You are on page 1of 29

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG THỊ THẮM

§¶NG NHËN THøC Vµ TRANH THñ THêI C¥


TRONG CUéC KH¸NG CHIÕN CHèNG Mü,
CøU N¦íC (1954 - 1975)

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam


Mã số : 62 22 03 15

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

HÀ NỘI - 2019
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Nguyễn Mạnh Hà


2. PGS,TS. Nguyễn Văn Bạo

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án


Trong chiến tranh, thời cơ là một vấn đề có ý nghĩa then chốt. Hiểu
được thời cơ, nắm được vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của thời cơ và
biết vận dụng linh hoạt sẽ có tác dụng xoay chuyển và đảo lộn toàn bộ
cục diện của cuộc chiến. Vì thế, tạo thời cơ cho cách mạng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh
hơn gấp nhiều lần và giành được những thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi đó
do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó có thành công của việc
nhận thức và tranh thủ thời cơ. Điều đó đã được đúc rút, vận dụng sáng
tạo, trở thành nghệ thuật đặc sắc trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc
lập của dân tộc.
Thắng lợi của 21 năm kháng chiến chống Mỹ có nhiều nguyên nhân
như: do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng với đường lối kháng chiến độc
lập tự chủ, sáng tạo; do quyết tâm chiến đấu hy sinh, tinh thần dũng cảm
của quân và dân hai miền Nam - Bắc, trong đó quân và dân miền Nam đã
trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ - một kẻ thù lớn mạnh nhất lúc đó;
do có sự ủng hộ quốc tế, nhất là của Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước
khác trên thế giới; do việc Đảng đã nhận thức, đánh giá đúng về kẻ thù
xâm lược... Tuy nhiên, về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến,
cũng còn những khía cạnh, vấn đề chưa được phân tích, lý giải một cách
đầy đủ và sâu sắc. Quá trình Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ, tạo
bước nhảy vọt đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi và kết thúc trong điều
kiện nhanh nhất có thể, là một trong những vấn đề như vậy.
Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống
lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ (1954-1975), xuất phát từ tư duy nhạy bén
trong việc nhận thức thời cơ, tạo thời cơ, tranh thủ chỉ đạo thời cơ, về so
sánh lực lượng cách mạng giữa ta và địch, nắm vững quy luật vận động của
2

chiến tranh, từ đó Đảng đã chỉ đạo tranh thủ thời cơ kịp thời, tạo ra những
bước ngoặt có ý nghĩa quyết định. Ðảng đã chứng tỏ tầm tư duy chiến lược,
sớm nhận thức quy luật vận động của chiến tranh, dự báo thời cơ cách
mạng, chuẩn bị và tranh thủ thời cơ để thúc đẩy tiến trình cách mạng phát
triển. Đảng không thụ động chờ thời cơ, mà tích cực, chủ động tiến hành
đấu tranh để tạo ra thời cơ, từng bước thực hiện mục tiêu "đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Việc nhận thức, chỉ đạo tranh thủ thời cơ trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975) là quá trình nhận thức, dự báo và thúc đẩy
thời cơ cách mạng ở tầm chiến lược để từng bước đánh bại quân Mỹ, đẩy
quân Mỹ ra, tạo điều kiện đánh đổ toàn bộ quân đội và chính quyền Sài
Gòn ở miền Nam. Đó là cơ sở để Đảng tiến hành chuẩn bị lực lượng,
chuẩn bị chiến trường, tạo thế, tạo lực và nắm thời cơ mở cuộc tổng tiến
công và nổi dậy với tinh thần quyết chiến, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.
Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, đây còn là vấn đề có ý nghĩa về lý luận
và thực tiễn sâu sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày
nay, khi Đảng nhận thức được thời cơ và thách thức đặt ra trong bối cảnh
mới để đề ra chủ trương, đường lối phù hợp, hiệu quả nhằm tận dụng và
phát huy thời cơ, hạn chế thách thức và dần dần chuyền hóa thách thức
thành thời cơ để xây dựng đất nước ngày càng to đẹp hơn, giàu mạnh hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh quyết định lựa chọn
đề tài: "Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)" làm luận án tiến sĩ Lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), góp phần làm sáng tỏ
những thành tựu, hạn chế và đúc rút những kinh nghiệm về vai trò lãnh
đạo có ý nghĩa quyết định của Đảng đối với thắng lợi của kháng chiến
chống Mỹ.
3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm
vụ chủ yếu:
- Trình bày khái quát tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài.
- Trình bày khái quát hoàn cảnh lịch sử và chủ trương, đường lối tác
động đến quá trình Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
- Trình bày có hệ thống nhận thức của Đảng về thời cơ và chỉ đạo
tranh thủ thời cơ trong từng giai đoạn, thời điểm cụ thể của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
- Nhận xét những thành công, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm
quý về việc nhận thức và tranh thủ thời cơ trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975) của Đảng, có thể tham khảo cho công cuộc đổi
mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trước những biến đổi lớn
lao của tình hình thế giới và trong nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình Đảng từng bước nhận
thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ (ở tầm chiến lược) trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). (Mặc dù trong giai đoạn này,
Đảng có tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam, nhưng để thống nhất cách
gọi, nghiên cứu sinh xin được gọi chung là Đảng như tên của luận án).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nhận thức và
chỉ đạo tranh thủ thời cơ của Đảng được thể hiện thông qua những quan
điểm, chủ trương và thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975).
- Về không gian: Trên địa bàn miền Nam Việt Nam, địa bàn miền
Bắc và trên phạm vi quốc tế.
- Về thời gian: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975) và điểm lại một cách khái quát thời kỳ trước 1954, khi Đảng bước
4

đầu nhận thức, tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến tranh và
cách mạng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu như phương pháp lịch
sử, phương pháp lôgic, ngoài ra còn vận dụng các phương pháp phân tích
hệ thống, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn...
để làm rõ nội dung nghiên cứu.
4.3. Về nguồn tư liệu
+ Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, văn kiện của Đảng và một số tác phẩm của các nhà đồng
chí đạo Đảng và Nhà nước về chiến tranh, cách mạng.
+ Các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục miền
Nam; thông tư, báo cáo của Quốc hội, Chính phủ, và các quyết định của
các bộ, ban, ngành liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
+ Luận án tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học và công trình khoa học, các luận văn, luận án, bài tạp chí liên
quan về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở
trong nước và ngoài nước.
5. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn
5.1. Đóng góp về khoa học
- Trình bày hệ thống quá trình Đảng nhận thức và chỉ đạo tranh thủ
thời cơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
- Bước đầu đưa ra những nhận xét và rút ra những kinh nghiệm về
quá trình Đảng nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
5

5.2. Đóng góp về thực tiễn


Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tư liệu tham khảo
cần thiết cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách phát triển của
đất nước trong công cuộc đổi mới, nhằm tranh thủ tối đa sức mạnh nội
lực và ngoại lực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Đồng thời, luận án mong muốn là nguồn tư liệu tham khảo
cần thiết cho cán bộ, giảng viên, học viên và các nhà khoa học trong
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng như trong nghiên cứu giảng dạy môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam và một số môn học lý luận chính trị khác.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận án tập trung gồm 4 chương, 8 tiết.

