ cụ thể của từng THTM này trong thơ
Xuân Diệu.

Khi tiến hành khảo sát , thống kê các TH cùng chỉ trái tim, luận văn thu
được một vài đơn vị từ ngữ đôi khi được Xuân Diệu sử dụng trong thơ như đơn vị
đồng nghĩa ngữ cảnh, đồng sở chỉ cùng gọi trái tim với tư cách là biến thể từ vựng
của THTM này. Đôi khi nhà thơ không muốn dùng từ tim hay trái tim mà thay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 http://www.lrc-tnu.edu.vn
bằng từ ngực/ lồng ngực, con chim hồng để chỉ thay thế cho bộ phận cơ thể này
của con người.

Qua kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy với tư cách là những
BTKH,THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu đã mang những ý nghĩa biểu trưng,
hay YNTM, độc đáo khác nhau. Đó là trái tim – biểu tượng của tình yêu nam nữ,
nhà thơ sẵn sàng dâng hiến tất cả cho người yêu và trái tim công dân – biểu tượng
tình cảm nói chung của một con người hết lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng
hi sinh bản thân để phục vụ Tổ quốc. Trái tim đó cũng biểu trưng cho tinh thần đấu
tranh không ngừng nghỉ với bè lũ xâm lăng để bảo vệ Tổ quốc.

Qua cứ liệu điều tra, có thể phân các BTQH của THTM trái tim xuất hiện
trong các bài thơ của Xuân Diệu ra hai loại theo tính chất từ loại: NhữngTHBTQH
là những vị từ (bao gồm động từ hoặc cụm động từ và những tính từ hoặc cụm tính
từ) và các danh từ hoặc cụm danh từ.

Trong thơ Xuân Diệu, những vị từ (gồm động từ, tính từ) thường làm vị ngữ
cho các THTM- danh từ chỉ trái tim, và chúng cũng thường đóng vai trò chỉ các
hoạt động liên quan đến trái tim. Có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ các cung
bậc cảm xúc khác nhau của trái tim. Những kết hợp này làm trái tim trở thành hình
tượng sinh động, như: trái tim đập, trái tim than thở, trái tim ngừng, trái tim lạc
đường, trái tim mở hé, trái tim lưu lạc, trái tim buồn, trái tim đau... Trong các kết
cấu tín hiệu thẩm mĩ này, các từ đi kèm vừa có chức năng định tố vừa có chức
năng vị ngữ để tạo thành kết cấu chủ- vị. Các vị ngữ đi kèm với danh từ trái tim rất
phong phú đã cho thấy khả năng dùng từ rất linh hoạt của Xuân Diệu.

Với các BTQH chỉ thời gian và không gian của THTM trái tim trong thơ
Xuân Diệu, chúng ta thấy tình cảm nói chung trong thơ Xuân Diệu luôn gắn bó với
cách mạng, còn tình yêu của nhà thơ là tình yêu muôn đời và thuỷ chung như nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 http://www.lrc-tnu.edu.vn
KẾT LUẬN

1. Các Tín hiệu thẩm mĩ Mùa xuân/ Trái tim trong thơ Xuân Diệu mang
đậm thi pháp của nhà thơ. Chúng tôi chọn đề tài này nhằm vận dụng lý thuyết về
tín hiệu thẩm mĩ để chứng minh cho một quan niệm: Ngôn ngữ nghệ thuật là thứ
ngôn ngữ đặc biệt. Nó chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên. Tín hiệu thẩm mĩ chính là
Ngôn ngữ nghệ thuật như vậy. Khi ngôn ngữ tự nhiên trở thành tín hiệu ngôn ngữ
nghệ thuật hay tín hiệu văn chương thì nó là phương thức diễn đạt nội dung nghệ
thuật của tác phẩm ngôn từ. Như vậy, văn học là nghệ thuật ngôn từ. Ngoài ra, đề
tài này cũng nhằm cung cấp một số ngữ liệu biểu hiện sự hành chức nghệ thuật của
hai THTM nói trên để góp thêm cách giải mã nghệ thuật ngôn từ trong thơ Xuân
Diệu.

2. Trên cơ sở khảo sát hai THTM Mùa xuân/Trái tim trong thơ Xuân Diệu,
luận văn đã thu được một số kết quả.

Về tần số xuất hiện, tín hiệu mùa xuân xét trên bình diện với tư cách là hằng
thể và biến thể từ vựng xuất hiện 268 lần, còn TH trái tim xuất hiện 139 lần. Các
tín hiệu Mùa Xuân/Trái tim được Xuân Diệu sử dụng với những sắc thái ý nghĩa
và cung bậc tình cảm khác nhau trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Do đó
mỗi lần tín hiệu Mùa xuân hay Trái tim xuất hiện trong thơ Xuân Diệu là một lần
tươi mới. Do đó, có thể khẳng định mỗi TH Mùa xuân hay Trái tim dường như là
một từ khoá hay một nhãn tự mà Xuân Diệu đặc biệt ưu ái.

3. Kết quả khảo sát cho thấy: THTM Xuân xuất hiện 125 lần chiếm 46,64%
và TH Mùa Xuân xuất hiện 38 lần chiếm 14,2%. Ngoài ra còn có một số tín hiệu
thẩm mĩ khác có tư cách là BTTV của THTM này.

