You are on page 1of 216

Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975

Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1990)

LỜI GIỚI THIỆU

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
đã kết thúc trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 10, ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
theo sự chỉ đạo của Bộ quốc phòng, Viện lịch sử quân sự Việt nam đã phối hợp với các cơ quan
nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội, tổ chức Hội nghị khoa học về cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy xuân 1975.

Mục đích của Hội nghị khoa học là nghiên cứu ý nghĩa và tác động to lớn của sự kiện lịch
sử quân sự này đối với dân tộc và thời đại, nêu lên những nguyên nhân thắng lợi, những bài học
kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, nghệ thuật quân sự Việt nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, đặc biệt là trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, góp phần chứng minh
thêm sự đúng đắn của đường lối quân sự và sự chỉ đạo chiến lược tài giỏi và sáng tạo của Đảng
ta.

Viện lịch sử quân sự Việt Nam đã lựa chọn và tập hợp một số bản báo cáo khoa học tại Hội
nghị thành tập kỷ yếu mang tên "Trận quyết chiến lịch sử xuân 1975" và xuất bản tập kỷ yếu này
thành sách mong góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, và xây dựng, phát triển nền lý luận khoa học, nghệ thuật quân sự Việt
Nam.

Trong cuốn sách, các bản báo cáo khoa học được sắp xếp theo mấy nội dung chính sau đây:

- Những vấn đề chung về chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật quân sự trong Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975.
- Thực hành tiến công và nổi dậy ở các địa phương, các địa bàn chiến lược.
- Tác chiến của các binh đoàn chủ lực cơ động, các quân chủng, binh chủng.
- Công tác đảng - công tác chính trị trong mùa xuân 1975.
- Hoạt động hậu cần chiến lược, chiến dịch và hoạt động của hậu phương phục vụ Tổng tiến
công và nổi dậy.
- Ý nghĩa lịch sử của Đại thắng mùa xuân 1975.

1
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 VÀ MẤY VẤN ĐỀ
CHIẾN LƯỢC TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

Đại tướng VĂN TIẾN DŨNG

Cách đây 10 năm, vào mùa xuân 1975, lịch sử dân tộc Việt Nam ta đã ghi thêm một chiến
công vĩ đại làm nức lòng nhân dân cả nước và anh em bầu bạn khắp năm châu. Trong một trận
quyến chiến chiến lược thần tốc, qua 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã đánh
bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và đập tan ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ,
giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh yêu nước lâu dài
nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.

Nhân dân thế giới đã chứng kiến một sự kiện chưa từng có; một nước nhỏ, kinh tế nghèo
nàn và lạc hậu đã đánh thắng về quân sự rất oanh liệt một đế quốc lớn nhất, giàu mạnh nhất phe
đế quốc, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù nguy hiểm và tàn bạo nhất của loài người tiến bộ.

Đối với nhân dân ta, thắng lợi oanh liệt đó đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân
tộc, mở ra một kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta.

Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta góp phần làm suy yếu hệ thống đế quốc chủ
nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng của thời đại.

Về mặt quân sự, thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
với đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, đã đánh dấu một bước phát triển rực
rỡ của nền khoa học hiện đại, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự của chủ
nghĩa Mác - Lê nin.

Chúng ta kỷ niệm nước ngày hội lớn của cả nước này cũng vào dịp kỷ niệm lần thứ 95 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Với lòng biết ơn vô hạn, nhân dân và lực lượng vũ
trang ta vô cùng xúc động, ghi sâu công ơn của Bác Hồ, "Người sáng lập Đảng ta và Nhà nước
ta, người sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, lãnh tụ
vĩ đại vô cùng kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân ta, của toàn thể dân tộc Việt Nam,
một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc" . Từ khi
Bác đi xa, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Tổng bí thư Lê
Duẩn đứng đầu, chúng ta đã thực hiện trọn vẹn lời Di chúc thiêng liêng của Người: "Dù khó
khăn giản khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải
cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ sum họp một nhà".

Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là thắng lợi
của toàn bộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, sự nghiệp giải phóng của nhân dân ta. Nó là kết quả
cả quá trình chiến đấu suốt mấy chục năm ròng. Nó là bước phát triển tất yếu ở giai đoạn chín
muồi của toàn bộ công cuộc kháng chiến đều được phát huy, mà nhân tố cơ bản nhất, quyết định
nhất là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, đã kế thừa, khơi dậy và phát huy đến đỉnh
cao sức mạnh vô địch của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

2
*
* *

Nghiên cứu sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân
1975, cũng là tập trung nghiên cứu cuộc kháng chiến chống Mỹ ở giai đoạn kết thúc của nó. Vì
vậy, cần đặt nó trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ mà nó là đỉnh cao. Thắng lợi to lớn
của nó cũng như thành công về mặt chỉ đạo chiến lược của Đảng ta chính là biểu hiện tập trung
sức mạnh của toàn bộ cuộc kháng chiến, là thành công tiêu biểu của nghệ thuật đánh thắng Mỹ
trong giai đoạn kết thúc chiến tranh.

Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ là sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh
của thời đại, là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, cả về tinh thần, tư
tưởng và vật chất kỹ thuật, có tài năng, trí tuệ của lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy và tính năng động
sáng tạo vĩ đại của quần chúng nhân dân và lực lượng vũ trang.

Đảng ta có đường lối chính trị, đường lối quân sự và đường lối đối ngoại đúng đắn, giải
quyết sáng tạo và thành công các vấn đề chiến lược cách mạng, chiến lược chiến tranh và chiến
lược quân sự, lại có sự chỉ đạo sáng suốt trong mỗi thời kỳ nên mới có thể tố chức, động viên và
phát huy sức mạnh đó để đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Do đó khi nghiên cứu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lịch sử này, cần hiểu rõ cả những vấn
đề chiến lược cách mạng, chiến lược chiến tranh và chiến lược quân sự của ta trong cuộc chống
Mỹ, cứu nước, thấy rõ mối liên hệ biện chứng giữa các vấn đề chiến lược nói trên. Đây là một
vấn đề quan trọng về phương pháp luận cần nắm vững trong công tác nghiên cứu khoa học của
chúng ta.

1. Về chiến lược cách mạng.

Thành công trước hết trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là Đảng ta đã định ra đường lối
chiến lược và sách lược cách mạng hết sức đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với những đặc điểm
của cách mạng Việt Nam và của tình hình thế giới trong thời kỳ này.

Chúng ta đều biết, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi,
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp độc chiếm miền
Nam, biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Lúc này nhiều vấn đề đặt ra cho cách mạng Việt
Nam cũng là những vấn đề đặt ra cho cách mạng thế giới. Việc đánh giá đúng sức mạnh và khả
năng gây chiến tranh lớn của đế quốc Mỹ có liên quan rất nhiều đến việc đẩy mạnh phong trào
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.

Nay nghĩ lại, ta càng thấy rõ những vấn đề lớn nhất đặt ra cho cách mạng nước ta lúc đó là:
miền Bắc tiến ngay vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hay chờ cách mạng miền Nam?
Miền nam tiếp tục làm cách mạng giải phóng dân tộc hay tạm thời dừng lại, "trường kỳ mai
phục" đợi miền Nam tiếp tục tiến lên thì bằng phương pháp hoà bình hay bằng con đường bạo
lực? Nếu bằng con đường bạo lực, từ đấu tranh và chiến tranh giải phóng thì liệu có giữ được

3
hoà bình ở miền Bắc không? Nếu chiến tranh lan rộng ra miền Bắc thì liệu có thể phát triển
thành chiến tranh khu vực, có ảnh hướng đến hoà bình thế giới mà ta đang cần bảo vệ hay
không?

Nắm vững học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã đánh giá đúng chỗ
mạnh, chỗ yếu của đế quốc Mỹ, nắm vững thực chất của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, chiến
lược phản cách mạng của Mỹ trên phạm vi toàn cầu cũng như ở Việt Nam, Đông Dương và
Đông Nam Á. Chúng ta đã chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử với tên đế quốc đầu sỏ, kiên quyết
đầy mạnh cách mạng ở cả hai miền Nam, Bắc, đồng thời có sách lược mềm dẻo, có bước đi thích
hợp để vừa đẩy mạnh cách mạng Việt Nam, vừa góp phần vào phong trào đấu tranh cách mạng
của các dân tộc và giữ gìn hoà bình thế giới. Đó chính là đường lối tiến hành đồng thời và phối
hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền nước ta, chiến lược cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam và chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đảng ta xác
định: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc chủ dân chủ nhân dân ở
miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm
vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Cách mạnh miền Nam
có tác dụng quyết định trực tiếp trong công cuộc giải phóng miền Nam và thực hiện hoà bình
thống nhất Tổ quốc(1).

Theo đường lối chiến lược cách mạng trên đây, Đảng ta đã đề ra sách lược cách mạng rất
mềm dẻo, phù hợp với tình hình so sánh lực lượng địch, ta ở Việt Nam, Đông Dương, Đông
Nam Á và bối cảnh quốc tế, nhằm tập hợp thật đông đảo lực lượng ta, cô lập cao độ kẻ thù, giành
thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.

Đảng ta lại có đường lối đối ngoại đúng đắn, thực hiện được sự liên minh chiến lược và
chiến đấu giữa nhân dân ta với nhân dân hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em trên bán đảo
Đông Dương, tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em
khác, sự đồng tình ủng hộ của cả loài người tiến bộ trong đó có cả nhân dân Mỹ.

Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng nêu trên chính là biểu hiện cụ thể đường lối
nhất quán và xuyên suốt mọi quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo là gương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng đúng đắn sáng tạo những điều kiện cụ thể của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vừa có tính nguyên tắc cao, vừa có sách lược mềm dẻo. Với
đường lối ấy, cách mạng Việt Nam thể hiện chân lý sáng ngời của thời đại ngày nay là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau, thể hiện sự kết hợp chặt chẽ cuộc chiến đấu cứu
nước của nhân dân ta với ba dòng thác cách mạng trên thế giới, kết hợp những yêu cầu cơ bản
của dân tộc Việt Nam với những mục tiêu cao cả của cả loài người tiến bộ, vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng đã tạo nên một lực lượng cách
mạng hùng hậu, làm nền tảng vững chắc cho việc phát động và phát triển thắng lợi chiến tranh
cách mạng chống Mỹ, cứu nước. Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng ấy đã chỉ đạo
toàn bộ các hoạt động của nhân dân ta trong chiến tranh, chỉ đạo chiến lược chiến tranh và chiến
lược quân sự trên cả nước và mỗi miền.

4
2. Về chiến lược chiến tranh.

Trong cuộc chống Mỹ của toàn dân tộc ta, miền Nam là tiến tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Do đặc điểm của cách mạng và chiến tranh nhân dân ở mỗi miền, cuộc kháng chiến
chống Mỹ biểu hiện dưới hình thái hai cuộc chiến tranh khác nhau ở hai miền nhưng thống nhất
hữu cơ với nhau: chiến tranh giải phóng miền Nam và chiến tranh bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Xuất phát từ đường lối chiến lược và sách lược cách mạng đã nêu ở trên và từ những
quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam, Đảng ta đã đề ra và không ngừng phát triển trong
chỉ đạo thực tiễn một chiến lược chiến tranh với những nội dung chung cho cuộc kháng chiến
trên cả nước và những nội dung cụ thể ở mỗi miền.

Đó là chiến lược của chiến tranh toàn dân và toàn diện, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu
tranh chính trị trên ba vùng chiến lược ở tiền tuyến lớn miền Nam; kết hợp chiến đấu với sản
xuất và chi viện tiền tuyến ở hậu phương lớn ở miền Bắc; thực hành chiến lược tiến công bằng
sức mạnh tổng hợp; liên minh chiến lược và chiến đấu với nhân dân hai nước Lào và Cam-pu-
chia và tranh thủ viện trợ quốc tế, đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước tiên lên giành thắng lợi
cuối cùng. Chiến lược chiến tranh này có bước phát triển mới so với kháng chiến chống Pháp và
đỉnh cao thắng lợi của nó thể hiện nổi bật trong đòn kết thúc cực kỳ mau lẹ đại thắng mùa xuân
1975, đánh tan hơn một triệu quân địch làm cho kẻ thù không kịp trở tay, quét sạch cơ đồ chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta. Bước phát triển đó phù hợp với những điều
kiện mới của đất nước dưới sự tác động tổng hợp của hai cuộc cách mạng trên hai miền Nam
Bắc, theo đường lối chiến lược và sách lược đã nêu ở trên. Nó cũng thể hiện trong chiến tranh
những nội dung cơ bản của phương pháp cách mạng cách mạng trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân ở miền Nam nhằm đánh đổ chủ nghĩa thực dân mới và đánh bại chiến tranh xâm lược thực
dân mới của đế quốc Mỹ.

Chiến tranh toàn dân và chiến tranh toàn diện phát triển rất cao, với những nội dung rất
phong phú. Từ đó, trong chỉ đạo chiến lược, ta đã kết hợp chặt chẽ đẩy mạnh chiến tranh giải
phóng miền Nam với bảo vệ miền Bắc trong mọi tình huống, tạo nên những bước phát triển nhảy
vọt trong xây dựng lực lượng. Ta lại biết tạo thời cơ và nắm thời cơ, thực hiện những bước ngoặt
chiến lược có lợi cho ta, đánh bại các bước leo thang chiến tranh điên cuồng của đế quốc Mỹ trên
cả hai miền Nam Bắc, giành thắng lợi ngày càng to lớn.

Trong sự chỉ đạo chiến lược của chiến tranh giải phóng ở Miền Nam, Đảng ta đã sử dụng
bạo lực cách mạng một cách đúng đắn, phối hợp các lực lượng và các mặt đấu tranh để tạo nên
sức mạnh tổng hợp to lớn. Lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị là hai lực lượng cơ bản; đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị là hai hình thức đấu tranh cơ bản. Cách mạng miền Nam đã
phát triển từ khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh cách mạng. Khi khởi nghĩa đã phát triển
thành chiến tranh thì vẫn có khởi nghĩa và kết hợp chiến tranh với khởi nghĩa. Khởi nghĩa trong
chiến tranh ở miền Nam khác với khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
trong Cách mạng tháng Tám. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra trong hoàn cảnh cách mạng đã có lực
lượng quân sự mạnh, có căn cứ và hậu phương vững chắc, còn địch thì còn một bộ máy chiến
tranh đồ sộ, có quân đội đông và trang bị hiện đại; cuộc chiến đấu giữa quân đội hai bên diễn ra
quyết liệt. Các cuộc đấu tranh chính trị và nổi dậy của quân chúng luôn luôn kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh vũ trang, với tiến công quân sự. Sự kết hợp đó diễn ra dưới những hình thức khác nhau
ở mỗi vùng chiến lược và trong mỗi thời kỳ phát triển của kháng chiến. Trong đại thắng mùa

5
xuân 1975, các cuộc nổi dậy của quần chúng ở từng nơi và từng lúc cũng không giống nhau.
Thường là đòn tiến công quân sự đi trước một bước, tạo điều kiện cho quần chúng cách mạng
nổi dậy tác động đến ngụy quân ngụy quyền, dẫn đến sự kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi
dậy.

Đấu tranh quân sự là đặc trưng cơ bản của chiến tranh. Đấu tranh quân sự có quy luật riêng
của nó nhưng quy luật đó không vận động một cách đơn độc mà vận động trong sự kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh chính trị, với khởi nghĩa vũ trang, với tất cả các mặt đấu tranh khác. Từ khởi
nghĩa phát triển thành chiến tranh, đấu tranh quân sự ngày càng có vai trò quan trọng. Quy luật
chiến tranh và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác dụng và tác động lẫn nhau, trong đó quy luật
chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định cuối cùng.

Chính vì biết phát huy sức mạnh của cả nước, kết hợp sức mạnh của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng kết hợp mọi lực lượng, mọi hình thức
đấu tranh, nên chúng ta đã tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn để thực hành chiến lược tiến công.
Nếu chỉ dựa vào các yếu tố đơn thuần quân sự, vào quân đội thì chiến tranh cách mạng miền
Nam đã không thể thực hành chiến lược tiến công và càng không thể phát triển tiến công khi Mỹ
ồ ạt đưa quân vào và không ngừng tăng quân, leo thang chiến tranh đến mức cao nhất.

Tuy nhiên trong điều kiện lấy nhỏ thắng lớn, ta không thể thực hành chiến lược tiến công để
giành thắng lợi trong thời gian ngắn, mà phải phát triển thế tiến công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ
đến toàn bộ trong một cuộc chiến tranh lâu dài, lấy thời gian làm lực lượng, vừa đánh vừa xây
dựng, càng đánh càng mạnh đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Chiến lược chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của ta là chiến lược chiến tranh lâu dài, biết
hạn chế không gian chiến tranh (quyết tâm thắng địch ở miền Nam, hạn chế không để địch mở
rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng cả lục quân), biết đánh địch khi chúng leo thang và biết kéo
địch xuống thang, đánh lui địch từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, tiến tới thắng lợi hoàn
toàn. Nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và tranh thủ
thời cơ mở những trận tiến công chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành thắng lợi
từng bước, "đánh cho Mỹ cút", rồi tiến lên "đánh cho ngụy nhào", thực hiện tổng tiến công và
nổi dậy đè bẹp quân địch, giành thắng lợi cuối cùng.

Có thể nói Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta và Bộ Chính trị đã đạt tới đỉnh khá cao của
nghệ thuật chỉ đạo tiến hành chiến tranh cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự chỉ
đạo đó đã gắn bó chặt chẽ chiến lược chiến tranh với đường lối chiến lược và sự chỉ đạo chiến
lược trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước không bao gồm đơn thuần những yếu tố quân sự mà
là sự quán triệt, vận dụng đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng của Đảng
trong chiến tranh, theo quy luật chiến tranh và quy luật đấu tranh quân sự của chiến tranh nhân
dân Việt Nam.

3. Về chiến lược quân sự.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn do Đảng ta đã giải quyết đúng đắn
các vấn đề chiến lược quân sự, bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự. Chiến lược quân sự
phục tùng đường lối chiến lược, sách lược cách mạng, chiến lược chiến tranh nhân dân và tuân

6
theo những quy luật riêng của đấu tranh vũ trang. Chiến lược quân sự trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ của ta đã giải quyết thành công các vấn đề thực tiễn và lý luận cảu đấu tranh vũ trang
và phối hợp đấu tranh vũ trang với các mặt đấu tranh khác, nhằm đạt mục đích chính trị của
chiến tranh và mục tiêu của cách mạng.

Đó là chiến lược toàn dân đánh giặc, lấy ba thứ quân làm nòng cốt, tiến công địch bằng hai
phương thức tiến hành chiến tranh: chiến tranh du kích (nay gọi là chiến tranh nhân dân địa
phương) và chiến tranh chính quy (nay gọi là chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực), đánh địch
trên ba vùng chiến lược ở miền Nam (rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị), thực hiện ba
mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận); kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với tiến công
chính trị và đến lúc nào đó, với tiến công ngoại giao. Đây chính là bí quyết tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn về quân sự và nghệ thuật chiến thắng quân địch trên chiến trường trong toàn bộ
cuộc chiến tranh cũng như trong từng tình huống chiến lược cụ thể. Những nội dung của chiến
lược quân sự thể hiện tập trung trong chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời có những nội
dung riêng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Nghệ thuật đánh giặc của toàn dân bằng ba thứ quân và bằng hai phương thức là tuyền
thống và cũng là một nét độc đáo của chiến lược quân sự của ta. Nghệ thuật đó có bước phát
triển rất cao trong kháng chiến chống Mỹ, bắt nguồn từ đường lối chiến lược, sách lược cách
mạng và chiến lược chiến tranh nhân dân chống Mỹ, đồng thời có tiền đề thuận lợi là sự lớn
mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân trên cả hai miền. Sự lớn mạnh đó gắn liền với những
thành tựu của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, của việc tổ chức tuyến vận tải chiến lược Hồ
Chí Minh trên bộ và trên biển. Nhờ vậy đã liên tiếp diễn ra những bước tiến vượt bậc về xây
dựng ba thứ quân và kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh trên chiến trường niềm Nam.

Dựa vào sức mạnh tổng hợp của cách mạng và chiến tranh nhân dân trên cả hai miền, phát
huy thế chiến lược tiến công toàn diện của cách mạng và chiến tranh nhân dân nên chúng ta đã
thực hành được nhất quán chiến lược tiến công về quân sự trong chiến tranh chống Mỹ, cứu
nước, mặc dù những năm đầu ở miền Nam lực lượng vũ trang nhân dân chưa nhiều, quy mô tổ
chức còn nhỏ bé, trang bị vũ khí còn kém cỏi; tiến công ngay cả khi đế quốc Mỹ có những bước
leo thang quân sự và tăng quân ồ ạt vào tham chiến. Đây là một sự thật hiển nhiên trên chiến
trường miền Nam nhưng lại dường như rất khó hiểu đối với những nhà lý luận quân sự tư sản,
chỉ xem xét chiến tranh qua những yếu tố đơn thuần quân sự, nhất là theo quan điểm tiến hành
chiến tranh chỉ bằng quân đội, bằng một thứ quân.

Tư tưởng chỉ đạo cơ bản của chiến lược tiến công quân sự là kết hợp tiêu diệt địch với giành
quyền làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ ngày càng vững chắc hơn.
Đây là sự thống nhất giữa yêu cầu của quy luật đấu tranh cách mạng (giành chính quyền) với quy
luật đấu tranh vũ trang (tiêu diệt dịch): yêu cầu của quy luật đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu
tranh chính trị (vừa tiêu diệt vừa dành quyền làm chủ); và yêu cầu của bản thân quy luật đấu
tranh vũ trang trong chiến tranh nhân dân (toàn dân đánh giặc chứ không phải chỉ có quân đội; cả
ba thứ quân vừa làm chủ vừa tiến công chứ không phải chỉ có quân chủ lực cơ động đánh địch).
Để tiêu diệt địch và làm chủ, phải kết hợp chặt chẽ lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị,
đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, tiến công và nổi dậy, vừa có lực lượng cơ động mạnh

7
để đánh tiệu diệt lớn, vừa có lực lượng tại chỗ mạnh để tiêu diệt nhỏ và vừa, tiêu hao rộng, phối
hợp với quần chúng nhân dân bám trụ kiên cường, đánh địch khắp nơi.

Chiến lược tiến công quân sự đã quyết định các hình thức hoạt động tác chiến cả trên phạm
vi chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, chủ yếu là các hoạt động tiến công và phản công. Tiến
công trên phạm vi chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; phản công trên phạm vi chiến dịch và có
thể trên phạm vi chiến lược; phòng ngự chủ yếu trong phạm vi chiến thuật.

Ba thứ quân của ta đã cùng nhân dân sáng tạo ra nhiều chiến thuật, nhiều cách đánh hết sức
phong phú và có hiệu quả cao như; đánh du kích, đánh tập trung, đánh của đặc công, đánh sân
bay, đánh hậu cứ, đánh giao thông, đánh cơ quan đầu não, sở chỉ huy, sinh lực "quý" của địch,
lập "vành đai diệt Mỹ"... Như vậy, quân và dân ta đã phát huy mạnh mẽ cách đánh sở trường của
mình, buộc địch phải đánh theo ý định của ta làm cho chúng không thể phát huy được ưu thế về
binh khí kỹ thuật, liên tiếp đánh bại các thứ chiến thuật của quân Mỹ và quân ngụy có số lượng
đông, trang bị kỹ thuật hiện đại.

Tiến công quân sự luôn luôn kết hợp với tiến công chính trị và nổi dậy của quần chúng trên
ba vùng chiến lược. Biểu hiện tập trung của sự kết hợp đó trên ba vùng là ba đòn chiến lược của
chiến tranh nhân dân ở miền Nam: các chiến dịch tiến công (và phản công) của bộ đội chủ lực
chủ yếu trên chiến trường rừng núi; các chiến dịch tổng hợp tiến công quân sự và nổi dậy của
quần chúng ở vùng nông thôn đồng bằng đông dân; và các cuộc đấu tranh chính trị lớn ở thành
thị.

Tiến công quân sự kết hợp với tiến công chính trị và nổi dậy của quần chúng trên ba vùng
phát triển thành Tổng tiến công và nổi dậy, đưa trung tâm bão táp của chiến tranh cách mạng vào
thành thị, kết hợp với tiến công và nổi dậy ở nông thôn đồng bằng và rừng núi, đập tan hoàn toàn
quân đội địch và chính quyền tay sai, kết thúc chiến tranh thắng lợi.

8
ĐÁNH GIÁ ĐÚNG SO SÁNH LỰC LƯỢNG ĐỊCH - TA,
XÁC ĐỊNH ĐÚNG THỜI CƠ, HẠ QUYẾT TÂM
CHIẾN LƯỢC KỊP THỜI, CHÍNH XÁC

Đại tướng HOÀNG VĂN THÁI

Đánh giá đúng so sánh lực lượng, nắm vững thời cuộc, tạo thời cơ và tận dụng thời cơ là
vấn đề cực kỳ quan trọng có ý nghĩa quyết định trong đường lối cách mạng, chiến lược cách
mạng, chiến lược quân sự.

Như chúng ta đều biết, lịch sử là một quá trình liên tục, giai đoạn sau bao giờ cũng là sự
tiếp nối của giai đoạn trước. Không có kinh nghiệm quý báu trong kháng chiến chống Pháp, chắc
chắn chiến tranh nhân dân ở nước ta không thể phát triển tới trình độ rất cao như trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Cũng như không có những bài học kinh nghiệm quý báu, kể cả những
kinh nghiệm "xương máu" của thời kỳ đầu và của cả quá trình phát triển, nhất định không thể có
được những sáng tạo rất lớn trong thời kỳ cuối cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền
Nam, như ta đã thấy.

1. Chiến tranh cách mạng miền Nam đã trải qua hơn 20 năm đấu tranh gian khổ, quyết liệt,
nhưng có thể nói những năm 1957-1959 là thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất. Đó là thời kỳ mà
đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ hiếu chiến nhất - đã trực tiếp xâm lược miền Nam nước ta bằng
chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đã dùng chính quyền phản động Ngô Đình Diệm làm
công cụ thống trị, nô dịch cực kỳ hung bạo, không những thẳng tay chém giết những người cách
mạng, những người kháng chiến cũ mà còn trắng trợn khủng bố, đàn áp khốc liệt hầu hết các
tầng lớp nhân dân từ đồng bằng đến rừng núi, từ nông thôn đến thành thì, cũng có thể nói, đó là
thời kỳ cả miền Nam như phải sống lại thời kỳ trung cổ. Lực lượng phản cách mạng đã điên
cuồng đánh phá cách mạng bằng các chiến dịch "tố cộng, diệt cộng", gây nên những hậu quả cực
kỳ nghiêm trọng cho cả đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào ta ở miền Nam.

Đánh giá tình hình so sánh lực lượng địch, ta ở miền Nam và trong bối cảnh quốc tế lúc
này, thật là một vấn đề rất phức tạp.

Hồi đó, Mỹ - Diệm đã tưởng rằng chúng mạnh gần như tuyệt đối, phong trào cách mạng
miền Nam sẽ tàn lụi và suy sụp, nhân dân miền Nam sẽ phải cúi đầu chấp nhận chế độ thống trị
của chúng.

Nhưng Đảng ta đã nhận định: địch không mạnh như chúng ta tưởng. Đảng luôn luôn tin
chắc rằng đồng bào miền Nam nhất định không bao giờ chấp nhận chế độ thực dân, dù là thực
dân cũ hay thực dân mới. Đảng khẳng định: chúng có quân đông, nhưng không có cơ sở chính trị
- xã hội sâu rộng và vững chắc, tuy quân sự của chúng còn mạnh, nhưng chính trị của chúng lại
rất yếu, mà yếu nhất là ở nông thôn. Một chế độ cai trị bằng tàn sát đẫm máu không phải là một
chế độ mạnh, và khi Mỹ-Diệm phải lê máy chép đi khắp miền Nam để giết hại và hăm doạ nhân
dân, chính là lúc chính trị của chúng yếu nhất.

9
Đảng ta đã giải quyết thành công những vấn đề chiến lược cách mạng, chiến lược chiến
tranh và chiến lược quân sự trên đây trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam,
giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc đụng đầu lịch sử với tên đế quốc đầu sỏ của thời đại ngày nay.
Đó là vì Đảng vững tin ở sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, của con người Việt Nam,
của dân tộc Việt Nam, biết khai thác những khả năng vô tận và động viên sức mạnh vĩ đại của
quần chúng nhân dân và sức mạnh thời đại để đẩy mạnh cách mạng, tiến hành chiến tranh nhân
dân và giải quyết sáng tạo các vấn đề nghệ thuật quân sự.

Sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sức mạnh được
tích luỹ trong 21 năm chống Mỹ, trong cả quá trình 45 năm dấu tranh cách mạng của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là kết tinh sức mạnh của dân tộc ta qua bốn nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Đó là sức mạnh của cả nước, của cả quân sự và chính trị, của tiến công và nổi dậy trên
cả ba vùng chiến lược; của cả chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực và chiến tranh nhân dân
địa phương...

Trong khi nghiên cứu các yếu tố tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước nói chung, của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 nói riêng, chúng ta cần thấy
đúng vai trò, vị trí của từng yếu tố, đồng thời phải xem xét nó trong mối quan hệ tác động lẫn
nhau, tránh nhấn mạnh một chiều yếu tố này hoặc yếu tố khác, mặt này hay mặt khác.

Những vấn đề chiến lược nên trên đây, cũng như nhiều kinh nghiệm phong phú được đúc
kết từ hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thật vô cùng quý báu. Trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay chống kẻ thù xâm lược mới, chúng ta phải
trân trọng và ra sức học tập những kinh nghiệm đã có, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới.

Đối với đội ngũ cán bộ trong quân đội, cần thấm nhuần bài học về phương pháp luận để giải
quyết đúng đắn và sáng tạo các vấn đề khoa học và nghệ thuật quân sự hiện nay phù hợp với
đường lối chính trị, đường lối kinh tế và đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Phải luôn nhận rõ cái gốc của mọi thắng lợi là nhân dân Việt Nam anh hùng, ở
dân tộc Việt Nam anh hùng, ở phong trào cách mạng rộng lớn của đông đảo quần chúng do Đảng
lãnh đạo. Phải đo từ cái gốc đó, trân trọng bài học kinh nghiệm lịch sử của ta đồng thời ra sức
học tập những kiến thức quân sự hiện đại, những kinh nghiệm tiên tiến của các lực lượng vũ
trang Liên Xô để làm giàu thêm kiến thức và kinh nghiệm của mình, đưa khoa học và nghệ thuật
quân sự Việt Nam phát triển đúng hướng, đại nhiều thành tựu mới rực rỡ hơn nữa.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá II) năm 1959, về
đường lối cách mạng Việt Nam, đường lối cách mạng ở miền Nam, như ngọn đuốc soi sáng con
đường tiến lên của cách mạng. Nghị quyết vạch rõ: "chỉ có thắng lợi của cách mạng mới chấm
dứt cảnh cùng khổ của nhân dân miền Nam, mới triệt để đánh bại mọi chính sách nô dịch, chia
cắt, gây chiến của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền Nam... Con đường phát triển cơ bản của
cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... Theo tình hình cụ thể
hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng là chủ yếu, kết hợp
với lực lượng vũ trang đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính
quyền cách mạng của nhân dân...". Nghị quyết 15 đã phát triển nhận định của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về kẻ thù, ngay từ giữa năm 1954: "Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà

10
Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào"(1). Nghị quyết cũng
hoàn thiện những quan điểm cơ bản của Đảng ta về cách mạng miền Nam, đã được "thai nghén"
từ những năm 1955-1956 trong Đề cương cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn khởi thảo
ngay tại miền Nam.

Nhận định đúng, chủ trương đúng đó của Đảng đã thật sự làm xoay chuyển tình thế cách
mạng miền Nam, từ chỗ "tình hình khó khăn đến mức tưởng như cách mạng không thể duy trì và
phát triển được"(2) đến chỗ "quần chúng cách mạng đã vùng lên"(3) và "về lực lượng chính trị...
ta đã chiếm ưu thế tuyệt đối so với Mỹ-Diệm"(4). Có nghị quyết 15, nhân dân miền Nam thật sự
tăng thêm sức mạnh của mình lên gấp nhiều lần, hoàn toàn đủ sức vùng lên đánh địch ở cơ sở.
Những cuộc khởi nghĩa vũ trang từng phần, chủ yếu là ở nông thôn - mà ta thường gọi là "đồng
khởi" - nổ ra ở Bến Tre, Minh Hải và cả miền Nam đầu năm 1960. Chỉ sau một thời gian ngắn,
cách mạng miền Nam không chỉ phục hồi nhanh chóng mà còn tiến lên mạnh mẽ, làm cho kẻ thù
sau một thời gian dài "làm mưa làm gió" ở miền Nam, bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng toàn diện, cả về chính trị và quân sự. Thực tiễn lịch sử đó đã chứng minh sức mạnh to lớn
và tác dụng quyết định của một nhận định đúng, một chủ trương đúng trong chỉ đạo chiến lược
của Đảng ta, tạo nên một bước ngoặt căn bản của cách mạng miền Nam trong những năm đầu
thập kỷ 60.

2. Từ khởi nghĩa vũ trang tiến lên chiến tranh cách mạng, sau khi đánh thắng chiến lược
"chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy, cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam trong
những năm 1965-1968 lại đứng trước thử thách lớn chưa từng có: đế quốc Mỹ ồ ạt đưa mấy chục
vạn quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam. tiến hành
"chiến tranh phá hoại" ở miền Bắc, đẩy chiến tranh phát triển đến mức cao nhất.

Chúng ta không bao giờ thừa nhận những lời tuyên bố huênh hoang của đế quốc Mỹ về cái
gọi là "sức mạnh vạn năng của quân Mỹ", "sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của không lực
Hoa Kỳ", đe doạ sẽ "nghiền nát quân giải phóng miền Nam", sẽ "đẩy miền Bắc trở lại thời kỳ đồ
đá". Song ta nhận rõ Mỹ là một nước giàu nhất trong phe đế quốc, có tiềm lực kinh tế lớn, có bộ
máy quân sự mạnh, có đội quân viễn chinh đông, từng giày xéo lên non sông đất nước của nhiều
dân tộc. Quân đội Mỹ cũng được nhiều nhà quân sự thế giới coi là một trong những quân đội
mạnh vào bậc nhất. Thực tế lịch sử những thập kỷ gần đây, đã có lần Mỹ chỉ tung ra 20 vạn quân
là đã có thể làm đảo lộn chiến lược của đối phương: đang tiến chiến lược phải chuyển sang rút
lui chiến lược.

Cuối năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam nước ta hơn 20 vạn quân. Trong tình
hình đó, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta rõ ràng là rất phức tạp, nhất là trong bối cảnh
quốc tế lúc này tư tưởng phục Mỹ, sợ Mỹ vẫn đang là một khuynh hướng có trọng lượng không
nhỏ.

Song ngay từ đầu, Đảng ta đã khẳng định: Mỹ giàu nhưng không mạnh. Ngày nay mọi
người đều thấy nhận định đó là rất đúng đắn và sáng suốt, nhưng hồi đó không phải ai cũng đồng
tình. Đảng ta cho rằng quân Mỹ tuy là một đội quân mạnh, nhưng vào miền Nam không phải
trong thế mạnh mà trong thế yếu, thế bị động, thế thua, vào để cứu quân ngụy khỏi sụp đổ. Quân
viễn chinh Mỹ vào miền Nam còn là "hạ sách" của chủ nghĩa thực dân mới - một thứ chủ nghĩa
thực dân giấu mặt, trá hình để lừa bịp nhân dân - do đó càng làm gay gắt thêm những mâu thuẫn

11
vốn rất sâu sắc giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ, với nhân dân thế giới và với chính nhân dân
Mỹ. Chỗ yếu cơ bản của địch từ trước đến nay vẫn là về chính trị, thì lúc này khi quân Mỹ vào
miền Nam, chỗ yếu đó lại càng bộc lộ sâu sắc hơn.

Mấy chục vạn quân Mỹ vào làm cho số quân và đầu súng của địch tăng lên rõ rệt, nhất là
các phương tiện chiến tranh tăng lên rất nhiều cả về khối lượng và trình độ hiện đại. Nhưng khi
Mỹ vào, ta không chỉ mạnh về chính trị mà đã mạnh lên nhiều cả về quân sự. Lúc này cách mạng
miền Nam không còn trong thời kỳ "trứng nước" mà đã ở vào thời kỳ cao trào, chiến tranh cách
mạng miền Nam không mới khởi đầu mà đã diễn ra rất mạnh mẽ và rộng khắp từ Quảng Trị đến
Cà Mau, từ rừng núi đến nông thôn, đồng bằng và cả trong đô thị.

Về lực lượng, ta có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cả hai lực lượng chiến lược ấy
đều đã mạnh. Lực lượng chính trị đã tập hợp được hàng triệu quần chúng có tổ chức chặt chẽ,
ngày đêm trực diện đấu tranh với quân thù, có phương pháp đánh địch dũng cảm và thông minh,
phong phú và linh hoạt. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân đều đã lớn mạnh, đứng
vững trên hầu hết các địa bàn chiến lược ở chiến trường miền Nam, trong đó đã hình thành
những "quả đấm" chủ lực mạnh, có khả năng đánh những trận tiêu diệt tương đối lớn.

Lúc này, ta đã xây dựng được thế trận vững mạnh và hiểm hóc: thế trận trên cả ba vùng
chiến lược, liên hoàn với nhau trên toàn chiến trường miền Nam, nối liền với hậu phương lớn
miền Bắc trong thế trận chung cả nước; thế trận xen kẽ, đan cài giữa ta và địch, cắm sâu tận
trong lòng địch, áp sát mọi sào huyệt của chúng, thế trận căng địch ra mà đánh, kiềm địch lại mà
diệt, không cho chúng đánh theo cách sở trường của chúng mà buộc phải đánh theo ý định của
ta.

Cách đánh của ta lúc này đã phát triển tương đối hoàn chỉnh: cách đánh của chiến lược tổng
hợp, huy động tất cả các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng lên tận tuyến đấu tranh,
sử dụng mọi hình thức và phương pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt... mà ta thường khái quát
ngắn ngọn là hai chân, ba mũi, ba vùng, ba thứ quân, hai phương thức, ba quy mô(1)... trên cơ sở
tư tưởng chiến lược tiến công.

Không có sự phân tích toàn diện và sâu sắc thì không thể đánh giá đúng so sánh lực lượng
địch, ta trên chiến trường khi Mỹ đã đưa vào mấy chục vạn quân mà ta chưa phải đã tăng ngay
được nhiều quân trên chiến trường trong một thời gian ngắn. Trong bối cảnh chiến trường cực kỳ
nóng bỏng, hàng triệu tấn bom đạn trút xuống dữ dội trên cả hai miền Nam Bắc mà nhiều người
coi như những "cơn bão lửa". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành trung ương
Đảng (khoá III) năm 1965 về tình hình nhiệm vụ mới, đã khẳng định rất kiên quyết và sáng suốt:
"Dù đế quốc Mỹ có đưa vào miền Nam mấy chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng so sánh
giữa ta và địch vẫn ngày càng trở nên gay go ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở vững chắc để
giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên toàn chiến trường, có lực lượng và điều kiện để tiến
hành phản công và tiến công, đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch ..."Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng khẳng định đanh thép quyết tâm đánh Mỹ: "chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu
quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có
thể dùng hàng nghìn máy bay tăng tường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay
chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng"(1)

12
Cuối năm 1967, khi đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam nước ta hơn 50 vạn quân, nâng tổng số
quân địch ở miền Nam, cả Mỹ, Ngụy và chư hầu lên tới 120 vạn tên, "chiến tranh cục bộ" của đế
quốc Mỹ đã phát triển đến mức cao nhất, Đảng ta sớm đã phát hiện một yếu tố mới trong so sánh
lực lượng địch, ta trên chiến trường: tuy quân địch rất đông, nhưng chúng lại có nhiều sơ hở, mà
sơ hở nhất là ở thành thị, khác với những năm 1957-1959, nơi yếu nhất của địch lúc đó là ở nông
thôn.

Ngay từ năm 1965, khi Mỹ bắt đầu đưa quân vào miền Nam nước ta, đồng chí Lê Duẩn, Bí
thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhắc nhở: "Biết thắng địch một cách bất ngờ là
một trong những nhân tố quan trọng để giành thắng lợi, một phương châm tác chiến mà tất cả
những người cầm quân đều phải nhuần nhuyễn. Thắng địch một cách bất ngờ không có nghĩa là
thắng một cách tình cờ hoặc cầu may, mà phải có ý thức, có chuẩn bị trước, có kế hoạch khắc
phục mọi khó khăn, trở ngại và phải có tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến quyết
thắng cao... kịp thời phát hiện các sơ hở của địch... phải giữ tuyệt đối bí mật về phương hướng và
ý định chiến lược của ta... Lại còn phải biết nắm thời cơ, tranh thủ thời cơ..."

Nhận định sáng suốt và những chỉ thị kịp thời nói trên là cơ sở hết sức quan trọng cho chủ
trương sắc sảo, táo bạo của Đảng ta tiến hành cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt ở hầu hết các
thành thị miền Nam hồi Tết Mậu Thân năm 1968. Đòn sấm sét bất ngờ đó giáng trúng phần lớn
những trung tâm đầu não chiến tranh của Mỹ - ngụy, làm cho kẻ thù ở chiến trường miền Nam
cũng như ở nước Mỹ kinh hoàng, rối loạn, còn anh em, bầu bạn ta thì ngạc nhiên, sung sướng.

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một đòn quyết định làm
phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của địch.
Quân thù đã lâm vào một cuộc khủng hoảng chiến lược trầm trọng nhất từ trước đến lúc bấy
giờ. Chúng không thể tiếp tục leo thang mà phải bắt đầu xuống thang chiến tranh từng bước và
ngồi vào bàn đàm phán. Chúng phải bị động thay đổi chiến lược, "phi Mỹ hoá chiến tranh" rồi
"Việt Nam hoá chiến tranh"- một sản phẩm bất đắc dĩ mà nhiều nhà nghiên cứu quân sự trên thế
giới hồi đó gọi là một chiến lược "nửa dơi, nửa chuột", vừa có tính chất "chiến tranh đặc biệt" có
cải tiến và nâng cao. Đó là một chiến lược mà ngay từ khi mới xuất hiện đã bộc lộ những yếu tố
thất bại không thể tránh khỏi.

Như vậy thực tế lịch sử lại một lần nữa chứng tỏ, một nhận định đúng, một chủ trương đúng
của Đảng trong chỉ đạo chiến lược cùng với những hành động anh dũng, sáng tạo của quần
chúng trên chiến trường đã có thể tạo nên một trong những bước ngoặt căn bản của cách mạng
và chiến tranh cách mạng miền Nam vào những năm cuối thập kỷ 60.

3. Trong 20 năm chống Mỹ, cứu nước cũng như trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng
dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà vấn đề đánh giá so sánh lực lượng địch, ta và nắm bắt thời cơ,
hạ quyết tâm chiến lược của Đảng lại có những phát triển sáng tạo, sắc bén, kịp thời như những
năm 1973-1975, nhất là từ cuối năm 1973 và đặc biệt là trong mùa xuân 1975 lịch sử.

Mọi người còn nhớ, trong những tháng nửa đầu năm 1973, trên chiến trường miền Nam lại
xuất hiện tình hình khá phức tạp. Đánh giá so sánh lực lượng địch, ta trên chiến trường lúc này
cũng không đơn giản. Sau 18 năm đánh Mỹ, ta đã giành được thắng lợi to lớn, được đánh dấu
bằng việc ký kết Hiệp định Pa-ri, trong đó có một vấn đề rất lớn có quan hệ đến chỉ đạo chiến

13
lược: quân Mỹ và quân chư hầu phải rút khỏi miền Nam, còn lực lượng vũ trang và lực lượng
chính trị của ta ở miền Nam vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Do đó, so sánh lực lượng trên
chiến trường có thay đổi lớn theo hướng có lợi cho ta. Tuy nhiên Mỹ-ngụy "một tay ký, một tay
phá" hiệp định, điên cuồng đánh phá phong trào cách mạng, làm cho một số nơi lại gặp khó
khăn, tổn thất, có nơi có lúc khó khăn nghiêm trọng. Việc đánh giá so sánh lực lượng địch, ta lúc
này cũng không kém phần phức tạp. Song Đảng ta đã sớm khẳng định: địch còn đánh phá được
phong trào cách mạng một số địa phương ở miền Nam không phải do địch mạnh mà do ta còn có
sai sót trong chỉ đạo cách mạng miền Nam. Cách mạng Việt Nam đã mạnh hơn bất cứ thời kỳ
nào kể từ năm 1954 đến nay.

Đánh giá đúng tình hình so sánh lực lượng địch, ta và xu thế phát triển tất yếu của nó, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá III) năm 1973 đã kịp thời
khẳng định: con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực để hoàn thành cách
mạnh dân tộc dân chủ, tư tưởng chiến lược vẫn là tư tưởng tiến công; phương hướng hành động
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta là phải ra sức nhanh chóng tạo thế mới, lực mới, quyết tâm
giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, nếu Nghị quyết
12 vạch ra phương hướng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ lịch sử "đánh cho Mỹ cút", thì Nghị
quyết 21 đã chỉ rõ con đường đi tới hoàn thành một nhiệm vụ lịch sử nữa là "đánh cho Ngụy
nhào", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra từ mùa xuân năm 1968.

Qua những diễn biến lớn trên chiến trường năm 1973 và nhất là năm 1974, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng lại kịp thời có những nhận định mới về so sánh lực lượng địch, ta, và thời cơ
lịch sử để hạ quyết tâm chiến lược chính xác. Ví dụ, sau chiến thắng Thượng Đức và tiếp đến
việc đánh bại những cuộc hành quân phản kích của quân ngụy vào giữa năm 1974 (ở tây - nam
Đà Nẵng) ta đã đi đến kết luận quan trọng: chủ lực ta đã hơn hẳn chủ lực ngụy, và đây chính là
một dấu hiệu bước vào thời kỳ cuối của chiến tranh. Đến đầu năm 1975, sau chiến thắng Phước
Long (ở Đông Nam Bộ), ta lại kịp thời khẳng định: địch đã có một bước suy yếu mới; quân ngụy
không còn khả năng phản kích lớn để giành lại một tỉnh quan trọng mà ta vừa giải phóng; Mỹ
cũng chỉ có những phản ứng mang tính chất tượng trưng.

Trong đánh giá so sánh lực lượng địch, ta vào cuối năm 1974, vấn đề nổi lên cần chú ý
không phải là so sánh mạnh yếu giữa ta và ngụy nữa - vì ta mạnh lên, ngụy yếu đi là điều rõ ràng
- mà là vấn đề xem xét khả năng Mỹ can thiệp trở lại như thế nào, do đó sẽ có ảnh hưởng tới so
sánh lực lượng đến mức nào. Sau khi xem xét và phân tích sâu sắc tất cả khía cạnh của vấn đề
này, Bộ Chính trị đã đi đến một nhận định rất đúng đắn, sáng suốt, thật sự khoa học: Mỹ đã rút
khỏi miền Nam thì đến lúc này khó có khả năng trở lại miền Nam, và cho dù Mỹ có can thiệp
đến thế nào đi chăng nữa thì cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của ngụy quyền Sài
Gòn.

Đầu năm 1975, do đánh giá đúng lực lượng và khả năng của địch, nhận định đúng tình thế
mới và thời cơ lớn của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam, nắm bắt đúng những
động thái mới trên chiến trường, phản đoán đúng chiều hướng phát triển của địch, của ta... Bộ
Chính trị đã chính thức hạ quyết tâm chiến lược rất chính xác, kịp thời và linh hoạt: dự kiến
trong hai năm 1975 - 1976, nỗ lực vượt bậc để kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
đã kéo dài 20 năm; đồng thời còn dự kiến nếu tạo ra được thời cơ tốt xuất hiện sớm hơn, sẽ hoàn
thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

14
Khi bắt đầu thực hiện quyết tâm chiến lược ấy, đặc biệt là sau chiến thắng Buôn Ma Thuột -
chiến thắng mở đầu cho cuộc tổng tiến công chiến lược - từ trung tuần tháng 3 trở đi, Bộ Chính
trị và Quân uỷ trung ương đã xem xét, kết luận từng tuần, có khi từng ngày việc đánh giá so sánh
lực lượng địch, ta trên chiến trường và vạch ra những chủ trương chiến lược, xử lý kịp thời các
tình huống chiến lược, có khi cả tình huống chiến dịch có quan hệ đến chiến lược.

Trong tháng 3 lịch sử này, Bộ Chính trị đã bốn lần họp hội nghị kịp thời bổ sung quyết tâm
chiến lược giải phóng miền Nam từ hai năm rút xuống một năm, rồi trong mùa mưa và cuối cùng
ngay trước mùa mưa năm 1975. Rõ ràng từ chỗ tạo thời cơ, nắm thời cơ, mau lẹ thúc đẩy thời cơ,
ta đã không ngừng đẩy nhanh tốc độ tiến công với những bước tiến "thần tốc" làm cho bọn cầm
đầu Mỹ-ngụy không kịp trở tay đối phó, khiến chúng phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác.
Trong những ngày tổng tiến công và nổi dậy cực kỳ sôi động ấy, Bộ Chính trị đã đánh giá rất
đúng so sánh lực lượng địch, ta trong từng thời điểm, phát hiện chính xác thời cơ chiến lược
"nghìn năm có một", kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch tổng tiến công chiến lược, tổ chức
thực hiện thắng lợi những trận quyết chiến chiến lược cuối cùng với thời gian nhanh nhất, tổn
thất thấp nhất, đạt hiệu quả cao nhất: chưa đầy hai tháng đã hoàn thành kế hoạch hai năm, kết
thúc trọn vẹn cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

*
* *

Nhắc lại sự đánh giá so sánh lực lượng địch, ta nắm bắt thời cơ và hạ quyết tâm chiến lược
của Đảng qua mấy thời kỳ tương đối điển hình như trên, tôi muốn nêu lên mấy suy nghĩ bước
đầu về lập trường và phương pháp của Đảng ta trong khi xem xét và giải quyết vấn đề này, một
trong những vấn đề rất quan trọng trong chỉ đạo chiến lược cách mạng và chiến tranh cách mạng.
Đây không chỉ là nghiên cứu xem xét những vấn đề đã qua, mà còn có ý nghĩa không nhỏ trong
việc xem xét và giải quyết vấn đề này trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện này và sắp tới.

1. Trong đánh giá so sánh lực lượng địch, ta, nhất là trong hạ quyết tâm chiến lược qua các
thời kỳ, lập trường của Đảng ta rất kiên quyết, triệt để. Vấn đề này có lẽ tất cả mọi người, ở
nước ta và trên thế giới đến nay đều thấy rõ.

Chỉ điểm qua những lời khẳng định đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao
của Đảng, của dân tộc, thể hiện tập trung quyết tâm, ý trí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
cũng thấy lập trường của Đảng ta rõ ràng và rứt khoát. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám,
Bác đã chỉ thị: "dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho kỳ được độc lập, tự
do". Khi thực dân Pháp hùng hổ quay trở lại xâm lược nước ta, Người tuyên bố "Chúng ta thà hy
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhát định không chịu làm nô lệ". Khi đế quốc Mỹ
ồ ạt đưa mấy chục vạn quân vào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Dù chiến tranh
có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Song nhân dân Việt Nam quyết tâm
không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do"(1). Khi đế quốc Mỹ thất bại buộc phải chấm dứt
ném bom bắn phá miền Bắc và nói đến "thương lượng hoà bình", nhưng vẫn ngoan cố, chưa chịu
từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng. Người đã kịp thời chỉ rõ: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất
nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"(2)... Trong lời Di chúc để lại cho toàn

15
Đảng, toàn dân, toàn quân. Người khẳng định: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài.
Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh
giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn"(3).

Điểm qua các Nghị quyết của Đảng, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy nhất quán một quyết tâm gang thép như vậy, từ Nghị quyết 15 (1959) đến Nghị quyết 21
(1973) đều khẳng định con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực của cách
mạng, là đường lối chiến lược của cách mạng miền Nam là đường lối chiến lược chiến công,
phương pháp cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam là thực hành chiến lược tổng hợp.
Tất cả đều nhằm: Làm thay đổi so sánh lực lượng giữa địch và ta theo hướng có lợi cho ta, giành
thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Như ta đã thấy, đến 10 giờ sáng ngày 29 tháng 4 năm
1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương vẫn chỉ thị rất kiên quyết, triệt để, rõ ràng và dứt
khoát cho toàn chiến trường: "...tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí
thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải
tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng"(4).

Trước mọi kẻ thù cũng như trước mọi xu hướng hữu khuynh, tiêu cực, Đảng ta đã dứt khoát
không khoan nhượng, nhưng cũng rất khôn khéo. Đối với kẻ thù thì kiên quyết trong chiến lược,
mềm dẻo trong sách lược. Ta nhất quán thực hành chiến lược tiến công, nhưng biết cách tiến
công đánh thắng từng bước đến đánh thắng hoàn toàn quân địch. Ta nhất quán thực hiện quyết
tâm chiến lược đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, nhưng đã thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời ở miền
Nam, thậm chí còn tuyên bố sẵn sàng thành lập "chính phủ liên hiệp ba thành phần", thực hiện
"hoà bình, trung lập". Đối với những khuynh hướng tiêu cực, ta vừa đấu tranh rất kiên quyết và
bền bỉ, có lý, có tình - thường là trong nội bộ - vừa tìm mọi cách tranh thủ tất cả những lực lượng
có thể tranh thủ được nhằm tập hợp lực lượng lớn nhất, hình thành mặt trận của nhân dân thế
giới ủng hộ Việt Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược với quy mô sâu rộng nhất.

2. Trong việc nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược, nhất là trong việc đánh giá so sánh
lực lượng địch, ta, Đảng ta vận dụng thành thục phương pháp luận Mác - Lê Nin, vận dụng
nhuần nhuyễn phép biện chứng duy vật. Sự phân tích, đánh giá so sánh lực lượng địch, ta của
Đảng được thể hiện trong các Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, các tác phẩm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, có thể xem như mẫu mực về đánh
giá địch, đánh giá ta, về so sánh lực lượng địch, ta.

Mọi người còn nhớ, ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, khi so sánh lực
lượng - chủ yếu là về quân sự - giữa ta và địch còn chênh lệch quá lớn, mà nhiều người hồi đó ví
như "châu chấu đá voi"; nhưng Bác Hồ đã sớm chỉ rõ bản chất của mối tương quan đó và xu thế
phát triển tất yếu của nó: "Lực lượng của chúng cũng như mặt trời lúc hoàng hôn, hống hách lắm
nhưng đã gần tắt nghỉ"1, còn lực lượng của ta thì "ngày càng thêm mạnh, như suối mối chảy, như
lửa mới nhen, chỉ có tiến, không có thoái"2. Người còn nói "Lực lượng của địch trước to sau
nhỏ, trước mạnh sau yếu... Lực lượng của ta trước nhỏ sau to, trước yếu sau mạnh. Thanh thế của
ta cũng như những nguồn nước nhỏ nhóm dần thành một đại dương"3.

16
Khi đế quốc Mỹ ồ ạt tung mấy chục vạn quân viễn chinh vào miền Nam nước ta tưởng có
thể đè bẹp được phong trào cách mạng miền Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời
khẳng định: Mỹ giàu nhưng không mạnh. Đây không phải là một nhận định chủ quan, duy ý trí,
mà là sự phân tích rất biện chứng, đúng đắn, sáng suốt, một kết luận rất cách mạng và khoa học
trên cơ sở nắm vững quy luật vận động, phát triển và xu thế tất yếu của sự vật.

Đảng ta không những phân tích rất toàn diện mà còn phân tích rất cụ thể sức mạnh của đế
quốc Mỹ. Đúng là trong lịch sử, chưa có một tên đế quốc nào có tiềm lực kinh tế và bộ máy quân
sự đồ sộ, hiện đại như đế quốc Mỹ, nhưng sức mạnh quân sự - kinh tế ấy của chúng tại đặt trên
nền móng của một chế độ chính trị - xã hội thối nát, dưới sự điều khiển của một tập đoàn thống
trị cực kỳ phản động. Chính sách thực dân mới của Mỹ đi ngược lại trào lưu tiến hoá của lịch sử
và đã bị cả loài người tiến bộ kiên quyết lên án và chống lại. Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ
còn là sản phẩm của thế thua, thế yếu của chủ nghĩa đế quốc sau khi chủ nghĩa thực dân cũ đã
hoàn toàn phá sản. Do vậy, đế quốc Mỹ không phải mạnh tuyệt đối như chúng huênh hoang, như
nhiều người ngộ nhận.

Mỹ càng không mạnh khi mang quân xâm lược miền Nam nước ta. Trên chiến trường miền
Nam Việt Nam, chế độ thực dân mới mà Mỹ ra sức áp đặt là sản phẩm của thế bị động sau thực
dân Pháp đã thất bại, phải rút khỏi miền Bắc nước ta, khi cách mạng miền Nam và cách mạng cả
ba nước Đông Dương đã mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào trước đó. Tiến hành chiến tranh xâm lược
thực dân mới rất tàn bạo đối với một dân tộc được cả loài người yêu mến và quý trọng, lại ở rất
xa nước Mỹ, một cuộc chiến tranh không đem lại lợi ích gì cho nhân dân Mỹ, bọn trùm hiếu
chiến Mỹ không phải dễ gì huy động được mọi lực lượng, mọi sức mạnh quân sự- kinh tế của
nước Mỹ như chúng mong muốn.

Khác với chủ nghĩa thực dân cũ, phương thức xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới là phải
giấu mặt, trá hình, muốn thống trị, nô dịch các dân tộc, nhất định Mỹ phải thông qua bọn tay sai
bản xứ, nhưng ở nước ta bọn ngụy quyền tai sai rất suy yếu và hoàn toàn bị cô lập. Hơn nữa, trực
tiếp xâm lược nước ta, Mỹ vấp phải một đối phương già dặn, dũng cảm và thông minh, một dân
tộc có nền văn hiến lâu đời, có chủ nghĩa Mác - Lê nin vô địch, lại có nghệ thuật quân sự ưu việt
của chiến tranh cách mạng Việt Nam, vừa có tính nhân dân cao, vừa có tính hiện đại ngày càng
phát triển.

Với phương pháp phân tích cụ thể, ta thấy sức mạnh của nước Mỹ trong chiến tranh xâm
lược Việt Nam khác với thời kỳ Mỹ tham gia chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh
chống phát xít. Trong chiến tranh xâm lược thực dân kiểu cũ, với một đối phương chưa có chiến
tranh nhân dân phát triển cao, thì quân đội viễn chinh có thể phát huy được sức mạnh và đánh
theo cách đánh sở trường của chúng. Nhưng ở Việt Nam thì khác hẳn, Mỹ phải đương đầu với
một đối thủ dày dạn kinh nghiệm về tiến hành chiến tranh nhân dân, và buộc phải đánh theo ý
định của đối phương.

Với phương pháp xem xét rất cách mạng và khoa học, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn hàng
loạt mối quan hệ phức tạp, hình thành chiến lược tổng hợp của chiến tranh cách mạng Việt Nam:
kết hợp chặt chẽ giữa quân sự với chính trị, binh vận, ngoại giao (khi có điều kiện) và cả pháp lý
(khi có hiệp định Pa-ri); giữa tiến công và nổi dậy; giữa khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng;
giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy; kết hợp sức mạnh của ba vùng chiến lược, của

17
tiền tuyến lớn và hậu phương lớn, của ba nước Đông Dương, kết hợp sức mạnh của dân tộc và
sức mạnh thời đại, trong nước và quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa thế, lực và thời cơ, giữa đánh và
đàm, giữa đánh địch trên chiến trường với tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới, ở ngay trong lòng nước Mỹ. Tất cả nhằm tạo nên sức mạnh tổng
hợp lớn nhất, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi nhất cho ta.

Nắm vững phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và học thuyết của chủ nghĩa
Mác-Lê nin về chiến tranh và quân đội, Đảng ta có đường lối tiến hành chiến tranh và quan điểm
so sánh lực lượng địch, ta trong chiến tranh khác hẳn cách tiến hành chiến tranh và cách đánh giá
so sánh lực lượng trong các cuộc chiến tranh "cổ điển", và cũng hoàn toàn trái ngược với quan
điểm quân sự đơn thuần. Các văn kiện của Đảng cũng như thực tiễn chiến trường đều thể hiện rõ:
cuộc đọ sức giữa hai quân đội và không phải chỉ đánh địch bằng quân sự. Trong điều kiện phải
đương đầu với những kẻ thù xâm lược có đội quân nhà nghề đông hàng triệu tên, được trang bị
vũ khí rất hiện đại, nếu chỉ lấy số quân, số súng mà so sánh và nếu chỉ đánh địch bằng quân sự
thì làm sao ta có thể mạnh hơn địch và đánh thắng chúng. Ta mạnh vì ta không phải chỉ có quân
đội chiến đấu và có cả toàn dân đánh giặc; không chỉ đánh bằng vũ trang mà tiến công địch bằng
cả quân sự và chính trị (cả binh vận, ngoại giao và pháp lý nữa); không chỉ đánh địch bằng chiến
lược quân sự mà thực hành chiến lược tổng hợp của cách mạng và chiến tranh cách mạng; không
chỉ tăng dần sức mạnh trên toàn triến trường mà còn biết tạo sức mạnh áp đảo quân thù trên
những hướng chiến lược quan trọng nhất, ở những thời điểm quyết định nhất để đánh thắng quân
địch. Rõ ràng, ta thắng địch vì ta mạnh hơn địch trên chiến trường Việt Nam. Quy luật của chiến
tranh là "mạnh được, yếu thua", tiến trình và kết cục của chiến tranh suy cho cùng, bao giờ cũng
tuỳ thuộc vào lực lượng so sánh của hai bên đối chiến.

Trong các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, các Nghị quyết và Chỉ thị của Bộ
Chính trị, cũng như trong nhiều bức thư vào Nam của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đều thể
hiện rõ sự nghiên cứu toàn diện, sâu sắc những kinh nghiệm quý báu, phong phú của cách mạng
nước ta và cách mạng thế giới, kế thừa và vận dụng sáng tạo điều kiện cụ thể của cách mạng và
chiến tranh cách mạng ở miền Nam nước ta. Trong đó đó nổi bật là sự kế thừa và phát triển
những kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám và chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 trong kháng
chiến chống Pháp, của cao trào đồng khởi và những trận chiến đấu điển hình có tính chất bước
ngoặt như Ấp Bắc, Bình Giã, Vạn Tường, Tết Mậu Thân... trong kháng chiến chống Mỹ, những
kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười và những chiến dịch điển hình của Liên Xô trong chiến
tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945), những kinh nghiệm của cách mạng Lào trong quá trình đi tới
thành lập chính phủ trung lập ba phái... Tất cả những kinh nghiệm đó đều được phân tích cặn kẽ
để từ đó suy nghĩ về đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam, về chỉ đạo chiến lược, về
đánh giá so sánh lực lượng, địch, ta, về nắm bắt thời cơ và hạ quyết tâm chiến lược trong từng
giai đoạn, từng thời kỳ, từng thời điểm của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam...
Đây là một vấn đề rất quan trọng, một thành công điển hình về phương pháp luận trong lãnh đạo,
chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng ta.

*
* *

Vận dụng những kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược cách mạng và chiến lược chiến tranh
cách mạng trước đây, Đảng ta đã khẳng định rất đúng đắn và kịp thời: cách mạng xã hội chủ

18
nghĩa ở nước ta ngày nay phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cả hai nhiệm vụ ấy đều rất cơ bản và cấp bách; phải
ra sức xây dựng nền kinh tế quốc dân làm cho đất nước giàu mạnh, đồng thời phải khẩn trương
chuẩn bị đất nước chống xâm lược, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với
kinh tế, không ngừng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và hoàn thiện thế trận của
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân ngày
càng vững mạnh; xây dựng và hoàn chỉnh khoa học kỹ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện đại.

Chúng ta cần hết sức coi trọng những kinh nghiệm phương pháp trước đây mà ta đã tích luỹ
được. Đó là một "tài sản", một tiềm lực, một nguồn sức mạnh vô cùng quý báu mà ta phải giữ
gìn và phát triển. Cần tổng kết những kinh nghiệm ấy và nâng lên thành lý luận để vận dụng và
phát huy trong điều kiện mới. Đồng thời phải tiếp tục học tập và vận dụng một cách sáng tạo
những kinh nghiệm tiên tiến của các nước anh em.

Chúng ta tin tưởng rằng, với kho tàng kinh nghiệm của những năm kháng chiến trước đây,
với sức mạnh giữ nước và dựng nước vĩ đại của dân tộc ta trong kỷ nguyên mới ngày nay, dưới
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng, dân tộc ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ,
đại thắng mùa xuân 1975 thì nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong
điều kiện mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

19
MẤY VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG
TRONG CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG MIỀN NAM

Đại tướng LÊ TRỌNG TẤN

Đấu tranh vũ trang là đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh. Đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị là hai mặt đấu tranh cơ bản của chiến tranh cách mạng miền Nam chống đế quốc Mỹ
xâm lược. Ngay từ những năm 1960 - 1961, khi nhân dân ta ở miền Nam phát triển khởi nghĩa
vũ trang thành chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng, Đảng ta đã sớm xác định vai trò
của đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến tranh này. Trong thư gửi Xứ uỷ Nam Bộ đề ngày 20
tháng 4 năm 1961, đồng chí Lê Duẩn, Tổng bí thư của Đảng ta, đã khẳng định: "Đấu tranh chính
trị và vũ trang sẽ diễn ra đồng thời, nhưng từ đây đấu tranh vũ trang chuyển sang đóng vai trò
ngày càng quyết định"1. Đồng chí đã chỉ ra rằng: "kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng chỉ rõ
khởi nghĩa không thể thành công được nếu địch không bị thất bại về quân sự"2 và "muốn tiến
tới tổng khởi nghĩa thì phải làm cho quân đội địch bị đánh bại mà ở đây quân địch bị đánh bại
chủ yếu là do lực lượng vũ trang cách mạng của ta"3. Đồng chí Tổng bí thư còn vạch rõ : "Đi đôi
với đấu tranh chính trị và binh vận, đấu tranh quân sự trở thành cuộc đọ sức chủ yếu giữa ta và
địch"4.

Đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển từ đấu tranh chính trị và
khởi nghĩa của quần chúng; từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, rồi kết hợp chiến
tranh chính quy với chiến tranh du kích, kết hợp tác chiến của các binh đoàn chủ lực với tác
chiến du kích. Trong sức mạnh tổng hợp đó, tác chiến của các binh đoàn chủ lực - chiến tranh
chính quy - giữa vai trò quyết định trong việc tiêu diệt những bộ phận sinh lực lớn và quan trọng
của quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến trường và kết thúc chiến tranh thắng lợi.

Sức mạnh và hiệu lực tác chiến của các binh đoàn chủ lực chỉ có thể được phát huy trong
sức mạnh của cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện, theo đường lối chính trị và đường lối quân
sự của Đảng, sự chỉ đạo chiến lược của Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị. Những chủ
trương lớn về xây dựng các binh đoàn chủ lực, các binh chủng, quân chủng kỹ thuật hiện đại,
cũng như những quyết định sử dụng những quả đấm chiến lược trong quá trình chiến tranh là do
Bộ Chính trị quyết định. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực luôn luôn kết hợp chặt chẽ với
chiến tranh du kích, với các đòn tiến công chính trị, có khi cả tiến công ngoại giao. Vì vậy, nghệ
thuật tác chiến của các binh đoàn chủ lực trong chiến tranh cách mạng miền Nam có những đặc
điểm, nội dung và hình thức biểu hiện khác với chiến tranh chính quy trong những cuộc "chiến
tranh cổ điển" chỉ bằng quân đội.

Có thể rút ra mấy quy luật phát triển của phương thức tiến hành chiến tranh bằng các binh
đoàn chủ lực của chiến tranh cách mạng miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược như sau.

1. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực (chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực) luôn luôn
kết hợp với tác chiến du kích (chiến tranh du kích hay chiến tranh nhân dân địa phương), với đấu
tranh chính trị và các hình thức đấu tranh khác.

20
Là một phương pháp đấu tranh vũ trang cơ bản, phát triển từ đấu tranh du kích, nghệ thuật
tác chiến của các binh đoàn chủ lực ngay khi bắt đầu xuất hiện đã kết hợp với chiến tranh du
kích. Sự kết hợp đó được thực hiện trong cả chiến thuật, chiến dịch và chiến lược, trong cả quá
trình chiến tranh. Đó là biểu hiện tập trung của "toàn dân đánh giặc", của sự kết hợp sức mạnh
chiến đấu của ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và quân dân tự vệ. Sinh ra trong
điều kiện của cuộc đấu tranh toàn dân và toàn diện, tác chiến của các binh đoàn chủ lực còn kết
hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị của quần chúng, với khởi nghĩa từng phần, với mũi tiến công
binh vận của nhân dân trên cả ba vùng chiến lược. Chiến tranh du kích và đấu tranh chính trị của
quần chúng tiến công liên tục ở khắp nơi đã phân tán giam chân từ 2 phần 3 đến 8 phần 10 lực
lượng, phương tiện của địch vào những nhiệm vụ giữ gìn "an ninh" căn cứ, hậu phương, đối phó
với cuộc đấu tranh của quần chúng tại vùng chúng kiểm soát. Có thời kỳ toàn bộ đội quân ngụy
gồm hơn 60 vạn tên cùng với những sư đoàn sừng sỏ của Mỹ như "Anh cả đỏ", "Tia chớp nhiệt
đới", A-mê-ri-cơ, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3... đều phải lao vào đối phó với chiến tranh du
kích và phong trào đấu tranh của nhân dân chống chính sách "bình định" của Mỹ - ngụy. Do đó
các binh đoàn chủ lực của ta đã có điều kiện tự do hành động, tiến công tiêu diệt những tập đoàn
lực lượng quan trọng của địch trên hướng chủ yếu, trong điều kiện ta chỉ có ưu thế tương đối,
hoặc không có ưu thế về lực lượng và phương tiện so với địch.

Những trận đánh lớn, những chiến dịch tiến công và phản công quy mô ngày càng lớn của
các binh đoàn chủ lực đã tiêu diệt những bộ phận quan trọng quân chủ lực tinh nhuệ của địch,
làm suy yếu khối cơ động chiến lược của chúng, mở ra những địa bàn rộng lớn. Những cuộc tiến
công đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích, cho các cuộc nổi dậy giành chính
quyền làm chủ của nhân dân, hỗ trợ đắc lực cho chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng nông
thôn, các cuộc đấu tranh chính trị ở thành thị. Đó là một trong ba "quả đấm" chiến lược của chiến
tranh cách mạng miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là một bước phát triển điển hình về sự kết hợp
tác chiến của các binh đoàn chủ lực với chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng. Hệ thống
các chiến dịch tiến công hiện đại quy mô lớn được thực hiện kế tiếp nhau thắng lợi trong thời
gian ngắn, tiêu diệt những tập đoàn lực lượng chủ yếu của địch trên những hướng chiến lược
quyết định, đã tạo điều kiện chưa từng có cho chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng
phát triển đến đỉnh cao. Phối hợp với các chiến dịch đó, chiến tranh du kích và nổi dậy của quần
chúng đã tiến công địch ở khắp nơi, đẩy nhanh đà suy sụp và tan rã của quân địch, giành quyền
làm chủ địa phương. Tiêu biểu ở đồng bằng sông Cửu Long, chớp thời cơ tập đoàn lực lượng chủ
yếu của địch bị tiêu diệt và tan ra ở vùng xung quanh Sài Gòn, lực lượng vũ trang và lực lượng
chính trị ở địa phương đã đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công quét sạch toàn bộ
lực lượng địa phương của địch, đập tan hệ thống ngụy quyền từ ấp, xã đến tỉnh, thực hiện tỉnh
giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã.

2. Tác chiến các binh đoàn chủ lực phát triển từ các trận đánh của bộ binh, tiến lên các
chiến dịch quy mô nhỏ, rồi chiến dịch hợp đồng binh chủng, quân chủng quy mô lớn, và các
cuộc tiến công chiến lược với trình độ hiện đại ngày càng cao.

Trong chiến tranh nhân dân ở miền Nam, lúc đầu bộ đội chủ lực chỉ tổ chức và thực hành
từng trận đánh bằng lực lượng tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh. Tiếp đó, xuất hiện các chiến dịch
tiến công quy mô nhỏ còn mang tính du kích của các trung đoàn, trung đoàn tăng cường hoặc sư

21
đoàn bộ binh. Rồi đến các chiến dịch tiến công, phân công hợp đồng giữa bộ binh, pháo binh,
đặc công, phòng không được tổ chức và thực hành trên nhiều hướng, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn
Mỹ, nhiều chiến đoàn quân ngụy. Bước phát triển vượt bậc được đánh dấu bằng các chiến dịch
tiến công, chiến dịch phản công hiện đại quy mô lớn vào năm 1971-1972. Do đó những chiến
dịch hợp đồng giữa các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng - xe bọc
thép, tên lửa, pháo cao xạ, đặc công... Đỉnh cao là các cuộc tiến công chiến lược quy mô ngày
càng lớn, trình độ hiện đại ngày càng cao bao gồm một hệ thống chiến dịch, chủ yếu là chiến
dịch tiến công, các trận đánh lớn, các đợt hoạt động diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau trên các
hướng quan trọng, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích và các cuộc đấu tranh
chính trị, các cuộc nổi dậy của quần chúng theo một kế hoạch và sự chỉ đạo thống nhất, những
cuộc tiến công chiến lược đó đã làm phá sản các chiến lược chiến tranh của Mỹ-ngụy, và cuối
cùng kết thúc chiến tranh thắng lợi.

Cuộc tiến công chiến lược vĩ đại xuân 1975 là sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật tác
chiến của các binh đoàn chủ lực. Trước hết, công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công đã được
tiến hành toàn diện và tương đối sớm. Việc xây dựng, phát triển lực lượng, nhất là xây dựng các
binh đoàn chủ lực, các quân đoàn lục quân binh chủng hợp thành, các đơn vị tác chiến lớn của
các binh chủng, quân chủng là một nội dung cơ bản của công tác chuẩn bị đó. Quân đoàn 1, quân
đoàn 4, quân đoàn 2, các trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng, các sư đoàn phòng không hợp
thành, trung đoàn đặc công... đã dần dần được xây dựng theo yêu cầu tác chiến quy mô lớn vào
năm 1973. Công tác động viên, tuyển quân trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên
quy mô lớn. Riêng các tỉnh thuộc quân khu 3 đã động viên gần một nửa triệu thanh niên tham gia
bộ đội.

Nhờ đó, khi đánh đòn quyết định vào Sài Gòn, trong tay Bộ Tổng chiến trường. Quân đoàn
3 và binh đoàn 322 được hình thành trong quá trình cuộc tổng tiến công. Công tác huấn luyện
chiến đấu nhằm thẳng vào nâng cao trình độ tác chiến hợp đồng quy mô lớn cho bộ đội, nâng cao
trình độ tổ chức và thực hành các chiến dịch tiến công, nhất là tiến công vào thành phố, vào các
tổ chức phòng ngự lớn của địch. Để cơ động những lực lượng lớn, đáp ứng những nhu cầu vật
chất - kỹ thuật của tác chiến hiện đại, ta đã củng cố mở rộng hệ thống đường chiến lược dài tới
20.000km, hệ thống bảo đảm vật chất kỹ thuật trên các hướng chiến lược. Bộ Chính trị đã huy
động lực lượng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chuẩn bị từng bước, cụ thể cho cuộc Tổng
tiến công.

Điểm nổi bật nữa của cộng tiến công chiến lược xuân 1975 là tổ chức chỉ đạo, chỉ huy chính
xác, nhạy bén của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, của Bộ Tổng tư lệnh. Trước hết, đó là
sự lựa chọn đúng các đòn quyết định, hình thành các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược để thực
hiện các đòn đó ở Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Sài Gòn- Gia Định, có dự kiến cả chiến dịch ở
đồng bằng Nam Bộ, nhưng Bộ Chính trị cho là không cần thiết một khi đã giải quyết được Sài
Gòn - Gia Định. Bộ Chính trị đã quyết định thành lập từng bộ tư lệnh cho từng chiến dịch để bảo
đảm thống nhất chỉ đạo, chỉ huy trên từng chiến trường: chiến dịch ở Tây Nguyên do đồng chí
Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, đồng chí Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ. Chiến dịch Huế- Đà Nẵng
do đồng chí Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm chính uỷ. Chiến dịch Hồ Chí
Minh do đồng chí Văn Tiến Dũng là tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm chính uỷ...

22
Nhằm đảm bảo chắc thắng cho đòn quyết định, ngày 1 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Duẩn
đã điện cho đồng chí Phạm Hùng, đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Văn Tiến Dũng... gấp rút
tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn
đường số 4 và áp sát Sài Gòn. Đồng thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông - nam,
đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía
Long Khánh, Bà Rịa Vũng Tàu.

Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực được trang bị binh khí kỹ thuật thật mạnh, để lúc
thời cơ xuất hiện thì tự khắc đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố
Sài Gòn.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ta hành
động mạnh bạo, khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chỉ khu quận lỵ, phá banh
từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực
trọng điểm"1.

Ngày 9 tháng 4 năm 1975, đồng chí Tổng bí thư còn nhắc Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí
Minh: "...cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đợi phần lớn lực lượng của quân đoàn 3 và quân
đoàn 1 (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) vào đến nơi hãy bắt đầu cuộc tiến công"2. Đến ngày 14
tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận được điện: "Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài
Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh"3.

Kết luận Hội nghị Bộ Chính trị ngày 7 tháng 1 năm 1975 nhấn mạnh: "Đánh trận cuối cùng
này, trước hết là nhiệm vụ của các lực lượng quân sự, chính trị trên chiến trường Nam Bộ, trong
đó có lực lượng của Sài Gòn - Gia Định, đồng thời là nhiệm vụ của quân và dân cả nước, trong
đó khối chủ lực Miền và các binh đoàn chủ lực từ các chiến trường khác đến, đóng vai trò quyết
định"4. Thực tế cho thấy: chúng ta đã làm đúng chỉ thị của Bộ Chính trị nên đã giành thắng lợi
lớn; nếu làm không đúng thì gặp khó khăn.

Lần đầu tiên, tác chiến của các binh đoàn chủ lực diễn ra với 5 quân đoàn chủ lực cùng
hàng chục trung đoàn, lữ đoàn pháo binh, xe tăng, phòng không, gồm hơn 30 vạn cán bộ, chiến
sĩ, hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị, các binh chủng, quân chủng, các lực lượng, các hướng,
giữa mặt đất và trên không, trên mặt nước, phối hợp nhịp nhàng với chiến tranh du kích và nổi
dậy của quần chúng. Tất cả cùng tiến công vào một mục tiêu lớn theo phương thức tiến công
trong hành tiến, chia cắt, bao vây, tiêu diệt tập đoàn lớn quân địch tại hang ổ của chúng, với tốc
độ cao và hiệu lực mạnh, giành toàn thắng.

Sức mạnh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa qua đường Trường Sơn và sức mạnh tại chỗ của
cách mạng miền Nam, trong khối liên minh chiến lược và chiến đấu với cách mạng Lào, cách
mạng Căm-pu-chia, và sự giúp đỡ của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa khác, là nguồn
gốc tạo nên sự phát triển không ngừng, cùng những bước phát triển nhảy vọt của sức mạnh chiến
đấu của các binh đoàn chủ lực.

3. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo và đạt
hiệu lực cao.

23
Trong chiến tranh du kích, quân và dân ta đã được thế giới ca ngợi là "những người du kích
kiểu mẫu". Đồng thời, trong chiến tranh chính quy, trong tác chiến của các binh đoàn chủ lực,
quân ta cũng tỏ rõ nghệ thuật đặc sắc của mình. Đó là nghệ thuật hạn chế chỗ mạnh của địch,
khoét sâu chỗ yếu của chúng, tận dụng thế trận hiểm hóc, lợi hại của chiến tranh nhân dân, phát
huy đầy đủ chỗ mạnh của ta, nhất là chỗ mạnh tuyệt đối về chính trị - tinh thần, tạo nên sức
mạnh hơn địch để đánh thắng địch, đạt mục đích cao nhất với tổn thất thấp nhất.

Các binh đoàn chủ lực đã lấy tiến công làm hành động cơ bản, chủ yếu trên chiến trường,
phù hợp với quy luật lấy nhỏ thắng lớn. Kết hợp chặt chẽ với chiến tranh du kích, với nổi dậy
của nhân dân, phát huy tốt thế trận xen kẽ, cài răng lược, vận dụng nhiều phương pháp tiến công
phong phú, các binh đoàn chủ lực của ta đã tiến công thắng lợi ngay cả khi địch chiếm ưu thế về
số lượng các sư đoàn (như vào những năm gay go 1967 - 1969, địch có 24 sư đoàn, ta 7 sư
đoàn). Bộ đội chủ lực ta đã thực hiện tiến công địch ở mọi nơi, mọi lúc, coi tiến công quân địch
ở ngoài công sự là cách tiến công có hiệu quả trong điều kiện phải lấy ít đánh nhiều, đồng thời
cũng tiến lên tiến công quân địch trong công sự, công phá các tập đoàn phòng ngự mạnh của
địch ở thành phố. Chiến dịch tiến công là một loại hình chiến dịch phổ biến của quân ta.

Các trận chiến đấu phòng ngự cũng được bộ đội chủ lực vận động trong quá trình tiến công,
nhằm giữ vững địa hình có lợi, chia cắt quân địch, củng cố kết quả của chiến dịch tiến công.
Những trận chiến đấu phòng ngự liên tiếp hình thành một số chiến dịch phòng ngự đã diễn ra
trong quá trình cuộc tiến công chiến lược, như ở Thành Cổ và vùng giải phóng Quảng Trị. Tuy
nhiên, khi phòng ngự, đi đôi với tổ chức phòng ngự vững chắc, kết hợp chặt chẽ xung lực với
công sự và hoả lực, bộ đội chủ lực ta cũng tích cực vận dụng các hành động tiến công, kết hợp
phòng ngự với tiến công (như cách đánh kết hợp chốt với vận động tiến công), coi các hành động
phản xung phong, phản kích và các hành động tiến công khác là một trong những yếu tố quyết
định thắng lợi của phòng ngự.

Các binh đoàn chủ lực còn vận dụng phản công khá phổ biến trong quy mô chiến dịch, coi
chiến dịch phản công cũng là một loại hình chiến dịch phổ biến, rất có hiệu quả để đánh bại quân
địch đi tiến công. Khác với lẽ thông thường là chống lại quân địch tiến công bằng phòng ngự,
các binh đoàn chủ lực của ta trong quá trình chiến tranh lại dùng chiến dịch phản công để đánh
lại những cuộc tiến công lớn của địch như chiến dịch phản công ở Tây Ninh đầu năm 1967, đánh
bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty, chiến dịch phản công ở đường số 9 - Nam Lào năm 1971,
v.v. Nét tiêu biểu của các chiến dịch phản công này là không trải qua chiến dịch phòng ngự mà
được tiến hành với tư cách tiến công để đánh bại quân địch đi tiến công, như một loại hình chiến
dịch riêng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng minh sự vận dụng ở trình độ cao
những cách đánh của các binh đoàn chủ lực. Nhiều cách đánh mới đã được vận dụng với hiệu lực
cao. Đó là cách tiến công các tập đoàn mạnh quân địch trong hệ thống phòng thủ được tổ chức
sẵn trong các thành phố lớn, bằng tác chiến hợp đồng quy mô lớn; là sự kết hợp tiến công trong
hành tiến với bao vây, chia cắt quân địch trong quy mô chiến dịch để nhanh chóng đánh chiếm
các mục tiêu quan trọng; là đánh đuổi địch với quy mô chiến dịch; là đổ bộ đánh chiếm các đảo
và quần đảo....

24
4. Tác chiến của các binh đoàn chủ lực thể hiện tập trung tư tưởng chiến lược tiến công,
thực hiện làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ.

Quá trình tiến công của lực lượng vũ trang kết hợp với nổi dậy của quần chúng đã phát triển
từ nhỏ đến lớn từ cục bộ đến toàn bộ, gắn liền với quá trình giành, giữ vững và mở rộng quyền
làm chủ của nhân dân cơ sở, làm chủ địa phương, làm chủ chiến trường để đánh địch một cách
chủ động, đánh địch trên thế trận lợi hại, vừa tiến công tiêu diệt vừa giữ gìn, xây dựng và phát
triển lực lượng ta. Nhiều binh đoàn chủ lực đứng vững và tích cực hoạt động trên các địa bàn
chiến lược trọng yếu như miền Đông Nam Bộ, sát Sài Gòn, Tây Nguyên, Trị Thiên... tạo nên thế
uy hiếp địch càng lớn, giam chân một bộ phận lực lượng quân địch ở đây.

Các binh đoàn đó cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích, lực lượng chính trị của quần
chúng đánh địch càn quét, tiến công địch liên tục bằng mọi lực lượng và phương pháp, phá chính
quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Qua đó xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở chính trị,
cơ sở hậu cần tại chỗ, xây dựng, phát triển thế trận tiến công, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của
địch, biến vùng tạm kiểm soát của địch thành tiền tuyến đánh địch và hậu phương tại chỗ của ta.
Điều rất quan trọng là các binh đoàn chủ lực của ta dựa vào thế trận làm chủ, thế trận trực tiếp
tiếp xúc để thực hiện những đòn đánh bất ngờ, đánh đau, đánh hiểm đối với địch, và hạn chế
chúng triển khai lực lượng lớn trên mặt đất, sử dụng ồ ạt với quy mô lớn không quân và hải quân
như chúng mong muốn.

*
* *

Chiến tranh nhân dân, theo Ph.Ăng-ghen là cuộc chiến tranh cách mạng thật sự, khác với
các cuộc chiến tranh của các chính phủ, các quân đội, các cuộc chiến tranh theo chiến lược thông
thường. Nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân ngày nay là chiến tranh chính nghĩa do Đảng
của giai cấp vô sản lãnh đạo; mục đích chính trị của chiến tranh phản ánh quyền lợi cơ bản của
nhân dân; lực lượng tiến hành chiến tranh là lực lượng của toàn dân; phương pháp tiến hành
chiến tranh là phương pháp đấu tranh phong phú, sáng tạo, có hiệu lực của quần chúng cách
mạng. Phản ánh nội dung cơ bản đó, đấu tranh vũ trang của chiến tranh nhân dân thể hiện tập
trung tư tưởng toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích,
kết hợp ba thứ quân, thực hiện tiến công và làm chủ, làm chủ và tiến công. Đó là một trong
những quy luật đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam đã được quân và dân ta
phát hiện, vận dụng sáng tạo và rất thành công, đánh bại đội quân xâm lược hiện đại nhất, đông
mạnh nhất thế giới tư bản, tinh nhuệ nhất của nước Mỹ đế quốc chủ nghĩa.

25
ĐỈNH CAO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975

Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước vĩ đại, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: cả nước độc lập thống nhất, đi
lên chủ nghĩa xã hội. Nói đến mùa xuân 1975 đại thắng là nói đến đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử; khẳng định giá trị lịch sử của sự kiện xuân 1975 là khẳng định bước phát triển mới,
bước phát triển nâng cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong suốt 30 năm chiến tranh giải
phóng và giữ nước, đánh thắng rất oanh liệt hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, cũng là khẳng định
bước phát triển và lớn mạnh toàn diện của quân đội ta qua những chặng đường chiến đấu và
chiến thắng vô cùng vẻ vang.