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Thời cơ và vai trò, tầm quan trọng của thời cơ trong chiến tranh
Thời cơ là thời điểm lịch sử thuận lợi nhất, có đủ điều kiện nhất để
tiến hành một hành động tạo kết quả theo ý đồ của mình. Trong chiến
tranh, để giành thắng lợi, điều căn bản là hình thành sức mạnh quyết định
cả về thế và lực ở thời điểm quyết định. Có thực lực mới tạo được thời cơ
và khi thời cơ đến mới có thể kịp thời lợi dụng nó.
Vấn đề về thế, lực và mối quan hệ biện chứng giữa thế, lực và thời.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, yếu tố thời cơ liên quan
trực tiếp đến mối quan hệ lực - thế - thời. Đây là ba yếu tố có quan hệ
hữu cơ với nhau tạo ra chiến thắng, đặc biệt là đối với các cuộc chiến
tranh, chiến dịch, chiến đấu mà lực lượng ta ít hơn đối phương thì thời
thế lại có tác dụng quyết định đến sự phát huy lực lượng nhỏ thành sức
mạnh lớn hơn địch để chiến thắng đối phương.
6

1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước nói chung
Công trình: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-
1975 (9 tập); Lịch sử quân sự Việt Nam (tập 11, tập 12); Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học; Những vấn đề
chính yếu trong lịch sử Nam Bộ kháng chiến (1954-1975); Hiệp định
Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn (tập
1: Đánh và đàm, tập 2: Ký kết và thực thi); Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968, giá trị lịch sử; Đại thắng mùa xuân 1975, sức mạnh của
trí tuệ Việt Nam; Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam;
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam, sự lựa chọn lịch
sử; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh" của đế quốc Mỹ từ 1969 đến 1975; Cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước trong giai đoạn 1969-1972: Chống phá bình định nông
thôn ở Nam Bộ.
Công trình của tác giả nước ngoài: Sự lừa dối hào nhoáng, John
Paul Van và nước Mỹ ở Việt Nam; Từ tòa bạch ốc đến dinh độc lập lập;
Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam; Nền
hòa bình mong manh: Washington, Hà Nội và tiến trình của Hiệp định
Paris; Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam;
55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ; Giải phẫu cuộc chiến tranh (Anatomy of
a war) Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại (tập 1 và tập 2);
Cuộc tháo chạy toán loạn; Cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam và
chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam; v.v...
Những công trình trên đã tái hiện một thời kỳ lịch sử đầy sôi động
của Việt Nam. Trong đó, các tác giả đồng thời cũng là người từng giữ
chức vụ, trọng trách quan trọng trong bộ máy chính quyền Mỹ. Do đó,
các công trình đã đề cập khá toàn diện trên mọi góc cạnh của cuộc chiến,
chỉ ra những góc khuất, những âm mưu giấu kín của Mỹ, những tư liệu
của Lầu năm góc chưa một lần công bố trong suốt cuộc chiến tranh.
7

1.1.3. Nhóm công trình đề cập trực tiếp tới vấn đề thời cơ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Công trình: Nghệ thuật biết thắng từng bước; Vấn đề tạo lực, lập
thế, tranh thời trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh; Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1945-1975; Mấy
vấn đề về nghệ thuật quân sự trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1975; Một số vấn đề về nghệ thuật đánh trận then chốt quyết định mở
đầu chiến dịch tiến công trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc; Thời cơ và
quyết tâm chiến lược (bộ Đại thắng mùa Xuân năm 1975); Nghệ thuật
đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam; Tết Mậu Thân năm 1968,
bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Những năm
tháng quyết định; Tám năm thi hành Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam;
Đại thắng mùa Xuân năm 1975; Đại thắng mùa xuân năm 1975 kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam; Quyết định
lịch sử; Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng; Tổng hành dinh trong mùa
xuân toàn thắng; Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Sau
50 năm nhìn lại; Từ cuộc tổng tiến công Mậu Thân đến bàn đàm phán
Paris; Về đại thắng mùa Xuân năm 1975 qua tài liệu của chính quyền
Sài Gòn v.v...
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố
và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
1.2.1. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình
đã công bố
- Đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đã
có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề của cuộc kháng chiến
chống Mỹ của cả về phía Việt Nam và phía Mỹ; hoặc nghiên cứu từng
mặt như: quân sự; ngoại giao; các hình thức mặt trận; vấn đề hậu phương
trong kháng chiến chống Mỹ; công tác binh vận...
- Có nhiều công trình đề cập đến cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam;
lý do tại sao Mỹ thất bại trên chiến trường miền Nam; quy mô và tính chất
khốc liệt của cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam; quá trình Mỹ từng bước can
8