THHT Xuân vốn có ý nghĩa chỉ mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết
ấm dần lên thường được coi là mùa bắt đầu trong năm, mùa này có thời tiết tốt và
có điều kiện lý tưởng cho sự sinh sôi nẩy nở vạn vật. Với ý nghĩa này, Xuân còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 http://www.lrc-tnu.edu.vn
được cụ thể hoá hơn bằng BTTV Mùa Xuân. Các ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
Xuân/Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu đã được phát triển trên cơ sở các nét nghĩa
cơ bản này của ý nghĩa gốc.

Các BTQH của THTM HT Mùa Xuân được phân thành hai nhóm: Nhóm
TH danh từ hoặc cụm danh từ và nhóm TH là những động từ hay cụm động từ có
tác dụng cụ thể hoá hoặc làm rõ nghĩa cho các THTM chỉ Mùa Xuân (bao gồm
THHT và THBTTV).

Các BTQH của THTM Mùa Xuân là danh từ-cụm danh từ có thể là các TH
chỉ không gian và thời gian. Thời gian trong thơ Xuân Diệu có thể là thời gian cụ
thể hay thời gian trừu tượng. Dù trừu tượng hay cụ thể, nhà thơ vẫn luôn nhận thấy
sự đối lập nghiệt ngã giữa thời gian vô tận của vũ trụ và thời gian ngắn ngủi của
một đời người. Trong thơ Xuân Diệu, ông luôn lo sợ mùa Xuân qua đi tuổi trẻ sẽ
không còn và mình sẽ không còn. Nên Xuân Diệu luôn vội vàng giục giã phải sống
gấp.

Tuy nhiên, bên cạnh đó Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu còn đánh dấu những
mốc thời gian Mùa Xuân gắn với những sự kiện trọng đại cụ thể của đất nước.

Các BTQH nói về không gian của THTM Mùa Xuân trong thơ Xuân Diệu
là không gian của trần thế, là không gian Mùa Xuân thấm đấm màu sắc thắm tươi,
hương hoa rực ngát như ở chốn thiên đường.

Các BTQH là động từ/cụm động từ trong thơ Xuân Diệu thường làm vị ngữ
cho các THTM chỉ Mùa Xuân có ý nghĩa chỉ các hoạt động trạng thái diễn ra khi
Mùa Xuân đến, cũng có khi chúng có sự chuyển nghĩa để chỉ sức sống tràn đầy của
Mùa Xuân

4. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng rất lớn của nền thơ ca thế giới. Ông cũng thường
dùng biểu trưng trái tim để chỉ tình yêu. Trong các tác phẩm của nhà thơ Xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Diệu, trái tim đã trở thành tín hiệu thảm mĩ đắc dụng biểu hiện các cung bậc tình
cảm, tình yêu với mọi sắc thái đa dạng của nó. Cũng như THTM Mùa xuân ,
THTM trái tim đã thể hiện tư tưởng nghệ thuật và thi pháp riêng của Xuân Diệu.
Đó là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục. Ông là nhà thơ Việt
Nam đầu tiên đưa vào thơ ca tình yêu đích thực, tình yêu giao cảm tuyệt đối từ
nhục dục đến tâm hồn. Xuân Diệu cho mọi cảm nhận của thơ tình là vấn đề của trái
tim. Người đọc thơ Xuân Diệu từ vô thức đã biến mình thành người có thị hiếu
thẩm mĩ.

“Trái tim” trong thơ Xuân Diệu không những biểu thị ý nghĩa lớn hơn một
TH ngôn ngữ, ý nghĩa của một hình ảnh ẩn dụ-tượng trưng đa định hình, mà còn
thực tại hóa một số nét nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi này, khiến
những nét nghĩa đó trở thành một biểu trưng nghệ thuật mang sắc thái riêng cá
nhân của nhà thơ tài hoa. Và đó chính là nơi nhà thơ thể hiện sự “tự cảm thấy” của
mình , thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của mình, góp phần xác định giọng
điệu riêng của nhà thơ Xuân Diệu.

Luận văn cũng đã xem xét ý nghĩa thẩm mĩ của từng dạng biến thể của
THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu, chỉ ra cụ thể những đơn vị từ ngữ đôi khi
được Xuân Diệu sử dụng trong thơ như THTM đồng nghĩa ngữ cảnh, đồng sở chỉ
cùng gọi trái tim với tư cách là biến thể từ vựng của THTM này.

Các BTKH của THTM trái tim trong thơ Xuân Diệu mang những ý nghĩa
biểu trưng, hay YNTM, độc đáo khác nhau. Đó là trái tim – biểu tượng của tình
yêu nam nữ. Với YNTM này, nhà thơ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn tất cả trái tim
mình cho người yêu. Và đó là trái tim công dân – biểu tượng tình cảm nói chung
của một con người hết lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hi sinh thân mình
cho Tổ quốc. Trái tim đó cũng biểu trưng cho tinh thần đấu tranh không ngừng
nghỉ với bè lũ xâm lược để bảo vệ giang sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Các BTQH của THTM trái tim xuất hiện trong các bài thơ của Xuân Diệu
gồm hai loại : NhữngTHBTQH là những vị từ (bao gồm động từ hoặc cụm động từ
và những tính từ hoặc cụm tính từ) và các danh từ hoặc cụm danh từ.