Nhưng chúng ta đều biết, nghệ thuật quân sự Việt Nam hình thành từ rất sớm. Qua các cuộc
chiến tranh chống ngoại xâm, chiến tranh giữ nước và cứu nước, nền nghệ thuật đó không ngừng
phát triển, mang sắc thái của đất nước, con người, trí tuệ Việt Nam. Đến hai cuộc chiến tranh giải
phóng chống Pháp và chống Mỹ trong thời kỳ hiện đại, dưới ngọn cờ bách chiến, bách thắng của
Đảng tiền phong và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân đã kế thừa và nâng cao những
kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước và cứu nước của tổ tiên, đưa nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân phát triển lên một trình độ mới về chất. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứ
mỗi một lần đánh thắng một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ trên
đất nước ta, nghệ thuật quân sự trên cả ba lĩnh vực chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến
thuật đều đạt một bước tiến mới. Cuộc Tổng tiến công và nổi dây xuân 1975 - trận quyết chiến
chiến lược thần tốc đánh bại cố gắng quân sự lần cuối cùng của Mỹ - ngụy ở miền Nam nước ta,
kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ - là cái mốc lịch sử đánh dấu đỉnh cao của nghệ
thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.

Những vấn đề nổi bật nói lên thành công tiêu biểu của nghệ thuật quân sự trong cuộc Tổng
tiển công và nổi dậy xuân 1975 là:

- Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược rất tài giỏi, sắc bén và chính xác của Đảng ta: đánh giá đúng
so sánh lực lượng địch, ta, đã hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời, tổ chức và xây dựng
lực lượng, thiết lập thế trận tiến công: tạo thời cơ, chớp thời cơ mở trận quyết chiến chiến lược
thần tốc để giành thắng lợi nhanh chóng, triệt để.

- Nghệ thuật tổ chức và thực hành chiến dịch, chiến thuật rất sáng tạo, khôn khéo để đạt
hiệu suất chiến đấu cao, hiệu quả chiến dịch lớn trong ba chiến dịch then chốt của cuộc tổng tiến
công chiến lược; kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, kết hợp tác chiến của
các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân ở địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp,
hình thành sức mạnh tiến công áp đảo quân địch, thực hiện đánh bất ngờ, đánh nhanh, dứt điểm
nhanh, đè bẹp mọi sự kháng cự của địch.

26
1. Bước phát triển mới về nghệ thuật quân sự trong mùa xuân 1975 là bước phát triển cao về
nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, biểu hiện tập trung ở nghệ thuật cao và tranh thủ thời cơ chiến
lược. Trên cơ sở đánh giá toàn bộ tình hình chiến lược, nhất là nhận định đúng thế và lực của
địch trong hai năm 1973-1974, dựa chắc trên thế và lực của cách mạng và chiến tranh cách mạng
nước ta sau thắng lợi có tính chất bước ngoặt "Đánh cho Mỹ cút", Bộ Chính trị Trung ương Đảng
đã đi đến nhận định và phân tích thời cơ, dự kiến khả năng giải phóng miền Nam trong hai năm
1975-1976, đồng thời dự kiến cả phương án giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975 nếu thời
cơ lớn xuất hiện và ta có đủ điều kiện. Phương án tranh thủ thời cơ trở thành một phương án rất
quan trọng.

Trong quá trình chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta luôn chủ động sáng tạo thời cơ có lợi và kịp
thời tận dụng thời cơ để tiêu diệt lớn quân địch, tạo bước nhảy vọt làm chuyển biến cục diện
chiến tranh cách mạng, giành thắng lợi quyết định. Từ thời cơ trong chiến đấu, thời cơ trong
chiến dịch đến thời cơ chiến lược, chúng ta đã đưa cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ phát
triển, đánh thắng từng chiến lược chiến tranh cuối cùng của Mỹ - ngụy, kết thúc đúng lúc cuộc
kháng chiến thần thánh chống Mỹ.

Trận đột phá có ý nghĩa chiến lược Buôn Ma Thuột trong chiến dịch mở màn cuộc tiến công
chiến lược mùa xuân 1975 đã cho ta khả năng thời cơ và giải phóng toàn bộ vòng Tây Nguyên
đưa đến sự phát triển thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Trong khi chiến dịch Tây Nguyên
còn đang diễn biến, ta đã tạo thời cơ mới để quyết định mở chiến dịch quyết chiến cuối cùng giải
phóng Sài Gòn - Gia Định, nhanh chóng kết thúc cuộc kháng chiến.

Bộ chỉ huy tối cao nhấn mạnh phương châm "táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", đặc biệt tận
dụng yếu tố bất ngờ. Ta thực hiện nghệ thuật nghi binh lừa địch trong mỗi chiến dịch, đặc biệt là
trong đòn chiến lược khởi đầu. Chiến dịch Tây Nguyên đạt được yếu tố bất ngờ về chiến lược là
một đòn cực kỳ sắc bén và lợi hại. Bất ngờ về chiến lược của ta tuy không lớn lắm nhưng sức
mạnh đã được nhân lên gấp bội để đạt hiệu quả chiến dịch lớn nhất. Muốn giành yếu tố bất ngờ,
ngoài yêu cầu bí mật, còn phải có mưu cao, kế hiểm - mưu lừa địch và kế điều địch. Lừa địch và
điều khiển được địch hành động theo ý ta mới tạo được bất ngờ tối đa và giành được chủ động
tối đa. Trong chiến tranh chống một kẻ địch mạnh, thì bất ngờ và chủ động là những yếu tố cơ
bản của thắng lợi. Đó là bí quyết của nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của tư tưởng
quân sự truyền thống Việt Nam.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Bộ
Tổng tư lệnh quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chính trên toàn bộ chiến trường
miền Nam, chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Đó là một
đòn đánh hiểm, rất bất ngờ, nhằm đúng chỗ sơ hở và là nơi hiểm yếu của địch nên đã giành được
toàn thắng cho chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước ngoặt quyết định cho giai đoạn kết thúc chiến
tranh, dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của thế trận chiến lược của địch trên toàn miền Nam.

Cách đánh về chiến lược của ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã thể hiện
nét độc đáo là: mặc dù địch biết sẽ bị đánh lớn, nhưng chúng vẫn buộc phải phân tán, dàn mỏng
lực lượng, không dành nổi một đơn vị nào cỡ sư đoàn làm lực lượng cơ động chiến lược. Ta
đánh nhiều nơi cùng một lúc bằng các đòn tiến công lớn của chủ lực gối đầu nhau theo phương

27
châm "căng địch ra mà đánh, trói địch là mà diệt", khiến kẻ địch đã bị động lúng túng lại càng
suy yếu và bế tắc không sao ứng cứu nổi, cuối cùng phải cam chịu thất bại.

Sau khi mất Tây Nguyên, địch bị vỡ thế chiến lược. Tình thế đó liên tiếp tạo ra cho những
khả năng mới và thời cơ mới về chiến dịch, chiến lược. Đó cũng là cơ sở thực thế để Đảng ta
khẳng định kịp thời và chính xác quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Chiến lược của ta đã điều khiển được chiến lược của địch, buộc địch từ thế phòng ngự chiến
lược vội vã chuyển sang co cụm chiến lược, từ tích cực đối phó, phản kích giành giật chuyển
sang thế tháo chạy hỗn loạn. Từ thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, qua chiến dịch Huế- Đà
Nẵng đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng
minh rực rỡ bước phát triển mới về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược cao hơn nhiều so với các chiến
cuộc đã diễn ra trước đó. Đó là ba chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược nằm trong một quy hoạch
chiến lược tổng thể, thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh và được tiến hành theo các bước phát triển
của chiến lược. Sự phối hợp giữa các chiến dịch với nhau, giữa các chiến dịch với phong trào nổi
dậy của quần chúng trên các địa bàn chiến dịch đã diễn ra cả trong tình huống chiến lược và tình
huống chiến dịch. Các chiến dịch dù phải đảm nhiệm những hướng và nhiệm vụ chiến lược khác
nhau, song luôn luôn tạo điều kiện và tiền đề cho nhau phát triển thắng lợi. Chiến dịch Tây
Nguyên tạo điều kiện cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi nhanh chóng. Hiệu quả lớn
của hai chiến dịch đó kết lại, tạo cơ sở cả về lực lượng, thế trận và cách đánh cho sự toàn thắng
của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đòn quyết chiến cuối cùng kết thúc vẻ vang cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bước phát triển cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược còn thể hiện ở việc thiết lập thế trận
tiến công thần tốc của trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.

Ta xây dựng thế trận chiến lược vững chắc trên cơ sở thế tiến công quân sự kết hợp với nổi
dậy của quần chúng, thế kết hợp chiến tranh nhân dân ở các địa phương với tác chiến của các
binh đoàn chủ lực. Thế trận đó đã tạo điều kiện cơ bản cho quân và dân ta phát huy quyền chủ
động, nhân sức mạnh tiến công lên gấp bội cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Có thể
nói, sở dĩ ta có được những đòn chiến lược rất mạnh gối đầu nhau là do lập được thế trận chiến
tranh nhân dân sâu hiểm qua hàng chục năm.

Trong khoảng thời gian hai năm 1973-1974, ta đã tăng cường cho các hướng chiến trường ở
miền Nam một khối lượng nhân lực và vật chất rất lớn, tạo điều kiện để có thể phát triển chiến
dịch cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Bằng các cuộc phản công và tiến công kiên quyết trước hành
động chiến tranh "lấn chiếm bình định" của địch, bằng việc tổ chức tốt tuyến vận tải chiến lược
Trường Sơn với một mạng đường sá và đường ống dẫn dầu rất lớn, ta xây dựng thế trận và lực
lượng hậu cần hùng mạnh với hệ thống kho trạm dự trữ lớn, chuẩn bị chu đáo cho hoạt động tác
chiến của các lực lượng dự bị chiến lược. Do vậy mà lực lượng từ sư đoàn đến quân đoàn cơ
động của ta đã có thể mở một loạt chiến dịch kế tiếp nhau trong hai tháng mùa xuân năm 1975.

Ngay từ đầu năm 1973, cả năm 1974 cho tới đầu năm 1975, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung
ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời việc chuẩn bị chiến trường, triển khai thế
trận, chuẩn bị lực lượng, tích trữ cơ sở vật chất cho các chiến dịch lớn. Điều này được thể hiện
tập trung nhất ở việc ra sức xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, phát huy mạnh mẽ

28
vai trò căn cứ địa cách mạng của cả nước, phát huy tác dụng quyết định của hậu phương lớn
trong giai đoạn kết thúc chiến tranh bằng trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Ta đã xây dựng
được 4 binh đoàn cơ động chiến lược hùng mạnh, nhiều đơn vị chủ lực cấp sư đoàn, phát triển bộ
đội địa phương các tỉnh, huyện và khối dân quân tự vệ ở cơ sở. Các lực lượng vũ trang ba thứ
quân được tăng cường mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cả về trang bị vũ khí và tiếp tế hậu
cần...

Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã phát triển cao hơn hẳn các
cuộc tổng tiến công chiến lược trong các giai đoạn lịch sử trước (Tết Mậu Thân 1968, Xuân - hè
1972) ở chỗ chúng ta đã xây dựng được một thế trận chiến lược thọc sâu, chia cắt, cài xen với
địch rất mạnh và hiểm hóc. Nhờ đó ta đã phát huy được cao độ quyền chủ động tiến công, và khi
thời cơ lớn xuất hiện, với lực lượng đột kích mạnh cỡ quân đoàn và nhiều quân đoàn, kết hợp với
chiến tranh nhân dân ở địa phương phát triển rộng khắp, chúng ta đã đánh địch trên một thế
mạnh chưa từng có, gây bất ngờ lớn cho địch. Đó là thế mạnh áp đảo, nhanh chóng đè bẹp mọi
sự phản kháng của quân địch, chỉ không đầy hai tháng tiến công liên tục, mạnh mẽ, thần tốc đã
tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng chiến lược lớn gồm trên một triệu quân địch, giành toàn
thắng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.

2. Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam còn thể hiện ở bước
phát triển mới, sáng tạo về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật trong cuộc tổng tiến công và nổi
dậy thần tốc.

Có thể nói, mùa xuân 1975 là mùa xuân của chiến dịch tiến công. Trong một thời gian rất
ngắn, gần như cùng một lúc, các chiến dịch gối đầu nhau phát triển thắng lợi dồn dập. Ngoài ba
chiến dịch có ý nghĩa chiến lược nối tiếp nhau hợp thành nội dung cơ bản của cuộc Tổng tiến
công chiến lược là chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí
Minh, còn xuất hiện xen kẽ những chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực tại chỗ để tạo thế, các
chiến dịch tổng hợp và chiến dịch đồng bằng đông dân như khu 5, Nam Bộ để diệt địch, phá
"bình định", mở vùng... với những cách đánh chiến dịch rất sáng tạo, với những chiến thuật
phong phú, linh hoạt và táo bạo.

Trận đánh hiểm vào Buôn Ma Thuột đã mở đường đưa chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi
nhanh chóng, dồn dập khiến địch không kịp trở tay. Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng tạo ra khả
năng rất thuận lợi cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng tiến triển mau lẹ, khiến quân địch không kịp co
cụm.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng là một bước phát triển cao về nghệ thuật tận dụng thời cơ. Sau
khi địch thua nặng ở Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ trung ương đã kịp thời chỉ đạo mặt
trận Trị - Thiên và quân đoàn 2 chuyển hướng tiến công rất nhanh từ phía Bắc về phía Nam Huế,
nhanh chóng giải phóng thành phố Huế; chỉ đạo quân khu 5 chuyển hướng từ phía nam ra phía
bắc tiến thẳng về Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo "kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất,
bất ngờ nhất và chắc thắng". Mất Tây Nguyên, địch ở Huế - Đà Nẵng đã vô cùng hoang mang
dao động. Sau khi mất Huế, thành phố Đà Nẵng càng cực kỳ hỗn loạn. Lực lượng ta đã nhanh
chóng áp sát tiến công vào thành phố từ ba hướng bắc, tây, nam. Địch buộc phải bỏ kế hoạch co
cụm, định tháo chạy nhưng không thoát. Chỉ trong vòng 32 giờ ta đã giải phóng Đà Nẵng, thành
phố lớn thứ hai và là một căn cứ quân sự liên hợp rất mạnh của Mỹ-ngụy ở miền Nam. Ta đã tiêu

29
diệt và đánh tan quân đoàn 1 và quân khu 1 của ngụy. Cùng với chiến dịch Tây Nguyên, chiến
dịch Huế - Đà Nẵng đã làm thay đổi hẳn lực lượng so sánh địch, ta về mặt chiến lược. Thế chiến
lược của ta càng vững chắc; địch lâm vào thế suy sụp đột biến. Tình hình đó tạo điều kiện hết
sức thuận lợi cho chúng ta đi đến đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng - chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử.

Qua ba chiến dịch lớn, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của quân đội ta đã có những
bước phát triển mới về nghệ thuật tạo thế và cài thế chiến dịch. về chọn hướng tiến công chủ yếu,
đặc biệt về vận dụng cách đánh chiến dịch và chiến thuật, về tổ chức chỉ huy, về bảo đảm hậu
cần chiến dịch, cho phép chúng ta rút ra nhiều bài học phong phú và sinh động về nhiều mặt. Để
có được những chiến dịch tiến công sắc bén, những "quả đấm" rất mạnh làm rung chuyển, tan vỡ
và sụp đổ hoàn toàn hệ thống tổ chức chỉ huy và thực hành chiến dịch của các cấp chỉ huy và lực
lượng vũ trang, còn phải nói đến nghệ thuật kết hợp cách đánh của các binh đoàn chủ lực và cách
đánh của chiến tranh nhân dân địa phương rộng khắp, sáng tạo, kịp thời. Chúng ta đã gây cho
địch những bất ngờ lớn, khiến chúng không kịp trở tay, muốn co cụm mà không được, muốn
chống đỡ để trì hoãn bước tiến thần tốc của ta thì không làm nổi, muốn tháo chạy cũng không
thoát, cuối cùng phải chịu bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Quán triệt và vận dụng sắc sảo đường
lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong mùa xuân 1975, đại bộ phận lực lượng chủ lực của ta đã
cài xen vào toàn bộ chiều sâu phòng ngự của địch, áp sát mục tiêu chiến dịch quan trọng, rút
ngắn khoảng cách giữa ta và địch, giữa các phương tiện hoả lực của ta với mục tiêu cần tiêu diệt
hoặc khống chế. Nét đặc sắc về phát triển nghệ thuật chiến dịch của ta là ở chỗ cuộc tiến công
như vũ bão của các quân đoàn từ nhiều hướng luôn gắn liền với nổi dậy của quần chúng ở các
vùng nông thôn, đô thị trên địa bàn chiến dịch, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch
và giành quyền làm chủ. Đó là hệ quả tất yếu của sự kết hợp hai phương thức đấu tranh quân sự
và chính trị, kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng trong phạm vi chiến dịch, tạo
nên sức mạnh phi thường của nghệ thuật quân sự nói chúng, của nghệ thuật chiến dịch nói riêng
trong mùa xuân 1975 đại thắng.

Bước phát triển hoàn toàn mới so với các chiến dịch trước đó trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, là sự phát triển toàn diện về sức mạnh chiến đấu, trước hết là về trình độ tác chiến của bộ
đội chủ lực trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Điều này đã vượt ngoài dự đoán và trở
thành điều bất ngờ lớn đối với Mỹ-ngụy. Ngoài các lực lượng bộ binh là chính, trong các chiến
dịch còn có sự tham gia của hầu hết các binh chủng, quân chủng với trang bị vũ khí tương đối
hiện đại. Quy mô tác chiến hợp đồng binh chủng, quân chủng trong các chiến dịch xuân 1975
cũng có bước phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của quân đội ta. Nó không
chỉ thể hiện khả năng mới về nghệ thuật của tổ chức chỉ huy và điều hành chiến dịch mà còn thể
hiện khả năng làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật và trình độ tác chiến cao của các lực lượng vũ
trang ta nói chung, của các binh chủng, quân chủng kỹ thuật nói riêng, đặc biệt là việc sử dụng
vũ khí, phương tiện hiện đại lấy được của địch, từ pháo binh, xe tăng đến cả máy bay để đánh
địch trong tiến công hợp đồng binh chủng, quân chủng.

Sự phát triển về nghệ thuật chiến dịch đã tạo điều kiện vận dụng thành công chiến thuật
như: điều khiển địch theo ý định của ta, lừa địch, nhử địch vào kế của ta mà đánh; đánh địch
trong công sự và ngoài công sự; đánh địch co cụm và đánh địch rút chạy; đánh địch trong điều
kiện không có chuẩn bị hoặc chuẩn bị rất gấp; đánh thọc sâu bằng các binh đoàn cơ giới vào các

30
trung tâm chỉ huy địch trong các căn cứ quân sự lớn, trong thị xã thành phố lớn và cả đánh địch
trên các hải đảo.v.v...

Chính nhờ có sự sáng tạo lớn trong vận dụng chiến thuật nên chúng ta không những đã khai
thác được sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, quân chủng, các loại vũ khí, phương tiện trong
nhiều tình huống chiến dịch, chiến đấu trên từng loại địa hình tác chiến mà còn đóng góp có ý
nghĩa vào sự phát triển chiến thuật của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cách đánh của ta trong
mùa xuân 1975 vừa kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, vừa phát triển và nâng lên một
trình độ mới rất cao những kinh nghiệm tích luỹ được từ cuộc kháng chiến chống Pháp và các
giai đoạn của chiến tranh giải phóng chống Mỹ trước đó. Cách đánh đó đã kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa anh hùng cách mạng với trí thông minh, sáng tạo của bộ đội ta trong điều kiện và hoàn
cảnh của trận quyết chiến chiến lược vĩ đại kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ.

31
NGỌN CỜ QUYẾT THẮNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Đại tá PHẠM CHÍ NHÂN

Sau thắng lợi vẻ vang đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân pháp được đế
quốc Mỹ giúp sức, nhân dân ta mới giải phóng được một nửa đất nước. Ở miền Nam, đế quốc
Mỹ hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Với
tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết lãnh đạo nhân dân ta ra sức xây dựng
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
trong cả nước.

Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của đế quốc Mỹ, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân
dân miền Nam đã phát triển từ đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh giải
phóng. Là linh hồn của cuộc kháng chiến cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân
đánh Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà
nội dung cơ bản nhất là tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới, được thể
hiện trong đường lối chính trị và đường lối quân sự của Đảng và là ngọn đuốc soi đường cho
quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cho đến thắng lợi cuối cùng.

Từ rất sớm, khi trả lời các nhà báo vào tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch
mặt chỉ tên kẻ thủ mới rất nguy hiểm là đế quốc Mỹ, lúc bấy giờ còn đang giấu mặt. Năm 1954,
nhân dân ta đánh thắng thực dân Pháp, cũng tức là đế quốc Mỹ bị thua một keo đầu. Thế nhưng
chúng không can tâm chịu thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ cái bản chất "chết thì chết, nết
không chừa"1 của đế quốc Mỹ, nhắc nhở cho toàn dân thấy rõ chúng "còn nhiều âm mưu hung
ác và xảo quyệt"2.

Với nhãn quan chiến lược và phương pháp khoa học, Người đã chỉ rõ đế quốc Mỹ là kẻ thù
chính, trực tiếp của nhân dân ta, phân tích sâu sắc chỗ mạnh tạm thời và chỗ yếu rất cơ bản của
địch, sức mạnh tổng hợp của nhân dân ta trong thời đại mới, và nói lên niềm tin tất thắng: "Nhân
dân Việt Nam nhất định thắng, Giặc Mỹ xâm lược nhất định thua"3.

Đã quyết đánh Mỹ, lại phải biết đánh thắng Mỹ. Là nhà tổ chức vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng với Trung ương Đảng hết lòng chăm lo xây dựng và tổ chức lực lượng cách mạng
trên cả hai miền, bồi dưỡng những nhân tố cơ bản để giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến.

Thấm nhuần tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sử dụng bạo lực cách mạng với
hai lực lượng chính trị và vũ trang, quân và dân miền Nam, được sự chi viện mạnh mẽ của hậu
phương lớn miền Bắc, đã tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa từng phần
phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu
tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, đánh địch bằng
ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, liên tục nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy,
giành thắng lợi từng bước, liên tiếp đánh bại các chiến lược "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh

32
cục bộ" của đế quốc Mỹ. Quân và dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ
trên hậu phương lớn, hết lòng chi viện miền Nam, Bác khen: "Nam Bắc hai miền đều đánh
giỏi"1 và chỉ rõ: "Vì độc lập, vì tự do", phải "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"2.

Ngày 3 tháng 9 năm 19693, Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta. Biến đau thương thành hành động
cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta chung sức chung lòng đã đánh cho Mỹ cút
vào năm 1973, đưa đến thời cơ chiến lược nghìn năm có một vào mùa xuân 1975, thừa thắng
xông lên đánh cho ngụy nhào, thực hiện trọn vẹn quyết tâm chiến lược của Bác Hồ, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

*
* *

Trên chặng đường cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, phát huy ý chí và trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, đã kế thừa xuất sắc và phát triển sáng tạo tư tưởng quân sự đầy sức sống của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đây là một số điểm nổi bật:

1. Sự thống nhất giữa quyết tâm chiến lược với ý chí độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải đi đôi với chủ nghĩa xã hội và thống nhất
đất nước. Đó là một chân lý, một quy luật. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, quyết tâm của
Bác là phải "Kiên quyết đánh tan giặc thực dân cướp nước, để tranh độc lập và thống nhất thật sự
cho nước ta"4. Người dạy: "không có gì quý hơn độc lập tự do"5, và cũng không có gì vui hơn
"Bắc Nam sum họp"6. Miền Nam luôn ở trong trái tim Người cũng chính vì lẽ đó.

Chia cắt là chính sách cố hữu của tất cả bọn đế quốc, thực dân trước đây cũng như ngày
nay. Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, cùng với lòng yêu nước thương nòi, ý chí
thống nhất đã cháy bỏng trong lòng người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Đất nước lúc bấy giờ
đã bị đế quốc Pháp chia là ba kỳ - Bắc kỳ và Trung kỳ theo chế độ bảo hộ, Nam kỳ theo chế độ
thuộc địa - để dễ bề cai trị và bóc lột.

Việc đưa quân Tưởng Giới Thạch vào chiếm đóng phá bắc và quân Anh vào phía Nam
nước ta sau chiến tranh thế giới thứ hai dưới chiêu bài tước khí giới quân Nhật thực chất cũng là
âm mưu của bọn đế quốc hòng chia cắt và xâm chiếm nước ta. Khi thực dân Pháp quay trở lại,
nơi đầu tiên chúng đánh chiếm vẫn là Nam Bộ, nơi chúng đã đặt bàn chân xâm lược trước tiên
khi thực hiện âm mưu thôn tính nước ta vào giữa thế kỷ XIX. Chính vì nhìn rõ tâm địa của kẻ thù
mà ngay từ những ngày đầu tiên Nam Bộ kháng chiến Bác Hồ dã nói: "Một ngày mà Tổ quốc
chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên"1. Ý chí
sắt đá của Người là: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân lý đó không bao giờ thay đổi!"2.

Đánh Mỹ là để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, để bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, để đập tan âm mưu chia cắt Việt Nam của bọn cướp nước.

33
"Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" cũng chính là để cả nước độc lập, thống nhất, có
độc lập, thống nhất mới có hoà bình thực sự. Trên đất nước Việt Nam chiến đấu, vang lên tiếng
nói đanh thép của Bác Hồ: "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì còn phải tiếp tục chiến
đấu, quét sạch nó đi"3. Đó là biểu hiện của ý chí thống nhất, quyết tâm chiến lược của Người, ý
chí và quyết tâm đó thấm nhuần sâu sắc tư tưởng cách mạng bạo lực và tinh thần cách mạng triệt
để của giai cấp công nhân. Quyết tâm chiến lược đó được thể hiện nhất quán trong lời kêu gọi
của Bác ngày 20 tháng 7 năm 1969: "... đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy
quân, ngụy quyền sụp đổ hết"4. Lời nói đó của Người vừa thể hiện quyết tâm, vừa chỉ rõ yêu cầu
và mục tiêu chiến lược quân sự. "Rút hết sạch" là không còn một bóng tên xâm lược, dù là lính
Mỹ cầm súng hay trá hình dưới các vỏ "cố vấn" trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".
"Sụp đổ hết" là toàn bộ máy ngụy quân, ngụy quyền phải bị đập tan triệt để. Cả nước sạch bóng
quân thù. Cả nước độc lập, thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy mới đúng là:
"Toàn thắng ắt về ta"5.

Nắm vững sự thống nhất giữa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và ý chí thống nhất
đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi quân Mỹ rút khỏi miền Nam, Hội nghị lần thứ 21
của Trung ương Đảng tháng 10 năm 1973 đã vạch rõ: "Con đường cách mạng miền Nam là con
đường bạo lực cách mạng". Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới: "Hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà".

Với tinh thần cách mạng triệt để, vận dụng chiến lược và sách lược tài tình, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta xông lên giành thắng lợi hoàn toàn ngay trong mùa
xuân 1975. Dù cho ngụy quân, ngụy quyền lồng lộn đối phó, dù cho đế quốc Mỹ và các thế lực
phản động quốc tế tìm cách ngăn cản ta hòng vớt vát quyền lợi của chúng và cứu nguy cho bọn
tay sai, dưới ngọn cờ Quyết thắng của Bác Hồ, quân và dân ta không chút hữu khuynh co thủ,
không sợ Mỹ quay trở lại, không có ảo tưởng với Hiệp định Pa-ri, không dừng lại ở "chính phủ
liên hiệp ba thành phần", đã kiên quyết "đánh cho ngụy nhào", thực hiện triệt để quyết tâm chiến
lược của Bác Hồ. Và ngay sau ngày giải phóng, mặc dầu còn nhiều khó khăn, tháng 4 năm 1976
với việc bầu cử Quốc hội mới của cả nước, thực hiện thống nhất đất nước về mặt nhà nước, hai
miền Nam Bắc đã "sum họp một nhà", chung một nền cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
không qua một giai đoạn quá độ nào khác nữa.

2. Tư tưởng chiến lược tiến công, ra sức tạo thời cơ và tranh thủ,tận dụng thời cơ
chiến lược

Chiến lược quân sự của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng của nhân dân ta
chống lại kẻ thù có tiềm lực lớn về quân sự và kinh tế là đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước,
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến lược đó phản ánh tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: kẻ địch là "vỏ quýt dày", ta phải có thời gian để mà mài "móng tay nhọn", rồi mới "xé
toang xác chúng ra"1.

Người chủ trương "quyết kế trường kỳ kháng chiến"2 nhưng phải "kiên quyết, không ngừng
thế tiến công"3. Đánh lâu dài phải là một quá trình tiến công rất kiến quyết, rất tích cực: phải
thực hiện làm chủ để tiến công, tiến công để làm chủ. "Thắng từng bước" không có nghĩa là "tiến

34
từ từ từng bước" như V.I. Lê-nin đã phê phán, mà phải tích cực tạo thời cơ, chớp thời cơ và tận
dụng thời cơ, tiến lên giành thắng lợi quyết định, đưa cuộc kháng chiến lâu dài đến toàn thắng.

Tư tưởng chiến lược tiến công là nét nổi bật trong tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nét đặc sắc đó trong khoa học lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Người đã soi sáng
chặng đường cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau khi quân Mỹ cút về nước, khi tình
hình còn phức tạp, chiến tranh đang tiếp diễn và đang gặp khó khăn trước mắt, tháng 10 năm
1973, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng đã phân tích sâu sắc tình hình và khẳng định:
"Thắng lợi của chúng ta là thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công. Cách mạng là tiến công";
"Sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là một quá
trình đấu tranh lâu dài, phức tạp và gian khổ, trải qua nhiều bước quá độ. Ta phải kiên quyết tiến
công, đồng thời phải biết giành thắng lợi từng bước, củng cố trận địa của cách mạng để tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn".

Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và các nghị quyết của
Quân uỷ trung ương, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị, trong hai năm 1973-1974, quân
và dân miền Nam đã kiên quyết tiến công địch, tạo ra một cục diện mới trên chiến trường và thu
được nhiều kết quả to lớn trong công tác chuẩn bị thế trận chiến lược. Vào cuối năm 1974, một
tình thế mới đã xuất hiện: ta liên tục nắm quyền chủ động trên chiến trường, sức ta đã mạnh hơn
địch, khả năng của quân và dân ta giành thắng lợi lớn với nhịp độ tương đối nhanh đã rõ.

Trước tình hình đó, tháng 10 và tháng 12 năm 1974 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã
thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976, và sau thắng lợi đầu mùa khô ở miền Đông
Nam Bộ, đặc biệt là trên đà thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, trước thời cơ cụ thể, ngày 18
tháng 3 năm 1975, Bộ chính trị lại hạ quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, và
sau đó là giải phóng ngay trước mùa mưa năm ấy.

Tạo được thời cơ rồi, phải tận dụng thời cơ phát triển cách mạng thắng lợi. Bác Hồ đã dạy:
"Trong quân sự thời gian rất là quan trọng. Có tranh thủ thời gian mới bảo đảm được yếu tố
thắng địch"1. Quân và dân ta đã tận dụng thời cơ lịch sử, tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975 bắt đầu bằng mũi tiến công quân sự "đi trước một bước", bằng những đòn tiến
công của bộ đội chủ lực đánh lớn, đánh hiểm, đánh đau, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở
khắp nơi, đồng thời kiềm chế Mỹ và các thế lực phản động, cô lập ngụy cao độ để "đánh cho
ngụy nhào". Đó là nghệ thuật tiến công, là nghệ thuật tranh thủ và tận dụng thời cơ. Và đó cũng
là nghệ thuật chọn phương pháp và hình thức đấu tranh để kết thúc chiến tranh thắng lợi. Về vấn
đề này, Bác Hồ đã nói: "Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách
mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng"1. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh sự đúng đắn trong
tư tưởng quân sự của Người. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mùa xuân 1975
đã được thực hiện tài giỏi bằng các đòn tiến công quân sự mãnh liệt và liên tiếp, kết hợp với nổi
dậy của quần chúng ở mức độ khác nhau, tạo thành sức mạnh to lớn, đập vỡ từng mảng, tiêu diệt
nhanh, gọn từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới đánh tan đạo quân ngụy đông hàng triệu tên, lật
đổ toàn bộ ngụy quyền tay sai.

Ở đây, tác dụng của các đòn chủ lực gợi nhớ tới lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "... về
quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng"2, tới sự quan tâm của Bác Hồ đối

35
với việc xây dựng "đội chủ lực", từ đội vũ trang Cao Bằng (1941), đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân (1944) và các đội du kích khác, đến Quân đội nhân dân Việt Nam, từ buổi sơ
khai cho đến ngày xây dựng tiến lên chính quy hiện đại. Sự chăm lo của Bác từ cái ăn, cái mặc
đến chất lượng chiến đấu của bộ đội, không chỉ là tình cảm của người Cha thân yêu, mà còn là sự
đánh giá đúng đắn vai trò của bộ đội chủ lực trong chiến tranh cách mạng, nhất là ở những thời
điểm quyết định.

Sự kế tục và phát triển tư tưởng tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khiến lịch sử được lặp lại theo vòng xoắn ốc đi lên. Việc Bộ Chính trị chọn hướng tiến công
chiến lược của đòn chủ lực mở đầu là nam Tây Nguyên gợi nhớ tới sự quan tâm của Bác Hồ đối
với thế hiểm yếu của miền rừng núi Tây Đông Dương và quyết định chọn hướng chủ yếu là Tây
Bắc, hướng thứ yếu là Trung và Hạ Lào trong đông - xuân 1953-1954. Với cuộc tiến quân thần
tốc, bất ngờ, chắc thắng của các binh đoàn chủ lực cơ động và các cuộc nổi dậy mạnh mẽ của
quần chúng ở khắp mọi nơi trong mùa xuân 1975, tư tưởng "Chớp thời cơ" trong cách mạng
tháng Tám 1945, trong Điện Biên Phủ 1954 một lần nữa lại được tái hiện trên một quy mô lớn.

Ở đây, quy mô phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt dưới tác động của các nhân tố
năng động chủ quan đã được mô tả bằng hiện thực lịch sử. Những gì đã được chuẩn bị bằng trí
tuệ và xương máu suốt hai mươi năm kháng chiến, tất yếu

"Sẽ vùn vụt như toàn núi lửa


Sẽ ầm ầm như ngọn thuỷ trào
Sẽ kéo theo tất cả đồng bào
Sẽ đè bẹp cả loài lang sói"

như Bác Hồ đã viết năm 1942 trong bài thơ Nhóm lửa.

Việc vận động các gia đình binh sĩ ngụy kêu gọi chồng, con mình trở về với nhân dân, dùng
tù binh kêu gọi địch hạ vũ khí đầu hàng cách mạng, cũng mang lại kết quả tốt. Chính sách nhân
đạo của ta đối với ngụy quân, ngụy quyền sau ngày toàn thắng đã tạo thêm điều kiện nhanh
chóng ổn định tình hình vùng mới giải phóng ở miền Nam. Mũi tiến công binh vận vì thế không
những có ý nghĩa bổ trợ cho hoạt động chiến đấu mà còn là một thắng lợi về chính trị, được nhân
dân đồng tình và cảm phục. Nhân dân ta đã làm đúng lời Bác dạy: "Chúng ta chỉ đòi quyền độc
lập, tự do chứ chúng ta không vì tư thù, tư oán; làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc
văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước"1.

Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã quyết định trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ lấy tên là chiến dịch Hồ Chí Minh.
Đó chính là vì Đại thắng mùa xuân 1975 là một chiến công vĩ đại dâng lên Người, đồng thời là
một chiến công được lập nên dưới ngọn cờ quyết thắng của Bác, ngọn cờ đã đưa nhân dân ta đến
những chiến công kỳ diệu của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

3. Xây dựng hậu phương và phát huy vai trò của hậu phương trong thời cơ chiến lược

Xây dựng hậu phương, xây dựng căn cứ địa, bồi dưỡng sức dân là tạo nên một nhân tố
thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng, thực hiện càng đánh càng mạnh,

36
càng đánh càng thắng, cho đến thắng lợi hoàn toàn. Muốn có hậu phương mạnh, căn cứ địa
mạnh, phải dựa vào dân, phải bồi dưỡng sức dân. Đó là một nội dung cơ bản trong tư tưởng quân
sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong tác phẩm Cách đánh du kích viết năm 1941, Bác đã dành hẳn một chương XIII để nói
về căn cứ địa, Người viết: "Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng,
đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hoá ra quân chính quy"1. Trong những ngày xây
dựng đội vũ trang ở Cao Bằng, Bác luôn căn dặn hoạt động của đội phải tạo nên "nhân sơn" (núi
người), "nhân hải" (biển người) làm chỗ dựa cho cách mạng. Hậu phương "nhân hải" thấm nhuần
tư tưởng chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một phát triển sáng tạo học thuyết
quân sự Mác - Lê-nin, khác hẳn tư tưởng chiến thuật "biển người" trong chiến lược quân sự xâm
lược của bọn bành trướng.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hậu phương trong kháng chiến chống Pháp là "vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc"2, là "thực túc thì binh cường", "hậu phương thi đua với tiền
phương"3, là "Mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài"4, và "phải giải
phóng nông dân khỏi ách phong kiến, phải bồi dưỡng cho nông dân thì mới động viên đầy đủ lực
lượng to lớn đó, dốc vào kháng chiến để tranh thắng lợi"5. Bác căn dặn: "Không được phung phí
nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá, lãng phí vô ích"6.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân ta có hậu phương lớn là miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Đó là bước phát triển mới về chất so với cuộc kháng chiến chống Pháp. Phát huy thuận lợi
to lớn đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết lòng chăm lo xây dựng miền Bắc để làm tròn
nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Tư tưởng của Bác về hậu phương lúc này là:
"Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới
chắc. Gốc có mạnh cây mới tốt"7, là "Mỗi người làm việc bằng hai"8 để "xây dựng và bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở vững mạnh cho sự nghiệp giải phóng miền Nam"1, là "hết
sức hết lòng ủng hộ đồng bào miền Nam ruột thịt"2. Nói chuyện lần cuối cùng với cán bộ cao
cấp toàn quân ngày 11 tháng 5 năm 1969, Bác không quên căn dặn: "Phải cố gắng cùng với các
địa phương làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, để đánh thắng
giặc Mỹ. Đó là nhiệm vụ hàng đầu"3.

Trải qua quá trình 20 năm xây dựng và chiến đấu, miền Bắc đã phát triển một bước tiềm lực
quân sự và kinh tế, lại được ủng hộ, sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, đã đứng vững và
không ngừng lớn mạnh trước thử thách của chiến tranh. Với tiềm lực đó, trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975, miền Bắc đã phát huy mạnh mẽ tác dụng của hậu phương chiến lược,
không những làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến đấu của miền Nam về chính trị và ngoại
giao, mà còn chuẩn bị và chi viện hết mình bằng sức người, sức của trên quy mô chưa từng thấy,
góp phần tăng cường sức mạnh quân sự cho miền Nam đánh thắng. Từ tháng 2 năm 1973 đến
tháng 2 năm 1975, 3.778 ki-lô-mét đường chiến lược Đông và Tây Trường Sơn và 4.000 ki-lô-
mét đường chiến lược đã được xây dựng, củng cố và mở rộng, vận chuyển đến các chiến trường
miền Nam 36 vạn tấn vật chất các loại, phục vụ đánh lớn. Từ năm 1972 đến đầu năm 1973, miền
Bắc đã tuyển 47 vạn quân, trong đó tăng cường cho miền Nam 26 vạn.

Ở miền Nam, thực hiện "làm chủ và tiến công, tiến công và làm chủ" quân và dân ta đã mở
rộng và củng cố vùng giải phòng, xây dựng và phát huy vai trò của hậu phương tại chỗ, tạo thế,

37
tạo lực cho thời cơ chiến lược mới. Năm 1974, khu 5 tiêu diệt và bức rút trên 300 cứ điểm. Mùa
khô 1974-1975, miền Đông Nam bộ giải phóng 14 xã, 54 ấp, 94.000 dân. Riêng trong năm 1974,
khu 8 và khu 9 giải phóng 638 ấp với 93 vạn dân. Tính đến cuối năm 1974, quân số chủ lực và
địa phương của ta trên chiến trường miền Nam phát triển lên gần 40 vạn: Riêng chủ lực đã lên
gần 30 vạn, xấp xỉ với khối chủ lực chủ ngụy.

Trên cả hai miền, chỉ trong hai năm 1973-1975, 3 quân đoàn và 3 sư đoàn chủ lực đã được
xây dựng, trong đó hai quân đoàn được xây dựng ngay tại chiến trường.

Được như vậy là vì chúng ta có hậu cần nhân dân dựa chắc vào hậu phương lớn miền Bắc
với "các hợp tác xã là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận"4. và hậu phương
tại chỗ ở miền Nam, ở đó tổ chức Đảng được xây dựng và củng cố, chính quyền cách mạng trong
sạch và có hiệu lực, con người được vun trồng, sức dân được chăm lo bồi dưỡng. Nếu trong
những năm đầu chống Pháp và suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ lịch sử đã từng ghi lại các cuộc
hành quân Nam tiến và "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ của hậu
phương lớn anh hùng, thì trong những giờ phút hào hùng của cuộc tổng tiến công và nổi xuân
1975, hình ảnh của cuộc tiến quân thần tốc của các binh đoàn chủ lực lại được ghi đậm nét trên
trang sử vẻ vang thắng Mỹ của dân tộc Việt Nam ta. Rõ ràng thắng lợi của cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy xuân 1975 là chiến công chung của cả nước, cả tiền tuyến và hậu phương. Tư tưởng
nhân dân trong xây dựng hậu phương của Bác Hồ được phát triển đến một đỉnh cao mới.

4. Tư tưởng nhân nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một mũi tiến công sắc bén

Tinh thần nhân nghĩa của ông cha ta, trong thời đại ngày nay được phát triển thành lòng
nhân ái cách mạng, thành chân lý "năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài
đều hợp nhau lại nơi bàn tay"1, thành mưu lược "phá được địch mà không phải đánh"2 trong tư
tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên chặng đường cuối cùng của cuộc chống Mỹ, tư
tưởng nhân nghĩa của dân tộc ta và của Bác Hồ lại chói sáng và trở thành một mũi tiến công
quan trọng hơn bao giờ hết.

Trong lịch sử, thật hiếm thấy những lãnh tụ quan tâm và trực tiếp vận động binh lính địch
nhiều như Nguyễn Trãi và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ "Bài ca binh lính" đến lời kêu gọi ngày 20
tháng 7 năm 1965, tính có đến mấy mươi lần Bác kêu gọi binh lính Pháp, binh lính Mỹ, binh lính
ngụy trở về với chính nghĩa và chỉ rõ chính sách khoan hồng của cách mạng đối với tù binh.

Trong quyết tâm chiến lược của Bác "đánh cho ngụy nhào", chúng ta thấy rõ ở đây không
đặt ra vấn đề tiêu diệt "sạch sành sanh", càng không phải là một sự trả thù, một cuộc "tắm máu"
sau ngày thắng lợi như kẻ thù vu khống và hù doạ. "Đánh cho ngụy nhào" là thể hiện tinh thần
nhân nghĩa, và cũng là truyền thống, một quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh giải phóng và
giữ nước của dân tộc Việt Nam trong lịch sử.

Quán triệt tư tưởng đó, sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết, chúng ta đã thả tù binh Mỹ sau
một thời gian chúng được giáo dục và đối xử bằng chính sách nhân đạo. Đây là một việc làm gây
xúc động và thức tỉnh lương tri của nhân dân Mỹ. Ở miền Nam, chính sách 10 điểm của Chính
phủ cách mạng lâm thời và sự thực hiện chính sách đó đã được phát huy tác dụng tích cực, kết
hợp cùng các mũi tiến công quân sự, chính trị góp phần đưa đến thời cơ lớn.

38
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, mặc dù chưa tạo được những cuộc binh
biến lớn, nhưng dưới áp lực mạnh mẽ của đòn tiến công quân sự, binh vận đã kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị tạo ra thế tan rã nhanh chóng của ngụy quân, ngụy quyền. Việc chấp hành
đúng đắn chính sách đối với tù binh, hàng binh có tác dụng thúc đẩy quân ngụy mau tan rã, làm
cho ta đỡ tốn xương máu.

39
BÀI HỌC VỀ NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC
TRONG TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC
KẾT THÚC CHIẾN TRANH

Trung tướng PHẠM HỒNG SƠN

Trận quyết chiến chiến lược này là một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở giai đoạn cuối của
cuộc chiến tranh lâu dài diễn ra theo quy luật phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt về
chiến lược. Việc tạo ra thời cơ chiến lược và chỉ đạo sự phát triển của cuộc quyết chiến chiến
lược, kịp thời nắm thời cơ mới để giành thắng lợi quyết định, đòi hỏi một nghệ thuật chỉ đạo
chiến lược năng động, sắc bén về những vấn đề chính sau đây:

1. Quyết tâm chiến lược và quy hoạch chiến lược.


2. Lực lượng, thế chiến lược và thời cơ chiến lược.
1. Quyết tâm chiến lược trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh

Trong hai cuộc chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ, một đặc điểm nổi bật của
trận quyết chiến chiến lược cuối cùng là diễn biến chiến cuộc hết sức nhanh: trong đông – xuân
1953-1954 chỉ vài tháng; trong mùa xuân năm 1975 cũng chỉ 55 ngày đêm.

Quy luật vận động theo bước nhảy vọt của thời cơ chiến lược trong giai đoạn kết thúc chiến
tranh đã thể hiện rất rõ trong các trận quyết chiến chiến lược.

Quyết tâm ban đầu tháng 10 năm 1974 giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 đã
được Hội nghị Bộ Chính trị tháng 1 năm 1975 bổ sung bằng việc dự kiến tình hình có thể phát
triển nhanh, thời cơ chiến lược cụ thể có thể đến sớm, và chủ trương chuẩn bị thêm phương án
nhanh chóng nắm thời cơ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Trong khi phân tích, Bộ Chính trị đã suy xét cụ thể tình hình đang diễn ra trên chiến trường
trong hai năm 1973-1974, giai đoạn trực tiếp tạo tiền đề cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Về địch: Quân ngụy còn hơn một triệu tên, còn chiếm giữ ở các địa bàn chiến lược quan
trọng. So sánh lực lượng về tổng quân số, địch còn lớn hơn ta: quân chủ lực của địch ít hơn ta
(địch 1 ta 1,3), nhưng quân địa phương thì địch đông hơn (địch 4,9 ta 1). Song tình hình tổng
quát trên chiến trường cho thấy tuy địch còn đông, còn chiếm giữ các thành phố, thị xã, còn
khống chế các đồng bằng, nhưng chúng đã liên tiếp bị thất bại, mất đâu chịu đó, sau khi mất thị
xã Phước Long, chúng không đủ sức phản kích lấy lại. Ngay sát Sài Gòn 40 ki-lô-mét, cuộc hành
quân càn quét của nhiều sư đoàn địch cũng thất bại. Ở đồng bằng sông Cửu Long, chỉ trong ba
tháng địch bị tiêu diệt đến 20.000 tên. Chủ lực ngụy không còn lực lượng dự bị cơ động chiến
lược: hai sư đoàn thuỷ quân lục chiến và sư đoàn dù đều đã phải triển khai phòng thủ ở quân khu
I.

Về ta: Ta đã giành thắng lợi được trên các chiến trường, đang nắm quyền chủ động tiến
công địch. Bộ đội chủ lực của ta được tăng cường trang bị, chất lượng chiến đấu được nâng lên,

40
đã triển khai trên các địa bàn chiến lược trọng yếu, có khả năng đánh địch trên toàn chiến trường
miền Nam, có thể thực hiện đánh chia cắt chiến lược hoặc cơ động tập trung đánh vào các trung
tâm đô thị như Sài Gòn, Đà Nẵng. Các quân đoàn chủ lực đã được thành lập có sức cơ động cao
hơn, có khả năng tiêu diệt sư đoàn địch, giải phóng thị xã. Vùng giải phóng của ta đã nối liền từ
Bắc đến Nam, hệ thống đường giao thông chiến lược được củng cố, phát triển. Lực lượng vũ
trang địa phương tuy còn ít nhưng chất lượng có tiến bộ.Khả năng phối hợp với chủ lực tiến công
ở đồng bằng đông dân ngày càng cao.

Phân tích sâu sắc tình hình so sánh lực lượng địch – ta cả về lực và thế chiến lược, Bộ
Chính trị đã đi đến kết luận: “Trong khi thế và lực của ta lớn lên nhanh thì địch càng xuống dốc
cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Ta tiến công mạnh thì nhất định sẽ tạo ra những đột biến mới
trong quá trình xuống dốc đó của địch”1.

So sánh lực lượng địch - ta trên phạm vi cả nước cũng như trên chiến trường miền Nam đã
có sự chuyển biến cơ bản và rõ rệt có lợi cho cách mạng: ta đã mạnh hơn địch. Chúng ta đang
đứng trước thời cơ chiến lược lớn. Chưa bao giờ ta có đầy đủ điều kiện về quân sự và chính trị
như lúc này để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất
Tổ quốc.

Rõ ràng kết luận này đã vạch ra thế chiến lược và thời cơ chiến lược lớn. Quân ngụy còn
đông trên một triệu tên, tiềm lực của Mỹ vẫn còn rất mạnh. Nhưng thế của ngụy là thế thua, thế
đi xuống, thế bị động và khó khăn; còn Mỹ thì vấp phải những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt
trong nội bộ, tâm trạng chán ghét chiến tranh của nhân dân Mỹ và vụ bê bối Oa-tơ-ghết khiến
Ních-xơn phải từ chức và Phơ lên nắm chính quyền không qua bầu cử, nên khó có thể đưa quân
trở lại về miền Nam và dù có can thiệp thì cũng không thể cứu vãn nổi sự sụp đổ của ngụy quyền
Sài Gòn.

Ý định chiến lược: - hạt nhân của quyết tâm chiến lược – đã được Bộ Chính trị xác định:
đòn đột kích chủ yếu mở đầu nhằm vào Tây Nguyên, lấy Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu
của chiến dịch, trong thế trận chiến lược của ba đòn tiến công chiến lược liên tiếp trên ba hướng
Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Sài Gòn, mà tiến công vào Sài Gòn là quyết định cuối cùng.
Đánh vào “thủ đô” của địch để giải quyết chiến tranh là một quyết tâm có tính chất “kinh điển”
trong nghệ thuật chiến lược của nhiều nước trên thế giới, như đã diễn ra trong chiến tranh thế
giới thứ hai với chiến dịch công phá Béc-lin hay trong nhiều cuộc chiến tranh khác trong lịch sử.
Trong thư gửi Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định ngày 1 tháng 7 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn viết về
vị trí của đô thị trong chiến tranh giải phóng chống Mỹ như sau: “Đứng về quân sự mà xét,
không đánh vào căn cứ, vào hậu phương, vào đầu não của địch thì không thể giành được thắng
lợi cuối cùng”1.

41
TÍNH THẦN TỐC CỦA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Trung tướng HOÀNG PHƯƠNG

Sau khi buộc phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, Mỹ vẫn tiếp tục củng cố ngụy quân,
ngụy quyền Sài Gòn để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam dưới dạng một
nước riêng biệt, phụ thuộc vào Mỹ.

Hàng loạt kế hoạch được kẻ địch vạch ra và ráo riết thực hiện: kế hoạch quân sự 1973 –
1975 nhằm dồn các lực lượng vũ trang giải phóng về sát biên giới, với sức chiến đấu giảm sút tới
mức chỉ có thể hoạt động ở quy mô đại đội; kế hoạch “cộng đồng tự vệ và phát triển địa phương”
1973-1975 nhằm bình định lấn chiếm toàn bộ vùng giải phóng; kế hoạch quân sự 1974-1975
nhằm “hiện đại hoá và tinh nhuệ hoá” quân đội ngụy; kế hoạch kinh tế hậu chiến 1973-1980
nhằm triển khai toàn diện nền kinh tế thực dân mới lệ thuộc vào Mỹ, ổn định đời sống xã hội,
đồng thời làm cho nền kinh tế miền Nam hơn hẳn kinh tế miền Bắc. Với những kế hoạch trên,
Mỹ và ngụy hy vọng chiến tranh sẽ “tàn lụi” vào những năm từ 1978 đến 1980 và chúng sẽ kiểm
soát hoàn toàn miền Nam Việt Nam.

Để hỗ trợ cho việc thực hiện mưu đồ nói trên, Mỹ duy trì ở bên ngoài Việt Nam một lực
lượng răn đe gồm 15 nghìn tên với hàng ngàn máy bay và nhiều tàu chiến. Đồng thời lợi dụng xu
thế hoà hoãn trên thế giới, Mỹ thực hiện “chính sách cân bằng lực lượng ” giữa các nước lớn, câu
kết với các thế lực phản động quốc tế để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam và
buộc ta phải đơn phương thi hành Hiệp định Pa-ri.

Tuy âm mưu của Mỹ - ngụy rất thâm độc, hành động của chúng hết sức điên cuồng, nhưng
xu thế tất thắng của cách mạng Việt Nam không hề bị đảo ngược, cục diện chiến trường miền
Nam vẫn ngày càng phát triển có lợi cho ta. Quân Mỹ đã phải rút; quân ngụy bị ta tiến công và
phản công giáng trả những đòn trừng phạt đích đáng, đã suy yếu nghiêm trọng. Viện trợ của Mỹ
cho ngụy mỗi năm một giảm. Còn ta thì thế và lực ngày càng tăng. Ta đã tạo được thế liên hoàn
từ miền Bắc đến chiến trường miền Nam, giữ vững và phát huy được quyền chủ động chiến lược.
Lực lượng vũ trang được tăng cường, các quân đoàn chủ lực được xây dựng và đứng châm vững
chắc trên các địa bàn chiến lược quan trọng (quân đoàn 2 ở Trị - Thiên, quân đoàn 4 ở Đông
Nam Bộ, một lực lượng tương đương quân đoàn ở Tây Nguyên… và quân đoàn 1 ở miền Bắc).
Sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang ta, nhất là khối chủ lực, đã hơn hẳn quân chủ lực ngụy.
Khí thế cách mạng của quần chúng ngày càng lên cao. Phong trào đấu tranh chống chính quyền
Thiệu ở miền Nam Việt Nam và chống chính quyền Ních – xơn ở Mỹ đang phát triển mạnh.

Trước tình hình đó, trong cuộc họp từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 8 tháng 10 năm 1974, Bộ
Chính trị đã nhận định: “Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, so sánh lực lượng đã thay đổi,
ta mạnh lên, địch yếu đi”; “chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi cho giai đoạn cuối
cùng của cuộc chiến tranh, đã tạo nên những yếu tố quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn
toàn”; vì vậy “một cuộc đọ sức cuối cùng giữa ta và địch tất yếu phải xảy ra và sự sụp đổ hoàn
toàn của ngụy quân, ngụy quyền là không tránh khỏi”.

42
Đây là những nhận định cực kỳ quan trọng, dựa trên sự phân tích và đánh giá đúng đắn so
sánh lực lượng giữa đôi bên. Xuất phát từ đó, Đảng ta đã kịp thời phát hiện thời cơ và hạ quyết
tâm chiến lược: giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước.

Được sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, của Quân uỷ Trung ương và sự chỉ đạo trực tiếp của
đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, từ giữa năm 1974, Bộ Tổng tham mưu đã tập trung sức xây dựng
kế hoạch giành thắng lợi hoàn toàn ở miền Nam. Yêu cầu cơ bản đề ra là phải thắng nhanh làm
cho địch không kịp xoay xở và các thế lực phản động quốc tế cũng không thể phá ngang. Đây là
một yêu cầu chính xác, phù hợp với khả năng và nguyện vọng của quân và dân cả nước ta. Bộ
Chính trị nhấn mạnh: nếu bỏ lỡ thời cơ này là có tội đối với dân tộc. Vì kéo dài thì tình hình sẽ
phức tạp và như Lê-nin đã nói “để lỡ mất thời cơ hiện tại… thì sẽ là hoàn toàn ngu xuẩn, hoặc là
phản bội hoàn toàn”1. Khác với các thời kỳ trước, lúc này là lúc ta có thể và cần thiết phải dốc
toàn bộ sức mạnh ra đánh địch trên thế mạnh dứt điểm.

Sau nhiều lần nghiên cứu, nhất là về đánh giá địch, và qua nhiều lần dự thảo, Bộ Tổng tham
mưu đề nghị kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam trong hai năm 1975-1976.

Địch còn hơn một triệu quân (kể cả quân chủ lực, quân địa phương và dân vệ vũ trang), có
trang bị kỹ thuật hiện đại và phòng ngự trận địa với công sự vững chắc; chúng còn duy trì một hệ
thống kìm kẹp chặt chẽ từ trung ương đến địa phương hòng làm tê liệt mọi hình thức đấu tranh
của quần chúng. Về phía ta, trình độ tác chiến lớn, hợp đồng binh chủng tuy có tiến bộ nhưng
chưa vững chắc: trận tiêu diệt chi khu quận lỵ Thượng Đức và đánh quân địch phản kích phải
kéo dài 4 tháng; trận giải phóng tỉnh Phước Long mất 20 ngày. Khối lượng vật chất và kỹ thuật
bảo đảm cho giai đoạn chiến lược này lên tới mấy chục vạn tấn và phải chuyển từ hậu phương
tới. Đó là những căn cứ cụ thể cần chú ý để tính toán thời gian thực hiện quyết tâm chiến lược.

Hơn nữa, khả năng can thiệp trở lại của đế quốc Mỹ còn là một vấn đề phải theo dõi và có
biện pháp đối phó. Khả năng nổi dậy của quần chúng cách mạng chưa phải đã mạnh mẽ và đồng
đều ở mọi nơi. Chính vì vậy, ước tính thời gian 2 năm cho trận quyết chiến chiến lược là một sự
tính toán thận trọng, có căn cứ khoa học.

Kế hoạch này dự tính trong năm 1975, ta tranh thủ bất ngờ thực hiện tiến công lớn và rộng
khắp nhằm tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân ngụy, đánh bại về cơ bản kế
hoạch bình định của địch, giải phóng và làm chủ đại bộ phận nông thôn, chủ yếu là vùng đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng Khu 5 và Trị - Thiên; mở thông các đường hành lang trên các
hướng từ Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ và xuống ba tỉnh nam Khu 5… Cùng với đòn
tiến công quân sự, phải đẩy mạnh phong trào quần chúng ở đô thị, phát triển lực lượng, củng cố
vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường cho năm 1976. Trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ nói trên,
sang năm 1976 sẽ dốc toàn bộ lực lượng để Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền
Nam.

Kế hoạch hai năm 1975-1976 thể hiện tính cách mạng và khoa học rất cao. Nó tận dụng
được thời cơ chiến lược đang chín muồi, phát huy được sức mạnh mới cả về thế và lực mà quân
và dân ta đã tạo ra. Vì thế, so với các thời kỳ đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và
“chiến tranh cục bộ” thì thời gian lần này được rút ngắn hơn nhiều.

43
Kế hoạch chiến lược cơ bản đã được Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1974 thông qua.
Tại Hội nghị mở rộng (18-12-1974 – 8-1-1975) để xác định quyết tâm cuối cùng; sau khi cân
nhắc kỹ càng tình hình mọi mặt, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm: giải phóng hoàn toàn miền Nam
trong hai năm 1975-1976. Đồng thời để chủ động trước tình hình có thể phát triển mau lẹ và
phức tạp, Bộ Chính trị còn dự kiến khả năng giành thắng lợi sớm hơn nếu ta hành động khôn
khéo, đánh đòn phủ đầu mãnh liệt và liên tục tiến công kết hợp với nổi dậy đồng loạt của nhân
dân ở khắp nơi theo tư tưởng của Lê-nin: “chấm dứt chiến tranh bằng cách phát triển cách mạng
lên hơn nữa”1

Trong khi ta khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn thì
Nguyễn Văn Thiệu và bộ máy chiến tranh ngụy, với tính chủ quan cố hữu của chúng, đã có
những đánh giá và phán đoán sai lầm về ta, từ ý đồ chiến lược đến khả năng hành động, từ
phương hướng, mục tiêu tiến công đến quy mô, thời gian và cách đánh… Do đó, địch vẫn giữ thế
bố trí “mạnh ở hai đầu”2 lo đối phó với một cuộc tiến công mà chúng dự kiến sẽ lớn hơn năm
1974 nhưng không bằng năm 1968 hay năm 1972, và đặt trọng tâm đối phó ở hướng Tây Ninh.
Vì vậy địch hoàn toàn bị bất ngờ khi ta nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, Nam Tây Nguyên.

44
MẤY NÉT TIÊU BIỂU CỦA NGHỆ THUẬT CHIẾN DỊCH VIỆT NAM
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

Đại tá HOÀNG DŨNG

Tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ Đại hội lần thứ VI của Đảng đã kết
luận: "Là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, là kết quả hợp thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng
của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân năm 1975 đã diễn ra với tốc độ "một ngày bằng 20 năm". Chỉ trong 55 ngày đêm, với sức
mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân và dân ta đã giành được toàn thắng bằng ba trận
đánh then chốt"1. Đó là ba chiến dịch lớn của cuộc tổng tiến công chiến lược.

Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận Buôn Ma Thuột, tiêu diệt một tập đoàn phòng
ngự quan trọng của địch, là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và suy sụp về chiến lược của chúng, mở
ra thời cơ tổng tiến công chiến lược, cũng tạo ra thời cơ cho chiến dịch Huế - Đà Nẵng.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng được tổ chức chuẩn bị trong quá trình phát triển cuộc Tổng tiến
công chiến lược, từ hai chiến dịch của hai quân khu (Trị - Thiên và khu 5), nhằm mục đích diệt
địch, giành dân, mở vùng... phát triển thành một chiến dịch quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược, đã
tiêu diệt quân đoàn 1 ngụy, quét sạch địch ở vùng ven biển miền Trung. Thắng lợi lớn và rất
nhanh của chiến dịch này đã cùng với chiến dịch Tây Nguyên làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng
về mặt chiến lược, trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, tích cực góp phần tạo
điều kiện cả về thế trận và lực lượng cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chắc thắng.

Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975. Đây là
cuộc hội quân lớn nhất của các cánh quân, tập trung sức mạnh của cả nước đánh trận quyết chiến
chiến lược cuối cùng vào sào huyệt địch, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, tạo những điều kiện
quyết định để quân và dân các tỉnh còn lại của Nam Bộ đồng loạt tiến công và nổi dậy giải phóng
địa phương bằng lực lượng bản thân. Cùng với chiến thắng có ý nghĩa chiến lược của các chiến
dịch lớn Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc toàn thắng, nhanh
chóng và trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kết thúc rất oanh liệt 30 năm chiến
tranh giải phóng và giữ nước thần thánh của nhân dân ta.

Đây là một chiến dịch tiến công tiêu diệt lớn chưa từng có trên chiến trường nước ta, vượt
hẳn các chiến dịch lớn trước đó cả về quy mô sử dụng lực lượng, về cường độ và nhịp độ tiến
công, về nội dung của tác chiến hiệp đồng binh quân chủng, cả về mức độ hoàn thành kiên quyết,
triệt để nhiệm vụ chiến lược cũng như mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Là kết tinh sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam được xây dựng và phát
triển trong quá trình 21 năm chống Mỹ, cứu nước cũng như toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách
mạng và chiến tranh cách mạng kể từ sau cách mạng tháng Tám, chiến dịch Hồ Chí Minh được
ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta như một bản anh hùng ca bất hủ của chiến tranh
nhân dân Việt Nam trong thời đại mới. Trong lịch sử phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam
hiện đại, nó đánh dấu một đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch tiến công hợp đồng binh quân

45
chủng, thể hiện bước phát triển nhảy vọt lớn nhất của sức mạnh chiến đấu của toàn dân và các
lực lượng vũ trang nhân dân trên cả nước trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

Dưới đây là một số suy nghĩ bước đầu về nội dung của bước phát triển mới trên lĩnh vực
nghệ thuật chiến dịch Việt Nam qua thực tiễn chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

1. Trong một thời gian rất ngắn, ta đã tập trung một lực lượng quân sự lớn chưa từng có
trong điều kiện chiến trường nước ta, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và làm tan ra nhanh
chóng tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Đây
là nét phát triển mới về quy mô tập trung lực lượng trong chiến dịch tiến công. Đánh vào Sài
Gòn - Gia Định ta đã sử dụng 5 quân đoàn chủ lực tinh nhệ, chưa kể các lực lượng sự bị chiến
lược và các lực lượng địa phương của Nam Bộ. Thêm vào đó còn hàng chục sư đoàn, lữ đoàn,
trung đoàn thuộc các quân chủng và binh chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Chỉ tính riêng pháo binh đã có 20 trung đoàn, lữ đoàn và 8 tiểu đoàn độc lập với 509 khẩu pháo
(thực tế chiến đấu là 419 khẩu) không kể pháo đi cùng (ĐKZ, cối 82) trong các trung đoàn, tiểu
đoàn bộ binh, tổ chức thành 30 cụm pháo binh các cấp và một đại đội pháo chuyên trách (đánh
sân bay Biên Hoà), trong đó có 421 khẩu pháo xe kéo, 88 khẩu pháo mang vác cỡ lớn . Lực
lượng thiết giáp có 398 xe tăng, xe bọc thép. Lực lượng phòng không có 5 sư đoàn, 3 trung đoàn
(gần 68 tiêu đoàn pháo xe kéo) 17 tiểu đoàn súng máy cao xạ, 2 trung đoàn tên lửa SAM-2, 2
tiêu đoàn tên lửa A.72, 1 trung đoàn pháo cao xạ tự hành 23mm. Về binh chủng đặc biệt, có 7
trung đoàn và 5 tiểu đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động gồm 13 cụm được bố trí ém sẵn trên các
hướng, các cánh của chiến dịch trên đường tiến vào những mục tiêu quan trọng nhất của thành
phố. Cùng với ngót 60.000 tấn vật chất kỹ thuật mà hậu cần phải tiếp tế, quy mô sử dụng lực
lượng trong chiến dịch Hồ Chí Minh không những lớn hơn hẳn các chiến dịch Tây Nguyên, Huế
- Đà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, mà còn là lớn nhất trong lịch sử
chiến tranh cách mạng của ta. Chưa bao giờ chúng ta đưa vào chiến dịch một lực lượng quân lớn
như vậy. Kể từ khi Bộ Chính trị kết luận ngày 31 tháng 3: "Từ giờ phút này trận quyết chiến
chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu", cho đến ngày nổ súng mở màn chiến dịch,
ta chỉ có khoảng trên ba tuần lễ, trong khi đó quân địch cũng cố tìm đủ mọi cách để ngăn cản ta,
buộc ta phải kéo dài thời gian chuẩn bị cho tới mùa mưa.

Chiến dịch này lại được chuẩn bị ngay từ khi đang tiến hành các chiến dịch trước, trong
hoàn cảnh thời cơ lớn của trận quyết chiến cuối cùng đã xuất hiện. Đối tượng tác chiến chiến
dịch là tập đoàn phòng ngự lớn của địch trong tổ chức phòng thủ có chuẩn bị sẵn ở sào huyệt
cuối cùng, trung tâm đầu não của chúng. Vành đai bảo vệ Sài Gòn với bán kính từ 30 đến 50 ki-
lô-mét có 5 sư đoàn chủ lực ngụy (5, 18, 25, 7 và 22) cùng với lực lượng tương đương 2 sư đoàn
trong tuyến phòng thủ nội thành. Tuy địch đã thua rất to, bị suy sụp cả về tinh thần và tổ chức
nhưng chúng vẫn còn rất ngoan cố và chủ tâm cố thủ, hy vọng tránh khỏi thất bại hoàn toàn. Lực
lượng của quân đoàn 3 và sư đoàn 7 thuộc quân đoàn 4 của chúng còn chưa bị đánh lớn nên hầu
như vẫn nguyên vẹn.

Lực lượng lớn của ta gồm lực lượng có sẵn trên địa bàn chiến dịch và cả những lực lượng
mới từ xa cơ động đến. Như quân đoàn 1 (thiếu) từ Ninh Bình vào, phải vượt chặng đường dài
1.700 ki-lô-mét, theo các đường 12, 15, 14. Quân đoàn 2 phải hành quân 900 ki-lô-mét qua rất
nhiều cầu bị phá, lại phải đánh địch ở Phan Rang, Phan Thiết trên đường vào .Tổ chức cho 2.000
xe của quân đoàn vượt qua 6 sông lớn, chưa kể phải đánh địch trên đường đi, là cả một quá trình

46
tổ chức, chỉ huy rất phức tạp. Việc đưa toàn bộ lực lượng đó kịp vào trận đánh một cách nhịp
nhàng, có hiệp đồng chặt chẽ nhằm phát huy sức mạnh lớn nhất trong tình huống chiến lược
khẩn trương, thực hiện "táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" trong điều kiện thời gian đặc biệt gấp rút là
một công phu tổ chức rất lớn. Nó đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp từ việc nắm địch,
điều động và cơ động lực lượng ta, tác chiến diệt địch để tạo thế và cài thế (như cuộc tiến công
Xuân Lộc của quân đoàn 4, trận đánh tiêu diệt tiền phương quân đoàn 3 ngụy cơ Phan Rang,
hoạt động tác chiến của đoàn 232 ở đường số 4 tạo thế chia cắt Sài Gòn với vùng đồng bằng
Sông Cửu Long...) đến việc củng cố bộ đội, bổ sung vật chất, kỹ thuật, vận chuyển và tiếp tế hậu
cần, v.v.

Tập trung được một lực lượng lớn trong thời gian nhanh như vậy rõ ràng là một thành công
đặc biệt của ta. Nó thể hiện một quyết tâm rất cao chớp thời cơ, xốc tới giành thắng lợi quyết
định. Nó đánh dấu một trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch phát triển vượt bậc, điều động triển
khai lực lượng giữ được bí mật về lực lượng và thời gian tiến công của ta, tạo nên một bất ngờ
lớn đối với địch. Đây không chỉ là khoa học về tổ chức mà còn là bước phát triển cao về nghệ
thuật tập trung lực lượng ưu thế tuyệt đối hơn địch ở nơi quyết định, trong thời điểm quyết định.

2. Trong một thời gian rất ngắn, ta đã hình thành được thế trận bao vây, chia cắt lớn, hãm
quân địch vào thế hết sức nguy ngập, cuối cùng bị tiêu diệt và tan rã nhanh chóng. Tập trung lực
lượng lớn, tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định thắng lợi của
chiến dịch. Tiếp đó nhanh chóng cài được thế chiến dịch hiểm, thực hiện bao vây chia cắt toàn
bộ tập đoàn phòng ngự của địch là một vấn đề mấu chốt của nghệ thuật chiến dịch để tạo thế tiến
công áp đảo, bịt mọi đường rút chạy của địch trên các hướng tây - tây nam (đường số 4) về đồng
bằng sông Cửu Long, hướng đông về Vũng Tàu... nhanh chóng đè bẹp mọi sự phản kháng của
chúng. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, với tư tưởng chỉ đạo "kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, bất
ngờ nhất và chắc thắng", đã nêu điển hình xuất sắc về nghệ thuật bao vây chia cắt lớn mau lẹ ,
bất ngờ đến nỗi địch trở tay không kịp, muốn co cụm không co được, muốn tháo chạy cũng
không thoát và cuối cùng đã bị tiêu diệt nhanh. Trong chiến dịch quyết chiến lịch sử này, một
trong những nét đặc sắc của nghệ thuật chiến dịch là dựa trên thế trận khá hoàn chỉnh của chiến
tranh nhân dân được xây dựng từ nhiều năm, trên thế chiến lược mới rất chủ động do thắng lợi
lớn của hai chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng tạo ra, nhanh chóng hình thành thế hợp
vây chiến dịch, thọc sâu chia cắt, bao vây chặt làm cho tập đoàn phòng ngự lớn của địch bị tách
ra từng mảnh, không thể hỗ trợ và ứng cứu lẫn nhau.

Trước khi nổ súng công kích vào Sài Gòn, đến 17 giờ ngày 26 tháng 4 ta đã hình thành
được thế trận bao vây thành phố từ nhiều mặt. Ở phía đông, ta cắt hoàn toàn đường 1, sẵn sàng
cắt đứt đường 15 (xuống Vũng Tàu), sông Lòng Tàu và khống chế Vũng Tàu, làm tê liệt sân bay
Biên Hoà. Phía tây và tây - nam, các lực lượng quân khu 9 áp sát đoạn Cái Vồn và nam Cần Thơ.
Quan trọng hơn cả là quân ta đã áp sát con đường huyết mạch số 4 cắt lìa Sài Gòn với đồng bằng
sông Cửu Long. Các đơn vị thuộc khu 8 mở rộng hoạt động ở nam Long An, chuẩn bị sẵn sàng
cắt đường số 4 và kênh Chợ Gạo. Các lực lượng lớn của chiến dịch đã tiến dần vào vị trí triển
khai. Quân đoàn 4 sau khi chiếm Xuân Lộc, đã áp sát Trảng Bom. Phía đông - nam, quân đoàn 2
tiến sát Long Thành, Vũng Tàu, Nước Trong, Bà Rịa... Đoàn 232 đã đến tuyến sông Vàm Cỏ
Đông và Hậu Nghĩa. Sư đoàn 5 và sư đoàn 8 đứng sát đường số 4 đoạn từ Tân An đến Cai Lậy,
áp vào Mỹ Tho; 2 trung đoàn bộ binh đã đứng ở Cần Đước Cần Giuộc phía nam quận 8 Sài Gòn.

47
Hướng bắc và tây - bắc đã có một vùng giải phóng rộng nối liền từ Lộc Ninh đến Phước
Long. Quân đoàn 1 cơ động từ hậu phương lớn vào đã đứng ở khu vực tập kết nam sông Bè.
Quân đoàn 3 ở khu vực Dầu Tiếng. Các đơn vị đặc công, biệt động đã vào ém sẵn tại các vị trí
quy định ở vùng ven và cả trong nội thành, sẵn sàng đánh chiếm các mục tiêu, mở và bảo vệ
đường tiến cho các cánh quân lớn, đặc biệt là các cầu quan trọng trên đường vào trung tâm thành
phố.

Đường hành lang từ các cánh, các hướng đều thông suốt. Đường vận chuyển chiến dịch và
chiến thuật đã được nối liền, có chất lượng tốt, bảo đảm các loại xe quân sự (kể cả xe tăng, xe
bọc thép), chạy với mật độ lớn, tốc độ cao. Lực lượng lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách
mạng đã về vùng ven. Nhiều bộ phận đã vào nội thành chuẩn bị cho việc nổi dậy của quần chúng
và tiếp quản thành phố.

Nay nhìn lại ta càng thấy giá trị to lớn và ý nghĩa quyết định của thế trận chiến dịch đó, một
thế trận rất hiểm dựa trên cơ sở lực lượng lớn mạnh của toàn thể chiến dịch và cũng là sự phản
ánh của lực lượng đó. Đó là thế trận tiến công của chiến tranh nhân dân Việt Nam, tiêu biểu cho
sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, giữa tiến công quân sự của lực lượng
vũ trang ba thứ quân trong đó nổi lên vai trò quả đấm rất mạnh của các binh đoàn cơ động chiến
lược - với hành động nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân giành quyền làm chủ ở cơ sở, kết hợp giữa
vành ngoài và vành trong, giữa ven đô và nội đô. Khi ta bước vào chiến dịch, mặc dù quân địch
còn đông, có tổ chức phòng thủ sẵn nhằm trì hoãn bước tiến của ta, nhưng với thế trận tiến công
áp đảo này ta đã thắng rất nhanh, địch tan vỡ và thua rất nhanh. Điều đó hoàn toàn không phải
ngẫu nhiên.

3. Trong một thời gian rất ngắn ta đã kết hợp chặt chẽ việc tập trung lực lượng ưu thế tuyệt
đối đột phá tuyến phòng thủ bên ngoài với việc tiêu diệt quân địch cơ động ứng cứu và thọc sâu
vào trung tâm phòng ngự của chúng. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và dứt điểm rất nhanh
chỉ trong 3 ngày 4 đêm và 6 giờ 30 phút (từ 17 giờ ngày 26 tháng 4 đến 11 giờ 30 ngày 30 tháng
4). Đây là một nét phát triển mới về cách đánh chiến dịch của ta, khác với các chiến dịch tiến
công trong các thời kỳ trước của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng khác với cách đánh của các
chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng mùa xuân năm 1975.

Trong nghệ thuật chiến dịch, vấn đề lập thế trận, cài thế chiến dịch luôn luôn gắn liền với
cách đánh chiến dịch. Hướng chủ yếu của chiến dịch là hướng tây - bắc. Năm mục tiêu trung
trung tâm thành phố mà lực lượng chiến dịch phải nhanh chóng đánh chiếm là sân bay Tân Sơn
Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh tổng thống ngụy quyền, Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh
sát. Mục tiêu quan trọng số một về quân sự là sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu ngụy
- trung tâm chỉ huy của địch. Phương châm hành động của chiến dịch Hồ Chí Minh là "thần tốc,
táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Cho đến trung tuần tháng 4, toàn bộ Tây Nguyên và miền Trung
đã giải phóng, quân ta đã đánh lớn vào Xuân Lộc, Phan Rang, từ nhiều hướng áp sát quanh Sài
Gòn, địch cũng đã phát hiện một số sư đoàn chủ lực của ta mới vào và đang vào miền Đông Nam
Bộ. Chúng đã biết hướng tiến công của ta sẽ là Sài Gòn. Vì thế sự bất ngờ về hướng tiến công,
về lực lượng tiến công đã giảm đi nhiều. Nhưng ta lại tạo nên những bất ngờ khác, quan trọng
hơn, đó là cách đánh và thời gian đánh.

48
Vấn đề đặt ra là phải đánh vào Sài Gòn như thế nào để dứt điểm nhanh, gon, chắc thắng,
nhưng trong điều kiện hai bên đều có binh lực và hoả lực rất lớn, phải đánh làm sao để thành phố
ít bị tàn phá nhất, đồng bào không bị thiệt hại nhiều về tính mạng, tài sản và cuộc sống mau trở
lại bình thường. Khi đánh thị xã Buôn Ma Thuột, ta cài thế chiến dịch, cắt các đường ứng cứu để
cô lập Buôn Ma Thuột rồi bỏ qua các lực lượng bố trí vòng ngoài phần lớn là bảo an, dân vệ để
bất ngờ đánh thẳng vào hai cơ quan đầu não của địch nằm sâu trong thị xã, đánh xong bên trong
mới toả ra diệt nốt những vị trí vòng ngoài. Nhưng ở Sài Gòn, quân chủ lực mạnh của địch lại
đứng chân ở vòng ngoài. Chúng muốn ngăn chặn từ xa 30 đến 50 ki-lô-mét cách trung tâm thành
phố, khi ta tiến công thì địch cả bên trong lẫn bên ngoài đều đã có sự chuẩn bị trước. Nếu ta bỏ
qua các sư đoàn bên ngoài để bất ngờ thọc ngay vào bên trong bằng binh lực lớn hợp đồng binh
chủng thì khó lọt, hoặc có vào được thì 5 sư đoàn bộ binh ngụy phía ngoài kéo về ứng cứu, thế
trận nhất định sẽ giằng co. Nhưng nếu ta tập trung diệt xong 5 sư đoàn địch ở vòng ngoài rồi mới
tiến vào 5 mục tiêu quy định trong thành phố thì chắc chắn sẽ kéo dài thời gian. Địch sẽ lùi về
nội thành, phá các cầu lớn, chiếm vị trí có lợi cầm cự kéo dài. Như vây ta sẽ tốn nhiều xương
máu, hao phí nhiều vật chất và khó tránh khỏi sự thiệt hại về tính mạng của nhân dân, thành phố
sẽ bị tàn phá.

Trước tình hình địch, địa hình, nhiệm vụ và yêu cầu của chiến dịch quyết chiến cuối cùng,
dựa vào lực lượng và thế trận áp đảo của ta, Bộ chỉ huy chiến dịch đã xác định cách đánh của
chiến dịch lịch sử này là: dùng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng đủ sức hình
thành bao vây, chia cắt, chặn giữ quân địch không cho rút chạy hoặc lùi dần về Sài Gòn; tiêu diệt
và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn bộ binh chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài; đồng thời dùng
đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở
đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hoá mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo
các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu đã được lựa chọn trong nội thành1. Để phối hợp
và tạo điều kiện cho các binh đoàn đột kích đó tiến nhanh vào các mục tiêu, các lực lượng đặc
công, biệt động, an ninh vũ trang và tự vệ thành phố, các lực lượng chính trị quần chúng ở Sài
Gòn - Gia Định sẽ đánh chiếm trước các cầu, các bàn đạp cho bộ đội chủ lực tiến quân, dẫn
đường cho các đơn vị, trừ gian và phát động quần chúng nổi dậy. Ta kết hợp cả ngoài đánh vào,
trong đánh ra, kết hợp quả đấm rất mạnh của chủ lực với đánh nhỏ, đánh hiểm, làm cho lực
lượng địch bị chia cắt, phân tán, tổ chức phòng ngự của chúng mất hiệu lực và nhanh chóng bị
đập tan. Ôn lại các sự kiện lịch sử tiêu biểu này, ta càng thấy rõ đó là một cách đánh chiến dịch
có hiệu lực cao để thực hiện đòn tiến công sấm sét, đánh bại mọi ý đồ chính trị và kế hoạch chiến
lược của địch ngay khi chúng còn chưa kịp triển khai, khiến quân địch đến phút cuối cùng vẫn bị
bất ngờ lớn.

Thế trận chiến dịch và cách đánh chiến dịch của ta đã đưa đến hiệu quả chiến dịch lớn nhất
trong thời gian ngắn nhất. Toàn bộ quân địch đã bị tiêu diệt và tan rã tại chỗ nhanh đến mức
không chỉ bọn ngụy tay sai mà cả Nhà trắng và Lầu năm góc cũng phải bàng hoàng, sửng sốt.

4. Ta đã thực hiện sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, các quân chủng, binh
chủng hiện đại trên địa bàn chiến dịch rộng lớn. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã thực hiện
thành công sự hiệp đồng chặt chẽ, ăn khớp, phối hợp nhịp nhàng, chủ động giữa các lực lượng,
các hướng và cánh quân, tạo nên sức mạnh tiêu diệt địch rất lớn, với nhịp độ tiến công cao chưa
từng thấy. Đó là sự phối hợp ăn ý giữa các binh đoàn chủ lực với lực lượng tại chỗ, giữa các
cánh, các mũi tiến quân, giữa các binh chủng của bộ đội binh chủng hợp thành. Đó là sự hiệp

49
đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng thủ từ xa và đột phá tuyến phòng thủ cơ bản của địch với
đánh địch trong thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế đường không;
giữa diệt bộ binh thiết giáp với chế áp tiêu diệt các trận địa pháo binh địch và bắn phá, làm tê liệt
các sân bay. Điểm rất mới trong chiến dịch này là ta đã dùng máy bay A.37 lấy được của địch để
ném bom sân bày Tân Sơn Nhất, tạo nên sự phối hợp chiến dịch giữa trên không và mặt đất, làm
cho địch choáng váng, kinh hoàng. Lần đầu tiên quân đội ta thực hiện một trân đánh hợp đồng
quân chủng, binh chủng tạm gọi là đầy đủ nhất vào một thời điểm hết sức quan trọng có tác động
lớn đến diễn biến chiến dịch. Các lực lượng, các cánh và mũi đã tiến quân nhịp nhàng, nhanh
chóng bao vây, cô lập từng mục tiêu, hiệp đồng chặt chẽ theo thời gian và mục tiêu chiến dịch.
Trong bước tổng công kích từ sáng ngày 29 tháng 4, các cánh quân từ ngoài vào và lực lượng tại
chỗ ém quân sẵn trong thành phố đã thực hiện sự phối hợp rất ăn ý. Cánh quân phía đông-bắc
của quân đoàn 4 tiêu diệt tập đoàn phòng ngự địch ở Biên Hoà, đánh chiếm và làm chủ sân bay
Biên Hoà. Cánh quân phía đông của quân đoàn 2 chiếm khu Long Bình, Nhơn Trạch, Thành Tuy
Hạ, Thủ Đức và Vũng Tàu. Cánh quân phía bắc của quân đoàn 1 tiêu diệt và đánh tan sư đoàn 5
ngụy, chiếm Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, thẳng tiến theo hướng Tổng tham mưu ngụy. Cánh quân
phía tây - bắc của quân đoàn 3 tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy, chiếm Đồng Dù, Củ Chi theo hướng
vào sân bay Tân Sơn Nhất. Cánh quân phía tây và tây - nam của đoàn 232 đánh tan 2 sư đoàn 7
và 22, chiếm Hậu Nghĩa, Đức Hoà, Tân An, Bến Lức, Thủ Thừa. Các đơn vị đặc công, biệt
động, tự vệ, an ninh vũ trang trong nội thành đã tiến công và phối hợp cùng đồng bào nổi dậy
chiếm lĩnh một số vị trí quân sự và hành chính ở cơ sở trong thành phố, góp phần nâng cao tốc
độ tiến công của các binh đoàn chủ lực từ ngoài đánh vào. Thế trận tác chiến hợp đồng rộng lớn,
chặt chẽ đó tạo cơ sở cho các binh đoàn trên các hướng ào ạt tiến vào trung tâm Sài Gòn với thế
mạnh như chẻ tre, nhanh chóng chiếm tất cả các mục tiêu chiến dịch, đè bẹp mọi sự đề kháng
cuối cùng của địch, buộc chúng phải hạ vũ khí đầu hàng. Tổ chức hiệp đồng tác chiến đã thực sự
phát huy được sức mạnh áp đảo của ta để đánh cho địch phải chịu thua và tan rã rất nhanh, ta đạt
hiệu quả chiến dịch lớn nhất, với mức tổn thất lớn nhất và tiêu phí vật chất không đáng kể. Thực
hiện được sự hiệp đồng tác chiến như vậy là một bước tiến mới của nghệ thuật tổ chức, điều
hành chiến dịch.

5. Ta đã kết hợp trên quy mô lớn ba mũi giáp công, tiến công quân sự với nổi dậy của quần
chúng, lấy tiến công quân sự làm chính và đòn tiêu diệt chủ lực giữ vai trò quyết định, phát huy
sức mạnh tổng hợp lớn nhất để giành toàn thắng trong chiến dịch quyết chiến cuối cùng. Đòn
tiến công quân sự rất mạnh, rất nhanh của ta đã thu hút, tiêu diệt và làm tan rã quân chủ lực địch,
phá vớ tuyến phòng thủ của chúng ở ngoài thành phố, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy giành
quyền làm chủ khóm phường. Vỏ cứng của địch vòng ngoài bị đập vỡ, bọn địch trong thành phố,
kể cả lực lượng vũ trang cho đến cảnh sát và bộ máy ngụy quyền các cấp đều hoang mang, tan
rã. Nhân dân ta ở nhiều khóm, phường được tổ chức và chuẩn bị sẵn từ trước, có lực lượng biệt
động, du kích, tự vệ mật và an ninh nhân dân làm nòng cốt, đã kịp thời phối hợp với lực lượng
vũ trang nổi dậy giành quyền làm chủ với những hình thức và mức độ khác nhau, phù hợp với
đặc điểm khởi nghĩa trong chiến tranh ở ngay thủ đô của địch và trong trận giao tranh cuối cùng
của cuộc kháng chiến.

Trong những ngày này, Mỹ - ngụy vẫn chủ trương ngoan cố chống đỡ hòng trì hoãn giờ
phút sụp đổ và giảm nhẹ thất bại của chúng. Tiến công quân sự của lực lượng vũ trang ta tiêu
diệt và làm tan rã những đơn vị địch phòng thủ ở vòng ngoài đã phát huy vai trò "đi trước" trực

50
tiếp thúc đẩy hành động nổi dậy của quần chúng. Nó là mũi nhọn nhất trong ba mũi giáp công ở
thành phố để tạo sức mạnh tiến công toàn diện.