thiệp, leo thang và lún sâu vào chiến tranh xâm lược ở Việt Nam v.v...
- Đề cập đến vấn đề thời cơ trong các cuộc kháng chiến chống xâm
lược đã có nhiều bài viết, công trình khoa học đã được xuất bản. Tuy nhiên,
đa phần các công trình đó đều tập trung nghiên cứu lý luận thời cơ, vai
trò của thời cơ trong bình diện chung của các cuộc chiến tranh vệ quốc.
- Tìm hiểu và nghiên cứu về thời cơ trong kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975) ít nhiều đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập ở
một số chiến dịch cụ thể như: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân
năm 1968; chiến dịch Tây Nguyên; chiến dịch Hồ Chí Minh… được công
bố thông qua các hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế, các bài viết của
một số tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
- Nghiên cứu về thời cơ trong mối quan hệ (thời, thế, lực) và dưới góc
độ nghệ thuật quân sự trong chiến tranh đã được các nhà nghiên cứu đề cập
ở hầu hết các công trình thuộc về mảng nghệ thuật quân sự. Thông qua các
công trình đó, vấn đề thời cơ luôn được coi trọng và coi thời cơ là lực lượng
hết sức quan trọng ở trước, trong và sau mỗi chiến dịch, chiến lược quân
sự quan trọng để kết thúc hoặc mở ra giai đoạn mới của cuộc chiến tranh.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
- Làm rõ các yếu tố tác động đến quá trình nhận thức và chỉ đạo
tranh thủ thời cơ của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
ở hai giai đoạn: 1954-1968 và 1968-1975.
- Làm rõ quá trình Đảng nhận thức thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ,
giành thắng lợi quyết định trên chiến trường và mở ra hướng phát triển
mới trong mặt trận ngoại giao qua hai giai đoạn lớn của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, đó là giai đoạn từ 1954-1968 và giai đoạn từ 1969-1975.
- Nhận xét ưu, nhược điểm và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình
Đảng nhận thức thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Phân tích ý nghĩa của những
kinh nghiệm đó và vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập
sâu, rộng vào thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975),
9

đã có một khối lượng công trình nghiên cứu đồ sộ cả trong nước và ngoài
nước. Các công trình đều hướng đến lý giải vì sao Mỹ lại thất bại trong
chiến tranh xâm lược ở Việt Nam và khẳng định vai trò to lớn của Đảng
trong lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Nghiên cứu nhận thức của Đảng về thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời
cơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho đến nay vẫn còn là
một vấn đề khá mới, chưa được đề cập đến mang tính hệ thống, xuyên
suốt cuộc kháng chiến.
Nghiên cứu quá trình Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), nhằm làm rõ vấn đề nhận
thức thời cơ, lợi dụng thời cơ và tranh thủ thời cơ tạo lợi thế giành thắng
lợi cuối cùng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chương 2
NHẬN THỨC VÀ CHỈ ĐẠO TRANH THỦ THỜI CƠ CỦA ĐẢNG
(1954-1968)

2.1. Những yếu tố tác động đến nhận thức của Đảng về thời cơ và
chỉ đạo tranh thủ thời cơ
2.1.1. Bối cảnh tình hình sau Hiệp định Giơnevơ
Trên thế giới, tình hình diễn biến có nhiều điểm thuận lợi, đó là: Sự
hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa và quá trình củng cố, phát triển hệ
thống làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một nhân tố quan trọng góp
phần ngăn chặn chính sách gây chiến của chủ nghĩa đế quốc, giữ gìn hòa
bình và sự ổn định trên thế giới; sự phát triển mạnh của phong trào giải
phóng dân, phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, vì hòa bình dâng
lên mạnh mẽ; sự phát triển mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng cùng
tấn công vào chủ nghĩa đế quốc.
Cùng với những nhân tố thuận lợi khách quan đưa lại, ở trong nước,
sau Hiệp định Giơnevơ, khi quân đội Pháp rút đi, miền Bắc bước vào thời
kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thuận lợi hết sức cơ bản của
10

cách mạng Việt Nam, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng cả nước, là
"cơ hội", "thời cơ" để có thể tiến tới đấu tranh cho hòa bình, thống nhất
nước nhà trong hai năm tới.
Tuy nhiên, cách mạng Việt Nam sau năm 1954, cũng có hàng loạt
những khó khăn chồng chất: Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với những
hậu quả sau chiến tranh; tình hình an ninh ở miền Bắc vẫn còn phức tạp
do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động phá hoại. Ở miền
Nam, tạm thời thuộc quyền kiểm soát của đối phương. Cách mạng Việt Nam
phải đương đầu với đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế,
quốc phòng hùng mạnh nhất thế giới, có chiến lược toàn cầu phản cách
mạng và có dã tâm cướp nước ta bằng chủ nghĩa thực dân mới v.v...
2.1.2. Đảng nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ trước tháng 7
năm 1954
Đảng nhận thức và tranh thủ thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Ngay từ năm 1939, do nhận thức rõ tình hình thế giới và trong nước,
đánh giá mặt mạnh, yếu của địch và sự tất yếu phải nổ ra cuộc cách mạng
dân tộc trong thời kỳ này, Đảng đã trực tiếp chuẩn bị cho khởi nghĩa
giành chính quyền cả về đường lối, căn cứ địa và lực lượng cách mạng,
tạo thời cơ, nắm và chớp thời cơ kịp thời và chính xác. Tính từ khi Nhật
đầu hàng Đồng minh cho đến khi quân Đồng minh vào nước ta, thời cơ
cho cách mạng chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn. Nếu không có sự
nhận định đúng và chớp thời cơ nhanh chóng của Đảng, thời cơ đó sẽ trôi
qua, cách mạng khó thắng lợi.
Đảng nhận thức và lãnh đạo tranh thủ thời cơ trong kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Trong quãng thời gian hai năm 1945-1946, Đảng luôn nỗ lực tận
dụng thời cơ giữ gìn hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh bằng cuộc chiến
đấu ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao ở miền Bắc với quân đội Trung
Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch và quân Pháp bằng các nhân
nhượng, thỏa thuận, cố gắng tránh đối đầu quân sự. Trước dã tâm và hành
động của Pháp, Đảng, Chính phủ vẫn nỗ lực tối đa những cơ hội mong
11

manh để giữ gìn hòa bình dân tộc.