Trong thơ Xuân Diệu, những vị từ thường làm vị ngữ cho THTM trái tim,
và chúng cũng thường chỉ các hoạt động liên quan đến trái tim. Có khi chúng có sự
chuyển nghĩa để chỉ các cung bậc cảm xúc khác nhau của tình cảm con người.
Những kết hợp này làm cho trái tim trở thành hình tượng sinh động, như: trái tim
than thở, trái tim lạc đường, trái tim mở hé, trái tim lưu lạc, trái tim buồn, trái tim
đau... Trong những kết cấu tín hiệu thẩm mĩ này, các BTQH đã cho thấy khả năng
dùng từ rất linh hoạt và sáng tạo của nhà thơ Xuân Diệu.

Với các BTQH chỉ thời gian và không gian của THTM trái tim trong thơ
Xuân Diệu, chúng ta thấy tình cảm nói chung trong thơ Xuân Diệu luôn gắn bó với
cách mạng. Nói riêng về tình yêu thì với Xuân Diệu tình yêu là muôn đời và thuỷ
chung son sắt.

Do vậy, trái tim trong Xuân Diệu là một tín hiệu thẩm mĩ đa thanh, đa nghĩa.
Nó làm thành nhánh nhỏ trong trường yêu lớn.

5. Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn, luận văn không tránh khỏi nhiều
thiếu sót, vì đây là công trình khoa học đầu tiên áp dụng lí thuyết về THTM để
nghiên cứu phong cách một nhà thơ lớn như Xuân Diệu, nên hẳn quá trình nghiên
cứu còn chưa sâu, chưa đủ. Em kính mong thầy cô và các bạn đồng nghiệp chia sẻ,
đóng góp để luận văn có thể hoàn thiện hơn nữa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH.