Nhân dân các quận vùng ven thành phố mang cờ, đánh trống mõ, kêu gọi binh lính và cảnh
sát ngụy buông súng, truy lùng bọn lẩn trốn, tước súng địch, diện bọn tề điệp, dẫn đường cho bộ
đội. Công nhân bảo vệ nhà máy, kho tàng giao cho bộ đội. Các cơ sở chính trị cùng lực lượng tự
vệ, an ninh nhân dân nhanh chóng chiếm các trụ sở hành chính quận, phường và khối phố. Nhân
dân nhiều khu trong nội thành Sài Gòn - Gia Định được động viên tổ chức từ trước đã kịp thời
nổi dậy theo kế hoạch của Thành uỷ, dưới những hình thức và mức độ khác nhau, trên những địa
bàn khác nhau, trong những tình huống khác nhau, kết hợp với đòn tiến công quân sự. Có nơi
chủ lực chưa tiến đến hoặc ở xa các trục đường tiến quân, quần chúng nhân dân đã tranh thu thời
cơ địch tan rã, bỏ mặc hoặc bị tê liệt do tác động của đoàn tiến công quân sự, nhanh chóng nổi
dậy làm chủ. Tại nhiều điểm khác, bộ đội tiến tới đâu nhân dân nổi dậy tới đó cùng với lực lượng
vũ trang làm chủ địa bàn, thiết lập trật tự an ninh, truy quét tàn binh địch.

Hình thức, mức độ nổi dậy và dạng kết hợp của nổi dậy với tiến công quân sự như vậy phản
ánh quy luật của khởi nghĩa trong chiến tranh. Trong chiến tranh giải phóng miền Nam, cả quy
luật chiến chiến tranh và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác dụng và luôn tác động lẫn nhau,
trong đó quy luật chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định, nhất là trong bước kết
thúc chiến tranh ở trận quyết chiến cuối cùng. Bởi lẽ đó, chúng tôi nghĩ rằng những ý kiến đánh
giá quá mức vị trí và tác dụng của hành động nổi dậy, đều không phản ánh đúng hiện thực sinh
động của chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

51
TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY, NỔI DẬY VÀ TIẾN CÔNG,
TIẾN LÊN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
TOÀN THẮNG XUÂN 1975

Đại tá TỐNG HỒ TRINH

Tại Đại hội lần thứ IV, Đảng ta đã tổng kết sự vận dụng thành công phương thức tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “sử dụng bạo lực với hai lực lượng, lực lượng chính trị
của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khời nghĩa từng phần ở nông thôn và
từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; … nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi
dậy…”.

Để chứng minh sự vận dụng tài tình và sáng tạo đó của Đảng ta, dưới đây xin trình bày một
số sự kiện và tư liệu góp phần vào việc nghiên cứu quy luật vận động của phương pháp cách
mạng đồng thời là nội dung của chiến lược chiến tranh cách mạng trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân ta.

1. Tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công – phương thức cơ bản để giành thắng lợi
trong chiến tranh giải phóng miền Nam.

Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta
là lịch sử và truyền thống cả nước một lòng, chung sức dựng nước và giữ nước.

Giặc Mỹ xâm lược nước ta, bằng chính sách thực dân mới vô cùng thâm độc, chúng điên
cuồng thực hiện một cuộc chiến tranh toàn diện với những biện pháp “bình định”, “tìm diệt” vô
cùng quyết liệt, dai dẳng, hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng. Đi đôi với việc đưa quân viễn
chinh Mỹ và quân chư hầu vào xâm lược nước ta, sử dụng một khối lượng bom đạn khổng lồ,
những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất (trừ vũ khí hạt nhân), chúng xây dựng bộ máy ngụy
quyền tay sai từ trung ương xuống cơ sở, tổ chức đội quân ngụy đông đảo, hành quân đánh phá
liên miên phát triển cách mạng miền Nam.

Thực hiện chân lý vĩ đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân ta từ Nam chí Bắc đã nhất tề đứng lên, cả nước đánh giặc, toàn dân một ý chí: tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Tuy nhân dân ta vô cùng kiên cường, anh dũng, sẵn sàng nổi dậy lật đổ ách thống trị của kẻ
thù nhưng nếu không được tổ chức chặt chẽ, không có đường lối đúng đắn chỉ đạo thì không thể
có đủ sức mạnh để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Nhiệt tình của
một dân tộc là một điều vĩ đại, nhưng khi chưa kết hợp được với kỷ luật và tổ chức thì nó sẽ
không đưa lại thắng lợi trong chiến đấu”1.

Trong suốt quá trình chống Mỹ, Đảng ta luôn luôn chăm lo động viên, tổ chức quần chúng,
xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng
mạnh gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Quy luật phát triển đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta là từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp

52
đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, thực hiện làm
chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ trên cả ba vùng chiến lược, tiến lên tổng tiến công
và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn.

Đó là thực tiễn những năm 1954-1960, từ chủ trương đấu tranh chính trị, giữ gìn tích trữ lực
lượng tiến lên phát động cao trào đồng khởi, giành quyền làm chủ nhiều vùng nông thôn rộng
lớn với sức mạnh nổi dậy của quần chúng có vũ trang tự vệ hỗ trợ.

Đó là thực tiễn những năm1961-1964 và đầu năm 1965, cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên chiến tranh cách mạng, thực hiện đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị song song, đấu tranh vũ trang ngày càng được đẩy mạnh, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ. Những biện pháp của địch dồn dân lập “ấp chiến lược” bị phá vỡ, hành
quân càn quét hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng còn non trẻ, phá vỡ các cơ sở, căn cứ
cách mạng vừa nhen nhóm, đều bị đánh bại. Hàng loạt ấp chiến lược bị phá vỡ, chế độ ngụy
quyền rung chuyển dữ dội, Diệm – Nhu bị giết. Đội quân tay sai Mỹ được yểm trợ bằng không
quân, pháo binh, thiết giáp và do cố vấn Mỹ chỉ huy, đứng trước nguy cơ suy sụp sau những đòn
Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của quân và dân anh hùng.

Giữa năm 1965, Mỹ phải ồ ạt đổ quân vào miền Nam hòng cứu nguy cho ngụy, thực hiện
chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Đảng, quân đội và nhân dân ta đứng trước muôn vàn khó khăn.
Nhiều câu hỏi được đặt ra: liệu ta có thắng được quân viễn chính Mỹ không? Quân Mỹ vào tham
chiến, ta còn đấu tranh chính trị được nữa không? Có tiếp tục tiến công và nổi dậy, nổi dậy và
tiến công được không?

Đảng ta đã kịp thời phân tích và chỉ rõ: chiến tranh mà đế quốc Mỹ tiến hành vẫn là một
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Chúng vừa sử dụng quân viễn chính Mỹ, vừa sử dụng
quân ngụy và bộ máy thống trị tay sai làm hai lực lượng chiến lược. Chúng vừa sử dụng bạo lực
đàn áp, đánh phá, vừa sử dụng chính sách mị dân, lôi kéo và lừa bịp, dưới những khẩu hiệu dân
chủ, độc lập giả hiệu.

Vì thế, ta vẫn có thể sử dụng lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, tiến công và nổi dậy,
nổi dậy và tiến công, đánh cả Mỹ lẫn ngụy. Thực tế đã chỉ rõ, đế quốc Mỹ đưa quân vào càng
khơi sâu lòng căm thù đấu tranh của toàn dân tộc. Vì thế, nhân dân ta càng phát huy mạnh mẽ
lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, tiến công và nổi dậy với nhiều hình thức phong phú,
với sức mạnh tăng lên gấp nhiều lần và đã giành thắng lợi to lớn, liên tiếp trong những năm
1965-1968.

Từ những trận phủ đầu diệt Mỹ như Núi Thành, Vạn Tường, Plây Me, Đất Cuốc, Bầu Bàng,
đến các mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, quân và dân ta đã hai lần đánh bại quân viễn chinh
Mỹ có quân ngụy đi kèm, tiến hành phản công chiến lược với hàng loạt cuộc hành quân “bình
định”, “tìm diệt” quy mô lớn nhất. Ta đã làm cho quân Mỹ không những không những không
vực được quân ngụy mạnh lên mà với những chỗ yếu rất cơ bản, quân Mỹ và quân ngụy còn
giằng kéo nhau và bị đòn đau hơn. Quân Mỹ sa lầy trong thế trận lợi hại của chiến tranh nhân
dân ở miền Nam, liên tiếp bị thất bại trong các cuộc ra quân chiến lược, bị động chống đỡ trước
những đòn tiến công chính trị của quần chúng. Hai lực lượng, ba thứ quân của ta cùng đánh địch
trên cả ba vùng chiến lược.

53
Sự kết hợp chặt chẽ, sinh động giữa tiến công và nổi dậy, giữa đấu tranh chính trị của quần
chúng và tác chiến của lực lượng vũ trang được thể hiện từ những vành đai diệt Mỹ đến các thôn
xã chiến đấu, trong từng trận đánh và trong các chiến dịch, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh
bại các cuộc hành quân càn quét lớn nhất của Mỹ như Át-tơn-bơ-ro, Xê-đa-phôn, đỉnh cao là
cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti ở miền Đông Nam Bộ.

Mùa xuân năm 1968, từ tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, quân và dân ta đã tiến
hến đỉnh cao kỳ diệu Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân. Miền Nam đã cùng với
quân và dân miền Bắc giáng cho địch một đòn quyết liệt làm đảo lộn thế chiến lược và làm phá
sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.

Sau thất bại Tết Mậu Thân, Mỹ phải chuyển sang “Việt Nam hoá chiến tranh”, rút dần quân
Mỹ về, trút gánh nặng chiến tranh lại cho ngụy. Nhưng với bản chất cực kỳ tàn bạo và ngoan cố,
chúng đã tập trung đánh phá dữ dội cố giành lại vùng nông thôn. Ở đây đã diễn ra cuộc đấu tranh
chính trị có sự hỗ trợ của đấu tranh vũ trang mạnh mẽ, ra sức chống phá các kế hoạch “bình
định” của địch, giữ dân, giữ đất bảo vệ cơ sở. Trong lúc đó, bộ đội chủ lực ta tập trung giữ vững
bàn đạp đứng chân ở vùng rừng núi, tích cực tiến công, phản công cùng lực lượng tại chỗ đánh
bại các cuộc hành quân càn quét của địch hòng đẩy ta ra xa.

Chủ động và nhanh chóng khai thác sai lầm của địch phiêu lưu mở rộng chiến tranh sang
Cam-pu-chia và Lào, Đảng ta đã lãnh đạo lực lượng vũ trang và nhân dân ta phối hợp với nhân
dân cách mạng hai nước Bạn, kết hợp tiến công và nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở
Cam-pu-chia và Lào, giữ vững và củng cố các vùng nông thôn ở miền Nam Việt Nam, đẩy địch
quay về thế chống đỡ.

Không để địch kịp củng cố, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã nhanh chóng chỉ đạo
cuộc tiến công chiến lược năm 1972, đập vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự, ngăn chặn của
chúng. Cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng
máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12 năm 1972, nhân dân ta đã làm phá sản chiến
lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, buộc chúng phải ký hiệp định Pa-ri. Hy vọng hão
huyền của địch “Mỹ rút ra nhưng ngụy vẫn mạnh lên” đã tan vỡ.

Việc Mỹ rút quân đã mở ra thời cơ chiến lược cho quân và dân ta thực hiện cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1975 lịch sử, đập tan đội quân ngụy đông đảo, lật nhào chế độ tay sai
thực dân kiểu mới, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đến
thắng lợi hoàn toàn.

Qua từng bước phát triển của cách mạng miền Nam, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị đã được Đảng ta chỉ đạo kết hợp hết sức linh hoạt. Khi thì lấy đấu tranh chính trị làm chính
như giai đoạn đầu (1954-1960), khi thì thực hiện đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị song
song như trong thời kỳ tiếp sau (1961-1963), khi thì thúc đẩy đòn tiến công quân sự đi trước một
bước hỗ trợ quần chúng nổi dậy với mức độ khác nhau, coi tiến công quân sự là phương thức
quyết định nhất để tiêu diệt đội quân xâm lược, giành thắng lợi cho chiến tranh. Tuỳ theo tình
hình so sánh lực lượng giữa ta và địch trên từng vùng, trong từng thời gian, hai phương thức đã
được kết hợp nhịp nhàng, luôn luôn thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, tạo thành sức

54
mạnh tiến công tổng hợp to lớn, giáng những đòn chiến lược quyết định như Tết Mậu Thân, như
mùa xuân 1975.

Thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, địch luôn luôn sử dụng “bình định” và “tìm diệt”
làm hai biện pháp chiến lược cơ bản, nhất quán và xuyên suốt để đánh phá cách mạng, giành
dân, lấn đất. Vì thế cách mạng miền Nam phải vừa dùng sức mạnh chính trị của đông đảo quần
chúng vừa sử dụng mũi nhọn tiến công của lực lượng vũ trang nhân dân, tạo thành lực lượng to
lớn áp đảo, đánh bại kẻ thù.

Nổi dậy của quần chúng giành quyền làm chủ là một phương thức đấu tranh cơ bản và
thường xuyên của cách mạng. Nhưng do địch đã dùng chiến tranh với bộ máy quân sự to lớn,
giăng đồn bốt dày đặc, cùng đội ngũ tay sai đủ loại, thực hiện biện pháp chiến lược “bình định”,
giành dân, chiếm đất vô cùng khốc liệt, nên phải có đòn tiến công quân sự đi trước một bước
bằng những trận tiêu diệt làm rung chuyển bộ máy thống trị của địch, cổ vũ và phát động quần
chúng vùng lên đấu tranh giành quyền làm chủ.

Tiến công quân sự của lực lượng vũ trang cũng là một phương thức đấu tranh cơ bản của
cách mạng có tác dụng trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân sự của địch, giữ vai trò quyết định thắng
lợi cuối cùng của chiến tranh. Nhưng nếu không có đấu tranh chính trị rộng khắp của quần chúng
thường xuyên căng kéo địch, buộc chúng phải phân tán đối phó, sa lầy trong một cuộc đấu tranh
giành dân, thì ta cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tập trung các đội quân cơ động chiến lược
đánh những trận tiêu diệt có ý nghĩa quyết định. Mặt khác, quần chúng nổi dậy giành được quyền
làm chủ lại mở ra thế trận tiến công mới, tạo ra thuận lợi mới, làm cho lực lượng vũ trang ta lực
thêm đông, sức thêm mạnh, càng có điều kiện và thời cơ tiến lên đánh to, thắng lớn hơn nữa.

Kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công là nghệ thuật
chỉ đạo chiến tranh cách mạng tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn đánh bại đội quân xâm lược
đông đảo, có nhiều trang bị tối tân, hiện đại, giành thắng lợi tốt nhất, nhanh nhất. Những trận
chiến đấu đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ mùa khô 1965 – 1966 và 1966 –
1967, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975 là những điển hình tuyệt đẹp về nghệ thuật chỉ đạo kết hợp hai phương thức tiến
công và nổi dậy của Đảng ta.

Khéo kết hợp giữa tiến công và nổi dậy trong từng trận, từng đợt chiến đấu, nghệ thuật quân
sự Việt Nam đã có bước phát triển mới. Một loại hình chiến dịch mới đã hình thành: chiến dịch
tiến công tổng hợp đánh địch bằng cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, tiêu diệt địch và
giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng.

Nhưng vì đây là một cuộc chiến tranh nên dù “đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều
đóng vại trò cơ bản và quyết định, những đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định trong việc
đánh bại lực lượng quân sự địch, chỗ dựa của nền thống trị của chúng, làm cho cách mạng thắng
lợi”1. Đồng chí Lê Duẩn cũng chỉ rõ: “Trong quá trình cách mạng miền Nam phát triển thành
một cuộc chiến tranh quyết liệt thì đấu tranh quân sự ngày càng tăng lên và giữ một vai trò rất
quan trọng. Phải thắng địch về quân sự mới giành được thắng lợi cho kháng chiến, cho cách
mạng”2.

55
Trong việc kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, giữa tiến công và nổi dậy,
còn phải căn cứ vào so sánh thế và lực giữa ta và địch trên từng vùng chiến lược để xác định
đúng đắn vai trò của từng hình thức đấu tranh. Lúc đầu, ở vùng rừng núi thưa dân mà ta có lực
lượng vũ trang mạnh, thường lấy đấu tranh quân sự là chính. Ở vùng nông thôn đồng bằng đông
dân, xen kẽ với những vùng địch tạm thời kiểm soát, ta có nhiều vùng giải phóng, vùng làm chủ
làm chỗ đứng chân cho lực lượng vũ trang để thực hiện đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
song song. Ở vùng đô thị hoạt động vũ trang chưa có điều kiện đánh lớn, nên thường lấy đấu
tranh chính trị là chính. Nhưng chiến tranh cách mạng càng phát triển thắng lợi, trước yêu cầu
của nhiệm vụ chiến lược, nhất thiết phải đưa đòn tiến công quân sự phát triển ngày càng mạnh,
dần dần trở thành phương thức chủ yếu cả ở nông thôn đồng bằng rồi sau đó ở cả đô thị.

Trong thư gửi Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định ngày 1 tháng 7 năm 1969, đồng chí Lê Duẩn chỉ
rõ: “Đối với cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ, thành thị là căn cứ, là hậu phương quan
trọng. Hơn nữa, dù liều lĩnh và trắng trợn, đế quốc Mỹ cũng không thể không dựa vào ngụy
quyền. Vì vậy, thành thị còn là hang ổ, là đầu não của ngụy quân và ngụy quyền. Đứng về quân
sự mà xét, không đánh vào căn cứ, vào hậu phương, vào đầu não của địch thì không thể giành
được thắng lợi cuối cùng”3.

Những đòn chiến lược như Tết Mậu Thân làm chấn động dữ dội Sài Gòn, Huế và hàng loạt
thành phố thị xã khác, và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã đập tan hang ổ cuối cùng
của địch, giải phóng hoàn toàn miền Nam, là thực tiễn sinh động chứng minh sự đúng đắn của
những luận điểm trên.

2. Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy
xuân 1975

Tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị đã dự kiến xu thế phát triển tình hình là “trong khi thế và
lực của ta lớn lên thì địch càng xuống dốc cả về quân sự, chính trị, kinh tế. Ta tiến công mạnh thì
nhất định sẽ tạo ra những đột biến trong quá trình xuống dốc đó của địch”1.

Phân tích khả năng của ta, Bộ Chính trị nhận định: do lực lượng vũ trang đã giành được
quyền chủ động về chiến lược, bộ đội chủ lực của ta đã có bước trưởng thành mới, đã mạnh hơn
địch và đứng vững trên thế trân mới, nên ta có khả năng tiến công lớn để làm đòn bẩy thúc đẩy
toàn bộ cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta ở miền Nam.

Về khả năng nổi dậy của quần chúng ở miền Nam, tuy thực lực của chúng ta ở cơ sở còn
yếu, sự lãnh đạo tại chỗ chưa mạnh, nhưng một khi ta thực hành tổng tiến công, có đòn quân sự
mạnh mẽ đi trước, làm cho địch rung chuyển thì quần chúng được cổ vũ sẽ nổi dậy dưới nhiều
hình thức và mức độ khác nhau.

Vì thế, trong giờ phút lịch sử hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, Bộ Chính trị đã kết luận: “Chưa bao giờ so sánh lực lượng giữa ta và
địch lại có lợi cho ta như hiện nay. Sau khi đã đánh cho Mỹ cút, nhân dân ta đã có đầy đủ cơ sở
và điều kiện tiến lên đánh cho ngụy nhào cả trong trường hợp Mỹ liều lĩnh dùng lực lượng quân
sự trở lại xâm lược nước ta”2.

56
Về phương thức đấu tranh, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Quy luật cơ bản của chiến tranh cách mạng
hiện nay là kết hợp quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy, chiến tranh cách mạng và khởi
nghĩa vũ trang phát triển đến đỉnh cao là tổng công kích, tổng khởi nghĩa”3. Trong khi cuộc cách
mạng đang tiếp diễn ngày càng quyết liệt, quy mô ngày càng lớn, “ta cần nắm thật vững quy luật
chiến tranh là phải tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự địch, bao gồm cả lực lượng và
phương tiện chiến tranh, nhất là quân chủ lực, chỗ dựa cuối cùng của chế độ phát xít tay sai của
đế quốc Mỹ. Cũng vì vậy, nhìn toàn cục thì tổng công kích có ý nghĩa quyết định phải đi trước
một bước”4.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, lực lượng vũ trang ta mở đầu chiến dịch tiến công
Tây Nguyên bằng đòn “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, tiến lên giải phóng toàn bộ Tây Nguyên,
làm đảo lộn và rung chuyển thế trận bố trí chiến lược của địch. Tiếp đó là chiến dịch tiến công
Huế - Đà Nẵng, tiêu diệt và làm tan rã khối quân địch ở Trị - Thiên và khu 5, phát động quần
chúng nổi dậy với mức độ khác nhau, giải phóng các tỉnh duyên hải miền Trung. Chưa đầy một
tháng sau, với lực lượng quân sự áp đảo ta tiến đánh và giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử, một chiến dịch tiến công thần tốc, táo bạo, giành toàn thắng với thời gian ngắn
nhất. Bằng kết hợp tiến công và nổi dậy, hoặc nổi dậy với tiến công, bằng lực lượng tại chỗ các
tỉnh còn lại của Nam Bộ được giải phóng.

Trên một triệu quân ngụy và toàn bộ hệ thống ngụy quyền tay sai được Mỹ công phu xây
dựng trên 20 năm đã bị đập tan. Chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ sụp đổ hoàn toàn.

Sự vươn lên mạnh mẽ kỳ diệu của cách mạng, chiến thắng thần tốc, dồn dập như bão táp từ
Buôn Ma Thuột đến Sài Gòn đã làm cho bao người bàng hoàng, bỡ ngỡ. Vì thế đã có không ít
người nghĩ rằng vì quân địch quá hoảng hốt mà tự tan vỡ, hoặc do Mỹ bỏ cuộc mà ta đã thắng
quá dễ dàng (!). Cũng có người lại giải thích bằng cách nhấn mạnh những yếu tố ngẫu nhiên?

Về phía ta, có người vì quá nhấn mạnh vai trò nổi dậy của quần chúng đã đi đến đánh giá
đòn tiến công quân sự chỉ còn tác dụng hù doạ và thị uy, hay lực lượng quân sự chỉ đóng vai trò
tiếp quản! Ngược lại, có người lại chỉ thấy tác dụng của những trận đánh dồn dập của lực lượng
vũ trang làm cho đội quân ngụy tan vỡ, sụp đổ, không thấy được vai trò và sức mạnh của đòn nổi
dậy của quần chúng kết hợp với đòn tiến công quân sự, chưa thấy hết sự đóng góp to lớn của
nhân dân vào chiến thắng chung, xem quần chúng chỉ đóng vai trò cổ vũ, đón mừng chiến thắng.

Cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc đấu
tranh chính trị rộng lớn của toàn dân, một cuộc chiến tranh phát huy cao độ tinh thần cả nước
một lòng, toàn dân đánh giặc. Vì chiến tranh là hình thức cao nhất của đấu tranh giai cấp mà quy
luật là “mạnh được yếu thua” nên để đạt được mục đích chính trị của chiến tranh, cả hai bên đối
địch đều phải đem hết lực lượng và khả năng để tiêu diệt lực lượng quân sự và đè bẹp ý chí của
đối phương, quyết giành thắng lợi về mình.

Lịch sử hơn 20 năm xâm lược nước ta của đế quốc Mỹ đã chứng minh điều đó. Mỹ và tay
sai đã điên cuồng leo thang đến nấc cao nhất, đưa vào nước ta đội quân Mỹ và chư hầu đông hơn
một nửa triệu tên, đổ tiền của và vũ khí ở mức cao nhất đối với một cuộc chiến tranh cục bộ,
dùng những biện pháp huỷ diệt tàn bạo nhất trên cả hai miền Nam, Bắc nước ta hòng đè bẹp
cuộc kháng chiến của nhân dân ta, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.

57
Về phía ta, dưới sự lãnh đạo tài giỏi, dày dạn kinh nghiệm của Đảng chúng ta đã động viên
cao nhất sức người sức của cả nước, tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời của nhân dân và lực
lượng vũ trang, tranh thủ sự viện trợ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp vô cùng to lớn, đánh bại
địch từng bước, tiến lên thực hiện trận quyết chiến chiến lược lịch sử xuân 1975, đỉnh cao thắng
lợi huy hoàng nhất.

Khi đặt kế hoạch giải phóng miền Nam, kết thúc chiến tranh, tuy thấy lực lượng chính trị và
quân sự tại chỗ còn chưa đủ mạnh, nhưng nhìn trước xu thế và khả năng phát triển của cách
mạng và chiến tranh cách mạng đang bước vào thời kỳ “một ngày bằng 20 năm” nên Bộ Chính
trị, Quân uỷ Trung ương đã chỉ đạo các cơ quan, các địa phương ra sức hoàn thành mọi công tác
chuẩn bị , tạo điều kiện chín muồi tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Gần nửa triệu thanh
niên đã nhập ngũ trong 3 năm 1973-1975, cao hơn bất cứ thời kỳ nào trong chiến tranh. Lượng
vật chất vận chuyển cho chiến trường trong những năm này tăng gấp 4-5 lần so với 1972.

Khi chuẩn bị kế hoạch, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chú ý chỉ đạo phát huy cao
nhất cả tiến công và nổi dậy để đạt được sức mạnh lớn nhất, giành thắng lợi nhanh nhất, tốt nhất.
Tuy vậy, xem xét khả năng tổng khởi nghĩa, Bộ chính trị còn coi đó là một “ẩn số” cần đặc biệt
theo dõi, nhưng cũng không thể chờ đợi đủ điều kiện tổng khởi nghĩa, để mất thời cơ tổng tiến
công quân sự.

Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu vào tháng 3 năm 1975. Vì đây là vùng rừng núi thưa dân, là
chiến trường tác chiến của chủ lực, nên đòn tiến công của bộ đội chủ lực đã có tác dụng quyết
định giải phóng vùng chiến lược vô cùng quan trọng này, làm rung chuyển thế trận “mạnh hai
đầu” của địch. Ở đây đòn nổi dậy của quần chúng chỉ có mức độ, nhưng cùng với Tây Nguyên
cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn trên toàn miền Nam đã có sự phối hợp đồng đều. Đấu tranh
chính trị và phong trào nổi dậy của quần chúng căng kéo địch khắp nơi, làm cho đội quân địch
đông đến 135 vạn tên, trong đó quân chủ lực có tới 49,5 vạn tên với 13 sư đoàn bộ binh, 18 liên
đoàn biệt động quân, chừng 40 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp mà không rút ra được đủ một sư
đoàn tăng viện cho Tây Nguyên sau khi mất Buôn Ma Thuột. Chúng buộc phải rút chạy hoảng
loạn, bỏ vùng chiến lược sống còn này, mất gần như toàn bộ trang bị kho tàng, mở đầu cho sự
sụp đổ của chúng trên toàn miền Nam.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng tiếp theo mở ra trên vùng đồng bằng có nhiều đô thị lớn. Được
thắng lợi to lớn của chiến dịch Tây Nguyên cổ vũ, nhân dân từ Trị - Thiên đến Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, đã sẵn sàng nổi dậy. Các khối chủ lực đã hình thành những mũi đột kích thọc
vào các đô thị. Các cấp uỷ thành phố, thị xã đã về ngay cơ sở để lãnh đạo phong trào. Các đơn vị
địa phương, biệt động đứng chân tại các bàn đạp đã phát động quần chúng nhất tề nổi dậy. Chỉ
sau một thời gian ngắn từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 3, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu quân đoàn
1 và sư đoàn lính thuỷ đánh bộ ngụy, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địa phương và bộ máy
kìm kẹp trên bốn tỉnh, trong đó có những thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn
miền Trung Trung Bộ. Đặc biệt trong trận Đà Nẵng, đã thể hiện được kết hợp tiến công quân sự
với nổi dậy của quần chúng ở mức độ nhất định, trong tình hình nhân dân đã sẵn sàng vùng dậy
và đại bộ phận quân địch đã mất hết tinh thần chiến đấu. Do đó, số quân địch còn tới 10 vạn tên,
quân và dân ta đã tiến công kịp thời và táo bạo, nhanh chóng tiêu diệt căn cứ quân sự liên hợp

58
lớn vào bậc nhất của địch ở miền Nam. Không có sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy tạo thành
sức mạnh lớn thì khó có thể thực hiện một đòn tiến công nhanh, mạnh như vậy.

Bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta đã có điều kiện tập trung lực lượng áp đảo
quân địch, thực hiện phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Phải thực hiện một
cuộc hội quân thật nhanh, một chiến dịch tiến công hợp đồng binh chủng quy mô lớn kết hợp với
nổi dậy tại sào huyệt cuối cùng của địch để kết thúc chiến tranh.

Đạo quân đi theo ven biển đánh vào hướng đông Sài Gòn phải đập nát “tuyến phòng ngự từ
xa” của địch trong hành tiến, đã được nhân dân địa phương cung cấp một phần lương thực, xăng
dầu, phương tiện vận chuyển, nên đã tập kết chiếm lĩnh trận địa trong thời gian nhanh nhất. Nhân
dân đã làm công tác hậu cần, tiếp tế, vận tải, bảo đảm giao thông cho các đạo quân từ các hướng
tiến về Sài Gòn – Gia Định1.

Cuộc hội quân thật bất ngờ với địch. Chúng tưởng ta phải mất hai tháng, nhưng từ ngày 26
tháng 4, chúng đã bị uy hiếp từ năm hướng, trong ngoài bị chia cắt. Trước ngày nổ súng, các lực
lượng đặc công, biệt động thành đã được bố trí ở từng cơ sở, trong sự nuôi dưỡng, che chở của
nhân dân, cùng với khối lượng súng đạn, thuốc nổ đủ trang bị cho lực lượng tại chỗ tác chiến
phối hợp với lực lượng từ ngoài đánh vào. Sau hai ngày, ta đập vỡ phòng tuyến trung gian của
địch ở phía đông và tây - bắc, cắt đứt đường liên tỉnh 4. Cuộc tổng công kích trên toàn mặt trận
diễn ra như vũ bão suốt hai ngày 29 và 30 tháng 4. Các chiến sĩ quân đoàn 2 đã cắm cờ chiến
thắng lên dinh tổng thống ngụy quyền. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng đã giải phóng thành
phố Sài Gòn – Gia Định gần như nguyên vẹn.

Cùng với Sài Gòn giải phóng, tiếp ngay đó hàng triệu nhân dân các thành phố, thị xã và cả
vùng đồng bằng sông Cửu Long cùng với các hải đảo như Côn Đảo, Phú Quốc… đã vùng lên
cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ nhanh chóng đập tan mọi cố gắng chống đỡ của địch, thực
hiện xã, giải phóng xã, quận giải phóng quận, tỉnh giải phóng tỉnh. Toàn bộ lực lượng còn lại của
ngụy quân và ngụy quyền đã buộc phải đầu hàng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc bằng trận quyết chiến
chiến lược lịch sử kết hợp giữa quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy. Giai đoạn cuối cùng
của cuộc kháng chiến đã vận động đúng với quy luật của chiến tranh cách mạng Việt Nam. Tuy
nhiên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã diễn ra không có tổng khởi nghĩa - một khả
năng mà Đảng ta có dự kiến.

Một vấn đề lý luận và thực tiễn được đặt ra là có thể tiến hành tổng khởi nghĩa trong chiến
tranh được không? Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chứng minh điều đó.

Khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng có mối quan hệ thúc đẩy lẫn nhau và cùng
vận động phát triển trong những điều kiện cụ thể, có khi đồng đều hoặc không đồng đều. Vì tổng
khởi nghĩa trong chiến tranh là một vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử, nên bước vào cuộc
tổng tiến công, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã khẳng định khả năng tổng tiến công, còn
khả năng tổng khởi nghĩa thì coi là một “ẩn số” cần theo dõi. Qua chiến dịch Tây Nguyên, rồi
chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tình hình đã rõ dần. Khi chưa có đủ khả năng và điều kiện để thực
hiện tổng khởi nghĩa, lật đổ bộ máy thống trị chóp bu của ngụy quyền Sài Gòn để giành toàn bộ

59
chính quyền về tay nhân dân, phải kịp thời và táo bạo thúc đẩy đòn tiến công quân sự mạnh mẽ,
thực hành tổng công kích làm đòn xeo thúc đẩy quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ. Rõ
ràng đòn tổng tiến công quân sự đã phát huy vai trò quyết định cuối cùng. Điều đó nói lên khi
quy luật chiến tranh đã chi phối và quyết định sự phát triển thắng bại trên chiến trường thì quy
luật khởi nghĩa chỉ còn có tính chất hỗ trợ, diễn ra từng phần, ở từng địa phương với mức độ
khác nhau.

Một yếu tố khác vô cùng quan trọng để tiến hành tổng khởi nghĩa là sự ngả theo cách mạng
của quân đội địch. Ăng –ghen đã nói: “Nếu ngay cả ở trong quân đội cũng đã ló lên một bình
minh mới thì có nghĩa là sự cáo chung của thế giới cũ không còn xa nữa”1. Để thực hiện tổng
khởi nghĩa, Đảng ta cũng sớm chỉ đạo hình thành cho được mặt trận công nông binh (binh sĩ
ngụy) liên hiệp chống kẻ thù dân tộc, một nhân tố để tiến hành tổng khởi nghĩa. Nhưng trên thực
tế, trước khi sụp đổ địch vẫn còn một lực lượng lớn quân đội gồm 5 sư đoàn ở vòng ngoài, 2 sư
đoàn ở vòng trong cùng với 10 trung đoàn thiết giáp và 4 sư đoàn không quân, với đông đảo
cảnh sát chìm, nổi, tề ngụy, phòng vệ dân sự mà chúng còn nắm được khá chặt chẽ. Chúng vẫn
còn hy vọng ở sự can thiệp của Mỹ, vẫn hết sức phản động, thù địch với cách mạng.

Vì thế, lúc này phải nhanh chóng giáng đòn quân sự mạnh mẽ quyết định kết hợp với nổi
dậy của quần chúng với mức độ khác nhau trên nhiều vùng rộng lớn để kết thúc chiến tranh. Đó
là cách giải quyết đúng nhất, phù hợp với quy luật chiến tranh cách mạng nước ta.

Nhưng cũng không phải vì thế mà đánh giá thấp vai trò nổi dậy của quần chúng, phủ nhận ý
nghĩa to lớn của đấu tranh chính trị. Đương nhiên quyết định cuối cùng sự tan vỡ, sụp đổ hoàn
toàn của địch là đòn tiến công quân sự, nhưng chỉ riêng đòn quân sự cũng không thể làm cho
địch khốn đốn, bế tắc đến thế. Không có đòn tiến công chính trị, không có nổi dậy của quần
chúng ngay cả sau khi tổng thống ngụy quyền tuyên bố đầu hàng không điều kiện làm sao với
lực lượng vũ trang tại chỗ ít hơn địch cả một vùng châu thổ sông Cửu Long đã được giải phóng
chỉ trong vài ngày. Không có đòn tiến công chính trị, nổi dậy của quần chúng thì làm sao giữ
được các đô thị, các cơ sở kinh tế, văn hoá nguyên vẹn trước sự rã đám hỗn loạn của hơn ột triệu
quân ngụy và bọn phản động đủ loại.

Tóm lại, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là kết quả của quá trình
lãnh đạo của Đảng, quá trình đấu tranh lâu dài, anh dũng của quân và dân ta đã tích luỹ lực
lượng, tạo thế và thời cơ thuận lợi. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã vận dụng nhuần
nhuyễn các quy luật của chiến tranh cách mạng nước ta, nắm vững đặc điểm chiến tranh xâm
lược thực dân mới của địch vào thời kỳ cuối chiến tranh, thúc đẩy tình hình phát triển nhảy vọt
bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thần tốc đánh cho địch thất bại dồn dập đi đến sụp đổ hoàn
toàn.

60
HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC
TRONG GIAI ĐOẠN KẾT THÚC THẮNG LỢI
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

Đại tá TRẤN BƯỞI

Nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê-nin, Đảng ta cho rằng thắng lợi của
chiến tranh phụ thuộc trước hết vào những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước; trong
đó hậu phương với ý nghĩa là nền tẳng chính trị- tinh thần, là cơ sở vật chất kỹ thuật - của tiền
tuyến, đã trở thành nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi.Không có hậu phương vững chắc
thì không thể giành được thắng lợi trên chiến trường.

Vì vậy, ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết (tháng 7-1954) Trung ương Đảng đã
sớm xác định nhiệm vụ xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, đồng thời
xây dựng các vùng căn cứ miền Nam nhằm thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng trên hai
miền đất nước. Do mỗi miền thực hiện một chiến lược cách mạng trong những điều kiện khác
nhau nên khi phân tích vị trí và mối quan hệ giữa hai miền, Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương
Đảng, khóa II đã xác định: "Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh
đổ ách thống trị của đế quốc và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân"(1). Cũng tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: "Miền Bắc là cái gốc" của sự nghiệp cách mạng cả nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9 năm 1960) tiếp tục khẳng định: "...tiến hành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà"(2).

Như vậy, vai trò của miền Bắc đối với cách mạng cả nước đã được xác định rõ từ đầu. Tuy
nhiên, với quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, Đảng chủ trương vừa ra sức
củng cố và xây dựng miền Bắc về mọi mặt, vừa chú trọng xây dựng các vùng căn cứ, hậu
phương tại chỗ của chiến tranh cách mạng miền Nam.

Thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng minh chủ trương xây dựng hậu
phương trên cả hai miền là hoàn toàn đúng đắn, nhờ đó đã huy động được sức người, sức của to
lớn của cả nước để đưa sự nghiệp chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Với miền Bắc được giải phóng, nhân dân ta có những điều kiện thuận lợi để xây dựng hoàn
chỉnh một nhà nước độc lập, có chủ quyền trên một vùng lãnh thổ khá rộng, có tài nguyên phong
phú, nguồn lao động dồi dào. Có mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, được sự viện trợ và
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Để phát huy sức mạnh của miền Bắc, Đảng chủ trương phải đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Đó chẳng những là yêu cầu khách quan của xã hội
miền Bắc sau khi đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn là yêu cầu cấp bách của
cách mạng cả nước. Vì chế độ xã hội là một chế độ xã hội tiên tiến, giải phóng triệt để nhân dân
lao động, xây dựng nên quan hệ sản xuất tiên tiến, nên có thể nhanh chóng phát huy sức mạnh

61
mọi mặt, làm cơ sở vững chắc cho nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và
bè lũ tai sai, đồng thời thiết thực chuẩn bị điều kiện cho sự phát triển của cách mạng sau này.

Việc xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc trong sự nghiệp chống
Mỹ của nhân dân ta có thể phân ra hai giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất (1954-1964) là giai đoạn miền Bắc có điều kiện hoà bình để tập trung
sức khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ
thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trực tiếp chi viện cho cách mạng miền Nam bắt
đầu được thực hiện từ sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (tháng 1-
1959) và được đẩy mạnh khi cách mạng miền Nam khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến
tranh cách mạng. Tháng 1 năm 1961, Bộ chính trị nêu rõ: "Cách mạng miền Nam phát triển theo
con đường tổng khởi nghĩa với những đặc điểm mới và khả năng hoà bình phát triển của cách
mạng thì gần như không còn nữa". Do đó, cần "đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời
đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị. Tiến công địch bằng cả hai
mặt chính trị và quân sự"(1). Từ đó nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc chi viện lực lượng và
vật chất cho cách mạng miền Nam được xác định rõ và đi vào tổ chức ngày càng chặt chẽ. Chấp
hành chỉ thị của Bộ chính trị, quân đội và các ngành dân, chính, Đảng đã nghiên cứu cụ thể yêu
cầu của cuộc đấu tranh ở miền Nam để kịp thời đáp ứng, Quân đội đã thành lập trung tâm huấn
luyện và tổ chức các lực lượng đi "B", tích cực nâng quy mô hoạt động của tuyến vận chuyển
Bắc - Nam trên bộ và trên biển xây dựng từ giữa năm 1959. Cho đến cuối năm 1964, một số đơn
vị đại đội, tiểu đoàn với trên 40.000 cán bộ và chiến sĩ cùng với 3.000 tấn vũ khí đã được tăng
cường đến các chiến trường miền Nam.

Lực lượng và vật chất chi viện trong giai đoạn này chưa lớn. Miền Bắc chưa phải tiến hành
động viên khẩn trương. Nhưng tình hình quốc tế lúc đó diễn biến phức tạp. Trong khi đó yêu cầu
của cách mạng miền Nam đang cấp bách mà khả năng vận chuyển còn rất khó khăn. Do đó khối
lượng chi viên ban đầu đưa đến các chiến trường tuy còn nhỏ nhưng là vốn rất quý, đã cổ vũ
mạnh mẽ và góp phần tích cực cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
Mỹ giành thắng lợi bằng cao trào "đồng khởi" rộng lớn năm 1960, và tiếp đó làm phá sản chiến
lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ-ngụy với hàng loạt tiến công vang dội ở Ấp Bắc (1-1963),
Bình Giã (12-1964), Ba Gia sông Bé - Phước Long (5-1965).

Tranh thủ thời gian có hoà bình (1954-1964), công cuộc xây dựng hậu phương miền Bắc đã
giành được những thành tựu quan trọng, hoàn thành thắng lợi cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa làm cơ sở cho chế độ xã hội
mới; đồng thời xây dựng được một số cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Xã
hội miền Bắc đã có những thay đổi tận gốc: giai cấp công nhân phát triển lớn mạnh, nông dân trở
thành một giai cấp mới - giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa hình thành
và phát triển; mọi tầng lớp nhân dân nhất trí cao về chính trị; các dân tộc đều bình đẳng và đoàn
kết chặt chẽ trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Nền quốc phòng toàn dân được củng cố: lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng lớn
mạnh, có lục quân chính quy, tương đối hiện đại và bắt đầu có các quân chủng kỹ thuật; chế độ
nghĩa vụ quân sự được ban hành và thực hiện thắng lợi; toàn dân nâng cao cảnh giác, tích cực

62
tham gia bảo vệ trật tự trị an; lực lượng hậu bị được tổ chức và huấn luyện, dân quân tự vệ phát
triển đông đảo với trên 1,4 triệu người.

Những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc là nền tảng cho sự vững mạnh toàn diện của hậu phương, đã có sức động viên và cổ
vũ lớn lao, là chỗ dựa đáng tin cậy cho đồng bào và chiến sỹ miền Nam trong cuộc đấu tranh để
giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Trên cơ sở những thắng lợi đó, Ban Chấp hành trung ương Đảng khẳng định: "Trải qua hơn
10 năm thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã trở
thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt,
với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh"

Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 1965 đến khi giải phóng hoàn toàn miền Nam tháng 4 năm
1975. Đây là giai đoạn miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa dốc sức chi viện và cùng với
miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước gian khổ và ác liệt. Trong khoảng
thời gian này, chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã lan rộng ra cả nước ta với mức độ khác
nhau ở mỗi miền, tuy có xen kẽ từng thời kỳ địch ngừng ném bom đánh phá miền Bắc. Nhiệm vụ
chống Mỹ, cứu nước "rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam
chí Bắc"2, nên mọi hoạt động của miền Bắc đã chuyển hướng với tinh thần "Tất cả vì tiền tuyến,
tất cả để đánh giặc Mỹ xâm lược", "miền Bắc nước ta không những là hậu phương lớn của tiền
tuyến lớn miền Nam mà còn là hậu phương chung của cách mạng các nước Lào và Cam-pu-
chia".

Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề của hậu phương lớn, miền Bắc đã hai lần chuyển hướng
kinh tế, tiến hành động viên quy mô lớn và liên tục sức người, sức của để cung cấp cho tiền
tuyến, đồng thời phải chiến đấu kiên cường chống hai cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo của đế
quốc Mỹ.

Thấm nhuần lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do"
quân và dân miền Bắc đã cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam. Có bảo vệ được vững chắc miền Bắc thì mới có điều kiện xây dựng và động
viên các nguồn tiềm lực của hậu phương, tranh thủ và tiếp nhận nguồn viện trợ của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa khác để đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đồng thời làm
tốt nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Cam-pu-chia. Ngược lại, có đánh thắng địch ở
miền Nam mới tạo điều kiện để bảo vệ vững chắc miền Bắc, để xây dựng và phát triển lực lượng
cho cách mạng cả nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, quân và dân ta đã phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến
đỉnh cao, với nghệ thuật quân sự sáng tạo và có hiệu lực, đã đánh thắng rất oanh liệt hai cuộc
chiến tranh phá hoại quy mô lớn bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bắn rơi 4.181
máy bay, bắn cháy và bắn chìm 296 tầu chiến và tầu biệt kích của Mỹ - ngụy. Thắng lợi oanh liệt
này đã làm thất bại một bộ phận quan trọng trong chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của
đế quốc Mỹ, dồn chúng vào một tình thế bị động chống đỡ trên cả hai miền Nam, Bắc.

63
Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong khói lửa chiến tranh, phát triển tiềm lực về nhiều mặt, tiếp tục chi viện lực
lượng và vật chất ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời về cơ bản giữ vững đời sống nhân dân
hậu phương, bảo đảm càng đánh càng mạnh.

Nhận thức đầy đủ nghĩa vụ thiêng liêng đối với tiền tuyến lớn, hậu phương miền Bắc tiến
hành động viên rộng lớn sức người sức của để chi viện cho mặt trận. Nắm vững bản chất động
viên thời chiến dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là phát huy cao độ tinh thần làm chủ đất nước, tự
giác tham gia sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước của quần chúng mà huy động mọi nguồn
nhân lực, vật lực của đất nước, Đảng đã tiến hành giáo dục, động viên và tổ chức lực lượng toàn
dân đánh giặc, dấy lên một phong trào hành động sâu rộng của hậu phương hướng về tiền tuyến
thực hiện "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người".

Trong công tác động viên tuyển quân, việc giáo dục chính trị đi đôi với tổ chức thực hiện
Luật nghĩa vụ quân sự đã thu được thắng lợi rực rỡ. Từ năm 1965 đến 1975, hậu phương đã động
viên gần hai triệu thanh niên tham gia lực lượng vũ trang trên cả hai miền; mức động viên hàng
năm tăng từ 3 đến 5 lần so với năm 1964. Những năm có hoạt động tác chiến chiến lược lớn trên
chiến trường miền Nam (1968 - 1972 - 1975), công tác tuyển quân ở hậu phương đã thực sự là
một cuộc vận động chính trị lớn, giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động của các Đảng bộ,
chính quyền và đoàn thể.

Trong những năm chiến tranh ác liệt, ngoài nhân lực để mở rộng lực lượng vũ trang, nhu
cầu về nhân lực của nhiều ngành trực tiếp phục vụ chiến tranh cũng tăng lên khá lớn. Chỉ riêng
ngành giao thông vận tải vào một trong những năm địch đánh phá ác liệt nhất (1968), đã có trong
biên chế chính thức gần 120.000 người, chưa kể hàng vạn thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu
nước được huy động cho công tác này. Chúng ta còn động viên tới 267 triệu ngày công theo chế
độ "dân công thời chiến" hoặc nhân dân tình nguyện tham gia để bảo đảm giao thông hay phục
vụ các yêu cầu khác của quân đội (làm trận địa, sửa chữa sân bay, vận chuyển hàng bằng phương
tiện thô sơ, v.v.). Tính đến năm 1972 tổng số lao động do Nhà nước động viên đã lên tới 2,5 triệu
người, chiếm 11% dân số. Trong các năm 1968, 1972, 1975, số nhân lực động viên thường vượt
quá số lao động xã hội tăng lên trong năm1. Đó là một tỷ lệ động viên nhân lực khá cao đối với
một nước nông nghiệp như nước ta trong lúc năng xuất lao động còn rất thấp. Tài liệu tổng kết
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai cho thấy: ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Đức,
Liên Xô, phải cần từ 3 đến 5 người hoạt động ở hậu phương mới bảo đảm tăng thêm 1 người
chiến đấu ở tiền tuyến.

Do chiến tranh ngày càng ác liệt, nhu cầu về nhân lực bổ sung để bù đắp tổn thất và nâng
dần quy mô tác chiến, đã tăng lên không ngừng. Từ năm 1965 đến năm 1972, nhiều tiểu đoàn,
trung đoàn, sư đoàn đã được bổ sung cho các chiến trường; trên 67 vạn cán bộ và chiến sĩ chiếm
43% tổng quân số động viên ở hậu phương trong khoảng thời gian đó, đã vào chiến đấu ở miền
Nam hoặc trong quân tình nguyện ở Lào và Cam-pu-chia. Hậu phương lớn đã cử những con em
ưu tú của mình vào sát cánh chiến đấu cùng đồng bào, chiến sĩ miền Nam và làm nghĩa vụ quốc
tế. Nhiều gia đình đã có hai thế hệ cha - con cùng chiến đấu trên tiền tuyến lớn. Trên miền Bắc
phong trào "ba sẵn sàng" đã lôi cuốn hàng triệu thanh niên tình nguyện đến bất cứ nơi nào, làm
bất cứ việc gì Tổ quốc cần. Nhân lực, một nhân tố chiến lược quan trọng quyết định thắng lợi
của chiến tranh, đã được hậu phương đáp ứng đầy đủ và kịp thời.

64
Cùng với việc động viên nhân lực,công tác động viên nguồn vật chất ở hậu phương chi viện
cho tiền tuyến cũng đạt những kết quả to lớn. Do chiến tranh phát triển với quy mô ngày càng
lớn, khối lượng vật chất các loại hàng năm cung cấp cho lực lượng vũ trang đều tăng nhanh:
lương thực, thực phẩm, vải, hoá chất gỗ, sắt, thép, xăng dầu, xe vận tải v.v... đều tăng gấp 4 - 5
lần, thậm chí có loại gấp 10 lần so với trước chiến tranh. Riêng ô tô vận tải cấp cho quân đội
hàng năm chiếm tới 60-70% tổng số ô tô phân phối của Nhà nước.

Do nên kinh tế của chúng ta chủ yếu là nông nghiệp, công nghiệp nặng chưa phát triển,
không có khả năng giải quyết vấn đề trang bị cho quân đội, nên hầu hết vũ khí, phương tiện kỹ
thuật đều phải nhờ vào sự viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy nhiên từ
cơ sở vật chất - kỹ thuật của miền Bắc, chúng ta đã động viên được một tỷ lệ công suất của các
ngành công nghiệp, nhất là cơ khí, để phục vụ quốc phòng. Nông nghiệp trong những năm chiến
tranh bị địch đánh phá ác liệt và phải khắc phục những khó khăn lớn do thiên tai gây ra, những
nhờ có quan hệ sản xuất tập thể không ngừng được củng cố nên giá trị sản lượng về cơ bản vẫn
được giữ vững. Hàng năm Nhà nước đã huy động một khối lượng lớn lương thực và thực phẩm
để cân đối các nhu cầu ngày càng tăng của quốc phòng và dân sinh. Mức huy động lương thực từ
năm 1965 đến năm 1975 thường chiếm 15-20% tổng sản lượng lương thực hàng năm của miền
Bắc. Đây là một cố gắng lớn của hậu phương trong chiến tranh, thể hiện tình nghĩa sắt son "hạt
gạo cắn đôi, bát cơm sẻ nửa" của hậu phương đối với tiền tuyến.

Từ hậu phương lớn, vũ khí, đạn dược, thuốc men, lương thực, v.v. được chuyên trở vượt
hàng ngàn cây số dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù mới vào đến chiến trường. Để làm việc này,
hậu phương dành ra một lực lượng lớn, triển khai một hệ thống giao thông vận tải kéo dài từ các
cửa khẩu, các cảng biển ở miền Bắc, xẻ dọc dãy Trường Sơn nối tới các chiến trường. Ngày cũng
như đêm, trên mọi nẻo đường từ hậu phương đến tiền tuyến, hàng chục vạn nhân dân và bộ đội
sát cánh đánh địch, mở đường và vận chuyển với tinh thần anh dũng, bền bỉ, thông minh và sáng
tạo, bảo đảm cho chiến trường đủ súng, đủ đạn, ăn no đánh thắng. Để một tấn vật chất đến được
tay các đơn vị chiến đấu tại tiền tuyến, phải mất bao công sức, kể cả xương máu của đồng bào và
chiến sĩ hậu phương đóng góp.

Với những cố gắng phi thường đó, với nghệ thuật tổ chức bảo đảm giao thông vận tải tài
giỏi, khối lượng vật chất - kỹ thuật cung cấp cho tiền tuyến đã không ngừng tăng lên. Trong giai
đoạn chống chiến lược "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) gần 100.000 tấn vật chất đã được giao
cho các chiến trường1, gấp hàng chục lần so với giai đoạn chống chiến lược "chiến tranh đặc
biệt" (1961-1964); đến giai đoạn chống chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" (1969-1972) khối
lượng này lại gấp 1,25 so với giai đoạn trước đó.

Nhờ có nguồn chi viện to lớn và liên tục từ miền Bắc, lực lượng vũ trang nhân dân ta ở
miền Nam từ 1965 trở đi đã có bước phát triển nhảy vọt cả về số lượng và chất lượng. Trên cơ sở
đó, cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta đã liên tiếp giành được thắng lợi quyết định
trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, rồi đến đòn tiến công chiến lược năm 1972,
đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" và "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết (27-1-1973), miền Bắc có hoà bình nhưng
chiến tranh ở miền Nam vẫn chưa chấm dứt. Ngụy quyền Sài Gòn được Mỹ viện trợ và khuyến

65
khích đã điên cuồng chống phá cách mạng, mưu toan xé bỏ Hiệp định, dùng toàn bộ quân đội
vào các cuộc hành quân lấn chiếm. Sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của
nhân dân ta vẫn chưa hoàn thành.

Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng (tháng 10 năm 1973) đã tiếp tục xác định: con
đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào
ta cũng phải nắm vững thời cơ, "giữ vững đường lối chiến lược tiến công"1 nhằm đánh đổ hoàn
toàn chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu, Hội nghị lần thứ 22 của
Trung ương Đảng họp cuối năm 1973 đã xác định nhiệm vụ của miền Bắc là: "Đoàn kết toàn
dân, đấu tranh giữ vững hoà bình, ra sức tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu
của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh nhằm hoàn
thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc
tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia". Về cụ thể, phải tập trung sức khôi phục
và phát triển kinh tế trong kế hoạch hai năm 1974 - 1975, đồng thời phải chuẩn bị tích cực lực
lượng, vật chất cho nhiệm vụ giải phóng miền Nam.

Trước nhiệm vụ nặng nề của hậu phương lớn trong giai đoạn cuối cùng của sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc lúc đó đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.

Nền kinh tế quốc dân sau hai lần chiến tranh phá hoại của Mỹ đã bị tổn thất nặng nề. So với
năm 1965 tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân năm 1972 hầu như không tăng, số người
thoát ly sản xuất lại tăng cao, biên chế Nhà nước phình ra quá lớn; năng xuất lao động giảm mất
1/3, bình quân lương thực đầu người sụt thấp; nhiều ngành công nghiệp quan trọng (than, điện,
gang, thếp, xi măng...) chưa được hồi phục; đời sống nhân dân có khó hơn. Trong khi đó nhân
lực động viên cuối năm 1972 lên tới trên hai triệu người, chiếm khoảng 30% lao động xã hội2,
trong đó 70% nam giới trẻ, khoẻ. Riêng số động viên cho quân đội là gần 1,5 triệu. Tỷ lệ tuyển
quân ở xã cao nhất là trên 10% dân số, tỉnh cao nhất là 6,67%, vùng đồng bằng đông dân xấp xỉ
6,7%; trên 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân (cha, con, chồng, vợ) đang chiến đấu
trên chiến trường. Để bảo đảm sản xuất, chúng ta đã động viên số lao động nữ với tỷ lệ khá cao,
đặc biệt trên đồng ruộng phụ nữ chiếm tới 63% tổng số lao động sản xuất trực tiếp. Ngoài ra tình
hình quốc tế có diễn biến phức tạp. Nguồn viện trợ quốc tế thời kỳ này đã khác trước.

Tình hình trên đây đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với Đảng ta phải nhanh chóng khôi
phục nền kinh tế ở miền Bắc, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp giải phóng miền Nam, sớm kết thúc chiến tranh, củng cố vững chắc độc lập,
thống nhất của Tổ quốc.

Tuân theo lời dạy của V.I.Lê-nin: "Tính chất của một cuộc chiến tranh và thắng lợi của nó
đều phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bên trong của nước tham chiến"1, Đảng ta luôn coi trọng việc
củng cố xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, coi đó là nguồn gốc tạo nên sức mạnh ở hậu phương.
Trong những năm chiến tranh, Đảng không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của mình, tăng cường
nhà nước chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong sản xuất và

66
chiến đấu; tiếp tục củng cố những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là tăng cường kinh tế tập thể trong nông nghiệp, đẩy mạnh sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá mới gắn với việc đào tạo những con người mới xã hội chủ nghĩa
vừa có giác ngộ chính trị, vừa có kiến thức khoa học kỹ thuật.

Đảng bộ và chính quyền các cấp đã kết hợp chặt chẽ, thường xuyên sản xuất và chiến đấu,
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và nghĩa vụ quốc tế; vừa tiến hành động viên liên tục,
vừa chăm lo đời sống và bồi dưỡng sức dân; vừa tập trung cho nhiệm vụ chiến đấu trước mặt,
vừa chuẩn bị cho nhiệm vụ khôi phục và xây dựng sau chiến tranh. Trong công tác động viên,
chúng ta đã kết hợp chặt chẽ phương pháp động viên tập trung với động viên phân tán, phân cấp
quyền hạn động viên của trung ương và địa phương, điều chỉnh tỷ lệ động viên thích hợp đối với
vùng đông dân và nơi ít dân, vùng đồng bào dân tộc; ban hành và bổ sung các chính sách để bảo
đảm công bằng hợp lý, chú trọng chăm lo hậu phương của các cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng
vũ trang. Chính nhờ không ngừng củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt nên chúng ta đã xây
dựng được hậu phương miền Bắc vững chắc với nền kinh tế chủ yếu dựa trên hai hình thức sở
hữu toàn dân và tập thể. Đó là cơ sở để có thể chuyển hướng nhanh chóng nền kinh tế phục vụ
chiến tranh và tạo những thuận lợi cơ bản để động viên đến mức cao sức người, sức của cho tiền
tuyến. Đây là bài học quý rút ra từ thực tiễn xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương
trong 10 năm chiến tranh ác liệt (1965 - 1975).

Trong khí thế phấn khởi của quần chúng trước thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân ta ở miền Bắc ra sức lao động, khôi phục kinh tế đồng thời tiếp tục làm
nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn.

Vượt qua những khó khăn chồng chất, đến cuối năm 1974, công cuộc khôi phục kinh tế thu
được những thành tựu đáng phấn khởi. So với năm 1965, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân tăng trên 1,3 lần, tổng sản lượng lương thực tăng 75 vạn tấn, năng xuất lúa bình quân 5,2 tấn
trên một héc-ta gieo trồng. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 1,5 lần, riêng ngành cơ khí
tăng hai lần, các ngành điện, gang, thép, vật liệu xây dựng ... đang phục hồi nhanh. Hệ thống
giao thông vận tải được khôi phục gấp và làm mới một số công trình, đưa tổng khối lượng vận
chuyển tăng 1,5 lần; đời sống nhân dân bớt khó khăn.

Cùng với những kết quả khôi phục và phát triển kinh tế, trong 2 năm 1973 - 1974, miền Bắc
tiếp tục động viên thêm 25 vạn thanh niên vào lực lượng vũ trang, bổ sung cho các chiến trường
15 vạn quân; tích cực chuyển hàng vạn thương binh, bệnh binh từ các chiến trường về hậu
phương để điều trị và giải quyết chính sách. Nhằm gấp rút chuẩn bị cho thời cơ chiến lược,
chúng ta đã tổ chức các quân đoàn chủ lực cơ động với số quân vũ khí và phương tiện kỹ thuật
được bổ sung đầy đủ.

Miền Bắc tiếp tục động viên từ nền kinh tế trên một triệu tấn lương thực, chiếm 18% tổng
sản lượng lương thực năm 1974. Hậu phương đã huy động hơn 60% năng lực vận tải để vận
chuyển cho các chiến trường nhằm gấp rút lập dự trữ cho các hướng chiến lược. Đến cuối tháng
9 năm 1974, trên 33 vạn tấn vật chất các loại đã được giao cho các chiến trường1. Có thể nói
chưa bao giờ chúng ta có một lượng vật chất dự trữ lớn như vậy trước khi mở cuộc tiến công
chiến lược. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng vì trong hai năm 1973 - 1974, khối lượng viện
trợ quân sự đã giảm nhiều so với trước, đặc biệt là các loại đạn pháo lớn.

67
Trước sự chuyển biến nhanh chóng trên chiến trường và kết quả chi viện của hậu phương về
vật chất, kỹ thuật, đầu tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị đã phân tích so sánh lực lượng giữa ta và
địch và kết luận: "Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện
đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới thống nhất Tổ quốc"2. Trên
cơ sở đó Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1975, thực hiện
nhiệm vụ giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử này,
Bộ Chính trị quyết định: "Động viên lực lượng mọi mặt của cả nước, đoàn kết nhất trí triệu
người như một, đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, hy sinh phấn đấu, anh dũng tiến lên với một
tinh thần quyết chiến, quyết thắng rất cao"3, đồng thời nhấn mạnh phải nắm vững khi có thời cơ
đột biến thì chiến tranh cách mạng có thể phát triển với tốc độ "một ngày bằng 20 năm"; lúc đó
ta phải đánh nhanh hơn, giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Đầu tháng 3 năm 1975, chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy trên toàn chiến trường miền Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ ngày 4 đến ngày 24 tháng
3 năm 1975, quân và dân ta đã giành được thắng lợi rất to lớn, giải phóng toàn bộ vùng cao
nguyên chiến lược quan trọng, tạo nên một chuyển biến quyết định trong cục diện chiến tranh.
Ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm
chống Mỹ, cứu nước, chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này", và hạ quyết tâm hoàn thành nhiệm
vụ giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Để tranh thủ thời gian, phải kiên quyết tập
trung lực lượng và phương tiện, hành động táo bạo, bất ngờ, không cho địch kịp trở tay. Bộ
Chính trị nhắc nhở Hội đồng chi viện tiền tuyến phải khắc phục mọi khó khăn, khẩn trương động
viên mọi lực lượng và vật chất của miền Bắc chi viện nhanh nhất, đủ nhất cho tiền tuyến lớn.

Cả hậu phương sôi động và phấn khởi hướng ra tiền tuyến. Các đoàn xe nối đuôi nhau theo
tuyến đường chiến lược Bắc - Nam ở cả tây và đông Trường Sơn toả đến các chiến trường, tăng
cường kịp thời cho các binh đoàn chủ lực tiến quân thần tốc, giành thắng lợi to lớn trong chiến
dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, các tỉnh ven biển miền Trung và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Chỉ trong 4 tháng từ tháng 1 đến tháng 4 năm
1975, hậu phương lớn đã bổ sung cho chiến trường trên 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật
chất các loại. Từ miền Bắc Đảng và Chính phủ còn cử hàng vạn cán bộ dân, chính, đảng đến các
vùng mới giải phóng để tăng cường cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng, bảo đảm nhanh
chóng ổn định đời sống của nhân dân. Vào giai đoạn cuối của chiến tranh chống Mỹ, về nhân lực
và vật chất sử dụng trên chiến trường, ta thấy: trên 80% quân số của lực lượng vũ trang, 81% vũ
khí và đạn dược, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải là do nguồn bổ sung từ hậu
phương lớn; 61% quân trang, 77% lương thực, gần 90% thực phẩm là do khai thác tại chỗ, trong
đó có nguồn do nhân dân đóng góp, nguồn tăng gia sản xuất tự túc và nguồn thu mua trong vùng
địch tạm chiếm.

Những số liệu trên đây chứng tỏ vai trò cực kỳ quan trọng của hậu phương trong chiến
tranh. Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: "Không thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt 16 năm
qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội
nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ
hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và

68
giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa
vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội"

69
QUÂN KHU 5 ĐỘNG VIÊN, TỔ CHỨC VÀ
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG TẠI CHỖ
CÙNG BINH ĐOÀN CHỦ LỰC ĐÁNH THẮNG ĐỊCH

Đại tá TRẦN NGỌC QUẾ và Đại tá TRẦN QUÝ CÁT

Sau Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, mặc dù đã thất bại phải rút quân, đế quốc Mỹ vẫn ngoan
cố tiếp tục chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, sử dụng ngụy quân, ngụy quyền Sài
Gòn thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" theo công thức "quân ngụy + viện trợ kinh
tế quân sự và cố vấn Mỹ". Chúng lấy "lấn chiếm, bình định" làm biện pháp chiến lược hàng đầu
và huy động hầu hết lực lượng chủ lực, địa phương và các binh chủng vào hoạt động này.

"Lấn chiếm" và chống "lấn chiếm", "bình định" và chống "bình định" diễn ra ngày càng gay
gắt, quyết liệt trên toàn chiến trường miền Nam trong đó có quân khu 5. Nhiệm vụ trung tâm
trước mắt của quân khu lúc này là "chống bình định, lấn chiếm; giành dân, giữ dân, giành quyền
làm chủ".

Dưới ánh sáng Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng (tháng 10 năm 1973), được sự chỉ
đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, trên cơ sở nắm vững quy luật chiến tranh
cách mạng Việt Nam và từ kinh nghiệm đánh bại các chiến lược chiến tranh trước đây của đế
quốc Mỹ, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ đã sớm thống nhất và kiên định phương hướng
chiến lược: "Vừa sử dụng lực lượng cần thiết để đánh bại "lấn chiếm, bình định", giữ vững vùng
giải phóng, vừa tập trung sức chuẩn bị điều kiện và thời cơ cho đánh lớn, diệt lớn, thực hành
nhiều chiến dịch tiến công, góp phần cùng toàn miền Nam đánh cho ngụy nhào, kết thúc chiến
tranh".

Với phương hướng chiến lược đúng đắn đó, sau một quá trình tích trữ lực lượng, chuẩn bị
chiến trường, với sự chi viện tích cực của trên, quân và dân khu 5 xây dựng được một lực lượng
tại chỗ mạnh. Nhờ vậy mùa xuân năm 1975, quân và dân khu 5 đã có thể vừa hoàn thành nhiệm
vụ chia cắt chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trên đường 19, phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công
ở Nam Tây Nguyên, vừa độc lập mở chiến dịch tiến công tiêu diệt địch ở Tiên Phước, Phước
Lâm, và khi thời cơ xuất hiện đã kịp thời đẩy mạnh tiến công giải phóng Tam Kỳ - Quảng Ngãi,
tạo thế bao vây cô lập Đà Nẵng; sau đó phối hợp với binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ thực
hành tiến công và nổi dậy mạnh mẽ giải phóng thành phố Đà Nẵng, cùng các thành phố, thị xã,
các tỉnh phía nam khu 5.

Một trong những nguyên nhân khiến cho quân và dân khu 5 có thể giành được thắng lợi là
do đã động viên và tổ chức được lực lượng tại chỗ mạnh, đã kịp thời huy động và tập trung sức
mạnh đó trong thời điểm quyết định, vào địa bàn quan trọng nhất để phối hợp với binh đoàn cơ
động chiến lược của Bộ, thực hiện phương châm "nhanh chóng nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất
và chắc thắng", giành chiến thắng giòn giã. Đây là một vấn đề lớn và phong phú, trong bài này
chỉ đề cập một số điểm.

70
1. Tạo thế, tạo lực, tạo điều kiện cho đánh lớn, diệt lớn quân cơ động của địch.

Trong bước kết thúc chiến tranh, vấn đề quyết định thắng lợi là tiêu diệt lực lượng vũ trang
địch, trước hết là khối chủ lực ngụy, và đánh chiếm các vị trí chiến lược, các thành phố lớn.
Muốn thế phải xây dựng quả đấm chủ lực mạnh trên nền tảng thế trận chiến tranh nhân dân vững
chắc.

Sau Hiệp định Pa-ri, quân Mỹ buộc phải rút về nước; so sánh lực lượng giữa địch và ta đã
có sự thay đổi cơ bản có lợi cho ta. Khi quân địch ra sức phá hoại Hiệp định Pa-ri, gây chiến
tranh trở lại, thì quân chủ lực địch, các thành phố lớn mà địch còn tạm chiếm là đối tượng chủ
yếu và mục tiêu cuối cùng phải giải quyết để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.

Quán triệt ý định chiến lược đó, mặc dù có mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu tác chiến và xây
dựng do nhiệm vụ chống lấn chiếm, bình định đặt ra, ngay từ năm 1973 và suốt cả năm 1974, Bộ
tư lệnh Quân khu 5 vẫn kiên trì kế hoạch tích luỹ, xây dựng lực lượng nhằm tạo thế, tạo lực,
chuẩn bị cho việc thực hiện quyết tâm chiến lược, trong đó nổi bật lên vấn đề sau:

a. Củng cố tổ chức, tăng cường trang bị, nâng cao hiệu xuất chiến đấu của cả ba thứ
quân.

Ngay từ đầu năm 1973, mặc dù phải sử dụng từng bộ phận lực lượng tham gia chống bình
định, lấn chiếm, quân khu đã kiên quyết rút chủ lực ra khỏi các trọng điểm phòng ngự. Với sự
chi viện tích cực của Trung ương, riêng trên chiến trường đồng bằng ven biển khu 5, ta đã củng
cố xong các sư đoàn 2 và 3, thành lập lữ đoàn 52, hình thành các sư đoàn và lữ đoàn mạnh có
trung đoàn pháo cơ giới và tiểu đoàn pháo cao xạ; xây dựng xong 2 sư đoàn pháo cơ giới, 1 trung
đoàn thiết giáp, 1 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn thông tin, 2 trung đoàn công binh.

Lực lượng tập trung các tỉnh cũng được củng cố và tăng cường trang bị vũ khí. Các tỉnh đều
có tiểu đoàn trợ chiến gồm ĐKZ 72, cối 120 và 82mm. Từ cuối năm 1974 lực lượng tập trung
các tỉnh trọng điểm được tổ chức thành trung đoàn địa phương.

Tuy phải bổ sung một phần cho chủ lực và bộ đội tập trung tỉnh, huyện, số lượng du kích
toàn khu cuối năm 1974 là 41 nghìn, trong đó đã tổ chức được 50 trung đội và 70 tổ du kích đặc
công, 120 đội và tổ du kích công binh.

Trên cơ sở làm chủ, đội quân đấu tranh chính trị, binh vận cũng được củng cố, phát triển.

Song song với việc củng cố và xây dựng về mặt tổ chức, công tác huấn luyện bộ đội, trước
hết là đội ngũ cán bộ rất được coi trọng. Tháng 10 năm 1974, quân khu uỷ xác định: "trên cơ sở
thế mạnh tuyệt đối về tinh thần và chính trị, các lực lượng vũ trang ta phải giỏi hơn hẳn quân
địch để tiêu diệt và đánh bại đội quân ngụy tay sai do Mỹ trang bị và chỉ huy qua hệ thống cố
vấn. Phong trào rèn luyện nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu năm
1973, nâng cao hiệu suất và chất lượng chiến đấu năm 1974 đã thực sự đưa trình độ tác chiến của
các lực lượng vũ trang khu 5 lên một bước mới. Nhờ các định phương hướng đúng đắn và rèn
luyện tốt, biết vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật chủ yếu của từng loại quân, cùng với

71
trang bị kỹ thuật được cải tiến, riêng các sư đoàn, lữ đoàn chủ lực của quân khu tăng gấp hai, ba
lần trước đây.

b. Giữ vững các bàn đạp tiến công, xây dựng thế trận tiến công, hình thành thế áp sát
các mục tiêu then chốt, các địa bàn trọng yếu.

Chiến trường khu 5, nhất là chiến trường đồng bằng ven biển dài và hẹp, rừng núi, đồng
bằng, đô thị nằm sát bên nhau, có nơi xen kẽ với nhau. Điều này thuận lợi cho ta trong việc hình
thành thế áp sát, uy hiếp cũng như tiến công vào các mục tiêu trọng yếu, các tuyến giao thông
chiến lược của địch. Nhưng quân địch cũng có điều kiện thường xuyên đánh phá, lấn chiếm các
bàn đạp tiến công, phá hoại kho tàng, cắt đứt các đường vận chuyển tiếp tế và cơ động của ta.

Một cuộc tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch để xây dựng thế trận mình, phá thế trận tiến
công của đối phương, đã diễn ra suốt cả năm 1973 và nửa đầu năm 1974.

Mọi âm mưu nham hiểm và thủ đoạn đánh phá ác liệt của địch nhằm chiếm các bàn đạp
xung yếu, cắt đứt, phá hoại hoặc ngăn cản việc thiết bị chiến trường, xây dựng hệ thống đường
cơ động của ta đã thất bại. Tất cả các bàn đạp tiến công của ta đều được giữ vững. Hệ thống
đường cơ giới dài 977km được thiết lập với trục dọc nối liền từ bắc Công Tum đến bắc Buôn Ma
Thuột, tây Quảng Đà - tây Quảng Nam đến tây Quảng Ngãi - bắc Bình Định, bắc Công Tum qua
Cô Xia đến tây Quảng Nam, nối liền hai chiến trường Tây Nguyên và đồng bằng ven biển, bắc
Công Tum qua Đắc Đoa tiếp giáp với đường 19. Ngoài các trụ dọc còn có 11 trục đường ngang.

Song song với tuyến đường cơ động, đã xây dựng đường ống dẫn dầu, đường thông tin dây
trần và thông tin tiếp sức. Đến đầu năm 1975, ống dẫn dầu đã vào đến Bến Giàng (tây Quảng
Đà); việc liên lạc bằng thông tin hữu tuyến và thông tin tiếp sức được nối liền từ khu 5 ra Hà
Nội.

Đường cơ giới mở thông, việc chi viện của hậu phương lớn cho chiến trường càng thuận lợi.
Chỉ riêng năm 1973, Trung ương đã chi viện cho khu 5 một khối lượng vũ khí, đạn dược, thuốc
men bằng tổng số chi viện năm 1974 còn lớn hơn năm 1973. Bước vào cuộc tổng tiến công nổi
dậy xuân 1975. Quân khu 5 đã có hàng trăm pháo mặt đất, hàng trăm pháo cao xạ, gần 100 xe
tăng, thiết giáp, gần 1000 xe vận tải và trên 6.500 tấn vũ khí ở các đơn vị và hệ thống kho trạm
của quân khu.

Một hệ thống kho tàng, các trạm sửa chữa vũ khí, ô tô, các bệnh viện, bệnh xá được triển
khai xây dựng trên các hướng cũng như trên toàn tuyến chiến dịch.

Trên cơ sở hệ thống đường sá, kho tàng đã được thiết bị, quân khu từng bước hình thành thế
bố trí lực lượng. Từng cụm lực lượng bao gồm sư đoàn hoặc lữ đoàn bộ binh, pháo binh, cao xạ,
xe tăng, công binh, lần lượt được triển khai trên những vị trí cơ động ở tây Quảng Đà, tây Quảng
Ngãi, bắc Bình Định, từ đó có thể nhanh chóng tổ chức tiến công vào những mục tiêu đã được
xác định.

72
c. Phá vỡ từng khu vực, phòng ngự của địch, cải thiện và hoàn chỉnh thế trận tiến
công.

Tuy ta đã thành công trong cuộc tranh chấp quyết liệt để giữ vững và xây dựng thế trận tiến
công, nhưng quân địch cũng đã thực hiện được kế hoạch "lấn chiếm bình định" của chúng ở mức
độ nhất định. Hệ thống chốt điểm của địch dày đặc, thế trận ở một số vùng nông thôn đồng bằng
của ta gặp khó khăn. Mặt khác, địch còn giữ được một số căn cứ, bàn đạp dọc các trục hành lang
cơ động hoặc cắm sâu trong vùng căn cứ của ta.

Để cải thiển thế chiến trường, đồng thời để kiểm tra, chất lượng các đơn vị sau một thời
gian nỗ lực xây dựng, được Bộ tăng cường một bộ phận chủ lực, quân khu đã mở chiến dịch tiến
công tổng hợp nhằm đánh bại một bước quan trọng kế hoạch lấn chiếm, bình định của địch, thu
hồi và mở rộng vùng giải phóng ở nông thôn đồng bằng, đồng thời tiêu diệt các cụm cứ điểm
địch còn cắm sâu trong vùng giải phóng, vùng căn cứ của ta.

Với thắng lợi rực rỡ trong xuân - hè - thu 1974, tiêu diệt và bức rút trên 300 cứ điểm, quét
sạch tất cả cụm cứ điểm, chỉ khu quân sự, quận lỵ còn lại của địch trong vùng giáp ranh và vùng
rừng núi từ phía bắc thị xã Công Tum trở ra, ta đã hoàn chỉnh vùng giải phóng rộng gấp 2 vạn ki-
lô-mét vuông, tạo ra một căn cứ địa an toàn, vững chắc. Từ khu căn cứ, lực lượng ta sẽ tiến vào
phía nam uy hiếp Công Tum, Plây Ku và xa hơn nữa xuống nam Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột,
hoặc tràn sang phía đông, đánh chiếm vùng đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
thực hiện chia cắt địch về chiến lược. Mặt khác cùng với việc chiếm lĩnh toàn bộ địa hình rừng
núi, đẩy quân địch ra khỏi vùng giáp ranh, quân ta đã thực sự ở thế đứng rất vững chãi và có lợi.
Một số đô thị quan trọng của địch như Quảng Ngãi, Chu Lai, Tam Kỳ và Đà Nẵng đã nằm trong
tầm pháo của ta.

Qua đợt hoạt động này, trình độ chiến đấu của các lực lượng vũ trang ta đã có bước phát
triển mới; chủ lực quân khu diệt gọn được các cụm phòng thủ chỉ khu quận lỵ, đánh tiêu diệt
từng trung đoàn quân ngụy đi giải toả; lực lượng địa phương các tỉnh có thể tiêu diệt và phá vỡ
từng mảng hệ thống chốt điểm, giải phóng từng khu vực liên xã, liên huyện, đánh bại hành quân
giải toả của liên đoàn bảo an hoặc chiến đoàn quân chủ lực ngụy.

Như vậy là với phương hướng chiến lược đúng, biện pháp tổ chức thực hiện kiên quyết và
linh hoạt, lại được sự chi viện tích cực của trên, sau gần hai năm nỗ lực phấn đấu, quân và dân
khu 5 xây dựng được một lực lượng tại chỗ mạnh, hình thành một thế trận tiến công vững chắc
và đến cuối năm 1974, đã sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược.

2. Kiên quyết tập trung lực lượng ở hướng trọng điểm, đồng thời đẩy mạnh tiến công
trên toàn chiến trường; tổ chức các khu chiến của lực lượng địa phương thành thế trận liên
hoàn chặt chẽ với khu chiến của chủ lực.

Lực lượng địch ở chiến trường đồng bằng ven biển miền Trung có 4 sư đoàn, 3 liên đoàn
biệt động quân, 4 thiết đoàn xe tăng thiết giáp, 16 tiểu đoàn và 5 đại đội pháo (không kể không
quân). So sánh lực lượng địch-ta thì về bộ binh, địch 1,9/ta 1; về pháo và xe tăng thiết giáp, địch
từ 3-5/ta 1. Nếu tính riêng chiến trường trọng điểm Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi thì về

73
bộ binh, địch 2,2/ta 1. Vấn đề đặt ra làm thế nào để có ưu thế chiến dịch, nhất là phải có ưu thế
lực lượng hơn hẳn địch trong các trận đánh then chốt để giành thắng lợi nhanh và gọn.

Trong thế bố trí "nặng hai đầu, nhẹ ở giữa" của địch lúc bấy giờ, nếu bị đánh mạnh trên toàn
miền Nam thì rõ ràng địch không có khả năng tăng viện từ các nơi đến. Với lực lượng tại chỗ,
khả năng cao nhất của địch tập trung vào một khu biến là 4-5 trung đoàn bộ binh và 1-2 chi đoàn
xe tăng, thiết giáp. Trong trường hợp buộc phải rút quân dù đi chi viện cho nơi khác thì khả năng
đó còn thấp hơn. Về ta, sau khi sư đoàn 3 vào đánh cắt đường số 19 phối hợp với chiến dịch Tây
Nguyên, quân khu đã giao nhiệm vụ đánh địch ở từng chiến trường chủ lực còn lại gồm 1 sư
đoàn, 1 lữ đoàn, 1 trung đoàn và phần lớn binh khí kỹ thuật đều tập trung vào khu trọng điểm
chiến dịch (tây Tam Kỳ). Như vậy so sánh lực lượng bộ binh khi bước vào chiến dịch, trên
hướng trọng điểm sẽ là ta 1/ địch 1.

Để tạo ra ưu thế hơn hẳn địch ở hướng trọng điểm chiến dịch, quân khu đã cho thực hiện
hai biện pháp lớn.

Một là, do bị uy hiếp mạnh bởi thế trận của ta tạo ra sau hè - thu 1974, lực lượng chủ lực
địch ở ba tỉnh nam quân khu 1 địch buộc phải giãn ra đối phó với ta ở Thượng Đức (Quảng Đà),
tây Quế Sơn (Quảng Nam), Nghĩa Hành - Minh Long (Quảng Nghãi) và trên vành đai bảo vệ Đà
Nẵng. Quân khu chủ động mở trước các chiến dịch tiến công tổng hợp của chiến tranh nhân dân
địa phương để nghi binh, kiềm giữ, buộc chủ lực địch phải đối phó với các lực lượng địa phương
ta ngay tại khu vực đang đứng chân, tạo điều kiện cho chủ lực ta tập trung trên hướng chủ yếu và
bất ngờ tiến công địch.

Hai là, sử dụng các trung đoàn tập trung của Quảng Ngãi tổ chức khu chiến đánh cắt giao
thông trên đoạn Đốc Sỏi (giữa Chu Lai và Quảng Ngãi) với nhiệm vụ lức đầu giữ chặt không cho
sư đoàn 2 ngụy từ Quảng Ngãi ra ứng cứu cho Tam Kỳ, sau đó theo mệnh lệnh của quân khu mở
cửa cho từng trung đoàn địch đi vào khu chiến theo ý định của chiến dịch.

Dùng các tiểu đoàn tập trung của Quảng Nam thọc xuống vùng đông Thăng Bình diệt địch,
giành quyền làm chủ, kéo trung đoàn 2 của sư đoàn 3 ngụy xuống và giữ lại ở đó.

Trung đoàn tập trung của Quảng Đà mở khu chiến ở Gò Nổi và đường số 100 diệt địch, tiếp
tục kiềm chân sư đoàn 3 (thiếu) của địch tại địa phương.

Tình hình đã diễn ra đúng như ý định chiến dịch của ta. Từ đầu tháng 3 năm 1975, chiến
dịch tiến công tổng hợp của các địa phương bắt đầu. Chủ lực địch bị kiềm giữ tại chỗ, ta triển
khai lực lượng chiến dịch trên hướng chủ yếu hoàn toàn bí mật bất ngờ.

Ngày 10 tháng 3 năm 1975, trong khi ở nam Tây Nguyên ta tiến công thị xã Buôn Ma
Thuột, thì chủ lực của quân khu 5 với ưu thế lực lượng hơn hẳn địch đã tiến công tiêu diệt và phá
vỡ hoàn toàn cụm phòng ngự, cơ bản Tiên Phước - Phương Lâm, lá chắn trực tiếp bảo vệ cho thị
xã Tam Kỳ; chiếm giữ và khống chế toàn bộ các điểm cao phía tây Tam Kỳ, hình thành thế trận
sẵn sàng đánh tiêu diệt từng trung đoàn chủ lực ngụy vào ứng cứu.

74
Quân địch hốt hoảng vội vã điều lực lượng về ứng cứu. Nhưng theo đúng kế hoạch, sau khi
"thả" cho trung đoàn 5 đi qua, lực lượng địa phương Quảng Ngãi đã khoá chặt lực lượng còn lại
của sư đoàn 2 ngụy tại chỗ. Ở Quảng Nam, trung đoàn 2, sư đoàn 3 ngụy vừa rục rịch cơ động
cũng bị lực lượng ta kéo xuống vùng đông và giam chân tại đó. Trong lúc đó sư đoàn 3 (thiếu)
cũng bị lực lượng Quảng Đà giữ lại.

Ngoài trung đoàn 5, sư đoàn 2, quân địch chỉ đưa thêm được đến tây Tam Kỳ liên đoàn 12
biệt động quân.

So sánh lực lượng tại khu trọng điểm chiến dịch trong thời điểm này, về bộ binh, ta 2,5/địch
1.

Khống chế được địa hình có lợi và dựa vào ưu thế binh lực hơn hẳn địch, ta chủ trương tập
trung lực lượng đánh tiêu diệt hoặc đánh thiệt hại nặng làm mất sức chiến đấu từng trung đoàn
chủ lực, tiêu diệt và đánh cạn lực lượng chủ lực cơ động ngụy đi ứng cứu, tạo ra thời cơ trực tiếp
giải phóng Tam Kỳ - Quảng Ngãi, thực hiện chia cắt địch về chiến lược đồng bằng ven biển.

Ngày 21 tháng 3, sau hơn 6 giờ tiến công áp đảo, ta đã đánh thiệt hại nặng cả trung đoàn 5
và liên đoàn 12 biệt động quân ngụy. Quân địch lại phải vét lực lượng để tăng cường phòng thủ
Tam Kỳ nhưng chúng cũng chỉ có thêm được một trung đoàn, vì "cánh cửa" bắc Quảng Ngãi của
ta đã khoá chặt sau khi cho trung đoàn 4 ngụy đi qua, trong lúc các đơn vị khác vẫn bị giam chân
tại chỗ.

Lúc này tình hình tác chiến chung đang phát triển như vũ bão và rất thuận lợi cho ta. Toàn
bộ lực lượng ở Tây Nguyên đã bị tiêu diệt, chủ lực ta từ phía tây đang tràn xuống các tỉnh phía
nam quân khu. Ở phía bắc, ta đã giải phóng Quảng Trị và đang từ ba mặt bao vây tiến công địch
ở Thừa Thiên Huế.

Tuy chủ trương đánh tiêu diệt lực lượng cơ động ngụy mà chủ yếu là sư đoàn 2 ngụy, mới
được thực hiện một phần, nhưng thời cơ đã xuất hiện, việc giải phóng Tam Kỳ, Quảng Ngãi đã
trở thành một khả năng thực tế và cấp bách. Toàn bộ lực lượng dự trữ của quân khu được tung
vào chiến đấu.

Ngày 24 tháng 3, ở phía bắc sư đoàn 2 của ta đột phá vào Tam Kỳ, trung đoàn 36 đánh
chiếm quận lỵ, Lý Tín, chia cắt giữa Tam Kỳ và Chu Lai. Hai tiểu đoàn tập trung của Quảng
Nam từ đông Thăng Bình vòng về phía nam, hình thành mũi vu hồi lợi hại từ phía đông đánh lên.
Ở phía nam, trong lúc lữ đoàn 52 (thiếu) cùng 3 tiểu đoàn đặc công và một bộ phận pháo binh,
thiết giáp của quân khu phối hợp với hai tiểu đoàn tập trung tỉnh tiến công vào thị xã Quảng Ngãi
thì trung đoàn địa phương 94 bao vây tiêu diệt các đơn vị cơ động còn lại của quân ngụy đang
tìm đường tháo chạy về Chu Lai. Quần chúng khắp nơi nổi dậy giành quyền làm chủ và kêu gọi
địch bỏ vũ khí về với nhân dân.

Trên thế áp đảo quân địch, đến 11 giờ ngày 24 tháng 3 ta đã hoàn toàn làm chủ thị xã Tam
Kỳ và 23 giờ 30 cùng ngày giải phóng thị xã Quảng Ngãi, tiêu diệt sư đoàn 2, 2 liên đoàn biệt
động, 2 thiết đoàn của ngụy.

75
Như vậy là với một lực lượng chủ lực ít hơn địch, nhưng do khéo tổ chức và kết hợp các lực
lượng, các khu chiến của chủ lực và địa phương, ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của
chiến tranh nhân dân, tạo được ưu thế lực lượng hơn hẳn địch trong các trận then chốt. Kết quả
đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động của quân khu 1 ngụy, thực hiện chia cắt
quân địch về chiến lược trên chiến trường đồng bằng, cô lập Đà Nẵng về phía nam, góp phần tạo
ra thời cơ tiêu diệt lực lượng còn lại của quân khu 1 địch.