Từ ngày cuộc kháng chiến bùng nổ, mặc dù kẻ địch hung hãn và hiếu
chiến, Đảng vẫn luôn nỗ lực tranh thủ những khả năng, cơ hội hòa bình
hiếm hoi có được thông qua các cuộc tiếp xúc với giới chức chính quyền
Pháp nhằm kết thúc chiến tranh, giữ gìn hòa bình dân tộc, song không
đem lại hiệu quả. Năm 1954, Đảng đã triệt để tận dụng thắng lợi vang dội
của Điện Biên Phủ làm cơ sở mở ra thời cơ đàm phán trong Hội nghị
Giơnevơ tháng 7/1954, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước.
2.1.3. Chủ trương tiến hành kháng chiến của Đảng
Tháng 7/1954, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khẳng định kẻ thù chính của nhân dân ta là đế quốc Mỹ. Tháng 9/1954,
Bộ Chính trị chỉ rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp
định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Nhiệm vụ của Đảng ở
miền Nam trong giai đoạn mới là: Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu
tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do
dân chủ,... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập.
Năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15.
Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam
là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam… Tháng 9/1960, Đại
hội lần thứ III của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đó
là: Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân miền Nam đã tập trung sức
lực làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Đế
quốc Mỹ ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội của các nước đồng
minh Mỹ vào miền Nam Việt Nam nhằm tiến hành chiến lược "chiến
tranh cục bộ", đồng thời phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân đối với miền Bắc.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã tiến hành Hội nghị Trung
ương lần thứ 11 (tháng 3/1965) và Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng
12

12/1965). Hai Hội nghị đã phân tích toàn diện sâu sắc chiến lược mới của
Mỹ và khẳng định: Ta cần giữ vững và phát huy chiến lược tiến công; hai
là, tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính trị
nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp...
Với đường lối đúng đắn của Đảng, quân và dân miền Nam đã giành
thắng lợi to lớn trong cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, làm
thất bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào
bàn đàm phán ở Paris và chấm dứt ném bom miền Bắc.
2.2. Nhận thức của Đảng về thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ
(1954-1968)
2.2.1. Đảng nhận thức về thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ từ
tháng 7 năm 1954 đến hết năm 1960
Trong những năm 1954-1958, Đảng hoàn toàn nhận thức được có
thời cơ hòa bình thống nhất đất nước trên cơ sở:
Thứ nhất, xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân cả nước nói chung,
đặc biệt là đồng bào miền Nam sau chín năm kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược.
Thứ hai, xuất phát từ cơ sở pháp lý của Hiệp định Giơnevơ về Việt
Nam tháng 7/1954.
Thứ ba, xuất phát từ xu thế chung của thế giới lúc này là muốn
chung sống hòa bình, đặc biệt đây cũng là mong muốn của Liên Xô và
Trung Quốc muốn chung sống hòa bình với Mỹ.
Bước sang những năm 1959-1960, xuất phát từ thực tế cách mạng
miền Nam giữa lúc đế quốc Mỹ và tay sai dùng những thủ đoạn man rợ
để khủng bố và tàn sát nhân dân miền Nam, tại Hội nghị lần thứ 15 (1959),
Đảng đã nhận định rằng: Kẻ thù đã thất bại một cách cơ bản về chính trị,
chúng đã phải dùng đến những thủ đoạn phát xít man rợ để duy trì sự
thống trị của chúng, còn quần chúng nhân dân thì càng nhận rõ không thể
sống dưới ách thống trị của chúng được nữa và đã vùng lên chiến đấu một
mất một còn với quân thù. Lúc này, Đảng đã ý thức được thời cơ và chỉ rõ
thời cơ của cách mạng miền Nam, đề ra phương hướng phát triển cơ bản
của cách mạng miền Nam để đưa cách mạng miền Nam tiến lên chuyển
13

từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công và chiến tranh cách mạng.
2.2.2. Nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ từ năm 1961 đến hết
năm 1968
Thắng lợi phong trào Đồng khởi đã buộc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn phải thay đổi chiến lược chiến tranh, chuyển sang chiến lược "chiến
tranh đặc biệt" thông qua triển khai kế hoạch Staley - Taylor, âm mưu đè
bẹp và tiêu diệt cách mạng miền Nam.
Trong những năm 1960-1963, trên cơ sở bám sát tình hình, nhận thấy
nội bộ chính quyền Sài Gòn mâu thuẫn, liên tiếp xảy ra những cuộc khủng
hoảng, đảo chính lật đổ lẫn nhau. Đây là điều kiện, cơ hội hết sức thuận
lợi cho cách mạng Việt Nam. Tháng 10 và tháng 11/1963, Bộ Chính trị
họp, sớm nhận thức được thời cơ đã xuất hiện khi cuộc đảo chính Ngô
Đình Diệm nổ ra, đó là: Tình hình hoang mang, dao động của chính quyền,
quân đội Sài Gòn và sự tan rã của các tổ chức bộ máy kìm kẹp. Điều này
tạo ra những điều kiện rất tốt cho cách mạng đẩy mạnh việc phá ấp chiến
lược. Vì vậy, cần phải kịp thời nắm lấy thời cơ để phát động một phong
trào quần chúng hết sức mạnh mẽ dùng mọi hình thức đấu tranh chính trị
có kết hợp hoặc không kết hợp với đấu tranh vũ trang phá tan mọi hình
thức khủng bố của kẻ thù và làm tan rã phần lớn ấp chiến lược của địch.
Năm 1964, khi chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ có nguy cơ
thất bại, nội bộ chính quyền Sài Gòn, chính quyền Mỹ mâu thuẫn gay gắt
dẫn tới những cuộc đảo chính liên tiếp diễn ra. Đảng nhận thức thời cơ có
thể tiến hành cuộc tổng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam đã
đến, đã gấp rút lãnh đạo chuẩn bị mọi điều kiện để tiến hành tổng tiến
công giải phóng miền Nam khi Mỹ chưa đổ bộ quân Mỹ và quân đồng
minh vào miền Nam. Tuy nhiên, vì đế quốc Mỹ đã đưa quân vào miền Nam
quá nhanh nên cuộc tổng tiến công đã không thể diễn ra như dự kiến.
Cuối năm 1967, sau khi đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa
khô của Mỹ, Đảng nhận định: Quân và dân ta đã đánh bại một bước quan
trọng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong cả nước, chứng tỏ
khả năng chiến thắng về quân sự của ta là rõ ràng và hiện thực. Đế quốc
Mỹ ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Từ đó, Đảng kết
14