1. Phạm Thị Kim Anh (1999): “ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ
có nguồn gốc thực vật trong thơ mới, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP HN.
2. Phạm Thị Kim Anh: Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ tín hiệu thẩm mĩ “Lúa” trong
“thơ Mới”, Tạp chí Ngôn ngữ số 6- 2000
3. Phạm Thị Kim Anh(2005): “ Từ ngữ thuộc trường ngữ nghĩa thực vật trong
thơ Việt Nam, Luận án tiến sĩ, ĐHSP HN.
4. Nguyễn Phan Cảnh ( 2006): Ngôn ngữ thơ, NXB Văn học, H.
5. Hoàng Cát(1970): “Xuân Diệu với cách mạng tháng Tám”, báo Văn nghệ,số
373.
6. Huy Cận (1987) : “ Thơ tình của Xuân Diệu”, sách Xuân Diệu con người và
tác phẩm, NXB Tác phẩm mới, H.
7. Đỗ Hữu Châu (1987) : Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB ĐH & THCN, H.
8. Đỗ Hữu Châu (2005 ): Tuyển tập, tập một, NXBGD, H.
9. Đỗ Hữu Châu (1983):Lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh sáng
của phương pháp luận khoa học của Mác , Tạp chí Ngôn ngữ , số 1.
10. Phạm Minh Diệu(1985): Tìm hiểu một số phương pháp phân tích ngôn ngữ tác
phẩm văn học, Luận văn thạc sĩ.
11. Lê Đạt (2001): “ Mấy ý kiến ngắn về thơ, (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3)
12. Hà Minh Đức( 1974): Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB
Khoa học xã hội, H.
13. Hà Minh Đức (1975): “ Xuân Diệu và những chặng đường thơ cách mạng” ,
Tạp chí Văn học ,số 2.
14. Lê thị Tuyết Hạnh(1990): Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ của Xuân
Quỳnh, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP HN.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 http://www.lrc-tnu.edu.vn
15. Lê Anh Hiền( 1973): “ Tìm hiểu nghĩa ẩn của từ hoa trong thơ ca,Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2.
16. Nguyễn Thị Ngân Hoa( 2005):“ Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca, Luận án tiến sĩ , ĐHSP HN.
17. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2000): Phân tích phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, NXB Đại học Sư phạm, H.
18. Lê Quang Hƣng (1994): “Tinh thần phục hưng trong lý tưởng thẩm mĩ của
Xuân Diệu thời trước 1945”, Tạp chí Văn học,số 7.
19. Lê Quang Hƣng : Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước 1945,NXB giáo
dục Đại học quốc gia Hà Nội
20. Đoàn Thị Đặng Hƣơng (1992): “Xuân Diệu, hoàng tử của thi ca Việt Nam
hiện đại”, Tạp chí Tác phẩm mới, số 3.
21. Nguyễn Lai (1999 ) : Những bài giảng văn ở Đại học, tập 1, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Lai(1983): “ Từ một số luận điểm của Mác suy nghĩ về bản chất tín
hiệu của ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
23. Nguyễn Lai (1996): “ Tìm hiểu sự chuyển hóa từ mã ngôn ngữ sang mã hình
tượng (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
24. Phong Lê (2007) : “ Thơ và văn xuôi trong lịch sử nhìn từ đặc trưng và thể loại
(Tạp chí thơ )
25. Phong Lê(1999): “Xuân Diệu-mùa xuân và tình yêu” , sách Văn, chuyện Văn
và Người, NXB Văn hoá thông tin, H.
26. Lotmam : “ Cấu trúc văn bản nghệ thuật (dịch- Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy ).
27. Nguyễn Đăng Mạnh (1985): “Xuân Diệu và niềm khát khao giao cảm với
đời”, báo Văn nghệ , số 29.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 http://www.lrc-tnu.edu.vn
28. “ Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp- Lí thuyết chủ nghĩa hình thức Nga (Bản dịch
của Trương Đăng Dung, Huyền Trang, Nguyễn Văn Quảng, Phạm Nguyên
Phẩm, Đỗ Lai Thúy, Ngân Xuyên)
29. Vũ Quần Phƣơng (1995): “Thơ tình Xuân Diệu nồng và trẻ”, Tạp chí Văn
học,số 12.
30. Trƣơng Thị Nhàn ( 1995): Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ-
không gian trong ca dao, Luận án tiến sĩ, ĐHSP HN.
31. Saussure F .D. (1973): Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Tổ ngôn ngữ khoa
Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp dịch, NXB khoa học xã hội, H.
32. Trần Đình Sử (1996 ) :“ Lí luận và phê bình văn học, NXB Văn học, H.
33. Trần Đình Sử(1995): “Tính mơ hồ, đa nghĩa của Văn học”, Tạp chí Văn học,
số 1.
34. Chu Văn Sơn (2003): Ba đỉnh cao thơ Mới, NXB Giáo dục,H.
35. Hoài Thanh, Hoài Chân (1993): Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, H.
36. Lý Hoài Thu(2003): Thơ Xuân Diệu trước cách mạng Tháng Tám (Thơ thơ và
gửi hương cho gió), NXBGD, H.
37. Đỗ Lai Thúy (1992): Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội.
38. Đỗ lai Thúy (1999): Từ cái nhìn văn hóa,NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
39. Đỗ Lai Thúy (dịch)( 2001): “ Nghệ thuật như là thủ pháp,NXB Hội nhà văn,
H.
40. Lƣu Khánh Thơ (tuyển chọn và giới thiệu)(2001): Xuân Diệu - tác gia tác
phẩm, NXB Giáo dục,H.
41. Nguyễn Đức Tồn (1996): Phương pháp xác lập và cấu trúc dãy đồng nghĩa
trong biên soạn từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4 .
42. Nguyễn Đức Tồn (1997): Phương pháp giải thích và tìm sự khu biệt ngữ nghĩa
các từ đồng nghĩa, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
43. Nguyễn Đức Tồn(1997): Từ đặc trưng dân tộc của định danh nhìn lại nguyên lí
võ đoán của kí hiệu ngôn ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 http://www.lrc-tnu.edu.vn
44. Nguyễn Đức Tồn ( 2008 ): Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, NXB KHXH, Hà Nội.
45. Thơ tình Xuân Diệu , NXBVH, H., 2006.
46. Hoàng Trinh: ( 1991 )“ Thi pháp học và thế giới vĩ mô của văn học.Tạp chí
văn học số 5.
47. Hoàng Trinh: (1992 )“ Từ kí hiệu học đến thi pháp học .NXB Khoa học xã hội
,H.
48. Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, NXBGD, H., 2001.
49. Xuân Diệu thơ và đời, NXBVH, H., 2004.
II. TÁC PHẨM VĂN HỌC
50.Tuyển tập Nguyễn Bính NXBVH, 1986
51.Tuyển tập Huy Cận, Tập 1. NXBVH, 1986
52.Tuyển tập thơ Xuân Quỳnh-Tự hát
53.Xuân Diệu. Thơ thơ, NXB Đời nay, 1938
54.Xuân Diệu. Riêng chung, NXBVH, 1960
55.Xuân Diệu. Mũi Cà Mau-Cầm tay, NXBVH, 1962
56.Xuân Diệu. Một khối hồng, NXBVH, 1964
57.Xuân Diệu. Gửi hương cho gió, NXB Hoa Tiên, Sài Gòn, 1967 (Tái bản)
58.Xuân Diệu. Hai đợt sóng, NXBVH, 1967
59.Xuân Diệu. Tôi giàu đôi mắt, NXBVH, 1970
60.Xuân Diệu. Hồn tôi đôi cánh, NXBVH, 1976
61.Xuân Diệu. Tuyển tập Xuân Diệu, Tập 1, NXBVH, 1986

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120 http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC

Câu thơ chứa từ “xuân” và Tập


STT Bài thơ
“mùa xuân” thơ
1 Sao buổi đầu xuân êm ái thế Nụ cười xuân T1 T
2 Chưa từng hẹn đến giữa xuân tươi Nụ cười xuân T1 T