3. Chuyển hướng tiến công ra Đà Nẵng, kiên quyết bỏ qua các mục tiêu thứ yếu, tiến
thẳng đến mục tiêu chủ yếu.

Chiến dịch tiến công của quân khu trên hướng Tam Kỳ - Quảng Ngãi lúc đầu mang tính
chất địa phương, nhằm phối hợp chiến trường chung và giành một thắng lợi quân sự cục bộ, tạo
lực tạo thế, tạo thời cơ cho các chiến dịch tiếp theo. Dựa vào thế tiến công chung trên toàn chiến
trường miền Nam, chiến dịch đã phát triển thuận lợi, giành thắng lợi lớn trong thời gian ngắn, và
cùng với thắng lợi chung, tạo ra thế bao vây chia cắt, cô lập căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng từ
ba hướng bắc, tây, nam. Đà Nẵng trở thành mục tiêu phát triển tất yếu của chiến dịch giải phóng
Thừa Thiên Huế ở phía bắc và chiến dịch giải phóng Tam Kỳ - Quảng Ngãi ở phía nam; chiến
dịch tiến công của quân khu trên hướng Tam Kỳ - Quảng Ngãi mặc nhiên trở thành một bộ phận
của chiến dịch lịch sử Huế - Đà Nẵng.

Đà Nẵng là căn cứ quân sự liên hợp lớn thứ hai của Mỹ ngụy ở miền Nam. Đến ngày 25
tháng 3, do tăng thêm đám tàn quân từ Trị - Thiên dồn vào, tổng quân số địch ở Đà Nẵng lên đến
10 vạn tên, trong đó có 15 tiểu đoàn quân chủ lực và 15 tiểu đoàn bảo an. Tuy nhiên trong quân
ngụy tư tưởng thất bại tràn lan, phần lớn bọn sĩ quan chỉ lo cứu bản thân và gia đình, hàng ngũ
địch bắt đầu hỗn loạn.

Tranh thủ và tận dung thời cơ, phát triển tiến công trong hành tiến với tốc độ cao là thành
công lớn của quân khu trong nghệ thuật chỉ huy ở cánh phía nam của chiến dịch này.

Chiếu 24 tháng 3, khi trận tiến công giải phóng Tam Kỳ còn chưa kết thúc, quân khu đã ra
mệnh lệnh sơ bộ cho các đơn vị phát triển về hướng Đà Nẵng, và ngay đêm đó hạ quyết tâm giải
phóng Đà Nẵng, theo cách đánh tiến công phát triển nhanh để phối hợp với hai cánh quân phía
bắc và phía tây của Quân đoàn 2. Bỏ qua các mục tiêu thứ yếu, tập trung lực lượng đánh thẳng
vào Đà Nẵng, quyết tâm đó hoàn toàn phù hợp với ý định của trên. Ngày 25 tháng 3, quân khu
nhận được điện của Bộ Tổng tham mưu: "Tiến công nhanh Đà Nẵng bằng lực lượng tại chỗ có
thể huy động được, không chờ lực lượng trên tăng cường. Vấn đề mấu chốt là diệt quân đoàn 1
ngụy và sư đoàn lính thủy đánh bộ, không cho chúng rút lui co cụm về Sài Gòn".

Mờ sáng ngày 28 tháng 3, cùng với hai mũi tiến công của quân đoàn 2, từ phía bắc vào và
phía tây xuống, toàn bộ lực lượng chủ lực của quân khu ở hướng trọng điểm (sư đoàn 2, trung
đoàn 36, lữ đoàn 52) và 2 trung đoàn tập trung tỉnh Quảng Đà hình thành một mũi tiến công
mạnh, từ hướng nam theo trục đường 1 đánh ra Đà Nẵng.

Hòng làm chậm bước tiến của ta để quân của chúng có thêm thời gian tháo chạy, bọn chỉ
huy quân ngụy vội vã cho máy bay đánh sập cầu Bà Rén và cầu Lâu, đồng thời hình thành nhiều
chốt chặn dọc đường 1. Nhân dân ở hai bờ sông Thu Bồn đã huy động ngay hàng trăm thuyền

76
chở bộ đội vượt sông nhanh chóng, an toàn. Nhân dân ở dọc đường số 1, kể cả nhân dân thành
phố Đà Nẵng, đã huy động hàng trăm xe đủ loại để chở bộ đội tiến công. Các đơn vị được nhân
dân giúp đỡ đã vượt qua bọn chốt chặn, thọc thẳng vào Đà Nẵng.

Tốc độ tiến công nhanh, sức mạnh tiến công áp đảo, hành động thọc sâu kiến quyết táo bạo
của lực lượng chủ lực quân khu, hiệp đồng chặt chẽ với hai cánh quân của binh đoàn cơ động
của Bộ và hành động nổi dậy giành quyền làm chủ của nhân dân, đã làm cho quân địch không
kịp đối phó và tan vỡ rất nhanh. Chỉ đến 12 giờ trưa ngày 29 tháng 3, ta đã đánh chiếm xong các
mục tiêu then chốt: sân bay, sở chỉ huy quân đoàn 1, toà thị chánh, quân vụ thị trấn, đài phát
thanh; đến 15 giờ chiếm xong quân cảng và các mục tiêu trên đỉnh Sơn Trà, giải phóng hoàn toàn
thành phố Đà Nẵng.

* *

Một trong những nét tiêu biểu của nghệ thuật quân sự Việt Nam là sự kết hợp chặt chẽ giữa
chiến tranh nhân dân địa phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, giữa lực lượng cơ
động và lực lượng tại chỗ nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng địch.

Tổ chức, xây dựng lực lượng tại chỗ mạnh, kịp thời huy động và tập trung sức mạnh của lực
lượng đó cùng với các binh đoàn chủ lực giành thắng lợi trong mùa xuân 1975 là một thành công
và cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của quân và dân khu 5.

Đó là một quá trình chuẩn bị, tích luỹ về nhiều mặt để tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ. Đó là sự
kết hợp giữa thế trận chung và thế trận riêng của từng địa phương tỉnh, huyện cùng với thế nổi
dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân đứng lên làm chủ địa phương, thực hành ba mũi giáp
công tạo thành một thế trận tiến công liên hoàn hiểm hóc, căng kéo kìm giữ địch, làm cho lực
lượng chúng đông mà hoá ít, còn sức mạnh của ta thì được nhân lên gấp bội đã mạnh càng mạnh
thêm, nhanh chóng đè bẹp mọi sức kháng cự của địch, giành thắng lợi triệt để.

77
TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

Thiếu tướng PHẠM BÂN

Quảng Nam - Đà Nẵng là một tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung, nằm giữa đất nước,
cách Hà nội và Sài Gòn một quãng đường gần bằng nhau; rộng 12.000km2, rừng núi chiếm 3
phần 4 diện tích, thành phố Đà Nẵng rộng 95km2. Dân số trước ngày giải phóng là 1.400.000
người, riêng thành phố Đà Nẵng có 480.000.

Quảng Nam - Đà Nẵng có ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. Đà
Nẵng là một trong những thành phố lớn có hải cảng, sân bay, đường giao thông thuỷ bộ, là một
căn cứ quân sự liên hợp lớn của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Mùa thu 1974, sau khi quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đánh bại một bước lấn chiếm,
bình định của địch, sư đoàn 2 Quân khu 5 tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Nông Sơn - Tuy
Phước, sư đoàn 304 thuộc Quân đoàn 2 tiêu diệt chi khu Thượng Đức và đánh lùi tất cả các cuộc
phản kích của địch, kể cả của sư đoàn dù tổng dự bị của quân ngụy Sài Gòn. Các sư đoàn chủ lực
của ta đã tạo bàn đạp vững chắc trên các địa bàn quan trọng, hỗ trợ cho bộ đội địa phương và
dân quân du kích, thu hồi và mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch lùi về phòng thủ. Lực lượng của
ta cài thế sát nách ở vùng ven thành phố, thị xã.

Đầu năm 1975, sư đoàn dù ngụy còn bị giam chân tại Thượng Đức, đến khi ta giải phóng
Tây Nguyên mới rút vào Nam Bộ, sư đoàn thuỷ quân lục chiến từ Huế vào Đà Nẵng thay thế.
Thường xuyên địch có 2 sư đoàn bộ binh (các sư đoàn 2 và 3) và liên đoàn biệt động số 12 cơ
động trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Trước ngày giải phóng, trên chiến trường này
địch có 3 sư đoàn và 1 liên đoàn, tổng số lên tới 50.00 tên, và 30.000 địa phương quân. Ngoài ra
còn có 1 sư đoàn không quân với 200 máy bay, 1 sư đoàn pháo binh với 150 khẩu pháo, 5 chi
đoàn thiết giáp với 100 xe, 534 cư điểm 250 khu dồn dân.

Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng với truyền thống "Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt
Mỹ", trong mùa xuân 1975 đa anh dũng vùng lên, cùng với quân và dân cả nước kết hợp tiến
công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn Quảng Nam - Đà Nẵng.

1. Tiến công giải phóng Tiên Phước, Tam Kỳ - tiến công và nổi dậy giải phóng nông
thôn đồng bằng.

Quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị giải phóng hoàn toàn miền Nam, dưới sự
chỉ đạo của Thường vụ khu uỷ, căn cứ vào nhiệm vụ cơ bản được giao và mệnh lệnh của quân
khu, tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng hạ quyết tâm và xác định phương hướng nhiệm vụ trong
năm 1975 là: "Động viên nỗ lực của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong tỉnh kiên quyết tiến
công và nổi dậy đều khắp, đánh bại về cơ bản âm mưu bình định, lấn chiếm của địch, giải phóng
đại bộ phận nông thôn đồng bằng, tạo thế chia cắt bao vây địch, tiến lên giành chính quyền về
tay nhân dân". Phương án cụ thể là: trong giai đoạn đầu sử dụng toàn bộ lực lượng địa phương
phía nam phối hợp với chủ lực quân khu mở chiến dịch tiến công và nổi dậy trên hướng chủ yếu
Tiên Phước - Tam Kỳ; lực lượng địa phương phía bắc (Quảng Đà) phối hợp với sư đoàn 304 tiến

78
công và nổi dậy tập trung ở trọng điểm vùng trung và tây Duy Xuyên, trung Điện Bàn, vùng B
Đại Lộc; thành phố Đà Nẵng đưa đấu tranh chính trị lên cao trào.

Ngày 10 tháng 3, trong khi chủ lực ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột thì trên chiến trường
Quảng Nam - Đeà Nẵng, sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 quân khu 5 tiến công tiêu diệt các mục tiêu
then chốt; Suốt Đá, cao điểm 211, tiến đánh chi khu quận lỵ Tiên Phước, bao vây bức rút chi khu
Phước Lâm; lực lượng địa phương đánh phá các đồn ấp chiến lược, hỗ trợ quần chúng nổi dậy
bung về làng cũ và cùng địa phương vây bắt, gọi hàng toàn bộ quân địch ở Tiên Phước, giải
phóng hoàn toàn quận Tiên Phước với 21.000 dân.

Mất Tiên Phước, Phước Lâm, tuyến phòng thủ của địch ở tây Tam Kỳ bị phá vỡ, sườn phía
tây thị xã Tam Kỳ bị uy hiếp. Địch phải đưa liên đoàn biệt động quân số 12 và trung đoàn 5 sư
đoàn 2 vào phản kích.

Cùng với lực lượng địa phương, sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 chủ lực quân khu 5 đã đánh lùi
nhiều đợt phản kích, chặn đánh địch trên tuyến Kỳ Long, Kỳ Ngọt (tây Tam Kỳ), giữ vững địa
bàn Tiên Phước, Phước Lâm, Trung đoàn 5 ngụy bị đánh thiệt hại nặng. Địch phải tăng cường
lực lượng, cùng liên đoàn biệt động quân số 12 lập tuyến ngăn chặn ở phía tây thị xã Tam Kỳ.

Phối hợp với chủ lực của quân khu, các tiểu đoàn tập trung Quảng Nam và du kích hai
huyện Thăng Bình, Tam Kỳ nổ súng tiến công tiêu diệt một loạt cứ điểm, giải phóng các xã tây
Thăng Bình, mở bàn đạp đưa lực lượng thọc sâu xuống vùng đồng bằng hỗ trợ cho quần chúng
tiến công và nổi dậy giải phóng lại vùng đông huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, đưa lực lượng áp sát
vào phía đông hiệp đồng với sư đoàn 2 quân khu 5 hình thành thế bao vây thị xã Tam Kỳ, triệt
đường địch tháo chạy ra biển. Ở phía tây một tiểu đoàn của tỉnh phối hợp với trung đoàn 38 và
một bộ phận xe tăng của quân khu tiến đánh Tuần Dưỡng, cắt đường 1, không cho địch tháo
chạy ra Đà Nẵng.

Trên hướng tiến công của bộ đội chủ lực, ngày 21 tháng 3, sư đoàn 2 và lữ đoàn 52 (thiếu)
của quân khu 5 tiến công đánh tan trung đoàn 5 ngụy. Địch phải điều trung đoàn 4 từ Quảng
Ngãi ra thay, cùng liên đoàn điều động quân số 12 cố sức ngăn chặn ở tây Tam Kỳ.

Ngày 24 tháng 3, sư đoàn 2 được pháo binh và xe tăng quân khu chi viện, tiến công tiêu diệt
các cứ điểm then chốt, phá tung tuyến phòng thủ của địch, hình thành các mũi tiến công vào giải
phóng thị xã Tam Kỳ lúc 11 giờ.

Lực lượng địa phương sau khi hoàn thành đánh cắt đầu Kỳ Phú, triệt đường tháo chạy của
địch ở phía đông, đã hỗ trợ quần chúng nổi dậy, tham gia truy lùng vây bắt tàn quân địch, giải
phóng toàn bộ vùng đông Tam Kỳ - Thăng Bình.

Đến ngày 28 tháng 3, lực lượng địch gồm có sư đoàn 2 ngụy, liên đoàn biệt động quân số
12 và toàn bộ quân chiếm đóng (trên 35.000 tên) đã bị tiêu diệt, tan rã tại chỗ, các huyện phía
nam hoàn toàn được giải phóng.

Cùng với mũi tiến công quân sự và nổi dậy ở phía nam, lực lượng địa phương, dân quân du
kích kết hợp với quần chúng nổi dậy tiến công quân địch, giải phóng các huyện phía bắc.

79
Tin giải phóng Tây Nguyên vang tới làm địch ở đây dao động, núng thế, quần chúng đã xáp
vào tiến công, kết hợp pháo kích, bắn tỉa, bao vây với gọi loa kêu gọi địch đầu hàng, phá vỡ
tuyến phòng thủ của địch, buộc chúng phải tháo chạy từ Chiêm Sơn đến núi Song Sử tây Duy
Xuyên. Ta đưa tối hậu thư vào đồn Kiểm Lâm, Gò Om buộc địch đầu hàng. 9 giờ ngày 28 tháng
3, quần chúng đã tràn vào chiếm quận lỵ Đức Dục, giải phóng 6 xã tây Duy Xuyên; đến 15 giờ ta
giải phóng huyện Duy Xuyên.

Ở huyện Đại Lộc, sau khi sư đoàn 304 giải phóng xong vùng B, lực lượng địa phương, du
kích đánh địch dọc đường Giao Thuỷ, Ái Nghĩa, diệt và bức hàng hàng trăm tên. Quần chúng
xáp vào vây đồn Ái Nghĩa, địch tháo chạy. Huyện Đại Lộc được giải phóng trưa 28 tháng 3.

Ở Điện Bàn, từ những ngày 27, 28 tháng 3, du kích đã hỗ trợ quần chúng dùng gậy gộc,
giáo mác vây ép đã tiến công, kêu gọi địch đầu hàng ở các đồn Bồ Bồ, Trùm Giao, Bình Long,
Nông Sơn, Trảng Nhật, đưa tối hậu thư buộc địch giao đồn.

Ở Hoà Vang, các xã Hoà Bình, Hoà Lương, Hoà Phong đã vây bức rút quận Hiếu Đức, bắt
sống tên quận phó, giải phóng khu vực này.

Ở quận lỵ Hoà Vang, chiều 28 tháng 3 địch khuân tài liệu ra đường chất lên xe tháo chạy,
quần chúng xáp vào vậy lại, buộc chúng phải bỏ quận, bỏ tài liệu mà chạy. Hoà Vang hoàn toàn
giải phóng. Đến chiều 28 tháng 3, vùng nông thôn các huyện phía bắc về cơ bản đã được giải
phóng, quân và dân ta hình thành thế bao vây áp sát thành phố Đà Nẵng.

Chủ lực của khu mở cuộc tiến công trên hướng Tiên Phước - Tam Kỳ. Bằng sức đột phá
mạnh, ta đã phá vỡ từng tuyến phòng thủ kiến cố của địch, tiêu diệt nhiều mục tiêu then chốt.
Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, ta đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của
địch, tiêu diệt, làm tan rã một phần quân cơ động của ngụy, giải phóng chi khu quận lỵ, thị xã,
tạo điều kiện cho lực lượng địa phương tiêu diệt phần lớn địa phương quân và lực lượng kìm kẹp
của địch, giải phóng vùng nông thôn đồng bằng. Quần chúng nhân dân có điều kiện nổi dậy tham
gia vây bắt quân địch, truy lùng ác ôn, phá các khu đồn, bung về làng cũ. Tiến công quân sự ở
đây giữ vị trí trọng yếu. Kết hợp với quần chúng nổi dậy tạo thành sức mạnh tổng hợp tiến công
quân địch, làm cho chúng nhanh chóng tan rã và thất bại.

Quân khu 5 chủ trương chọn hướng tiến công chiến dịch ở Tiên Phước - Tam Kỳ là chính
xác. Tiến công trên hướng này ta vừa tận dụng được thời cơ chiến lược do chiến thắng Tây
Nguyên tạo ra, vừa phát huy được kết quả chiến đấu ở chiến trường, tạo thời cơ trực tiếp trên địa
bàn tỉnh, chia cắt, bao vây, cô lập địch ở Đà Nẵng. Chọn Tiên Phước để đánh trận đầu chiến
dịch, ta đã đánh vào chỗ hiểm yếu của địch trên một thế hoàn toàn có lợi, thời cơ giải phóng Tam
Kỳ, Đà Nẵng.

Lực lượng vũ trang địa phương mở cuộc tiến công thọc sâu vào vùng đồng bằng hình thành
thế vậy chặt ở thị xã Tam Kỳ, tạo điều kiện trực tiếp cho quần chúng nổi dậy là hành động táo
bạo dũng cảm, làm cho thế chiến dịch phát triển, đưa đến thắng lợi giòn giã.

80
2. Tiến công và nổi dậy giải phóng thành phố Đà Nẵng.

Trên đà thắng lợi to lớn, dồn dập, tình hình chiến trường phát triển hết sức mau lẹ. Tây
nguyên đã hoàn toàn giải phóng. Quân ta phát triển thế trận tiến công giải phóng các tỉnh đồng
bằng khu 5 (Quảng Ngãi, Quảng Nam) Trị - Thiên, Huế.... Địch ở Đà Nẵng bị cô lập. Tình hình
bên trong thành phố càng trở nên hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu cố sức kêu gào "tử thủ Đà Nẵng
với bất cứ giá nào". Bộ tổng tham mưu ngụy cấp tốc chuyển 20.000 khẩu sức ra tăng cường cho
Đà Nẵng, nhưng không tài nào cứu vãn được tình thế. Các sư đoàn 1, 2, các liên đoàn biệt động
quân 11, 12 ngụy đã bị tiêu diệt và tan rã. Quân đoàn 1 ngụy mất sức chiến đấu. Quân ngụy ở Đà
Nẵng lúc đó còn có sư đoàn 3, sư đoàn thuỷ quân lục chiến và lực lượng địa phương quân, cộng
với tàn quân các nơi dồn về, tổng số lên tới 10 vạn tên. Dân ở Đà Nẵng cũng tăng lên gần 1 triệu
người làm cho thành phố càng thêm rối loạn. Địch bắt đầu dùng máy bay di tản gia đình các sĩ
quan và nhân viên ngụy quyền.

Quân ta trên các hướng đang tiến vào Đà Nẵng: quân đoàn 2 từ phía bắc vào, sư đoàn 304
(quân đoàn 2) từ phía tây nam xuống, sư đoàn 2 (quân khu 5) từ phía nam ra. Các trận địa pháo
của ta sẵn sàng nhả đạn. Lực lượng địa phương áp sát thành phố. Quần chúng vùng ven đã nổi
dậy, chặn đường tước vũ khí địch. Quần chúng bên trong thành phố và các uỷ ban khởi nghĩa sẵn
sàng hành động.

Từ phương án cơ bản ban đầu "đánh bại bình định, lấn chiếm của địch, giải phóng đại bộ
phận nông thôn đồng bằng" giải phóng Đà Nẵng. Thường vụ Khu uỷ và Bộ tư lệnh quân khu chỉ
đạo giải phóng Đà Nẵng theo phương hướng phát triển tiến công nhanh và nổi dậy mạnh mẽ của
quần chúng. Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh đã nhanh chóng chuyển hướng tư tưởng và tổ chức,
khẩn trương triển khai thực hiện, tập trung lực lượng quân sự, tổ chức đội ngũ đấu tranh chính trị
và nổi dậy của quần chúng, hoàn thành các mặt công tác bảo đảm.

Về tổ chức lực lượng, ngoài trung đoàn 96, tỉnh còn thành lập trung đoàn 97 bộ binh, 29
liên trung đội du kích xã làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy. Bên trong, các quận đã củng cố
phát triển cơ sở chính trị, lực lượng tự vệ và biệt động thành. Quận có 200 tự vệ và biệt động vũ
trang. Ta đã hình thành hệ thống tổ chức lực lượng nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo đến các khu phố,
phường, khóm, xí nghiệp, bến cảng, sân bay, trong các tổ chức quần chúng học sinh, sinh viên....
Ngày 26 tháng 3, đồng chí Trần Hưng Thừa, uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ, bí thư quận uỷ 1 đã được
cử vào thành phố trực tiếp chỉ đạo lực lượng bên trong, chuẩn bị cho quần chúng nổi dậy, đã
chuyển 40 ban cán sự thành các uỷ ban khởi nghĩa, từ hoạt động bí mật chuyển sang hoạt động
công khai, nửa công khai, phân công cán bộ phụ trách từng mục tiêu cụ thể, sẵn sàng đánh chiếm
các cơ quan đầu não của địch, phá nhà lao, giải thoát tù chính trị, bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp,
bệnh viện, cơ sở y tế, vận động gia đình cơ sở may cờ cách mạng v.v..

Tình hình bên trong Đà Nẵng sôi động, địch suy sụp rất nhanh. Quần chúng vùng ven nổi
dậy bao vây, bức hàng, bức rút các đồn bốt địch trên các tuyến hành lang và trục giao thông. Tại
trung tâm huấn luyện Hoà Cẩm, được nhân dân bên ngoài chi viện, cơ sở nội ứng bên trong gồm
1 thiếu uý và 10 binh sĩ đã nổ súng vào bọn chỉ huy quân trường, tạo điều kiện cho 3.000 tân
binh làm binh biến, chạy về với nhân dân.

81
Để đẩy mạnh tốc dộ tan rã của địch, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy mạnh mẽ hơn nữa, sáng
ngày 28 tháng 3 pháo binh quân đoàn 2 và quân khu 5 bắt đầu bắn vào các căn cứ lớn của địch;
sân bay Đà Nẵng, sở chỉ huy quân đoàn 1 Vĩnh Điện, bán đảo Sơn Trà. Cầu hàng không đã bị cắt
đứt, các đường tháo chạy của địch cũng bị khống chế. Quần chúng xáp vào tiến công, vận động
binh lính tháo chạy và đầu hàng để bảo toàn tính mạng. Hơn 10 nghìn nhân dân huyện Điện Bàn
đã xuống đường, tay gậy tay dao chặn đường, vận động, uy hiếp, làm tan rã địch, không cho
chúng dồn về Đà Nẵng. Trước sức mạnh áp đảo của nhân dân, trên 2.000 binh lính và sĩ quan
của sư đoàn 3 buộc phải hạ vũ khí. Nhân dân Hoà Hải quận 3 đã dùng gậy gộc đuổi bắt hàng
trăm tên lính thuỷ quân lực chiến ngoan cố.

22 giờ ngày 28 tháng 3, đồng chí Thừa gửi điện báo cáo với Thường vụ tỉnh uỷ: "Ngô
Quang Trưởng tư lệnh quân đoàn 1 đã bỏ chạy ra tàu chiến. Thành phố gần như bỏ ngỏ, đề nghị
đưa lực lượng vào ngay kết hợp với lực lượng bên trong nổi dậy. Trong thành phố chúng tôi đã
phát lệnh khởi nghĩa rồi, không chờ đến ngày 31".

Theo phương án và kế hoạch đã hiệp đồng, đến ngày 28 tháng 3 các đơn vị hành quân vào
vị trí áp sát vùng ven thành phố trên các hướng tiến công. Ở Hội An, nhân dân nổi dậy và đưa
200 thuyền ra chở bộ đội vào giải phóng thị xã. Sáng ngày 29 tháng 3, quân ta trên các hướng có
xe tăng, pháo binh chi viện, tiến vào Đà Nẵng.

Ở phía nam, sư đoàn 2 vượt qua các sông Bà Rén, Câu Lâu, Trung đoàn 38 đánh chiếm chi
khu Điện Bàn, thị trấn Vĩnh Điện, tiến ra Đà Nẵng.

Trung đoàn 1 được tăng cường tiểu đoàn xe tăng phối hợp với trung đoàn 96 địa phương và
đội biệt động Lê Độ, thành hai mũi tiến công vào Đà Nẵng. Trung đoàn 1 vượt sông Cầm Lệ
đánh chiếm Bộ tư lệnh sư đoàn không quân, sân bay Đà Nẵng (lúc 12 giờ). Đồng thời một bộ
phận bộ binh và xe tăng theo đường số 1 ra ngã ba - Huế tiến vào trung tâm thành phố, đánh
chiếm quân vụ thị trấn, tiền tuyến cảnh sát, toà thị chính Đà Nẵng (lúc 12 giờ 30). Trung đoàn 96
cùng đại đội đặc công và biệt động Lê Độ vượt bến đò Xu đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 1
(12 giờ) và tiến quân theo đường Bạch Đằng đến toà thị chính bắt liên lạc với trung đoàn 1.
Trước đó, tổ tự vệ do Phan Sĩ Thân chỉ huy, đã chiếm giữ và treo cơ sở ở đây lúc 10 giờ.

Bên trong thành phố, các uỷ ban khởi nghĩa đã vận động nhân dân nổi dậy phá nhà lao, giải
thoát 700 tù chính trị ra tham gia khởi nghĩa. Nhân dân đổ xô ra đường đón quân giải phóng.
Quận 1 huy động hàng trăm xe chở bộ đội và các đồng chí lãnh đạo của ta vào thành phố. Nhân
dân xáp vào tiến công áp đảo, kêu gọi quân địch bỏ vũ khí ra hàng. Nữ chiến sĩ biệt động
Nguyễn Thị Huệ chỉ huy 2 tổ biệt động đánh chiếm đài phát thanh Đà Nẵng. Uỷ ban khởi nghĩa
cùng 100 công nhân nhà máy Liên Trì đứng lên làm chủ nhà máy, treo cờ cách mạng, buộc chủ
nhà máy ra trình diện và tiếp tục làm việc, bảo đảm cung cấp điện không ngừng. Các cơ sở y tế,
bệnh viện, không cho địch và kẻ xấu lợi dụng cướp phá, tiếp tục cứu chữa bệnh nhân, phục vụ
kịp thời cho nhân dân và lực lượng vũ trang. Công nhân, tự vệ cùng với quần chúng nổi dậy kết
hợp với lực lượng vũ trang làm chủ tình hình ở bến cảng, bến xe, ga tàu, nhà máy xí nghiệp.

Trung đoàn 38, sau khi đánh chiếm Vĩnh Điện, đã nhanh chóng tiến ra phối hợp với trung
đoàn 97 địa phương tiến theo ven biển đánh chiếm căn cứ Non nước (lúc 10 giờ) sân bay Nước

82
Mặn (11 giờ 30), kho An Đồn, căn cứ thuỷ quân lục chiến ở Mỹ Khê, căn cứ hải quân và bắt liên
lạc với cánh quân của quân đoàn 2 đánh chiế Sơn Trà.

Anh em tù chính trị ở nhà lao Non Nước, được sự hỗ trợ của lực lượng quần chúng bên
ngoài, nổi dậy phá nhà lao, tham gia vây bắt tàn quân địch. Nhân dân xã Hoà Hải nổi dậy cùng
bộ đội vây bắt bọn ác ôn. Chị Phan Thị Nghĩ, cơ sở nồng cốt, dẫn đầu quần chúng ra chặn
đường, ngăn xe tăng địch, kêu gọi binh lính đầu hàng và đã hy sinh do trúng đạn địch. Nhân dân
xã Hoà Hải đổ xô ra biển chặn địch lại kêu gọi đầu hàng, Hơn 3.000 tên thuỷ quân lục chiến đã
nộp súng đầu hàng.

Hơn 4.000 nhân dân phường An Thượng, khu phố An Hải nổi dậy diệt bọn tàn quân, kéo ra
đón quân giải phóng. Ở Nại Hiên Đông, quần chúng nổi dậy làm tan rã 2 tiểu đoàn thủ quân lục
chiến.

Sư đoàn 304 (quân đoàn 2) từ hướng tây nam cùng với bộ đội địa phương Đại Lộc tiến
nhanh theo đường 14, đánh chiếm Ái Nghĩa, Tuý Loan, Hoà Cầm rồi tiến thẳng vào Đà Nẵng,
bắt liên lạc với trung đoàn 1, sư đoàn 2 tại sân bay Đà Nẵng.

Các đơn vị khác thuộc quân đoàn 2 từ phía bắc nhanh chóng vượt đèo Hải Vân đánh chiếm
Nam Ô, Thuỷ Tú, cảng Phú Lộc, một đơn vị bộ binh và xe tăng tiến vào Ngã ba Huế xuống Đà
Nẵng, qua cầu Trịnh Minh Thế, bắt liên lạc với trung đoàn 38, đánh chiếm bán đảo Sơn Trà.

Phối hợp với toàn chiến trường Miền Nam, sau 32 giờ chiến đấu với cách đánh táo bạo
trong thời cơ lịch sử, bỏ qua các mục tiêu thứ yếu, tiến thẳng vào mục tiêu chủ yếu là Đà Nẵng
các lực lượng vũ trang (cả chủ lực và địa phương) tại mặt trận Đà Nẵng kết hợp với quần chúng
nổi dậy đã tiêu diệt và làm tan rã 10 vạn quân địch, xoá sổ quân đoàn 1, quân khu 1 ngụy đánh
chiếm toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp của Mỹ-ngụy, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng
ngày 29 tháng 3 năm 1975, góp phần đẩy địch lao nhanh đến thất bại và sụp đổ hoàn toàn.

Cuộc tiến công và nổi dậy ở Quảng Nam - Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi nhanh chóng, trọn
vẹn, vượt xa dự kiến ban đầu cả về thời gian, không gian và quy mô. Quân và dân Quảng Nam -
Đà Nẵng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cùng với các binh đoàn chủ lực của Bộ và quân khu
tiêu diệt và làm tan rã quân địch về mặt chiến lược, phá âm mưu co cụm của chúng, góp phần
xứng đáng vào Đại thắng mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn Miền Nam.

83
TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975
Ở MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Thiếu tướng TRẦN HẢI PHỤNG

Dưới ánh sáng nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng tháng 10 năm 1973,
Nghị quyết Quân uỷ Trung ương Đảng tháng 3 năm 1974. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của
Trung ương cục miền Nam và Nghị quyết tháng 5 năm 1974 của Quân uỷ Miền Nam, quân và
dân miền Đông và miền Tây Nam Bộ liên tục tiến công trong mùa khô 1973-1974 và cả trong
mùa mưa năm 1974, giành thắng lợi to lớn và toàn diện. Trên chiến trường miền Đông, quân và
dân ta giành được quyền chủ động tiến công ngày càng vững chắc, đánh bại một bước quan trọng
kế hoạch bình định gom dân của địch ở đồng bằng vùng ven, mở thông tuyến hành lang chiến
lược Bù Đăng - Tuyên Đức; vùng giải phóng được mở rộng và từng bước củng cố; các lực lượng
vũ trang ta dần dần áp sát phía trước, kể cả vùng ven Sài Gòn. Qua phản công và tiến công, chủ
lực ta đã có bước trưởng thành tương đối nhanh, có khả năng tiến lên đánh bại chủ lực địch.
Chính trong bối cảnh đó, quân và dân miền Đông Nam Bộ bước vào mùa khô 1974-1975, tham
gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần giải
phóng Sài Gòn, giải phóng toàn miền Nam.

Dưới đây là mấy vấn đề rút ra từ thực tiễn chiến trường miền Đông Nam Bộ trong mùa
xuân 1975.

Từ thắng lợi của mùa khô 1974 - 1975 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, có thể rút ra
nhiều kinh nghiệm về quán triệt sâu sắc nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cuối chiến tranh;
nắm vững vị trí trọng yếu của đại bàn, đánh giá đúng địch, ta, có quyết tâm đúng đắn và phù
hợp; trong quá trình phát triển biết tạo thời cơ và nắm thời cơ, liên tục tiến công, liên tục giành
thắng lợi.

Chiến trường B2 cũ là phần đất cuối cùng của Tổ quốc, có Sài Gòn, "thủ đô" ngụy quyền,
có đồng bằng sông Cửu Long đông dân, nhiều của và là kho dự trữ chiến lược của địch, lại có
miền Đông với tính chất địa hình hoàn chỉnh (rừng núi, đồng bằng, đô thị), nên đã trở thành một
địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về quân sự và chính trị. Càng về cuối cuộc chiến tranh,
địch càng ra sức củng cố thế trận của chúng ở chiến trường này; khi phải bỏ các nơi khác, chúng
đều dồn về đây. Rõ ràng đây là trọng điểm tranh chấp cuối cùng để giải quyết chiến tranh. Chính
vì vậy mà Trung ương đã sớm có ý định tạo thế tạo lực cho chiến trường miền Đông Nam Bộ,
nơi sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Quán triệt sâu sắc quan điểm bạo lực cách mạng, tư tưởng chiến lược tiến công và ý đồ
chiến lược của trên, Trung ương cục và Quân uỷ miền đã đánh giá đúng địch, ta và có chủ trương
biện pháp thích hợp.

84
Về địch, sau hai năm 1973-1974, địch đã bị thất bại một bước nghiêm trọng, hậu phương dự
trữ nhân lực, vật lực bị thu hẹp (ngay ở vùng 4, địch bắt lính không đủ bù số tiêu hao, quân số
hụt 50.000 tên), tinh thần suy sụp khó gượng lại nổi, mâu thuẫn nội bộ phát triển, khả năng điều
động lực lượng rất hạn chế (chỉ có thể tập trung 1-2 sư đoàn để phản công ta trên một hướng khi
bị uy hiếp). Mỹ khó có khả năng can thiệp, mà nếu quân Mỹ có vào cũng ở trong thế yếu, thế
thua, không thể xoay chuyển được tình hình.

Về ta, Nghị quyết tháng 5 năm 1974 của Quân uỷ Miền nhận định: chủ lực ta đã mạnh hơn
chủ lực địch, phong trào quần chúng đã mở rộng kể cả vùng sâu, vùng yếu, lực lượng ta mọi mặt
đều phát triển, khí thế quyết tâm cao; ta đã nắm quyền chủ động chiến trường và tạo được một
thế chiến lược lợi hại (thế ba vùng lên hoàn, thế bố trí lực lượng xen kẽ, thế đứng vững chắc của
chủ lực Miền, chiến trường đã được tổ chức một bước...). Miền Đông có đầy đủ khả năng thực
hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị giành thắng lợi lớn trong mùa khô 1974-1975.

Thống nhất được đánh giá địch - ta như trên cũng phải trải qua một quá trình đấu tranh tư
tưởng kiên quyết và bền bỉ, chống khuynh hướng đánh giá địch cao, không thấy hết khả năng của
ta, đồng thời cũng phải nhìn rõ khó khăn, nhược điểm của ta để có biện pháp khắc phục.

Từ nhận định trên đây, nắm vững ý định cơ bản của Trung ương, Quân uỷ và Bộ tư lệnh
Miền đã có quyết tâm đúng đắn, xác định phương hướng mở mảng, mở vùng, chủ yếu là hướng
đồng bằng, tạo thế tạo lực ở vùng ven Sài Gòn nhằm đánh bại kế hoạch bình định của địch, mở
rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng miền Đông, mở rộng hành lang, tạo thế triển khai lực lượng
lớn để tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường này. Thực hiện quyết tâm đó, miền Đông đã
nhanh chóng chấn chỉnh và bố trí lại lực lượng trên các địa bàn trọng điểm.

Tại vùng ven Sài Gòn, lực lượng được điều xuống để mở rộng nông thôn, vừa đẩy đòn tiến
công đô thị lên một bước. Nhanh chóng củng cố 6 trung đoàn đặc công và từ tháng 6 năm 1974
đưa về đứng chân xung quanh Sài Gòn, đánh địch để tạo thế, mở vùng; tổ chức lại đoàn biệt
động 316 thành các tiểu đoàn, đại đội gọn nhẹ, phát triển sâu vào nội thành; tổ chức lại cơ quan
chỉ huy thành đội, tăng cường lực lượng, xây dựng trung đoàn địa phương của thành. Kiên quyết
đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh, cố thủ, không dám tác chiến ở vùng ven và nội thành, sợ
vỡ cơ sở... Nhờ đó, đã đẩy hoạt động quân sự ở vùng ven Sài Gòn lên một bước, triển khai được
lực lượng, tạo thế có lợi cho trận quyết chiến chiến lược sau này.

Trong khi đó ở miền Đông, chủ lực miền được bổ sung, củng cố, được giao nhiệm vụ tiêu
diệt sinh lực địch, cải thiện thế, mở rộng vùng giải phóng (đánh chiếm núi Bà Đen, tiêu diệt địch
và giải phóng đường số 14 đoạn từ km 11 đến Bù Đăng, đẩy mạnh hoạt động ở Võ Đắc, Tánh
Linh...). Sau khi tạo được thế căng kéo địch ra các nơi, cô lập Đồng Xoài - Phước Long, nghi
binh lừa địch giam chân chúng trên các hướng, đã đề nghị và được Trung ương chuẩn y dùng lực
lượng không nhiều, chớp thời cơ có lợi, liên tục tiến công giải phóng Đồng Xoài, rồi toàn tỉnh
Phước Long, bảo đảm hành lang chiến lược thông suốt, hoàn chỉnh vùng giải phóng... Việc giải
phóng Phước Long còn tạo ra cơ sở thực tiễn để đánh giá khả năng của ngụy và của Mỹ, khả
năng của ta, từ đó Bộ Chính trị có thêm căn cứ vững chắc để hạ quyết tâm lớn.

Đợt một mùa khô 1974-1975 đối với chiến trường B2, chiến trường miền Đông là một đợt
hoạt động mạnh. Thắng lợi ở đồng bằng sông Cửu Long, ở đường số 14 - Phước Long... chứng

85
minh sự chỉ đạo của Trung ương cục, Quân uỷ Miền là đúng đắn và linh hoạt, đã đánh giá đúng
tình hình, quán triệt và chấp hành ý định của trên một cách kiên quyết sáng tạo.

Vào đợt hai mùa khô 1974-1975 - đợt hoạt động mạnh nhất toàn miền Nam trong năm 1975
- hướng chủ yếu là Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên. Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh
Miền có nhận định bổ sung: hướng chủ yếu toàn miền Nam có thể thắng to, địch có nguy cơ tan
rã lớn, tình huống sẽ diễn biến hết sức nhanh và phức tạp. Từ đó, đã chỉ đạo chiến trường miền
Đông và Sài Gòn một mặt phải tiếp tục tiêu diệt những đơn vị lớn của địch, mặt khác phải hết
sức khẩn trương tạo thế cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh vào Sài Gòn. Thế trận đó
phải hoàn chỉnh, vùng giải phóng phải được mở rộng, áp sát vào trung tuyến, tạo địa bàn cho các
binh đoàn chủ lực lớn triển khai tiến công; tạo thế hậu cần vươn sâu xuống các hướng; quần
chúng làm chủ vùng ven và các "lõm" chính trị trong nội đô sẵn sàng nổi dậy phối hợp... Nhờ đó
khi ta thắng lớn ở Buôn Ma Thuột, Trị - Thiên và vùng ven biển miền Trung, tình huông diễn
biến nhanh, thời cơ đánh đòn quyết định xuất hiện, chiến trường miền Đông đã chuẩn bị cơ sở và
sẵn sàng thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương.

Từ thực tiễn trên có thể rút ra mấy điểm sau đây:

a. Chỉ đạo chiến lược trên một chiến trường trọng điểm, phải nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ
cách mạng, ý đồ chiến lược của Trung ương, nhất là trong thời kỳ cuối của chiến tranh. Tổ chức
thực hiện một cách chủ động, kiên quyết và sáng tạo, đánh giá đúng tình hình, chỉ đạo nhạy bén
kịp thời, tạo thời cơ, nắm thời cơ liên tục tiến công, liên tục giành thắng lợi.

b. Đánh giá đúng tình hình địch, tình hình ta là cơ sở để hạ quyết tâm, xây dựng kế hoạch
sát thực tế và bảo đảm thực hiện thắng lợi. Đánh giá tình hình phải xuất phát từ thực tế khách
quan và quy luật diễn biến của tình hình. Đánh giá đúng rồi phải đấu tranh để thống nhất nhận
thức trong lãnh đạo, giữa trên và dưới, quán triệt sâu sắc xuống đến cơ sở. Đây là vấn đề hết sức
quan trọng. Có đạt được sự nhất trí cao mới có quyết tâm cao, có hành động kiên quyết, sáng tạo.

c. Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược cụ thể của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền
là thực hiện quyết tâm trước mắt, luôn luôn phục vụ cho ý đồ chiến lược cơ bản, trong quá trình
thực hiện luôn có dự kiến, khi phát hiện thời cơ kịp thời tận dụng, hạ quyết tâm nhanh, liên tục
giành thắng lợi. Chiến thắng ở Đồng Xoài, Phước Long, lộ 20, Lâm Đồng đã chứng minh khá rõ
điều đó.

II

Trên cơ sở nắm vững ý đồ chiến lược chung và vị trí của địa bàn, tích cực chủ động chuẩn
bị chiến trường, tạo thế, tạo lực, sẵn sàng phương án tận dụng thời cơ trong chiến cuộc mùa khô
1974-1975 là một nghệ thuật sáng tạo trong chỉ đạo chiến trường.

Thời cơ bao giờ cũng do điều kiện chủ quan và khách quan tạo ra, mà điều kiện chủ quan là
cơ bản, quyết định. Để tạo thời cơ, thúc đẩy thời cơ mau chín muồi và tận dụng thời cơ, bao giờ
cũng xuất phát từ cơ sở thế là và lực nhất định. Thế và lực cũng do chỉ đạo chủ quan tạo ra trên
cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Thế bao giờ cũng dựa trên cơ sở của lực, có lực
mới có thế; nhưng có thế tốt lại phát huy được lực. Trong chiến cuộc mùa khô 1974-1975 mà

86
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thế của chiến trường miền Đông đã được chuẩn
bị sẵn, lực của địa phương đã được triển khai trong thế trận hết sức lợi hại, tạo điều kiện để khi 3
quân đoàn chủ lực của Bộ vào, đơn vị sớm nhất đến trước giờ nổ súng 15 ngày, đơn vị đến sau
chỉ sau 2 ngày đã bước vào chiến dịch trong điều kiện khá thuận lợi và giành thắng lợi nhanh
chóng, giòn giã. Có thể nói công tác chuẩn bị chiến trường, tạo thế, tạo lực cho chiến dịch tiến
công chiến lược trong thời kỳ kết thúc chiến tranh ở miền Đông đã có nhiều kinh nghiệm thành
công khá phong phú.

Do nắm vững vị trí chiến trường trọng điểm của miền Đông - nơi tập trung cơ quan đầu não,
sào huyệt cuối cùng của địch - quán triệt ý đồ chiến lược của Bộ Chính trị trong dự thảo Nghị
quyết tháng 10 năm 1974, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền đã nêu ra để chỉ đạo:

- Chung toàn miền Nam thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mở đầu vào mùa xuân 1975,
những với khả năng của bản thân và xuất phát từ các yêu cầu chiến lược chung, ngay đầu mùa
khô 1974-1975 toàn chiến trường B2 đã phải đánh mạnh, thắng to để tạo thế, tạo lực cho đòn
quyết chiến chiến lược cuối cùng;

- Đối với chiến trường miền Đông, phải đẩy mạnh cả ba đòn chiến lược, đánh phá bình định
ở nông thôn đồng bằng; hoạt động mạnh ở vùng ven biển và đô thị; chủ lực ở vùng rừng núi tác
chiến tiêu diệt sinh lực lớn của địch, mở rộng và từng bước hoàn chỉnh vùng giải phóng, mở
thông hành lang chiến lược, chiến dịch áp sát và uy hiếp trung tuyến... Như vậy là tạo ra và phát
huy sức mạnh tổng hợp của ta ở cả ba vùng, làm suy yếu toàn diện quân địch. Do đó khi thời cơ
chiến lược đến, trong các quân đoàn chủ lực của Bộ đã thực hiện cùng một lúc cả ba đòn chiến
lược mạnh, góp phần nhanh chóng đánh ngã quân thù.

Trong suốt quá trình chiến tranh và nhất là từ năm 1974 và đợt một mùa khô 1974-1975,
trong khi thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Trung ương Cục và Quận uỷ Miền luôn hướng vào việc
chuẩn bị chiến trường, tạo thế tạo lực cho trận quyết chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn.

Ngay từ đầu năm 1974, miền đã chuẩn bị phương án tiến công Sài Gòn dựa theo khả năng
của mình và kinh nghiệm đòn tiến công chiến lược trước đây (năm 1968 và 1972) báo cáo ra
Quân uỷ Trung ương. Trong đợt một và đầu đợt hai năm 1975, tuy thời gian đánh vào Sài Gòn
chưa được xác định cụ thể, nhưng công tác chuẩn bị chiến trường đã được tiến hành khẩn trương,
tích cực, và trên thực tế trước ngày chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, chiến trường đã được tổ
chức, chuẩn bị sẵn, thế và lực đã được triển khai hết sức lợi hại.

1. Triển khai thế trận bao vây, chia cắt, cô lập Sài Gòn, tạo bàn đạp triển khai chiến
dịch.

Phía Đông, hoàn toàn cắt lộ 1, áp sát Trảng Bom, sẵn sàng cắt lộ 15 và sông Lòng Tàu, uy
hiếp Vũng Tàu, làm tê liệt sân bay Biên Hoà.

Phía Tây và phía tây-nam; cắt lộ 4 ở nhiều đoạn từ Minh Hải, Cần Thơ, Mỹ Tho... Sư đoàn
8 quân khu 8 đã đứng ở bắc lộ 4 đoạn Trung Lương, Cai Lậy; sư đoàn 5 áp sát Tân An, Bến Lúc;
Kênh Chợ Gạo bị uy hiếp. Các trung đoàn bộ binh 24 và 88 đứng vững ở Cần Giuộc, Cần
Đước... bao vây Sài Gòn về hướng tây và tây-nam.

87
Phía tây - bắc và đông - bắc, quân địch cũng bị bao vây sau khi ta giải phóng Dầu Tiếng,
Suối ông Hùng Chơn Thành, cô lập Phước Vĩnh, áp sát Tân Uyên, giải phóng lộ 20.

Thế trận lợi hại này vừa bao vây, cô lập Sài Gòn, tạo thế triển khai lực lượng lớn, vừa đánh
đòn mạnh làm cho tinh thần càng thêm hoang mang rệu rã.

2. Bố trí lực lượng ba thứ quân.

Chủ lực miền Đông đứng vững trên hai hướng hiểm yếu nhất và cũng khó khăn nhất trên
triến trường; quân đoàn 4 áp sát Trảng Bom đối đầu với quân đoàn 3 địch; binh đoàn 232 áp sát
tuyến sông Vàm Cỏ, Hậu Nghĩa, sát lộ 4 từ Tân An đến Cai Lậy, chiếm Cần Giuộc, Cần Đước kề
quận 8 Sài Gòn. Các quân đoàn cơ động của Bộ vào có thể triển khai sát Phú Lợi, Bình Dương,
Lai Khê, Bến Cát, phía bắc sát Đồng Dù, Củ Chi; phía tây - bắc, đông-nam sát Bà Rịa, Vũng
Tàu, lộ 15, Nước Trong... Vị trí xuất phát tiến công của các quân đoàn, trong chiến dịch tiến
công chiến lược chỉ cách trung tâm mục tiêu có 30-40 km là một điều hết sức lý tưởng.

Lực lượng vũ trang thành phố đã triển khai đứng vững trên địa bàn cùng ven và trong nội
bộ, đủ sức đánh và chiếm giữ một số mục tiêu then chốt, các cầu quan trọng, khống chế các trận
địa pháo và sân bay trong một thời gian nhất định, làm nòng cốt cho chiến tranh du kích phát
triển và phát động quần chúng nổi dậy.
Rõ ràng thế bố trí lực lượng trên đây tạo cơ sở thuận lợi cho chiến dịch Hồ Chí Minh giành
toàn thắng.

3. Chuẩn bị mũi đấu tranh của quần chúng trong vùng địch tạm kiểm soát.

Bị địch áp bức kìm kẹp lâu dài, nhân dân trong vùng địch tạm kiểm soát sẵn sàng hành động
cách mạng. Đây là một mũi tiến công hết sức quan trọng khi thời cơ đến, tạo nên một hình thái
lợi hại trong thế trận chiến tranh nhân dân của ta ở cơ sở.

4. Tổ chức thế trận hậu cần vững chắc, thông suốt.

- Xây dựng đường hành lang chiến lược, chiến dịch thông suốt.

- Tổ chức sáu cánh hậu cần vươn sâu xuống xung quanh Sài Gòn.

- Chuẩn bị đầy đủ hệ thống kho tàng, dự trữ vật chất, nhiên liệu.

- Hình thành hệ thống thông tin liên lạc trên các hướng.

5. Tăng cường lực lượng sẵn sàng tham gia chiến dịch lớn.

Trước khi mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng B2 đã được bổ sung và chấn chỉnh tổ
chức phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới;

88
- Hoàn chỉnh xây dựng các sư đoàn, trung đoàn của quân khu (sư đoàn 6 quân khu 7, sư
đoàn 8 quân khu 8, sư đoàn 4 quân khu 9, trung đoàn 12 quân khu 6), sư đoàn 3 chủ lực miền, bổ
sung binh khí kỹ thuật và xây dựng quân đoàn 4 (tháng 6-1974).

- Thành lập cơ quan chỉ huy, điều động lực lượng tổ chức đoàn 232 (tương đương quân
đoàn tăng cường) ở hướng tây - nam Sài Gòn.

- Chấn chỉnh và tổ chức lại lực lượng thành đội Sài Gòn; chấn chỉnh tổ chức và đưa xuống
vùng ven sư đoàn hướng tây - nam Sài Gòn.

- Chấn chỉnh và tổ chức lại lực lượng thành đội Sài Gòn; chấn chỉnh tổ chức và đưa xuống
vùng ven sư đoàn đặc công 2 và đoàn biệt động 316.

- Lực lượng chính trị, vũ trang địa phương phát triển vượt bậc. Đến đầu tháng 4 năm 1975
trong vùng địch tạm kiểm soát đã có trên 50.000 đảng viên, đoàn viên, hội viên, 40.000 dân quân
du kích; tuyển được 16.400 tên binh, đã chuyển dân quân du kích lên xây dựng thêm 36 tiểu
đoàn địa phương.

- Dự trữ đạn dược, lương thực khá đầy đủ do bán thân chiến trường tự chuẩn bị, Binh đoàn
Trường Sơn.

- Chuẩn bị lực lượng quần chúng sẵn sàng nổi dậy đồng loạt, tạo thành sức mạnh tổng hợp
cùng với đòn tiến công quân sự đánh ngã kẻ địch.

Từ thực tiễn trên đây có thế thể rút ra mấy điểm.

a) Nắm vững ý đồ chiến lược chung, nắm vững vị trí của chiến trường đối với toàn cục,
luôn có dự kiến chủ động chuẩn bị cho thời cơ lớn, có ý định và kế hoạch hoạt động vừa đáp ứng
yêu cầu của địa phương, vừa phục tùng và phục vụ cho ý đồ chiến lược chung.

b) Việc chuẩn bị chiến trường, tạo thế cho trận quyết chiến chiến lược phải xuất phát từ tình
hình thực tế và tham khảo những kinh nghiệm cũ (nhất là của Tết Mậu Thân năm 1968, phải từ
dự kiến cách đánh và sử dụng lực lượng. Dự kiến cả phương án đánh bằng lực lượng bản thân và
phương án đánh có lực lượng mạnh của trên tăng cường để chủ động chuẩn bị. Thực tiễn chiến
dịch tạo thế của miền Đông nổ súng từ ngày 9 tháng 4 năm 1975 và phương án cơ bản của chiến
dịch Hồ Chí Minh sử dụng 5 cách quân, 6 hướng tiến công đánh chiếm 5 mục tiêu chiến lược
trong thành phố... đã thể hiện chỉ đạo đúng đắn của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ tư lệnh
Miền về chuẩn bị chiến trường, tạo thế cho đòn quyết chiến cuối cùng.

c) Chuẩn bị lực lượng phải tiến hành sớm và toàn diện, cả lực lượng vũ trang ba thứ quân và
lực lượng chính trị, trong lực lượng vũ trang phải tập trung chuẩn bị lực lượng chủ lực và lực
lượng đặc công, biệt động vùng ven.

89
III

Nắm vững quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, phải không ngừng bồi dưỡng và phát
huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng trong thời
kỳ cuối chiến tranh, trong đó tiến công quân sự đi trước một bước và đóng vai trò quyết định trực
tiếp.

Sự chỉ đạo của chiến trường luôn luôn nắm vững quy luật của chiến tranh cách mạng và
khởi nghĩa vũ trang, phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc thể hiện bằng hai lực lượng (vũ trang
và chính trị) và phương châm kết hợp tiến công và nổi dậy, đánh địch bằng nhiều hình thức đấu
tranh.

1. Đòn nổi dậy của quần chúng.

Trên chiến trường trọng điểm này, phong trào nổi dậy của quần chúng, kết hợp với đòn
công kích quân sự qua các thời kỳ đã phát huy tác dụng to lớn. Bước vào mùa khô 1974-1975, sự
chỉ đạo của Trung ương Cục Quân uỷ Miền cũng hết sức tập trung.

Công tác chuẩn bị cho đòn nổi dậy được nhấn mạnh trong Nghị quyết tháng 5 năm 1974
của Quân uỷ Miền, trong Hội nghị quân chính tháng 7 năm 1974 của Miền, tháng 9 năm 1974 có
hội nghị chuyên đề đánh phá bình định do Trung ương Cục chủ trì. Cuối tháng 3 đầu tháng 4
năm 1975, khi bước vào trực tiếp chuẩn bị cho chiến dịch đánh vào Sài Gòn, Trung ương Cục có
Nghị quyết 15 chỉ đạo đòn nổi dậy kết hợp với tiến công quân sự.

Chấp hành chủ trương trên, tại thành phố Sài Gòn, 15 ngày trước khi chiến dịch Hồ Chí
Minh mở màn, Thành uỷ đã tập trung chỉ đạo khâu chuẩn bị cho đòn nổi dậy, phát động quần
chúng, rải truyền đơn, phát triển thực lực gấp 4-5 lần so với trước; tăng cường củng cố cấp uỷ
quận, phường, đưa vào nội thành 340 cán bộ, chiến sĩ, 12 thành uỷ viên và tương đương, 60 đảng
uỷ viên quận, 400 đảng viên, 326 đoàn viên, 414 nòng cốt, 519 hội viên, 713 quần chúng tích
cực, 233 đội viên vũ trang; củng cố 400 tổ chức quần chúng có thể hoạt động ngay, 40 lõm chính
trị...

Riêng biệt động thành nắm một lực lượng quan trọng: 60 tổ biệt động, 301 quần chúng có
vũ trang, 30.000 quần chúng sẵn sàng nổi dậy... Ngoài ra còn lực lượng đứng ở ven, cách nội đô
từ 18 km trở vào, với khoảng 1.300 cán bộ, đảng viên sẵn sàng vào nội đô.
Khi ta thực hành tổng công kích vào Sài Gòn, trên là thắng lợi về quân sự, từ ngày 29 tháng
4 tại các quận vùng ven, nhiều nơi quần chúng đã nổi dậy cùng lực lượng vũ trang truy quét ác
ôn, tiến công địch, giải tán phòng vệ dân sự, giành quyền làm chủ ở cơ sở. Các đội vũ trang đã
cùng cơ sở phát động quần chúng treo cờ, rải truyền đơn, tổ chức các cuộc mít tinh, chiếm các
mục tiêu. Nhất là sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì các nơi lập tức bung ra hoạt
động giăng khẩu hiệu, treo cờ, kêu gọi quần chúng nổi dậy.

Từ thực tế đó, có thể rút ra mấy điểm;

a) Nổi dậy của quần chúng trong chiến tranh - nhất là ở giai đoạn cuối vô cùng ác liệt - phải
kết hợp với đòn công kích quân sự, bằng những hành động cách mạng từ nhỏ đến lớn, từ thấp

90
đến cao làm tăng thêm thế và lực của cách mạng, hạ uy thế và làm tan rã, suy sụp chính quyền
địch, tiến lên nổi dậy đồng loạt rộng khắp, kết hợp với tiến công quân sự tiêu diệt địch, giành
chính quyền về tay nhân dân. Mùa khô năm 1974-1975, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh,
khi quân ngụy bị tiêu diệt lớn và trên đà tan rã từng mảng, trên chiến trường miền Đông và Sài
Gòn, đòn nổi dậy sôi nổi, mạnh mẽ của hàng vạn quần chúng bằng nhiều hình thức rất phong
phú và sinh động, từ thấp đến cao, ở hầu khắp các địa bàn, đã có tác dụng như một đòn tiến công
có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ chiến cuộc mùa khô 1974-1975.

b) Lực lượng nổi dậy của quần chúng trong giai đoạn cuối chiến tranh bao gồm cả lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang quần chúng (dân quân tự vệ), bao gồm cả quần chúng có tổ chức
và quần chúng chưa có tổ chức lấy lực lượng có tổ chức làm nòng cốt. Quần chúng tuy chưa có
tổ chức nhưng do bị địch áp bức kìm kẹp, do ảnh hưởng của cách mạng, khi thời cơ đến, nếu ta
có khẩu hiệu đúng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sẽ trở thành lực lượng to lớn nổi dậy cùng
đòn tiến công quân sự đánh đổ chính quyền địch.

2. Đòn tiến công quân sự.

Trong chiến tranh, tiến công quân sự luôn phải đi trước một bước và làm đòn xeo cho quần
chúng nổi dậy.

Phát huy đầy đủ sức mạnh của ba thứ quân trong mùa khô, các trung đoàn, sư đoàn chủ lực
là lực lượng chủ yếu quyết định tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự chủ yếu của địch, đập
tan ý chí đề kháng của chúng. Lực lượng vũ trang tại chỗ (bộ đội địa phương và dân quân tự vệ
là lực lượng hết sức quan trọng trong phối hợp đắc lực và làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng đặc công, biệt động và lực lượng thành đội đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh hàng trăm mục tiêu, đánh chiếm và giữ 13 cầu bảo đảm cho
chủ lực cơ động, tham gia có hiệu quả chế áp tất cả các trận địa pháo và sân bay, đánh chiếm các
mục tiêu chiến lược, dẫn đường cho chủ lực, phát động và làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy.

Các trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn chủ lực miền Đông đã phát huy vai trò là lực lượng chủ
yếu quyết định tiêu diệt và làm tan rã lớn quân địch, làm tròn nhiệm vụ đòn xeo cho quần chúng
nổi dậy trong suốt mùa khô. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, quân đoàn 4, đoàn 232, các lực
lượng khu 8 đã đảm trách và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên ba hướng quan trọng của chiến
dịch; hướng đông cùng với quân đoàn 2 của Bộ đánh vào khu vực phòng thủ chủ yếu là lực
lượng chủ yếu của quân đoàn 3 địch; hướng tây và tây-nam nơi địa hình hết sức phức tạp, đánh
cắt lộ 4, đánh vào phía sau quân địch với những mục tiêu hết sức quan trọng như tổng nha cảnh
sát, biệt khu thủ đô...

Từ thực tiễn trên, có thể rút ra mấy điểm về xây dựng và sử dụng đòn tiến công quân sự:

a) Vào thời kỳ cuối chiến tranh, trên chiến trường trọng điểm, việc xây dựng lực lượng vũ
trang phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và khả năng của mình. Chiến trường miền Đông nahnh
chóng tập trung xây dựng một số sư đoàn (của Miền và quân khu 7 cũ), các trung đoàn của quân
khu 6 và thành phố, xây dựng quân đoàn 4... là phù hợp với yêu cầu tác chiến lúc này, song do
khó khăn về vật chất kỹ thuật nên tập trung cho quân đoàn chưa cao. Việc xây dựng các đoàn đặc

91
công, biệt động đưa xuống vùng ven là chủ trương rất đúng đắn, vừa phù hợp với yêu cầu của địa
phương, vừa đáp ứng ý đồ chiến lược chung khi thời cơ đến.

b) Trong giai đoạn cuối chiến tranh, trên chiến trường trọng điểm, tình huống sẽ diễn biến
nhanh, lực lượng tham gia trận quyết chiến lược rất lớn (có lực lượng cấp trên đưa vào), do đó
việc sử dụng lực lượng là chủ lực, phải đáp ứng yêu cầu tiêu diệt sinh lực địch bằng những đòn
gây tác động mạnh mẽ tạo điều kiện cho địa phương mở mảng mở vùng. Đồng thời phải thực
hiện yêu cầu tác chiến tạo thế của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng có lực lượng lớn của cấp
trên tham gia... Trong mùa khô 1974-1975, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh, quân đoàn 4
được sử dụng tác chiến tạo thế trận hai hướng là phù hợp với yêu cầu chiến lược và chiến dịch,
nhưng do đó chưa tập trung được thành một đòn mạnh gây tác động lớn. Đây là một vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu.

c) Trong trận quyết chiến chiến lược đánh vào Sài Gòn, chủ lực miền Đông nhờ quen biết
địa hình đã đảm nhiệm thắng lợi ba hướng quan trọng của chiến dịch có nhiều khó khăn về địch,
địa hình, mà nếu giao cho các quân đoàn cơ động của Bộ thì sẽ khó khăn hơn. Đây cũng là một
kinh nghiệm về sử dụng lực lượng.

Tóm lại, sự chỉ đạo của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền đã quán triệt sâu sắc
đường lối quan điểm của Đảng, đã kiên trì chỉ đạo phát động quần chúng, đẩy mũi nổi dậy của
quần chúng, coi đó là một trong những đòn tiến công có ý nghĩa chiến lược. Đồng thời ra sức
xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân với quy mô ngày càng lớn, xác định đúng vị trí và sử
dụng thích hợp từng thứ quân, coi đòn tiến công quân sự là quyết định trực tiếp trong giai đoạn
cuối chiến tranh và phải đi trước một bước và làm đòn "xeo" cho đòn nổi dậy; trong đó chủ lực
tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn là lực lượng chủ yếu trực tiếp quyết định
tiêu diệt, làm tan rã địch, đánh bại ý chí đề kháng của chúng.

IV

1. Chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong mùa khô 1974-1975 đối với lực
lượng vũ trang trên chiến trường miền Đông có nhiều nét sáng tạo và phong phú.

Đã coi trọng giáo dục cho lực lượng vũ trang quán triệt tình hình và nhiệm vụ trong giai
đoạn mới. Thống nhất đánh giá tình hình địch, ta để có cơ sở xác định quyết tâm, nhất trí với
quyết tâm của trên và kiên quyết thực hiện một cách sáng tạo.

Công tác này đã được tiến hành từ trong Đảng ra quần chúng, từ cán bộ đến chiến sĩ, từ bộ
đội chủ lực đến địa phương, làm đi làm lại nhiều lần, là một quá trình bồi dưỡng tinh thần triệt để
cách mạng, tư tưởng tiến công, phương pháp xem xét khách quan, toàn diện, kiên trì chống mọi
biểu hiện hữu khuynh tiêu cực.. đặc biệt thống nhất đánh giá địch, ta là một quá trình đấu tranh
khá gay go phức tạp và là một thành công lớn trước khi bước vào mùa khô. Từ đó mới có cơ sở
tiếp thu ý đồ chiến lược của Trung ương và nhất trí với quyết tâm của Miền, tạo sự đoàn kết nhất
trí cao, khí thế tiến công sôi nổi, mạnh mẽ trong suốt quá trình tiến công và nổi dậy.

Trong xây dựng quyết tâm đã chú trọng bồi dưỡng tình cảm cách mạng, quyết tâm giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tự hào với truyền thống của địa phương, đơn vị, tình cảm

92
đối với nhân dân, với chiến trường, với thành phố mang tên Bác, chiến dịch mang tên Bác,... tình
cảm đó là nguồn cổ vũ động viên rất lớn đối với bộ đội.

Kết hợp giáo dục chính trị với kiện toàn tổ chức, công tác chính trị đã giáo dục đề cao cảnh
giác cách mạng, làm trong sạch và bảo vệ nội bộ, giữ gìn bí mật quân sự, đặc biệt giữ bí mật ý đồ
chiến lược của Trung ương. Phát động thi đua quyết thắng, tuyên truyền tin chiến thắng, song
song với biểu dương khen thưởng kịp thời, nên đã cổ vũ được khí thế sôi nổi thi đua giết giặc,
lập công.

Công tác chính trị thực hiện tốt việc đoàn kết phối hợp giữa lực lượng vũ trang với cấp uỷ,
chính quyền, đoàn thể địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp, đánh địch bằng cả hai lực lượng
và ba mũi tiến công. Đã thực hiện đoàn kết hiệp đồng giữa ba thứ quân, giữa lực lượng vũ trang
của Miền với lực lượng chủ lực cơ động của cấp trên, gánh lấy khó khăn vào mình, tạo điều kiện
thuận lợi cho các đơn vị, binh chủng bàn để cùng nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

2. Chỉ đạo công tác bảo đảm hậu cần trong mùa khô 1974-1975 cũng có nhiều sáng
tạo.

Trên cơ sở quán triệt ý đồ chiến lược chung, công tác chuẩn bị về hậu cần được đề ra từ
sớm và đã tích cực chủ động xây dựng thế trận hậu cần tại chỗ ngày càng mạnh trên cả ba vùng
chiến lược. Chiến trường miền Đông có Sài Gòn là sào huyệt cuối cùng của địch, nơi sẽ diễn ra
trận đọ sức cuối cùng, vì vậy hậu cần phải áp sát và vươn sâu xuống xung quanh Sài Gòn. Sáu
cánh hậu cần đã từng bước hình thành: đoàn 210 và đoàn 814 ở hướng đông và đông - bắc Sài
Gòn; đoàn 235 và đoàn 220 ở hướng bắc và tây - bắc; đoàn 230 và đoàn 240 ở hướng tây và tây
nam. Kết hợp chặt chẽ với cơ sở hậu cần vùng ven và nội bộ của thành đội, từ căn cứ miền Đông,
đã tiếp nhận sự chi viện của Trung ương, vừa giữ vững, vừa mở rộng hành lang, nhờ đó xây
dựng được thế hậu cần liên hoàn và rộng khắp (cả đường bộ, cơ giới và đường sông). Khó khăn
nhất của hậu cần B2 lúc đó là đường xuống đồng bằng sông Cưu Long, hướng tây - nam Sài Gòn
và hướng đông, thì đến trước mùa khô ta đã vận chuyển xuống đó trên 3.000 tấn vũ khí đạn dược
và đã mở của khẩu, khơi luồng hướng lộ 20 mua trên 1500 tấn lương thực dự trữ.

Chúng ta đã nắm vững quan điểm hậu cần nhân dân, đề cao tinh thần tự lực tự cường, cần
kiệm khai thác và sử dụng mọi lực lượng, mọi nguồn cùng cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp về
hậu cần. Vì vậy, mặc dù địch bao vây phong toả, ta vẫn tạo được khối lượng vật chất khá lớn,
chiếm tỷ lệ 60-70% tổng số khối lượng vật chất của toàn chiến cuộc (trong năm 1973-1974 riêng
hậu cần Miền đã thu mua và sản xuất được 87.000 tấn vật chất, có 68.000 tấn lương thực).

Miền Đông đã tiếp nhận và sử dụng tốt nguồn chi viện của Trung ương, ra sức chống tham
ô lãng phí, bảo đảm an toàn, chống địch đánh phá. (Trong 2 năm 1973-1974 nhận được từ Trung
ương 36.000 tấn vũ khí, xăng dầu và vật tư kỹ thuật, quá trình chiến cuộc 1974-1975 nhận thêm
45.000 tấn).

Mặt khác trong chiến đấu, đã tận thu và sử dụng có hiệu quả trang bị kỹ thuật lấy được của
địch để tăng cường sức mạnh, phát triển tiến công thắng lợi.

93
Công tác chuẩn bị về hậu cần phải quán triệt ý đồ chiến lược, phù hợp với thế trận bố trí và
sử dụng lực lượng, cách đánh trong quá trình chiến cuộc. Để chuẩn bị cho trận quyết chiến lược,
từ năm 1974 và nhất là từ đợt mùa khô, ta đã tạo được thế bao vây chia cắt Sài Gòn, bố trí ba thứ
quân, đặc biệt là chủ lực và đặc công, biệt động vùng ven, chuẩn bị địa bàn triển khai cho các
binh đoàn lớn... Với sự chuẩn bị theo ý đồ chiến lược như vậy, bộ đội đứng ở đâu đều có hậu cần
bảo đảm phía sau, cả cho quân của Trung ương và quân của địa phương cho đặc công, biệt động
ở vùng ven và nội thành... Một kinh nghiệm tốt là các cánh hậu cần đều chuẩn bị các phân đội
hậu cần cơ động cấp chiến dịch bố trí sát đội hình tiến công, sẵn sàng cơ động lên phía trước
theo bước phát triển của các cánh quân, trên mọi hướng tiến công vào nội đô.

Với địa bàn rộng, khối lượng nhiều, cơ động cao, một thành công quan trọng của hậu cần là
chỉ đạo giao thông vận tải, tận dụng mọi khả năng, trong đó nắm vững vận tải cơ giới là chủ yếu.
Trong mùa khô 1974-1975, đã vận chuyển 8.000 tấn vật chất, đạt khối lượng vận chuyển 13 triệu
tấn/km, bảo đảm cơ động cho hơn 50.000 lượt quân bằng cơ giới. Để thực hiện khối lượng vận
chuyển ấy, ngoài lực lượng vận tải cơ giới, chúng ta đã tận dụng mọi phương tiện thô sơ huy
động của nhân dân trong vùng địch (xe thồ, xe ngựa, ghe máy, xuồng chéo, ... ), thực hiện cả
biện pháp vận chuyển bí mật và công khai trong vùng địch.

94
TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở THÀNH PHỐ SÀI GÒN - GIA ĐỊNH
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

Vào đầu mùa khô 1974-1975, tình hình chiến trường B2 có những nét mới. Tháng 9 năm
1974, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó bí thư Trung ương Cục, về thành phố Sài Gòn, Trung
ương Cục đã họp với thành uỷ đánh giá tình hình địch, ta, kiểm điểm những chủ trương hoạt
động của ta và đi đến kết luận: địch đang khủng hoảng toàn diện, quần chúng đang chuyển mạnh.
Cần phải tích cực hoạt động, phát động quần chúng đưa phong trào lên, chống tư tưởng ngại khó,
chần chừ, cố thủ. Phải có quyết tâm lớn, khai thác thời cơ phát triển phong trào, tiến lên mở rộng
vùng giải phóng liên vùng, liên xã, liên huyện. Lãnh đạo thành phố chia ra hai cánh: cánh A phụ
trách đô thị; cánh B phụ trách nông thôn.

Sau Hội nghị Trung ương Cục ngày 15 tháng 9 năm 1974, Thành uỷ mở Hội nghị toàn thể
cán bộ nông thôn (cánh B) gồm trên 300 đồng chí. Cuộc họp kéo dài một tháng. Kiểm điểm tình
hình nông thôn tính đến lúc này, ở 80 xã ven và 14 xã đô thị hoá, ta đều đã có cơ sở; trong số 337
ấp, ta có cơ sở ở 251 ấp, còn 86 ấp trắng. Vùng nông thôn có 80 chi bộ đảng với 601 đảng viên;
có 40 chi đoàn với 284 đoàn viên thanh niên lao động. Sau khi kiểm điểm mọi mặt, phê phán tư
tưởng co thủ, hữu khuynh, hội nghị chủ trương: phát động quần chúng, đẩy mạnh ba mũi giáp
công mở "lõm", mở vùng, xây dựng củng cố vùng căn cứ Củ Chi, xây dựng các vùng, các "lõm"
giải phóng liên hoàn, diệt ác, phá kìm, làm tan rã phòng vệ dân sự, diệt đồn, bốt và giữ luôn
không cho địch đóng lại.

Theo kế hoạch chung của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, đợt một của chiến trường
B2 mở ra từ ngày 5 tháng 12 năm 1974 tới cuối tháng 2 năm 1975. Như vậy chiến trường B2
hoạt động sớm một bước so với các chiến trường khác ở miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền, trong đợt một, thành phố đã đẩy
mạnh hoạt động mọi mặt và giành được thắng lợi lớn, trong ba tháng đã hoàn thành căn bản
nhiệm vụ dự kiến cho cả năm 1975. Chỉ tính riêng vùng nông thôn, ta đã loại khỏi vòng chiến
đấu 4281 tên địch, bắn rơi 14 máy bay, bắn chìm 13 tàu chiến, phá hỏng 78 xe quân sự, chiếm 84
đồn, bốt và 5 kho, giải phóng hoàn toàn thêm 3 xã và giải phóng cơ bản thêm 4 xã, 37 ấp với
17.000 dân.

Sang đợt hai, từ ngày 9 tháng 3 năm 1975 quân và dân Sài Gòn - Gia Định lại đẩy mạnh
hoạt động lên một bước mới. Ta phá huỷ 5 xe tăng địch tại Phú Hoà Đong, diệt 7 bốt địch ở Tân
Thạnh Tây, Thái Mỹ, Xuân Thới Sơn. Đặc biệt ngày 20 tháng 3 tiểu đoàn "Quyết thắng" đã phối
hợp cùng quân bộ đội địa phương và du kích Củ Chi diệt và bắt sống đoàn xe chở đạn 51 chiếc
và 2 xe hộ tống trên đường số 1 ở Củ Chi; sau đó, chặn đánh thiệt hại nặng 2 đại đội, tiêu diệt 1
đại đội và 2 trung đội địch đến ứng cứu. Ta còn tiến công địch ở sân bay Đồng Dù, kho xăng
Vũng Bè (Gò Vấp), diệt địch ở Tân Túc, v.v... tạo thế đứng chân sát vào thành phố.

Sau chiến thắng Phước Long (6-1-1975), thực tế chứng minh Mỹ khó còn khả năng can
thiệp. Ngụy quyền tay sai ở Sài Gòn để tang thất bại Phước Long, hội nghị bộ Chính trị Trung
ương Đảng mở rộng từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975 đã hạ quyết tâm chiến

95
lược, thông qua kế hoạch cơ bản hai năm giải phóng miền Nam (1975-1976), đồng thời dự kiến
nếu thời cơ đến thì giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Sau khi ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột (10-3-1975), tiếp đó giải phóng Tây Nguyên và một
loạt tỉnh từ Trị - Thiên đến khu 5, ngày 31 tháng 3, Bộ Chính trị quyết định: "Nắm vững hơn nữa
thời cơ chiến lược, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn
thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4,
không thể để chậm".

Trước đó, ngày 29 tháng 3, Trung ương Cục họp Hội nghị lần thứ 15 và ra Nghị quyết đặc
biệt, đánh giá tình hình chung miền Nam, thắng lợi của ta, thất bại của địch, đề ra nhiệm vụ của
đảng bộ là: "Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tinh
thần và lực lượng của mình, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của ba mũi giáp công, ba thứ
quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh sập toàn bộ ngụy
quân, ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí thế tiến công quyết liệt,
thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn
miền Nam".

Chiều ngày 7 tháng 4 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị, tới căn cứ của
Bộ tư lệnh Miền. Sáng ngày 8 tháng 4 đồng chí phổ biến nghị quyết của Bộ chính trị và công bố
quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định (sau này mang tên
chiến dịch Hồ Chí Minh) do đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh và đồng chí Phạm Hùng làm
Chính uỷ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, phó Bí thư Trung ương Cục, được phân công phụ trách
mũi nổi dậy của quần chúng ở thành phố. Đồng chí Võ Văn Kiệt được phân công phụ trách việc
tiếp quản thành phố.

Nghị quyết của Bộ Chính trị càng soi sáng thêm nhận định của Trung ương Cục là chính
xác. Riêng chủ trương "xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh" thì chưa
đặt ra ngay vì điều kiện chưa chín muồi. Nghị quyết Bộ Chính trị còn xác định cụ thể thời gian
giải phóng thành phố và giải phóng miền Nam.

Sau khi được phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị, Trung ương Cục đã làm việc với
Thường vụ thành uỷ vào ngày 12 tháng 4. Thường vụ thành uỷ đã ban hành tài liệu hướng dẫn
"những việc cần làm ngay trong giai đoạn trước, trong và sau khi thành phố được giải phóng".
Tài liệu xác định: "hiện nay chúng ta đang ở vào thời kỳ trực tiếp cách mạng ở thành thị, là giai
đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, hoàn thành
giai đoạn chốt của cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam".

Về khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa ở đô thị, tài liệu chỉ rõ:

"Lúc nào sẽ có thời cơ khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa ở đô thị? Đó là lúc mà các cuộc công
kích và khởi nghĩa của ta xung quanh thành phố giành được những thắng lợi hết sức to lớn làm
cho:

- Những lực lượng chủ lực bảo vệ xung quanh thành phố của địch bị đánh quy, tổn thất
nặng nề;

96
- Bọn địch đảo chính lẫn nhau, hoặc phải thay đổi cấp lãnh đạo chủ chốt;

- Và những tình hình ấy đã làm cho ngụy quân, ngụy quyền rối loạn, không kiểm soát được
tình thế, mất hẳn ý chí chiến đấu, rút chạy. Một tình trạng vô chính phủ rối loạn diễn ra ở thành
phố.

Lúc đó phải hết sức kiên quyết phát động khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa ở đô thị dù đại
quân chưa vào tiếp nhận thành phố; chống mọi tư tưởng trông chờ...".

"Trước hết cướp chính quyền ở cơ sở. Đập tan bộ máy kìm kẹp ở phường, khóm, xã, ấp, xí
nghiệp, trường, chợ của địch...".

"Nhanh chóng từ khởi nghĩa ở cơ sở chuyển lên khởi nghĩa cướp chính quyền ở từng quận
và toàn thành phố".

Về chỉ đạo, Thường vụ thành ủy chủ trương điều chỉnh lại hai cánh A và B. Cánh A phụ
trách các huyện Bình Chánh, Nhà Bè và nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Cánh B phụ trách các
huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức và thị xã Gia Định.

Trung ương Cục nhanh chóng điều động cán bộ bổ sung, tăng cường cho thành phố. Thành
uỷ cấp tốc phổ biến nhiệm vụ cho các cánh. Cánh A về bám địa bàn Vườn Thơm, cánh B về phía
nam Củ Chi. Những cán bộ được đưa về nội thành trước lên đường ngay, còn phần lớn áp sát
thành phố trên những hướng được phân công. Tới trước ngày chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn,
ở nội thành đã có hơn 700 cán bộ và vùng ven - trên 1.000 cán bộ; ngoài ra, còn 1.300 cán bộ đã
tiếp cận chỉ cách 13-15 km, sẵn sàng vào thành phố. Ở nội thành và vùng ven, có 1.290 đảng
viên (riêng nội thành là 735) với hơn 10.000 quần chúng nòng cốt. Có 40 lõm chính trị với 7.000
quần chúng đã giành được quyền làm chủ ở mức độ khác nhau. Có 400 tổ chức công khai và
biến tướng với gần 25.000 người do ta nắm.

Theo chủ trương của Thành ủy, đã nhanh chóng tăng cường lực lượng vũ trang thành phố
Sài Gòn - Gia Định, rút từ du kích tăng cường cho bộ đội địa phương và rút từ bộ đội địa phương
tăng cường cho các đơn vị tập trung của Thành, lập thêm trung đoàn Gia Định 2 lấy tên là trung
đoàn "Đất thép". Đến lúc này, bộ đội tập trung của thành phố có 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn.
Mỗi huyện có từ 1-2 đại đội. Ngoài 3345 du kích, còn có 233 tự vệ mật. Có 6 trung đoàn đặc
công của trên đã nằm ở thành phố và vùng ven. Biệt động có 1 lữ đoàn gồm 3 tiểu đoàn và 9 đội,
60 tổ.

Đã chuẩn bị được 6 nhà in để in tài liệu cách mạng, cùng hàng trăm xe phóng thanh. Trong
các "lõm" chính trị, các cơ sở tại nội thành đã chuẩn bị may cờ. Các đội tuyên truyền xung phong
được thành lập, các đội an ninh vũ trang đã được triển khai xuống ven đô.

Như vậy trước khi bước vào chiến dịch, cùng với lực lượng của trên tiến về giải phóng
thành phố, lực lượng tại chỗ trong và ven thành phố đã được động viên và bố trí sẵn sàng hành
động*.

97
Quân và dân ta đi vào chiến dịch với khí thế quyết tâm tiến công và nổi dậy giải phóng
thành phố, giành thắng lợi hoàn toàn.

* *

Vì đây là hang ổ cuối cùng của chúng nên bọn Thiệu đã cố gắng đến mức cao nhất hòng
tránh khỏi sự sụp đổ nhanh chóng. Mỹ cũng cố tìm cách cứu vớt ngụy; ngày 28 tháng 3 năm
1975, tướng Uây-en, tham mưu trưởng lục quân Mỹ, được cử đến Sài Gòn giúp ngụy vạch kế
hoạch phòng thủ. Ở tuyến ngoài, chúng bố trí 5 sư đoàn và 2 lữ đoàn, ở tuyến ngoại vi thành phố
- 1 sư đoàn và 1 lữ đoàn chia thành 4 khu phòng thủ. Trong nội đô, chúng tổ chức thành 5 liên
khu chống thâm nhập và nổi dậy. Ngày 2 tháng 4, Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng ngụy,
kêu gào giữ phần đất còn lại. Ngày 5 tháng 4, Thiệu ra lệnh "tử thủ" Phan Rang.

Lực lượng ngụy tại Phan Rang có 1 lữ đoàn, 6 tiểu đoàn 1 chi đoàn xe bọc thép, 7 trận địa
pháo và 1 sư đoàn không quân gồm 100 máy bay các loại. Đây là một cụm phòng thủ từ xa để
giữ Sài Gòn, do tên tướng Viễn Vĩnh Nghi, tư lệnh bộ chỉ huy tiền phương quân khu 3 ngụy chỉ
huy. Thiệu đinh ninh phải mất nhiều tháng nữa, quân ta mới với tới được Sài Gòn. Nhưng chúng
đã lầm, chiến dịch Hồ Chí Minh như một bàn tay thép đang nắm lại đưa dần chúng vào chỗ chết.

Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 25 tháng 4 năm 1975 có thể coi là thời gian chuẩn bị trực tiếp
cho chiến dịch.

Ở cánh đông, từ ngày 14 đến 16 tháng 4, quân ta tiến công tiêu diệt, giải phóng Phan Rang;
ngày 18 tháng 4 giải phóng Phan Thiết. Tiếp theo, ngày 22 tháng 4, giải phóng thị xã Hàm Tân.

Tại Long Khánh, từ ngày 9 tháng 4, quân ta tiến công thị xã Xuân Lộc. Tới ngày 20 tháng
4, địch bị thiệt hại nặng và bị chia cắt ở Trảng Bom, lại bị tan vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang,
Thiệu vội vã ra lệnh cho quân ngụy ở Xuân Lộc rút chạy về cố thủ ở Biên Hoà.

Ở cánh bắc và tây - bắc, các quân đoàn, sư đoàn của ta từ Tây Nguyên, đồng bằng khu 5, từ
đồng bằng sông Hồng cấp tốc hành quân về đây. Lực lượng vũ trang tại chỗ và quần chúng cách
mạng đã tích cực tham gia chuẩn bị cho các lực lượng này nhanh chóng bước vào chiến đấu.

Ở cánh nam và tây - nam, quân ta cắt đứt lộ 4 từ Bến Lức tới Tân An, từ dưới Tân An tới
Trung Lương, từ Cai Lậy tới An Hữu. Quá về phía tây, ta cắt lộ Cần Thơ - Vĩnh Long. Các lực
lượng sẽ đánh từ hướng tây vào thành phố mở đường vùng Quẹo Ba xuống phía tây sông Vàm
Cỏ Đông và chuẩn bị vượt sông. Các trung đoàn 24, 88, 271b sẽ đánh từ hướng nam vào thành
phố, phải hành quân từ Cái Bè, Cai Lậy qua Chợ Gạo, Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần
Giuộc để kịp có mặt ở phía nam thành phố vào ngày 29 tháng 4. Trong khi đó, ở hướng đông,
đoàn 10 cắt sông Lòng Tàu, chặn đường ra biển.

Các lực lượng chính trị, vũ trang của thành phố căn cứ vào nhiệm vụ được giao, tiến vào
thành phố và những địa bàn đã được phân công.

98
Tới trước giờ nổ súng ngày 26 tháng 4 năm 1975, vòng vây của ta xung quanh thành phố
đã được khép chặt.

Về phía địch, ngày 18 tháng 4 bộ trưởng quốc phòng ngụy Trần Văn Đôn, sau khi đi kiểm
tra, đa thốt lên: "Tình trạng nguy ngập thật sự. Sự sống chỉ còn có thể tính từng ngày, từng tuần,
không thể tính từng tháng". Cùng ngày chính quyền Pho-Kít-sinh-giơ ra lệnh di tản bọn Mỹ ở
Sài Gòn; cử Đin Brao phụ trách lực lượng đặc nhiệm gồm 35 tàu chiến, có 4 tàu sân bay và hàng
trăm máy bay để tiến hành di tản dưới cái tên "Cuộc hành quân người liều mạng". Cuộc rút chạy
của Mỹ bắt đầu từ ngày 21 tháng 4. Uây-en than thở: "Tình hình quân sự là tuyệt vọng".

Từ ngày 4 tháng 4, Thiệu cho chính phủ Trần Thiện Khiêm từ chức; ngày 14 tháng 4 cho
Nguyễn Bá Cẩn lên thay Khiêm. Và sau một thời gian dùng dằng ngoạn cố, cuối cùng, ngày 21
tháng 4, Thiệu cũng phải rời khỏi dinh Độc lập để Trần Văn Hương lên thay.

Từ ngày 26 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 là thời gian tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh.

Theo quyết định của Bộ chỉ huy chiến dịch, nhiệm vụ của 5 cánh quân chủ lực là nhanh
chóng đánh chiếm 5 mục tiêu chủ yếu: dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn
Nhất, bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát.

Cách đánh được quyết định như sau: "Dùng một bộ phận bao vây, chia cắt, chặn giữ quân
địch lại không cho chúng rút chạy về Sài Gòn, tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn bộ binh
chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài, đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng của ta nhanh
chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột
kích cơ giới hoá mạnh đã được tổ chức chặt chẽ, tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng
vào năm mục tiêu đã được chọn lựa trong nội thành".