luận: Đây là thời cơ lớn để tiến hành tổng tiến công và nổi dậy nhằm
giáng cho địch những đòn sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm
lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi
chiến lược, phải xuống thang chiến tranh.
Sang năm 1968, để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền
Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định, Đảng đã
khẳng định: Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến
lược lớn. Tình hình đó cho phép chúng ta "chuyển cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ tổng
tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định". Quyết tâm này làm cơ
sở Đảng quyết định mở cuộc tổng tiến công trên toàn miền Nam, đánh
bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược
Việt Nam, giáng đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của
Mỹ, buộc Mỹ phải bắt đầu xuống thang chiến tranh, chuyển sang chiến
lược "Việt Nam hóa chiến tranh", bắt đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm
dứt chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, mở ra cục diện "vừa đánh vừa đàm"
để đi đến kết thúc chiến tranh. Thắng lợi đợt đầu trong Mậu Thân 1968
phản ánh rõ Đảng luôn kịp thời nhận thức thời cơ và nắm bắt, chỉ đạo
tranh thủ thời cơ, tạo thể và lực đưa cách mạng tiến lên.
Tuy nhiên, mặc dù trong giai đoạn này Đảng nhận thức được thời cơ
để mở cuộc tổng tiến công, song Đảng lại phạm phải sai lầm: chủ quan
trong đánh giá tình hình; không đánh giá hết âm mưu của địch; đặt ra
mục tiêu quá cao cho cuộc tổng tiến công và để thực hiện được mục tiêu
và thời cơ tạo ra.
Tiểu kết chương 2
Trải qua chặng đường đầu, Đảng đã từng bước nhận thức, tạo dựng
thời cơ, nắm bắt thời cơ từ (1954-1968), trong bối cảnh đế quốc Mỹ từng
bước thực hiện triển khai ba chiến lược chiến tranh "chiến tranh đơn
phương", "chiến tranh đặc biệt" và "chiến tranh cục bộ", mở rộng quy mô
chiến tranh và tăng cường tính chất ác liệt hòng duy trì chủ nghĩa thực
dân mới ở miền Nam và tấn công ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam thời gian này,
15

nhận thức của Đảng về thời cơ, chỉ đạo nắm vững thời cơ, đã đạt được
một số thành công nhất định: Đảng đã từng bước nhận thức được thời cơ
và chỉ đạo tranh thủ thời cơ mang lại thắng lợi to lớn trên chiến trường,
làm thay đổi dần tương quan lực lượng ta và địch. Khi nắm được thời cơ,
Đảng đã kịp thời chỉ đạo mở các cuộc tiến công, các trận đánh, đưa cách
mạng tiến lên giành được những thắng lợi, đưa tới khả năng đánh bại các
chiến lược chiến tranh của Mỹ. Bên cạnh đó, cũng có những thời điểm,
Đảng chưa nhận thức đúng về thời cơ, chưa đánh giá đúng tình hình,
những nhận định về thời cơ, tình hình vẫn mang tính chủ quan, dẫn đến
những tổn thất nghiêm trong cho cách mạng.

Chương 3
ĐẢNG NHẬN THỨC VỀ THỜI CƠ VÀ CHỈ ĐẠO TRANH THỦ
THỜI CƠ GIÀNH THẮNG LỢI (1969 - 1975)

3.1. Bối cảnh tình hình, nhận thức thời cơ và chủ trương của Đảng
3.1.1. Bối cảnh tình hình mới tác động đến nhận thức của Đảng về
thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ
Bối cảnh trong nước: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
năm 1968, đã làm đảo lộn kế hoạch quân sự, làm lung lay ý chí xâm lược
của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi đàm phán hòa bình; Đảng đã lãnh đạo quân
và dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
giành thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Tuy nhiên, qua các đợt tiến
công và nổi dậy năm 1968, cách mạng Việt Nam cũng gặp không ít khó
khăn: Thế và lực cách mạng miền Nam giảm sút nghiêm trọng; Mỹ và
chính quyền Sài Gòn chuyển sang thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa
chiến tranh" và thực hiện những cuộc phản kích quyết liệt của Mỹ làm
cho thế trận chiến tranh nhân dân bị suy giảm.
Bối cảnh quốc tế: Trong những năm 1969-1975, mâu thuẫn Xô -
Trung phát triển sâu sắc, Mỹ lại ra sức tác động, lợi dụng mâu thuẫn Xô -
Trung chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa Mỹ với Trung
Quốc, giữa Mỹ với Liên Xô tiếp tục căng thẳng. Tình hình này gây cho
16

Việt Nam nhiều khó khăn và bất lợi.


3.1.2. Nhận thức thời cơ và chủ trương của Đảng
3.1.2.1. Nhận thức của Đảng về thời cơ
Tháng 5/1969, Bộ Chính trị khẳng định: Chúng ta đang đứng trước
thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến công toàn diện và liên
tục, tiến lên một bước mới rất cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, giành
thắng lợi quyết định, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn...
Cần phải linh hoạt, chủ động nắm bắt thời cơ và chủ động tạo thời cơ để
giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn.
Tháng 5/1971, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kiếp cho quân và dân ta
là: Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu
dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao, phát triển thế chiến
lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường
Đông Dương, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh
bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào,
giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải kết thúc
chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng,
kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài.
Theo sát tình hình, tháng 10/1972, đã chỉ đạo miền Bắc khẩn trương
chuẩn bị những phương án đối phó với âm mưu của Mỹ sau cuộc bầu cử.
Đảng đã lãnh đạo quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích đường
không chiến lược bằng máy bay B-52, cùng với việc phối hợp chặt chẽ
"đánh và đàm", đã làm thất bại mưu đồ đàm phán trên thế mạnh của Mỹ,
buộc Mỹ chấp nhận ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, mở ra thời cơ
mới cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Theo sát sự chuyển biến mau lẹ trên chiến trường miền Nam trong
những tháng cuối năm 1974, Đảng khẳng định: Lúc này chúng ta đang có
thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải
biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn
toàn; đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng
miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ...
17

Ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười
lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được phục
hồi…thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng.
Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch
chiến lược 2 năm 1975-1976: năm 1975 tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn
và rộng khắp tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng
khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị cho rằng, hiện
nay ta đã mạnh hơn hẳn kẻ thù; với tương quan lực lượng so sánh như
vậy, thì Mỹ dù có can thiệp đến mức nào cũng không cứu nổi sự sụp đổ
của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản
hai năm, trong kế hoạch thời cơ năm 1975, Bộ Chính trị còn dự kiến một
phương án khác: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập
tức giải phóng miền Nam trong năm 1975".
3.1.2.1. Chủ trương của Đảng
Tháng 5/1969, Bộ Chính trị họp bàn về tình hình mới và đề ra chủ
trương: Trước mắt chúng ta cần phải động viên sự nỗ lực cao nhất của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt
được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba
mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực
lượng chính trị và quân sự; phát triển chiến lược tiến công một cách toàn
diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất bại các mục tiêu và biện pháp phòng
ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ
trương phi mỹ hóa chiến tranh của chúng.
Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới
là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Bất
kể trong tình huống nào vẫn phải kiên định con đường cách mạng bạo
lực, giữ vững chiến lược tiến công...
3.2. Đảng chỉ đạo tranh thủ thời cơ
3.2.1. Từ tháng 1 năm 1969 đến tháng 1 năm 1973
Tranh thủ tình hình từ nước Mỹ cũng như chính trong nội bộ chính
quyền Mỹ, tháng 5/1969, Đảng chủ trương: Nắm vững thời cơ, phối hợp với
18

tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì
nguyên tắc, khéo vận dụng sách lược, vừa kiên quyết, vừa linh hoạt, buộc Mỹ
phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta.
Theo dõi sát tình hình ta - địch trên chiến trường, tháng 3/1972, Bộ
Chính trị họp và khẳng định quyết tâm chiến lược đã xác định, chỉ đạo
các mặt trận tiếp tục chuẩn bị. Đảng đã nhạy bén phát hiện được thời cơ
và nắm lấy thời cơ đó phát động cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền
Nam nhằm vào ba hướng chính Trị - Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đó
là quyết định kịp thời và sáng suốt của Đảng, bảo đảm cho toàn dân, toàn
quân trên cả hai miền giữ vững quyết tâm, tăng cường đoàn kết, tiếp tục đẩy
mạnh tiến công quân địch trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao,
đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng.
Ngày 14/12/1972, Nixon đã thông qua kế hoạch tập kích Hà Nội, Hải
Phòng bằng B52 vào ngày 18/12. Trước hành động của Mỹ, nhờ dự báo
chính xác, chuẩn bị chu đáo, bí mật, kỹ lưỡng và chủ động kế hoạch đối
phó, quân và dân ta đã lập nên kỳ tích "Điện Biên Phủ trên không", biến
"nguy cơ" không kích B52 của Mỹ thành "thời cơ" thắng trận của ta,
buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris và rút quân khỏi Việt Nam.
3.2.2. Từ tháng 2 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975
Trong hai năm 1973-1974, quân đội và nhân dân Việt Nam giành
được những thắng lợi lớn trên khắp các chiến trường. Đặc biệt, trong
Đông Xuân 1974-1975, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và miền
Đông Nam Bộ tiêu diệt hàng ngàn đồn bốt. Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa bị đẩy vào thế suy yếu toàn diện, không thể gượng lại; quân đội Việt
Nam Cộng hòa có hiện tượng thiếu hụt về quân số, sa sút về tinh thần,
lâm vào thế phòng ngự bị động với chiến lược "nặng ở hai đầu", có nhiều
sơ hở trong việc phòng ngự ở Tây Nguyên.
Năm 1975, bám sát tình hình và những chuyển biến mau lẹ trên chiến
trường, phát hiện thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam, Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm chiến lược bằng kế hoạch giải
phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và kế hoạch thời cơ với những
bước đi, mục tiêu cụ thể được xác định. Đảng đã chuẩn bị về thế và lực ở cả
19

miền Nam và miền Bắc, bám sát diễn biến tình hình, nhạy bén trước mọi
động thái của chính quyền Sài Gòn, tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, tận dụng
thời cơ, thúc đẩy thời cơ liên tiếp thực hiện ba chiến dịch trong tổng tiến
công và nổi dậy Xuân 1975, tạo ra những bước nhảy vọt, hoàn thành vượt
mức quyết tâm và kế hoạch dự định, giành thắng lợi chỉ trong gần hai tháng.
Tiểu kết chương 3
Trong giai đoạn này, nhận thức của Đảng về thời cơ và chỉ đạo tranh
thủ thời cơ được thể hiện rõ qua một số sự kiện ở những thời điểm quan
trọng: năm 1968, năm 1972, năm 1973 và năm 1974, 1975. Qua đó, thể
hiện rõ sự độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào thực tế chiến trường và tình
hình trong nước, quốc tế, tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên, đặc
biệt là quan hệ giữa các nước lớn như Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành công, trong giai đoạn này nhận thức của
Đảng cũng mắc phải những sai lầm trong nhận định thời cơ và thực hiện
thời cơ làm cách mạng rơi vào tổn thất.

Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. Nhận xét


4.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
4.1.1.1. Ưu điểm
Một là, nhận thức và tranh thủ thời cơ là vấn đề xuyên suốt trong
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.
Hai là, trong những thời điểm nhất định, Đảng có những đánh giá
đúng về khả năng mạnh yếu của kẻ thù để mở ra thời cơ, thực hiện tạo và
tranh thủ thời cơ.
Ba là, Đảng kiên quyết chỉ đạo khi thời cơ xuất hiện để đạt mục tiêu
chiến lược
4.1.1.2. Nguyên nhân
Đảng về cơ bản đã nhận thức và đánh giá đúng âm mưu, hành động
và sức mạnh của kẻ thù; Đảng luôn nắm vững quan điểm của chủ nghĩa
20

Mác - Lênin về thời, thế, lực và về nghệ thuật chớp thời cơ; Đảng luôn luôn
bám sát thực tiễn, nắm chắc bối cảnh quốc tế và trong nước để nhận thức
thời cơ và tranh thủ thời cơ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước; Đảng có chỗ dựa vững chắc là khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế và đặc biệt là sự viện trợ to lớn của Trung Quốc và Liên Xô.
4.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
4.1.2.1. Hạn chế
Một là, có những lúc nhận thức không đúng về thời cơ nên không
tranh thủ được thời cơ làm cách mạng bị tổn thất.
Hai là, trong những thời điểm nhất định, chỉ đạo thực hiện tranh thủ
thời cơ không đúng, không kịp thời.
Ba là, việc chỉ đạo phối hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị
và đấu tranh ngoại giao nhằm tạo thời cơ kết thúc chiến tranh có những
lúc chưa hiệu quả.
4.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Nguyên nhân chủ quan: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng
phải đối mặt với kẻ thù là đế quốc Mỹ giàu mạnh, nham hiểm, xảo quyệt...;
có những thời điểm Đảng chủ quan, mất cảnh giác đối với những âm
mưu, hành động mới của kẻ thù.
Nguyên nhân khách quan: Cuộc kháng chiến diễn ra trong bối cảnh
cuộc chiến tranh lạnh, tác động trực tiếp bởi lợi ích của các nước lớn,
Đảng bị chi phối bởi quan điểm của các nước lớn; mâu thuẫn Liên Xô -
Trung Quốc phát triển sâu sắc, Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn Liên Xô -
Trung Quốc gây bất lợi cho cách mạng Việt Nam.
4.2. Kinh nghiệm
4.2.1. Biết địch, biết ta là điều kiện tiên quyết trong nhận thức và
chỉ đạo tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ nhanh chóng vươn lên thành
cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế, nhiều nước trên thế giới
đánh giá cao Mỹ, phục Mỹ, sợ Mỹ. Đảng cũng không đánh giá thấp Mỹ cả về
âm mưu, lực lượng và khả năng gây chiến. Đảng đánh giá Mỹ trên quan điểm
toàn diện, không nhìn nhận một chiều, không chỉ trên chiến trường Đông
21