3 Xuân của đất trời nay mới đến Nguyên đán T1 T


4 Trong tôi xuân đã đến lâu rồi Nguyên đán T1 T
5 Phải mặn nồng cho mãi mãi đem Phải nói T1
xuân
6 Tôi không chờ nắng hạ mới hoài Vội vàng T1 T
xuân
7 Xuân đang tới nghĩa là xuân đang Vội vàng T1 T
qua
8 Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Vội vàng T1 T
9 Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Vội vàng T1 T
10 Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào Vội vàng T1 T
ngươi
11 Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân Với bàn tay ấy T1 T
12 Làm êm ấm đôi ngày xuân trống trải Mời yêu T1 T
13 Thế là xuân tôi không hỏi chi nhiều Xuân không mùa T1 T
14 Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng Xuân không mùa T1 T
15 Xuân không chỉ ở mùa xuân ba Xuân không mùa T1 T
tháng
16 Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ Xuân không mùa T1 T
17 Xuân là lúc gió về không định trước Xuân không mùa T1
18 Thế là xuân.Ngày chỉ ấm hơi hơi Xuân không mùa T1
19 Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé Xuân không mùa T1
20 Là xuân đó.Tôi đợi chờ chi nữa? Xuân không mùa T1
21 Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta Xuân không mùa T1
22 Thế là xuân.Hà tất đủ chim hoa? Xuân không mùa T1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121 http://www.lrc-tnu.edu.vn
23 Tình không tuổi và xuân không ngày Xuân không mùa T1
tháng
24 Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi Đa tình T1
25 Xuân như đàn,đông cũng quyện Tình mai sau T1
dường tơ
26 Gió xa quá,trời xuân êm bát ngát Bóng đêm biếc T1
27 Anh như cây cối chờ xuân biếc Thơ bát cú T1
28 Thu đi đông lại,bồi hồi sắp xuân Hỏi T1
29 Trước sức xuân sang chợt nở đều Vui T1
30 Cho tôi lại thấy mặt ngày xuân Hiểu T1
31 Có con chim biếc nào đem xuân về Tìm T1
32 Em nhỉ,mấy xuân đằm thắm lạ Chầm chậm đừng quên T1
33 Uổng cho áo mới mừng xuân rộn Rạo rực T2
34 Xuân đầu mùa trong sạch vẻ đơn sơ Tình thứ nhất T2
35 Sẵn kho xuân quên cả túi không tiền Đêm thứ nhất T2
36 Trên gác về trống lạnh cả lòng xuân Đêm thứ nhất T2
37 Hãy làm dáng điệu xuân ôm ấp Dâng T2
38 Để sáng xuân đen đỏ lẫn cùng vàng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa T3
Năm thứ nhất
39 Bốn xuân no ấm mãi hòa bình Lí tưởng T4
40 Mà thu sướng, nhuộm màu xuân mát Nhớ mùa thu tháng tám T4
mát
41 Đỏ rất xuân, thơm rực máu bông Đẻ một hành tinh T4
hường
42 Xuân thế gian, Người đã sẻ cho trời Đẻ một hành tinh T4
43 Trăng đã làm thao thức biết bao Xuân T4
xuân
44 Buổi đầu xuân- đi giữa buổi đầu tiên Xuân T4
45 Xuân đậm hồng như một nụ cười Hoa T4
46 Như hoa bên suối xuân Cụ Muỗi T4
47 Thân làm giá súng, thân làm cành Mộ Bế Văn Đàn T4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122 http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuân
48 Sức xuân vùn vụt đang lên Tội ác phá rừng T5
49 Ba xuân màu biếc xanh hương rợp Tội ác phá rừng T5
đời
50 Ngày xuân hái lộc cùng hoa trong Đề từ T6
này
51 Xuân đầy mặt đất thu ngang bức rèm Anh nhớ thương ai-1961 T6
52 Ánh xuân mỗi sớm hồng tươi mượt Thơ tình mùa xuân T6
53 Màu tươi từ lúc xuân thì Aragông và Enxa T6
54 Đất trụi trần thành những dặm đường Ông cụ Trồng cây T7
xuân
55 Những cánh chim xuân vỗ khắp trời Anh lính trẻ mới vào quân giải T7
phóng
56 Gió xuân về huyện Cẩm Khê Xã thanh Nga T7
57 Đã mang quả tơ xuân Mẹ con T7
58 Như con chim chuyền cành xuân Em nhỏ hát bài (giải phóng Miền T7
nhảy nhót Nam)
59 Hây hây mười chín xuân hồng Đánh lên đầu Mỹ T7
60 Mưa sau cơn hạn, mượt mà cỏ xuân Mùa xuân T7
61 Một thiên thần tuổi trẻ lúc xuân sang Khúc hát tình yêu và đất nước T7
62 Hỡi người thợ điệu thắm thiết đời (Nguyễn Văn Trỗi) T8
xuân
63 Lửa xuân ấy là xuân hậu bị Em nhỏ Hương Khê T8
64 Nhớ em xuân đã sang hè hai năm Hiểu em Nhơn T8
65 Việt Nam dân chủ cộng hòa, sức Cây số hai mươi T8
xuân
66 Trách chi xuân cũng gọi rằng xoan Xoan Ngọc Long T8
67 Thăm cảnh vật hồi xuân Bản đồ huyện ý Yên T8
68 Sang xuân trắng một rừng hoa sở Nhớ xã Thanh Nga T8
69 Trời nước thấy xuân đến Cây trông đứng trước biển T8
70 Ngày xuân thăm Hà Bắc Bác Hồ về thăm một làng Hà Bắc T9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123 http://www.lrc-tnu.edu.vn