Nhiệm vụ các lực lượng vũ trang của thành phố, các lực lượng biệt động, đặc công là chiếm
giữ các cầu, không cho địch phá khi rút chạy, chiếm các bàn đạp, mở đường và dẫn đường cho
bội đội chủ lực tiến công, đồng thời trừ gian diệt ác, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành quyền
làm chủ. Nhiệm vụ của lực lượng chính trị là kết hợp với lực lượng vũ trang phát động quần
chúng nổi dậy giành chính quyền.

Về địch, ngày 28 tháng 4, với sự dàn xếp, thúc ép của Mỹ và những thế lực nước ngoài
khác, Trần Văn Hương từ chức để Dương Văn Minh lên làm tổng thống.

Về ta, các mũi tiến quân của chủ lực diễn ra như sau: Ở hướng bắc, quân đoàn 1 sau khi diệt
nhiều trận địa pháo của địch, tiến công tiêu diệt căn cứ Lai Khê do sư đoàn 5 ngụy chiếm giữ,
đánh chiếm Tân Uyên, Phú Lợi, đánh địch ở An Lợi, Búng, đánh chiếm Lái Thiêu, rồi thẳng tiến
xuống Bình Phước; trên đường tiến đã đánh tan lữ đoàn 3 kỵ binh thiết giáp ngụy từ Biên Hoà
chạy về ở phía đông cầu Bình Phước, bắt sống 180 xe các loại. Lực lượng vũ trang địa phương
và biệt động đã chiếm giữ cầu Bình Phước và phía tây chờ chủ lực vào.

Quân chủ lực tiếp tục chia làm hai cánh: một cánh vòng sang An Phú Đông đánh vào Gò
Vấp; một cánh tiến thẳng xuống Bình Triệu rồi theo đường Hàng Xanh vào Bộ Tổng tham mưu

99
ngụy. Tại đây đơn vị biệt động Z28 do đồng chí Lê Văn Vĩnh, Anh hùng quân đội, chỉ huy, đã
chiếm phía trong thu chìa khoá, sổ sách, tài liệu, đòn quân chủ lực đánh từ phía ngoài vào.

Ở hướng tây-bắc, quân đoàn 3 diệt 11 trong tổng số 18 trận địa pháo địch, rồi tiến công vào
sư đoàn 25 ngụy ở căn cứ Đồng Dù. Địch tháo chạy tán loạn, nhưng tới Tân Phú Trung gần cầu
Bông thì tên sư đoàn trưởng Lý Tòng Bá cùng với lũ tàn quân đều bị bắt, vì cầu Bong đã bị trung
đoàn Gia Định chiếm giữ từ trước. Sau khi chiếm Đồng Dù, quân ta tiếp tục quét địch ở các vị
trên bên ngoài và dọc đường lên Gò Vấp; Lập Tảo, Phước Hiệp, Suối Sâu, Trà Võ, Bến Mương.
Bầu Nâu, Cầm Giàng, diệt 1 trung đoàn ngụy, bắt sống 600 tên.

Quân chủ lực qua cầu Bông đánh thành Ông Năm, qua trường huấn luyện Quang Trung
xuống thẳng Bà Quẹo suốt chặng đường 15km mà trung đoàn "Quyết thắng" (Gia Định 1) đã
chiếm giữ từ trước.

Sáng 30 tháng 4, từ Bà Quẹo quân ta tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tư lệnh quân dù và
khu truyền tin.

Tại hướng tây-nam, sư đoàn 9 binh đoàn 230 vượt sông Vàm Cỏ Đông đánh chiếm Hậu
Nghĩa, Đức Hoà, bắt sống 1.000 tên địch, rồi tiến xuống Bà Hom, đường vòng quanh thành phố
(xa lộ Đại Hàn). Sáng 30 tháng 4 đánh chiếm Biệt khu thủ đô.

Tại Tân An, quân ta diệt và làm tan rã sư đoàn 22 và liên đoàn biệt động quân số 6 ngụy,
giải phóng Tân An, Thủ Thừa.

Trung đoàn 16 theo đường 4 đánh vào Bình Điền, An Lạc rồi tiến vào Chợ Lớn. Các trung
đoàn 24, 38 từ Hưng Long, Đa Phước, nam cầu chữ Y được nhân dân đưa xe đò chở vào thành
phố đánh chiếm Tổng nha cảnh sát ngụy sáng ngày 30 tháng 4.

Tại hướng đông, quân đoàn 4 tiến đánh Trảng Bom, Hố Nai, Hốc Bà Thức và căn cứ quân
khu 3 ngụy, sân bay Biên Hoà và thị xã Biên Hoà; một cánh khác đánh chiếm Tam Hiệp. Xe tăng
của quân đoàn 4 vòng ra xa lộ, theo sau quân đoàn 2, tiến vào thành phố chiếm Bộ quốc phòng
ngụy, cảng Bạch Đằng và đài phát thanh.

Tại hướng đông-nam, quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong; sư đoàn 3 (quân khu 5)
diệt 1 lữ đoàn dù, giải phóng Bà Rịa, rồi tiến xuống giải phóng Vũng Tàu; một cánh đánh chiếm
Long Thành rồi tiến về Nhơn Trạch, một cánh vượt sông Buông tiến lên Long Bình. Trước đó,
đoàn 116 đặc công đã hai lần tiến công cầu Đồng Nai, đánh tan 1 tiểu đoàn dù ngụy và diệt một
đoàn xe ngụy 15 chiếc từ Long Thành chạy về, chiếm giữ cầu và nam khu Long bình đợi quân
chủ lực vào. Đồng chí Tống Việt Dương, Anh hùng quân đội, cho đoàn 116 (trừ 2 đại đội ở lại
giữ cầu) lên xe tăng của lữ đoàn 203 quân đoàn 2 cùng tiến vào thành phố theo xa lộ Biên Hoà-
Sài Gòn. Đồng chí hướng dẫn xe tăng ta đánh vào khu liên trường huyện cảnh sát ngụy ở Tăng
Nhơn Phú, diệt và làm tan rã địch ở đây rồi tiến đến Cầu Rạch Chiếc. Tại đây một đơn vị biệt
động đã anh dũng chiến đấu giữ cầu chờ quân chủ lực vào. Tới khu vực xã An Phú (Thủ Đức),
bộ binh địch bắn ra ráo riết; đoàn 116 đã đánh tan bọn này để xe tăng ta tiếp tục tiến lên. Đoàn xe
tăng tới ngã tư Hàng Canh thì gặp xe của cán bộ tình báo ta trong thành phố ra bắt liên lạc, dẫn

100
đường đến Thị Nghè rồi theo đại lộ Thống Nhất vào chiếm dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 ngày 30
tháng 4 năm 1975.

Các lực lượng tập trung của thành phố Sài Gòn-Gia Định đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao; đã đánh chiếm và giữ vững các cầu vào thành phố không cho địch phá, chiếm giữ các
địa bàn, đón và dẫn đường quân chủ lực vào thành phố. Chiếm giữ cầu xa lộ Đồng Nai, cầu
Ghềnh, cầu Rạch Cát, cầu Mới, cầu Rạch Chiếc, cầu Bình Phước, cầu Chợ Mới, cầu Tân An, cầu
Bông, cầu Tham Lương. cầu Bà Hom, cầu Phú Lâm, cầu Nhị Thiên Đường, hai lần tiến công cầu
Tân cảng Sài Gòn. Ngoài ra còn đánh chiếm nhiều mục tiêu; Bến Gò, nam khu Long Bình, sở chỉ
huy trung đoàn 15 thiết giáp ngụy căn cứ Bình Trung, Phú Hữu, các căn cứ dọc lộ 8, lộ 15, Tân
Thành Đông, Xuân Thới Thượng, ngã ba Giồng ngã năm Vĩnh Lộc, Tân Thới Nhất, Tân Thới
Hiệp, Tân Hào, Tân Túc, đài phát thanh Quân Tra, trạm ra-đa Phú Lâm, ấp Bình Hưng, trụ sở
hành chính quận 7, căn cứ Ky Thù Ôn, căn cứ 61 pháo binh tại Cổ Loa, trại Phù Đông (Gò Vấp),
v.v...

Đặc biệt đoàn 10 đã đánh chiếm căn cứ Phước Khánh, cảng hải quân, kho dầu Nhà Bè,
khống chế sông Lòng Tàu và sông Sài Gòn, cắt đường ra biển, bắn chìm, bắn cháy 12 tàu địch.
Trung đoàn "Quyết thắng" (Gia Định 1) tiến công 3.000 tên địch từ Đồng Dù và Hậu Nghĩa chạy
về, buộc chúng phải đầu hàng. Tiểu đoàn 4 Gia Định cùng với đặc công mở hai cửa phía bắc sân
bay chờ chủ lực vào. Trung đoàn "Đất thép" (Gia Định 2) từ lộ 8 tiến chiếm chi khu Hóc Môn rồi
tiến thẳng xuống tiểu khu Gia Định. Tiểu đoàn 197 từ Tân Kiên tiến qua An Lạc chiếm lộ 4 (ở
ngã ba lộ 4 - xa lộ Đại Hàn) diệt địch ở Đồng Khánh - Trần Hưng Đạo - Lê Lợi- Tự Do tiến vào
dinh Độc lập, sau đó chiếm công ty điện lực và bốt cảnh sát cạnh hạ viện ngụy.

Phối hợp với không quân và pháo binh chủ lực đánh phá sân bay Tân Sơn Nhất, trung đoàn
115 đặc công đã bắn 100 đạn ĐKB và trung đoàn 117 bắn 200 đạn ĐBK vào sân bay.

Lực lượng vũ trang tại chỗ của nhiều huyện, quận đã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt và
làm tan rã ngụy quyền các cấp, giành quyền làm chủ từ xã ấp, phường khóm trở lên.

Mũi nổi dậy của quần chúng thật sôi nổi. Trước sự thất bại và tan rã của quân ngụy, quần
chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ đã giải phóng các huyện lỵ Củ Chi, Hóc Môn,
Gò Vấp, Thủ Đức, Bình Chánh. Trước khí thế tiến công của các binh đoàn chủ lực của lực lượng
vũ trang địa phương và nổi dậy của quần chúng, ngụy quyền địch ở hầu hết các xã ấp tan rã
nhanh chóng. Quần chúng còn ráo riết vận động binh lính ngụy, làm cho các sắc lính địa phương
của địch tan rã nhanh chóng. Tại Bình Chánh, 4 chị phụ nữ gọi hàng 2 tiểu đoàn bảo an. Ở nội
thành, khi các cánh quân chủ lực của ta tiến vào, quần chúng kết hợp với một ít lực lượng vũ
trang tại chỗ đã vùng dậy đánh chiếm một số vị trí rồi treo cờ, vận động, uy hiếp làm tan rã địch,
chiếm trụ sở khóm, phường. Những nơi quần chúng đã nổi dậy giành được quyền làm chủ là:

- Quận 1: Phường Trần Quang Khải, xóm Chùa xưởng Nông Cơ.

- Quận 2: Phường Huyện Sĩ, phường Bến Thành.

- Quận 3: Phường Bàn Cờ, phường Trương Minh Giảng, cuộc cảnh sát quận và toà hành
chính quận.

101
- Quận 4: Phường Khánh Hội, phường Xóm Chiếu, nhà máy chỉ Khánh Hội.

- Quận 5: Phường Chợ Quán, phường An Đông, câu lạc bộ sĩ quan, đồn Cây Mai, cuộc
cảnh sát quận, toà hành chính quận.

- Quận 6: Phường Bình Tây, phường Phú Lâm, phường Bình Phú, phường Chợ, cuộc cảnh
sát quận, toà hành chính quận.

- Quận 7: Phường Hàng Thai, phường Bến Đá, phường Cây Sung, phường Bình Đông, cuộc
cảnh sát quận, toà hành chính quận.

- Quận 8: Phường Rạch Ông, phường Hưng Phú, phường Chánh Hưng, toà hành chính
quận.

- Quận 10: Phường Nguyễn Tri Phương, phường Chí Hoà, phường Minh Mạnh, phường
Nhật Tảo, phường Phan Thanh Giản, toà hành chính quận.

- Quận 11: Phường Bình Thới, phường Cầu Tre, cuộc cảnh sát quận, toà hành chính quận.

- Quận Phú Nhuận: Ấp Đông Nhất, ấp Đông Ba, ấp Trung Nhất, ấp Tây Nhìn.

- Quận Tân Bình: xã Phú Thọ Hoà, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hoà, Phú Tân Sơn.

Ấp Bắc Ái 13, các trụ sở các ty và toà hành chính tỉnh Gia Định, xã Bình Quới tây, khu vực
Thị Nghê, trụ sở hội đồng xã Thạch Mỹ Tây thuộc Bình Hoà (nay là quận Bình Thạnh).

Ngoài ra, ở những phường còn lại, trước khí thế tổng tiến công và nổi dậy của ta, ngụy
quyền và toàn bộ cảnh sát, phòng vệ dân sự đã tan rã tại chỗ.

Thành tích nổi bật của nhân dân thành phố là toàn bộ các xí nghiệp công nghiệp lớn nhỏ,
các kho lương thực, vật tư đều được giữ gìn chờ người của cách mạng vào tiếp nhận. Nhân viên
các công sở đã giữ gìn tài sản, đặc biệt là các hồ sơ quan trọng chờ người của ta vào bàn giao. Có
người giữ kho tiền, vàng đã giấu chìa khoá rồi đi trốn, chờ tình hình tương đối ổn định mới mời
Ban quân quản đến giao nộp đầy đủ. Dưới đây là một vài ví dụ điển hình:

- Xí nghiệp Vimitex: tự vệ mật dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng đã làm chủ nhà máy trước
ngày 30 tháng 4.

- Xí nghiệp Phong Phú: nửa giờ trước khi tổng thống ngụy tuyên bố trên đài phát thanh, 7
nữ công nhân cơ sở của ta đã bắt "nhân dân tự vệ" của ngụy, kéo cờ cách mạng làm chủ nhà
máy.

- Xí nghiệp Liên Phương (nay là Phước Long): công nhân dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng
đã chiếm nhà máy và treo cờ cách mạng.

102
- Xí nghiệp Vinatexcô: Công nhân đã chiếm giữ nhà máy trước ngày 30 tháng 4.

- Nhà đèn Chợ Quán: Công nhân đã chiếm giữ nhà máy và treo cờ từ tối 29 tháng 4.

- Nhà đèn Thủ Đức: Đồng chí Đô, cán bộ công vận Thủ Đức, vào nhà máy và tiếp tục sản
xuất, không để một giờ mất điện.

- Nhà máy nước Thủ Đức: Trước 30 tháng 4 mấy ngày đã có nhiều tốp lính ngụy và xe pháo
từ Long Khánh chạy về đóng trong nhà máy, những công nhân được đảng viên lãnh đạo vẫn tích
cực chuẩn bị và may sẵn hai lá cờ cách mạng. Vào lúc 6 giờ sáng ngày 30 tháng 4, khi có tiếng
xe tăng của ta từ phía cầu Đồng Nai tiến vào, đồng chí Muôn, đảng viên, đã treo một lá cờ của ta
ở nơi cao nhất. Địch đóng tại nhà máy tưởng quân ta đã vào tới nơi nên bỏ chạy tán loạn. Ta đã
bảo vệ nhà máy an toàn, tiếp tục cung cấp đủ nước cho thành phố.

Ngay sau khi giải phóng, công nhân, thanh niên, học sinh, trí thức đã góp sức giữ gìn trật tự,
an ninh, vệ sinh công cộng, bảo vệ thành phố. Các hiện tượng cướp bóc, hôi của được chấp dứt
ngay. Mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Sự đóng góp to lớn của nhân dân đến nay vẫn chưa tổng
kết được.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, công tác binh vận, tình báo, an ninh, công tác vận
động các tầng lớp trên, việc vận dụng sách lược của Đảng đã đóng góp rất có hiệu quả vào thắng
lợi. Tổ chức của ta từ nhiều cánh, nhiều phía, đã có ảnh hưởng tới một số người chủ chốt trong
ngụy quyền trung ương, bộ tổng tham mưu và cảnh sát ngụy, góp phần làm cho ngụy quyền,
ngụy quân cảnh sát và các bộ máy kìm kẹp của ngụy nhanh chóng tê liệt và tan rã.

Cho đến nay vẫn chưa có số liệu tổng kết chung về chiến dịch Hồ Chí Minh. Riêng về lực
lượng vũ trang và nhân dân thành phố, bước đầu đã tổng hợp được kết quả diệt địch như sau: diệt
31.305 địch, bắt 12.619 tên; chiếm 9 cầu, 2 kho, 21 đồn, 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu, 21 phân chi
khu và trụ sở tề, 1 tiểu khu, 1 bến cảng (Tân Cảng) và nhiều cơ sở khác, khu 12.275 súng, 88 xe
quân sự, 183 máy truyền tin, 216 tấn đạn và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Khoảng 40 vạn quân ngụy và hơn 10 vạn cảnh sát đã ra trình diện sau ngày giải phóng. Việc
tiếp quân thành phố nhìn chung là tốt. Ở một số nơi, kẻ xấu lợi dụng thời cơ đứng ra tổ chức
chính quyền, mạo nhận cách mạng nhưng ta đã kịp thời phát hiện, giải tán và thiết lập chính
quyền cách mạng chân chính.

Uỷ ban quân quản được tổ chức nhanh chóng, với 2.600 cán bộ, nhân viên, đã làm được
nhiệm vụ bảo vệ và quản lý thành phố, truy quét địch, giữ gìn an ninh, trật tự. Chỉ sau một tháng
rưỡi, ta đã xây dựng và củng cố được chính quyền cách mạng: xây dựng và nắm chắc được chính
quyền ở tất cả 91 phường trong thành phố; nắm chắc được 413 khóm trong tổng số 552 khóm;
xây dựng và nắm chắc được chính quyền ở tất cả 79 xã; xây dựng được chính quyền ở 149 ấp
trong tổng số 374 ấp.

Xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng cách mạng cũng có bước phát triển nhảy vọt.
Trước ngày 30 tháng 4, ở nội thành chỉ có 735 đảng viên thì đến ngày 15 thang 6, đã có 2.013
đảng viên (thuộc Đảng bộ thành phố). Ở ngoại thành tới tháng 6 đã có 160 chi bộ với 555 đảng

103
viên và 354 đoàn viên. Tới ngày 15 tháng 6, ở nội thành đã có 1.001 cán bộ và chíến sĩ an ninh
và 8.676 cán bộ, chiến sĩ tự vệ và bộ đội địa phương.

Phần lớn các xí nghiệp công nghiệp được phục hồi và sản xuất bình thường. Nhiều vấn đề
xã hội to lớn được giải quyết: cứu đói cho hàng triệu người; tập trung chữa chạy ngay cho 10 vạn
người nghiện xì ke, ma tuý; giải quyết đưa về quê và đi sản xuất 10 vạn gái bán dâm, chữa chạy
cho hàng chục vạn người mắc các bệnh hiểm nghèo; truy quét hơn 5.000 tên lưu manh bị giam ở
các khám xổng ra khi giải phóng...

Chỉ 5 tháng sau ngày giải phóng, thành phố chấm dứt chế độ quân quản, bộ máy chính
quyền cách mạng đã hoạt động đều ở tất cả các cấp, cuộc sống và mọi sinh hoạt đều bình thường.
Đó là một thành tích to lớn của thành phố sau ngày toàn thắng.

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh là kết quả của 21 năm chống Mỹ, cứu nước, của 30
năm chiến tranh giải phóng và giữ nước, của 45 năm vận động cách mạng của Đảng ta nói chung
và của Đảng bộ thành phố nói riêng. Đó là kết quả sức mạnh tổng hợp của quân và dân cả nước,
của các binh đoàn chủ lực cùng với các lực lượng chính trị và lực lượng quân sự tại chỗ, của các
giai cấp cách mạng và tầng lớp nhân dân yêu nước của thành phố, trước hết là giai cấp công
nhân, nông dân và nhân dân lao động, thanh niên, trí thức yêu nước và tiến bộ. Đó là thắng lợi
của tư tưởng chiến lược tiến công với đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng
sáng tạo và linh hoạt, là cuộc tiến công và nổi dậy rất kịp thời, mạnh mẽ, phối hợp nhịp nhàng
của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, trước hết là của Bộ Chính trị, Quân uỷ
Trung ương và của Trung ương Cục miền Nam.

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh là kết tinh tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, lòng
hy sinh dũng cảm vô bờ bến của nhân dân và quân đội anh hùng của chúng ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng.

104
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Đại tá ĐẶNG VĂN TỐ

Từ mùa khô 1974, bộ đội chủ lực Miền đã tiến công thắng lợi giải phóng Phước Long.
Đồng bằng sông Cửu Long mở từng chiến dịch tiến công tổng hợp từ tháng 5 đến tháng 12 năm
1974 đánh phá bình định trên khắp cả ba vùng. Có hướng tiến công bằng vũ trang (chủ lực khu),
có khu vực tiến hành nổi dậy bằng chính trị và binh vận có vũ trang hỗ trợ, chủ động gỡ đồn như
ở Thạch Tri, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng, dọc sông Măng Thích, Vĩnh Long, vùng yếu Gò Công, v.v.
mở ra nhiều vùng giải phóng và làm chủ rộng lớn. Bộ máy “bình định” của địch ở cơ sở bị rệu
rã, chỗ nào ta mở là địch bỏ, đơn vị nào bị diệt là chúng xoá luôn phiên hiệu. Chúng đôn quân
lãnh thổ lên các liên đoàn bảo an cơ động. Cuối cùng, vùng 4 chiến thuật của địch chỉ còn chủ
lực và các liên đoàn bảo an, lực lượng vũ trang phản động ở cơ sở coi như suy sụp hẳn. Tên tư
lệnh vùng 4 chiến thuật đã phải thú nhận trong một báo cáo: “Ở quân khu 4, an ninh ngày một
sụp đổ từ cuối năm 1973, lực lượng quân lãnh thổ sa sút nghiêm trọng, nếu để kéo dài thêm nữa
quân lãnh thổ sẽ tan rã, đồn bốt sẽ không còn, không thể nào bình định được. Hiện cộng sản đánh
khắp nơi không ngăn chặn được, lực lượng lãnh thổ chưa chấn chỉnh xong, đã mất đất, mất dân
mà thiếu khả năng thu hồi thì dần dần sẽ chết. Bình định sẽ thất bại mà nếu có làm được thì cũng
bị phá sạch”.

Vào mùa xuân năm 1975, trong thế liên tục tiến công và nổi dậy,từ tháng 2 đến tháng 3 năm
1975, thế chiến tranh nhân dân đánh phá “bình định” của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long
đã phát triển mạnh mẽ, đều khắp ra sát các thị xã, thị trấn, các trục giao thông chiến lược thuỷ
bộ, các căn cứ quân sự lớn của địch (Cần Thơ, Mỹ Tho). Ta đã mở thế luồn sâu, tạo được chỗ
đứng chân và làm chủ nhiều lõm giải phóng ở vùng đông Long An, vùng yếu Gò Công, vùng
Hoà Hảo An Giang, các cán bộ chính trị và binh vận, lực lượng đặc công, biệt động đã cài sâu
vào các thị xã, thị trấn, bám chặt các đơn vị địch.

Đến tháng 3 năm 1975, lực lượng địch bố trí như sau: sư đoàn 7 ở Mỹ Tho, Vĩnh Trà, sư
đoàn 9 ở biên giới, sư đoàn 21 ở Chương Thiện. 105 liên đoàn bảo an bố trí ở các tỉnh, các liên
đoàn biệt động quân rút khỏi đồng bằng sông Cửu Long về phòng thủ miền Đông Nam Bộ. Về
phía ta, lực lượng, vũ trang, binh vận các tỉnh phát triển lớn mạnh nhanh chóng chưa từng thấy
và hình thành thế bố trí sẵn sàng tiến công và nổi dậy trên các địa bàn trọng điểm: sư đoàn 8 ở
Mỹ Tho, sư đoàn 4 ở Chương Thiện, 2 trung đoàn độc lập cùng 1 tiểu đoàn pháo của quân khu 9
ở Vĩnh Trà. Mỗi tỉnh có 2-3 tiểu đoàn, riêng tỉnh Bến Tre có trung đoàn Đồng khởi, huyện có 1-2
đại đội, xã có 1-2 trung đội du kích.

Trước thắng lợi lớn của hai chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và của quân và dân
miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị
nhận định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước sang giai đoạn phát
triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt
của địch đã chín muồi”. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị quyết định “nắm vững hơn nữa thời cơ chiến
lược, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, có quyết tâm lớn thực hiện tổng
công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất; tốt nhất là trong tháng 4, không thể để

105
chậm”. Đối với chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Cần gấp rút tăng
thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn. Nhanh chóng thực hiện nhiệm vụ chia cắt và bao vây chiến
lược từ phía tây áp sát Sài Gòn, triệt hẳn đường số 4, đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng
phía đông đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ
Bà Rịa, Ô Cấp”.

Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, chấp hành nghị quyết 15 của Trung
ương Cục ngày 29 táng 3 năm 1975 và mệnh lệnh của Bộ tư lệnh miền, quân và dân đồng bằng
sông Cửu Long đã triển khai thế trận tiến công và nổi dậy: cắt đứt và chiếm giữ lộ 4 đoạn bắc
Mỹ Thuận – Long An, Cần Thơ – Vĩnh Long, chặn không cho địch ở vùng 4 chiến thuật tiếp ứng
cho Sài Gòn hoặc từ Sài Gòn rút chạy về co cụm ở miền Tây, khống chế sân bay Trà Nóc. Quân
khu 8 tổ chức một cánh quân tương đương sư đoàn mở đường xuyên qua phía đông Long An tiến
qua hướng Nhà Bè - quận 8 trực tiếp tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Các tỉnh bằng sức mạnh
tổng hợp thực hành tiến công và nổi dậy; chủ lực quân khu chi viện ba trọng điểm Cần Thơ,
Vĩnh Long, Mỹ Tho.

Phối hợp với chiến dịch Hồ Chí Minh và phát huy thắng lợi của trận quyết chiến cuối cùng,
đồng bằng sông Cửu Long đã đứng lên tự giải phóng. Quán triệt sự chỉ đạo chiến lược của Bộ
Chính trị Trung ương Đảng, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long không chờ giải phóng xong
Sài Gòn mà hiệp đồng chặt chẽ với chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng loạt tiến công và nổi dậy, tự
giải phóng bằng lực lượng bản thân.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tư lệnh miền, quân khu 8 đưa một bộ phận lực lượng vũ trang
(3 trung đoàn) hành quân cấp tốc phối hợp tiến công trên hướng nam Sài Gòn. Theo kế hoạch đã
quy định, từ đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt
tiến công vào các thành phố, thị xã, đảo. Phong trào nổi dậy của nhân dân diễn ra dưới nhiều
hình thức phong phú và phát triển ngày càng mạnh, làm chủ nhiều địa phương. Quân chủ lực khu
8, khu 9, phối hợp với bộ đội địa phương và du kích bao vây thị xã Mỹ Tho, Cần Thơ, cắt đường
số 4, hiệp đồng nhịp nhàng với đòn đánh lớn của các binh đoàn chủ lực trên hướng Sài Gòn –
Gia Định. Sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 30 ngày 30 tháng 4, sức mạnh
tổng hợp của tiến công và nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long càng lên mạnh. Trà Vinh là tỉnh
được giải phóng sớm nhất (12 giờ ngày 30 tháng 4). Các tỉnh Bạc Liêu, Gò Công, Sóc Trăng,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Côn Đảo được giải phóng trong ngày 30 tháng 4. Các tỉnh Bến
Tre, Vĩnh Long, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, đảo Phú Quốc được giải phóng vào ngày 1
tháng 5 năm 1975.

* *

Trong hơn 20 năm chống Mỹ xâm lược, phong trào cách mạng ở đồng bằng sông Cửu Long
nhiều lúc lên cao, thắng lợi giòn giã, nhưng cũng có lúc xuống thấp, bị thiệt hại, gặp vô vàn khó
khăn. Nhưng được sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Bộ chính trị, Quân uỷ
Trung ương, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền, Đảng bộ và các lực lượng vũ trang đồng bằng
sông Cửu Long đã biết tích luỹ kinh nghiệm, phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, sáng tạo
linh hoạt trong chỉ đạo tiến công và nổi dậy bằng hai chân, ba mũi, trên cả ba vùng trong suốt

106
cuộc kháng chiến. liên tục đánh bại các biện pháp “bình định, lấn chiếm” của địch, giành dân,
giành quyền làm chủ. Mùa xuân năm 1975, tận dụng thời cơ và phát huy thành quả của các trận
quyết chiến chiến lược Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và phối hợp với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã phát huy sức mạnh tổng hợp, tiến công và nổi dậy
mạnh mẽ trên một hướng chiến lược, tiêu diệt và bức toàn bộ ngụy quân và ngụy quyền vùng 4
chiến thuật đầu hàng tại chỗ, góp phần đập tan ý định co cụm chiến lược của địch về miền Tây
Nam Bộ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Trung ương Cục, Quân uỷ Miền giao cho, giải phóng
hoàn toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng, các Đảng bộ đồng bằng sông Cửu Long
đã lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện liên tục tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm
chủ, đánh bại các âm mưu và biện pháp chiến lược của địch trên cả ba vùng, giành thắng lợi từng
bước đi lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình đó nổi lên vấn đề gay gắt, quyết liệt
thường xuyên là đánh bại biện pháp chiến lược của địch “bình định, lấn chiếm”, gom dân, lập
“ấp chiến lược” trên khắp đồng bằng sông Cửu Long.

Dưới đây xin đề cập một số ý kiến nghiên cứu về tính đặc thù của đồng bằng sông Cửu
Long trong cuộc đấu tranh chống địch “bình định” gom dân.

1. Hoạt động của địch “bình định” đồng bằng sông Cửu Long

Để thực hiện mục tiêu cơ bản của chiến tranh xâm lược là chiếm đất, kiểm soát dân, lập nên
bộ máy tay sai phản động để cai trị theo kiểu thực dân mới, một trong những ý đồ cơ bản của đế
quốc Mỹ khi tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam là lấy vùng đồng bằng sông
Cửu Long làm nơi khai thác nhân lực, vật lực cung cấp cho chiến tranh, tập trung vào chiến
trường Nam Bộ để diệt các lực lượng vũ trang chính trị của ta, xoá bỏ ảnh hưởng của cách mạng
trong nhân dân, nhanh chóng đặt ách thống trị thực dân mới trên toàn chiến trường này. Để thực
hiện âm mưu nói trên, đế quốc Mỹ đã tập trung nỗ lực thực hiện chương trình “bình định” trọng
điểm là đồng bằng sông Cửu Long, coi đó là một trong những biện pháp chiến lược xuyên suốt
các giai đoạn của chiến tranh xâm lược.

Địch đã dùng chiến tranh tổng lạc và toàn diện, lấy chính sách lập “ấp chiến lược” làm
trung tâm cho mọi kế hoạch “bình định”. “Ấp chiến lược” là điểm tựa của chế độ tay sai Mỹ. Mỹ
- ngụy đã lấy vùng đồng bằng sông Cửu Long làm địa bàn chủ yếu của chương trình “bình định”
nông thôn nhằm gom dân, vơ vét nhân lực, vật lực tại chỗ phục vụ chiến tranh xâm lược, kiểm
soát cho được đại bộ phận đất đai và cư dân nông thôn, coi đó là mục tiêu sống còn. Chúng sử
dụng cả quân Mỹ, quân chủ lực ngụy, các lực lượng bản an, dân vệ và bộ máy “bình định” to lớn
có cố vấn Mỹ chỉ huy, áp dụng những biện pháp khốc liệt, tàn bạo, thâm độc. Từ chiến dịch này
đến chiến dịch khác, chúng dùng mọi thủ đoạn chiến thuật “tân kỳ” như “trực thăng vận”, “thiết
xạ vận’, “phượng hoàng vồ mồi”, rồi chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt và bình định”, “quét và
giữ”, lấn chiếm và đóng đồn, gom dân lập ấp “tân sinh”, ấp “đời mới”, “ấp chiến lược”, v.v.
Những biện pháp chiến tranh tàn bạo được kết hợp với các thủ đoạn chiến tranh tâm lý, chiến
tranh gián điệp, chiêu hồi, chiêu hàng, kinh tế phồn vinh giả tạo, văn hoá nô dịch, đồi trụy để
mua chuộc, lừa bịp nhân dân, chia rẽ Bắc Nam, chia rẽ dân tộc, tôn giáo với cách mạng, nhằm
đánh tróc hạ tầng cơ sở của Đảng ra khỏi quần chúng trên cả ba vùng ở đồng bằng sông Cửu
Long.

107
Biện pháp này thất bại, địch bày ra biện pháp khác, biện pháp sau ác liệt và thâm độc hơn
biện pháp trước. Chúng ra sức quân sự hoá bộ máy hành chính tỉnh, huyện, xã (phân chi khu), sử
dụng cả máy bay B52, chất độc hoá học, cào nhà gom dân, tiến hành “bình định” khốc liệt các
vùng trọng điểm như U Minh, Chương Thiện, nam bắc lộ 4, Mỹ Tho, vùng ruột Đồng Tháp
Mười, vùng Long An giáp ven thành phố Sài Gòn. Địch kết hợp “bình định trên diện rộng” khắp
các tỉnh với các cuộc hành quân cảnh sát để tiến hành “bình định cấp tốc”, “bình định bổ túc”,
“bình định đặc biệt”, rồi đến “cộng đồng tự vệ”, “cộng đồng phát triển”. Tất cả mọi kế hoạch
bình định đều lấy quân sự là biện pháp chủ yếu và hàng đầu, hòng tiêu diệt và đẩy bật các lực
lượng vũ trang ta, nhằm mục tiêu cao nhất là bình định cho được, kiểm soát cho được dân.

Đây là một loại hoạt động thường xuyên diễn ra trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược thực
dân mới của đế quốc Mỹ trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long.

2. Biện pháp chống phá “bình định” của ta trên chiến trường đồng bằng sông Cửu
Long.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đông dân, nhiều của, có truyền thống cách mạng chống
phong kiến, chống đế quốc xâm lược, nhất là từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo, lại kế thừa được
kinh nghiệm phong phú của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã sớm phát
hiện ý đồ chiến lược “bình định” đồng bằng sông Cửu Long của địch, nhận định và đánh giá
đúng tình hình, kịp thời đề ra những biện pháp toàn diện để chống phá “bình định” trên chiến
trường này. Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng qua từng giai đoạn chiến lược, các Đảng bộ và
lực lượng vũ trang đồng bằng sông Cửu Long đã rút ra một bài học sâu sắc: địa phương nào kiên
quyết và có phương pháp chống phá “bình định” thích hợp, kết hợp chống phá thường xuyên với
từng đợt cao điểm, có điểm và có diện rộng khắp cả ba vùng, dùng sức mạnh tổng hợp của ba
mũi giáp công để tiến công và phản công liên tục vào các mũi “bình định, lấn chiếm” của địch
thì ở đó giành được thắng lợi chắc chắn. Về hình thức đấu tranh thì khéo vận dụng kết hợp nhiều
hình thức từ phá lỏng kìm kẹp bằng lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận tại chỗ, đến huy động
lực lượng tổng hợp phá banh, phá dứt điểm, bung dân về làng cũ, từ xây dựng ấp xã chiến đấu
đến xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Phong trào chống phá “ấp chiến lược” phát triển
buộc địch phải co lại. Địa phương nào không nắm vững quy luật trên (như trong những năm
1962, 1969 – 1971) thì phong trào cách mạng ở đó sa sút, gặp nhiều khó khăn tổn thất, tạo điều
kiện cho địch thực hiện kế hoạch “bình định” của chúng.

Những năm 1963 – 1968, đặc biệt là năm 1972, phối hợp với toàn miền, đồng bằng sông
Cửu Long đã huy động sức mạnh tổng hợp mở các chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá “bình
định”, đập tan địch từng mảng, đưa thế “bình định” của địch vào con đường suy sụp. Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã phối hợp với
chiến dịch Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ tiến công và nổi dậy tại chỗ làm phá sản chiến lược
“bình định nông thôn” của đế quốc Mỹ xâm lược.

Đây là bài học dùng sức mạnh tổng hợp, lấy quân sự làm đòn xeo trong mọi cuộc nổi dậy và
tiến công, đánh phá “bình định” trong suốt quá trình chiến tranh cách mạng ở đồng bằng sông
Cửu Long.

108
3. Thực hành bám trụ kiên cường để giành và giữ dân, giữ vững và phát huy quyền
làm chủ.

Đặc điểm địa hình của đồng bằng sông Cửu Long là nhiều sình lầy, sông ngòi, dễ bị chia
cắt, xa sự chi viện vật chất của Trung ương. Trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong kháng
chiến chống Mỹ, do tương quan giữa ta và địch cả về thế và lực, do đặc điểm của chiến trường,
Đảng bộ và các lực lượng vũ trang ở từng xã, huyện, tỉnh và cả từng quân khu đã dùng mọi
phương pháp đấu tranh kết hợp chính trị, quân sự và binh vận một cách kiên cường, linh hoạt để
bám trụ địa bàn với khẩu hiệu hành động “Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám
địch” (ba bám), bằng mọi biện pháp chủ động và sáng tạo về lãnh đạo, về chiến đấu, xây dựng,
sản xuất, bảo đảm hậu cần, mở đường vận tải trên biển liên lạc với Trung ương, với Miền, v.v.
Quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đã làm như vậy để tồn tại và phát triển, liên tục chiến
đấu và chiến thắng từ nhỏ đến lớn, đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến lên
cùng toàn miền và cả nước giành thắng lợi hoàn toàn.

Từ năm 1954, lực lượng cách mạng được bố trí ở lại đồng bằng sông Cửu Long từ con số
hàng vạn đến trước đồng khởi năm 1960 chỉ còn hàng ngàn. Nhưng quần chúng đã làm nên cuộc
Đồng Khởi vĩ đại là nhờ cán bộ, đảng viên đã kiên cường bám trụ trong dân trên từng địa bàn
mình phụ trách, biến hàng chục vạn người dân trở thành lực lượng cách mạng vùng lên đồng
khởi. Rồi đến những năm 1969 – 1971, chiến trường đồng bằng sông Cửu Long gặp vô vàn khó
khăn nhưng lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang các cấp đã kiên trì bám
trụ từng địa bàn, phát huy tinh thần tự lực tự cường, tận dụng được sự chi viện của trên để chiến
đấu thắng lợi và xây dựng thành công; sang năm 1972 đã tiến lên mạnh mẽ rồi đến mùa xuân
năm 1975 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Trung ương Đảng, Trung ương Cục, Bộ tư lệnh
Miền giao cho.

4. Nắm vững quy luật đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng miền Nam,
phát huy sức mạnh tiến công của bộ đội tập trung khu, tỉnh.

Đấu tranh quân sự là hình thức đặc trưng cơ bản của chiến tranh. Đấu tranh quân sự có quy
luật riêng, nhưng ở nước ta quy luật đó không vận động một cách đơn độc mà vận động trong sự
kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, với khởi nghĩa vũ trang, với tất cả các mặt đấu tranh
khác. Từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng, đấu tranh quân sự ngày càng có vai
trò quan trọng. Quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác dụng và tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó có quy luật chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định
cuối cùng… Chính vì ta biết kết hợp sức mạnh của cả nước, sức mạnh của nhân dân và lực lượng
vũ trang, kết hợp các lực lượng, các hình thức đấu tranh nên đã tạo ra sức mạnh to lớn để thực
hành chiến lược tiến công. Tuy nhiên trong điều kiện lấy nhỏ thắng lớn, ta không thể thực hành
tiến công để giành thắng lợi trong thời gian ngắn, mà phải phát triển thế tiến công từ nhỏ đến
lớn, từ cục bộ đến toàn bộ trong một cuộc chiến tranh lâu dài, vừa đánh vừa xây dựng, càng đánh
càng mạnh, đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Hình thái chiến tranh và đấu tranh vũ trang đã diễn ra như vậy trên chiến trường miền Nam.
Tại chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, đấu tranh vũ trang cũng đã diễn ra theo quy luật đó,
phù hợp với đặc điểm về địch, về ta tại chiến trường.

109
Ở đồng bằng sông Cửu Long, trong quá trình từ đồng khỏi phát triển thành chiến tranh cách
mạng, các Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo quần chúng và lực lượng vũ trang tại chỗ sử dụng
bạo lực cách mạng đúng đắn, biết phối hợp các lực lượng và các mặt đấu tranh, tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn trên cả ba vùng. Chúng ta lấy lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị làm hai
lực lượng cơ bản, đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị làm hai hình thức đấu tranh cơ bản,
kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công trong mọi cuộc nổi dậy và tiến công, đánh phá “bình định, lấn
chiếm” của địch trong suốt cuộc chiến tranh. Chặng đường 21 năm chống Mỹ, cứu nước ở đồng
bằng sông Cửu Long đã chứng minh, mũi đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang gồm ba thứ
quân là đòn tiến công quân sự phải đi trước một bước mới, tạo điều kiện cho quần chúng cách
mạng nổi dậy giành quyền làm chủ, dẫn đến sự kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, trong
đó nổi lên vai trò quả đấm của chủ lực khu và bộ đội địa phương tỉnh trong mọi cuộc tiến công
và nổi dậy trên khắp ba vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Mùa xuân 1975, lực lượng vũ trang ba thứ quân vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển
lớn mạnh chưa từng có, đặc biệt ở thời kỳ cao điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào
tháng 4 năm 1975. Mũi tiến công của chủ lực khu và bộ đội địa phương tỉnh, huyện đã thúc đẩy
nhiều loại hình nổi dậy và tiến công, bằng ba mũi rất phong phú: lực lượng vũ trang tiến công từ
ngoài vào, mũi chính trị và binh vận nổi dậy từ bên trong (như ở Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh,
Vĩnh Long, Cần Thơ); mũi đấu tranh chính trị, binh vận, nổi dậy từ bên trong đánh chiếm một số
mục tiêu rồi lực lượng vũ trang tiến vào tiêu diệt hoặc làm tan rã quân địch, bức chúng đầu hàng
(Bạc Liêu, Châu Đốc); ba mũi vũ trang, chính trị, binh vận thực hành kết hợp tiến công và nổi
dậy từ các xã ngoài, tận dụng các loại xe của dân tiến quân vào thị xã, bức địch hàng (Gò Công);
hoặc có nơi ta dùng lực lượng vũ trang bao vây, đưa mũi chính trị và binh vận vào tiến công và
uy hiếp, buộc quân địch phải đầu hàng.

Kinh nghiệm của cuộc chiến đấu lâu dài cũng như bài học sâu sắc của cuộc tiến công và nổi
dậy xuân 1975 ở đồng bằng sông Cửu Long đã chứng minh trong chiến lược toàn dân đánh giặc,
lấy ba thứ quân làm nòng cốt, tiến công địch bằng hai phương thức tiến hành chiến tranh: chiến
tranh du kích và chiến tranh chính quy, nếu ta không chú trọng đầy đủ xây dựng và phát triển
“quả đấm” quân sự của từng cấp một cách thích hợp thì tình hình nổi dậy và tiến công trên chiến
trường sẽ gặp khó khăn và không thể phát triển được. “Quả đấm” vũ trang từng cấp mạnh và
phát huy đúng vai trò, chức năng của nó, nhất là ở thời điểm quyết định và địa bàn then chốt, thì
phong trào tiến công và nổi dậy sẽ phát triển mạnh, giành thắng lợi giòn giã.

110
TỔ CHỨC, SỬ DỤNG BINH ĐOÀN CHỦ LỰC CƠ ĐỘNG
TRONG GIAI ĐOẠN KẾT THÚC CHIẾN TRANH

Thiếu tướng NGUYỄN KIỆM

Quân đoàn 1 là binh đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ. Từ hậu phương miền Bắc hành
quân gấp vào Nam Bộ tham gia tiến công địch trên hướng bắc của chiến dịch Hồ Chí Minh, quân
đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Qua thực tiễn cuộc hành quân thần tốc và tác chiến của quân
đoàn, xin nêu một số ý kiến về việc tổ chức, sử dụng binh đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ.

Tháng 10 năm 1973, để chuẩn bị cho yêu cầu mới của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, Bộ
đã quyết định thành lập Quân đoàn 1, và xác định rõ: "Xây dựng quân đoàn theo phương hướng
chính quy, hiện đại, có sức chiến đấu cao, sức cơ động lớn, sức đột kích mạnh, sẵn sàng chiến
đấu và hoàn thành nhiệm vụ được giao".

Trên cơ sở phương hướng đó, được sự chỉ đạo chặt chẽ của Quân uỷ Trung ương và Bộ
Quốc phòng, được sự giúp đỡ của cac cơ quan Bộ và các binh chủng, quân chủng, với sự cố gắng
của cán bộ, chiến sĩ trong quân đoàn, trong một thời gian ngắn, quân đoàn đã hình thành về mặt
tổ chức. Về huấn luyện chiến đấu, đã cố gắng làm cho cán bộ chiến sĩ nắm vững vị trí và nhiệm
vụ của quân đoàn, sử dụng thành thạo các trang bị kỹ thuật, tác chiến theo phương hướng tập
trung, hợp đồng binh, quân chủng. Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 bắt đầu
bằng trận Buôn Ma Thuột thì hai sư đoàn trong quân đoàn còn đang đắp đê ở Ninh Bình. Giữa
tháng 3 năm 1975, sư đoàn 320B, sư đoàn phòng không 367 và một số đơn vị tăng cường được
lệnh hành quân vào nam Quân khu 4. Ngày 1 tháng 4, toàn quân đoàn (Trừ sư đoàn 308) nhận
lệnh hành quân vào Đồng Xoài. Lúc này quân đoàn chưa hiểu đầy đủ ý định của trên, nhưng đã
bám sát diễn biến chiến sự, chủ động dự kiến kế hoạch và chuẩn bị cơ động. Ngày 2 tháng 4, với
đội hình kéo dài từ Ninh Bình đến Đông Hà, toàn quân đoàn bắt đầu cuộc hành quân "thần tốc".
Sư đoàn 320B đi đầu, ngày 2 tháng 4 xuất phát từ sông Bến Hải, ngày 13 tháng 4 đến Đồng
Xoài.

Nhờ có phương tiện cơ giới, lại được rèn luyện theo phương hướng một binh đoàn cơ động
luôn luôn có chuẩn bị tương đối đồng bộ và sẵn sàng chiến đấu thường xuyên cộng với sự chi
viện của trên và các đơn vị bạn, quân đoàn đã hành quân bằng phương tiện cơ giới hỗn hợp (tàu
hoả, tàu biển, ô tô), vượt chặng đường dài 1.700 km vào chiến trường đúng thời gian, địa điểm
quy định, kịp thời tổ chức chuẩn bị tác chiến.

Ngày 14 tháng 4, quân đoàn được Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ: tập trung đánh vào
bắc Sài Gòn, phá vỡ tuyến phòng thủ phía bắc và đông - bắc của địch; đánh chiếm Bộ Tổng tham
mưu ngụy và khu binh chủng Gò Vấp, tiếp tục tiêu diệt địch trong nội thành, bảo vệ các mục tiêu
và duy trì trật tự trị an.

Căn cứ vào mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, quyết tâm cơ bản của quân đoàn là:

111
- Chia cắt, cô lập sư đoàn ngụy phòng thủ ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm về Sài
Gòn, đồng thời thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy và khu binh chủng
bằng hành động "táo bạo, thần tốc".

- Hướng chủ yếu là hướng thọc sâu, mục tiêu chủ yếu là Bộ Tổng tham mưu ngụy. Trong
quá trình thọc sâu, không ham đánh dọc đường mà phải bằng mọi cách tiến nhanh đến và đánh
chiếm mục tiêu chủ yếu.

- Trên hướng chia cắt, chủ yếu là chốt chặn đường số 13, bao vây, cô lập sư đoàn 5 ngụy,
không cho chúng co cụm hoặc tháo chạy về Sài Gòn, tiêu diệt, bức hàng và làm tan rã chúng tại
chỗ.

Một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức trong giai đoạn chuẩn bị tác chiến là xây
dựng thế trận tiến công, bảo đảm đưa lực lượng lớn vào sát địch một cách bí mật an toàn. Quân
đoàn đã huy động phần lớn lực lượng công binh, với sự giúp đỡ của các lực lượng tại chỗ (khu
vực tập kết bắc Sài Gòn) nhanh chóng hoàn thành hệ thống đường sá để triển khai và cơ động
lực lượng, trong đó phải mở rộng mặt đường từ 3m lên 6m với chiều dài 26 km; dò gỡ mìn, sửa
chữa và làm mới 80km đường khác.

Ngoài việc đưa lực lượng lớn 1.300 xe vào khu vực chiếm lĩnh, quân đoàn còn phải lo bổ
sung nhanh vật chất cho các phân đội, đạn cho các loại pháo, súng, xăng dầu cho xe. Với nhịp độ
khẩn trương nhất, đến ngày 25 tháng 4, các đơn vị trong từng quân đoàn đã hoàn thành công tác
tổ chức chuẩn bị tác chiến, sẵn sàng phối hợp với các hướng khác và lực lượng tại chỗ tiến công
tiêu diệt địch.

Theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch, thời gian nổ súng đồng loạt là 0 giờ ngày 29
tháng 4.

Để tạo điều kiện đánh nhanh, phát triển nhanh, ngày 27 và 28 tháng 4, sư đoàn 312 và sư
đoàn 320B đã đánh địch ở Bình Mỹ, dốc Bà Nghĩa, tiêu diệt lực lượng nhỏ của địch để tạo điều
kiện đưa lực lượng của quân đoàn áp sát vào đường 16, 14, 13 khu vực Búng và Lái Thiêu.

Trên hướng thọc sâu, từ 5 giờ 45 phút, sư đoàn 320B đã đánh xong Tân Uyên, trên đường
tiến gặp bãi mìn, đội hình sư đoàn chia làm hai. Một cánh gồm trung đoàn 48 và sở chỉ huy sư
đoàn đánh theo sân bay Ông Lình đến đường số 13 xuống chợ Gò Dừa, tiêu diệt địch ở ấp Nai
Hiền, truy kích lữ kỵ binh 3, chặn đầu khoá đuôi tiêu diệt chúng. Đơn vị đã dùng luôn 18 xe tăng
của địch dẫn đường vượt cầu Bình Triệu, đánh thẳng vào Bộ Tổng tham mưu ngụy. Ở cánh thứ
2, trung đoàn 27 vượt ngã ba Búng, đánh qua căn cứ Lái Thiêu, diệt một lực lượng thiết giáp ở
cầu Vĩnh Bình, tiến lên chiếm cầu Bình Phước, vượt sông sông Sài Gòn, đánh thẳng vào khu
binh chủng Gò Vấp.

Trên hướng chia cắt, sau khi chốt chặn bao vây địch, sáng 30 tháng 4, sư đoàn 312 đã đánh
chiếm căn cứ Phú Lợi, sau đó tiến vào giải phóng thị xã Bình Dương. Bộ phận chốt chặn đường
số 13 đã tiêu diệt một bộ phận địch, toàn bộ địch còn lại đầu hàng và tan rã tại chỗ.

112
Như vậy, nhờ có quyết tâm đúng và công tác chuẩn bị chiến đấu hợp lý, biết xử trí tình
huống linh hoạt, phối hợp với các lực lượng tại chỗ, quân đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ chiến
đấu đúng thời gian, yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến dịch, góp phần cho chiến dịch Hồ Chí Minh
giành toàn thắng.

* *

Qua thực tiễn tác chiến của quân đoàn trong chiến dịch Hồ Chí Minh, xin nêu một số suy
nghĩ về vấn đề tổ chức, xây dựng, sử dụng một binh đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ.

1. Về tổ chức, xây dựng binh đoàn chủ lực cơ động

Muốn giành được thắng lợi quyết định trong chiến tranh, cần phải có những binh đoàn chủ
lực cơ động mạnh được tổ chức từ trước để có thời gian tiến hành huấn luyện tập trung thống
nhất. Nếu chỉ ghép các sư đoàn lại rồi tạm thời tổ chức cơ quan chỉ huy thì với mấy vạn quân và
binh khí kỹ thuật lớn, khó có thể cơ động nhanh, chuẩn bị nhanh và bước vào tác chiến kịp thời
với tổ chức chặt chẽ, quyết tâm cao như trong mùa xuân 1975.

Xây dựng các binh đoàn chủ lực cơ động theo phương hướng chính quy hiện đại là hoàn
toàn phù hợp với yêu cầu phát triển của chiến tranh ở giai đoạn kết thúc. Nếu không có số lượng
phương tiện kỹ thuật mạnh với 2.000 xe thì làm sao Quân đoàn 1 có thể cơ động nhanh như vậy?
Không có 300 xe các loại thì làm sao có thể thọc sâu nhanh, đột kích mạnh vào Bộ Tổng tham
mưu ngụy được? Tất nhiên, trang bị hiện đại đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào khả năng cho
phép nhưng nhất thiết phải theo phương hướng đó. Các binh đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ
cũng phải được đặt vào các nhiệm vụ tác chiến trong nhiều tình huống khác nhau, nhưng qua
thực tiễn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, ta thấy các đơn vị chủ lực cơ động của
Bộ cần phải cơ động nhanh, tổ chức nhanh, tác chiến nhanh và đánh hợp đồng binh chủng quy
mô lớn, kiên quyết tập trung để tạo ưu thế áp đảo nhằm đạt được mục đích của chiến dịch.

Nhờ xây dựng và huấn luyện theo phương hướng đó, quân đoàn đã đạt được yêu cầu hành
quân thần tốc, chuẩn bị tác chiến trong thời gian rất gấp và thực hành đột phá thọc sâu với tốc độ
cao. Ngày nay cũng cần huấn luyện cho các đơn vị trong quân đoàn đánh độc lập được, đánh
hiệp đồng được, với các quy mô nhỏ, vừa, lớn. Thực tiễn của trận quyết chiến chiến lược cuối
cùng khẳng định phương hướng xây dựng và huấn luyện cho quân đoàn hành quân nhanh, tổ
chức chiến đấu nhanh, đánh tập trung hợp đồng binh chủng với các quy mô, là một yêu cầu tất
yếu.

2. Về vận dụng cách đánh chiến dịch

Căn cứ vào nhiệm vụ của quân đoàn và cách đánh chung của chiến dịch, quân đoàn đã cân
nhắc nhiều phương án tác chiến khác nhau. Không thể đánh theo cách chờ cho hướng chia cắt
của sư đoàn 312 diệt xong sư đoàn 5 ngụy rồi mới đưa sư đoàn 320B vào thọc sâu, vì như vậy
địch sẽ có điều kiện co cụm và ta không tập trung được lực lượng, không thể đánh nhanh được.
Cũng không nên đồng thời đánh lực lượng ở vòng ngoài và đánh thọc sâu vào bên trong. Quân

113
đoàn đã lựa chọn cách đánh sau đây: dùng sư đoàn 312 bao vây, chia cắt cô lập sư đoàn 5 ngụy
không cho chúng co cụm hoặc tháo chạy về Sài Gòn, bảo đảm cho sư đoàn 320B tiến hành thọc
sâu. Trên thực tế khi ta đã đọt phá thẳng vào nội đô, đánh chiếm cơ quan đầu não của Bộ Tổng
tham mưu ngụy thì sư đoàn 5 địch tuy còn trên 8.000 quân, 4 tiểu đoàn pháo và trên 100 xe tăng
thiết giáp của chiến đoàn 3 đã nhanh chóng suy sụp về tinh thần, rối loạn về tổ chức, bị tiêu diệt
và tan rã tại chỗ.

Diễn biến chiến đấu đã khẳng định cách đánh đó là đúng. Sau khi cánh quân thọc sâu đã
diệt xong căn cứ Tân Uyên, Lái Thiêu, đầu cầu Bình Triệu sáng 30 tháng 4, vượt sông Sài Gòn
đánh vào Bộ Tổng tham mưu ngụy thì 13 giờ cùng ngày, sư đoàn 5 ngụy đã vội vã rút khỏi Lai
Khê, Bến Cát. Bộ phận đi đầu lọt vào trận địa chốt chặn của trung đoàn 209, trên đường số 13,
một số bị tiêu diệt, số còn lại trên vài trăm xe cũng tháo chạy tán loạn. Địch ở trong các căn cứ
cũng rệu rã, bỏ vị trí chiến đấu.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sở dĩ quân đoàn thực hiện được cách đánh như vậy còn do
thời cơ và thế chiến lược, chiến dịch rất thuận lợi: địch đã rệu rã và suy yếu. Nhưng vấn đề cần
nêu ở đây là: trên cơ sở nhiệm vụ được giao, căn cứ vào tình hình địch, địa hình, thời điểm chiến
lược và cách đánh của đơn vị để đạt hiệu suất cao mà tổn thất ít, tìm ra nhiều cách đánh phong
phú để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

3. Phối hợp tác chiến giữa binh đoàn chủ lực với các lực lượng tại chỗ.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, vai trò của các binh đoàn chủ lực đã được khẳng định. Nếu
không có các binh đoàn chủ lực mạnh thì không thể thực hiện được đòn tiêu diệt lớn, giành thắng
lợi quyết định trong chiến dịch và chiến tranh; song chiến tranh nhân dân địa phương cũng có ý
nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng trong chiến tranh nhân dân của ta.

Qua thực tế hoạt động tác chiến của quân đoàn trên một hướng trong chiến dịch Hồ Chí
Minh, càng thấy rõ nếu không có chiến tranh nhân dân ở địa phương phát triển thì các quân đoàn
cơ động chiến lược cũng khó có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ. trong khu vực tác chiến của
quân đoàn, các lực lượng địa phương ở hướng bắc Sài Gòn không chỉ phối hợp chiến đấu mà còn
có nhiều hoạt động khác, như xây dựng cơ sở chính trị, tạo ra địa bàn hoạt động tốt cho quân
đoàn. Từ khi quân đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu đến lúc thực hiện tác chiến chỉ có hơn 6 ngày.
Nhờ địa bàn đã có chuẩn bị (Đồng Xoài), nhờ chính quyền và lực lượng vũ trang tại chỗ giúp đỡ
như trinh sát, dẫn đường, quân đoàn mới nhanh chóng nắm được địch, hiểu biết địa hình để có cơ
sở hạ quyết tâm chính xác. Nhờ có lực lượng vũ trang địa phương luôn luôn bám sát và chiến
đấu với địch nên quân đoàn mới có địa bàn triển khai thế trận xuất phát tiến công. Khu căn cứ
của tỉnh Bình Dương có nhiều hầm hào, vườn cây giúp cho hai sư đoàn ém quân ở nam sông Bé,
giữ được bí mật lực lượng, rút ngắn cự ly tiến công hàng chục km. Trong quá trình tác chiến, địa
phương đã phối hợp giúp đỡ, tạo thuận lợi cho quân đoàn kịp thời bao vây sư đoàn 5 và thọc sâu
vào Bộ Tổng tham mưu ngụy. Hai tiểu đoàn địa phương phối hợp với sư đoàn 312 và sư đoàn
320 vừa chiến đấu, vừa dẫn đường, vừa tham gia giải quyết tù, hàng binh và chiếm lĩnh các căn
cứ. Quân khu 7 vận chuyển đạn, gạo cho quân đoàn. Đặc công miền giữ cầu Bình Triệu, cầu Xa
lộ Biên Hoà để đảm bảo đường thọc sâu. Tỉnh đội Bình Dương chi viện cho quân đoàn 80 tấn
gạo. Đại đội cối 82 địa phương kiềm chế pháo địch cho trung đoàn 209 vào chiếm lĩnh đường số

114
13. Bà má Sáu Ngân 60 tuổi ở Lái Thiêu giở tấm bản đồ cất giữ từ lâu để chỉ đường cho trung
đoàn 27 vượt sông Sài Gòn bằng con đường ngắn nhất vào đánh chiếm khu binh chủng Gò Vấp...

Đó là những biểu hiện sinh động và sâu sắc của sự kết hợp giữa tác chiến bằng các binh
đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương, giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ
trên hướng hoạt động của quân đoàn Đây là một bằng chứng thực tế khẳng định đường lối chiến
tranh nhân dân của Đảng hết sức đúng đắn, sáng tạo. Thực tế cho thấy không phải chỉ trong
chiến tranh nói chung mà ngay trong từng chiến dịch, từng trận chiến đấu cũng phải biết kết hợp
chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương và tác chiến bằng các binh đoàn chủ lực mới phát huy
được sức mạnh tổng hợp to lớn nhất để giành thắng lợi chắc chắn.

115
QUÂN ĐOÀN 2
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

Thiếu tướng BÙI CÔNG ÁI

Quân đoàn 2 có vinh dự được cùng với quân và dân cả nước tham gia cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy xuân 1975 góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương, phối hợp với chiến trường Tây Nguyên,
nhạy bén nắm bắt thời cơ, hành động táo bạo, thần tốc, vận dụng cách đánh sáng tạo, Quân đoàn
2 đã cùng với quân và dân Trị - Thiên - Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng chỉ trong thời gian ngắn từ
ngày 8 đến ngày 30 tháng 3 năm 1975, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 1, quân khu 1 ngụy,
giải phóng hoàn toàn hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, hai thành phố lớn Huế và Đà Nẵng.

Cùng với chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế - Đà Nẵng đã làm lệch hẳn cán cân so
sánh lực lượng về mặt chiến lược, làm cho ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn suy yếu nghiêm
trọng, tạo điều kiện cho ta tập trung lực lượng áp đảo trong trận quyết chiến chiến lược cuối
cùng.

Ngày 1 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn được lệnh chuẩn bị cho sư đoàn 325 và lữ đoàn xe
tăng 203 sẵn sàng tăng cường cho đơn vị bạn vào chiến đấu giải phóng Sài Gòn, còn các đơn vị
khác của quân đoàn ở lại Đà Nẵng làm lực lượng dự bị. Quân đoàn đã khẩn trương chuẩn bị cho
hai đơn vị vào tham gia chiến dịch. Đồng thời từ nhận thức về thời cơ lịch sử và thể theo nguyện
vọng của cán bộ, chiến sĩ, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh quân đoàn đã đề nghị với Bộ cho
cả quân đoàn được tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tổng
tư lệnh đồng ý cho cả quân đoàn phải “nêu cao hơn nữa tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến
đấu dũng cảm, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, cơ động nhanh, đột kích mạnh, hoàn thành
nhiệm vụ xuất sắc”.

Với nhận định, sau khi giải phóng Đà Nẵng, ta phải mất hai, ba tháng nữa mới điều quân
được vào Nam Bộ, địch hy vọng sẽ có đủ thời gian để bố trí lại lực lượng và triển khai tuyến
phòng thủ, ngăn chặn cuộc tiến công của ta. Thiệu và bè lũ hò hét: "Bằng bất cứ giá nào cũng
phải giữ từ Ninh Thuận trở vào. Nếu cần sẽ đem hết lực lượng đánh xả láng ở đó".

Như vậy trên đường hành quân vào vị trí tập kết chiến dịch, quân đoàn sẽ phải tiến hành đột
phá tuyến phòng thủ của địch với chiều sâu hàng trăm ki-lô-mét từ Phan Rang, Phan Thiết đến
Hàm Tân do sư đoàn 2 bộ binh, lữ đoàn 3 dù, liên đoàn 2 biệt động quân, sư đoàn 6 không quân
và hàng chục tiểu đoàn địa phương đóng giữ. Ngoài ra còn số tàn quân từ Huế - Đà Nẵng chạy
vào đang tụ tập tại các thị trấn, thị xã dọc đường.

Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh quân đoàn đã xác định quyết tâm:

1. Gấp rút tổ chức hành quân. Phần lớn lực lượng quân đoàn hành quân theo trục đường số
1, đánh địch trên đường hành quân, nhanh chóng đưa toàn bộ đội hình quân đoàn vào vị trí tập
kết đúng thời gian quy định.

116
2. Đánh địch trong hành tiến, phối hợp với các địa phương tiêu diệt các lực lượng địch
phòng ngự từ Phan Rang trở vào, sẵn sàng đánh địch ngoài dự kiến. Dùng sức mạnh hợp đồng
binh chủng đột phá, nhanh chóng tiêu diệt và làm tan rã địch, bảo đảm tốc độ hành quân nhanh.

3. Tổ chức đội hình đột phá trong hành tiến, tạo thành một "mũi dùi thép", có sức đột kích
mạnh, sức cơ động cao, đội hình đồng bộ, vừa chiến đấu vừa bảo đảm chiến đấu, có lực lượng
tiếp sau phát triển tiến công, vừa hành quân vừa chiến đấu.

4. Tư tưởng chỉ đạo: thần tốc - táo bạo - nhanh - mạnh - chắc. Lúc này thời gian trở thành
một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh.

Toàn quân đoàn sẵn sàng đánh địch mà đi, mở đường mà tiến. Lực lượng hành quân lúc này
đông tới trên 32 nghìn người, 2.376 xe các loại, trong đó có gần 100 xe tăng, thiết giáp, gần 100
khẩu pháo từ 85 đến 155mm, hơn 100 khẩu cao xạ từ 23 đến 57mm. Đội hình hành quân được tổ
chức thành nhiều khối theo nguyên tắc chiến đấu binh chủng hợp thành, có đủ thành phần bộ
binh, xe tăng - thiết giáp, cao xạ, pháo binh, công binh, mỗi khối thành một đơn vị chiến đấu cơ
bản, đồng bộ, bảo đảm chỉ huy thống nhất, hiệp đồng chặt chẽ, đủ sức đánh thắng địch trong mọi
tình huống, đồng thời tự khắc phục được mọi chướng ngại dọc đường. Riêng khối đi đầu có
nhiệm vụ tiêu diệt các cụm quân địch phòng ngự mở đường, nên được xe tăng, thiết giáp, pháo
binh, cao xạ và phần lớn lữ đoàn công binh 219 để đủ sức mạnh đột phá nhanh, giải quyết chiến
đấu nhanh.

Ngày 7 tháng 4, quân đoàn xuất phát. Ngày 13 tháng 4, khối 1 và sở chỉ huy quân đoàn đến
bắc Cam Ranh, quân đoàn được lệnh tổ chức lực lượng phối hợp với sư đoàn bộ binh 3 (Khu 5)
đánh chiếm Phan Rang, tiếp tục tiến công theo trục đường số 1. 5 giờ ngày 15 tháng 4, ta nổ súng
tiến công. Địch chống trả quyết liệt. Ta tiến công trong hành tiến, tập trung ưu thế binh hoả lực
trên hướng chủ yếu, hình thành thế bao vây vu hồi, đột phá mạnh, nhanh chóng thọc sâu chia cắt
tiêu diệt địch. Phối hợp chặt chẽ chủ lực với lực lượng địa phương, sau 7 giờ chiến đấu, ta tiêu
diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch ở Phan Rang, bắt tên trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
tư lệnh tiền phương quân đoàn 3, tên chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không
quân, thu nhiều vũ khí, trang bị, trong đó có gần 40 máy bay nguyên vẹn.

Chiến thắng Phan Rang là một trận thắng bằng sức mạnh hợp đồng binh chủng trong hành
tiến tiến công địch mới chuyển vào phòng ngự. Ta đã đập tan "lá chân thép" niềm hy vọng lớn
của địch ngăn chặn ta từ xa nhằm bảo vệ Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của chúng.

Ngày 16 tháng 4, Quân uỷ Trung ương gửi điện khen và nhắc nhở quân đoàn: "Phải nhanh
chóng truy kích địch, phát triển tiến công thần tốc, táo bạo bất ngờ, quyết dành thắng lợi mới,
khẩn trương củng cố lực lượng, tiếp tục hành quân chiến đấu, đến nhận nhiệm vụ đúng thời
gian".

Nhân đà ta vừa chiến thắng và địch đang rệu rã lớn, Bộ tư lệnh quân đoàn nhanh chóng
đánh chiếm thị xã Phan Thiết với hướng tiến công chủ yếu là đột phá trong hành tiến. 19 giờ
ngày 18 tháng 4, ta nổ súng tiến công, đến 21 giờ đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch,
làm chủ thị xã Phan Thiết.

117
Ngày 21 tháng 4, đội hình thành quân của quân đoàn đã đến đông Xuân Lộc 15 ki-lô-mét.
Theo yêu cầu của tỉnh uỷ Bình Tuy và được lệnh của Bộ, quân đoàn tổ chức một lực lượng quay
ngoặt lại đánh chiếm Hàm Tân. 19 giờ ngày 22 tháng 4 ta nổ súng tiến công. 23 giờ ta làm chủ
thị xã Hàm Tân, tiêu diệt và làm tan rã khoảng 5.000 tên địch.

Qua 17 ngày đêm vừa hành quân, vừa đánh địch với tốc độ trung bình 100km/ngày khi
không có tác chiến dọc đường, và đạt trung bình 40km/ngày khi tiến công trong hành tiến lúc 3
giờ ngày 24 tháng 4, toàn bộ đội hình quân đoàn đã vào vị trí tập kết chiến dịch, đúng thời gian,
với đủ vũ khí, trang bị, đạn dược, nhiên liệu, lương thực thực phẩm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ
chiến đấu được ngay.

Với thắng lợi của cuộc hành quân thần tốc đột phá mở đường vào phía nam, tiến công tiêu
diệt và đập tan tổ chức phòng ngự của địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, quân đoàn đã
góp phần quan trọng làm thất bại biện pháp chiến lược phòng ngự từ xa của địch ở hướng đông -
bắc Sài Gòn, giải phóng con đường chiến lược số 1 và ven biển miền Trung, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc chi viện chiến trường trọng điểm trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Sự có mặt của quân đoàn 2 trong chiến dịch Hồ Chí Minh đã tăng thêm một lực lượng quan
trọng trên một hướng chiến lược rất hiểm yếu đối với địch cùng với các đơn vị bạn gây lên sức
ép mới, tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho cả ta về thế và lực ở khu vực Sài Gòn - Gia Định.

Sau khi mất Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, địch chủ trương co cụm quanh Sài Gòn,
ngăn chặn ta từng bước để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, cải thiện thế phòng thủ, cố giữ
phần đất còn lại.

Trên hướng tiến công của quân đoàn, địch có 4 trung đoàn bộ binh, lữ đoàn thuỷ quân lục
chiến 468, 2 lũ đoàn dù 1 và 2, liên đoàn biệt động 33, 18 tiểu đoàn bảo an, 2 chiến đoàn 314,
318, 4 thiết đoàn xe tăng - thiết giáp, 5 tiểu đoàn pháo binh. Ngoài ra còn có lực lượng của các
cơ quan, nhà trường và trung tâm huấn luyện của chúng.

Nhìn chung, địch đã hình thành được thế phòng thủ, lợi dụng được địa hình có lợi, đưa vào
các chi khu, các căn cứ lớn tổ chức thành các tuyến, các khu vực phòng ngự có cộng sự vững
chắc, có hệ thống hoả lực và vật cản được chuyển bị, tạo thành thế liên hoàn hổ trợ cho nhau.
Quân địch còn đông, lực lượng tề điệp ác ôn, phản động còn nhiều và địch sẽ ngoan cố chống cự
vì đây là sào huyệt cuối cùng của chúng.

Mặt yếu cơ bản của địch là đang dao động về tinh thần, rệu rã về tổ chức, lực lượng chủ lực
cơ động hầu hết đã bị đánh bại chưa kịp củng cố, lại phải đối phó với nhiều hướng tiến công của
ta, lực lượng bị căng mỏng, không đủ sức để phản kích lớn.

Địa bàn tác chiến của quân đoàn là địa hình đồng bằng có các thị trấn và thành phố lớn.
Mạng đường sá khá phát triển, tiện cơ động cho xe cơ giới các loại. Sông ngòi, kênh rạch, cầu
cống nhiều, có những cầu lớn như cầu Xa Lộ, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn, cầu Cổ Mây được

118
địch tăng cường bảo vệ và chúng đã có kế hoạch phá để ngăn chặn bước tiến của ta. Hướng Cát
Hải có sông Nhà Bè rộng 700m và căn cứ hải quân Cát Lái.

Ngày 22 tháng 4 quân đoàn được giao nhiệm vụ phối hợp với đặc công và quân đoàn 4 đảm
nhiệm tiến công trên một hướng quan trọng của chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ trước mắt
của quân đoàn: đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi khu Long Thành, căn cứ Long Bình, cầu Xa
lộ, chi khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, bến phà Cát Lái, chi khu Đức Thạnh, thị xã Bà Rịa,
Vũng Tàu. Nhiệm vụ tiếp theo: tiêu diệt địch ở hữu ngạn sông Đồng Nai, đánh chiếm quận 4,
quận 9 Sài Gòn. Sau đó tuỳ tình hình có thể tiếp tục phát triển tiến công về đồng bằng khi có
lệnh. Quá trình phát triển chiến đấu, Bộ giao thêm nhiệm vụ dùng pháo binh đánh sân bay Tân
Sơn Nhất.

Quyết tâm của Bộ tư lệnh quân đoàn là: "Tập trung sức mạnh hiệp đồng binh chủng, nhanh
chóng đập tan hệ thống phòng ngự vành ngoài của địch, tạo thời cơ thọc sâu chiến dịch, hiệp
đồng chặt chẽ với đơn vị bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bộ giao".

Đội hình của quân đoàn thành một thê đội, có binh đoàn hỗn hợp thọc sâu chiến dịch và đội
dự bị binh chủng hợp thành.

Tư tưởng chỉ đạo tác chiến: mạnh - nhanh - chắc.

Cách đánh: tập trung lực lượng tạo thành sức đột kích mạnh chọc thủng tuyến phòng ngự
địch ở nơi hiểm yếu, kết hợp chặt chẽ giữa đột phá chính diện với bao vây, vu hồi chia cách địch
không để địch rút chạy hoặc co cụm, sau khi đột phá mở cửa, nhanh chóng thực hành thọc sâu
đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội đô bằng tiến công trong hành tiến.

Khi quân đoàn đã đánh chiếm cầu Xa lộ và căn cứ hải quân Cát Lái, để kịp thời hiệp đồng
với các đơn vị bạn, binh đoàn thọc sâu có nhiệm vụ nhanh chóng tiến công theo trục Xa lộ vào
nội đô Sài Gòn, đánh chiếm các mục tiêu quy định.

Nếu chấp hành đúng thời gian quy định của chiến dịch nổ súng tổng công kích vào nội đô
Sài Gòn ngày 29 tháng 4 năm 1975 thì quân đoàn khó có thể vào Sài Gòn kịp thời gian, vì trên
hướng tiến công của quân đoàn có nhiều căn cứ lớn, địa hình phức tạp, nhiều sông ngòi và cầu
lớn. Vì vậy Bộ tư lệnh quân đoàn đã đề nghị và được Bộ chỉ huy chiến dịch đồng ý cho quân
đoàn nổ súng sớm hơn vào ngày 26 tháng 4. Như vậy quân đoàn có thể hiệp đồng với các hướng
khác khi đồng loạt tổng công kích vào Sài Gòn.

Theo đúng kế hoạch, 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, quân đoàn bắt đầu bắn chuẩn bị,
mở màn chiến dịch tiến công ở hướng đông - đông - nam Sài Gòn và cũng là mở màn chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử. Ngay từ phút đầu quân địch đã bị áp chế hoàn toàn, hệ thống phòng ngự
của chúng bị rối loạn.

Lúc 17 giờ 45, các sư đoàn bộ binh thê đội một hiệp đồng với pháo binh, xe tăng đột phá
các mục tiêu đã định, đánh chiếm một phần trường thiết giáp, căn cứ Nước Trong, tiêu diệt một
bộ phận lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 46, chiến đoàn 318, chiếm ngã ba đường số 10 và đường số

119
15 quận lỵ Đức Thạnh và phát triển tiến công thị xã Bà Rịa. Trung đoàn 116 đặc công tiếp cận
chuẩn bị đánh chiếm cầu Xa lộ.

Ngày 27 tháng 4, địch tổ chức phản kích, dùng pháo binh, máy bay đánh phá dữ dội vào các
trận địa hỏa lực và các mũi đột kích của ta. Cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, nhất là khu vực
căn cứ Nước Trong. Ta phải giành đi giật lại với địch từng lô cốt, từng căn nhà, có mục tiêu phải
đánh đi đánh lại ba, bốn lần. Ở hướng đường số 15, ta chiếm chi khu Long Thành, Phước
Thiềng, bao vây Long Tân, làm chủ thị xã Bà Rịa. Địch phá cầu Cổ Mây và ngăn chặn, ta phải
cho lực lượng đánh vòng phía sau buộc địch phải bỏ cầu Cổ Mây, rồi phát triển tiến công về
Vũng Tàu. Đêm 27 tháng 4, trung đoàn 116 đặc công chiếm được cầu Xa lộ.

Như vậy đến đêm 27 tháng 4, về cơ bản quân đoàn đã đập nát tuyến phòng thủ vành ngoài
phía đông - đông - nam Sài Gòn của địch và cắt hẳn đường rút chạy ra biển của chúng.

10 giờ ngày 28 tháng 4, quân đoàn nhận được thông báo: "Toàn chiến dịch tổng công kích
vào sáng 29 tháng 4. Đơn vị nào đánh nhanh cứ đánh chiếm dinh Độc lập, không cần chờ đơn vị
bạn". Sáng 29 tháng 4, đợt tổng công kích trên toàn mặt trận bắt đầu. Các lực lượng của quân
đoàn đã tiêu diệt và gọi hàng cụm quân địch ở rừng cao su ngã ba đường số 15 và đánh chiếm
căn cứ Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, tổ chức vượt sông bằng sức mạnh đánh
chiếm Cát Lái, khoá đường rút chạy của địch theo sông Nhà Bè, đánh chiếm và làm chủ phần lớn
thị xã Vũng Tàu. Pháo binh chiếm lĩnh trận địa ở Nhơn Trạch, bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất,
không cho địch rút chạy bằng đường không.

5 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975, các mũi tiến công của quân đoàn đồng loạt tiến vào nội
đô, tổ chức vượt sông bằng sức mạnh, đánh chiếm quận 9, quận 4. Binh đoàn thọc sâu tiến công
mạnh mẽ trong hành tiến, tiêu diệt quân địch phòng ngự phía tây cầu Xa lộ, phát triển tiến công
đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội đô Sài Gòn. Trên đường tiến công của binh đoàn
thọc sâu từ ngã ba Long Bình đến dinh Độc lập đã diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa ta và
địch, nhưng với cách đánh táo bạo, kiên quyết, hoả lực tập trung cao, sức đột kích mạnh, cơ động
nhanh, ta đã nhanh chóng đập tan những cụm phòng ngự cuối cùng của địch. Trên hướng đường
số 2, ta làm chủ Vũng Tàu lúc 9 giờ và phát triển tiến công đánh chiếm đảo Cần Giờ.

10 giờ 30, lực lượng đi đầu của binh đoàn thọc sâu đánh chiếm dinh Độc lập, bắt toàn bộ
nội các Dương Văn Minh. 11 giờ 30 lá cờ chiến thắng được các chiến sĩ cắm trên nóc dinh Độc
lập.

Sở chỉ huy tiền phương quân đoàn tiến vào dinh Độc lập tiếp tục chỉ huy đánh chiếm các
mục tiêu còn lại, tổ chức truy quét tàn binh, tuần tra canh gác, giữ vững an ninh trật tự khu vực
đã chiếm. Lực lượng dự bị của quân đoàn đánh chiếm huấn khu và học viện cảnh sát quốc gia
Thủ Đức.

Sau 5 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ chỉ
huy chiến dịch giao. Qua thực tiễn hoạt động tác chiến của quân đoàn trong mùa xuân 1975,
chúng tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

120
1. Tổ chức tốt hành quân "thần tốc" đường dài bằng cơ giới

Lần đầu tiên quân đoàn tổ chức hành quân chiến đấu đường dài bằng cơ giới, đưa lực lượng
vào vị trí tập kết chiến dịch trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp, vừa đi vừa đánh địch. Trong
quá trình thực hiện thắng lợi cuộc hành quân thần tốc, quân đoàn đã giải quyết thành công nhiều
vấn đề quan trọng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và đặc điểm chiến trường.

Đã tổ chức hành quân tốt theo những yêu cầu: hành quân chiến đấu đường dài bằng cơ giới
với đội hình lớn, nhiều trang bị kỹ thuật. Đội hình hành quân được bố trí theo yêu cầu triển khai
chiến đấu nhanh, gồm nhiều khối với lực lượng bộ binh, xe tăng - thiết giáp, pháo binh, cao xạ,
công binh được bố trí thích hợp, đồng bộ, bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống, cả trên
mặt đất, trên không và ven biển.

Tổ chức chỉ huy, điều chỉnh giao thông, tiền trạm phát huy được hiệu lực, bảo đảm lực
lượng lớn hành quân không bị chồng chéo, ùn tắc, nhất là trên các đoạn quan trọng, qua các cầu
lớn, bến vượt, đoạn đường địch tập trung đánh phá, đồng thời huy động được quân và dân địa
phương chi viện, khắc phục kịp thời hậu quả đánh phá của địch, bảo đảm cho quân đoàn cơ động
đạt tốc độ cao.

Về phương tiện hành quân, quân đoàn đã tận dụng các loại phương tiện cơ giới sẵn có trong
biên chế, sử dụng xe, nhiên liệu lấy được của địch và động viên khả năng của nhân dân vùng giải
phóng, đồng thời được sự chi viện của binh đoàn vận tải chiến lược. Quân đoàn đã huy động
được 2276 xe các loại (trong đó xe của quân đoàn chiếm 36%, xe của binh đoàn vận tải - 30%,
xe lấy được của địch - 19%, xe của nhân dân - 15%). Ngoài ra còn tận dụng phương tiện vận
chuyển đường biển chở một bộ phận từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn.

Để đưa được lực lượng lớn hành quân với tốc độ cao, quân đoàn đã đề nghị trên cho đi theo
trục đường số 1. Trong điều kiện hoạt động của không quân địch đã giảm sút, thì việc dùng
những trục đường tốt như đường số 1 là thích hợp, bảo đảm phát huy được khả năng cơ động của
cơ giới và hiệu lực của binh khí kỹ thuật trong tác chiến hợp đồng binh chủng, để vừa đánh địch
vừa hành quân với tốc độ cao.

2. Đánh địch trong hành tiến kiên quyết, táo bạo.

Khi địch đã thất bại liên tiếp, bị động, sa sút về tinh thần chiến đấu, rối loạn về tổ chức chỉ
huy, thì phải nắm vững thời cơ, thừa thắng xốc tới, tiến công nhanh, mạnh, dồn dập, không cho
địch kịp phục hồi chống đỡ. Vì vậy tiến công trong hành tiến, đánh địch với thời gian chuẩn bị
gấp vừa là một yêu cầu khách quan, vừa là một khả năng hiện thực.

Trên hướng tiến quân vào vị trí tập kết theo thời gian quy định, quân đoàn nhất thiết phải
đột phá các cụm phòng ngự của địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân. Để hoàn thành nhiệm
vụ đó, quân đoàn đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh địch trong hành tiến, với thời gian
chuẩn bị gấp. Yêu cầu của cách đánh này là: tổ chức chiến đấu nhanh, đánh nhanh, đánh mạnh,
giải quyết chiến đấu trong một thời gian ngắn, không để địch làm chậm tốc độ hành quân của ta,
không cho địch vừa rút lui vừa chống đỡ ở những khu vực quan trọng.

121
Nắm vững yêu cầu đó, quân đoàn đã tổ chức đội hình hành quân chiến đấu gồm nhiều khối,
mỗi khối là một đơn vị chiến đấu hoàn chỉnh, đồng bộ, đủ sức đánh thắng địch trong mọi tình
huống và có khả năng tự khắc phục chướng ngại để bảo đảm cơ động. Khối đi đầu có nhiệm vụ
đánh địch, mở đường, nên được tăng cường để đủ sức đột phá, tiêu diệt các cụm quân địch phòng
ngự mà không phải mất thời gian điều động lực lượng từ phía sau lên, bảo đảm tốc độ hành quân
của đội hình toàn quân đoàn.

Tổ chức lực lượng phái đi trước cỡ trung đoàn, được tăng cường xe tăng - thiết giáp, pháo
binh, cao xạ, công binh với nhiệm vụ chủ yếu là nắm tình hình mọi mặt ở phía trước, khắc phục
chướng ngại trên đường hành quân, nhanh chóng đánh chiếm các bàn đạp có lợi, bảo đảm cho
lực lượng cơ bản triển khai đội hình tiến công. Tiếp sau lực lượng phái đi trước là lực lượng
chiến đấu cơ bản của quân đoàn được bố trí theo ý định chiến đấu trên dọc đường. Công tác tổ
chức chiến đấu của các đơn vị đã được tiến hành đồng thời từ trên xuống dưới, tại thực địa, và
được bổ sung trong quá trình hành tiến, nên rút ngắn được thời gian chuẩn bị. Vì thế quân đoàn
đánh địch từ Phan Rang, Phan Thiết đến Hàm Tân chỉ mất 6 ngày đêm.

Cách đánh trong hành tiến là phải nhanh chóng hình thành thế bao vây, đột phá bằng nhiều
mũi vào cụm phòng ngự của địch, kết hợp đột phá vòng ngoài với thọc sâu vào trung tâm phòng
ngự địch. Điều quan trọng là phải phát huy được sức mạnh hợp đồng binh chủng để tạo sức đột
kích mạnh, hoả lực áp đảo, tốc độ tiến công cao, giải quyết chiến đấu nhanh.

3. Vận dụng cách đánh chính xác

Cách đánh trong chiến dịch tiến công là nghệ thuật sử dụng lực lượng, tạo thế có lợi, phá
thế địch, vận dụng các thủ đoạn tác chiến để tiêu diệt địch. Quân đoàn đã giải quyết tốt các vấn
đề sau đây về cách đánh:

- Có quyết tâm chính xác, chọn hướng tiến công và mục tiêu chủ yếu đúng, phát huy được
sức mạnh chiến đấu hợp đồng binh chủng, nhanh chóng đập tan tổ chức phòng ngự của địch ở
vòng ngoài. Hướng tiến công chủ yếu: căn cứ Nước Trong - Long Bình - cầu Xa lộ - Sài Gòn là
hướng thuận lợi nhất, có khả năng phát huy hết uy lực của binh khí kỹ thuật, lại sát với quân
đoàn bạn tạo thành thế áp đảo quân địch và hỗ trợ lẫn nhau. Chọn trường tiếp giáp làm mục tiêu
chủ yếu khi đột phá vành ngoài là thích hợp: ở đây tuy địch phòng ngự vững chắc, là chỗ dựa cơ
bản của căn cứ Nước Trong, nhưng khi ta đột phá thành công thì tạo cửa mở rất thuận lợi cho lực
lượng tiếp sau của quân đoàn phát triển tiến công nhanh chóng đánh chiếm mục tiêu chủ yếu.

- Tổ chức sử dụng lực lượng thích hợp, quán triệt được cách đánh hợp đồng binh chủng.
Ngay từ đầu, quân đoàn đã hình thành ba lực lượng: lực lượng đột phá, đập tan tuyến phòng
ngoài của địch; lực lượng thọc sâu; lực lượng dự bị. Xe tăng - thiết giáp được sử dụng tập trung
nên đã phát huy được sức đột kích mạnh, sức cơ động cao, áp đảo quân địch.

- Trong điều kiện địch phòng ngự vòng ngoài với những cứ điểm dày đặc liên hoàn, có quân
đông, ta không thể dùng cách luồn lách. Muốn đưa lực lượng đột kích nhanh, phải có trục đường
tốt, có địa hình triển khai binh khí kỹ thuật, tổ chức đánh chiếm các cầu lớn. Vì thế phải đột phá
tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch, phối hợp với bộ đội đặc công chiếm giữ các cầu và đầu
mới giao thông quan trọng. Như vậy mới tao điều kiện thọc sâu vào nội đô bằng lực lượng mạnh.