Dương, trên thế giới, mà còn đánh giá Mỹ ngay trong nước Mỹ. Đảng ý thức
được rằng, trong cuộc chiến không cân sức này, muốn đánh Mỹ và thắng Mỹ
trước hết phải nghiên cứu và hiểu rõ bản chất, âm mưu, hành động của Mỹ.
4.2.2. Nắm chắc bối cảnh quốc tế và trong nước để nhận định thời cơ
Tiến hành chiến tranh chống đế quốc Mỹ, Đảng và nhân dân Việt Nam
phải đương đầu với cuộc chiến tranh mà Mỹ "vừa đánh vừa dò, vừa đánh
vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật của chúng, một cuộc chiến tranh
từng bước leo thang, không có tiền lệ trong lịch sử". Ngay trong từng bước
leo thang chiến tranh của Mỹ, khi thì từ từ, khi thì đột ngột tăng nhanh rồi
lại tụt thang nhanh làm cho đối phương dễ bị bất ngờ, bị động, lúng túng.
Để hiểu địch, hiểu ta, dự báo chính xác thời cơ xuất hiện hay chưa, xuất
hiện khi nào, đòi hỏi một quá trình nhận thức sâu sắc, chắc chắn, khách
quan, khoa học, thông qua việc bám sát thực tế đấu tranh trên chiến trường
và những diễn biến cụ thể của bối cảnh trong nước và quốc tế.
4.2.3. Kết hợp các lĩnh vực đấu tranh để thúc đẩy thời cơ
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dân tộc Việt Nam
phải chống lại cuộc chiến tranh tổng lực của đế quốc Mỹ với âm mưu thâm
độc, xảo quyệt trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao. Do
đó, kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao tạo nên điều kiện, thời cơ
và sức mạnh tổng hợp chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ, là một yêu
cầu khách quan. Đồng thời, thắng lợi giành được từ việc kết hợp các lĩnh
vực đấu tranh này trở thành nét đặc sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
4.2.4. Chủ động, kiên quyết và kịp thời tận dụng, tranh thủ thời cơ
chiến lược, tạo lợi thế giành thắng lợi
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng luôn xác định
con đường cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực và
thực hành tư tưởng chiến lược tiến công. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung
ương đã đánh giá tình hình một cách khách quan, khoa học, đánh giá
đúng so sánh lực lượng hai bên và chiều hướng phát triển, kiên quyết, chủ
động xây dựng thế trận tiến công ở những địa bàn quan trọng, các trung
tâm chính trị, căn cứ quân sự, đường giao thông chiến lược để chia cắt và
22

tiến công địch, tập trung đánh bại từng thủ đoạn và biện pháp tác chiến,
từng chiến lược chiến tranh của địch.
4.2.5. Chuẩn bị lực lượng, thế trận, phát triển thế và lực, tạo tình
huống, thời cơ tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn
Để tạo lợi thế giành thắng lợi quyết thì phải tạo ra sức mạnh tổng
hợp, trong đó sức mạnh quân sự đóng vai trò quyết định. Sức mạnh quân sự
gồm nhiều yếu tố, xét cả về phía ta và địch, xét cả về lực lượng, hình thái và
thế trận bố trí lực lượng; sức mạnh này phải được lãnh đạo và chỉ huy khéo
léo, biết sử dụng tập trung đúng chỗ, đúng lúc, đúng tình huống và thời cơ.
Sức mạnh quân sự phải được tích cực xây dựng trong quá trình tiến hành
chiến tranh và tạo thành ưu thế hơn địch để giành thắng lợi trong chiến dịch,
chiến lược, đánh thắng địch từng bước đến giành thắng lợi hoàn toàn.
Tiểu kết chương 4
Bằng bản lĩnh trí tuệ sắc bén, trong quá trình lãnh đạo chiến tranh,
Đảng luôn có ý thức nhận thức thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ; đánh
giá đúng về khả năng mạnh yếu của kẻ thù để mở ra thời cơ và kiên quyết
chỉ đạo khi thời cơ xuất hiện để đạt mục tiêu chiến lược. Tuy nhiên, việc
nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ của (1954-1975) cũng không tránh
khởi những hạn chế. Mặc dù còn những hạn chế, nhưng thực tế 21 năm
lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định vai trò lãnh
đạo, quyết định của Đảng, để lại những kinh nghiệm quý trong nhận thức
và tranh thủ thời cơ.

KẾT LUẬN

Trải qua 21 năm kháng chiến anh dũng, nhân dân Việt Nam đã đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt nhất
của đế quốc Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) chứng tỏ dự đoán sáng
suốt và cũng là mong ước tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sự
thật: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh
qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
23