71 áo anh trắng, trẻ như tuổi anh xuân ánh sáng trên cửa biển Hải Phòng T9
72 Mầm xuân vẫn giữ bền Bài thơ tre Bạch Dương-1965 T9
73 Sáu xuân, sáu hè, sáu đông Xem bảng 67 T9
74 Đất Thái Bình cuối xuân 67 Một cái ao ở Thái Bình T9
75 Như con mắt thanh xuân Đôi đũa mun T9
76 Xuân mười tám tuổi nguyện hy sinh Nguyễn Thị Non- Liệt sĩ T9
77 Tuổi xuân em mới quá trăng tròn Nguyễn Thị Non- Liệt sĩ T9
78 Xuân còn hè đã thoảng bay Chớm sang vị hè T10
79 Ý xuân trong lúc chứa chan Chớm sang vị hè T10
80 Mỗi tế bào của tạo vật đều xuân (Tạo thần tiên) 1962-1963 T10
81 Bên cạnh Hồ Tây gió thổi xuân Xuân bên Hồ Tây T10
82 Gió đưa xuân sắc cảnh thanh tân Xuân bên Hồ Tây T10
83 Sang xuân hoa cải gió đua rập rờn Lá lúa xuân 1968 T10
84 Thấy xuân thêm sức, muốn bừng lên Lá lúa xuân 1968 T10
85 Gió xuân thổi tới tận miền Nam Lá lúa xuân 1968 T10
86 Vũ thắng trăm phần cấy lúa xuân Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
87 Sang vụ đông xuân năm 70 Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
88 Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
89 Trăm phần trăm ấy lúa xuân reo Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
90 Gặt thóc xuân hai tạ một sào Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
91 Lúa xuân khi mới về Lúa xuân xã Nam Bình T10
92 Ô! Cái lúa xuân này Chè suối Giàng 1970 T10
93 Lúa xuân là chị lúa xanh Chè suối Giàng 1970 T10
94 Khi gió xuân thơm mới thổi về Chè suối Giàng 1970 T10
95 Sang xuân đất nước sang đà Mùa xuân trong rừng Cúc T10
Phương
96 Sắc xuân ai dệt ai làm Cành hoa mận T10
97 Gió xuân động khẽ cành trên Cành hoa mận T10
98 Mang những lá tơ xuân Cây liễu trẻ T10
99 Một sớm mai xuân em ở bên Một sớm mai xuân T10
100 áng hương tuổi trẻ hôm xuân ấy Một sớm mai xuân T10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124 http://www.lrc-tnu.edu.vn
101 Mối tình vương vấn lúc xuân sang Một sớm mai xuân T10
102 Và cả trái đất hào hùng như một Năm mươi năm liên bang Xô T10
người hít thở gió xuân Viết
103 Mùa xuân chín ửng trên đôi má Nụ cười xuân T1
104 Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm Mời yêu T1
105 Xuân không chỉ ở mùa xuân ba Xuân không mùa T1
tháng
106 Mùa xuân khó chịu quá đi thôi Đơn sơ T1
107 Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi Dối trá T1
108 Là cả mùa xuân em tặng anh Vui T1
109 Chỉ còn lại của mùa xuân quá vãng Hè T2
110 Máu mùa xuân chưa nở hết bông Tình thứ nhất T2
hoa
111 Một buổi chiều mùa xuân lồng lộng Một buổi chiều T2
112 Ào ạt tới như mùa xuân đổ suối Lệ T4
113 Thu Việt Nam có nghĩa một mùa Nhớ mùa tháng Tám T4
xuân
114 Từ trong ruộng đất, đợi chút mùa Con sáo sang sông T4
xuân
115 Đem lại mùa xuân trên mặt đất liền Lời thề T5
quê
116 Anh như đất ủ muốn thành mùa Qủa trứng và lòng đỏ T6
xuân
117 Mùa xuân về trong tiếng ca chim Thơ tình mùa xuân T6
118 Một suối nào tuôn mãi nước mùa Aragông và Enxa T6
xuân
119 Mùa xuân một lứa trẻ băng khôi Anh lính trẻ mới vào quân giải T7
phóng
120 Cuối mùa xuân nở hoa vàng anh Trong rừng Qùy Châu T7
121 Ma không bối rối với mùa xuân Một khối hồng T7
122 Ngày làm nắng ấm rực mùa xuân Một khối hồng T7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 125 http://www.lrc-tnu.edu.vn
123 Đã mọc cỏ mùa xuân Viên đá trên sông Đà T7
124 Nhìn xa đất nước đang làm mùa Đứng trên đồi dẻ Nhã Nam T7
xuân
125 Mùa xuân đến cũng thêm hoa đón Chị Tạ Thị Kiều thăm vườn hoa T8
Thống Nhất
126 Anh là tác giả của mùa xuân Một chân trời hửng sáng T9
127 Có lẽ mùa xuân líu lưỡi tôi Trên bãi sông Hồng T9
128 Là CNXH,mùa xuân chiến thắng Đứng bên chân Bác T10
đời đời
129 Tất cả Bác Hồ từ khi tuổi trẻ đến 79 Xem triển lãm “Nhân dân thế giới T10
mùa xuân thương tiếc Bác Hồ”
130 Mùa xuân đã về hương đẫm ướt Xuân bên Hồ Tây T10
131 Tất cả mùa xuân đẹp lắm rồi Xuân bên Hồ Tây T10
132 Lúa xuân mang hẳn mùa xuân lại Tặng hợp tác xã Vũ Thắng T10
133 Mùa xuân lông tuyết búp non thêu Chè suối Giàng T10
134 Mùa xuân:dưa chuột,cà chua,cam Bài thơ những đồ hộp hoa quả T10
vàng thơm dậy
135 Mùa xuân trong rừng Cúc Phương Mùa xuân trong rừng Cúc T10
Phương
136 Xây dựng mùa xuân xã hội Mùa xuân trong rừng Cúc T10
Phương
137 Chưa có con người nhưng tạo vật đã Anh địa chất và những triệu năm T10