122
Chỉ 3 ngày đêm, quân đoàn đã đập tan tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch trên hướng đông -
đông - nam Sài Gòn, và trong 4 - 5 giờ lực lượng thọc sâu của quân đoàn đã tiến công trong hành
tiến trên đoạn đường dài 30 ki-lô-mét nhanh chóng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

4. Làm tốt việc bảo đảm về hậu cần, kỹ thuật.

Để bảo đảm hành quân và tác chiến, quân đoàn phải có một khối lượng vật chất trên 1 vạn
tấn, trong điều kiện phương tiện vận chuyển có hạn, cự ly vận chuyển xa, thời gian chuẩn bị rất
ngắn, phải vừa đi vừa đánh địch dài gần 1.000 ki-lô-mét, bảo đảm đến vị trí tập kết chiến dịch
đúng thời gian quy định và tác chiến được ngay. Để thực hiện yêu cầu đó, quân đoàn đã giải
quyết tốt các vấn đề sau đây:

- Trên cơ sở nắm vững nhiệm vụ chiến đấu, quán triệt tinh thần tự lực tự cường, không
trông chờ ỷ lại, quân đoàn đã nhạy bén, chủ động chuẩn bị trước một bước, đồng thời làm tốt
việc tạo nguồn vật chất trong quá trình phát triển chiến đấu, nên mặc dù thời gian chuẩn bị rất
ngắn, vẫn giải quyết được khối lượng vật chất kỹ thuật cần thiết cho chiến đấu.

Ngoài lực lượng vật chất do hậu cần chiến lược chuyển đến, quân đoàn đã duy trì được lực
lượng dự trữ chiến đấu thường xuyên với số lượng thích hợp, chất lượng đồng bộ, có phân cấp
quản lý chặt chẽ. Đây là nguồn vật chất chủ động nhất để bảo đảm chiến đấu được ngay trong
một hai trận đầu, trong khi chờ đợi nguồn bổ sung tiếp theo. Lượng dự trữ mang theo được quy
định cụ thể và quản lý nghiêm ngặt, quá trình chiến đấu dọc đường có tiêu hao thì tận thu chiến
lợi phẩm để bổ sung: khi cần, quân đoàn bổ sung tiếp cho đủ số lượng quy định.

- Phát huy được nguồn nhân lực, vật lực ở vùng mới giải phóng, lấy vũ khí trang bị của địch
để đánh địch, thực hiện yêu cầu càng đánh càng mạnh, lực lượng vật chất càng dồi dào, nguồn
cung cấp tại chỗ càng lớn. Trong cuộc hành quân thần tốc vừa đi vừa đánh địch đến vị trí tập kết,
quân đoàn đã làm tốt việc khai thác nguồn bổ sung tại chỗ, tranh thủ được sự chi viện rất kịp thời
của lực lượng vũ trang địa phương (Quân khu 5 đã chi viện cho quân đoàn hơn 1.500 tấn vật chất
thu được của địch) đồng thời huy động được sức người, sức của nhân dân vùng mới giải phóng,
và kịp thời sử dụng có hiệu quả nguồn thu được của địch đẻ phát triển tiến công, biến hậu
phương của địch thành hậu phương tại chỗ của ta (đã thu và sử dụng vũ khí trang bị của địch với
tỷ lệ: xe 18,7%, pháo 45,8%, đạn pháo 70%).

123
TÁC CHIẾN CỦA BINH ĐOÀN CHỦ LỰC TẠI CHỖ
KẾT HỢP VỚI CHIẾN TRANH NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Thượng tướng HOÀNG CẦM

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là thắng lợi của đường lối chính trị,
đường lối quân sự của Đảng, trong đó một vấn đề có ý nghĩa quyết định là không ngừng phát
huy sức mạnh tổng hợp của ta trên mặt trận đấu tranh vũ trang bằng sự kết hợp chiến tranh chính
quy với chiến tranh du kích, ngày nay gọi là kết hợp chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực với
chiến tranh nhân dân địa phương.

Kết hợp chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương không
những xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng mà còn là sự kế thừa và phát huy
truyền thống "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc" được hình thành, phát triển qua bốn ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó trở thành một quy luật về phương thức tiến hành
chiến tranh cách mạng của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp cũng như kháng chiến
chống Mỹ.

Từ điểm xuất phát như vậy, trong quá trình đấu tranh vũ trang, đi đôi với phát động phong
trào toàn dân đánh giặc, ta đã ra sức xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực có đủ các quân binh
chủng, từng bước cải tiến trang bị kỹ thuật ngày càng tốt hơn, đặc biệt đã xây dựng những binh
đoàn lục quân ngày càng lớn mạnh. Trong các binh đoàn đó có những binh đoàn làm nhiệm vụ
dự bị chiến lược cơ động trên một hướng chiến lược trong một thời gian dài, có khi suốt cả cuộc
chiến tranh, thường gọi là binh đoàn chủ lực tại chỗ.

Quân đoàn 4 là một đơn vị chủ lực của Bộ được hình thành trong quá trình kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và đảm nhiệm hoạt động ở chiến trường B2, chủ yếu là vùng Đông Nam
Bộ. Với chức năng là đơn vị chủ lực tại chỗ nên trong quá trình hình thành và phát triển lực
lượng, các đơn vị tiền thân của quân đoàn cũng như quân đoàn đã gắn chặt với quân và dân Nam
Bộ, Cực nam Trung Bộ, gắn chặt việc xây dựng đơn vị mình với xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân ở chiến trường này. Nhờ vậy, quân đoàn đã cùng quân và dân tại chỗ hoàn thành các
nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao cho. Đặc biệt đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tạo thế ở vòng cung từ tây - bắc đến đông - bắc Sài Gòn,
quân đoàn đã cùng với các binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ cùng quân và dân địa phương tiến
hành thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta.

Trong mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền, sự
chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy Miền, Quân đoàn 4 đã giải quyết thành công nhiều vấn đề quan
trọng góp phần vào việc chuẩn bị chiến trường trọng điểm, cùng các binh đoàn chiến lược khác
và quân dân địa phương giành toàn thắng trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

124
1. Tạo thế cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng

Nếu trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bắc Bộ là chiến trường chính, thì trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, Nam Bộ lại là chiến trường chính của cuộc chiến tranh, trong đó, Đông
Nam Bộ là địa bàn chủ yếu, vì ở đây có Sài Gòn là đầu não và sào huyệt cuối cùng của địch, là
trung tâm chính trị, kinh tế của cả miền Nam; đồng thời lại có vùng rừng núi là căn cứ địa cách
mạng của cả Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ.

Do miền Đông Nam Bộ có vị trí như vậy nên địch thường tập trung lực lượng gồm nhiều
đơn vị chủ lực mạnh hoạt động ở chiến trường này, hòng ngăn chặn và tiêu diệt chủ lực ta, nhằm
bảo vệ vững chắc Sài Gòn. Ta cũng tập trung hầu hết lực lượng chủ lực của miền ở đây, cùng các
lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị các địa phương xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân
ngày càng vững mạnh, luôn luôn chủ động tiến công, uy hiếp địch ở Sài Gòn. Cho đến giữa năm
1974, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) và căn
cứ vào tình hình cụ thể của chiến trường, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã đề ra chủ trương
trong vài năm tới (1974 - 1976) đánh bại về cơ bản "kế hoạch bình định" của địch, chủ yếu ở
đồng bằng sông Cửu Long, mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng miền Đông, mở thông hành
lang xuống đông và tây Sài Gòn, nhằm chuẩn bị một bước quan trọng cho trận quyết chiến chiến
lược Sài Gòn khi thời cơ đến.

Quân đoàn 4 là đơn vị chủ lực mạnh nhất của chiến trường Nam Bộ, đảm nhiệm hướng tiến
công chủ yếu ở miền Đông, có nhiệm vụ trước mắt trong mùa khô 1974 - 1975 cùng với quân và
dân địa phương giải phóng một số khu vực quan trọng ở hướng tây - bắc, đông - bắc Sài Gòn.

Chấp hành nhiệm vụ đó, ngay từ cuối năm 1974, quân đoàn đã cùng với quân và dân địa
phương giải phóng tỉnh Phước Long. Với chiến thắng này ta đã đập tan một khu vực tiền đồn
quan trọng nhất của quân khu 3 ngụy trên hướng tây - bắc, tạo điều kiện cho chủ lực ta mở vùng
giải phóng ở đường số 20 và đường số 1 xuống bờ biển, uy hiếp sở chỉ huy quân đoàn 3 và căn
cứ không quân quan trọng của địch ở Biên Hoà, mở rộng và hoàn chỉnh một bước hậu phương
tại chỗ của chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ. Chiến thắng đó có tầm chiến lược quan
trọng, vì đây là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng hoàn toàn, tỉnh đó lại ở gần Sài Gòn
và nằm trong một quân khu mạnh vào loại nhất nhì của ngụy ở miền Nam, thế mà chúng phải
chịu bó tay không dám và không thể tung lực lượng chủ lực phản kích hòng giành lại; còn Mỹ thì
buộc phải làm ngơ và tuyên bố "lúc này chưa cho phép" yểm hộ cho Nam Việt Nam. Chiến
thắng Phước Long đã "củng cố thêm quyết tâm chiến lược được xác định trong Hội nghị Bộ
Chính trị và bổ sung cho phương án giành thắng lợi lớn khi có thời cơ".

Sau chiến thắng Phước Long, quân đoàn tiếp tục phát triển áp sát tuyến phòng thủ cơ bản
của địch và đến tháng 3 năm 1975 đã cùng với quân và dân địa phương giải phóng các khu vực
Dầu Tiếng, đường số 26, Chơn Thành (tỉnh Bình Long), đường số 20, Định Quán (tỉnh Lâm
Đồng), quét sạch địch ở tuyến phòng thủ cơ bản của chúng trên hướng tây - bắc đến đông - bắc
Sài Gòn. Sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và các sở chỉ huy sư đoàn thuộc quân đoàn này vốn là
những căn cứ hậu phương cơ bản của chúng hàng chục năm nay, bay giờ đã trở thành những tiền
đồn bị ta uy hiếp mạnh; hầu hết các căn cứ hậu phương của chúng ở vùng ven và cả một số mục
tiêu quan trọng ở thành phố Sài Gòn đều có thể bị pháo tầm xa của ta bắn tới.

125
Việc giải phóng các khu vực trên đã làm cho vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ được mở
rộng hoàn chỉnh gồm phần lớn đất đai các tỉnh: Lâm Đồng, Phước Long, Bình Long, Bình
Dương, Tây Ninh, tạo thế hậu phương tại chỗ của chiến trường; phía sau nối liền với Tây
Nguyên vừa được giải phóng hoàn toàn, đến tận hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phía
trước kéo gần sát thành phố Sài Gòn. Với vùng giải phóng rộng lớn đó, ta có khả năng bảo đảm
cho những binh đoàn chủ lực lớn triển khai và tiến công vào Sài Gòn trên nhiều hướng. Điều đó
sau này đã được thể hiện rõ: Quân đoàn 3, Quân đoàn 1 và hàng chục sư đoàn, trung đoàn của
các quân binh chủng với nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại đã triển khai ở khu vực Dầu Tiếng -
Đồng Xoài là bàn đạp tiến công ở hướng tây - bắc của chiến dịch Hồ Chí Minh, còn ở phía đông
- bắc đã tạo thành một hành lang vững, rộng. Đường số 20 - Định Quán - Lâm Đồng bảo đảm
cho quân đoàn phát triển xuống tiến công địch ở phía đông thành phố Sài Gòn. Chiến thắng
Phước Long, rồi chiến thắng Tây Ninh, Lâm Đồng đòn phủ đầu có ý nghĩa quyết định đập tan kế
hoạch của địch định phòng thủ Sài Gòn từ xa bằng phòng tuyến Tây Ninh - Lâm Đồng - Nha
Trang, trong đó Lâm Đồng được coi là xương sống.

Trước đà phát triển tiến công của ta ở vùng ven biển miền Trung, địch đã dùng mọi thủ
đoạn hòng thực hiện "trì hoãn chiến". Chúng tập trung cố gắng khẩn cấp tổ chức lại thế trận
phòng thủ chủ yếu nhằm ngăn chặn hướng tiến công của chủ lực ta theo đường số 20 và đường
số 1, với tuyến phòng thủ mạnh kéo dài từ Phan Rang đến Sài Gòn, trong đó Xuân Lộc là một
khu then chốt. Nhưng tuyến phòng thủ này của địch vừa triển khai thì quân đoàn đã cùng với
quân và dân tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà tiến công địch ở Xuân Lộc, đánh chiếm khu vực Dầu Giây.
Sau hơn 10 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng thị xã Xuân Lộc, đập tan một khâu trọng yếu trong
tuyến phòng thủ từ xa của địch ở hướng đông Sài Gòn, mở toang cửa cho các binh đoàn chủ lực
cơ động của ta ở hướng này tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch.

Hoạt động tác chiến của quân đoàn không những góp phần cùng quân và dân địa phương
hoàn thành nhiệm vụ tạo thế trận cho trận quyết chiến chiến lược trên hướng tây-bắc - đông-bắc
Sài Gòn mà còn phối hợp có hiệu quả với các hướng khác. Ngược lại, thắng lợi của các hướng
khác cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quân đoàn hoàn thành nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực tại
chỗ.

Đến giữa tháng 4 năm 1975, ta đã xây dựng được một thế trận rất vững mạnh trên các
hướng tiến vào Sài Gòn, tạo ra một hậu phương trực tiếp có khả năng đáp ứng những yêu cầu
của chiến trường, thiết lập bàn đạp tiến công cho các binh đoàn chủ lực cơ động trên các hướng,
mở thông và bảo đảm tính vững chắc của hành lang xuống tây và đông Sài Gòn, hình thành một
"vành đai thép" mà nhiều nhà quân sự phương Tây ví như "một chiếc thọng lọng khổng lồ" siết
vào cổ quân địch ở Sài Gòn. Không những thế, ở phía sau lưng địch, ta đã triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân địa phương vững mạnh gồm hàng vạn cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ
trang, từ những đơn vị đặc công của miền, những tiểu đoàn mũi nhọn của thành phố đến các đội
du kích, tự vệ mật... và hàng vạn quần chúng được tập hợp trong các tổ chức cách mạng ở khắp
vùng ven đô và nhiều phường khóm trong nội đô, có cả nhiều cán bộ, đảng viên, cốt cán của ta
đã cài sẵn trong hàng ngũ địch, kể cả những cơ quan chiến lược quan trọng như Bộ Tổng tham
mưu ngụy. Khi ta tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, những lực lượng đó đã kết hợp tiến
công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ ở nhiều cơ sở, đánh chiếm một số mục
tiêu quan trọng, nhất là những cầu lớn trên các đường giao thông chủ yếu, tạo điều kiện thuận

126
lợi cho các binh đoàn cơ giới, hùng mạnh và sắc nhọn của chủ lực ta nhanh chóng thọc sâu vào
trung tâm thành phố Sài Gòn.

Với thế trận trên, ta đã tạo ra được một trong những yếu tố cơ bản bảo đảm thắng lợi của
chiến dịch Hồ Chí Minh. Thế trận đó không những được tạo ra ngay trong thời kỳ đầu cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà còn là kết quả của cả mấy chục năm đấu tranh kiên
cường, bền bỉ của quân và dân ta ở chiến trường này.

Thế trận của trận quyết chiến chiến lược ở Sài Gòn không chỉ do quân và dân Nam Bộ -
Cực nam Trung Bộ trực tiếp lập ra mà còn do thế trận chung của cả miền Nam, của cả nước tạo
thành. Trải qua gần 20 năm kháng chiến chống Mỹ, ta đã lần lượt đánh bại bốn kế hoạch chiến
lược chiến tranh xâm lược của chúng. Trong năm 1974 và đầu năm 1975, tiếp theo thắng lợi của
ta ở Khu 9 và các chiến trường khác ở miền Nam, đặc biệt là chiến thắng Phước Long và thắng
lợi có tính chất bước ngoặt trên chiến trường Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 đã làm cho thế và
lực của ta có sức áp đảo quân địch; ta nắm hoàn toàn quyền chủ động chiến lược, còn địch thì bị
động, lúng búng bế tắc trầm trọng từ chiến lược đến chiến thuật, tinh thần hoang mang dao động.
"Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn nhảy vọt mà thời
cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín
muồi".

2. Tiêu diệt một bộ phận lực lượng chủ yếu, đánh bại những thủ đoạn chiến thuật cơ
bản của địch.

Một trong những quy luật cơ bản giành thắng lợi trong chiến tranh là phải tiêu diệt lực
lượng quân sự của địch, cả sinh lực, phương tiện chiến tranh, và đánh bại những biện pháp chiến
lược, chiến thuật của chúng. Nhưng địch có nhiều loại quân, nhiều loại lực lượng, sử dụng nhiều
thủ đoạn. Ta phải chọn đúng đối tượng, đánh gục những lực lượng chủ yếu của địch, đánh bại
những thủ đoạn cơ bản của chúng thì mới làm cho địch tan rã nhanh chóng, làm thay đổi cục
diện chiến trường có lợi cho ta. Đó là yêu cầu chung, đồng thời cũng là yêu cầu của từng chiến
trường, từng chiến dịch.

Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ (gồm cả thành phố Sài Gòn) trước khi ta tiến hành
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, quân địch còn gần 78 vạn tên, gồm 15 vạn chủ lực, 8
vạn bảo an, gần 2 vạn dân vệ và 53 vạn phòng vệ dân sự. Toàn bộ lực lượng đó lúc này chủ yếu
được sử dụng làm nhiệm vụ phòng thủ Sài Gòn bằng nhiều tuyến, hòng ngăn chặn từ xa, trong
đó hầu hết lực lượng chủ lực được tập trung ở tuyến phòng thủ cơ bản từ thị xã Tây Ninh qua Lai
Khê, Phước Vĩnh đến Xuân Lộc, còn các tuyến khác chủ yếu là lực lượng địa phương quân.
Ngoài những tuyến phòng thủ liên hoàn ở vùng giáp ranh và vùng ven, địch còn tăng cường khả
năng nhằm giữ cho được những khu vực quan trọng như thị xã Phước Long, An Lộc, đường số
14, Chơn Thành, vừa làm tiền đồn bảo vệ Sài Gòn, vừa là những căn cứ xuất phát của chúng để
hoạt động vào sâu trong hậu phương ta khi có điều kiện. Muốn tiến công vào Sài Gòn, tất yếu ta
phải tiêu diệt được lực lượng chủ lực địch, đập tan tuyến phòng thủ cơ bản của chúng ở vành
ngoài. Nhưng để có đủ sức đè bẹp địch ở tuyến này, một yêu cầu có tính chất quyết định là phải
mở rộng và hoàn chỉnh vùng căn cứ địa miền Đông Nam Bộ vững mạnh, một hậu phương trực
tiếp có tầm chiến lược không chỉ đối với chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ mà cả cho
trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cả nước. Dó đó, ngay từ giữa năm 1974, Quân uỷ

127
Miền và Bộ chỉ huy Miền đã giao nhiệm vụ cho quân đoàn trong mùa khô 1974 - 1975 phải giải
phóng đường số 14 - Phước Long, sau đó phát triển xuống giải phóng Dầu Tiếng, Định Quán,
Chơn Thành.

Chủ trương của ta lúc này là đi đôi với tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch,
phải tập trung nỗ lực diệt được nhiều chi khu, quét sạch từng mảng đồn bốt của chúng. Có như
vậy mới thực hiện được tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ về tay nhân dân, mở mảng, mở
vùng. Đó là yêu cầu vừa rất cấp bách vừa rất cơ bản của cách mạng và chiến tranh cách mạng
miền Nam lúc này. Tuy nhiên, cách đánh như thế nào đang còn là vấn đề phải nghiên cứu giải
quyết.

Qua học tập kinh nghiệm của một số địa phương, đơn vị, quân đoàn thấy rằng muốn tiêu
diệt chi khu tiến tới tiêu diệt tiểu khu địch, giải phóng những vùng đất đai rộng, ta không thể
đánh theo kiểu bóc vỏ, lần lượt diệt các đồn bốt địch từ ngoài vào trong mà phải cùng một lúc
tiêu diệt và đánh tan rã toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền của địch bằng cách tiêu diệt chi
được căn cứ sở chỉ huy chi khu, tiểu khu, đồng thời kết hợp giữa tiến công và nổi dậy tiêu diệt
địch, giành quyền làm chủ ở các ấp, xã. Khi tiến công địch ở Phước Long, quân đoàn xác định
đối tượng và mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy yếu khu, chi khu, tiểu khu địch. Trên thực tế, chính
nhờ ta diệt được những đối tượng đó, chiếm được những mục tiêu đó mà làm cho toàn bộ quân
địch tan ra nhanh chóng. Như ở Bù Đăng, sư đoàn 3 (sư đoàn độc lập của Miền phối thuộc quân
đoàn) của ta đánh chiếm sở chỉ huy chi khu và căn cứ trung tâm hoả lực của địch ở Vĩnh Thiện
vào lúc 8 giờ 30 ngày 4 tháng 1 năm 1974 thì đến 12 giờ cùng ngày, các lực lượng vũ trang và
lực lượng chính trị địa phương đã kết hợp tiến công và nổi dậy chiếm gần 50 đồn bốt và hàng
trăm tháp canh, giành quyền làm chủ ở tất cả các ấp, giải phóng toàn quận ngay trong ngày. Vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm đó, quân đoàn đã tiêu diệt thêm nhiều chi khu ở Phước Long, mở ra
khả năng thực tế đánh bại thủ đoạn phòng ngự "diện địa" của địch.

Đầu tháng 4 năm 1975, quân đoàn tiến công tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở phía đông
Sài Gòn. Lúc này quân địa phương địch trên toàn miền Nam dao động mạnh, không những chi
khu mà hàng loạt tiểu khu địch bị tiêu diệt và tan rã. Ở Trị - Thiên, Khu 5 và nhiều tỉnh ở Khu 6 -
Đông Nam Bộ, kiểu phòng ngự "diện địa" của địch đã thất bại. Chúng tập trung quân lực co về
phòng thủ Sài Gòn bằng một hệ thống trận địa phòng ngự cấp trung đoàn, sư đoàn trên nhiều
hướng, chủ yếu là hướng đông Sài Gòn. Trên hướng này, địch khẩn cấp tổ chức tuyến phòng ngự
với chiều sâu lớn suốt từ Phan Rang vào đến Sài Gòn, trong đó Phan Rang là tiền đồn, Xuân Lộc
là khu vực phòng ngự then chốt. Địch xác định "mất Xuân Lộc thì không giữ nổi Sài Gòn" nên
đã tập trung ở đây sư đoàn 18, đơn vị mạnh nhất của quân đoàn 3 và cũng được chúng coi là
mạnh nhất của quân đội ngụy lúc này, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu khi Xuân Lộc bị tiến
công. Khi ta đánh bại lực lượng này, giải phóng thị xã Xuân Lộc, địch ở Sài Gòn càng hoang
mang tan rã, vì chúng không còn đơn vị chủ lực nào đủ sức chống đỡ các cuộc tiến công của chủ
lực ta, cũng không còn kiểu phòng ngự nào có thể giữ nổi bất cứ địa bàn nào ở Nam Bộ.

Khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ chủ yếu của quân đoàn là nhanh chóng
đánh chiếm những mục tiêu chiến dịch quan trọng nhất, ở hướng đông phải chiếm cho được sở
chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và căn cứ không quân Biên Hoà, rồi nhanh chóng thọc sâu chiếm dinh
Độc lập cùng với Quân đoàn 2 hoàn thành nhiệm vụ ở hướng đông, góp phần giành thắng lợi cho
chiến dịch. Để tiến nhanh vào nội thành, quân đoàn đã đề nghị và được giao nhiệm vụ tiến công

128
diệt cụm phòng ngự Trảng Bom, chiếm khu liên hợp quân sự Biên Hoà, và đánh thắng địch ở
những nơi đó. Sư đoàn 341 sau khi đập tan cụm phòng ngự địch ở Hố Nai, đã đánh vào thị xã
Biên Hoà, tạo điều kiện thuận lợi cho các cánh quân ở hướng này tiến vào Sài Gòn.

Cùng thời gian, sư đoàn 9, một đơn vị mạnh của quân đoàn tăng cường cho Đoàn 232 trên
hướng tây - nam, sau khi bí mật luồn qua các tuyến phòng thủ của địch ở Hậu Nghĩa - Long An,
đập vỡ tuyến phòng thủ vùng ven, đã nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm sở chỉ huy Biệt khu thủ
đô địch, hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu của hướng tây - nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào tiến công và nổi dậy ở nhiều phường, khóm nội thành.

Rõ ràng muốn làm cho địch tan rã lớn, tan rã nhanh, phải đánh gục những lực lượng chủ
yếu của chúng, mà đương nhiên đó là quân chủ lực, nhất là những đơn vị "chủ bài" của chúng.
Nhưng đối với binh đoàn chủ lực tại chỗ, còn phải tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của chiến
trường mà chọn đối tượng tác chiến chính trong từng lúc, từng nơi cho thích hợp. Do đó, nói
chung đối tượng chính của binh đoàn chủ lực tại chỗ vẫn là chủ lực địch những cũng có khi
thường là trong một số chiến dịch tổng hợp đối tượng chính lại là bọn ngụy quân, ngụy quyền ở
xã ấp. Do đó quy mô hoạt động tác chiến của quân đoàn không chỉ là đánh tập trung hợp đồng
binh chủng ở cấp trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn - mặc dù đây vẫn là hướng chính - mà còn phải
thường xuyên kết hợp giữa đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ một cách rộng rãi của cả bộ binh và
các binh chủng; không những hoạt động tập trung ở các hướng chủ yếu của chiến trường mà có
lúc phải phân tán hoạt động trên nhiều hướng. Nhưng dù tác chiến phân tán hay tập trung với bất
cứ quy mô nào cũng đều phải đánh tiêu diệt gọn, nhất là đối với những mục tiêu then chốt. Có
như vậy mới thực sự là quả đấm mạnh làm nòng cốt cho từng địa phương, từng hướng tiến công,
từng chiến trường.

3. Triệt để truy quét tàn quân địch; tích cực tham gia xây dựng lực lượng cách mạng
vùng mới giải phóng.

Giành chính quyền từ tay địch là một việc khó, song xây dựng và bảo vệ chính quyền ở cơ
sở nhất là ở thời kỳ đầu, xét về mặt nào đó còn khó hơn. Bởi vì kẻ địch mặc dù bị đánh gục
nhưng vẫn chưa cam chịu thất bại hẳn, mà còn tiếp tục âm mưu phục thù, chống phá cách mạng.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, một nhiệm vụ cơ bản và rất cấp báchlà phải truy
quét tận gốc tàn quân địch, xây dựng lực lượng cách mạng ở vùng mới giải phóng, trong đó Sài
Gòn là địa bàn trọng yếu nhất.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tổ chức ngụy quân, ngụy quyền đã bị đập tan, nhưng nhiều
tên ác ôn chưa bị diệt hoặc bị bắt, còn lén lút ẩn lấp, nhiều Đảng phái phản động chưa bị đập tan,
gần nửa triệu sĩ quan binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền tan rã tản mác trong dân, nhiều
người dân bị địch mê hoặc vẫn còn phân vân lo ngại về chính sách của cách mạng. Sau khi thành
phố được giải phóng chỉ vài ngày, một số tàn quân địch đã tiến hành các hoạt động chống lại
cách mạng và ngày càng rộng, mạnh hơn. Do đó, nhiệm vụ hàng đầu của công tác quân quản mà
quân đoàn là một trong những lực lượng chủ chốt, là phải lập tức truy quét ngay tàn quân địch,
giữ vững an ninh trật tự ở thành phố.

Để hoàn thành nhiệm vụ đó, quân đoàn đã kết hợp chặt chẽ với các lực lượng khác của
trung ương và địa phương, kết hợp giữa tiếp tục tiến công với nhanh chóng phát động nhân dân

129
đứng lên xây dựng, củng cố chính quyền, kết hợp giữa truy quét, cảm hoá và cải tạo tàn quân
địch với xây dựng lực lượng cách mạng ở cơ sở ngày càng vững mạnh. Đi đôi với việc tập trung
một bộ phận lực lượng bảo vệ những mục tiêu chủ yếu trong và ngoài thành phố, quân đoàn đã
phân tán một bộ phận xuống hầu hết các khóm phường của các quận nội thành, trực tiếp tuyên
truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng và ổn định vùng giải phóng, tổ chức chính quyền,
lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở, cùng với các lực lượng cách mạng ở địa
phương thiết lập trật tự xã hội mới, từng bước ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, Quân đoàn đã góp phần kêu gọi hầu hết tàn quân địch ra trình diện và đi cải tạo, nhiều tên
ngoan cố chống lại đã bị trừng trị đích đáng, nhiều mưu đồ hoạt động của địch bị đánh bại, và
nhiều tổ chức địch vừa mới nhen nhóm đã bị đập tan. Thắng lợi trong công tác quân quản thành
phố Sài Gòn đã góp phần giữ vững và phát huy thành quả vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975, tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố nhanh chóng ổn định và tiến lên.

Kết quả đó chứng tỏ rằng binh đoàn chủ lực tại chỗ không những có thể tiêu diệt lớn quân
địch bằng tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn mà còn phải tham gia truy quét, cải tạo tàn
quân địch, phát động quần chúng đứng lên làm chủ, xây dựng lực lượng cách mạng, nhanh
chóng ổn định vùng mới giải phóng.

*
* *

Thực tiễn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 cho thấy, để phát huy sức mạnh
tổng hợp trên mặt đấu tranh vũ trang, các binh đoàn chủ lực đều phải kết hợp chặt chẽ với chiến
tranh nhân dân địa phương, song đối với binh đoàn chủ lực tại chỗ, sự kết hợp đó có khác với
binh đoàn chủ lực cơ động.

Binh đoàn chủ lực tại chỗ là một bộ phận và là bộ phận nòng cốt trong lực lượng tiến hành
chiến tranh nhân dân ở địa phương. Nó phải cùng với chiến tranh nhân dân địa phương phát huy
sức mạnh tổng hợp, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch trên một hướng chiến lược. Do đó,
binh đoàn chủ lực tại chỗ phải kết hợp với chiến tranh nhân dân địa phương không chỉ trên mặt
trận quân sự, mà cả trên các mặt trận đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn
hoặc trên toàn chiến trường, trong từng thời kỳ, có khi suốt cả cuộc chiến tranh. Binh đoàn
không những phải dựa vào sức mạnh to lớn về nhiều mặt của địa phương mà còn phải thực sự
tham gia phát triển lực lượng cách mạng ở địa phương, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân
địa phương ngày càng vững mạnh. Chỉ trên cơ sở đó, binh đoàn mới phát huy được sức mạnh
của mình và không ngừng phát triển tiến lên.

Từ thực tiễn hoạt động của quân đoàn và quá trình trưởng thành của quân đội ta qua 30 năm
chiến tranh cách mạng, chúng tôi thấy: binh đoàn chủ lực tại chỗ là một hình thức tổ chức thích
hợp với điều kiện địa lý nước ta, với khả năng trang bị của ta, phát huy được sức mạnh của chiến
tranh nhân dân ở từng chiến trường trên cả nước. Cách tổ chức đó làm cho không những trên cả
nước, mà ở từng chiến trường ta đều phát huy được sức mạnh tổng hợp của hai phương thức, ba
thứ quân để tiến công địch; dù địch có cơ động bằng phương tiện gì cũng không thể nhanh hơn,
chủ động hơn lực lượng ta đã bố trí sẵn tại chỗ. Điều đó không những được hình thành và phát
triển trong những năm chiến tranh giải phóng, mà sau đó còn được vận dụng sáng tạo trong cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây - nam và nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia.

130
Ngày nay, trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, tuy ta phải đánh và chuẩn bị đánh với nhiều kiểu
chiến tranh của bọn phản động quốc tế, những với kiểu chiến tranh nào của địch, ta cũng phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của mọi lực lượng và các mặt trận đấu tranh để đánh
bại chúng. Riêng trên mặt trận quân sự ta vẫn phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả chiến
tranh nhân dân địa phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực, kết hợp ba thứ quân, kết
hợp lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ. Do đó trong bộ đội chủ lực, có những binh đoàn cơ
động chiến lược đồng thời vẫn có những binh đoàn tại chỗ đảm nhiệm một hướng chiến lược,
thậm chí trực tiếp phòng thủ một địa bàn nhất định ở tuyến đầu. Những binh đoàn này không
những cùng với quân và dân địa phương đánh bại mọi hành động phá hoại và xâm lược của địch
mà còn phải tham gia xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, cải tạo và xây
dựng kinh tế, không ngừng phát triển lực lượng cách mạng ở địa phương.

Để hoàn thành nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực tại chỗ, về tổ chức biên chế vẫn phải thống
nhất theo quy định chung, song trong từng thời gian nhất định, có thể và cần phải tổ chức những
đơn vị, cơ quan lâm thời nhằm bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể do yêu cầu cụ thể đặt
ra. Về huấn luyện, đi đôi với huấn luyện đánh tập trung hợp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn,
phải chú trọng huấn luyện bộ đội cách đánh bại kiểu hoạt động nhỏ lẻ, lấn chiếm của địch và
cách phát động quần chúng phá các tổ chức hoạt động bí mật của chúng, xây dựng và củng cố
lực lượng của ta ở cơ sở phù hợp với yêu cầu cụ thể của chiến trường. Phải thường xuyên làm
cho bộ đội nhận rõ nhiệm vụ quan trọng của binh đoàn chủ lực tại chỗ là không những phải phối
hợp tác chiến với địa phương mà còn phải tích cực tham gia xây dựng địa phương, xây dựng
quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc ở hướng binh đoàn dảm
nhiệm. Có như vậy mới phát huy được sức mạnh của binh đoàn và không ngừng đưa bình đoàn
phát triển tiến lên ngày càng mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

131
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA
NGHỆ THUẬT TÁC CHIẾN ĐẶC CÔNG
TRONG MÙA XUÂN 1975

Đại tá TRẦN ĐẮC TRUNG

Nghệ thuật tác chiến của bộ đội đặc công đã phát triển không ngừng theo đà phát triển của
nghệ thuật quân sự hiện đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh dạo của Đảng.

Nghệ thuật tác chiến đặc công kế thừa nghệ thuật đánh giặc từ ngàn xưa của dân tộc, mà
tiêu biểu là nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, lấy chất lượng tinh đánh thắng quân
địch có số lượng đông.

Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ đạo nghệ thuật tác chiến đặc công đã
phát triển ngày càng cao, đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao
là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong chiến dịch này, nghệ thuật tác chiến đặc công đã phát
triển lên một đỉnh cao mới, góp phần thực hiện một cách sáng tạo quyết tâm, phương châm và
cách đánh của chiến dịch.

Có thể nói một trong những nét nổi bật nhất của nghệ thuật tác chiến đặc công là nghệ thuật
chuyên tiến công quân địch bằng lực lượng ít hơn địch rất nhiều lần nhưng lại tạo được sức mạnh
hơn hẳn địch để đánh thắng chúng. Cơ sở khoa học của nghệ thuật tác chiến đặc công là sự kết
hợp chặt chẽ giữa lực tinh, thế hiểm và thời cơ thuận lợi. Mỗi một yếu tố trên đây đã là một sức
mạnh đáng kể nhưng nếu kết hợp chặt chẽ ba yếu tố đó thì sẽ tạo được một sức mạnh phát triển
theo cấp số nhân mà kẻ địch không sao lường hết được, nên dù lực ít vẫn đủ sức áp đảo để đánh
thắng địch mặc dù chúng đông hơn đặc công gấp bội.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh,
đặc công cũng đã thể hiện sự kết hợp ba yếu tố đó một cách xuất sắc.

Bộ đội đặc công là con đẻ của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nên trong chiến tranh giải phóng, đặc công đã phát triển theo quy luật chung của các lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam từ không đến có, từ ít đến nhiều, từ nhỏ đến lớn, từ những đơn vị
nhỏ lẻ trở thành một binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong thời kỳ cuối cuộc chiến tranh chống Mỹ, đặc công đã hình thành các loại lực lượng
tương đối hoàn chỉnh, có tính hệ thống trên toàn miền Nam.

Đã hình thành một mạng lưới đặc công địa phương từ xã, huyện, tỉnh đến quân khu, là lực
lượng đặc công tại chỗ rộng khắp rất lợi hại, góp phần làm nòng cốt, mũi nhọn của chiến tranh
nhân dân địa phương và đòn xeo cho phong trào nổi dậy của quần chúng.

Đã bố trí được một lực lượng khá mạnh đặc công chuyên trách đánh các căn cứ, hậu cứ, kho
tàng quan trọng của địch, có nơi có cả đặc công nước. Đây là một lực lượng vô cùng lợi hại,
chuyên bám đánh thường xuyên, liên tục các căn cứ quan trọng có ý nghĩa chiến lược, chiến

132
dịch, phá huỷ lớn cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh quan trọng của địch, gây tiếng vang
lớn, góp phần làm lung lay ý chí xâm lược của chúng.

Đã tổ chức được một lực lượng biệt động đều khắp trong các thành phố, thị xã, thị trấn ở
miền Nam một lực lượng đặc biệt lợi hại, thường xuyên bám đánh các cơ quan đầu não chiến
tranh các cấp của địch; đặc biệt là đặc công, biệt động trong nội đô Sài Gòn và vùng ven, chuyên
bám đánh bọn đầu sỏ nguy hiểm nhất của Mỹ - ngụy. Đó là một trong những lực lượng chính
làm nòng cốt, mũi nhọn cho chiến tranh nhân dân ngay trong căn cứ hậu phương, sào huyệt của
địch. Những chiến công hiển hách của biệt động thường gây nên những chấn động trong dư luận,
góp phần làm dao động tinh thần chiến đấu và ý chí xâm lược của địch.

Đã tổ chức được một lực lượng đặc công tập trung cơ động tương đối mạnh của Bộ và các
mặt trận, quân khu với quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, lữ đoàn. Đây là một lực lượng mới phát
triển trong thời kỳ cuối chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, một lực lượng đáng kể tham gia tác
chiến hợp đồng binh chủng trong chiến dịch.

So với các thời kỳ mà lực lượng đặc công phát triển tương đối mạnh như Tổng tiến công và
nổi dậy đồng loạt xuân 1968 và Tổng tiến công chiến lược năm 1972 thì trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975, đặc công đã có lực lượng mạnh chưa từng có. Đặc biệt, ở vùng ven
và trong nội đô Sài Gòn, ta đã ém sẵn được 6 trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động (gồm 13
cụm) và một số đơn vị binh khí kỹ thuật. Ngoài ra còn có lực lượng đặc công địa phương tại chỗ
và cơ sở nội tuyến. Đây là một lực lượng ém sẵn mạnh, có ý nghĩa chiến dịch vô cùng quan
trọng, tạo một thế trận thật lợi hại, hiểm hóc ngay trong hậu phương địch.

Nhờ có lực lượng hùng mạnh và đều khắp ở sát và sâu trong hậu phương địch,nhất là vùng
ven và nội đô Sài Gòn, nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đặc biệt là trong chiến
dịch Hồ Chí Minh, đặc công đã có một thế đánh mới vô cùng thuận lợi để đạt tới bất ngờ nhất,
cơ động và kịp thời nhất để tạo thời cơ và tận dụng thời cơ.

Có lực lượng đặc công và biệt động mạnh, với một thế đánh vô cùng lợi hại là một trong
những cơ sở quan trọng để Bộ tư lệnh chiến dịch nghiên cứu và hạ quyết tâm chính xác, đề ra
phương châm, cách đánh chiến dịch thích hợp. Đồng thời nhờ có lực lượng hùng mạnh kết hợp
với thế đánh vững chắc, bất ngờ, hiểm hóc, nên trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đặc công đã phát
huy nghệ thuật tác chiến của mình lên một bước mới.

Trong chiến tranh chống Mỹ, nghệ thuật tác chiến đặc công phát triển theo đà phát triển
nghệ thuật tác chiến của các lực lượng vũ trang nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc
công cũng từ đánh nhỏ từng tổ, mũi (trung đội), đội (đại đội), tiểu đoàn tiến lên đánh tương đối
lớn nhiều tiểu đoàn và đánh lớn cỡ trung đoàn và nhiều trung đoàn trong một chiến dịch; từ lấy
nhiệm vụ đánh phá hủy làm chính, tiến lên đánh chiếm giữ theo ý định chiến dịch; từ đánh đêm
là chính đến đánh cả đêm lẫn ngày; từ tác chiến thời gian ngắn tính từng giờ đến tác chiến dài
nhiều ngày đêm; từ sử dụng vũ khí thô sơ tự tạo là chính đến sử dụng các vũ khí tương đối hiện
đại của ta và lấy được của địch; từ đánh độc lập theo sở trường là chính, tiến lên đánh được hợp
đồng binh chủng trong chiến dịch quy mô lớn.

133
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đặc công có quy mô lực lượng
lớn, cách đánh rất phong phú, nhưng theo ý định chiến lược, lực lượng được bố trí rải trên nhiều
khu vực mục tiêu quan trọng, lấy tác chiến độc lập làm chính, tiến hành từng đợt chiến đấu trong
một thời gian tương đối dài, mà chưa thực hiện được đánh tập trung lớn trong tác chiến hợp đồng
binh chủng.

Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh, các
lực lượng đặc công vừa phát huy tốt sở trường đánh độc lập, vừa đánh giỏi trong chiến dịch lớn
hợp đồng binh chủng. Trong trận then chốt Buôn Ma Thuột mở màn chiến dịch Tây Nguyên, ta
đã sử dụng lực lượng đặc công tương đối lớn (trung đoàn tăng cường) luồn sâu vào trung tâm
địch, bất ngờ đánh chiếm những căn cứ then chốt, mục tiêu hiểm yếu (sở chỉ huy, sân bay, kho
tàng...) rồi chốt giữ liên tục đánh phản kích cả đêm lẫn ngày, bao vây, chia cắt, không cho địch
co cụm, đổ quân phản kích hoặc rút chạy, tạo điều kiện cho binh đoàn binh chủng hợp thành
nhanh chóng đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột, giành thắng lợi giòn giã.

Chiến dịch Hồ Chí Minh có quy mô rất lớn và yêu cầu rất cao đối với mọi lực lượng tham
gia chiến dịch, trong đó có đặc công. Đặc công phải đánh chiếm và giữ vững nhiều địa bàn và
mục tiêu quan trọng (14 cầu, 6 căn cứ án ngữ) trên các hướng tiến vào Sài Gòn và trong nội đô,
tạo bàn đạp, cửa mở cho năm binh đoàn binh chủng hợp thành tiến công, góp phần thực hiện
trong ngoài cùng đánh để bảo đảm bất ngờ, thần tốc, giành thắng lợi giòn giã và trọn vẹn cho
chiến dịch.

Đây là một yêu cầu đặc biệt nặng nề, khó khăn và phức tạp đối với đặc công trong chiến
dịch. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân uỷ trung ương, ngay từ
sau khi ký hiệp định Pa-ri, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã chủ động tích cực chỉ đạo,
xây dựng lực lượng đặc công Miền (6 trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động) và dựa vào thế
chiến tranh nhân dân, bố trí ngay tại vùng ven Sài Gòn - Chợ Lớn trên các hướng và địa bàn
quan trọng; mặt khác bản thân các lực lượng đặc công đã khắc phục vô vàn khó khăn, đối phó rất
ác liệt với các cuộc càn quét chà đi xát lại của địch. Tuy có một số đơn vị bị mất sức chiến đấu,
song các lực lượng đặc công đã giành được thắng lợi bước đầu rất quan trọng trong việc chuẩn bị
cả về thế và lực. Ta đã chốt được một lực lượng rất mạnh và bất ngờ ngay trong hậu phương
chiến lược, chiến dịch của địch. Đó là lực lượng tại chỗ nên có tác dụng bao vây, chia cắt, vu hồi,
thọc sâu chiến lược, chiến dịch vô cùng lợi hại, thực hiện đánh địch từ bên trong, góp phần bảo
đảm thần tốc nhất, bất ngờ nhất, táo bạo nhất và chắc thắng cho chiến dịch. Nhờ đó các lực
lượng đặc công đã phát huy cao độ nghệ thuật tác chiến độc đáo của mình, kết hợp rất chặt chẽ
giữa lực tinh, thế hiểm và thời cơ thuận lợi, tạo nên một sức mạnh kỳ diệu để đánh thắng.

Bước vào chiến dịch, ba cánh đặc công, biệt động trên năm hướng chiến dịch và các cụm
biệt động trong nội đô đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh chiếm và giữ vững các địa bàn,
bàn đạp được phân công gồm 14 cầu quan trọng (mà địch đã đặt sẵn thuốc nổ định phá khi chúg
rút) và 6 căn cứ án ngữ, bảo đảm cho năm binh đoàn binh chủng hợp thành nâng cao tốc độ tiến
công; đồng thời đánh chiếm một số mục tiêu trong nội đô và phát động quần chúng nổi dậy.

Đặc biệt trên hướng Quân đoàn 2, trung đoàn 116 đặc công đã đánh chiếm và giữ vững cầu
Xa lộ Biên Hoà, phân chi khu Bến Gỗ theo lệnh của quân đoàn trước ba ngày và đón được đại
đội xe tăng đi đầu của quân đoàn. Các chiến sĩ đặc công ngồi trên xe tăng, dẫn đường và cùng

134
chiến đấu đánh chiếm dinh Độc lập, sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Z28 biệt động
Sài Gòn đã đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, sau đó cùng đơn vị bạn chiếm lĩnh toàn bộ.

Qua thực tiến chiến đấu và chiến thắng của bộ đội đặc công trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, có thể rút ra mấy kết luận sau
đây:

a. Đặc công là con đẻ của chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển cao dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nghệ thuật tác chiến đặc công cũng phát triển theo đà phát triển của nghệ thuật quân
sự Việt Nam như đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đã chỉ rõ: "Kỹ thuật, chiến thuật phát triển trên
cơ sở chiến lược của Đảng, chiến lược của Đảng giúp đặc công phát triển".

b. Phải tạo được lực mạnh và thế vững ngay trong hậu phương chiến lược, chiến dịch cũng
như chiến thuật của địch thì đặc công mới phát huy được tác dụng lớn, mới thực hiện được đánh
đúng, đánh trúng, đánh đau, đánh hiểm, đạt được hiệu xuất cao, hiệu quả lớn có ý nghĩa chiến
lược, chiến dịch và chiến thuật.

c. Đặc công kết hợp chặt chẽ giữa lực tinh, thế hiểm và thời cơ thuận lợi thì sẽ tạo được sức
mạnh to lớn, áp đảo để đánh thắng mọi kẻ địch đông hơn mình gấp bội.

d. Có hai điều kiện cơ bản nhất để đặc công có được lực lượng cần thiết và hình thành thế
đánh vững chắc, bất ngờ sâu trong hậu phương địch. Một là, cấp lãnh đạo, chỉ huy có ý định nhất
quán trong việc lập mưu kế, thế trận, tạo cho đặc công có sự chủ động chuẩn bị trước trong điều
kiện cho phép; đó là tiền đề quyết định nhất. Hai là, bản thân các lực lượng đặc công phải phát
huy cao độ tính năng động chủ quan, kiên quyết chuẩn bị lực lượng và thế đánh theo yêu cầu của
lãnh đạo, chỉ huy; đó là điều kiện quyết định trực tiếp. Chỉ trên cơ sở kết hợp hai điều kiện nói
trên thì đặc công mới có lực lượng tinh đáp ứng yêu cầu đóng chốt vững chắc trong hậu phương
địch, và khi thời cơ đến mới phát huy tác dụng cao nhất hoàn thành được chức năng chính của
mình.

*
* *

Trên cơ sở đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng, trong giai
đoạn cách mạng mới nền nghệ thuật quân sự Việt Nam sẽ phát triển ngày càng cao hơn; đặc công
cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghệ thuật tác chiến của mình lên một bước mới.

Để phát triển nghệ thuật tác chiến trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, binh chủng
đặc công cần quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn cách
mạng mới, nhất là quyết tâm chiến lược, phương châm, phương thức tiến hành chiến tranh...
Trên cơ sở đó, xuất phát từ đặc điểm về đối tượng tác chiến, địa bàn hoạt động mới, kế thừa
những kinh nghiệm quý báu trong chiến tranh giải phóng mà nghiên cứu đề xuất những điểm
phát triển mới của nghệ thuật tác chiến đặc công trong điều kiện mới.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặt ra cho các lực lượng đặc công những yêu
cầu rất cao.

135
Một là, phải có đủ lực lượng và tạo được thế đánh tốt, góp phần đánh thắng kiểu chiến tranh
phá hoại nhiều mặt của địch hiện nay đối với nhân dân ta.

Hai là, phải tích cực chuẩn bị để có lực lượng mạnh và thế đánh vững chắc, linh hoạt, bất
ngờ, đáp ứng được mọi tình huống chiến tranh, thực hiện đánh mạnh, đánh đúng, đánh trúng,
đánh đau, đánh hiểm, đánh rộng khắp, liên tục ngay trong thời kỳ đầu khi chiến tranh lớn xảy ra
để góp phần hoàn thành thắng lợi quyết tâm chiến lược của Đảng. Đây là yêu cầu chính bao trùm
nhất.

Ba là, vừa đánh độc lập giỏi theo cách đánh sở trường của đặc công, vừa tham gia đánh giỏi
trong tác chiến hợp đồng quân, binh chủng trong các chiến dịch lớn.

Mấy yêu cầu chính trên đây đặt ra cho binh chủng đặc công những nhiệm vụ mới vô cùng
nặng nề và khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sáng suốt của trên và sự nỗ lực của bản thân, binh
chủng Đặc công nhất định sẽ làm tròn nhiệm vụ, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ đối với bộ đội
đặc công: "Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được...
Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt "1.
Trên cơ sở đó, nghệ thuật tác chiến đặc công nhất định sẽ có bước phát triển mới càng cao hơn.

136
MẤY VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG PHÁO BINH
TRONG MÙA XUÂN 1975

Thiếu tướng NGUYỄN TRUNG KIÊN

Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, nghệ thuật sử dụng pháo binh đã phát triển
đến mức cao nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó là nghệ thuật sử dụng pháo binh trong
những chiến dịch hợp đồng binh chủng quy mô lớn kết hợp với phong trào nổi dậy của quần
chúng trước thời cơ lịch sử mới đầy tính biến động về chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, nhằm
kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng.

Sau đây là mấy vấn đề chủ yếu trong nghệ thuật sử dụng pháo binh:

1. Nắm vững quy luật của chiến tranh giải phóng, khẩn trương xây dựng lực lượng
pháo binh mạnh, đáp ứng yêu cầu tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn trong giai
đoạn kết thúc chiến tranh.

Một vấn đề nổi bật về sử dụng pháo binh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975
là ngoài việc hoàn chỉnh hệ thống pháo binh ở các cấp, ta đã nhanh chóng phát triển lực lượng
pháo binh xe kéo lớn mạnh đáp ứng kịp thời yêu cầu của thời cơ chiến lược, phù hợp với quy
luật chiến tranh giải phóng ở giai đoạn kết thúc chiến tranh.

"Quy luật chiến tranh cách mạng là từ những đơn vị nhỏ ban đầu phát triển thành những
binh đoàn lớn tác chiến hợp đồng binh chủng để tiêu diệt lực lượng lớn địch và cuối cùng phải
đánh vào thành phố, đánh vào đầu não và đập tan chính quyền địch, mới đánh gục được địch,
giải phóng Tổ quốc"1. Xuất phát từ quy luật trên, tác chiến hợp đồng binh chủng đã trở thành xu
thế tất yếu trong giai đoạn kết thúc của chiến tranh giải phóng. Từ đó đòi hỏi phải xây dựng
những binh đoàn binh chủng hợp thành có đủ thành phần binh chủng kỹ thuật với sức đột kích
lớn, cơ động cao, hoả lực mạnh, có khả năng chiến đấu liên tục và tiêu diệt lớn quân địch.

Nói đến tác chiến hợp đồng binh chủng, không thể không nói đến pháo binh. Quy mô tác
chiến hợp đồng càng lớn thì hoả lực pháo binh càng phải mạnh, tổ chức và trang bị kỹ thuật pháo
binh càng phải được hoàn thiện, trong đó sự phát triển pháo binh xe kéo có ý nghĩa quyết định.

Lịch sử hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã chứng minh điều đó. Thắng lợi
của chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp gắn liền với sự xuất hiện
trung đoàn pháo binh xe kéo đầu tiên của quân đội ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch hợp đồng binh chủng
như Làng vây, Khe Sanh (1968), Đường số 9- Nam Lào (1971), Quảng Trị, Tây Nguyên, Bình
Long (1972), Phước Long (1974) cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đều gắn
liền với sự trưởng thành và hoạt động của pháo binh xe kéo từ nhỏ đến lớn.

Đây là một vấn đề có tính quy luật của tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân ta, trong đó có
lực lượng pháo binh. Năm 1954 - 1960, lực lượng ta ở miền Nam chưa có pháo; đến năm 1960 -

137
1964, có súng cối lực lượng vũ trang ta đã góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt;
năm 1968, có súng cối và hoả tiễn lực lượng vũ trang ta đã góp phần đánh bại chiến lược "chiến
tranh cục bộ"; từ năm 1968, ở các chiến trường đã bắt đầu phát triển pháo binh cơ giới, đến năm
1972 pháo binh cơ giới đã phát huy vai trò của mình trên cả ba chiến trường Trị - Thiên, Bắc Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ.

Sự hình thành lực lượng pháo binh xe kéo lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975 là kết quả của một quá trình đấu tranh giải quyết nhận thức cũng như
chuẩn bị về tổ chức lực lượng cụ thể qua các thời kỳ lịch sử của chiến tranh.

Năm 1968, trong điều kiện gặp nhiều khó khăn về đường cơ động, đạn dược, nhiên liệu ta
đưa pháo xe kéo vào Khe Sanh, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm. Năm 1972, khi đã giải quyết
được hệ thống đường cơ động, ta kiên quyết đưa pháo xe kéo vào sử dụng trên các chiến trường
trọng điểm, mở ra triển vọng to lớn sử dụng rộng rãi pháo binh xe kéo trên chiến trường miền
Nam. Từ giữa năm 1973 trở đi, trước tình hình phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam,
song song với việc hình thành các binh đoàn chiến dịch và chuẩn bị cho việc thành lập các quân
đoàn mới, ta đã phát triển vượt bậc lực lượng pháo binh xe kéo. Cho đến cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975, số lượng pháo binh xe kéo được sử dụng đã lên tới trên 20 trung đoàn, lữ
đoàn, gồm 67 tiểu đoàn. Đây là bước phát triển nhảy vọt, tạo nên sức mạnh rất lớn của hoả lực
pháo binh mà nòng cốt là hoả lực pháo binh xe kéo trong cuộc tổng tiến công chiến lược.

Sự phát triển của lực lượng pháo binh xe kéo qua các chiến dịch lớn trong kháng chiến
chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, được thể hiện như sau:

Chiến dịch Năm Số tiểu đoàn xe kéo


Điện Biên Phủ 1954 2
Khe Sanh 1968 9
Tây Nguyên 1975 16
Huế - Đà Nẵng 1975 20
Hồ Chí Minh 1975 47

Đi đôi với phát triển về số lượng, chúng ta đã cải tiến một bước tổ chức pháo binh như: hình
thành pháo binh ba cấp trong các đơn vị chủ lực (pháo binh chiến dịch, pháo binh sư đoàn, pháo
cối đi cùng); khôi phục và xây dựng các trung đoàn pháo binh xe kéo trong các sư đoàn chủ lực;
hình thành các trung đoàn, lữ đoàn pháo binh chiến dịch tầm xa, cỡ lớn (25 tiểu đoàn trong tổng
số 67 tiểu đoàn pháo xe kéo). Do đó đã tạo nên sự chuyển biến về chất trong tổ chức lực lượng
pháo binh, khả năng hoả lực của các binh đoàn binh chủng hợp thành được tăng cường, bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ tác chiến trong cuộc Tổng tiến công.

Trong điều kiện cụ thể nước ta, để phát huy mạnh mẽ vai trò của hoả lực pháo binh trong
tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn thì việc sử dụng pháo lấy được của địch cũng là một
nguồn bổ sung quan trọng làm cho lực lượng pháo binh ta thêm mạnh và tạo ưu thế hoả lực rõ rệt
đối với địch.

138
Đây là kinh nghiệm có tính quy luật của chiến tranh giải phóng và cũng là một truyền thống
của quân đội ta, đã được thực hiện thành công trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, kinh nghiệm này càng được vận
dụng rộng rãi góp phần tích cực làm cho bộ đội pháo binh càng đánh càng mạnh. Ta đã tổ chức
được 27/67 tiểu đoàn bằng vũ khí, phương tiện lấy được của địch. Ở nhiều sư đoàn thuộc Khu 5
và khu 9, các trung đoàn pháo binh được thành lập trong chiến đấu và tham gia tác chiến ngay.
Đối với những loại pháo mới của địch như pháo 155, 175mm, ta đã tuyên truyền giác ngộ và
dùng binh lính địch để sử dụng kịp thời. Để thực hiện yêu cầu này, ngay từ năm 1973, theo chỉ
thị của Bộ, binh chủng pháo binh đã chuẩn bị đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật để khi cần có
thể sử dụng tốt pháo và cối lấy được của địch.

Để phát huy hiệu quả cao nhất của lực lượng pháo binh, nhất là pháo binh xe kéo, phải giải
quyết một loạt vấn đề về tổ chức, thiết bị chiến trường và công tác bảo đảm, như mạng đường sá,
hệ thống hậu cần, tiếp tế đạn dược, nhiên liệu, các cơ sở sửa chữa và bảo đảm kỹ thuật.

Vấn đề then chốt đối với pháo binh là mạng đường sá và sức kéo. Từ sau chiến dịch Đường
số 9-Khe Sanh (1968), nhiều đồng chí lãnh đạo của ta đã đề cập vấn đề này, vì có làm đường cơ
động để đưa xe tăng, pháo binh vào mới đánh lớn được. Với 20.000 km đường chiến lược và
đường chiến dịch được mở rộng trong suốt quá trình chiến tranh, đến năm 1974 pháo binh xe kéo
đã có thể đi suốt chiều dài đất nước, tiến xuống áp sát vùng giáp ranh từ Trị - Thiên, Huế - Đà
Nẵng, Plây Ku - Buôn Ma Thuột đến Đông Nam Bộ. Nhờ đó đã tạo nên thế bố trí pháo binh rộng
khắp, hết sức cơ động, đã phát huy tác dụng rất lớn, đánh địch kịp thời, liên tục trong quá trình
cuộc tổng tiến công.

Vấn đề thứ hai là phải vận chuyển một khối lượng đạn dược, nhiên liệu lớn. Trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy vừa qua vấn đề này đã được giải quyết bằng sự nỗ lực của cấp chiến
lược, chiến dịch cho đến từng đơn vị pháo binh, thực hiện trên dưới cùng làm để đáp ứng yêu
cầu liên tục cơ động đánh địch.

Vấn đề thứ ba là bảo đảm kỹ thuật cho pháo binh trong suốt quá trình chiến đấu. Trong giai
đoạn chuẩn bị, cấp chiến lược, chiến dịch đã tiến hành bảo đảm ở từng đơn vị để nâng cao hệ số
sử dụng của xe, pháo binh và khí tài. Trong quá trình chiến dịch, do tính cơ động cao nên việc
bảo đảm kỹ thuật chủ yếu là ở các trung đoàn pháo để sửa chữa ngay tại chỗ, khai thác sử dụng
phương tiện lấy của địch để thay thế.

Ba yêu cầu trên đã được giải quyết đồng bộ bằng sự nỗ lực của các cấp, các lực lượng, tạo
điều kiện cho pháo binh xe kéo phat triển chiến đấu trong một chiến dịch dài ngày (55 ngày đêm)
và trên một chiến trường rộng lớn.

Tóm lại, phát triển lực lượng pháo binh, nhất là pháo binh xe kéo, đáp ứng yêu cầu tác chiến
hợp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn, là một yêu cầu tất yếu của chiến tranh giải phóng,
nhất là ở giai đoạn cuối chiến tranh.

Dưới sự chỉ đạo chiến lược sắc bén của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, của Quân uỷ trung
ương và Bộ Quốc phòng binh chủng pháo binh đã nhận thức đầy đủ và hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ này, góp phần xứng đáng vào Đại thắng mùa xuân 1975.

139
2. Quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, ra sức phát triển lực lượng
pháo binh địa phương, hình thành pháo binh tại chỗ rộng khắp, đánh địch mọi lúc, mọi
nơi.

Phát triển lực lượng pháo binh ba thứ quân vững mạnh là một vấn đề có tính nguyên tắc
trong xây dựng lực lượng pháo binh.

Trong quá trình chiến tranh, pháo binh địa phương đã không ngừng phát triển, góp phần rất
lớn tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Trong cuộc tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975, nhiệm vụ của pháo binh kết hợp cùng quần chúng nổi dậy, giải phóng các chi
khu quận lỵ, tiến lên giải phóng từng tỉnh; hình thành lực lượng pháo binh tại chỗ rộng khắp, góp
phần cùng pháo binh chủ lực tiêu diệt quân địch, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ bờ biển để pháo
binh chủ lực rảnh tay tập trung cơ động đánh địch. Trong thực tế, hoạt động của pháo binh địa
phương Quảng Trị, khu 5, đồng bằng Nam Bộ đã có tác dụng rất lớn, chi viện cho lực lượng địa
phương tiến công giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Tuy Hoà và một số tỉnh ở đồng
bằng Nam Bộ.

Sự phát triển của pháo binh địa phương rất phong phú, từ hẹp đến rộng, từ phân đội nhỏ đến
các đại đội, tiểu đoàn tập trung (Quảng Trị, Quảng Ngãi, Tây Nam Bộ). Từ chỗ chỉ quen sử dụng
pháo cối nhỏ, nhiều nơi đã sử dụng được pháo mang vác của bộ đội chủ lực chuyển giao và tiến
lên sử dụng pháo binh cho bộ đội địa phương, đã mở rộng việc trang bị pháo cho cả lực lượng
dân quân tự vệ.

Theo đà phát triển của cuộc Tổng tiến công, lực lượng pháo binh địa phương càng phát triển
nhanh chóng. Hầu hết pháo đạn lấy được của địch đã được sử dụng. Nhiều nơi đã tuyên truyền
giác ngộ pháo thủ, lái xe của địch để sử dụng ngay trong chiến đấu. Đây là một nét đặc sắc trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975. Cùng với sự phát triển lực lượng, trình độ chiến đấu
của pháo binh địa phương được nâng cao, vừa tham gia đánh hợp đồng, vừa chủ động đánh độc
lập, vừa tiến công, vừa phòng ngự giữ làng, giữ biển, tạo nên phương thức thứ hai của pháo binh
trong chiến tranh nhân dân. Các trận tham gia chi viện cho bộ đội địa phương giải phóng Quảng
Trị, Quảng Ngãi, Tuy Hoà,.... chi viện cho tiểu đoàn địa phương Phú Yên chặn địch ở Phú Bồn
là những trận hợp đồng tốt; trận đánh của phân đội ĐKB Quảng Đà vào sân bay Đà Nẵng và tiểu
đoàn 6 pháo binh Quảng Trị cơ động từ Cửa Việt vào tham gia khóa chặt cửa Thuận An là những
trận đánh độc lập có chất lượng cao.

Một vấn đề cũng nên được nêu lên là: để nhanh chóng hình thành các đơn vị pháo binh khi
thành lập các quân đoàn và sư đoàn, từ năm 1973 chúng ta đã chuyển giao việc xây dựng và sử
dụng các đơn vị pháo chuyên đánh căn cứ cho bộ đội pháo binh địa phương. Do đó trong các
chiến dịch tiến công, các đơn vị pháo này đã kết hợp chặt chẽ với pháo binh chủ lực cùng quần
chúng nổi dậy đánh vào các căn cứ, sân bay, kho tàng, sở chỉ huy của địch, đồng thời cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho pháo binh chủ lực hình thành những "quả đấm" hoả lực mạnh.

Nói đến tổng tiến công và nổi dậy là phải nói đến hai phương thức tác chiến. Trong Đại
thắng mùa xân 1975, việc hình thành và hoạt động tác chiến của bộ đội pháo binh địa phương đã

140
góp phần không nhỏ vào phong trào tiến công và nổi dậy của địa phương, góp phần thúc đẩy
nhanh đà tan rã và thất bại của địch.

3. Nắm vững thời cơ chiến lược, quán triệt tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất
ngờ, chắc thắng", bắn đúng thời cơ là một yêu cầu về sử dụng hoả lực mang ý nghĩa chiến
dịch rất lớn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, sau đòn "điểm huyệt" của ta vào Buôn
Ma Thuột, địch lâm vào thế bị động lúng túng, phải thực hành rút lui chiến lược. Tình hình đó đã
tạo ra thời cơ lớn cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Trước sự phát triển của cách mạng,
pháo binh cần phải có cách đánh thích hợp thì mới đáp ứng được yêu cầu. Lúc này quân địch đã
hoang mang rối loạn, dễ bị tan rã từng mảng. Đánh địch kịp thời không cho chúng hồi phục là
một vấn đề có ý nghĩa quyết định. Do đó đánh kịp thời, bất ngờ, đúng thời cơ đã trở thành yêu
cầu hàng đầu đối với pháo binh; nếu bắn đúng thời cơ thì chỉ cần một số đạn nhỏ cũng đạt được
hiệu quả rất lớn, tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng nhanh chóng phát triển tiến công, tiêu diệt
gọn từng bộ phận lớn quân địch, không cho chúng co cụm. Vai trò chủ yếu lúc này thuộc về
pháo xe kéo vì phải có tầm bắn xa, uy lực lớn, mức chính xác cao, cơ động nhanh thì mới đáp
ứng được yêu cầu nói trên.

Hoả lực bất ngờ của pháo binh bắn vào trung tâm đầu não quân địch ở Buôn Ma Thuột đã
làm cho chúng rối loạn và nhanh chóng tan vỡ. Những trận đánh kịp thời của pháo binh Trị -
Thiên và pháo binh quân đoàn 2 bắn vào cửa Thuận An và Tư Hiền đã bịt chặt đường rút của
địch, tạo điều kiện cho quân và dân Trị - Thiên và binh đoàn chủ lực tiêu diệt gọn quân địch, giải
phóng thành phố Huế. Những trận đánh kịp thời của pháo binh Quảng Đà và các trung đoàn pháo
164, 572 vào sân bay, trung tâm hành chính Đà Nẵng, Hoà Khánh đã tác động rất mạnh vào tinh
thần ngụy quân ngụy quyền tạo điều kiện cho các lực lượng của quân đoàn 2 và quân khu 5
nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng. Trận đánh kịp thời của pháo
binh sư đoàn 7, bằng một đại đội với một vài loạt đạn bắn vào Đà Lạt đã buộc địch ở đây phải
đầu hàng. Những trận đánh khoá chặn sân bay Biên Hoà và bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất trước
khi ta tiến công vào Sài Gòn cũng có giá trị rất lớn về chiến dịch. Trên thực tế, mỗi khi pháo
binh đánh kịp thời cơ thì đều gây biến động lớn về tinh thần tâm lý đối với địch, hiệu quả đạn
pháo được nhân lên gấp bội, góp phần cho bộ binh và xe tăng ta tăng tốc độ tiến công, giảm bớt
được thương vong trong chiến đấu.

Để đánh kịp thời cơ, ngoài yếu tố hàng đầu là quán triệt tư tưởng chỉ đạo chiến lược của
trên, nắm vững thời cơ, có quyết tâm cao, còn phải giải quyết tốt các vấn đề sau đây:

- Bố trí thế trận pháo binh thích hợp và hết sức cơ động. Trong chiến dịch Tây Nguyên pháo
binh đã kịp thời chi viện cho bộ binh chặn địch ở Phú Bổn, vì trước đó ta đã cài thế pháo binh
trên hướng đường 7. Pháo binh ở Huế - Đà Nẵng kịp thời đánh vào các mục tiêu trọng điểm,
chặn đường rút lui của địch, vì ta đã đưa pháo tầm xa, cỡ lớn vào sát vùng giáp ranh, bố trí thế
trận hết sức cơ động vừa đánh được địch ở Huế, lại có thể cơ động hoả lực đánh vào Đà Nẵng.

- Vấn đề cơ động đóng một vai trò có ý nghĩa quyết định trong việc sử dụng pháo binh.
Trong các chiến dịch, ta đã thực hành cơ động, đường dài, cơ động chiến đấu nhanh nhất bằng

141
mọi phương tiện có thể tận dụng được (đường bộ, bằng tàu biển, bằng phương tiện thô sơ như
thuyền ghép của các đơn vị pháo binh Tây Nam Bộ).

- Trong hành động chiến đấu của pháo binh, phải triển khai nhanh, chuẩn bị bắn bằng các
phương pháp chính xác và nhanh nhất. Mục tiêu là tập trung vào trận địa pháo, sân bay, sở chỉ
huy, cơ quan đầu não của địch, các hướng địch có thể rút lui bằng đường bộ, đường biển, đường
không. Trong cuộc Tổng tiến công vừa qua, từ sau trận mở đầu Buôn Ma Thuột, pháo binh vừa
hành tiến vừa đánh địch, nhiều trường hợp phải chuẩn bị rất gấp, có lúc không đợi triển khai đội
hình mà vào được khẩu nào, đơn vị nào là phát huy hoả lực ngay. Tình hình này đã xuất hiện từ
chiến dịch phản công Đường số 9 - Nam Lào năm 1971, khu trung đoàn 45 vừa hàng quân vừa
triển khai đánh địch ở cầu Cha Ki. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, kinh
nghiệm này đã được vận dụng phổ biến và phát huy hiệu lực lớn.

Người chỉ huy pháo binh phải ở vị trí chỉ huy của bộ binh để giữ vững hiệp đồng, nắm chắc
quyết tâm và yêu cầu của bộ đội binh chủng hợp thành, tổ chức chỉ huy chặt chẽ trong suốt quá
trình chiến đấu và chiến dịch.

Thắng lợi lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đánh dấu một bước phát
triển mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung và nghệ thuật sử dụng pháo binh nói riêng.
Nhiều bài học rất quý đến nay vẫn có giá trị thiết thực đối với việc xây dựng và tác chiến của
pháo binh trong giai đoạn mới.

142
NGHỆ THUẬT TÁC CHIẾN CỦA BỘ ĐỘI XE TĂNG - THIẾT GIÁP
TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Thiếu tướng LÊ XUÂN KIỆN

Trong thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, bộ đội thiết giáp đã đóng
một phần quan trọng, đưa nghệ thuật tác chiến của mình lên một bước phát triển mới, xứng đáng
với vai trò là một lực lượng đột kích quan trọng trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô
lớn.

Với lực lượng được sử dụng lớn hơn tất cả các thời kỳ trước đó trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, bộ đội thiết giáp đã tham gia chiến đấu thắng lợi trên tất cả các hướng chiến dịch,
chiến lược quan trọng.

Trong chiến dịch mở đầu ở Tây Nguyên, hiệp đồng chặt chẽ với các binh chủng bạn, với lực
lượng vũ trang và nhân dân địa phương, trong đoàn xe tăng 273 đã phát huy cao độ sức mạnh
hoả lực, khả năng cơ động, chi viện đắc lực cho binh đoàn chủ lực đánh thắng địch phòng ngự
trong công sự vững chắc, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Trong đó, lực lượng vũ trang Tây
Nguyên có trung đoàn xe tăng 273 tham gia, tiêu diệt quân địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, tiến
xuống giải phóng Tuy Hoà, Nha Trang. Với tinh thần tích cực chủ động, lữ đoàn xe tăng 203,
Quân đoàn 2 trung đoàn xe tăng 574 Quân khu 5 đã khắc phục khó khăn về kỹ thuật, bảo đảm cơ
động, phối hợp kịp thời với các đòn truy kích của lực lượng vũ trang Tây Nguyên, chi viện cho
các đơn vị vũ trang Quân khu 5 và Quân đoàn 2 tiến công như vũ bão, trong vòng hai tuần lễ từ
ngày 10 đến ngày 25 tháng 3 giải phóng hoàn toàn hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên. Tiếp đó, chỉ
trong hai ngày đêm từ 27 đến 29 tháng 3, bộ đội thiết giáp lại dẫn đầu hai mũi: một mũi của
Quân đoàn 2 từ phía bắc vào và tây xuống, căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, đánh tan 10 vạn
quân địch co cụm ở đó.

Mất Tuy Hoà, Nha Trang, địch co về cố thủ Phan Rang, Phan Thiết. Nhưng lực lượng Quân
đoàn 2 có lữ đoàn xe tăng 203 dẫn đầu tiến quân thần tốc đập tan tuyến phòng thủ từ xa mà Mỹ
ngụy vội vã lập ra hòng ngăn chặn quân ta tiến về Sài Gòn.

Phố hợp với mặt trận Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, các mũi tiến công của các binh đoàn chủ
lực ở miền Đông Nam bộ có xe tăng thiết giáp dẫn đầu đã liên tiếp giáng đòn sấm sét ở Dầu
Tiếng, Chơn Thành, Di Linh, Xuân Lộc, kể cả vùng tây - nam Sài Gòn chằng chịt kênh rạch mà
địch không ngờ ta có thể đưa xe tăng, thiết giáp vào được, khiến nguỵ quân, ngụy quyền càng
thêm hoảng hốt. Từ ngày 10 đến ngày 31 tháng 3, một bộ phận bộ binh đánh 15 trận trên đường
số 13 và đường số 20, giải phóng một vùng rộng lớn ở Tây Ninh, Lâm Đồng, mở rộng hành lang
phía bắc và tây - bắc Sài Gòn. Cùng thời gian đó, một bộ phận xe tăng, thiết giáp khác của mặt
trận Nam Bộ đã kịp thời chi viện cho sư đoàn bộ binh 3 tiến công quân địch ở phía tây sông Vàm
Cỏ Đông, nối thông hành lang từ miền Đông xuống miền Tây Nam Bộ. Tiếp đó, lực lượng xe
tăng thiết giáp Nam Bộ cùng lực lượng quân đoàn 4 tiến công Xuân Lộc, đến ngày 21 tháng 4
buộc chúng rút chạy về Bà Rịa, Biên Hoà, Trảng Bom, tạo điều kiện cho các cánh quân của ta áp
sát Sài Gòn, nhanh chóng triển khai thế trận tiến hành trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

143
Nói tới thành công về nghệ thuật tác chiến của bộ đội thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy xuân 1975, trước hết phải nói tới nghệ thuật chỉ đạo tổ chức lực lượng tạo thế bố trí
chiến lược liên hoàn vững chắc và cơ động trên chiến trường miền Nam, đón thời cơ lớn.

Trong chiến tranh giải phóng, muốn giành được thắng lợi ngày càng lớn thì phải không
ngừng tích luỹ lực lượng về mọi mặt. Đặc biệt lực lượng vũ trang phải trưởng thành nhanh
chóng, không ngừng phát triển về tổ chức, trang bị, có những binh đoàn cơ động chiến lược
mạnh đứng chân trên những địa bàn chiến lược trọng yếu sẵn sàng giáng đòn tiến công mạnh mẽ
phá vỡ những tập đoàn phòng ngự của địch, đột phá chiến dịch sâu hàng chục, hàng trăm km,
giải phóng các trung tâm chính trị kinh tế, tiêu diệt và làm tan rã hàng vạn quân địch. Đồng thời
phải có đông đảo lực lượng quần chúng cách mạng và lực lượng vũ trang địa phương trên các địa
bàn rộng lớn để khi thời cơ đến, kết hợp và phát huy sức mạnh của hai lực lượng, tạo ra cao trào
tiến công và nổi dậy rộng khắp, đánh bại hoàn toàn quân địch.

Thắng lợi toàn diện của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam trong hai năm
1973-1974 báo hiệu một thời cơ lớn sắp đến. Thấy trước sự xuất hiện thời cơ đó, để chuẩn bị cho
cuộc đọ sức cuối cùng giữa ta và địch, Bộ Chính trị và Quân uỷ trung ương đã gấp rút chỉ đạo
củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng xe tăng thiết giáp.

Trong hai năm 1973-1974, Quân uỷ trung ương, trực tiếp là Bộ Tổng tham mưu, đã chỉ đạo
sát sao việc tích luỹ và phát triển lực lượng xe tăng thiết giáp. Một mặt, không sử dụng lực lượng
này đánh những trận không có ý nghĩa quyết định, mặt khác tích luỹ tổ chức thêm các đơn vị
mới, trang bị bằng xe của ta và xe mới lấy được của địch. Nếu trong năm 1972 ta mới tổ chức
lực lượng xe tăng thiết giáp ở quy mô trung đoàn, tiểu đoàn độc lập thì sang năm 1973-1974, đã
tổ chức nhiều trung đoàn, lữ đoàn trực thuộc các quân khu, quân đoàn và các lữ đoàn xe tăng dự
bị chiến lược của Bộ.

Đảng, Nhà nước, quân đội còn chú trọng mở rộng, phát triển mạng đường giao thông chiến
lược Bắc-Nam, thành lập nhiều binh đoàn vận tải chiến lược, điều kiện cho binh chủng Thiết
giáp đưa nhiều đoàn xe tăng và hàng ngàn tấn vật tư kỹ thuật từ hậu phương lớn vào chiến
trường miền Nam.

Trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công, Bộ tư lệnh Thiết Giáp đã hiệp đồng chặt chẽ với
các đơn vị bạn, đưa 3 tiểu đoàn xe tăng hoàn chỉnh vào miền Đông Nam Bộ; đưa hàng chục xe
tăng, thiết giáp, 4 đội sửa chữa lưu động, 1.151 tấn khí tài, 500 cán bộ chiến sĩ, nhân viên kỹ
thuật được huấn luyện tốt từ miền Bắc vào các chiến trường; đồng thời liên tiếp cử các đoàn cán
bộ vào Trị Thiên - Huế, Quân khu 5, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ nắm tình hình, kiểm tra giúp
đỡ các đơn vị tổ chức huấn luyện bổ sung, sửa chữa khôi phục xe, pháo, khí tài.

Hai năm 1973-1974, binh chủng còn mở nhiều hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, tập
huấn cán bộ, tổ chức học tập chính trị, quân sự cho các phân đội hậu phương cũng như ở chiến
trường. Đặc biệt đã chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, dựa theo kinh nghiệm chiến đấu
mà bổ sung thêm các cách đánh đối với những đối tượng khác nhau, mở nhiều lớp huấn luyện lái
xe và sử dụng vũ khí trên các loại xe tăng, thiết giáp lấy được của địch. Nhờ đó, năng lực tổ chức
chỉ huy của cán bộ, trình độ kỹ, chiến thuật của các phân đội và lòng tin vào cách đánh mới

144
được củng cố. Các phân đội xe tăng thiết giáp đã có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tốt hơn năm
1972.

Như vậy, trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, lực lượng xe tăng
thiết giáp đã được tổ chức thành nhiều trung đoàn, lữ đoàn và một tiểu đoàn độc lập, được củng
cố và huấn luyện tốt, triển khai sẵn trên các địa bàn chiến lược trọng yếu từ Trị Thiên - Huế, Tây
Nguyên đến vùng rừng núi phía bắc và tây - bắc Sài Gòn. Các lữ đoàn xe tăng dự bị chiến lược
của Bộ đứng chân tại miền Bắc, luôn ở tư thế sẵn sàng, các phương tiện vận chuyển và tuyến
đường cơ động được chuẩn bị chu đáo và có nhiều thuận lợi hơn trước, tạo ra một thế bố trí
chiến lược liên hoàn, vững chắc và rất cơ động, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Rõ ràng là nếu không có các binh đoàn binh chủng hợp thành bao gồm bộ binh, thiết giáp,
pháo binh... đứng sẵn sàng trên các chiến trường Tây Nguyên, Huế và Đà Nẵng, bắc Sài Gòn thì
khó có thể tạo ra đòn tiến công chiến lược bất ngờ mạnh mẽ như Buôn Ma Thuột và cũng không
có khả năng thực hành kịp thời các đòn tiến công phối hợp của Quân đoàn 2 ở Trị Thiên-Huế,
của các đơn vị ở Quân khu 5. Nam Bộ và ở ngay phía bắc, và tây -bắc Sài Gòn. Mặt khác, nếu
không có lực lượng cơ động và bảo đảm cơ động mạnh, bao gồm các binh đoàn chiến lược, binh
đoàn vận tải chiến lược, đơn vị bảo đảm giao thông chiến lược thì ta không thể thần tốc cơ động
xe tăng thiết giáp từ Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh vào chiến trường miền Nam để tập trung
được một số lực lượng bộ đội binh chủng hợp thành lớn chưa từng có, tạo ra ưu thế áp đảo quân
địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh, nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở thời điểm có lợi nhất.

Có thể nói chuẩn bị lực lượng, tạo thế bố trí chiến lược liên hoàn vững chắc và cơ động là
yếu tố thắng lợi đầu tiên của các lực lượng vũ trang ta nói chung và của bộ đội thiết giáp nói
riêng.

Thành công trong nghệ thuật tác chiến của bộ đội thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975 còn được biểu hiện ở nghệ thuật sử dụng tập trung lực lượng xe tăng thiết
giáp vào thời cơ có lợi nhất, trên hướng chiến dịch quan trọng nhất, đánh thắng những trận then
chốt có ý nghĩa quyết định.

Mùa xuân 1975, ta đã huy động một số lượng xe tăng thiết giáp lớn nhất trong suốt 20 năm
kháng chiến chống Mỹ, vượt xa mức sử dụng trong các năm trước. Tuy nhiên so với nhiệm vụ
được giao trên chính diện và chiều sâu của cuộc tổng tiến công thì số lượng đó còn nhỏ. Đứng
trước thời cơ lịch sử, Đảng ta không chỉ chú trọng tích luỹ, phát triển lực lượng vũ trang về số
lượng mà còn chỉ đạo phát huy cao độ tác dụng và hiệu lực tiến công của các lực lượng. Vì vậy,
lực lượng xe tăng thiết giáp của ta, xét về toàn cục thì không nhiều hơn địch, nhưng sử dụng tập
trung vào những trận then chốt nên đạt hệ số sử dụng lớn, hiệu suất chiến đấu cao. Trong chiến
dịch Tây Nguyên, ta sử dụng toàn bộ trung đoàn xe tăng 273 vào trận Buôn Ma Thuột, hiệp đồng
với bộ binh bỏ qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài, chọc thẳng vào những mục tiêu quan trọng
bên trong thị xã nên đã nhanh chóng dứt điểm; sau đó dùng 5 đại đội xe tăng thiết giáp cùng bộ
binh truy kích tiêu diệt địch rút chạy trên đường số 7 ở thị xã Cheo Reo và ở Phước An, đèo Ma-
đơ-rắc trên đường số 21, tiến xuống đánh chiếm Nha Trang, Tuy Hoà, tạo thế chia cắt chiến lược
rất lợi hại.

145
Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lữ đoàn xe tăng 203 Quân đoàn 2 và trung đoàn xe tăng
754 Quân khu 5 đã nhanh chóng triển khai lực lượng đứng chân trên các khu vực khác nhau, kịp
thời chi viện cho các binh đoàn chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương giải phóng Trị Thiên -
Huế và Đà Nẵng.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, toàn bộ lực lượng xe tăng thiết giáp ở Nam Bộ cùng các
đơn vị cơ động từ Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng và ở miền Bắc vào (chiếm hơn 2/3 tổng số xe tăng
thiết giáp sử dụng trong cuộc tổng tiến công) được tập trung ở các mũi nhọn đánh vào 5 mục tiêu
quan trọng nhất trong nội thành Sài Gòn.

Chính nhờ nghệ thuật chỉ đạo sử dụng tập trung lực lượng xe tăng thiết giáp vào thời cơ
chiến dịch, chiến lược quan trọng nhất, đánh những trận then chốt quyết định, nên sức mạnh của
các bình đoàn, binh chủng hợp thành nhất là các binh đoàn thọc sâu được nhân lên gấp bội, tạo ra
những bước tiến thần tốc và những chiến công vang dội trong mùa xuân 1975 lịch sử.

Thành công trong nghệ thuật tác chiến của bộ đội thiết giáp trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975 còn được biểu hiện ở trình độ chiến đấu của các phân đội xe tăng thiết giáp.
Đó là khả năng vận dụng linh hoạt nhiều cách đánh dũng cảm, táo bạo mưu trí, sáng tạo, phát
huy cao độ tính năng của các loại xe, cơ động kịp thời, hiệp đồng chặt chẽ, tạo ra nhịp độ tiến
công ngày càng cao, chiều sâu tiến công ngày càng lớn, thực hành thọc sâu đột phá liên tục,
mạnh mẽ, khiến quân thù không sao chống đỡ nổi.

Sau đòn "điểm huyệt" thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, tình hình biến đổi rất nhanh và có bước
phát triển nhảy vọt, kẻ thù có triệu chứng tan rã, tạo nên một thời cơ vô cùng thuận lợi, đòi hỏi
tất cả các lực lượng của ta phải nỗ lực vượt bậc, có cách đánh táo bạo, thần tốc, đạt hiệu suất
chiến đấu cao. Chính trong hoàn cảnh đó, các phân đội xe tăng thiết giáp đã vận dụng thành công
chiến thuật tiến công địch trong hành tiến.

Thời gian chuẩn bị tiến công trong hành tiến thường rất ngắn, trung bình từ 6 đến 12 giờ
nên các đơn vị xe tăng thiết giáp phải luôn luôn ở tư thế sẵn sàng; quá trình hành quân tiếp cận
mục tiêu là quá trình bổ sung kế hoạch tác chiến và hiệp đồng giữa các phân đội.

Đội hình tiến công trong hành tiến được bó trí để có thể vừa cơ động vừa nắm địch, triển
khai chiến đấu, tiến hành bao vây các khu vực đề kháng của địch cho chủ lực ta lướt qua, thọc
sâu đánh chiếm các mục tiêu đã định, đồng thời phát huy sức mạnh hoả lực đánh được địch ở cả
mặt đất, trên không, trên sông, biển. Nhờ bố trí địa hình hợp lý, các phân đội xe tăng thiết giáp
đã vượt qua nhiều cứ điểm địch ngăn chặn dọc đường để nhanh chóng cùng bộ binh thọc sâu,
đánh chiếm các mục tiêu đã định. Khi tiến vào giải phóng thị xã Phan Thiết, lữ đoàn xe tăng 203
đã đánh lướt qua bốn quận lỵ dọc đường là Phan Rí, Sông Mao, Tuy Phong, Hoà Đa; khi tiến vào
Sài Gòn, lữ đoaà cũng đã lướt qua ngã ba đi Thủ Dầu Một, ngã tư Thủ Đức, cầu Sài Gòn, cầu
Thị Nghè để tiến vào đánh chiếm dinh tổng thống ngụy quyền.

Tuỳ theo tình hình địch, khả năng của ta và ý định của người chỉ huy binh chủng hợp thành
mà tổ chức lực lượng cho thích hợp. Có khi dùng từng đại đội hoặc tiểu đoàn xe tăng thiết giáp
phối thuộc cho các trung đoàn, sư đoàn bộ binh như khi truy kích địch trên đường số 7 và đường
số 21 ở Tây Nguyên hoặc khi đánh địch trên đường số 20 từ Định Quán đi Bảo Lộc, Di Linh.

146
Nhưng cũng có khi lấy lữ đoàn xe tăng làm lực lượng trung tâm hiệp đồng do lữ đoàn trưởng xe
tăng chỉ huy như trận đánh chiếm thị xã Phan Thiết, hoặc mũi thọc sâu của Quân đoàn 2 trong
chiến dịch Hồ Chí Minh.

Cách đánh địch trong hành tiến phải kiên quyết, táo bạo và linh hoạt. Trường hợp gặp địch
ngăn cản dọc đường phải tìm cách kiềm chế, đánh lướt qua, hoặc vừa đánh địch trước mặt vừa
đánh vòng sau lưng địch, buộc chúng phải tháo chạy. Như trong trận đánh địch ở ngã tư Thủ
Đức, chiếc xe tăng do đồng chí Trần Quang Nhàn chỉ huy đã dũng mãnh thọc sâu vào phía sau
trường quân sự Thủ Đức, buộc bọn sĩ quan và học sinh ở đây phải tháo chạy.

Cách đánh địch trong hành tiến rất thích hợp với sở trường của bộ đội thiết giáp, nhưng phải
bảm đảm làm chủ trên không, có tuyến đường cơ động tốt, có sự hỗ trợ tích cực của lực lượng tại
chỗ, sự hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị bạn.