Một trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến là
quá trình Đảng trong nhận thức và tranh thủ thời cơ (1954-1975).
1. Từ (1954-1968), căn cứ vào bối cảnh tình hình, so sánh lực lượng,
âm mưu, hành động của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Đảng đã nhận thức
được thời cơ, tập trung vào những thời điểm cụ thể: năm 1959, 1964,
1968; trên cơ sở nhận thức được thời cơ, Đảng đã chỉ đạo triển khai thực
hiện tranh thủ thời cơ bắt đầu bằng phong trào Đồng khởi năm 1960;
Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968. Trong quá trình triển khai tranh thủ
thời cơ đã đạt được những thành công nhất định, tạo bước ngoặt đưa cách
mạng tiến lên. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, việc nhận thức và
tranh thủ thời cơ giai đoạn này cũng còn những hạn chế, sai lầm.
Trong những năm 1969-1975, căn cứ vào bối cảnh mới, Mỹ buộc phải
từng bước xuống thang chiến tranh và rút quân về nước; quân đội Sài Gòn bị
cắt giảm viện trợ, Đảng nhận thấy thời cơ xuất hiện và phát triển rất nhanh,
Đảng đã chỉ đạo các điều kiện về lực lượng, vật chất và cách đánh, đề ra
kế hoạch chiến lược trong hai năm và kế hoạch thời cơ "giải phóng miền
Nam trước mùa mưa năm 1975" với tinh thần "thần tốc, táo bạo, bất ngờ
và chắc thắng". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân đã thực
hiện thắng lợi Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 một cách xuất sắc.
2. Qua 21 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược, trong nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ, Đảng Lao động Việt
Nam thể hiện tầm nhìn và bản lĩnh trí tuệ vững vàng, sắc sảo và tài thao
lược trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng luôn nắm vững và thấu hiểu: Thời cơ đến, thời cơ qua
đi nhanh chóng, nếu không biết chớp lấy thời cơ, để thời cơ qua đi không
chỉ làm tổn hại cho cách mạng mà còn có tội với nhân dân. Đây là cơ sở
để Đảng có những nhận định, đánh giá về thời cơ và chỉ đạo tranh thủ
thời cơ trúng và đúng, tránh những tổn thất cho cách mạng.
Việc nhận thức và chỉ đạo tranh thủ thời cơ là kết quả của quá trình
đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch nhằm làm thay đổi tương quan so
sánh lực lượng và cục diện chiến trường ngày càng có lợi cho ta; đó là
quá trình luôn bám sát thực tiễn, theo dõi từng biến chuyển nhỏ về quân
sự, chính trị của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng như những
24

thay đổi của ta; đó là quá trình không ngừng chuẩn bị đầy đủ mọi mặt từ
chiến trường, lực lượng, hậu phương tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc
kháng chiến; đó là một quá trình luôn tư duy và phản biện, đấu tranh
không ngừng…để nhận thức và tạo thời cơ, tranh thủ thời cơ một cách
tỉnh táo, độc lập, tự chủ, sáng tạo. Bởi, thời cơ chiến lược không phải là
một nhân tố ngẫu nhiên, thời cơ xuất hiện hay không xuất hiện, đến sớm
hay muộn tùy thuộc chủ yếu vào nỗ lực chủ quan của ta. Muốn nắm chắc
và tận dụng được thời cơ để phát triển tiến công cần phải có lực lượng
mạnh.
Quá trình nhận thức về thời cơ và chỉ đạo tranh thủ thời cơ của Đảng
ngày càng đúng đắn và mang tính độc lập tự chủ cao, thể hiện rõ bản lĩnh,
trí tuệ Việt Nam, thấm nhuần và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh lấy "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Đồng thời, việc nhận
thức và tranh thủ thời cơ một cách đúng đắn, khoa học và kịp thời, có căn
cứ còn dựa trên sự hiểu biết về Mỹ, về chính quyền Sài Gòn và bám sát
tình hình chiến trường trong nước, quốc tế, nhờ đó đưa ra những quyết
định táo bạo và rất sáng tạo, linh hoạt.
Bên cạnh những thành công, có lúc, có nơi nhận thức về thời cơ và
chỉ đạo tranh thủ thời cơ chưa chính xác nên không tận dụng và thực hiện
được thời cơ, dẫn tới những tổn thất cho cách mạng.
Sự thành công và hạn chế trong nhận thức và tranh thủ thời cơ trong
những năm 1954-1975 đã để lại những kinh nghiệm quý trong lãnh đạo,
chỉ đạo kháng chiến của Đảng. Đó là tinh thần quyết chiến, quyết thắng
dám chịu trách nhiệm của người chỉ huy và việc nhận ra cách giải quyết
hợp lý tình hình thực tế chiến trường, tạo nên sự đồng thuận trong lãnh
đạo, chỉ đạo. Đồng thời phải luôn tin ở dân, ở tinh thần đoàn kết dân tộc,
sức mạnh dân tộc, cũng như ở việc nhạy cảm và dũng cảm nhận ra sai
lầm, hạn chế và sẵn sàng điều chỉnh, sửa chữa.
Tựu trung lại, thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược
của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ sự sai lầm
của đế quốc Mỹ khi quyết định chọn Việt Nam làm nơi thí điểm chiến
lược toàn cầu. Chính Ngoại trưởng Kissinger thừa nhận: "Chúng ta đã sai
lầm khi biến Việt Nam thành nơi thử nghiệm chính sách của chúng ta chứ
25

không phải đối với chính sách của người Việt Nam. Tôi nghĩ rằng việc
đưa các lực lượng quân sự Mỹ vào Việt Nam là biện pháp giải quyết tồi
nhất, vì điều đó có nghĩa là đưa một yếu tố ngoại lai vào".
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Hoàng Thị Thắm (2015), "Nghị quyết Trung ương 14 (1/1968) và


nhận thức của Đảng về thời cơ trong tổng tiến công và nổi dậy Mậu
thân 1968", Tạp chí Giáo dục lý luận, (231), tr. 179-181.
2. Hoàng Thị Thắm (2015), "Nhận thức của Đảng về thời cơ cách mạng
trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1973-1975)", Tạp chí Lịch sử quân sự, (283), tr. 15-19.
3. Hoàng Thị Thắm (2015), "Sự lãnh đạo của Đảng trong việc tạo thời
cơ và nắm vững thời cơ trong đại thắng mùa xuân năm 1975". Tạp chí
Giáo dục lý luận, (233), tr. 38-40.
4. Hoàng Thị Thắm (2017), "Phong trào đấu tranh chính trị ở miền Nam
những năm 1954-1958", Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, ngày 11/5/2017.
5. Hoàng Thị Thắm (2018), "Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại
giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)", Tạp
chí Lịch sử Đảng, (335), tr. 88-92.
6. Hoàng Thị Thắm (2018), "Bài học về vận dụng thời cơ, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc trong cuộc tổng tấn công giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước", Tạp chí Dân tộc, (211), tr. 26-28.
7. Hoàng Thị Thắm (2018), ""Biết địch, biết ta" điều kiện tiên quyết
trong nhận thức thời cơ, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975)", Tạp chí Lịch sử quân sự, (12), tr. 22-28.
8. Hoàng Thị Thắm (2019), “Nhận thức và tranh thủ thời cơ - vấn đề
xuyên suốt trong lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
Đảng”, Tạp chí Dân tộc, (214), tr. 12-16.

You might also like