có mùa xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 126 http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tập
STT Câu thơ có chứa từ trái tim Tên bài thơ
thơ
1 Hạnh phúc ngừng giữa đôi trái tim đau Biệt li êm ái T1
2 Ghì trước trái tim ghì trước ngực Bài thơ tuổi nhỏ T1
3 Trái tim buồn như một bãi tha ma Dối trá T1
4 Mà trái tim đã ghê dáng hững hờ Dối trá T1
5 Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc Muộn màng T1
6 Trái tim em thức đập Trái tim em thức đập T1
7 Anh gìn giữ trái tim Trái tim em thức đập T1
8 Trái tim em lạc đường Trái tim em thức đập T1
9 Anh là trái tim thương Trái tim em thức đập T1
10 Hãy vẫn ngừng hơi nghe trái tim Huyền diệu T1
11 Nghìn trái tim mang trong một trái tim Cảm xúc T1
12 Máu vu vơ theo giữa trái tim đời Tình mai sau T1
13 Trái tim chiều than thở giữa lau cao Tình mai sau T1
14 Ngôi nhà, cánh cổng, trái tim Đời anh em đã đi qua T1
15 Vô tình chôn giữa trái tim thơ Ngẩn ngơ T1
16 Kể từ khi có trái tim Tình yêu muốn hóa vô biên T1
17 Có trái tim đựng tràn trề nhựa đất Một buổi chiều TT1
18 Kẻ đựng trái tim trìu máu đất Hư vô T1
19 Con chim hồng, trái tim nhỏ chủ tôi Giục giã T2
20 Không cần nói trái tim dường mở hé Kỉ niệm T2
21 Trái tim ngừng trong một lúc vô biên Kỉ niệm T2
22 Trên cành hồng và những trái tim Mới yêu T2
23 Đổi trái tim có được không Cầu an T4
24 Trái tim tôi nó thường đau khổ Cầu an T4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 127 http://www.lrc-tnu.edu.vn
25 Trái tim tôi nhoi nhói một bên Cầu an T4
26 Đổi cho tôi một trái tim như thế Cầu an T4
27 Một bàn tay, một trái tim Đẻ một hành tinh T4
28 Nhanh như chớp,trái tim con đầy uất Chặt cái bùi ngùi T4
29 Qua những trái tim đời vẫn lên đường Đi với dòng người T4
30 Ồ,trái tim ta vững! Cao T4
31 Trong đời lũ trái tim ngoài ngực Đấu tranh T4
32 Sao tôi chỉ có trái tim này Căm giận T5
33 Một quả lựu đạn trái tim tôi Căm giận T5
34 Ta yêu mình đến nỗi trái tim ta xé vỡ Lời thề T5
35 Ta muốn nói với mình:- Hỡi trái tim ta Lời thề T5
36 Anh chị vào đây hẹn trái tim Vườn hoa Thống Nhất T5
37 Từ xa tiếng đập trái tim Từ xa bờ cỏ đường quê T6
38 Bóng hình còn giữa trái tim vọng hoài Anh nhớ thương ai T6
39 Trong trái tim mang em đọng lại Bá Nha, Trương Chi T6
40 Trong trái tim nhưng vẫn còn tìm Bá Nha, Trương Chi T6
41 Kể từ khi có trái tim Tình yêu muốn hóa vô biên T6
42 Mang đi một trái tim ngời Con người bay vào vũ trụ T6
43 Ôi trái tim tuổi nhỏ,trái tim sắp sửa Em nhỏ hát bài “Giải phóng T7
thiếu niên miền Nam”
44 Anh mượn cả trái tim em máu mới Khúc hát tình yêu và đất nước T7
45 Đặt trái tim trong đá Viên đá trên sông Đà T7
46 Mang một trái tim vàng Trên bãi biển Trà Cổ T7
47 Có sức diệu kì lay động trái tim Nghe tiếng gọi Bác Hồ toàn dân T8
đánh thắng giặc Mĩ
48 Chỉ là một trái tim ta muôn thủa Những chùm chiến thắng T8
49 Chính là lúc trái tim càng sáng rực Những đêm hành quân T8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 128 http://www.lrc-tnu.edu.vn
50 Ôi trái tim nhỏ xíu Đi thăm con T8
51 Trái tim tôi chứa cả thành một đại Đi theo miền Nam từ Hà Nội T9
dương vào tới Vĩnh Linh
52 Đôi ta mang đẹp trái tim tháng Mười Lên tới sao Kim T9
53 Như thủa tình yêu gọi trái tim Đêm ở Thái Bình T9
54 Trái tim anh chỉ một Sao mọc T9
55 Trái tim ta chuyện thầm thì cùng nhau Anh về ấm Thượng T9
56 Theo nhịp trái tim tôi,tôi lại bước ra Đi đến thăm nhà đồng chí Lê T9
ngoài Nin
57 Khi mẹ trở lại thăm nhà mẹ vẫn cứ Sự sống chẳng bao giờ chán nản TT9
mang trái tim vĩ đại
58 Trái tim chúng ta là một đá nam châm Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
cực mạnh!
59 Trái tim đập giữa cuộc đời,như chiếu Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
lên trời tỏa ánh
60 Trái tim dũng mãnh đập hộ cho cả thế Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
gian
61 Trái tim con người vẫn làm chủ Sự sống chẳng bao giờ chán nản T9
62 Tiền tuyến của ta kia,trái tim ta ở đó Từ Cao Lạng tới Vĩnh Linh T9
63 Ánh sáng của trái tim mà lại chinh ánh sáng trên cửa biển Hải T9
phục được toàn thế giới! Phòng
64 Bác Hồ nằm trong trái tim thế giới Xem triển lãm “nhân dân thế T10
giới thương tiếc Bác Hồ”