Tiến công trong hành tiến không phải không cần có chuẩn bị và cũng không phải là cách
đánh có hiệu quả đối với bất kỳ kẻ địch nào. Tiến công trong hành tiến đòi hỏi cán bộ chiến sĩ
phải có quyết tâm cao, tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh cấp trên; người chỉ huy phải quyết đoán,
xử trí nhanh, sâu sát dưới, đến những nơi khó khăn, trực tiếp chỉ huy xử trí những tình huống gay
cấn nhất. Hành động của bộ đội phải linh hoạt, táo bạo, sử dụng thành thạo cacs loại vũ khí trên
xe, chủ động đánh địch và biết tìm đường vòng tránh khi đội hình phía trước bị ùn tắc hoặc bị
địch ngăn chặn.

Tiến công giải phóng các thành phố, thị xã là yêu cầu tất yếu của nghệ thuật tác chiến trong
giai đoạn cuối chiến tranh giải phóng. Trong mùa xuân 1975, bộ đội thiết giáp đã tham gia tiến
công giải phóng nhiều thành phố, thị xã bằng những phương pháp tác chiến khác nhau.

Huế và Đà Nẵng là hai thành phố lớn, ở đó địch có những căn cứ quân sự lớn, được bố
phòng chu đáo, có các cứ điểm vòng ngoài bao bọc. Nhưng khi địch đã hoang mang rệu rã thì
các phân đội xe tăng thiết giáp của ta với số lượng không nhiều đã có thể hiệp đồng với các binh
đoàn chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương tranh thủ thời cơ, táo bạo dẫn đầu đội hình thọc
sâu vào trung tâm thành phố, chặn đường tháo chạy của chúng ra cửa biển Thuận An (Huế), bán
đảo Sơn Trà, sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng). Cách đánh này biểu hiện nghệ thuật sử dụng xe tăng
thiết giáp kiên quyết táo bạo, đúng thời cơ, khiến quân thù kinh hoàng rối loạn, còn đông quân
mà không sao chống đỡ nổi.

Khi tiến vào giải phóng Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, cách đánh có những nét khác. Ở
ba thị xã này, địch mới lập tuyến phòng thủ vội vã để bảo vệ Sài Gòn từ xa. Vì thế, Quân đoàn 2
đã quyết định tổ chức binh đội phái đi trước với lữ đoàn xe tăng 203 làm nòng cốt, vừa trinh sát
nắm địch vừa tiến công tiêu diệt các chốt bảo an, dân vệ dọc đường, tiếp cận thị xã vào ban đêm
rồi lướt qua các mục tiêu không quan trọng ở vòng ngoài, chọc thẳng vào bên trong các thị xã lúc
nửa đêm hoặc mờ sáng, nhanh chóng tiêu diệt các đối tượng chủ yếu, tạo điều kiện cho quân và
dân ta giải phóng thị xã.

Khi tổng công kích vào thành phố Sài Gòn, do địch phòng thủ vòng ngoài mạnh nhưng bên
trong mỏng yếu, nên các trung đoàn, lữ đoàn xe tăng thiết giáp được sử dụng một phần lực lượng
chi viện cho cho các binh đoàn đột phá mở cửa, còn phần lớn lực lượng làm bộ phận hợp thành

147
của các binh đoàn cơ giới thọc sâu, hoặc đảm nhiệm phân đội thọc sâu của các quân đoàn. Cách
đánh này mang lại hiệu quả lớn. Trong năm hướng tiến công vào nội đô, có bốn hướng có xe
tăng thiết giáp tham gia và trở thành lực lượng đột kích quan trọng, co nơi là lực lượng đột kích
chủ yếu, chi viện đắc lực cho các binh đoàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đột phá chiến dịch
trong thời gian ngắn.

Trong tiến công vào thành phố, thị xã phải tuỳ theo thế trận phòng thủ, cách bố trí lực lượng
và sức chiến đấu của địch, điều kiện địa hình mà quyết định cách đánh thích hợp. Khi thế phòng
ngự của địch còn vững chắc thì xe tăng thiết giáp phải chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp
thành và tổ chức thành đội đột kích mạnh, chi viện cho nhau chiến đấu, thực hiện đánh chắc, tiến
chắc. Khi địch phòng ngự vội vã hoặc rút chạy, tan rã, có thể tổ chức lực lượng phái đi trước, lấy
xe tăng thiết giáp làm nòng cốt, có các phân đội bộ binh ngồi trên xe, có pháo binh, cao xạ, công
binh trực tiếp chi viện và bảo đảm, thực hành tiến công trong hành tiến. Trong trường hợp này,
các phân đội xe tăng thiết giáp phải hành động kiên quyết, táo bạo, phối hợp với lực lượng vũ
trang tại chỗ và dựa vào nhân dân, tổ chức đội hình có đội trinh sát đi đầu, có lực lượng tiền vệ
và hỏa lực chi viện trực tiếp mạnh, đủ sức mở đường cho chủ lực vượt lên, đánh thẳng vào trung
tâm thành phố, thị xã khiến cho quân địch không kịp trở tay đối phó.

Xe tăng thiết giáp là loại xe chiến đấu hiện đại, nhưng do nhiều nguyên nhân, trang bị của ta
thường không đồng bộ, gồm nhiều chủng loại cũ, mới, với tính năng kỹ thuật, chiến đấu khác
nhau; kỹ thuật chế tạo chưa được nhiệt đới hoá nên chưa thật thích hợp với địa hình, thời tiết
Việt Nam. Sức mạnh chiến đấu của mỗi chiếc xe tăng, thiết giáp không chỉ phụ thuộc vào vỏ
thép dày hay mỏng, cỡ pháo lớn hay nhỏ, trang bị súng nhiều hay ít mà còn phụ thuộc rất nhiều
vào tài nghệ của người chỉ huy và của các kíp xe đièu khiển. Với quyết tâm sắt đá, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, với kiến thức và kỹ năng chiến đấu ngày một
nâng cao, bộ đội thiết giáp đã sử dụng thành công các loại xe trong những nhiệm vụ khác nhau.

Thành công to lớn của các đơn vị xe tăng thiết giáp đã sử dụng hợp lý các loại xe khác nhau
trên các chiến trường, ở những thời điểm khác nhau trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975 đã khẳng định: xe tăng, thiết giáp chỉ có thể phát huy đầy đủ tính năng tác dụng khi ở
trong tay những người có quyết tâm chiến đấu cao, có trình độ làm chủ vũ khí kỹ thuật, vận dụng
sáng tạo cách đánh thích hợp trước từng kẻ thù cụ thể, có sự hiệp đồng chặt chẽ, chi viện tích cực
của các lực lượng khác trong đội hình chiến đấu binh chủng hợp thành, sự phối hợp kịp thời của
các lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân các địa phương.

Kinh nghiệm trên cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để xây dựng và phát triển lực
lượng xe tăng thiết giáp trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hết sức tránh nhấn
mạnh một chiều tính năng tác dụng của một loại xe nào đó, dẫn đến sử dụng không thích hợp với
từng loại địa hình, thời tiết và thế trận ở từng địa bàn, trong những thời điểm khác nhau. Đồng
thời phải khắc phục hiện tượng chỉ chú trọng trang bị kỹ thuật hiện đại mà lãng quên việc chăm
lo xây dựng con người vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tinh thông kỹ thuật, chiến thuật.

148
SỬ DỤNG KHÔNG QUÂN
KIÊN QUYẾT, THẦN TỐC, TÁO BẠO, BẤT NGỜ
TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

Thượng tướng ĐÀO ĐÌNH LUYỆN

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, Không quân nhân dân Việt Nam được góp phần nhỏ bé với lực lượng một biên đội Quyết
thắng, trong một trận đánh kết thúc tuyệt đẹp quá trình 10 năm trực tiếp đánh Mỹ, bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam của quân chủng.

Lần này, sân bay Tân Sơn Nhất, cầu hàng không cuối cùng để Mỹ thực hiện kế hoạch di
tản, là mục tiêu công kích của không quân.

Trong 7 ngày chuẩn bị chiến đấu hết sức khẩn trương, các chiến sĩ không quân gặp nhiều
khó khăn tưởng như không thể vượt qua nổi với khối lượng công việc to lớn, phức tạp và mới mẻ
trong huấn luyện chuyển loại từ máy bay xã hội chủ nghĩa sang máy bay A.37 lấy được của địch,
trong bảo đảm vật chất kỹ thuật, tổ chức chỉ huy, hiệp đồng...Nhưng được sự chỉ đạo sáng suốt,
kiên quyết của Bộ Tổng tham mưu, Bộ chỉ huy chiến dịch, sự tập trung nỗ lực của quân chủng,
các chiến sĩ không quân đã thể hiện ý chí và quyết tâm cao, hành động kiên quyết sáng tạo, táo
bạo, thần tốc, thực hiện thắng lợi trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
mà Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho.

Qua thực tiễn trận đánh này nổi lên một số vấn đề nghệ thuật sử dụng không quân.

1. Hạ quyết tâm chính xác, đánh đúng thời cơ

Ngay sau khi ta chiếm được một số sân bay và máy bay ở quân khu I, quân khu 2 ngụy
(cuối 3-1975) Bộ đã sớm giao nhiệm vụ cho không quân tiếp quản và nhanh chóng đưa vào sử
dụng các sân bay mới được giải phóng, gấp rút chuẩn bị triển khai lực lượng để làm chủ bầu trời
miền Nam, kể cả vùng biển và hải đảo, đồng thời đề ra cho người lái của ta chuẩn bị mọi mặt để
có thể dùng máy bay lấy được của địch đánh địch.

Tiếp dó, chiều 25 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe báo cáo và nắm tình hình không quân
tiếp quản các sân bay của địch từ Phan Rang trở ra, Bộ chỉ huy chiến dịch đã quyết định: dùng
máy bay lấy được của địch do phi công ta lái để đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, nhằm mục đích
khống chế sân bay tích cực và chủ động nhất, thúc đẩy tình hình địch vốn đã rối loạn càng rối
loạn hơn nữa, không cho bọn đầu sỏ dễ dàng chạy trốn, không cho địch mang đi những máy bay
tốt hiện còn để ở sân bay Tân Sơn Nhất, tạo điều kiện cho không quân ta được trực tiếp tham gia
chiến dịch lịch sử này để có thêm kinh nghiệm phục vụ huấn luyện, xây dựng và chiến đấu của
không quân ta trong tương lai.

Thời cơ đánh đã chín muồi, vì các quân đoàn chủ lực của ta đã vào vị trí tập kết xung quanh
Sài Gòn. Quyết tâm của Bộ chỉ huy chiến dịch là giải phóng Sài Gòn trước ngày 1 tháng 5 năm
1975. Theo kế hoạch chung đã định, từ chiều 26 và sáng 27 tháng 4, các hướng sẽ đồng loạt đánh

149
vào vùng ven Sài Gòn. Ngày 28 tháng 4, pháo binh tầm xa của ta ở Nhơn Trạch bắn vào sân bay
Tân Sơn Nhất và các mũi tiến công của các binh đoàn chủ lực cũng sẵn sàng tiến quân vào Sài
Gòn. Với thời gian chung và kế hoạch của chiến dịch như vậy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã quy
định ngày đánh cụ thể của không quân là 28 tháng 4 và chỉ rõ: "Không quân chỉ có một ngày
này, một lần để lập công" (trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử).

Đối với không quân, tuy thời gian từ khi nhận lệnh đến khi đánh thật gấp rút, nhưng đó là
thời cơ "ngàn năm có một". Nếu đánh sớm trước ngày 28 tháng 4 thì không thể chuẩn bị kịp; mặt
khác, bộ đội ta còn ở xa, tinh thần quân địch chưa hoang mang cực độ, tính quyết định của chiến
dịch chưa cao, tính hiếp đồng chưa lớn. Nếu đánh muộn (sau ngày 28-4) thì mất thời cơ, tác dụng
đối với chiến dịch không lớn và có thể gây khó khăn cho việc hiệp đồng tác chiến, dẫn đến lầm
lẫn gây thương vong cho đơn vị bạn và không bảo đảm an toàn cho phi công ta. Cho nên yêu cầu
không quân đánh đúng thời gian là rất bức bách. Không quân phải làm chủ được thời gian để
hành động đúng thời cơ tốt nhất, đúng thời điểm quyết định. Không quân đánh đúng thời cơ sẽ
góp phần áp đảo địch, buộc Mỹ phải di tản nhanh hơn, thất bại nhanh hơn, bộ đội ta đỡ tốn
xương máu.

Trong hoàn cảnh cấp bách như vậy, không thể tính toán giải quyết hết mọi khó khăn rồi mới
đánh, mà phải có tinh thần đạp bằng mọi khó khăn để giành thắng lợi. Kẻ địch cho rằng không
quân ta chuyển máy bay Mích từ miền Bắc vào thì không kịp, mà sử dụng được máy bay của
chúng thì cũng còn lâu, nên khi bị đánh bất ngờ, tinh thần của chúng sẽ sa sút nhanh hơn, đà di
tản càng gấp rút hơn. Ta tìm thấy chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch để triệt để lợi dụng, bảo đảm đạt
được bất ngờ, tạo ra khả năng giải quyết nhiệm vụ một cách chắc chắn với lực lượng nhỏ, dù chỉ
là một biên đội và chỉ đánh một trận. Đó là nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy biết nắm thời cơ, hạ quyết
tâm chính xác, sử dụng lực lượng không quân thích hợp, đúng tính năng vào thời điểm quan
trọng, vào trận đánh then chốt, vào một trong những mục tiêu trọng yếu của chiến dịch. Như vậy,
dù lực lượng không quân ít, số trận đánh không nhiều nhưng vẫn có hiệu quả cao, tác dụng lớn
đối với chiến dịch và cả tác chiến và cả xây dựng lâu dài của không quân.

Lựa chọn, xác định mục tiêu đánh cũng là một vấn đề nghệ thuật chỉ huy. Từ Bộ chỉ huy
chiến dịch đến Bộ tư lệnh quân chủng, các cấp cán bộ của không quân và người lái đã nghiên
cứu, cân nhắc kỹ lưỡng. Mục tiêu đánh là sân bay Tân Sơn Nhất hay sân bay Biên Hoà? Là dinh
"Độc lập" hay Bộ Tổng tham mưu hoặc Tổng nha cảnh sát ngụy?... Nếu là sân bay thì đánh vào
đâu cho có hiệu quả và tác dụng lớn, kho bom, kho xăng dầu, đường cất hạ cánh, sân đỗ máy bay
hay đài chỉ huy? Cuối cùng, ta đã xác định đúng mục tiêu đánh là sân bay Tân Sơn Nhất, tập
trung đánh khu vực để máy bay F.5 đang sẵn sàng chiến đấu, kể cả máy bay mà bọn Mỹ dùng để
di tản.

Chọn mục tiêu này có tác dụng gây chấn động lớn cho bọn Mỹ, buộc chúng tháo chạy
nhanh hơn. Đây là mục tiêu lớn, người lái ta dễ quan sát, phát hiện, dễ đánh trúng, không sợ
nhầm lẫn gây tổn thất cho nhân dân thành phố. Mặt khác là một sân bay nằm sâu trong hang ổ
của chúng nên lực lượng phòng không của địch ở đây không mạnh lắm, tuy chúng có chú ý hơn
sau khi dinh "Độc lập" bị trút bom, đề phòng không chỉ máy bay của ta mà cả máy bay do ngụy
lái nữa.

150
Đúng 15 giờ 40, biên đội gồm 5 máy bay A.37 do phi công ta lái đã xuất kích oanh tác sân
bay Tân Sơn Nhất, đánh trúng khu vực để máy bay F.5, máy bay vận tải và máy bay làm nhiệm
vụ di tản của Mỹ. Từng loạt bom trút xuống, tiếng nổ rung chuyển Sài Gòn, khói lửa trùm kín
khu vực để máy bay. Trừ một vài loạt cao xạ địch hoảng hốt bắn lên, mọi hoạt động khác của
địch trên sân bay lúc này đều tê liệt. Tại các khu vực khác, máy bay chiến đấu của địch vẫn nằm
trên sân bay. Biên đội máy bay ta đã làm chủ bầu trời Sài Gòn bằng hành động quả cảm, táo bạo,
bất ngờ. Cuộc di tản vội vã của bọn Mỹ trong giờ phút đó phải tạm ngừng, để rồi sau đó càng hối
hả hơn, đẩy địch đi đến thất bại hoàn toàn nhanh chóng hơn.

2. Phát huy truyền thống lấy vũ khí địch diệt địch

Lấy vũ khí địch để diệt địch là truyền thống chiến đấu của quân đội ta. Không quân nhân
dân Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống đó. Song nhiệm vụ này vô cùng khó khăn,
phức tạp. Bản thân việc bay trên trời đã chứa đựng những yếu tố không an toàn, đòi hỏi phải có
điều kiện bảo đảm nhiều mặtvà có đủ thời gian để nắm vững kỹ thuật bay và bảo đảm vật chất kỹ
thuật cho bay. Dù chỉ có một máy bay bay trên trời cũng phải bảo đảm đồng bộ và toàn diện các
mặt như bảo đảm cho hàng chục máy bay. Đối với các loại vũ khí bộ binh, pháo binh, xe tăng,
thiết giáp... đoạt được của địch thì việc đưa vào sử dụng không đòi hỏi nhiều thời gian như máy
bay. Mỗi chiếc máy bay là kết quả tổng hợp của nhiều ngành khoa học kỹ thuật hiện đại tinh vi
nên việc sử dụng đòi hỏi phải có thời gian, phải nghiên của nắm vững kỹ thuật để bảo đảm an
toàn tuyệt đối, vì người lái máy bay không có điều kiện để rút kinh nghiệm và sửa chữa sai lầm,
thiếu sót của mình khi bay ở trên không.

Không quân ta phải chiến đấu trong những điều kiện hoàn toàn mới về nhiệm vụ, đối tượng
tác chiến, phương pháp hoạt động... Song điều khó khăn nhất là dùng máy bay lấy được của địch
để diệt địch. Thời gian 7 ngày chỉ đủ để nắm được những yêu cầu tối thiểu cho việc điều khiển
một chiếc máy bay, còn để tìm hiểu hết tính năng, tác dụng của mọi trang bị để có thể xử trí với
mọi bất trắc về kỹ thuật trong khi bay thì hoàn toàn không đủ. Trong cuộc chiến đấu với không
quân Mỹ để bảo vệ miền Bắc, ngay với tinh thần cách mạng sáng tạo và khẩn trương "đốt cháy
giai đoạn", việc huấn luyện chuyển loại máy bay mới của ta cũng mất 3 tháng. Với máy bay của
địch, sự khác biệt về cấu tạo, tính năng tác dụng và cách sử dụng càng lớn hơn. Nhưng do yêu
càu nhiệm vụ, thời gian bay chuyển loại, chuẩn bị chiến đấu, bay chuyển từ sân bay Đà Nẵng vào
sân bay Phù Cát, đến sân bay Phan Rang và thực hành chiến đấu tất cả chỉ có 7 ngày. Nếu không
có ý chí quyết tâm cao, kiên quyết chấp hành nhiệm vụ, không phát huy cao tinh thần tự lực tự
cường và khả năng làm chủ kỹ thuật loại máy bay mới thì khó có thể đáp ứng yêu cầu về thời
gian. Từ tác chiến phòng không, một phương thức hoạt động mà không quân ta đã có nhiều kinh
nghiệm chuyển sang phương thức hoạt động đánh mục tiêu mặt đất nằm sâu trong hang ổ của
địch cũng là một vấn đề mới phải nghiên cứu kỹ.

Tuy kẻ địch đang sa sút về tinh thần, nhưng bọn giặc lái ngụy đều có giờ bay cao, máy bay
F.5 của địch còn nhiều và đang sẵn sàng chiến đấu trên một số sân bay, chúng có thể cùng với hệ
thống phòng không đối phó với ta trên vùng trời mà trước nay chúng chưa hề gặp đối thủ.

Máy bay ta lại hoạt động độc lập, không có máy bay tiêm kích hộ tống. Ngoài ra, hoả lực
phòng không của các đơn vị quân ta đang vây ép Sài Gòn nếu không được thông báo kịp sẽ có
thể vì không biết mà bắn vào máy bay địch do phi công ta lái.

151
Để làm chủ loại máy bay A.37, phi công ta đã khẩn trương nghiên cứu kỹ thuật ở mặt đất,
điều khiển máy bay lăn trên mặt đất, kèm nhau bắn thử, tập bổ nhào ném bom, đặc biệt ta đã sử
dụng một số lái cũ của ngụy hướng dẫn kỹ thuật. Sau đó được đồng chí Nguyễn Thành Trung
hướng dẫn bay kèm và dẫn biên đội đi đánh, nên cũng rút ngắn được thời gian chuẩn bị. Anh em
thợ máy đã dốc sức sửa chữa, chuẩn bị máy bay. Sửa chữa được chiếc nào, bay chiếc đó, dù chỉ
có một chiếc cũng luân phiên bay tập. Các trang bị bổ trợ, nhiên liệu, vũ khí, các phương tiện
thông tin, ra-đa cũng được chuẩn bị khẩn trương, chu đáo để bảo đảm cho nhiệm vụ. Mặc dù thời
tiết miền Trung về mùa hè thường thay đổi bất thường, hay có mưa giông, mây thấp, nhiều ngày
rất trở ngại cho bay. Nhưng anh em vẫn kiên trì tranh thủ từng giờ thời tiết tốt để bay, thực hiện
kỳ được mỗi người lái ít nhất cũng bay tập ném bom được một lần.

Với ý chí kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, trận đánh đã kết thúc thắng lợi giòn giã, đạt
hiệu xuất ném trúng cao, thực hiện đúng ý định về thời cơ và yêu cầu về thời gian của Bộ chỉ huy
chiến dịch. Không quân nhân dân Việt Nam đã ghi thêm vào lịch sử của mình chiến công "dùng
máy bay lấy được của địch đánh thắng địch" góp phần vào thắng lợi của trận quyết chiến cuối
cùng của quân dân ta. Chiến công đó càng tô thắm và làm dày thêm truyền thống "Trung thành
vô hạn, kiên quyết tiến công, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể" của không quân nhân dân. Đó
cũng là kết quả của những năm tháng vừa chiến đấu vừa xây dựng gian khổ, quyết liệt trong cuộc
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đánh thắng nhiều kiểu loại máy bay hiện
đại với những tên giặc lái sừng sỏ của Mỹ bằng mọi loại vũ khí có trong tay, loại máy bay nào
cũng đánh thắng, lớp phi công nào cũng lập chiến công và trưởng thành toàn diện.

Cũng từ kinh nghiệm thực tiễn và phát huy truyền thống trận đánh Tân Sơn Nhất, sau này
không quân ta đã mạnh dạn sử dụng không những máy bay A.37 mà tất cả các loại máy bay ta
lấy được của địch như F.5, trực thăng vũ trang UH.1, trực thăng cần cẩu CH.47, máy bay trinh
sát L.19, vận tải C.130... tham gia chiến đấu hợp đồng với các binh, quân chủng khác ở biên giới
tây - nam, bằng nhiều phương thức phong phú, chi viện có hiệu lực cho các binh, quân chủng
bạn chiến đấu thắng lợi.

3. Chọn cách đánh đúng đắn, sáng tạo, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng

Trong chiến đấu và chiến dịch, xác định cách đánh đúng là yếu tố rất quan trọng để giành
thắng lợi. Bằng lối đánh thông minh, táo bạo, bất ngờ, trận oanh kích sân bay Tân Sơn Nhất đã
giành thắng lợi giòn giã với một biên đội (5 máy bay A.37) không có máy bay tiêm kích hộ tống.
Việc xác định đúng lực lượng sử dụng, phương án ném bom, thời cơ cất cánh, sân bay xuất kích,
đội hình bay, đường bay, độ cao bay, phương pháp tiếp cận mục tiêu, phương pháp công kích
mục tiêu, phương pháp xử trí các tình huống bất trắc, chỉ huy và dẫn đường bay... có quan hệ
trực tiếp đến kết quả trận đánh.

Trong trận đánh này, điểm nổi bật lên hàng đầu của mọi biện pháp trong cách đánh là phải
giữ được bí mật, giành được bất ngờ mới bảo đảm chắc thắng, đánh trúng mục tiêu đạt hiệu suất
chiến đấu cao. Vì nếu để địch sớm phát hiện ý định của ta, và máy bay ta từ phía bắc bay xuống,
lại bay cao, chắc chắn ra-đa của chúng sẽ phát hiện được và sẽ dùng máy bay F.5 chặn đánh. Ta
phải tính toán làm sao bay lọt qua được mạng lưới ra-đa cảnh giới của địch suốt chặng đường
bay từ căn cứ xuất kích đến mục tiêu đánh, có vậy mới giáng cho chúng một đòn bất ngờ.

152
Ta đã sử dụng lực lượng nhỏ với trọng lượng bom vừa đủ (10 tấn) thực hành đánh sâu, đánh
hiểm vào khu vực để máy bay ở căn cứ sào huyệt chính của địch, trong thời điểm quyết định của
chiến dịch, thể hiện nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn của không quân trong điều kiện cụ thể, với đối
tượng tác chiến cụ thể.

Ta chọn thời cơ sử dụng không quân đúng vào lúc (28-4) địch đang hoang mang dao động,
di tản hỗn loạn và chúng không ngờ ta lại kịp sử dụng được máy bay của chúng nhanh đến thế.
Về thời cơ cụ thể, ta cất cánh lúc 15 giờ 40 phút là lúc địch dễ chủ quan, ít đề phòng; đánh xong
quay về hạ cánh trước lúc trời tối. Ta dùng sân bay Thành Sơn làm nơi xuất kích chiến đấu để rút
ngắn cự ly bay, tăng thêm thời gian hoạt động trên không và chọn đường bay trùng hợp với
đường bay mà máy bay địch thường hoạt động để dễ trà trộn, làm cho chúng dễ nhầm là máy
bay của chúng. Ta đã bay thấp để tránh ra-đa địch phát hiện, không sử dụng vô tuyến điện liên
lạc trên đường bay để giữ bí mật. Đến gần mục tiêu thì kéo lên độ cao cần thiết, dùng phương
pháp bổ nhào ném bom cho chuẩn xác. Sử dụng máy bay do Nguyễn Thành Trung lái dẫn đầu
biên đội và ném bom chỉ chuẩn cho các máy bay tiếp theo ném trúng mục tiêu... Tất cả những
vẫn đề ấy đều được tính toán tỉ mỉ, chặt chẽ cho từng người lái, từng động tác, chuẩn bị kỹ cách
đối phó trong từng tình huống cụ thể.

Khi bay qua Bà Rịa, mặc dù cao xạ dưới mặt đất bắn rộ lên, biên đội vẫn quả cảm bay lướt
qua, giữ vững đội hình bay theo đường bay dự định đến mục tiêu một cách bất ngờ.

Bằng một loạt biện pháp, ta đã giữ được bí mật trong suốt quá trình chuẩn bị cũng như thực
hành chiến đấu, làm cho địch hoàn toàn bị bất ngờ. Khi bom nổ, địch bàng hoàng, tưởng lại có
một "Nguyễn Thành Trung thứ hai" chứ không ngờ là chính máy bay của chúng do anh em ta lái
do chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu đang giội bão lửa lên đầu chúng. Trận đánh bất ngờ càng
làm tăng thêm nỗi kinh hoàng của kẻ địch vốn đang hoang mang, suy sụp. Giữ được bí mật,
giành được bất ngờ nên ta giữ được quyền chủ động trên không; không quân ta làm chủ bầu trời
Sài Gòn suốt thời gian oanh kích.

Sử chỉ đạo sáng suốt của Bộ chỉ huy chiến dịch kiên quyết sử dụng không quân đúng thời
cơ, với lực lượng thích hợp bằng máy bay lấy được của địch để tiêu diệt địch ở thời điểm quyết
định trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã làm tăng thêm sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng tham gia chiến dịch, đẩy địch đi nhanh đến thất bại, đồng thời tạo điều kiện cho không
quân trưởng thành lên một bước mới.

Đây là trận đánh đầu tiên của không quân ta tham gia một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược
trong tác chiến hợp đồng quân, binh chủng, "một trận phối hợp tuyệt đẹp, một trận đánh hợp
đồng quân chủng, binh chủng đầy đủ nhất từ trước đến nay của quân đội ta vào một thời điểm hết
sức quan trọng có tác dụng lớn đến diễn biến chiến dịch".

Đối với quân chủng không quân, thành công của trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất cho phép
rút được nhiều bài học hay, kinh nghiệm quý về quán triệt nhiệm vụ và quyết tâm chiến dịch, về
tổ chức chỉ huy và thực hành một trận chiến đấu mới mẻ về mọi mặt.

153
Những bài học đó có ý nghĩa thiết thực đối với nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu của Quân chủng không quân trong sự nghiẹp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

154
TÁC CHIẾN CỦA BINH ĐOÀN CHỦ LỰC TẠI CHỖ
KẾT HỢP VỚI CHIẾN TRANH NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG

Thượng tướng HOÀNG CẦM

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 là thắng lợi của đường lối chính trị,
đường lối quân sự của Đảng, trong đó một vấn đề có ý nghĩa quyết định là không ngừng phát
huy sức mạnh tổng hợp của ta trên mặt trận đấu tranh vũ trang bằng sự kết hợp chiến tranh chính
quy với chiến tranh du kích, ngày nay gọi là kết hợp chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực với
chiến tranh nhân dân địa phương.

Kết hợp chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương không
những xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng mà còn là sự kế thừa và phát huy
truyền thống "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc" được hình thành, phát triển qua bốn ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó trở thành một quy luật về phương thức tiến hành
chiến tranh cách mạng của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp cũng như kháng chiến
chống Mỹ.

Từ điểm xuất phát như vậy, trong quá trình đấu tranh vũ trang, đi đôi với phát động phong
trào toàn dân đánh giặc, ta đã ra sức xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực có đủ các quân binh
chủng, từng bước cải tiến trang bị kỹ thuật ngày càng tốt hơn, đặc biệt đã xây dựng những binh
đoàn lục quân ngày càng lớn mạnh. Trong các binh đoàn đó có những binh đoàn làm nhiệm vụ
dự bị chiến lược cơ động trên một hướng chiến lược trong một thời gian dài, có khi suốt cả cuộc
chiến tranh, thường gọi là binh đoàn chủ lực tại chỗ.

Quân đoàn 4 là một đơn vị chủ lực của Bộ được hình thành trong quá trình kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và đảm nhiệm hoạt động ở chiến trường B2, chủ yếu là vùng Đông Nam
Bộ. Với chức năng là đơn vị chủ lực tại chỗ nên trong quá trình hình thành và phát triển lực
lượng, các đơn vị tiền thân của quân đoàn cũng như quân đoàn đã gắn chặt với quân và dân Nam
Bộ, Cực nam Trung Bộ, gắn chặt việc xây dựng đơn vị mình với xây dựng thế trận chiến tranh
nhân dân ở chiến trường này. Nhờ vậy, quân đoàn đã cùng quân và dân tại chỗ hoàn thành các
nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao cho. Đặc biệt đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tạo thế ở vòng cung từ tây - bắc đến đông - bắc Sài Gòn,
quân đoàn đã cùng với các binh đoàn chủ lực cơ động của Bộ cùng quân và dân địa phương tiến
hành thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta.

Trong mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Quân uỷ Miền, sự
chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy Miền, Quân đoàn 4 đã giải quyết thành công nhiều vấn đề quan
trọng góp phần vào việc chuẩn bị chiến trường trọng điểm, cùng các binh đoàn chiến lược khác
và quân dân địa phương giành toàn thắng trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

155
156
1. Tạo thế cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng

Nếu trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bắc Bộ là chiến trường chính, thì trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, Nam Bộ lại là chiến trường chính của cuộc chiến tranh, trong đó, Đông
Nam Bộ là địa bàn chủ yếu, vì ở đây có Sài Gòn là đầu não và sào huyệt cuối cùng của địch, là
trung tâm chính trị, kinh tế của cả miền Nam; đồng thời lại có vùng rừng núi là căn cứ địa cách
mạng của cả Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ.

Do miền Đông Nam Bộ có vị trí như vậy nên địch thường tập trung lực lượng gồm nhiều
đơn vị chủ lực mạnh hoạt động ở chiến trường này, hòng ngăn chặn và tiêu diệt chủ lực ta, nhằm
bảo vệ vững chắc Sài Gòn. Ta cũng tập trung hầu hết lực lượng chủ lực của miền ở đây, cùng các
lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị các địa phương xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân
ngày càng vững mạnh, luôn luôn chủ động tiến công, uy hiếp địch ở Sài Gòn. Cho đến giữa năm
1974, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) và căn
cứ vào tình hình cụ thể của chiến trường, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã đề ra chủ trương
trong vài năm tới (1974 - 1976) đánh bại về cơ bản "kế hoạch bình định" của địch, chủ yếu ở
đồng bằng sông Cửu Long, mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng miền Đông, mở thông hành
lang xuống đông và tây Sài Gòn, nhằm chuẩn bị một bước quan trọng cho trận quyết chiến chiến
lược Sài Gòn khi thời cơ đến.

Quân đoàn 4 là đơn vị chủ lực mạnh nhất của chiến trường Nam Bộ, đảm nhiệm hướng tiến
công chủ yếu ở miền Đông, có nhiệm vụ trước mắt trong mùa khô 1974 - 1975 cùng với quân và
dân địa phương giải phóng một số khu vực quan trọng ở hướng tây - bắc, đông - bắc Sài Gòn.

Chấp hành nhiệm vụ đó, ngay từ cuối năm 1974, quân đoàn đã cùng với quân và dân địa
phương giải phóng tỉnh Phước Long. Với chiến thắng này ta đã đập tan một khu vực tiền đồn
quan trọng nhất của quân khu 3 ngụy trên hướng tây - bắc, tạo điều kiện cho chủ lực ta mở vùng
giải phóng ở đường số 20 và đường số 1 xuống bờ biển, uy hiếp sở chỉ huy quân đoàn 3 và căn
cứ không quân quan trọng của địch ở Biên Hoà, mở rộng và hoàn chỉnh một bước hậu phương
tại chỗ của chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ. Chiến thắng đó có tầm chiến lược quan
trọng, vì đây là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được giải phóng hoàn toàn, tỉnh đó lại ở gần Sài Gòn
và nằm trong một quân khu mạnh vào loại nhất nhì của ngụy ở miền Nam, thế mà chúng phải
chịu bó tay không dám và không thể tung lực lượng chủ lực phản kích hòng giành lại; còn Mỹ thì
buộc phải làm ngơ và tuyên bố "lúc này chưa cho phép" yểm hộ cho Nam Việt Nam. Chiến
thắng Phước Long đã "củng cố thêm quyết tâm chiến lược được xác định trong Hội nghị Bộ
Chính trị và bổ sung cho phương án giành thắng lợi lớn khi có thời cơ".

Sau chiến thắng Phước Long, quân đoàn tiếp tục phát triển áp sát tuyến phòng thủ cơ bản
của địch và đến tháng 3 năm 1975 đã cùng với quân và dân địa phương giải phóng các khu vực
Dầu Tiếng, đường số 26, Chơn Thành (tỉnh Bình Long), đường số 20, Định Quán (tỉnh Lâm
Đồng), quét sạch địch ở tuyến phòng thủ cơ bản của chúng trên hướng tây - bắc đến đông - bắc
Sài Gòn. Sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và các sở chỉ huy sư đoàn thuộc quân đoàn này vốn là
những căn cứ hậu phương cơ bản của chúng hàng chục năm nay, bay giờ đã trở thành những tiền
đồn bị ta uy hiếp mạnh; hầu hết các căn cứ hậu phương của chúng ở vùng ven và cả một số mục
tiêu quan trọng ở thành phố Sài Gòn đều có thể bị pháo tầm xa của ta bắn tới.

157
Việc giải phóng các khu vực trên đã làm cho vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ được mở
rộng hoàn chỉnh gồm phần lớn đất đai các tỉnh: Lâm Đồng, Phước Long, Bình Long, Bình
Dương, Tây Ninh, tạo thế hậu phương tại chỗ của chiến trường; phía sau nối liền với Tây
Nguyên vừa được giải phóng hoàn toàn, đến tận hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phía
trước kéo gần sát thành phố Sài Gòn. Với vùng giải phóng rộng lớn đó, ta có khả năng bảo đảm
cho những binh đoàn chủ lực lớn triển khai và tiến công vào Sài Gòn trên nhiều hướng. Điều đó
sau này đã được thể hiện rõ: Quân đoàn 3, Quân đoàn 1 và hàng chục sư đoàn, trung đoàn của
các quân binh chủng với nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại đã triển khai ở khu vực Dầu Tiếng -
Đồng Xoài là bàn đạp tiến công ở hướng tây - bắc của chiến dịch Hồ Chí Minh, còn ở phía đông
- bắc đã tạo thành một hành lang vững, rộng. Đường số 20 - Định Quán - Lâm Đồng bảo đảm
cho quân đoàn phát triển xuống tiến công địch ở phía đông thành phố Sài Gòn. Chiến thắng
Phước Long, rồi chiến thắng Tây Ninh, Lâm Đồng đòn phủ đầu có ý nghĩa quyết định đập tan kế
hoạch của địch định phòng thủ Sài Gòn từ xa bằng phòng tuyến Tây Ninh - Lâm Đồng - Nha
Trang, trong đó Lâm Đồng được coi là xương sống.

Trước đà phát triển tiến công của ta ở vùng ven biển miền Trung, địch đã dùng mọi thủ
đoạn hòng thực hiện "trì hoãn chiến". Chúng tập trung cố gắng khẩn cấp tổ chức lại thế trận
phòng thủ chủ yếu nhằm ngăn chặn hướng tiến công của chủ lực ta theo đường số 20 và đường
số 1, với tuyến phòng thủ mạnh kéo dài từ Phan Rang đến Sài Gòn, trong đó Xuân Lộc là một
khu then chốt. Nhưng tuyến phòng thủ này của địch vừa triển khai thì quân đoàn đã cùng với
quân và dân tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà tiến công địch ở Xuân Lộc, đánh chiếm khu vực Dầu Giây.
Sau hơn 10 ngày chiến đấu, ta đã giải phóng thị xã Xuân Lộc, đập tan một khâu trọng yếu trong
tuyến phòng thủ từ xa của địch ở hướng đông Sài Gòn, mở toang cửa cho các binh đoàn chủ lực
cơ động của ta ở hướng này tiến công vào sào huyệt cuối cùng của địch.

Hoạt động tác chiến của quân đoàn không những góp phần cùng quân và dân địa phương
hoàn thành nhiệm vụ tạo thế trận cho trận quyết chiến chiến lược trên hướng tây-bắc - đông-bắc
Sài Gòn mà còn phối hợp có hiệu quả với các hướng khác. Ngược lại, thắng lợi của các hướng
khác cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quân đoàn hoàn thành nhiệm vụ của binh đoàn chủ lực tại
chỗ.

Đến giữa tháng 4 năm 1975, ta đã xây dựng được một thế trận rất vững mạnh trên các
hướng tiến vào Sài Gòn, tạo ra một hậu phương trực tiếp có khả năng đáp ứng những yêu cầu
của chiến trường, thiết lập bàn đạp tiến công cho các binh đoàn chủ lực cơ động trên các hướng,
mở thông và bảo đảm tính vững chắc của hành lang xuống tây và đông Sài Gòn, hình thành một
"vành đai thép" mà nhiều nhà quân sự phương Tây ví như "một chiếc thọng lọng khổng lồ" siết
vào cổ quân địch ở Sài Gòn. Không những thế, ở phía sau lưng địch, ta đã triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân địa phương vững mạnh gồm hàng vạn cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ
trang, từ những đơn vị đặc công của miền, những tiểu đoàn mũi nhọn của thành phố đến các đội
du kích, tự vệ mật... và hàng vạn quần chúng được tập hợp trong các tổ chức cách mạng ở khắp
vùng ven đô và nhiều phường khóm trong nội đô, có cả nhiều cán bộ, đảng viên, cốt cán của ta
đã cài sẵn trong hàng ngũ địch, kể cả những cơ quan chiến lược quan trọng như Bộ Tổng tham
mưu ngụy. Khi ta tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, những lực lượng đó đã kết hợp tiến
công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ ở nhiều cơ sở, đánh chiếm một số mục
tiêu quan trọng, nhất là những cầu lớn trên các đường giao thông chủ yếu, tạo điều kiện thuận

158
lợi cho các binh đoàn cơ giới, hùng mạnh và sắc nhọn của chủ lực ta nhanh chóng thọc sâu vào
trung tâm thành phố Sài Gòn.

Với thế trận trên, ta đã tạo ra được một trong những yếu tố cơ bản bảo đảm thắng lợi của
chiến dịch Hồ Chí Minh. Thế trận đó không những được tạo ra ngay trong thời kỳ đầu cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà còn là kết quả của cả mấy chục năm đấu tranh kiên
cường, bền bỉ của quân và dân ta ở chiến trường này.

Thế trận của trận quyết chiến chiến lược ở Sài Gòn không chỉ do quân và dân Nam Bộ -
Cực nam Trung Bộ trực tiếp lập ra mà còn do thế trận chung của cả miền Nam, của cả nước tạo
thành. Trải qua gần 20 năm kháng chiến chống Mỹ, ta đã lần lượt đánh bại bốn kế hoạch chiến
lược chiến tranh xâm lược của chúng. Trong năm 1974 và đầu năm 1975, tiếp theo thắng lợi của
ta ở Khu 9 và các chiến trường khác ở miền Nam, đặc biệt là chiến thắng Phước Long và thắng
lợi có tính chất bước ngoặt trên chiến trường Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 đã làm cho thế và
lực của ta có sức áp đảo quân địch; ta nắm hoàn toàn quyền chủ động chiến lược, còn địch thì bị
động, lúng búng bế tắc trầm trọng từ chiến lược đến chiến thuật, tinh thần hoang mang dao động.
"Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn nhảy vọt mà thời
cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín
muồi"1.

2. Tiêu diệt một bộ phận lực lượng chủ yếu, đánh bại những thủ đoạn chiến thuật cơ
bản của địch.

Một trong những quy luật cơ bản giành thắng lợi trong chiến tranh là phải tiêu diệt lực
lượng quân sự của địch, cả sinh lực, phương tiện chiến tranh, và đánh bại những biện pháp chiến
lược, chiến thuật của chúng. Nhưng địch có nhiều loại quân, nhiều loại lực lượng, sử dụng nhiều
thủ đoạn. Ta phải chọn đúng đối tượng, đánh gục những lực lượng chủ yếu của địch, đánh bại
những thủ đoạn cơ bản của chúng thì mới làm cho địch tan rã nhanh chóng, làm thay đổi cục
diện chiến trường có lợi cho ta. Đó là yêu cầu chung, đồng thời cũng là yêu cầu của từng chiến
trường, từng chiến dịch.

Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ (gồm cả thành phố Sài Gòn) trước khi ta tiến hành
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, quân địch còn gần 78 vạn tên, gồm 15 vạn chủ lực, 8
vạn bảo an, gần 2 vạn dân vệ và 53 vạn phòng vệ dân sự. Toàn bộ lực lượng đó lúc này chủ yếu
được sử dụng làm nhiệm vụ phòng thủ Sài Gòn bằng nhiều tuyến, hòng ngăn chặn từ xa, trong
đó hầu hết lực lượng chủ lực được tập trung ở tuyến phòng thủ cơ bản từ thị xã Tây Ninh qua Lai
Khê, Phước Vĩnh đến Xuân Lộc, còn các tuyến khác chủ yếu là lực lượng địa phương quân.
Ngoài những tuyến phòng thủ liên hoàn ở vùng giáp ranh và vùng ven, địch còn tăng cường khả
năng nhằm giữ cho được những khu vực quan trọng như thị xã Phước Long, An Lộc, đường số
14, Chơn Thành, vừa làm tiền đồn bảo vệ Sài Gòn, vừa là những căn cứ xuất phát của chúng để
hoạt động vào sâu trong hậu phương ta khi có điều kiện. Muốn tiến công vào Sài Gòn, tất yếu ta
phải tiêu diệt được lực lượng chủ lực địch, đập tan tuyến phòng thủ cơ bản của chúng ở vành
ngoài. Nhưng để có đủ sức đè bẹp địch ở tuyến này, một yêu cầu có tính chất quyết định là phải
mở rộng và hoàn chỉnh vùng căn cứ địa miền Đông Nam Bộ vững mạnh, một hậu phương trực
tiếp có tầm chiến lược không chỉ đối với chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ mà cả cho
trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cả nước. Dó đó, ngay từ giữa năm 1974, Quân uỷ

159
Miền và Bộ chỉ huy Miền đã giao nhiệm vụ cho quân đoàn trong mùa khô 1974 - 1975 phải giải
phóng đường số 14 - Phước Long, sau đó phát triển xuống giải phóng Dầu Tiếng, Định Quán,
Chơn Thành.

Chủ trương của ta lúc này là đi đôi với tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch,
phải tập trung nỗ lực diệt được nhiều chi khu, quét sạch từng mảng đồn bốt của chúng. Có như
vậy mới thực hiện được tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ về tay nhân dân, mở mảng, mở
vùng. Đó là yêu cầu vừa rất cấp bách vừa rất cơ bản của cách mạng và chiến tranh cách mạng
miền Nam lúc này. Tuy nhiên, cách đánh như thế nào đang còn là vấn đề phải nghiên cứu giải
quyết.

Qua học tập kinh nghiệm của một số địa phương, đơn vị, quân đoàn thấy rằng muốn tiêu
diệt chi khu tiến tới tiêu diệt tiểu khu địch, giải phóng những vùng đất đai rộng, ta không thể
đánh theo kiểu bóc vỏ, lần lượt diệt các đồn bốt địch từ ngoài vào trong mà phải cùng một lúc
tiêu diệt và đánh tan rã toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền của địch bằng cách tiêu diệt chi
được căn cứ sở chỉ huy chi khu, tiểu khu, đồng thời kết hợp giữa tiến công và nổi dậy tiêu diệt
địch, giành quyền làm chủ ở các ấp, xã. Khi tiến công địch ở Phước Long, quân đoàn xác định
đối tượng và mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy yếu khu, chi khu, tiểu khu địch. Trên thực tế, chính
nhờ ta diệt được những đối tượng đó, chiếm được những mục tiêu đó mà làm cho toàn bộ quân
địch tan ra nhanh chóng. Như ở Bù Đăng, sư đoàn 3 (sư đoàn độc lập của Miền phối thuộc quân
đoàn) của ta đánh chiếm sở chỉ huy chi khu và căn cứ trung tâm hoả lực của địch ở Vĩnh Thiện
vào lúc 8 giờ 30 ngày 4 tháng 1 năm 1974 thì đến 12 giờ cùng ngày, các lực lượng vũ trang và
lực lượng chính trị địa phương đã kết hợp tiến công và nổi dậy chiếm gần 50 đồn bốt và hàng
trăm tháp canh, giành quyền làm chủ ở tất cả các ấp, giải phóng toàn quận ngay trong ngày. Vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm đó, quân đoàn đã tiêu diệt thêm nhiều chi khu ở Phước Long, mở ra
khả năng thực tế đánh bại thủ đoạn phòng ngự "diện địa" của địch.

Đầu tháng 4 năm 1975, quân đoàn tiến công tuyến phòng thủ cơ bản của địch ở phía đông
Sài Gòn. Lúc này quân địa phương địch trên toàn miền Nam dao động mạnh, không những chi
khu mà hàng loạt tiểu khu địch bị tiêu diệt và tan rã. Ở Trị - Thiên, Khu 5 và nhiều tỉnh ở Khu 6 -
Đông Nam Bộ, kiểu phòng ngự "diện địa" của địch đã thất bại. Chúng tập trung quân lực co về
phòng thủ Sài Gòn bằng một hệ thống trận địa phòng ngự cấp trung đoàn, sư đoàn trên nhiều
hướng, chủ yếu là hướng đông Sài Gòn. Trên hướng này, địch khẩn cấp tổ chức tuyến phòng ngự
với chiều sâu lớn suốt từ Phan Rang vào đến Sài Gòn, trong đó Phan Rang là tiền đồn, Xuân Lộc
là khu vực phòng ngự then chốt. Địch xác định "mất Xuân Lộc thì không giữ nổi Sài Gòn" nên
đã tập trung ở đây sư đoàn 18, đơn vị mạnh nhất của quân đoàn 3 và cũng được chúng coi là
mạnh nhất của quân đội ngụy lúc này, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu khi Xuân Lộc bị tiến
công. Khi ta đánh bại lực lượng này, giải phóng thị xã Xuân Lộc, địch ở Sài Gòn càng hoang
mang tan rã, vì chúng không còn đơn vị chủ lực nào đủ sức chống đỡ các cuộc tiến công của chủ
lực ta, cũng không còn kiểu phòng ngự nào có thể giữ nổi bất cứ địa bàn nào ở Nam Bộ.

Khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ chủ yếu của quân đoàn là nhanh chóng
đánh chiếm những mục tiêu chiến dịch quan trọng nhất, ở hướng đông phải chiếm cho được sở
chỉ huy quân đoàn 3 ngụy và căn cứ không quân Biên Hoà, rồi nhanh chóng thọc sâu chiếm dinh
Độc lập cùng với Quân đoàn 2 hoàn thành nhiệm vụ ở hướng đông, góp phần giành thắng lợi cho
chiến dịch. Để tiến nhanh vào nội thành, quân đoàn đã đề nghị và được giao nhiệm vụ tiến công

160
diệt cụm phòng ngự Trảng Bom, chiếm khu liên hợp quân sự Biên Hoà, và đánh thắng địch ở
những nơi đó. Sư đoàn 341 sau khi đập tan cụm phòng ngự địch ở Hố Nai, đã đánh vào thị xã
Biên Hoà, tạo điều kiện thuận lợi cho các cánh quân ở hướng này tiến vào Sài Gòn.

Cùng thời gian, sư đoàn 9, một đơn vị mạnh của quân đoàn tăng cường cho Đoàn 232 trên
hướng tây - nam, sau khi bí mật luồn qua các tuyến phòng thủ của địch ở Hậu Nghĩa - Long An,
đập vỡ tuyến phòng thủ vùng ven, đã nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm sở chỉ huy Biệt khu thủ
đô địch, hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu của hướng tây - nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào tiến công và nổi dậy ở nhiều phường, khóm nội thành.

Rõ ràng muốn làm cho địch tan rã lớn, tan rã nhanh, phải đánh gục những lực lượng chủ
yếu của chúng, mà đương nhiên đó là quân chủ lực, nhất là những đơn vị "chủ bài" của chúng.
Nhưng đối với binh đoàn chủ lực tại chỗ, còn phải tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của chiến
trường mà chọn đối tượng tác chiến chính trong từng lúc, từng nơi cho thích hợp. Do đó, nói
chung đối tượng chính của binh đoàn chủ lực tại chỗ vẫn là chủ lực địch những cũng có khi
thường là trong một số chiến dịch tổng hợp đối tượng chính lại là bọn ngụy quân, ngụy quyền ở
xã ấp. Do đó quy mô hoạt động tác chiến của quân đoàn không chỉ là đánh tập trung hợp đồng
binh chủng ở cấp trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn - mặc dù đây vẫn là hướng chính - mà còn phải
thường xuyên kết hợp giữa đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ một cách rộng rãi của cả bộ binh và
các binh chủng; không những hoạt động tập trung ở các hướng chủ yếu của chiến trường mà có
lúc phải phân tán hoạt động trên nhiều hướng. Nhưng dù tác chiến phân tán hay tập trung với bất
cứ quy mô nào cũng đều phải đánh tiêu diệt gọn, nhất là đối với những mục tiêu then chốt. Có
như vậy mới thực sự là quả đấm mạnh làm nòng cốt cho từng địa phương, từng hướng tiến công,
từng chiến trường.

161
MẤY VẤN ĐỀ NGHỆ THUẬT TÁC CHIẾN PHÒNG KHÔNG
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Thiếu tướng LÊ HUY VINH

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đánh dấu một bước phát triển mới của chiến
tranh nhân dân trong điều kiện hiện đại, trong đó có nghệ thuật tác chiến của lực lượng phòng
không bao gồm bộ đội pháo, tên lửc, ra đa và không quân tiêm kích phòng không. Mùa xuân
năm 1975, tác chiến không quân đã được tiến hành trên một không gian rất rộng, trong thời gian
ngăn bằng quy mô lực lượng lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống mỹ , cứu nước. Có thể khái
quát nét phát triển của nghệ thuật tác chiến phòng không ở mấy điểm chính sau đây.

1. Nhận rõ thời cơ, đánh giá đúng địch, ta hạ quyết tâm chính xác.

Đây vừa là vấn đề nghệ thuật, vừa là điều kiện tiên quyết dể dành thắng lợi trong chiến
tranh, chiến dịch và chiến đấu. Nắm vững quyết tâm chiến lược của trên, bộ đội phòng không
nhận rõ thời cơ lớn, đánh giá đúng đối tượng tác chiến, khả năng của mình và hạ quyết tâm chính
xác. Không quân Mỹ-ngụy mạnh yếu ra sao, liệu không quân Mỹ có trở lại đánh phá khi quân
ngụy lâm nguy hay không? Trong tình hình mới, ba nhiệm vụ chiến lược của lực lượng phòng
không : bảo vệ yếu địa, bảo vệ giao thông chiến lược và chiến đấu bảo vệ bộ đội binh chủng hợp
thành có gì khác trước? Đó là những vấn đề lớn đã được xem xét một cách khách quan khoa học.

Về đối tượng tác chiến phòng không: Tuy bị thất bại, buộc phải rút hết quân Mỹ và quân
chư hầu ra khỏi miền Nam, nhưng đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược. Với quan
điểm coi vũ khí, kỹ thuật là yếu tố quyết định thắng lợi, Mỹ ra sức vực quân ngụy , trong đó có
không quân ngụy nhằm thay thế vai trò của không quân Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam. Trong hai năm 1973-1974, lực lượng không quân ngụy trước đây còn nhỏ yếu, trang bị
kém, đến cuối năm 1974, chúng đã xây dựng được 6 sư đoàn không quân hỗn hợp với tổng số
quân lên tới 62.583 tên, trong đó có 6.788 phi công; tổng số máy bay lên tới 1.850 chiếc (tăng
652 chiếc), trong đó có 260 máy bay chiến đấu. Chất lượng máy bay cũng cải tiến (thay F.5A
bằng F5 E). Tổ chức chỉ huy, bảo đảm hậu cần kỹ thuật được kiện toàn. Mỹ ồ ạt đưa vào miền
Nam một khối lượng nhiên liệu, bom đạn, vật tư kỹ thuật đủ dùng trong nhiều năm. Không quân
Mỹ khi rút còn để lại hàng trăm máy bay chiến đấu, hàng chục máy bay chiến lược trên đất Thái
Lan và trên hai tàu sân bay thường xuyên qua lại vùng biển Việt Nam.

Trong hai năm 1973-1974, không quân ngụy đã hoạt động ráo riết chi viện cho lục quân mở
các cuộc hành binh lấn chiếm và đối phó với các cuộc tiến công của ta. Quy mô hoạt động của
chúng ngày càng tăng. Trung bình ở vùng của chiến sự, mỗi ngày địch sử dụng đến 30-50 lần
chiếc. Ở Lộc Ninh, trong ba ngày 7, 8, 9 tháng 1 năm 1975 địch đã sử dụng 173 lần chiếc, ngày
cao nhất 100 lần chiếc. Không quân Mỹ cũng tăng cường hoạt động chinh sát ở Miền bắc bằng
máy bay SR.71 và EC.121 để có thể sẵn sàng đánh phá trả lại khi cần thiết. Đó là mặt mạnh của
địch. Nhưng xét khả năng thực tế của chúng, ngoài yếu tố căn bản về chính trị - tinh thần, không
quân ngụy còn có những chỗ yếu cụ thể về vật chất kỹ thuật, như sân bay, căn cứ tuy nhiều
nhưng bị ta đánh phá nên không ổn định. Số lượng máy bay lớn nhưng thiếu đồng bộ, không có

162
máy bay hoạt động tầm xa. nhất là từ khi Mỹ cắt giảm viện trợ, không quân ngụy ngày càng gặp
nhiều khó khăn: thiếu vật tư, kỹ thuật, nhiên liệu, hệ số chiến đấu thấp vì thiếu nhân viên có khả
năng sửa chữa, phục hồi đối với trang bị, phương tiện mới. Chính vì vậy, không quân ngụy phải
hoạt động phân tán thực hiện yểm trợ hoả lực không quân theo từng quân khu. Trước mắt, chúng
mới chỉ có khả năng yểm trợ trực tiếp trên chiến trường, ít có khả năng hoạt động sâu vào hậu
phương chiến lược của ta.

Khi ta mở cuộc tiến công chiến lược, phản ứng của không quân Mỹ- ngụy sẽ như thế nào?
Để giải đáp vấn đề này, phải luôn luôn bám sát địch, thăm dò sự phản ứng, nhất là phản ứng của
Mỹ trước mọi diễn biến chiến sự ở Miền nam (như trận Thượng Đức, hoặc giải phóng Phước
Long). Qua thăm dò, chúng ta từng bước khảng định: quy mô phản ứng của không quân ngụy
trong cuộc tổng tiến công chiến lược tới có thể tương tự hoặc hơn chút ít so với mức hoạt động
của chúng vào cuối năm 1974 - đầu xuân năm 1975. Về phản ứng của Mỹ muốn quay trở lại, dù
chỉ bằng không quân, cũng sẽ găp không ít khó khăn, ngoài điều kiện chính trị - xã hội ở ngay
nước Mỹ, còn có những khó khăn về mặt quân sự.

Thực tế cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng tỏ sự đánh giá như trên cơ sở
khoa học chính xác.

Về ba nhiệm vụ chiến lược của lực lượng phòng không: Trước đây đế quốc Mỹ tập trung
lực lượng không quân rất lớn, bao gồm cả không quân chiến lược để bắn khá miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, coi đó là biện pháp chủ yếu để ngăn chặn nguồn chi viện của miền Bắc và hạn chế
quy mô tác chiến của ta trên chiến trường. Để đánh bại âm mưu chiến lược đó của địch, ta phải
tập chung phần lớn lực lượng phòng không (cả số lượng và chất lượng) để làm nhiệm vụ bảo vệ
hậu phương chiến lược, bao gồm cả tuyến vận chuyển chiến lược Bắc-Nam. Đến mùa xuân năm
1975, trước tình hình không quân địch - như đã phân tích ở trên, tuy không loại trừ khả năng
không quân Mỹ đánh phá trở lại - ta cần từng bước chuyển trọng tâm nhiệm vụ cho thích hợp
nhằm phát huy hết hiệu lực của lực lượng phòng không, thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến lược
của Đảng.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết Bộ Chính
trị tháng 12 năm 1974, quân chủng Phòng không - không quân đã hạ quyết tâm với nội dung
chính sau đây:

- Sử dụng lực lượng phòng không của cả nước trong thế chiến tranh nhân dân phát triển cao
để đánh thắng không quân ngụy và sẵn sàng đánh thắng không quân Mỹ nếu chúng liều lĩnh vào
cứu nguy cho ngụy, đánh phá trở lại miền Bắc.

- Tăng cường lực lượng phòng không cho niềm Nam, chủ yếu là pháo và tên lửa phòng
không vác vai, bảo đảm có lực lượng tại chỗ đủ sức hoàn thành nhiệm vụ: đồng thời phải có lực
lượng dự bị sẵn sàng cơ động tập trung vào chiến trường trọng điểm.

- Tập chung bộ đội tên lửa và không quân tiêm kích phòng không bảo vệ Hà Nội, Hải
Phòng, từng bước đưa một số đơn vị tên lửa và không quân tiêm kích ra phía trước. Thực hiện
phương châm phòng không "mạnh phía trước, vững phía sau".

163
Nhờ hạ quyết tâm chính xác, chuyển trọng tâm nhiệm vụ kịp thời nên lực lượng phòng
không đã chủ động hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phòng không trong tổng tiến công liên
tục, quy mô ngày càng lớn.

Trong chiến dịch Tây Nguyên ta đã tập trung 19 tiểu đoàn phòng không các loại trực tiếp
bảo vệ đội hình chiến dịch, ngoài ra còn có sư đoàn phòng không 377 và trung đoàn tên lửa
phòng không 263 tham gia bảo vệ tuyến giao thông hậu phương chiến dịch.

Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lực lượng phòng không còn tập trung lớn hơn và đến
chiến dịch Hồ Chí Minh thì lực lượng phòng không được huy động tới mức cao nhất trong chiến
tranh, bao gồm lực lượng phòng không tại chỗ, lực lượng phòng không cơ động với các binh
chủng pháo, tên lửa và ra đa phòng không, góp phần tạo lên sức mạnh áp đảo hoàn toàn quân
địch.

2. Quán triệt quyết tâm chiến lược, chủ động chuẩn bị lực lượng và cơ sở vật chất kỹ
thuật, đáp ứng yêu cầu của chiến tranh trong giai đoạn kết thúc.

Thực hiện quyết tâm đã được phê chuẩn, trong hai năm 1973-1974, Bộ tư lệnh phòng không
- Không quân đã đề xuất và tích cực thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh tác chiến phòng
không ở miền Nam và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc.

Trên chiến trường miền Nam, lực lượng phòng không đã thực sự tăng cường, đặc biệt là
hướng Tây Nguyên và các quân đoàn chủ lực cơ động của Bộ. Quân chủng phòng không -
Không quân khẩn trương tổ chức lực lượng và chuyển giao hơn 50% số trung đoàn pháo phòng
không của các chiến trường, xây dựng nhiều đơn vị phong không mới cho các quân đoàn chủ
lực, tăng lực lượng phòng không của Nam Bộ gấp 4 lần. Tây Nguyên gấp 2 lần, Nam Trung Bộ
và Trị Thiên gấp 1.5 lần. Quân chủng cũng đã chuyển giao sư đoàn phòng không 673 cho Quân
đoàn 2, lữ đoàn pháo phòng không 71 cho Quân đoàn 4. Đã đề nghị Bộ thống nhất tổ chức, biên
chế trang bị của lực lượng phòng không các sư đoàn và quân đoàn bộ binh: sư đoàn có một tiểu
đoàn pháo phòng không cơ giới và 9 tiểu đoàn súng máy phòng không: quân đoàn có sư đoàn (lữ
đoàn) phòng không. Nam Bộ có sư đoàn phòng không dự bị của Miền. Khu 5, Trị -Thiên có
trung đoàn pháo phòng không quân khu.

Ngoài việc tăng cường lực lượng phòng không chủ lực, các chiến trường đều xây dựng, phát
triển phòng không địa phương tại các vùng giải phóng và vùng giáp ranh. Trị Thiên có 74 khẩu
đội 12.7mm, mỗi huyện có 1 đại đội súng máy phòng không tập trung. Nam Bộ đã đưa tên lửa
phòng không vác vai và súng máy phòng không vào hoạt động sâu trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long. Với lực lượng phòng không chủ lực được tăng cường và phòng không địa phương
được phát triển mạnh trên chiến trường, ta đã tạo được thể bố trí phòng không có lợi, vừa có lực
lượng phòng không tại chỗ rộng khắp và có trọng điểm vừa có lực lượng phòng không dự bị
mạnh bố trí trên các hướng tiến cơ động.

Lực lượng phòng không ở miền Bắc cũng được tổ chức, bố trí lại. lực lượng phòng không
của các quân khu được xây dựng củng cố có khả năng bảo vệ các mục tiêu quan trọng trên địa
bàn của mình, đồng thời sẵn sàng cùng với tên lửa, không quân tiềm kích phòng không của quân
chủng Phòng không - Không quân bảo vệ các yếu địa, sẵn sàng đánh trả không quân Mỹ nếu

164
chúng đánh trả lại. Lực lượng phòng không dự bị chiến lược được tăng cường khả năng cơ động
và phát triển khai trên địa bàn thích hợp.

Lực lượng phòng không còn đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng chiến đấu, chuận bị cơ sở
vật chất kỹ thuật, bảo đảm tác chiến được liên tục, dài ngày, quy mô ngày càng lớn. Quân chủng
đã tiến hành tổng kết kinh nghiệm tác chiến phòng không trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ trên miền Bắc, kinh nghiệm trong chiến dịch Đường số 9 - Nam Lào và cuộc tiến
công chiến lược năm 1972, biên soạn thành tài liệu, tổ chức tập huấn, diễn tập nâng cao trình độ
chỉ huy của cán bộ và chất lượng chiến đấu của bộ đội. Quân chủng đã đào tạo được một số
lượng lớn cán bộ phòng không bổ sung cho các chiến trường và tổ chức cho cán bộ và từng đợn
vị luân phiên đi chiến trường.

Song song với việc nâng cao chất lượng, Quân chủng Phòng không - Không quân đã coi
trọng công tác bảo đảm vật chất - kỹ thuật, đưa vào chiến trường một khối lượng lớn đạn, nhiên
liệu, phụ tùng thay thế, đáp ứng yêu cầu chiến đấu liên tục dài ngày.

Qua nhiều năm chiến tranh, vũ khí, khí tài bị hư hỏng nhiều, nhất là sức kéo giảm sút. Để
khắc phục tình trạng này, quân chủng đã khẩn trương tổ chức thu hồi, sửa chữa vũ khí, khí tài hư
hỏng, đặc biệt coi trọng khôi phục và tăng cường sức kéo bảo đảm sức cơ động, đáp ứng yêu cầu
cơ động thần tốc trong các chiến dịch xuân 1975. Quân chủng đã thành lập và triển khai nhiều
trạm, xưởng sửa chữa tại chiến trường để sửa chữa, phục hồi tại chỗ vũ khí, khí tài hư hỏng trong
chiến đấu.

3. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo cách đánh của lực lượng phòng không.

Để tác chiến thắng lợi trong đội hình binh chủng hợp thành, lực lượng phòng không phải
hiệp đồng chặt chẽ trong từng giai đoạn chiến dịch, từng trận chiến đấu, nắm chắc ý định tác
chiến của người chỉ huy binh chủng hợp thành, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cách phòng
không phù hợp với nghệ thuật tác chiến chiến dịch, chiến thuật của bộ đội binh chủng hợp thành.
Qua đó cách đánh của lực lượng phòng không cũng phát triển phong phú, sáng tạo, từ cách đánh
luồn sâu áp sát bằng lực lượng phòng không gọn nhẹ vào các mục tiêu chủ yếu của địch đến cách
đánh đi cùng đội hình thọc sâu của bộ đội binh chủng hợp thành, bằng pháo phòng không cơ
giới, tiến hành chuẩn bị gấp, bắn trong hành tiến hoặc đường ngầm, tiêu diệt mục tiêu trên không
và cả hoả điểm địch trên nhà cao tầng, bảo vệ đội hình tiến công. Cách đánh nào cũng phát huy
được hết tính năng của vũ khí, khí tài, đạt hiệu suất chiến đấu cao, được bộ đội binh chủng hợp
thành tin tưởng. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, lực lượng phòng không đã
vận dụng phố biến mấy cách chủ yếu sau đây:

a) Kết hợp lực lượng tại chỗ bới thực hành cơ động kịp thời lực lượng phòng không dự
bị, bí mật bất ngờ tập trung lực lượng, phương tiện phòng không trên hướng tiến công chủ
yếu, yểm hộ đắc lực cho bộ đội binh chủng hợp thành hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch,
chiến đấu.

Kinh nghiệm thực tiễn chiến tranh đất đối không của ta qua nhiều năm đã chỉ rõ, do địch có
sức cơ động cao nên muốn giành chủ động, đánh địch có hiệu quả, lực lượng phòng không ngoài

165
việc cơ động nhanh chóng lực lượng, phải coi trọng việc xây dựng lực lượng phòng không tại
chỗ, thì mới giải quyết được vấn đề thời gian trong chiến dịch, chiến đấu.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dây xuân 1975 cho thấy phải xây dựng các binh đoàn, binh đội,
phân đội phòng không tại chỗ gồm lực lượng phòng không tại chủ lực và địa phương bố trí sẵn
trên địa bàn chiến dịch, đồng thời phải có lực lượng phòng không dự bị mạnh, có sức cơ động
cao, bố trí sẵn trên địa bàn tiện cơ động. Có cơ động lực lượng mới thực hiện được việc tập trung
hoặc chuyển hoá nhanh chóng lực lượng trên chiến trường, mới tiết kiệm được lực lượng và phát
huy hết hiệu suất chiến đấu của các lực lượng. Có cơ động lực lượng nhanh chóng, bí mật mới
đạt được bất ngờ, tạo được bước nhảy vọt trong chiến dịch, chiến đấu.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, nhất là trận then chốt Buôn Ma thuật, ta đã tiến hành tạo thế
và chuẩn bị chiến đấu hết sức bí mật, tập trung lúc đầu hơn 50% lực lượng phòng không chiến
dịch; khi trận đánh bắt đầu, lại bổ sung thêm lực lượng, nâng tổng số lực lượng phòng không ở
đây lên 70% lực lượng phòng không toàn chiến dịch. Ngoài súng máy và tên lửa phòng không
tầm thấp đã luồn sâu áp sát trước giờ nổ súng, còn có pháo phòng không cơ giới đi cùng đội hình
tiến công của bộ đội binh chủng hợp thành, vận động từ xa tiến vào chiếm lĩnh trận địa và triển
khai chiến đấu, yểm hộ cho đội hình thọc sâu của bộ đội binh chủng hợp thành tiến công thắng
lợi.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, nhiều sư đoàn, trung đoàn pháo, tên lửa và ra đa cảnh giới
phòng không đã thực hành cơ động hàng nghìn ki-lô-mét trong một thời gian ngắn. Nhờ vậy đã
bất ngờ tập trung được một lực lượng phòng không lớn chưa từng có (6 sư đoàn, lữ đoàn phòng
không) gồm đủ các binh chủng.

b. Phát huy mạnh mẽ lực lượng phòng không ba thứ quân, hình thành thế trận đánh
trên không từ nhiều hướng, đồng thời đưa lực lượng phòng không luồn sâu áp sát, bảo vệ
bộ đội binh chủng hợp thành đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong chiều sâu phòng
ngự địch.

Thực hành tiêu diệt, khống chế quân địch trên không là nguyên tắc quan trọng trong chiến
dịch, chiến đấu tiến công. Muốn vậy phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng,
nhất là pháo binh mặt trận và bộ đội đặc biệt tinh nhuệ, đánh vào sân bay, kho tàng làm suy yếu
không quân địch tận gốc. Đồng thời tận dụng mọi vũ khí, hình thành hệ thống hoả lực phòng
không liên hoàn đánh được máy bay địch trên các hướng, nhất là hướng chủ yếu, yểm hộ đắc lực
bộ đội binh chủng hợp thành tiến công tiêu diệt địch.

Một đặc điểm của tiến công vào thành phố (thị xã) là chính diện rộng, tung thâm sâu, độ che
khuất lớn, địch thường lợi dụng các kiến trúc kiên cố để cố thủ. Nếu không tiêu diệt được các
mục tiêu này (trong đó có thể có sân bay), địch sẽ co cụm phản ứng quyết liệt làm cho chiến
dịch, trận chiến đấu kéo dài. Vì thế lực lượng phòng không phải đi cùng và yểm trợ đắc lực cho
bộ binh nhanh chóng đánh chiếm, khống chế những mục tiêu đó. Trong trận Buôn Ma Thuột, lực
lượng tên lửa phòng không tầm thấp (A72) và súng máy phòng không đã cùng với bộ binh, đặc
công luồn sâu, áp sát căn cứ trung đoàn 53 ngụy và sân bay Hoà Bình, bắn rơi 6 máy bay địch (4
chiếc rơi tại chỗ), tiêu diệt nhiều hoả điểm, chi viện đắc lực cho bộ đội binh chủng hợp thành tiến
công tiêu diệt địch.

166
Thực tiễn đã chứng minh, các phân đội súng máy và tên lửa phòng không tầm thấp là hoả
lực thích hợp cùng bộ đội binh chủng hợp thành luồn sâu áp sát, vừa đánh địch trên không hiệu
quả, vừa có thể tiêu diệt địch trên mặt đất ở các mục tiêu có độ chênh lệch cao. Các đơn vị súng
máy, pháo phòng không xe kéo hoặc tự hành lại rất thích hợp với nhiệm vụ đi cùng bảo vệ bộ đội
binh chủng hợp thành trong đội hình tiến công trong hành tiến.

Cách đánh kết hợp hoả lực phòng không tầm thấp phía trước hoặc chiều sâu địch với hỏa
lực phòng không cơ giới tầm trung đi cùng đánh địch ở chính diện, hình thành hoả lực đánh địch
cả phía trước lẫn phía sau, liên hoàn hỗ trợ lẫn nhau nhằm phân tán, kiềm chế địch, là cách đánh
phòng không có hiệu quả để yểm hộ đắc lực bộ đội binh chủng hợp thành. Đó là cách đánh mới
phát triển của lực lượng phòng không và được áp dụng rộng rãi trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975.

4. Làm tốt công tác tổ chức chiến đấu, chỉ huy, hiệp đồng, phát huy sức mạnh tổng
hợp của các lực lượng phòng không.

Đặc điểm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là các chiến dịch xảy ra kế
tiếp nhau, có khi gối đầu nhau, với quy mô ngày càng lớn, tốc độ tiến công ngày càng cao.Từ đặc
điểm ấy, việc tổ chức chiến đấu, chỉ huy, hiệp đồng phải khẩn trương, tỉ mỉ, đồng thời đòi hỏi ý
thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao của người chỉ huy các cấp.

Do có nhiều lực lượng, nhiều thành phần với tính chất nhiệm vụ khác nhau nên công tác tổ
chức chiến đấu, chỉ huy hiệp đồng rất phức tạp, cần được tiến hành trước theo kế hoạch.

Lực lượng phòng không trong biên chế hoặc tăng cường của các binh đội, binh đoàn lục
quân thường được tổ chức với quy mô thích hợp, trang bị vũ khí phòng không gọn nhẹ có sức cơ
động cao, làm nhiệm vụ đi cùng và do người chỉ huy binh chủng hợp thành trực tiếp giao nhiệm
vụ và tổ chức hiệp đồng cụ thể trong từng trận chiến đấu. Người chỉ huy phân đội, binh đội
phòng không căn cú vào nhiệm vụ được giao và kế hoạch hiệp đồng mà quyết định thời cơ bắn
ra sao cho vừa phát huy được tính năng của vũ khí, vừa phù hợp với yêu cầu của trận đánh.

Lực lượng phòng không trong biên chế hay tăng cường của quân khu, quân đoàn gồm các
binh đội, binh đoàn phòng không cơ giới và tên lửa phòng không tầm thấp thường làm nhiệm vụ
dự bị hay tăng cường cho các hướng, do tư lệnh quân khu, quân đoàn chỉ huy thông qua chủ
nhiệm phòng không cấp mình. Ở đây cơ quan tham mưu phòng không giữ vai trò quan trọng
trong việc tổ chức chiến đấu, chỉ huy và hiệp đồng.

Lực lượng không dự bị và tăng cường cho chiến dịch là các binh đoàn phòng không hỗn
hợp làm nhiệm vụ dự bị chiến dịch, do tư lệnh chiến dịch chỉ huy thông qua tiền phương của
quân chủng Phòng không - Không quân (giữ vai trò chủ nhiệm phòng không chiến dịch).

Có xác định, phân cấp chỉ huy rõ ràng mới tránh được tình trạng phân tán, rời rạc, mới phá
huy được hết sức mạnh của các lực lượng phòng không tham chiếu. Song trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1975 vừa qua, không phải chiến dịch nào, trận chiến đấu nào cũng
làm được như vậy lên ít nhiều đã hạn chế hiệu suất chiến đấu của các lực lượng phòng không. Có

167
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân biên chế tổ chức lực lượng chưa thống nhất, thiếu
phương tiện thông tin chỉ huy, thậm chí thiếu cả sở chỉ huy phòng không, nên trong thực tế
người chỉ huy binh chủng hợp thành chỉ giao nhiệm vụ chiến đấu phòng không cho người chỉ
huy phòng không có một lần (thường ở giai đoạn tổ chức chiến đấu), còn trong quá trình diễn
biến chiến đấu, không giao nhiệm vụ bổ sung.

Trên đây là một số kinh nghiệm về nghệ thuật tác chiến phòng không trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975. Trong tình hình mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, với lực lượng phòng không đã được tôi luyện trong hai cuộc chiến tranh giải
phóng, những kinh nhiệm trên nhất định sẽ được vận dụng và phát triển cao hơn, phong phú hơn.

168
CÔNG BINH BẢO ĐẢM CƠ ĐỘNG
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG THẦN TỐC XUÂN 1975

Đại tá TRẦN VĂN GIẢNG

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 đã chứng minh sự phát triển tới
mức cao của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam, trong đó có vấn đề bảo đảm cơ
động mà công binh đã đóng góp một phần.

Chưa bao giờ chúng ta phải bảo đảm cơ động, vận chuyển một số quân đông với trang bị kỹ
thuật hiện đại và khối lượng vật chất lớn như trong cuộc tổng tiến công này. Công tác tổ chức
bảo đảm cơ động lại diễn ra trong điều kiện: về không gian, phải triển khai rộng khắp và đồng
thời trên tất cả các tuyến giao thông, ở tất cả các hướng chiến lược; về thời gian, phải bảo đảm
cho bộ đội hành quân mau lẹ, chớp được thời cơ chiến lược, thực hiện tư tưởng chỉ đạo "thần tốc,
táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".

Dưới đây là mấy bài học kinh nghiệm về công binh bảo đảm cơ động trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975.

1. Xây dựng mạng đường chiến lược, chiến dịch hoàn chỉnh và có chất lượng tốt là một
nội dung cơ bản của công tác chuẩn bị chiến trường, một nhiệm vụ công trình then chốt

Quán triệt tinh thần Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá III) tháng 12
năm 1965, Quân uỷ trung ương đã đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược, trong đó nhấn mạnh
phương thức tác chiến hợp đồng binh chủng của bộ đội tập trung, mà nội dung là mở những
chiến dịch vừa và lớn, đánh thắng những trận có tác dụng về chiến lược làm chuyển biến cục
diện chiến tranh.

Trong 10 năm xây dựng hoà bình (1954 - 1964) trang bị của quân đội ta đã được cải tiến
một bước, không những có pháo mặt đất, pháo cao xạ với số lượng và chủng loại nhiều hơn
trước mà còn có nhiều loại binh khí kỹ thuật khác. Vì vậy nói đến tác chiến hợp đồng binh chủng
là phải nói đến chuẩn bị chiến trường, xây dựng đường xá, bảo đảm cơ động, nhất là cho binh
khí kỹ thuật. Điều này lại càng quan trọng vì nhiều cuộc tiến công của ta thường bắt đầu từ rừng
núi phát triển xuống đồng bằng. Do đó, cầu đường càng phải đi trước một bước.

Mặt khác, xây dựng cầu đường đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức, thời gian. Đường càng
nhiều chất lượng đường càng tốt thì càng tạo điều kiện cho quân đội nâng cao sức mạnh đột kích,
tạo thế áp đảo quân địch. Cơ động nhanh hay chậm là yếu tố thể hiện khả năng chiấn đấu của
một quân đội. "Có lực lượng lớn, có trang bị hiện đại chưa đủ, còn phải tổ chức chiến trường để
có thể phát huy được sức mạnh của lực lượng lớn và trang bị hiện đại đó". Vì vậy "một vấn đề
then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt".

Thực hiện cuộc chiến tranh chống Mỹ cho thấy, phải qua hàng chục năm phấn đấu, dồn sức
người sức của, ta mới xây dựng được một hệ thống đường chiến lược, chiến dịch hoàn chỉnh với

169
chiều dài hàng vạn ki-lô-mét. Nhìn lại quá trình hình thành mạng đường sá, có thể thấy vai trò và
tác dụng của nó qua các thời kỳ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968 quân đội ta đã có một số trang bị kỹ
thuật (xe tăng, pháo binh cơ giới, tên lửa phòng không...) có khả năng tạo lên sức đột kích mạnh.
Tuy vậy lúc ấy ta sử dụng lực lượng tinh nhuệ là chủ yếu để đánh vào các thành phố, thị xã, chưa
thực hiện rộng rãi cách đánh hợp đồng binh chủng hiện đại, trừ một số trận ở khu vực Khe Sanh
có sử dụng pháo binh cơ giới và xe tăng nhưng cũng chỉ với quy mô nhỏ. Có nhiều nguyên nhân
khá quan trọng là thiếu đường vận chuyển và cơ động. Lúc ấy, ta mới có một trục đường chiến
lược vào nam Tây Nguyên, mạng đường chiến dịch trên các hướng chiến lược chưa hình thành.

Tới năm 1972, ta đã củng cố thêm trục đường chiến lược Bắc - Nam, mở một số mạng
đường chiến dịch ở bắc Quảng Trị, tây Công Tum, bắc Bình Long. Việc chuẩn bị đường sá trong
thời kỳ này cùng với các mặt chuẩn bị khác đã tạo điều kiện cho ta mở chiến dịch tiến công hợp
đồng binh chủng quy mô vừa ở Quảng Trị, Công Tum, Bình Long. Tuy vậy mạng đường chiến
lược, chiến dịch lúc này mới có khả năng bảo đảm cho chủ lực cơ động, triển khai đánh vỡ
phòng tuyến bên ngoài của địch, chưa bảo đảm được cơ động, vận chuyển quy mô lớn, đường
dài, suốt từ Bắc vào Nam. Do đó, chưa tạo điều kiện mở được những chiến dịch hợp đồng lớn
trên những hướng mà ta muốn.

Ở hướng tiến công Trị - Thiên 1972 ta xây dựng được một mạng đường chiến dịch tương
đối hoàn chỉnh ở phía bắc Quảng Trị, nối liền với trục chiến lược bảo đảm cho binh khi kỹ thuật
cơ động từ hậu phương vào, cùng với bộ đội triển khai tạo thế áp đảo quân địch ngay từ đầu
chiến dịch. Chỉ trong một tháng, ta tiêu diệt một loạt cứ điểm ở phòng tuyến bên ngoài, diệt sư
đoàn 3 ngụy, giải phóng Quảng Trị. Lúc này lực lượng ta còn sung sức, có khả năng phát triển
sâu hơn nữa. Tuy vậy, ta đã phải dừng lại ở tuyến sông Mỹ Chánh. Có nhiều nguyên nhân, trong
đó nguyên nhân ở chiến trường phía nam Quảng Trị và tây Thừa Thiên lúc này ta chưa chuẩn bị
được đường sá.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, tình hình đã khác hẳn. Từ những kinh
nghiệm của năm 1968 và 1972, sau hiệp định Pa-ri, quán triệt nghị quyết 21 của trung ương
Đảng, ta đã tập chung nỗ lực xây dựng mạng đường chiến lược, chiến dịch, để có thể mở những
chiến dịch quy mô lớn kế tiếp nhau với lực lượng tham gia gồm nhiều binh đoàn chủ lực và các
binh chủng kỹ thuật.

Về đường chiến lược,trên cơ sở mạng đường đã có, ta đã chọn ra hai tuyến thích hợp nhất,
cải tạo và nâng chất lượng, bảo đảm cho xe vận chuyển đội hình lớn và các binh khí kỹ thuật
nặng cơ động. Bằng nhiều biện phấp kỹ thuật (rải đá, mở rộng mặt đường, xây dựng cầu cống, hạ
dốc...) ta đã củng cố được 2862km trên tổng số 9.687km đường chiến lược, hình thành một thế
đường chiến lược liên hoàn giữa hai trục đông và tây Trường Sơn, đi suốt từ Quảng Trị đến miền
Đông Nam Bộ.

Mặt khác, trong quá trình cuộc tổng tiến công, ta đã nhanh chóng khôi phục các đường
chiến lược của địch, sử dụng đường số 14 nối liền với trục đông Trường Sơn và đường số 1 mới
được giải phóng. Mạng đường chiến lược đó - động mạch chủ của toàn chiến trường miền Nam -
đã bảo đảm vận chuyển một khối lượng lớn vật chất, kỹ thuật tới cát các chiến trường Trị -

170
Thiên, khu 5, Nam Bộ, bảo đảm cho các binh khí kỹ thuật từ hậu phương chiến lược vào tập kết,
triển khai trên các địa bàn chiến dịch, và cho quân đoàn 1 tiến công thần tốc tham gia chiến dịch
Hồ chí Minh lịch sử.

Mạng đường chiến dịch trên các hướng chiến lược Trị - Thiên, bắc Khu 5, Tây Nguyên,
đông Nam Bộ cũng được mở rộng và củng cố với tổng số chiều dài 5.554km, tăng thêm 2.306km
so với trước Hiệp định Pa-ri. Trong quá trình cuộc Tổng tiến công, ta lại nhanh chóng lối liền
mạng đường đó với các đường trong vùng vừa được giải phóng. Nhờ đó đã tập kết , triển khai
được lực lượng lớn bộ đội và binh khí kỹ thuật trên tất cả các địa bàn chiến dịch.

Từ thực tiễn của những năm 1968 và 1972, đặc biệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
xuân 1975, có thể rút ra mấy kết luận sau đây.

a) Tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn, thì đường sá càng có quan hệ mật
thiết với cách đánh của chiến dịch. Số lượng và chất lượng đường là một yếu tố vật chất phải tính
đến khi sử dụng, phát huy hiệu lực của các binh khí kỹ thuật, xác định hướng đột kích chủ yếu,
tốc độ tiến công và chiều sâu chiến dịch. Vì vậy, trong công tác tổ chức chiến trường, chuẩn bị
đường sá phải được coi là một khâu trung tâm đầu tiên. Điều đó càng có ý nghĩa lớn trong điều
kiện ở nước ta lúc này mật độ đường sá còn rất thấp, bình quân 100km2 mới có 11 km đường; ở
rừng núi mật độ đó còn thấp hơn.

b) Xây dựng mạng đường sá đòi hỏi nhiều sức người, sức của, thời gian và phương tiện kỹ
thuật. Không thể tạo được một mạng đường chiến lược, chiến dịch hoàn chỉnh trong vài tháng,
mà phải mất hàng năm, nhiều năm. Một trung đoàn công binh làm đường trên địa hình trung
bình có khối lượng 3500 - 4000m3/1km, một tháng thường chỉ làm được 11km đường quân sự
làm gấp. Đế quốc Mỹ đã phải mất 7 năm chuẩn bị mạng đường sá ở miền Nam Việt Nam trước
khi đưa quân Mỹ vào tác chiến. Vì vậy để chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng chống xâm lược, việc
xây dựng mạng đường sá về cơ bản phải được thực hiện trong thời bình theo quy hoạch chiến
lược đã được xác định. Đây là một nội dung của việc kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng. Hệ
thống đường chiến lược phải nằm trong kế hoạch chung của Nhà Nước; hệ thống đường chiến
dịch có thể kết hợp giữa kinh tế địa phương với việc chuẩn bị tác chiến trên địa bàn của từng
quân khu.

c) Số lượng và chất lượng là hai yếu tố tạo thành sự hoàn chỉnh của mạng đường, trong đó
chất lượng có ý nghĩa quyết định để bảo đảm tốc độ cơ động, nhất là đối với các binh khí kỹ
thuật. Đường xấu sẽ ảnh hưởng đến tốc độ cơ động, xe cộ dễ hư hỏng. Trục tây Trường Sơn là
đường đất, khi có lưu lượng xe lớn, đường xuống cấp nhanh, có nhiều "ổ gà" làm tốc độ xe
giảm, xe dễ hư hỏng.Vì vậy, Quân đoàn 1 cơ động theo trục tây Trường Sơn trung bình một ngày
đêm chỉ đi được 100km. Trong khi đó, Quân đoàn 2 cơ động theo đường 1, tuy phải vượt qua
nhiều cầu cống bị phá, nhưng nhờ chất lượng đường tốt đã đưa kịp đội hình vào chiến đấu ở nam
Khu 5. Trung đoàn cầu thuyền 249 từ miền Bắc vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đi theo
đường tây Trường Sơn nên nhiều xe bị hỏng, do đó tập kết đội hình không gọn, phải kéo dài
nhiều ngày. Trong khi đó, trung đoàn cầu thuyền 239 với chất lương xe kém hơn, nhưng hành
quân theo đường số 1 nên đã vào tập kết nhanh, gọn, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm cơ động ở
Khu 5.