65 Trái tim xưởng thợ, dặm trường đồng Lê Nin, vầng trán tôi yêu T10
quê
66 Trái tim này tôi đã thấy mòn đâu Nhân dân đáng yêu T10
67 Trái tim nhân dân gửi vào ngực của tôi Nhân dân đáng yêu T10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 129 http://www.lrc-tnu.edu.vn
68 Nhân dân đáng yêu,trái tim là cả bầu Nhân dân đáng yêu T10
trời
69 Trái tim chúng ta hiến máu cho cả Nhân dân đáng yêu T10
cuộc đời
70 Hai mươi bảy năm trong trái tim tôi Nhân dân đáng yêu T10
mỗi mùa lại nở
71 Hiện nay trái bom duy nhất của tôi là Nguyễn Thái Bình T10
trái tim tôi
72 Trái tim này có thể nổ vì đại nghĩa Nguyễn Thái Bình T10
73 Hãy dừng lại đây hỡi trái tim ta Cái ngày không quên ở Điện T10
Biên Phủ
74 Hãy dừng lại ở phút này hỡi trái tim ta Cái ngày không quên ở Điện T10
Biên Phủ
75 Con đường đi tới trái tim em Anh đã giết em
76 Anh đã giết em, anh chôn em vào trái Anh đã giết em
tim anh
77 Nghìn trái tim mang trong một trái tim Cảm xúc
78 Những câu thơ chứa từ Tim
79 Tim ấp mộng những hồn sầu rã mục Đa tình T1
80 Thấy máu chảy thấy tim ngừng kính Việt Nam dân chủ cộng hòa T3
cẩn năm thứ nhất
81 Đã vào làm cốt lõi của tim tôi Đấu tranh T4
82 Trong tim, trong mắt ngọc vô hình Ngọc tặng T4
83 Tim xoay cả cửa nhà Ốm T4
84 Mạch tim đau, xưởng thợ vẫn không Ốm T4
dừng
85 Gĩư lấy tim gan không chịu rụng rời Thép cứng nhất là thép người T4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 130 http://www.lrc-tnu.edu.vn
86 Dòng sông Bến Hải chảy qua tim Chị Vân T5
87 Uất từ lòng chị đến tim ta Chị Vân T5
88 Đạn nhắm tim tôi bắn thẳng mà Em ứng T5
89 Đôi tim gắn với dài lâu triệu người Tình yêu muốn hóa vô biên T6
90 Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ra Sao máu đỏ đánh lên đầu Mĩ T6
91 Yếu tim, mắt kém, đương sao nổi Mã pí lèng T7
92 Một khối hồng đau đáu trong tim Một khối hồng T7
93 Đỏ rừng rực máu trong tim chảy Người thợ rèn nghe chuyện T7
miền Nam
94 Ngăn sao máu đỏ vọt từ tim ta Đánh lên đầu Mĩ T7
95 Ta hẹn thề dành lại nửa tim ta Khúc hát tình yêu và đất nước T7
96 Nay càng thêm tha thiết với tim ta Hỡi hùng khí nước Việt Nam T8
muôn thuở...
97 Cửu long gầm dồn dã ở trong tim Hỡi hùng khí nước Việt Nam T8
muôn thuở
98 Lo từng tim đập chậm hay mau Các cháu đi sơ tán T8
99 Mà ngún trong tim rực lửa đào Hiểu em Nhơn T8
100 Lòng của ruộng hay tim gan của núi Đi theo Bác Hồ T8
101 Là tim ngay thẳng như trời thanh cao Tôi giàu đôi mắt T9
102 Tháng ngày càng khắc Bác vào tim con Bác ơi T9
103 Máu của tim mình đã gửi vào Nam Tôi lắng nghe những phố hè T9
trong ấy
104 Ngực anh thở hai hơi, tim anh hòa đôi Sức mạnh những người tuyệt T10
máu thực
105 Đóa hoa hồng đỏ bên tim khẽ cài Tạo thần tiên T10
106 Có lẽ trong tim Trên bờ hắc hải T10
107 Cũng làm bằng tinh hoa trời đất hòa Những đóa hoa hồng T10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 131 http://www.lrc-tnu.edu.vn
với máu nóng tim người
108 Ta đã cất dưới đá núi Tây Nguyên một Những ngày tháng tư năm 1972 T10
mảnh tim ta đỏ rực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 132 http://www.lrc-tnu.edu.vn

You might also like