171
Từ đó có thể kết luận: về chất lượng, hệ thống đường chiến lược phải xây dựng cơ bản, theo
tiêu chuẩn của Nhà Nước, bảo đảm được mật độ xe cơ động cao. Trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975 trung bình một ngày đêm có 2000 xe cơ động trên môt trục với tốc độ trung
bình 40km/ giờ. Đường chiến dịch phải đáp ứng yêu cầu cơ động của các binh khí kỹ thuật nặng,
cồng kềnh, vận chuyển hậu cần quy mô lớn, bảo vệ kịp thời việc cơ động và chuyển hoá đội hình
tiến công. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đã có 300 - 500 xe cơ động một ngày đêm trên một
trục với tốc độ 30km/giờ.

2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng bảo đảm giao thông, kết hợp giữa
lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động trong đội hình, đáp ứng kịp thời các tình huống bảo
đảm cơ động.

Một quân đội càng có khả năng cơ động, biến hoá đội hình nhanh thì càng có điều kiện gây
cho địch bất ngờ từ tình huống này đến tình huống khác, nhờ vậy mà thường xuyên giữ được
quyền chủ động về chiến lược, chiến dịch, chiến đấu. Để tạo nên ưu thế đó, không thể thiếu công
tác bảo đảm cơ động. Bảo đảm cơ động kịp thời thì bộ đội có thể di chuyển nhanh, xử trí linh
hoạt, giữ vững được quyền chủ động trên chiến trường. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
xuân 1975, bộ đội ta đã có nhiều hình thức cơ động chiến lược, chiến dịch khá phong phú.

Về cơ động chiến lược, thường có những dạng sau đây:

- Cơ động đường dài từ hậu phương chiến lược vào vị trí tập kết; đó là trường hợp của Quân
đoàn 1 hành quân cấp tốc trên quãng đường 1500 km từ hậu phương lớn vào Đồng Xoài để tham
gia chiến dịch Hồ Chí Minh.

- Cơ động từ hướng chiến lược này sang hướng chiến lược khác; đó là trường hợp của Quân
đoàn 3, sau khi giải phóng Tây Nguyên, cơ động theo đường số 14 vào tham gia chiến dịch Hồ
Chí Minh.

- Vừa hành quân vừa đánh địch, cơ động từ địa bàn chiến dịch này sang địa bàn chiến dịch
khác; đó là trường hợp của Quân đoàn 2, sau khi tham gia chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã cơ động
theo đường số 1, vừa đi vừa đánh địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, cuối cùng vào vị trí
tập kết tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.

Các tình huống cơ động trên đều diễn ra trên không gian rộng ta có thời gian để từng bước
trinh sát địa hình trước, nên việc bảo đảm cơ động chủ yếu dựa vào lực lượng tại chỗ, việc bảo
đảm đường sá ở miền Bắc do công binh các quân khu cùng với công nhân Bộ giao thông đảm
nhiệm. Công binh đoàn 559 có nhiệm vụ bảo đảm đường sá trên tuyến chiến lược Trường Sơn.
Cùng với các lực lượng tại chỗ nói trên, các quân đoàn đã sử dụng lực lượng công binh của bản
thân để tự khắc phục chướng ngại trên đường, ở những nơi mà lực lượng tại chỗ chưa kịp triển
khai.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, việc bảo đảm cơ động chiến dịch cũng rất
phức tạp, khó khăn. Các binh đoàn chủ lực phải cơ động bằng cơ giới qua nhiều địa hình phức
tạp: rừng núi, đồng bằng, ven biển... Ở rừng núi, đường chiến dịch do ta làm chủ yếu là đường

172
đất, chất lượng xấu, nền đường mới chưa ổn định; đường trong vùng mới giải phóng tuy mặt
đường tốt, nhưng nhiều cầu cống bị địch phá, dọc đường có nhiều vật cản, bom mìn...

Có mấy vấn đề nổi lên trong bảo đảm cơ động chiến dịch.

Một là, bảo đảm cho bộ đội triển khai đội hình chiến dịch. Nội dung chủ yếu là chuẩn bị và
bảo đảm đường sá để bộ đội và binh khí kỹ thuật cơ động từ xa đến triển khai đội hình nhanh và
tiến công được ngay. Đó là trường hợp của các đơn vị đánh Buôn Ma Thuột. Cách đánh vào thị
xã là bí mật, bất ngờ, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành thọc sâu vào trung tâm đầu não quân
địch ngay từ đầu, không qua đột phá vành ngoài. Nhiệm vụ công binh là mở đường, tổ chức vượt
sông, bảo đảm cho bộ đội tập kết cách mục tiêu tiến công 20-30km trong đêm 9 tháng 3 đồng
thời vào chiếm lĩnh trận địa và tiến công ngay. Vì vậy, một ngày trước đó, công binh phải làm
mọi công tác chuẩn bị hết sức bí mật. Các gốc cây ở sát nương rẫy mà dân thường qua laị thì
dùng cưa cưa 3/4 đường kính theo hướng tiến công, rồi ngụy trang xóa dấu vết. Trước khi bắt
đầu tiến công thì cưa nốt phần còn lại hoặc để xe tăng đè đổ trong khi cơ động. Những chỗ cần
dùng bộc phá để mở đường thì đào lỗ, chuẩn bị sẵn sàng nổ, đợi khi nổ súng tiến công thì điểm
hoả. Với những biện pháp như vậy, công binh đã bảo đảm cho bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa bí
mật, an toàn, tiến công đúng thời gian quy định.

Hai là bảo đảm cơ động cho các binh đoàn chiến dịch phát triển tiến công mà nội dung chủ
yếu là khắc phục các bãi mìn và sửa chữa đường cầu bị địch phá trên các hướng cơ động. Đó là
trường hợp công binh bảo đảm cho Quân đoàn 2 tham gia chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Địch ở
cùng Kim Sắc, Núi Bông bị đánh, co chạy về Huế. Trong khi rút chạy, chúng phá sập các cầu
Truồi, La Sơn, Phú Bài. Lữ đoàn công binh 219 trong đội hình của Quân đoàn 2 đã nhanh chóng
bảo đảm vượt sông bằng cách ghép phà ở La Sơn, bến Truồi, bắc cầu nổi Phú Bài, gỡ mìn trên
đường số 14, bảo đảm kịp thời cho xe tăng, pháo binh vào tham gia giải phóng Huế, chặn địch
rút chạy ở các cửa Thuận An và Tư Hiền.

Trong bảo đảm phát triển tiến công, còn có tình huống bảo đảm đánh địch phản kích, như
trường hợp sư đoàn 10 cơ động đánh sơ đoàn 23 ngụy phản kích hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột,
và bảo đảm cơ động đuổi địch, như sư đoàn 320 truy kích địch rút chạy theo đường số 7. Cách
đánh địch phản kích và cách đánh địch rút chạy có khác nhau, nên cách tổ chức bảo đảm cơ động
của công binh cũng không giống nhau. Trong đánh phản kích, phải tiêu diệt gọn để đánh bại ý đồ
của địch chiếm lại mục tiêu đã mất. Vì vậy ngoài việc tận dụng đường sẵn có, có thể phải nhanh
chóng làm một số đường mới. Trái lại khi đánh địch rút chạy, do thời gian rất khẩn trương, nên
lợi dụng đường sá sẵn có là chính, công binh có nhiệm vụ đi trước dò gỡ mìn, khắc phục cầu
cống bị phá, trường hợp thật cần thiết mới làm đường có vòng tránh.

Ba là, bảo đảm cơ động cho các binh đoàn thọc sâu. Nội dung chủ yếu là khắc phục vật cản
trên đường, nhất là các ngòi lạch, tận dụng mạng đường sá của địch để bảo đảm tiến công liên
tục: ngoài ra còn phối hợp với biệt động, đặc công đánh chiếm và giữ các cầu quan trọng.
Trường hợp này đã diễn ra trong chiến dịch Hồ Chí Minh, như bảo đảm cho Quân đoàn 1 theo
đường số 13 thọc sâu đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, Quân đoàn 2 cơ động trên xa lộ Biên
Hoà - Sài Gòn vào đánh chiếm dinh Độc lập, v.v.

173
Ba tình huống công binh bảo đảm cơ động chiến dịch nói trên thường diễn ra trên địa hình
vùng mới giải phóng, ta không có điều kiện trinh sát công trình trước. Quân địch tuy hoang mang
bối rối, nhưng hành động vẫn ngoan cố chống cự. Thời cơ nhanh chóng tiêu diệt địch xuất hiện
và đi qua rất nhanh: lúc này thời gian là lực lượng. Ta không có điều kiện ém sẵn lực lượng bảo
đảm tại chỗ do đó để khắc phục các chướng ngại dọc đường, các binh đoàn chiến dịch đều tổ
chức đội bảo đảm vận động mạnh, phái đi trước đội hình làm nhiệm vụ mở đường cho các mũi
tiến công.

Bốn là, bảo đảm vượt sông và khắc phục sông ngòi trong chiến dịch. Trong cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy xuân 1975, việc bảo đảm vượt sông diễn ra với quy mô chưa từng có trên nhiều
chiến trường từ Tây Nguyên đến Khu 5, nam Bộ, trong điều kiện địa hình phức tạp và tình huống
diễn biến rất khẩn trương. Công binh đã sử dụng tất cả các phương thức: Phà, ngầm, cầu nổi,
cầu cứng... khắc phục sông, ngòi, lạch ở 375 điểm (khoảng 11% số chướng ngại thiên nhiên trên
các đường), trong đó phải tổ chức vượt sông ở 56 điểm.

Nhìn chung, việc bảo đảm vượt sông thường xảy ra trong các tình huống sau:

- Bí mật vượt sông sát địch để triển khai đội hình tấn công, như trong chiến dịch Tây
Nguyên, tổ chức cho bộ đội và binh khí kỹ thuật, bất ngờ vượt sông Sê-rê-pốc (rộng 100m) ở sát
địch.

- Vượt sông trong phát triển tiến công, như trong chiến dịch Hồ Chí Minh bảo đảm cho
Quân đoàn 2 vượt bến Cát Lái ở ngay của ngõ Sài Gòn. Đây là một cuộc vượt sông bằng sức
mạnh tung thâm dải phòng ngự của địch trong thế địch tan rã về chiến lược. Công binh đã trinh
sát địa hình, sử dụng phà và người lái phà của địch chở binh khí kỹ thuật của bộ đội ta qua sông.

Từ thực tiễn tổ chức bảo đảm cơ động trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, về
phía công binh có thể rút ra mấy kết luận sau đây:

a) Trong tác chiến hợp đồng binh chủng để bảo đảm cho các binh đoàn cơ động nhanh, kịp
thời cơ chiến dịch, thì ngoài hệ thống đường chiến lược, chiến dịch hoàn chỉnh, thì phải có
những phương thức bảo đảm cơ động thích hợp với từng tình huống cụ thể.

b) Trong việc sử dụng lực lượng bảo đảm cơ động, nhất là trong bảo đảm cơ động chiến
lược, lực lượng tại chỗ giữ vai trò chủ yếu. Đó là lực lượng rộng rãi nhất, hùng hậu nhất, có khả
năng to lớn nhất. Phát huy sức mạnh của các lực lượng tại chỗ là một vấn đề có tính quy luật để
phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Tuy nhiên, lực lượng bảo đảm giao thông
tại chỗ thường gồm nhiều ngành khác nhau (công nhân giao thông, thanh niên xung phong, công
binh...), do nhiều cấp quản lý (trung ương, quân khu, tỉnh...), lên chỉ phát huy được sức mạnh khi
có sự tổ chức phân công hợp lý, chỉ huy thống nhất chặt chẽ.

c) Trong bảo đảm cơ động chiến dịch, tình huống chiến đấu diễn ra rất khẩn trương, trên địa
hình vùng mới giải phóng, không có điều kiện trinh sát địa hình từ trước và khó ém sẵn được lực
lượng tại chỗ. Vì vậy, việc tổ chức những đội bảo đảm vận động mạnh đi trước đội hình tiến
công là cần thiết. Điều này càng quan trọng khi quân đội được trang bị hiện đại hơn, tìm mỗi loại

174
binh khí kỹ thuật có những yêu cầu riêng về bảo đảm cơ động. Mặt khác lực lượng tại chỗ dù
đông cũng chỉ có thể bố trí ở những trọng điểm mà không thể rải ra khắp tuyến đường.

d) Địa hình nước ta có nhiều sông ngòi: trung bình cứ 5 - 10km có một sông suối hẹp (10 -
20m); 15 - 20km có một sông rộng khoảng 100m; 30 - 50km có một sông rông khoảng 300m trở
lên. Vì vậy, trong chiến dịch, bảo đảm vượt sông là một việc làm khó tránh, mặc dù trong
phương án tác chiến đã cố gắng chọn hướng tấn công thích hợp, ít sông ngòi. Bảo đảm vượt sông
nhanh chóng, bí mật, an toàn trở thành một khâu quan trọng của bảo đảm cơ động. Trọn cách tổ
chức vượt sông phù hợp với từng tình huống của chiến dịch là một điều kiện để bảo đảm cho
vượt sông thành công.

*
* *

Nói về thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ không thể không nhắc tới cuộc hành quân thần tốc
của quân Tây Sơn từ Phú Xuân (Huế) ra Bắc Hà đại phá quân Thanh mùa xuân năm 1789.

Trong lời tuyên dương bộ đội công binh làm đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ chỉ
huy chiến dịch chỉ rõ: "không có con đường ấy, không có chiến dịch này".

Với tư tưởng chỉ đạo "Thần tốc, táo baọ, bất ngờ, chắc thắng", cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Từ những vấn đề trên, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm cơ động
trong chiến tranh. Trong chiến tranh hiện đại, tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn yêu cầu
nâng cao tính cơ động của bộ đội về chiến lược, chiến dịch càng hết sức quan trọng; nhất là trong
điều kiện sử dụng vũ khí chết người hàng loạt, thì cơ động cao, tập chung và phân tán nhanh là
một điều kiện cơ bản để quân đội giữ gìn được lực lượng và tác chiến thắng lợi.

175
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CÔNG TÁC ĐẢNG - CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG MÙA XUÂN 1975

Trung tướng LÊ LINH

Nói đến những nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, phải
khẳng định một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã tiến hành tốt công tác Đảng
- công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Trong chiến tranh đó là một nhiệm vụ quan trọng
để biến sức mạnh tinh thần thành lực lượng vật chất nhằm chiến thắng kẻ thù.

Nội dung của niềm tin và thắng lợi trong mùa xuân năm 1975 là gì, nó bắt nguồn từ đâu và
biến thành sức mạnh vật chất như thế nào? Theo chúng tôi đó là sự dự đoán thời cơ và từ đó xây
dựng ý chí, quyết tâm với nhiều biện pháp giành thắng lợi.

Thời cơ trong cách mạng, trong chiến tranh không phải nảy sinh một cách ngẫu nhiên mà
được tạo lên bởi sự kết hợp hữu cơ những điều kiện khách quan và chủ quan trong quá trình vận
động của cách mạng của chiến tranh. Quá trình vận động của cách mạng miền Nam trong nhiều
năm, nhất là từ sau hiệp định Pa-ri, đã tạo ra tình thế mới làm nảy sinh thời cơ chiến lược lịch sử
giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Phát hiện nhận thức sâu sắc và nắm đúng thời cơ trong cách mạng và chiến tranh nói chung,
trong từng chiến dịch nói riêng, là một yếu tố góp phần quyết định thắng lợi của trận đánh, chiến
dịch và toàn quốc chiến tranh.

V.I Lê-nin nói: "Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần
của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường... Việc quần chúng nhận thức được mục đích và
nguyên nhân của chiến tranh có một tầm quan trọng to lớn và đó là sự bảo đảm cho thắng lợi".

Làm cho các cán bộ, chiến sĩ hiểu được giá trị của mỗi thời điểm lịch sử mở ra những bước
ngoặt trong cục diện chiến tranh, là trách nhiệm của công tác Đảng, công tác chính trị. Từ cuối
năm 1974, sau khi Bộ Chính Trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền
Nam trong hai năm 1975-1976, công tác Đảng - công tác chính trị đã tích cực giáo dục, tuyên
truyền sâu rộng về tình thế cách mạng đang chuyển động, về thời cơ lớn đang đền gần để chuẩn
bị tư tưởng và tổ chức cho từng cấp, từng dơn vị, cho toàn quân và toàn dân.

Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị và bạo lực; chiến tranh phải đặt dưới sự lãnh đạo
chính trị nhạy bén và vững chắc, thể hiện ở chỗ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy phải nắm vững tình
hình chính trị ở từng thời điểm để vạch ra kế hoạch tác chiến thích hợp nhất giành thắng lợi cao
nhất. Năm 1974 cách mạng miền Nam đã chuyển sang thế tiến công liên tục và ngày càng giành
được ưu thế so với địch. Tình hình các chiến trường từ giữa năm 1974 cho phép ta đánh giá địch
đang trong thế đi xuống khó bề cứu vãn. Nich-xơn đổ làm cho học thuyết Nich-xơn và chiến
lược "Việt Nam hoá chiến tranh" lung lay tận gốc. Thầy đồ, tớ ắt phải lao đao. Năm 1974, phong
trào đấu tranh của nhân dân các đô thị miền Nam lên rất cao, thể hiện sức mạnh chính trị - tinh
thần và ý chí tự giải phóng của nhân dân miền Nam. Tinh thần ngụy quân, ngụy quyền rối ren,

176
khủng hoảng nặng nề. Phải làm gì và làm như thế nào để giành thắng lợi? Đó là câu hỏi đặt ra
cho các cán bộ chiến sĩ đang hàng ngày phải nắn gân, thử sức quân địch.

Nhớ lại trận đánh Quảng Trị năm 1972, ta phải dùng lực lượng lớn gồm nhiều đơn vị chủ
lực là địa phương mạnh mới giải phóng được tỉnh Quảng Trị và giữ được thị xã vài tháng.
Nhưng đầu tháng 1 năm 1975 chỉ với một lực lượng vừa phải, ta đã giải phóng được tỉnh Phước
Long mà địch không đủ sức phản kích chiếm lại. So sánh hai sự kiện đó có thể kết luận: Mỹ đã
cút thì nếu ta tấn công mạnh ngụy ắt phải nhào. Mỹ đã cút thì khó bề quay trở lại cứu vớt ngụy
quyền Sài Gòn. Tinh thần và sức chiến đấu của quân ngụy sẽ xuống nhanh cùng với mức giảm
sút chi viện của Mỹ.

Giải phóng Phước Long là một tín hiệu quan trọng, một tiền đề báo trước, một bước ngoặt
lịch sử, cho phép đánh giá khả năng can thiệp của Mỹ là rất hạn chế.

Hầu hết cán bộ, chiến sĩ đều thấy rõ thời cơ đang đến, thời cơ có thể xuất hiện bất ngờ và
liên tục nên cần phải chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để có thể kịp thời hành động giành thắng lợi
giòn giã trên từng chiến trường. Công tác đảng - công tác chính trị đã góp phần tích cực làm cho
cán bộ chiến sĩ nắm vững thời cơ chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.

Chiến dịch Tây Nguyên với trận then chốt mở đầu Buôn Ma Thuột đánh trúng huyệt kẻ thù
đã làm rung chuyển toàn bộ Tây Nguyên, buộc ngụy quyền Sài Gòn phạm sai lầm chiến lược: rút
lui để thực hiện co cụm chiến lược. Trận Buôn Ma Thuột tạo cho ta thời cơ lớn và thế trận mới
để tiếp tục thực hiện thắng lợi các đòn tiếp theo: tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch từ
Plây-ku, Công Tum định co cụm về đồng bằng, tạo đà phát triển tiến công nhanh chóng xuống
các tỉnh ven biển miền Trung.

Trận Buôn Ma Thuột chứng minh một bước phát triển mới của bộ đội ta về mặt chiến thuật:
tác chiến hợp đồng binh chủng nhịp nhàng, bí mật, bất ngờ tới phút cuối cùng, đạt kết quả chiến
đấu rất cao. Phương án tác chiến cụ thể, kế hoạch hiệp đồng tỉ mỉ, chính xác, sự nhạy bén với
tình huống, sự sáng tạo về chiến thuật trong quá trình trận đánh, biểu hiện sức mạnh chính trị -
tinh thần, nghệ thuật nắm thời cơ đã biến thành lực lượng vật chất để chiến thắng quân địch.

Từ rối loạn đến sai lầm về chiến lược, cuộc rút lui của địch khỏi Tây Nguyên đã trở thành
cuộc tháo chạy hỗn loạn. Khả năng này đã nằm trong dự kiến chiến lược của Bộ Chính trị, Quân
uỷ trung ương và Bộ Tổng tư lệnh. Vì vậy dù chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc nhưng khi
thời cơ đã mở ra từ chiến thắng Tây Nguyên, quân và dân Khu 5, Trị - Thiên đã giải phóng Tam
Kỳ, Quảng Ngãi, Huế và nhiều vùng rộng lớn ven biển miền Trung. Thế trận của địch sụp đổ
từng mảng, thế của ta đang dâng lên như nước thủy triều. Đây là sự vận dụng sắc sảo quy luật
vận động, phát triển từ tuần tự đến nhảy vọt trong cách mạng và chiến tranh, thể hiện tính nhạy
bén, quyết đoán, khả năng nắm bắt thời cơ của các cấp chỉ đạo chiến lược, chỉ huy chiến dịch.
Nó cũng thể hiện trí tuệ, tài năng, hiệu quả hành động của từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ
trong từng trận chiến đấu khi đã nhận thức được thời cơ và quán triệt ý định cấp trên. Có thể nói
việc giải phóng nhanh gọn một số tỉnh miền Trung Trung Bộ và thắng lợi của chiến dịch Huế -
Đà Nẵng là kết quả của sự nhạy bén về nắm bắt thời cơ, vì các sự kiến đó diễn ra trong điều kiện
ta chưa có sự chuẩn bị trực tiếp cho các chiến trường này.

177
Ở đây người chỉ huy phải có tầm nhìn sâu rộng, nhìn toàn bộ chiến trường miền Nam và thế
trận của từng chiến trường, những điều kiện cụ thể của từng trận đánh nắm chắc quy luật vận
động của sự vật, nhạy bén trong dự đoán; từ đó khẩn trương chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức, làm
cho mỗi cán bộ, chiến sĩ hiểu được tình hình, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ không điều kiện khi
thời cơ đến. Đây cũng là trách nhiệm của công tác đảng - công tác chính trị. Phải bồi dưỡng cho
mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận rõ thời cơ, có tinh thần quả cảm, kiên quyết, ý thức tổ chức cao trong
mọi hành động chiến đấu, phát huy tính năng động, vận dụng kinh nghiệm tích luỹ từ nhiều năm
để giải quyết đúng đắn các tình huống chiến thuật. Đi đôi với công tác tư tưởng, công tác tổ
chức, là cơ sở vững chắc để bảo đảm thắng lợi. Có tổ chức, chuẩn bị chiến đấu tốt mới giành
được thắng lợi triệt để. Chuẩn bị chu đáo về lực lượng, vũ khí, cơ sở vật chất, về thế trận, cách
đánh... là cơ sở của niềm tin thắng lợi. Nhận thức tư tưởng vững vàng phải đi đôi với công tác tổ
chức chặt chẽ.

Tư tưởng và tổ chức là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau mà công tác đảng - công tác chính
trị phải nắm vững và thực hiện tốt. Tư tưởng và tổ chức đều phải nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo của từng đơn vị, từng cán bộ, chiến sĩ, tạo nên sức mạnh lớn nhất để giành thắng lợi cao
nhất.

Chỉ trong thời gian rất ngắn, chúng ta đã hoàn thành được những nhiệm vụ rất quan trọng,
tạo thế và điều kiện thuận lợi để rút ngắn thời gian giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đó là một
bước phát triển cao của nghệ thuật nắm thời cơ, vận dụng cách đánh sáng tạo trong mỗi chiến
dịch, mỗi trận đánh. Không phải ngẫu nhiên mà lực lượng ta lại áp đảo được lực lượng địch, mà
đó là kết quả của sự nhạy bén với thời cơ, tính sắc sảo và kiên quyết khi xử trí các tình huống
chiến dịch trên cơ sở dự đoán đúng xu thế phát triển của chiến dịch. Thực tiễn đã chứng minh rõ
các quân đoàn chủ lực là quả đấm mạnh quyết định giành thắng lợi triệt để trong giai đoạn cuối
của chiến tranh. Cuộc chiến đấu sôi nổi và bền bỉ trong nhiều năm của các lực lượng chính trị,
lực lượng vũ trang tại chỗ là cơ sở vững chắc cho các đơn vị chủ lực phát huy vai trò của mình.
Nhưng đánh như thế nào trong các tình huống khác nhau, đó là vấn đề rất quan trọng đặt ra cho
người chỉ huy. Phải luôn luôn nắm chắc hai công tác chủ yếu là tư tưởng và tổ chức trong lãnh
đạo, chỉ huy, chiến dịch, chiến đấu, nhiệm vụ chiến đấu, vị trí của mỗi trận đánh được quán triệt
đến từng chiến sĩ, đồng thời phải tổ chức chiến đấu chủ đáo và xử trí đúng đắn các tình huống
chiến dịch chiến đấu. Các trận đánh đều có những tình huống phức tạp đòi hỏi cách đánh khác
nhau.

Trận Buôn Ma Thuột là một ví dụ của cách đánh thọc sâu phá vỡ từ phía trong, trong điều
kiện ta chưa thông thạo thời cơ chiến trường và địa hình. Khu vực phòng ngự của Phan Rang có
lực lượng mạnh, nhưng do ta tổ chức chiến đấu nhanh, dùng cách đánh mãnh liệt, bất ngờ táo
bạo của bộ đội binh chủng hợp thành tiến công trong hành tiến, nên đã phá tan cụm phòng thủ
kiên cố của địch.

Như vậy, việc giáo dục cho bộ đội hiểu sâu tình hình và nhạy bén nắm trắc thời cơ mới là
bước đầu. Công tác đảng - công tác chính trị còn phải đi sâu vào nhiệm vụ chiến đấu cụ thể để
phát huy tính năng động sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ để tìm ra những cách đánh táo bạo, phù
hợp với từng tình huống chiến dịch, chiến đấu. Trong quá trình chiến đấu, thường nảy sinh các
tình huống phức tạp mà ta khó dự kiến trước được hết. Trong những tình huống như vậy, chỉ có

178
thể giải quyết thắng lợi, nhiệm vụ chiến đấu nếu mỗi người chỉ huy và cán bộ chiến sĩ phát huy
đầy đủ trách nhiệm, có bản lĩnh giỏi và tính năng động cao. Công tác đảng - công tác chính trị
trong các chiến dịch mùa xuân 1975 đã đề ra được những khẩu hiệu hành động đúng lúc và phù
hợp với yêu cầu của nhiệm vụ chiến dịch, chiến đấu. Những khẩu hiệu đó là sự cụ thể hoá mục
tiêu và những biện pháp lớn để thực hiện nhiệm vụ, biến sức mạnh của sự lãnh đạo chính trị, tư
tưởng thành sức mạnh vật chất thông qua hành động chiến đấu của toàn đơn vị, từng cán bộ
chiến sĩ. Chiến dịch Tây Nguyên là chiến dịch mở màn cuộc tổng tiến công chiến lược. Trong
quá trình chiến dịch đã nảy sinh nhiều tình huống phức tạp, địch ngoan cố chống trả, ta phải
dành giật ác liệt từng vị trí. Những khẩu hiệu như "Kiên quyết đột phá Buôn Ma Thuột", "Chặn
đứng địch ở Cheo Reo" đã thực sự tăng thêm sức mạnh cho các bộ chiến sĩ. Ở chiến trường phía
nam Huế, khi quân địch điên cuồng phản kích hòng chiếm lại những vị trí đã mất, khẩu hiệu
"Giữ vững từng điểm cao, tạo thế cho mùa hè" được tung ra đúng lúc đã chỉ mỗi cán bộ, chiến sĩ
mục tiêu, phương hướng hành động để giành thắng lợi. Khi sư đoàn bộ binh 1 của ngụy bắt đầu
bắt đầu tan rã thì khẩu hiệu "Không cho một tên lính của sư đoàn 1 ngụy chạy thoát" lại là động
lực mạnh mẽ thôi thúc người chiến sĩ xông lên giành thắng lợi triệt để.

Khi quân địch trong thành phố Đà Nẵng hoang mang dao động cực độ thì khẩu hiệu "Nắm
thời cơ, kiên quyết giải phóng Đà Nẵng" đã trở thành tiếng kèn xông trận chỉ rõ thời cơ và phát
huy sức mạnh như nước vỡ bờ của các cánh quân tiến vào thành phố. Trên đường tiến quân vào
giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, có cán bộ, chiến sĩ nào không tự hào và xúc động khi
thấy mình được tham gia chiến dịch mang tên Bác Hồ vô vàn kính yêu. Niềm vinh dự được
chiến đấu trong trận quyết chiến cuối cùng để thực hiện. Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ đã
thực sự là vũ khí tinh thần vô địch của các lực lượng vũ trang ta.

Các quân đoàn 1 và 2 đã hành quân với khí thế thần tốc táo bạo và quyết thắng để xông vào
sào huyệt cuối cùng của địch. "Thần tốc, táo bạo" là phương hướng hành động và "Quyết thắng"
là mục tiêu nhất định phải giành được.

Để bảo đảm chiến đấu thắng lợi, ngoài việc giáo dục quán triệt quyết tâm, nhiệm vụ chiến
đấu, bồi dưỡng ý chí quyết chiến quyết thắng, nêu khẩu hiệu chỉ đạo hành động, công tác đảng -
công tác chính trị còn chú trọng đi sâu vào việc bảo đảm cụ thể những điều kiện thực hiện nhiệm
vụ trong từng trận đánh. Trên đường tiến sâu của bộ đội ta từ Đà Nẵng vào Sài Gòn với tốc độ
cao, làm sao để mọi việc sửa đường, bắc cầu, nấu ăn, vệ sinh, dân vận... đều được thực hiện khẩn
trương, chu đáo? Chỉ huy như thế nào khi nhiều đơn vị cùng hành quân gấp, việc bảo đảm hậu
cần, gặp rất nhiều khó khăn? Đó là những nội dung mà công tác đảng - công tác chính trị đã quan
tâm cùng các cơ quan tham mưu, hậu cần hiệp đồng chặt chẽ, tổ chức cụ thể.

Tổ chức là giải quyết những yêu cầu cụ thể mà hoạt động chiến đấu đặt ra. Ví dụ: trên
đường hành quân, trong từng xe có thể có chiến sĩ và cán bộ nhiều trung đội, đại đội khác nhau;
phải thống nhất chỉ huy, hướng dẫn và phân công cụ thể trong các tình huống khác nhau; khi
địch bán pháo từ tàu biển vào hay đổ bộ bằng trực thăng để chặn đường hành quân; khi bị tắc
đường; lúc nào nấu ăn, ai làm vệ sinh hay dân vận ở nơi tạm nghỉ, công tác bảo vệ trong hành
quân phải làm gì... Công tác đảng - công tác chính trị phải biết phát huy vai trò của các tổ chức
Đảng, chi đoàn thanh niên, phát huy sức mạnh của đông đảo quần chúng để giải quyết những vấn
đề cụ thể. Các cuộc họp chớp nhoáng của các tổ chức Đảng, cấp ủy, chi bộ, chi đoàn đã bảo đảm
sự thống nhất ý chí và hành động của các cán bộ chiến sĩ. Con đường mà họ đang đi tới không ít

179
trở ngại, nhưng do hiểu sâu nhiệm vụ, có quyết tâm cao và được tổ chức tốt nên họ đã đi, đã đến
và chiến thắng.

Công tác đảng - công tác chính trị còn phải đi sâu vào các giai đoạn: trước, trong và sau
chiến dịch, chiến đấu để xác định cụ thể nội dung và biện pháp công tác tư tưởng, công tác tổ
chức, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có lòng hăng hái, tự tin khi bước vào trận đánh, sáng tạo
dũng cảm, táo bạo trong chiến đấu và có tính kỷ luật, vững vàng khi ngừng tiếng súng.

180
MỘT SỐ VẦN ĐỀ VỀ CHUẨN BỊ HẬU CẦN
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN 1975

Đại tá NGÔ VI THIỆN

Để bảo đảm cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 toàn thắng, ngành hậu cần đã
phải chuẩn bị từ nhiều năm trước, đặc biệt đã dồn sức tích cực chuẩn bị từ 1973 để đón thời cơ
chiến lược. Chính việc chuẩn bị hậu cần lâu dài nhưng rất khẩn trương với những biện pháp sáng
tạo nên bước phát triển mới về hậu cần để bảo đảm đầy đủ và kịp thời cho cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy thần kỳ. Ngay từ đầu năm 1973, chấp hành Nghị quyết của Hội nghị Quân ủy trung
ương ngày 18 tháng 12 năm 1972, ngành hậu cần đã triển khai công tác chuẩn bị theo kế hoạch
ba năm, bảo đảm cho các tình huống chiến tranh, chuẩn bị cho thời cơ chiến lược. Khối lượng
vật chất kỹ thuật phải chuẩn bị rất lớn, trong đó khối lượng phải vận chuyển từ hậu phương vào
các chiến trường trong ba năm với khối lượng xấp xỉ với khối lượng đã vận chuyển cho chiến
trường trong cả 13 năm trước đó1, trong điều kiện khả năng có nhiều hạn chế.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10 - 1973) nêu
rõ: "Ra sức xây dựng và củng cố các vùng giải phóng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng"; "phải có
kế hoạch thực hiện hậu cần tại chỗ, xây dựng các vùng kinh tế, bảo đảm một phần lương thực
thực phẩm, từng bước xây dựng vùng căn cứ địa về mọi mặt"; "tích cực xây dựng, phát triển,
hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải chiến lược". Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng cơ bản
để khắc phục khó khăn, phát huy sức mạnh tổng hợp về hậu cần bảo đảm cho thời cơ chiến lược.
Chấp hành nghị quyết của Trung ương Đảng, các chiến trường đã ra sức xây dựng và củng cố
căn cứ địa, vùng giải phóng để thực hiện hậu cần tại chỗ. Mạng đường giao thông vận tải chiến
lược, chiến dịch phát triển nhanh chóng. Trên cơ sở đó, thế bố trí hậu cần ở các chiến trường
được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu tác chiến trên các hướng chiến dịch, đảy mạnh vận động,
tạo nên dự trữ lớn để chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược.

1. Xây dựng và củng cố các vùng giải phóng, thực hiện hậu cần tại chỗ

Năm 1959, sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), các
địa phương đã xây dựng những cơ sở và khu an toàn, các chiến trường đã xây dựng các căn cứ ở
những vùng chiến lược quan trọng, đồng thời mở rộng và củng cố thế làm chủ ở vùng rừng núi
và nông thôn đồng bằng; từ đó, tạo điều kiện để thực hiện hậu cần tại chỗ ở các chiến trường.
Trong những năm từ 1960 đến 1972, theo thống kê chưa đầy đủ, ta đã khai thác được hơn
250.000 tấn vật chất, bình quân gần 20.000 tấn/năm, bộ đội tự sản xuất gần 51.000 tấn, bình
quân gần 4.000 tấn/năm, đáp ứng được 1/3 nhu cầu vật chất sủ dụng ở chiến trường.

Trong hai năm 1973 - 1974, ta đã mở rộng và củng cố vùng giải phóng nối liền miền Tây
Trị - Thiên tới vùng rừng núi Khu 5, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tại vùng giải phóng cũng
như các khu vực đã giành được quyền làm chủ, ta ổn định được tình hình chính trị, đời sống và
sản xuất của nhân dân. Do đó chỉ trong hai năm 1973 - 1974 ở các chiến trường miền Nam đã
khai thác được gần 104.000 tấn, bình quân hơn 10.000 tấn/năm, gấp 2.5 lần so với trước. Khối
lượng vật chất đó đã đáp ứng được gần 1/4 nhu cầu của chiến trường. Đây là nỗ lực rất cao của

181
các chiến trường. Do nhu cầu vật chất kỹ thuật cho tổng tiến công rất lớn, yêu cầu thời gian rất
khẩn trương nên chủ yếu phải vận chuyển từ hậu phương vào2. Tuy nhiên, khối lượng vật chất
khai thác tại chỗ có giá trị rất lớn và giảm bớt được một phần vận chuyển rất tốn kém từ hậu
phương vào. Đưa được một tấn vật chất đến chiến trường thì trung bình tiêu thụ và tổn thất trên
tuyến vận chuyển cũng mất gần một tấn.

Như vậy, xây dựng và củng cố căn cứ địa, vùng giải phóng là một vấn đề chiến lược trong
chiến tranh giải phóng ở nước ta, nhằm tạo chỗ đứng chân và bàn đạp tiến công cho lực lượng vũ
trang cách mạng, đồng thời tạo cơ sở để thực hiện hậu cần tại chỗ, bảo đảm phục vụ nhanh nhất,
kịp thời nhất cho nhu cầu tác chiến, giảm bớt khâu vận chuyển từ xa tới vốn rất khó khăn tốn
kém vì mạng đường giao thông chưa phát triển, phương tiện vận tải hạn chế và địch đánh phá ác
liệt.

2. Xây dựng và hoàn thiện mạng đường giao thông vận tải chiến lược và chiến dịch.

Chấp hành Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) từ năm 1959 ta đã
tổ chức các tuyến vận tải vào các chiến trường miền Nam: tuyến đường bộ 559 và tuyến đường
biển 759. Do đế quốc Mỹ có lực lượng hải quân mạnh và hiện đại khống chế được Biển Đông,
tuyến vận tải biển tuy đã ra sức khắc phục khó khăn, mở nhiều tuyến, tìm nhiều phương thức vận
chuyển nhưng cũng chỉ vận chuyển được một khối lượng tương đối nhỏ và chỉ thực hiện được
trong một số năm. Việc vận chuyển cho các chiến trường miền Nam chủ yếu dựa vào tuyến
đường bộ dọc Trường Sơn. Trong hơn 13 năm (từ năm 1959 đến cuối năm 1972), đường Hồ Chí
Minh từ tuyến gùi thồ bí mật đã được xây dựng thành một mạng đường giao thông vận tải chiến
lược dài 9.310 km với bốn trục dọc, vượt qua các cửa khẩu trên địa bàn rừng núi hiểm trở, điều
kiện khí hậu thời tiết rất khắc nghiệt, địch lại dùng không quân đánh phá ác liệt thường xuyên.
Với tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược đó, hậu phương miền Bắc đã đưa khối lượng vật
chất kỹ thuật ngày càng lớn cho chiến trường miền Nam. Nhưng đường vận chuyển còn kéo dài
vì chạy trên đất bạn ở phía tây Trường Sơn, và chưa đáp ứng được yêu cầu vận chuyển khối
lượng vật chất kỹ thuật lớn. Chấp hành Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng (khoá II) cuối năm
1973, ta đã nhanh chóng hoàn chỉnh mạng đường chiến dịch để chuẩn bị đón thời cơ lớn. Các
chiến trường đã mở rộng địa bàn, tiêu diệt và bức rút các vị trí địch còn khống chế một số đầu
mối giao thông ở Tây Nguyên, mở thông hành lang đông Trường Sơn. Tuyến vận tải quân sự
đông Trường Sơn được nhanh chóng xây dựng từ đường số 9 qua các khu vực hậu phương của
Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ. Với nỗ lực phi thường, trong hơn hai
năm chúng ta đã xây dựng thêm 3.480 km đường ô tô (lớn hơn tổng chiều dài đường giao thông
xây dựng trong 13 năm trước đó), đưa chiều dài mạng đường vận tải chiến lược lên 16.790 km
với 6 trục dọc ở cả đông và tây Trường Sơn.

Có mạng đường vận tải chiến lược được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh, các lực lượng vận
tải đã chuyển sang hình thức vận chuyển lớn theo đội hình trung đoàn tập trung trên cung độ dài
để nâng cao hiệu suất. Trên tuyến 559 đã triển khai 3 sư đoàn công binh khu vực, mở đường và
giữ các tuyến đường đông, tây Trường Sơn, sử dụng 1 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn phòng
không để bảo vệ hành lang vận chuyển, bảo đảm cho 2 sư đoàn (gồm 8 trung đoàn) vận tải ô tô,
4 trung đoàn đường ống và 4 trung đoàn giao liên chuyển thương với 6.770 ô tô vận tải, làm
nhiệm vụ vận tải chiến lược vào các chiến trường.

182
Đồng thời với việc hoàn chỉnh mạng đường giao thông vận tải, ngành hậu cần đã quyết tâm
chuyển hẳn sang hình thức vận chuyển xăng dầu cung độ dài bằng đường ống. Ta đã hoàn chỉnh
một hệ thống đường ống dài 4.990 km từ hậu phương miền Bắc tới các chiến trường miền Nam
theo hai trục đông và tây Trường Sơn với 250 trạm bơn đẩy và hút thuộc trung đoàn đường ống
(4 ở hậu phương, 4 ở tuyến 559). Ta đã sử dụng thành công các loại ống và trang bị cơ động trên
địa hình trung bình để xây dựng thành tuyến đường ống chiến lược vượt qua nhiều địa hình phức
tạp, nhiều núi cao, sông rộng với lưu tốc độ lớn... Do đó, trong hơn hai năm từ giữa 1973 đến
giữa 1975, đã chuyển từ hậu phương vào các chiến trường hơn 303.000 tấn, gấp 2 - 3 lần khối
lượng vận chuyển và cơ động binh khí kỹ thuật trên các hướng.

Với mạng đường vận tải chiến lược và mạng đường ống đó, trong hơn hai năm vừa thực
hiện kế hoạch cơ bản đồng thời khẩn trương chuẩn bị cho kế hoạch thời cơ, các tuyến vận tải
chiến lược đã vận chuyển vào các chiến trường gần 379.000tấn, đạt 119,6% kế hoạch, bằng 54%
tổng số vật chất giao cho các chiến trường trong 16 năm. Chỉ trong 2 năm 4 tháng, đã giao cho
các chiến trường một khối lượng lớn hơn 13 năm trước. Điều đó nói lên sự tập trung nỗ lực,
bước phát triển nhảy vọt trong công tác vận tải chuẩn bị cho tổng tiến công. Để bộ đội có thể cơ
động áp sát các mục tiêu chiến dịch, để vận tải cơ giới tới được các khu vực tác chiến, các chiến
trường đã ra sức mở tuyến đường chiến dịch, chỉ trong hơn hai năm đã làm gần 4.000km đường
ôtô chiến dịch nối liền với tuyến vận tải chiến lược, gồm các trục dọc theo chiều dài của chiến
trường và các trục ngang vào các hướng dự kiến tiến công.

Như vậy, khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, mạng đường chiến lược
và chiến dịch dài hơn 20 nghìn km đã nối liền hậu phương lớn tới các chiến trường, tới các khu
vực tiếp giáp với địch trên các hướng tác chiến, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ động
lực lượng và binh khí kỹ thuật, vận chuyển vật chất kỹ thuật bảo đảm cho các chiến dịch đánh
thắng. Cũng nhờ mạng đường chiến dịch đã vươn vào sát khu vực tác chiến, nên sau khi tiến
công thắng lợi đã nhanh chóng nối liền mạng đường chiến dịch của ta với mạng đường ở phía
địch, tận dụng được cả mạng đường sẵn có để cơ động lực lượng và vận chuyển.

Có thể nói, trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công chiến lược, việc xây dựng
hoàn chỉnh mạng đường giao thông vận tải chiến lược và chiến dịch là một thành công lớn, một
biện pháp chiến lược cơ bản, tại điều kiện để vận chuyển được khối lượng lớn vật chất kỹ thuật
dự trữ cho tác chiến, bảo đảm cho cuộc hành quân thần tốc của các binh đoàn vào tham gia chiến
dịch Hồ Chí Minh đúng thời gian quy định.

3. Xây dựng các căn cứ hậu cần chiến lược, chiến dịch trên các chiến trường.

Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972, khu vực bắc Quảng Trị được giải phóng, hậu cần
chiến lược và hậu cần 559 đã triển khai lực lượng và kho tàng ven đường số 9 từ Đông Hà đến
Bản Đông, tạo chân hàng vận chuyển vào chiến trường theo các trục dọc cả đông và tây Trường
Sơn. Dọc tuyến vận chuyển đông Trường Sơn, đã triển khai các cụm kho trên các hướng để tiếp
cận các căn cứ hậu cần của chiến trường.

Các chiến trường cũng điều chỉnh bố trí các căn cứ hậu cần trong các vùng giải phóng trên
các hướng chiến dịch. Quân khu Trị - Thiên đã triển khai các căn cứ hậu cần trên hướng tiến
công vào Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Quân khu 5 xây dựng căn cứ hậu cần phía sau của

183
chiến tranh, đồng thời triển khai các căn cứ hậu cần phía trước trên các hướng tiến công vào
Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định và chuẩn bị cho hướng phát triển xuống Phú
Yên. Tây Nguyên đã triển khai các căn cứ hậu cần trên các khu vực bắc, trung, nam của chiến
tranh, chuẩn bị cho các hướng tiến công vào Công Tum, Plây-ku nhất là Buôn Ma Thuột.

Các Quân khu thuộc B2 cũng triển khai các căn cứ hậu cần; Quân khu 6 trên hướng tiến
công vào Phan Thiết, Hàm Tân; Quân khu 7 trên hướng tiến công vào ven đô và nội đô Sài Gòn;
Quân khu 8 trên hướng tiến công vào nam Sài Gòn, Mỹ Tho và lộ 4; Quân khu 9 trên hướng tiến
công vào độ thị, trọng điểm là Cần Thơ.

Riêng ở chiến tranh miền Đông Nam Bộ thế trận hậu cần đã được xây dựng và chuẩn bị từ
những năm chống chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Đến năm 1972 để bảo đảm
cho chiến dịch giải phóng Lộc Ninh, An Lộc và nhất là từ năm 1973 để chuẩn bị cho thời cơ
lớn, các đoàn hậu cần đã triển khai thành thế trận hậu cần quanh mục tiêu chiến lược chủ yếu là
Sài Gòn. Với 8 căn cứ hậu cần (gọi là các đoàn hậu cần) đã tổ chức thành hai thê đội hậu cần bảo
đảm cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng; thê đội một gồm 5 căn cứ phía trước áp sát Sài
Gòn trên 5 hướng: đông và đông-nam, đông-bắc, tây-bắc, tây và tây- bắc, tây-nam; thê đội hai
gồm ba căn cứ phía sau với nhiệm vụ tiếp nhận vật chất kỹ thuật từ tuyến chiến lược chuyển vào
bảo đảm cho các lực lượng đứng chắn trên địa bàn kịp thời bổ sung vật chất kỹ thuật cho các
đoàn hậu cần thê đội một. Nhờ vây, các quân đoàn chủ lực hành quân tới là triển khai chiến đấu
được ngay, thực hành trận quyết chiến chiến lược cuối cùng đúng thời cơ quy định.

Như vậy, trong hai năm 1973 - 1974, hậu cần chiến lược và hậu cần các chiến trường đã
điều chỉnh và bố trí lại các căn cứ hậu cần trên các hướng chiến dịch theo phương án tiến công, ở
các khu vực có thế lợi và vững chắc nhất, dựa vào mạng đường chiến lược, chiến dịch, tạo thành
một thế lực vững chắc và liên đoàn hỗ trợ cho nhau. Trên thế vững đó, đã có một lực mạnh với
các đơn vị hậu cần sẵn sàng bảo đảm cho tác chiến, với dự trữ vật chất kỹ thuật hơn 250.000 tấn
khi bước vào tổng tiến công.

Trong chuẩn bị vật chất, đạn dược là vấn đề khó nhất. Từ sau Hiệp đinh Pa-ri, viện trợ quốc
tế về vũ khí đạn dược giảm hẳn: So với năm 1972 thì năm 1973 chỉ bằng 66%; năm 1974 bằng
29.6%; năm 1975 hoàn toàn không còn. Ta phải tổ chức thu vét đạn ở hậu phương, sửa chữa
từng viên đạn pháo hỏng, đồn địch phải đưa ra phía trước, nhưng cũng chỉ dựa vào chiến tranh
đạt 75% nhu cầu. Cộng với số đạn còn lại ở chiến tranh, dự trữ về đạn là hơn 75.000 tấn, mới đạt
91% kế hoạch. Nhưng trong tổng tiến công, trên các chiến tranh, do tốc độ tiến công mạnh, địch
bị tiêu diệt và tan rã từng mảng lớn nên đạn dược tiêu thụ ít. Đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ta dồn
đạn pháo còn lại của các chiến trường cho trận quyết chiến cuối cùng, cộng với số đạn chiến lợi
phẩm thu được nên dự trữ đạn cao hơn yêu cầu, thực hiện được càng đánh càng mạnh, càng có
dự trữ lớn.

Có thể nói, trên cơ sở đã chuẩn bị từ hơn mười năm trước, trong hơn hai năm trực tiếp
chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta đã xây dựng được thế trận hậu cần
chiến lược, chiến dịch tương đối hoàn chỉnh. Thế trận hậu cần đó đã kịp thời chuyển hoá, lực
lượng hậu cần đã kịp thời cơ động theo đà phát triển tác chiến. Khi cuộc tiến công phát triển, cả
hậu cần chiến lược và hậu cần quân khu, quân đoàn đã cơ động theo, kết hợp chặt chẽ với địa
phương huy động nhân lực vật lực, thu chiến lợi phẩm ngay tại vùng mới giải phóng để bảo đảm

184
nhịp độ tiến công thần tốc, tiến công liên tục, truy kích tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch.
Hậu cần đã góp phần đắc lực vào Đại thắng mùa xuân 1975 của nhân dân ta. Các đồng chí lãnh
đạo bộ Quốc phòng đã đánh giá: "Các lực lượng hậu cần và kỹ thuật đã ra sức vươn lên khắc
phục khó khăn, phát huy sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Thành công rất đáng tự
hào của việc bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm cơ động... đã đánh dấu một bước
trường thành vượt bậc của các binh đoàn chi viện chiến lược của ta".

Đạt được như vậy là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhờ hậu phương miền Bắc đã dốc
toàn lực chi viện cho toàn tuyến miền Nam, nhờ các chiến trường đã ra sức khai thác khả năng
hậu cần tại chỗ bảo đảm cho tác chiến. Các lực lượng hậu cần đã quán triệt nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ quân sự, quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội
với hậu cần địa phương, được sự giúp đỡ to lớn của nhân dân, đã tạo lên sức mạnh tổng hợp to
lớn về hậu cần, có sức mạnh hậu cần tại chỗ để bảo đảm cho hành quân thần tốc và tác chiến của
các binh đoàn chủ lực cơ động.

Những kinh nghiệm về chuẩn bị hậu cần cho thời cơ lớn năm 1975 thật phong phú, đã tạo
nên một bước phát triển mới của công tác hậu cần.

Chúng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp về hậu cần trong điều kiện nước ta, bảo đảm
cho cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn, với nhiều chiến dịch tiến công kế tiếp nhau của binh
đoàn chủ lực trên không gian rộng của một nửa đất nước và trong thời gian rất khẩn trương, kết
hợp với hoạt động tác chiến và nổi dậy của lực lượng tại chỗ. Những kinh nghiệm đó cần được
nghiên cứu với tình hình thực tế ngày nay của đất nước.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ta đã xây dựng các vùng căn cứ ở miền Nam, thực hiện đựơc
hậu cần tại chỗ để bảo đảm cho lực lượng vũ trang bám trụ và tác chiến ở chiến trường. Ngày
nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hậu cần tại chỗ vẫn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Có hậu
cần tại chỗ mới bảo đảm được nhanh nhất, kịp thời nhất cho chiến đấu, cho cả hai phương thức
tiến hành chiến tranh, cho cả lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta đã xây dựng được tương đối hoàn
chỉnh thế trận hậu cần chiến lược và chiến dịch có thế vững, lực mạnh, bảo đảm cho cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy với quy mô lớn và trên không gian rộng một nửa đất nước.

Ngày nay, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần nghiên cứu thế trận hậu cần trong điều kiện
mới. Trong đó, nổi nên vấn đề xây dựng mạng đường giao thông vận tải, nhất là tuyến chiến
dịch, vấn đề triển khai các căn cứ hậu cần có đủ dự trữ theo quy định, có lực lượng bảo đảm (chủ
yếu là về vận tải và quân y), kết hợp chặt chẽ với hậu cần địa phương, hậu cần nhân dân. Có như
vậy mới tạo được một mạng lưới bảo đảm hậu cần rộng khắp và có sức mạnh tổng hợp, thực hiện
được "nơi nào có chiến đấu là có hậu cần bảo đảm".

Từ bảo đảm hậu cần trong chiến tranh giải phóng đến bảo đảm hậu cần trong chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc, công tác hậu cần nhất thiết phải có những bước phát triển mới, nhưng vẫn phải
xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước, kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những kinh
nghiệm xương máu trong các cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua.

185
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH - TUYẾN HẬU CẦN CHIẾN LƯỢC PHÍA TRƯỚC
TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DÂY XUÂN 1975

Đại tá NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua và đến tận ngày này, tuyến vận tải quân sự
chiến lược Trường Sơn vẫn là một huyền thoại đối với giới nghiên cứu quân sự và chính khách
phương Tây. Họ nói: "Con đường mòn Hồ Chí Minh không chỉ là con đường tiếp tế mà còn là
một biểu tượng của cuộc chiến tranh Việt Nam... nhưng người Mỹ lại coi sự đau khổ của họ bắt
nguồn từ con đường ấy"1. Các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã phải tham phiền: "Đường mòn Hồ
Chí Minh lúc đầu chỉ là con đường bộ độ, ngày nay đã trở thành một trận đồ bát quái...". Và
tiếng nói chung của họ là: "Nếu không có nó - con đường mòn ấy - thì chiến tranh đã có thể kết
thúc".

Thực ra, mãi sau này các chuyên gia quân sự Mỹ và các nước khác mới nhận thức rõ điều
đó. Đối với chúng ta, ngay từ khi đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, Đảng ta đã sớm xác định rõ
tầm quan trọng của tuyến đường giao thông Bắc - Nam.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và các nước Đông Dương, đế quốc Mỹ lấy nước ta
làm địa bàn chiến lược, phục vụ mưu đồ tiêu diệt phong trào cách mạng ba nước. Sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ, địch đã gấp rút thiết lập hành lang ngăn chặn sự liên lạc giữa hai miền Nam, Bắc Việt
Nam, hòng cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước.

Nhiệm vụ chiến lược của nhân dân ta là phải hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng
miền Nam và giúp đỡ cách mạng hai nước Lào, Cam-pu-chia anh em.

Xét cả về lý luận và thực tiễn đề phải khẩn trương tổ chức sự chi viện mọi mặt từ hậu
phương lớn đến tiền tuyến lớn, bảo đảm đánh thắng chiến tranh xâm lược của giặc Mỹ. Do đó
việc xây dựng hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn chỉnh trên dãy Trường Sơn, hình
thành tuyến hậu cần chiến lược phía trước nối liền hậu phương với tiền tuyến, tạo thành chỗ dựa
trực tiếp cho cách mạng miền Nam và cách mạng hai nước bạn, là một đòi hỏi khách quan hết
sức cấp bách. Trong nghị quyết tháng 9 năm 1966 gửi đoàn 559, Quân uỷ Trung ương khẳng
định: "Tuyến 559 là con đường chi viện cho miền Nam, cho Bạn cơ bản nhất, chủ yếu nhất, có ý
nghĩ chiến lược vô cùng quan trọng trước mắt và lâu dài...". Điều đó đã được thể nghiệm sâu sắc
qua các giai đoạn chiến tranh, và đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị cho thời cơ chiến lược lịch sử.

Tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn từ khi mới sinh ra đã mang những đặc điểm
cơ bản là: phải triển khai trên địa bàn núi rừng trùng điệp hiểm trở, thời tiết khắc nghiêt, qua
những vùng không dân hoặc thưa dân, kinh tế chưa phát triển, ta không dựa vào nguồn vật chất
khai thác tại chỗ; con đường bị kẹp giữa hai hệ thống kiểm soát của địch ở đông - tây Trường
Sơn, là vùng mà Mỹ tự do thí nghiệm các kiểu loại chiến tranh điện tử, hoá học, khí tượng. Đến
thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chiến lược lại xuất hiện một đặc điểm nổi bật là: hình
thành hai vùng có chiến sự và không có chiến sự trên tuyến vận tải chiến lược, do Mỹ đã rút và

186
ngụy không có đủ sức ngăn chặn. Đặc điểm này đưa lại thuận lợi hết sức to lớn đối với công tác
vận tải quân sự trong giai đoạn chuẩn bị cho thời cơ lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Để tranh thủ thuận lợi đó, Quân uỷ Trung ương chỉ đạo nhanh chóng chuyển toàn bộ tuyến
559 lên quy mô hoạt động lớn, hoàn chỉnh thế trận hậu cần chiến lược phía trước của quân đội,
nhằm tiếp nhận được sự chi viện hết sức to lớn của hậu phương, tạo nguồn cơ sở vật chất kỹ
thuật tại chỗ phong phú, bảo đảm cơ động lực lượng nhanh tới các hướng, thực hiện thắng lợi các
đòn tác chiến chiến lược khi thời cơ xuất hiện.

Trong chiến tranh, cơ động kịp thời những bình lực lớn là một yếu tố cực kỳ quan trọng để
tạo lên sức mạnh áp đảo quân địch trên từng hướng, trong từng thời gian nhất định, góp phần
quyết định thành bại của chiến dịch, chiến lược. Với hoàn cảnh nền kinh tế nói chung và tiềm lực
quốc phòng nói riêng của nước ta trong thời kỳ này, lời giải của luận đề "cơ động binh lực lớn
kịp thời" là phát triển mạnh đường cơ giới liên hoàn vững chắc, tạo nguồn dự trữ vật chất tại chỗ
dồi dào, chuẩn bị sẵn sàng những tổ chức vận tải cơ giới tập trung lớn. Đó chính là sự quan triệt
tư tưởng quân sự của Đảng và nguyên tắc cơ bản của công tác hậu cần quân đội ta trong điều
kiện chiến tranh hiện đại.

Từ năm 1973, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo kiên quyết mở trục dọc
đông Trường Sơn, tiếp cận các căn cứ hậu cần chiến trường; mở rộng và nâng chất lượng đường
phía tây Trường Sơn, tăng tốc độ bình quân của xe cơ giới lên 20km/giờ; chi viện cho các quân
khu phát triển mạng đường cơ giới tuyến chiến dịch tiếp cận tuyến chiến đấu, nối thông với
tuyến chiến lược. Bộ phê chuẩn biên chế ba sư đoàn công binh (470, 472, 473) và 3 trung đoàn
công binh độc lập được trang bị phương tiện cơ giới tương đối mạnh với số quân hàng chục
nghìn người để thực hiện tốt các chỉ tiêu về xây dựng đường cầu. Đến cuối năm 1974, hệ thống
đường tây Trường Sơn mở được 1.050km, hệ thống đường tây Trường Sơn mở thêm 563km, cải
tạo nâng cấp 853km, đoạn Plây Khốc - Bù Gia Mập, vận chuyển được cả hai mùa theo tỷ lệ thích
hợp.

Trong thời kỳ này, tư tưởng chỉ đạo đối với nhiệm vụ vận chuyển là: số lượng đủ, chất
lượng tốt, hoàn thành sớm, thọc sâu vươn xa. Bộ tư lệnh 559 được thành lập 2 sư đoàn ôtô 571
và 471 đảm trách vận chuyển chỉ tiêu kế hoạch và sẵn sàng bảo đảm cơ động binh lực lớn vào
bất kỳ lúc nào. Các cung vận chuyển trước đây nay không còn thích hợp nữa, toàn tuyến tổ chức
lại thành hai cung cơ bản: Đông Hà - Bến Giàng và Bến Giàng - Lộc Ninh, chạy đội hình trung
đoàn theo chiều thuận. Các khu căn cứ hậu cần được điều chỉnh lại; khu căn cứ cơ bản của tuyến
triển khai từ cảng Cửa Việt lên Khe Sanh, phát triển sang nam, bắc đường số 9 từ 3 đến 4 km.
Trên hệ thống đường đông và tây Trường Sơn, có các căn cứ của sư đoàn đặt trên các trục thuận
tiện cơ động ra các hướng chiến trường.

Với hình thức và quy mô tổ chức mới, đã giảm tối đa thời gian phải dừng xe, bốc xếp hàng
lên xuống, hạn chế tổn thất và đặc biệt đã bảo đảm yêu cầu đồng bộ, nâng hiệu suất vận chuyển
mùa khô 1973 - 1974 lên 360% so với năm 1970 - 1973. Tổng khối lượng vật chất giao cho các
chiến trường lên 35.000 tấn dự trữ, nâng tổng khối lượng của tuyến chiến lược lên 135.000 tấn
vật chất kỹ thuật, phân bổ trên các khu vực căn cứ đi ra từng hướng chiến trường. Năm 1974, các
sư đoàn đã vận chuyển đến các chiến trường đạt 149% mức chỉ tiêu (gấp 5,45 lần so với năm

187
1972); các điểm giao nhận ở xa hơn nên tổng số tấn/km tăng lên 2,5 lần so với những năm trước
(trên 80 triệu tấn/km).

Các đơn vị binh khí kỹ thuật được bố trí theo trục riêng, có trạm cấp phát bổ sung phù hợp
với cung độ hành quân. Bỏ tuyến giao liên đi bộ, sử dụng 4 trung đoàn ôtô chuyên trách 4 cung
giao liên cơ giới, bảo đảm chở quân ra mặt trận mỗi tháng từ 18 đến 20 nghìn người mang theo
trang bị vũ khí bộ binh.

Song song với phát triển vận tải đường bộ, tuyến vận tải đường sông trên Trường Sơn cũng
tăng sức vận chuyển, đạt 7 triệu 61 vạn tấn/km. Riêng tuyến đường ống được đặc biệt chú trọng
đầu tư, phát triển nhảy vọt từ 6,5 triệu lên 18,2 triệu tấn/km. Đã kéo dài tuyến ống 1.400km tiếp
cận chiến trường Nam Bộ, bao gồm 113 trạm bơm, 46 kho dự trữ với 270.000m3 nhiên liệu. Đây
là khâu then chốt bảo đảm nhịp độ phát triển của tuyến vận tải quân sự chiến lược.

Cuối năm 1974, sau khi kiểm tra toàn diện, Thường trực Quân uỷ Trung ương đánh giá:
"Tuyến 559 đã nỗ lực vượt bậc phục vụ các chiến trường, thực hiện thắng lợi quyết tâm chiến
lược của Bộ Chính trị, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang và nhân dân ta giữ quyền chủ động
tiến công, đánh bại được kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải
phóng của ta..."1

Có thể nói qua 15 năm xây dựng và chiến đấu, hệ thống đường Hồ Chí Minh đã thực sự trở
thành tuyến hậu cần chiến lược phía trước, phát huy tác dụng hết sức to lớn đối với sự phát triển
của cách mạng giải phóng ba nước Đông Dương. "Những khối lượng rất lớn lương thực, vũ khí,
xăng dầu, trang bị được vận chuyển vào các chiến trường bảo đảm tốt nhiệm vụ hậu cần cho
cuộc chiến tranh giải phóng ở giai đoạn cuối cùng" .

Năm 1975, trước khi bước vào chiến dịch Tây Nguyên, Đại tướng Văn Tiến Dũng báo cáo
về Bộ Chính trị; "Tuyến 559 đã .... tạo được một khối lượng vật chất lớn để bảo đảm cho năm
1975 và cả cho thời cơ phát triển để hoàn thành nhiệm vụ năm 1976... Có thể nói, do công tác
chuẩn bị tốt, giữ được bí mật mà ta có đầy đủ yếu tố cần thiết để giữ quyền chủ động trong cả
quá trình tổng tiến công chiến lược. Những yếu tố đó là: có lực lượng hùng hậu, có hậu cần đầy
đủ và mạnh, có khả năng cơ động lớn cả về đường sá và phương tiện".

Trên cơ sở đánh giá chính xác so sánh lực lượng địch - ta, Bộ Chính trị quyết định mở trận
tiến công chiến lược đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên.

Nhờ sớm chuẩn bị, Bộ tư lệnh 559 đã nhanh chóng tổ chức lực lượng mạnh đặc trách phục
vụ mặt trận: các đơn vị ô tô của sư đoàn 471 khẩn trương đưa hàng sâu đến các cụm kho giáp
lưng bộ đội; bí mật cơ động sư đoàn bộ binh 968 đến bắc Tây Nguyên hoạt động thu hút địch;
điều 2 trung đoàn pháo cao xạ hành quân vào nam Tây Nguyên đánh máy bay địch; điều tiểu
đoàn công binh mở đường cho xe tăng và pháo binh bí mật tiếp cận địch, điều tiểu đoàn công
binh bắc cầu phao vượt sông khẩn cấp, chọn các đại đội công binh thao địa hình, có kỹ thuật tháo
gỡ mìn giỏi, cơ động theo các mũi tiến công; tiểu đoàn thông tin trực tiếp phục vụ Bộ chỉ huy
Mặt trận v.v...

188
Được bảo đảm vững chắc, kịp thời về vật chất, kỹ thuật, bộ đội ta đã bất ngờ đánh chiếm
nhanh gọn Buôn Ma Thuột, một tử huyệt trong hệ thống phòng ngự của địch ở miền Tây. Chiến
dịch Tây Nguyên phát triển, sư đoàn ô tô 471, sư đoàn công binh 470 và các binh chủng kỹ thuật
khác của 559 được lệnh tập trung bảo đảm cao nhất cho yêu cầu tác chiến. Bộ tư lệnh 559 khẩn
trương điều tiết hai trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn bộ binh và công binh đến bảo vệ Buôn
Ma Thuột, Công Tum, Plây-ku thay cho bộ đội chủ lực thực hành truy kích định. Các trung đoàn
ô tô được sử dụng để cơ động lực lượng tiến công địch rút chạy về phía Đông.

Thừa thắng các binh đoàn chủ lực phối hợp với địa phương đánh chiếm đường số 7, 19, 21
tiến xuống đồng bằng, chia cắt địch trên chiến trường miền Trung, hình thành thế bao vây, chia
cắt, tiêu diệt các binh đoàn địch ở phía Bắc. Bộ tư lệnh 559 quyết định sử dụng 15 đại đội công
binh thuộc các binh đoàn công binh tây Trường Sơn triển khai bảo đảm an toàn giao thông trên
các trục đường bộ đội hành quân.

Cuộc tiến công vũ bão đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch trên chiến
trường miền Nam. Quân địch ở Quảng Trị, Thừa Thiên và nhiều nơi ở Khu 5, Nam Bộ tan vỡ
từng mảng trước sức tiến công của bộ đội ta.

Ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ chính trị hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam
trước mùa mưa, chủ trương đó đặt tuyến 559 trước một vấn đề đòi hỏi phải giải quyết có hiệu
quả. Trên cơ sở thế trận hậu cần đã được chuẩn bị, tích luỹ từ lâu, tuyến 559 đã thực hiện tốt
nhiệm vụ, nhanh chóng sử dụng 2 sư đoàn ô tô để chuyển 3 quân đoàn chủ lực và bảo đảm hành
quân cho các binh chủng kỹ thuật đến vị trí chiến dịch đúng thời hạn; liên tiếp vận chuyển hoàn
thành chỉ tiêu 167.000 tấn vật chất giao cho các hướng, cung cấp 68.472 tấn nhiên liệu; bảo đảm
giao thông an toàn trên 30.000 km đường (gồm cả những trục đường mới giải phóng); kịp thời
thực hiện chủ trương điều sư đoàn pháo cao xạ, các trung đoàn, sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn
công binh phối thuộc chiến đầu cho các quân khu, quân đoàn.

Lúc này trên chiến trường Cam-pu-chia, tình hình chiến sự đang tiến triển thuận lợi. Theo
yêu cầu của lực lượng cách mạng Cam-pu-chia, Bộ tổng tư lệnh chỉ thị cho 559 tổ chức chi viện
khẩn cấp. Một trung đoàn được giao nhiệm vụ này. Các chiến sỹ lái xe thay nhau chạy suốt ngày
đêm, chỉ trong một tuần lễ đã vượt trên 1.000km đường núi, giao 800 xe tốt và đủ hàng kịp tăng
cường hoả lực mạnh cho quân giải phóng Cam-pu-chia mở cuộc tiến công lớn chiếm Nông Pênh
ngày 17 tháng 4 năm 1975.

Đến thời điểm này, không gian bảo đảm của tuyến hậu cần chiến lược 559 không còn hạn
chế trên địa bàn Trường Sơn, cũng không chỉ phục vụ một hai mặt trận trên những địa hình quen
thuộc mà cùng một lúc phải đảm bảo hậu cần cho các đòn chiến lược diễn ra trên không gian cả
ba nước Đông Dương, mở rộng đến địa bàn các vùng mới giải phóng.

Khi bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, thế và lực của ta đã lên tới đỉnh cao, nhiều tỉnh,
thành miền Nam đã được giải phóng, tạo ra hậu phương chiến lược mới, có nhân lực, vật lực tại
chỗ rất lớn. Cả nước theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, đã huy động mọi tiềm năng đến
mức cao nhất để bảo đảm giành toàn thắng trong trận đánh cuối cùng.

189
Ngày 27 tháng 4 năm 1975, Bộ chính trị Trung ương Đảng khẳng định thời cơ tổng tiến
công vào Sài Gòn đã chín muồi. Bộ chỉ huy chiến dịch duyệt lại mọi mặt chuẩn bị và kết luận;
"Ta đã hoàn thành việc tập trung lực lượng, tập trung khí tài kỹ thuật và các cơ sở vật chất khác
đạt ưu thế áp đảo quân địch. Đã triển khai xong thế bao vây chia cắt chiến dịch, cô lập Sài Gòn
đến cao độ. Chiến dịch lịch sử này đã có những cơ sở đảm bảo chắc thắng".

Từ thực tiễn phong phú nói trên, chúng tôi mạnh dạn nêu lên mấy vấn đề để nghiên cứu.

Những kết quả đạt được của tuyến 559 trong cuộc Tổng tiến công chiến lược xuân 1975 là
đỉnh cao thắng lợi của công tác hậu cần quân đội ta. Tuy nhiên đó không phải chỉ là kết quả của
thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chiến lược (1973-1975) mà là thành tựu của cả quá
trình 16 năm chiến đấu, xây dựng theo đúng đường lối chiến tranh nhân dân, quan điểm liên
minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương; đó cũng chính là biểu hiện trực tiếp
sức mạnh của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa được huy động vào cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam vào giao đoạn chót.

Dưới góc độ nghiên cứu giải trí lịch sử của đường Hồ Chí Minh, gợi lên ý nghĩa thực tiễn
về bản chất "tiến công" của tuyến vận tải quân sự chiến lược. Ngay từ khi còn là con đường
"mòn" nó đã là còn đường của chủ trương cách mạng tiến công. Trong quá trình xây dựng, phải
quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công của Đảng trong tổ chức lực lượng, phương thức bảo
đảm, v.v... thì mới hoàn thành được nhiệm vụ.

Được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lãnh đạo theo tư tưởng chỉ đạo chiến lược của
Đảng, bộ đội Trường Sơn đã kiên trì xây dựng tuyến vận tải cơ giới với nhiều phương thức hoạt
động kết hợp, khẩn trương triển khai quy mô tổ chức binh chủng hợp thành thực hiện nhiệm vụ
vận tải chiến lược. Đặc biệt đã chuẩn bị được khả năng bảo đảm cơ động nhanh cho các binh
đoàn chủ lực, chi viện lớn trong thời gian ngắn cho các hướng chiến trường, chuẩn bị khối lượng
cho đòn quyết định đầu tiên đánh trúng tử huyệt quân thù. Trên cơ sở thế trận hậu cần chiến lược
phía trước được bảo đảm đầy đủ, vững chắc, đã xuất hiện cách đánh thích hợp vào nơi điểm yếu
của quân địch (khác với cách đánh năm 1972 ở Quảng Trị). Như vậy thế trận hậu cần và phương
thức tác chiến, đồng thời yêu cầu của chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch cũng đòi hỏi hoạt động
hậu cần phải vươn lên trình độ tương ứng.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, những điều kiện vật chất kỹ thuật chuẩn
bị sẵn trên địa bàn chiến lược Trường Sơn đã góp phần tích cực giải quyết vấn đề "không gian
rộng" của chiến trường, "thời gian ngắn" của chiến cuộc. Trên cơ sở "thế" đã chuẩn bị mà phát
huy "lực" sẵn có, tuyến đường Hồ Chí Minh đã cùng với tuyến hậu phương quốc gia, kết hợp
tuyến hậu phương cần chiến dịch bảo đảm đắc lực cho bộ đội ta tiến công liên tục, chia cắt chiến
lược, bao vay chiến dịch, truy kích thần tốc, tiến tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giành thắng
lợi nhanh chóng và trọn vẹn.

Đánh giá vai trò trọng yếu của tuyến đường Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh nói:
"Muốn đánh thắng quân xâm lược, về hạ tầng cơ sở của cuộc kháng chiến chúng ta phải có
những con đường chiến lược như đường Trường Sơn, và biết sử dụng con đường ấy một cách tốt
nhất để lập nên những chiến công vĩ đại".

190
Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi sự ra đời và phát triển của tuyến đường Hồ Chí Minh là
"một trong những thành công kiệt xuất của đường lối chính trị, quân sự của Đảng ta, là những
kinh nghiệm quý báu làm phong phú thêm khoa học và nghệ thuật quân sự của nước ta"2

Nếu trong chiến tranh, đường Trường Sơn là thế đứng chiến lược để tổ chức tiến công địch,
giải phóng đất nước, thì ngày nay Trường Sơn giữ vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?

Năm 1973, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đến thăm bộ đội Trường Sơn, đã chỉ rõ: "Đường
Trường Sơn là con đường nối liền Nam Bắc, thống nhất nước nhà; là con đường tương lai giàu
có của Tổ quốc ta". Khi cả nước đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng thì bộ đội Trường Sơn được
nhanh chóng chuyển sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng.

Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng
vùng rừng núi Trường Sơn, khai thác tiềm năng kinh tế, phát triển hệ thống giao thông, củng cố
quốc phòng vững mạnh có tầm quan trọng rất lớn. Trong một tương lai không xa, hàng triệu héc
ta đất hoang sẽ trở thành đất thuộc, sẽ có hàng trăm nông trường, hàng vạn xã trên cao nguyên,
được nối liền bằng mạng đường giao thông thuận tiện. Về mặt quốc phòng, khi có hệ thống giao
thông cơ giới hoàn chỉnh kết hợp với mạng đường cho các phương tiện thô sơ, nối liền với các
tuyến giao thông nội địa, sẽ tạo thành thế liên hoàn vững chắc. Đó là một nhân tố trọng yếu bảo
đảm cho nhân dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

191
MẤY BÀI HỌC VỀ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC
KỸ THUẬT TRONG MÙA XUÂN 1975

Trung tướng LÊ VĂN TRI

Thực tiễn hoạt động công tác kỹ thuật chi viện chiến trường miền Nam trong kháng chiến
chống Mỹ, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, đã cho chúng ta nhiều kinh
nghiệm bổ ích về chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến đấu.
Chúng tôi xin nêu khái quát mấy bài học về chỉ đạo công tác kỹ thuật trong Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975 nhằm đề xuất một số vấn đề mà nhiều cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp
thường quan tâm trong tác chiến và trong xây dựng lực lượng.

1. Đảm bảo đạn dược là một nhiệm vụ trung tâm của công tác bảo đảm kỹ thuật trong
tác chiến.

Đạn dược là một bộ phận của vũ khí, có tác dụng trực tiếp tiêu diệt sinh lực địch, phá hoại
các phương tiện và công trình chiến đấu của chúng. Do đó đạn dược là một yếu tố vật chất thể
hiện trực tiếp sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. Có đường lối đúng đắn, có ý chí chiến
đấu kiên cường, có cơ cấu tổ chức thích hợp, có cách đánh sáng tạo, có vũ khí đạn dược đủ là đã
có những yếu tố căn bản để giành thắng lợi trên chiến trường.

Trong lịch sử chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta, đã có những tình huống chiến đấu
khẩn cấp mà đạn dược được coi là yếu tố có giá trị quyết định thắng lợi.

Quy mô chiến tranh càng lớn, mức độ chiến đấu càng ác liệt, trang bị vũ khí càng nhiều thì
nhu cầu bảo đảm đạn dược càng lớn và phức tạp. Trong điều kiện nền công nghiệp nước ta chưa
phát triển, địa hình đất nước hẹp và dài, khí hậu khắc nghiệt, chiến trường ở xa hậu phương,
quân thù lại ra sức đánh phá ác liệt tuyến giao thông thì bảo đảm đạn dược trong tác chiến càng
trở thành một nhiệm vụ nặng nề, phức tạp.

Nhiệm vụ bảo đảm đạn dược còn có mối quan hệ với phương thức tiến hành chiến tranh và
đối tượng tác chiến cụ thể. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ta sử dụng các binh
đoàn chủ lực tác chiến tập trung, hợp đồng binh chủng, phối hợp với tác chiến và nổi dậy của bộ
đội địa phương, dân quân tự vệ và lực lượng chính trị quần chúng, để tiêu diệt và làm tan rã một
đối tượng tác chiến gồm trên một triệu quân với vũ khí trang bị hiện đại của Mỹ. Vì vậy trong
trận quyết chiến chiến lược này chúng ta đã xác định bảo đảm đạn dược là một nhiệm vụ trung
tâm của kế hoạch bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược và chiến dịch.

Thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta đã chuẩn bị từ nhiều năm trước, tập trung nhiều nhân lực,
vật tư, phương tiện với những cố gắng phi thường của cả hậu phương và tiền tuyến nên đã đưa
được một khối lượng lớn đạn dược vào các chiến trường. Các kho dự trữ của Bộ và của các quân
khu phía bắc từ Đồng Đăng đến Vĩnh Linh đều khẩn trương huy động đạn cho các chiến trường.
Hệ thống kho trạm của tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn và hệ thống kho chiến dịch của các

192
quân khu phía Nam, nơi nào cũng có đạn vận chuyển đi các hướng chuẩn bị sẵn sàng cung cấp
cho các đơn vị, đón thời cơ lớn.

Trong quá trình tổng tiến công, các binh đoàn chủ lực đều có đủ lượng đạn mang theo; mặt
khác vừa chiến đấu vừa thu hồi đạn dược của địch, sử dụng kịp thời và bổ sung lượng dự trữ
chiến đấu. Các đơn vị trực tiếp chiến đấu ở những nơi có sự chống cự ác liệt của địch đều được
bảo đảm đạn dược đầy đủ.

Các kho dự trữ cấp chiến dịch đưa đạn lên xe thành những phân kho cơ động, bám sát đội
hình các mũi tiến công. Các đơn vị vận tải cơ giới từ hậu phương lớn tiếp tục chuyển thẳng đạn
dược vào tận chiến trường bằng đường bộ, đường biển và cả đường không. Các kho dự trữ chiến
lược tiến nhận viện trợ và cấp phát đạn dược ra tuyến vận tải. Các nhà máy quốc phòng tiếp tục
sản xuất những chi tiết để bổ sung đồng bộ, tận dụng đạn dược của địch mới thu được. Các đoàn
tiếp quản ở các vùng mới giải phóng đã kịp thời thu gom đạn dược, kiểm tra bổ sung đồng bộ và
thực hiện các quyết định điều chỉnh bổ sung đạn dược cho mặt trận. Quân khu 5 vừa giải phóng
xong phần đất miền Trung đã chuyển ngay đạn dược vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Từ
hậu phương chiến lược, một đoàn xe lớn của các kho, xưởng, trường và cơ quan kỹ thuật chở các
loại đạn cỡ lớn, thuốc nổ mạnh và mìn lõm đánh hầm ngầm đến chiều 28 tháng 4 đã áp sát mặt
trận Sài Gòn, sẵn sàng chi viện cho các đơn vị đột phá công sự vững chắc của địch trong thành
phố.

Nhìn chung, cả hệ thống bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công đã hoạt động có hiệu
quả. Trong quá trình tổng tiến công, do thế và lực của ta rất mạnh lại đánh trúng, rất hiểm nên
địch tan rã nhanh chóng, lượng tiêu thụ đạn dược không lớn lắm. Nhưng quyết tâm và kế hoạch
bảo đảm đạn dược của ta đã trù liệu cho một tình huống phức tạp hơn nhiều.

Để làm tốt nhiệm vụ bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công, công tác kỹ thuật đã giải
quyết nhiều mối quan hệ phức tạp. Cấp chiến lược và cấp chiến dịch xác định phương hướng
nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch, chỉ đạo tổ chức thực hiện các mặt sản xuất, tiếp nhận viện trợ, dự
trữ, bảo quản, cấp phát và theo dõi kết quả vận chuyển tới các chiến trường. Cấp chiến thuật phải
đi sâu vào các vấn đề kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu chiến đấu của từng loại súng, pháo, nhiệm vụ
của từng đơn vị.

Bảo đảm đạn dược cho cuộc tổng tiến công là hoạt động tổng hợp của nhiều ngành, nhiều
cấp, là kết quả giải quyết nhiều mối quan hệ phức tạp giữa các nhiệm vụ sản xuất, dự trữ, vận
chuyển, bảo đảm cầu đường, đánh địch phá hoại kho tàng và giao thông, huấn luyện bảo quản sử
dụng ở đơn vị. Giải quyết tốt các mối quan hệ có tính quy luật đó và nắm được quy luật phát
triển của những điều kiện tạo thành kết quả bảo đảm đạn dược là yêu cầu đặt ra cho công tác chỉ
đạo bảo đảm kỹ thuật trong tác chiến chiến lược và chiến dịch.

Xác định bảo đảm đạn dược là nhiệm vụ trung tâm của công tác bảo đảm kỹ thuật phải tập
trung mọi khả năng chỉ đạo thực hiện, là một bài học sâu sắc đã được thực tế kiểm nghiệm trong
cuộc tổng tiến công đại thắng xuân 1975. Trước tình hình nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay,
chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn nữa về cơ sở lý luận và yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ bảo
đảm đạn dược trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

193
2. Trong chiến tranh hiện đại, tuyến vận tải quân sự là một khâu trọng yếu cần tập
trung khả năng bảo đảm kỹ thuật.

Vũ khí trang bị từ nơi sản xuất đến tay các chiến sỹ ngoài mặt trận phải qua quá trình vận
chuyển từ nhà máy đến kho dự trữ các cấp, rồi đến các đơn vị sử dụng. Về mặt chỉ đạo bảo đảm
kỹ thuật, ta đã xác định phân bổ vũ khí trang bị trên ba khâu chính là: đơn vị sử dụng - tuyến vận
tải - kho dự trữ. Mỗi khâu có những yêu cầu và mức độ bảo đảm kỹ thuật khác nhau, điều kiện
tiến hành các nội dung bảo đảm kỹ thuật cũng không giống nhau.

Khâu nào là khâu trọng yếu cần tập trung khả năng chỉ đạo và bảo đảm kỹ thuật? Đây là
một vấn đề mới, được đặt ra trong quá trình phát triển của công tác bảo đảm kỹ thuật ở cấp chiến
lược và chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung và trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân 1975 nói riêng, nhất là ở những nơi, những lúc mà yêu cầu và khả năng bảo đảm kỹ
thuật không cân đối.

Để giải quyết vấn đề này, chúng ta đã xem xét các mối quan hệ, các quy luật về phát triển
nhu cầu bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí trang bị và khả năng bảo đảm kỹ thuật của từng cấp
trong từng lúc và ở từng nơi cụ thể.

Trong thời kỳ trước, ở cấp chiến lược và cấp chiến dịch có lúc có nơi chưa thấy rõ tuyến
vận tải là một khâu có nhiều vũ khí trang bị nên đã có một xu hướng được nhiều người chấp
nhận chọn đơn vị sử dụng là khâu trọng yếu, vì cho rằng ở khâu này, vũ khí trang bị có nhiều
biến động và yêu cầu sẵn sàng chiến đấu cao hơn. Xu hướng này là đúng nhưng chưa đủ.

Khi tổ chức và trang bị của quân đội ta đã phát triển lực lượng dự trữ vũ khí trang bị ở các
cấp tăng lên vượt quá khả năng quản lý, giữ gìn của ta. Hệ thống kho tàng không đủ diện tích
chất chứa, không đủ khả năng bảo quản bảo dưỡng hết khối lượng mặt hàng, nên chất lượng vũ
khí trang bị suy giảm nhanh, xảy ra hư hỏng hàng loạt do khí hậu ẩm nóng, nguy cơ cháy nổ đã
đến mức báo động khẩn cấp ở các kho; quân địch lại lùng sục đánh phá ác liệt những nơi có dấu
vết kho tàng. Yêu cầu cấp bách đặt ra cho công tác bảo đảm kỹ thuật ở các kho dự trữ là phải có
khối lượng rất lớn nhân lực, phương tiện và hàng loạt biện pháp tích cực khẩn trương để bảo đảm
số lượng, chất lượng, đồng bộ và an toàn. Đây là tình hình thực tế diễn ra ở giai đoạn gần cuối
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Về mặt chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật ở cấp chiến lược và cấp chiến
dịch, lúc bấy giờ ta đã phải xác định kho dự trữ cũng là một khâu trọng yếu không kém gì khâu
đơn vị sử dụng. Đây là một bước phát triển mới, một thực tế lịch sử đã để lại nhiều bài học sâu
sắccho những người làm công tác chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Thực vậy, nếu không chú trọng đúng mức nhiệm vụ xây dựng và củng cố hệ thống kho tàng
của hậu phương chiến lược và hậu phương chiến dịch, thì chúng ta đã không thể đáp ứng được
yêu cầu bảo đảm kỹ thuật cho cuộc Tổng tiến công 1975. Đây cũng là một dẫn chứng thực tế
chứng minh lý luận về vai trò quyết định của hậu phương trong chiến tranh.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, vũ khí trang bị của chúng ta từ hậu
phương toả ra các mặt trận với khối lượng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh của dân tộc.
Lưu lượng hàng kỹ thuật trên tuyến vận tải nhiều lúc lên tới trên 60% tổng thực lực đạn dược của

194
toàn quân lúc bấy giờ. Tất cả các loại binh khí kỹ thuật vào chiến trường đều hành quân liên tục
qua tuyến vận tải dài hàng nghìn ki-lô-mét dọc theo dãy Trường Sơn hiểm trở.

Tuyến vận tải chiến lược ở giai đoạn phát triển cao nhất đã hình thành một lực lượng tổng
hợp có nhiều binh chủng hợp thành gồm các đơn vị vận tải cơ giới, công binh, phòng không, bộ
binh và thông tin... Chỉ riêng vũ khí trang bị của bản thân tuyến vận tải cũng đã là một đối tượng
đáng quan tâm của công tác chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật.

Xét về mặt phân bố vũ khí trang bị thì tuyến vận tải vừa là đơn vị sử dụng, vừa là hệ thống
kho với những tính chất riêng biệt khác thường. Thực hiện chức năng liên kết chặt chẽ sức mạnh
vật chất của hậu phương với tiền tuyến, với phương châm "mở đường mà tiến, đánh địch mà đi",
vượt lên cuộc chiến tranh, ngăn chặn ác liệt của quân thù, tuyến vận tải đã sử dụng các loại vũ
khí trang bị với cường độ cao nhất. Tuyến vận tải cũng đã hình thành nhiều loại kho phức tạp,
nhất là ở các sân ga, bến cảng. Mỗi cung, mỗi chặng, mỗi hướng đều có kho hàng kỹ thuật.
Tuyến vận tải đã chịu đựng tỷ lệ tiêu hao và tổn thất lớn nhất về vũ khí trang bị, kể cả vũ khí
trang bị của các đơn vị thuộc biên chế của tuyến và hàng kỹ thuật vận chuyển trên tuyến.

Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, tuyến vận tải đã phát huy mạnh mẽ tác dụng
của các phương tiện cơ giới, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của phương châm tác chiến "thần
tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Sau cuộc tổng tiến công toàn thắng, công tác thu hồi và xử lý
hàng kỹ thuật trên tuyến vận tải cũng là khâu có khối lượng lớn nhất, phân tán và khó khăn nhất.

Yêu cầu bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải là nét phát triển mới về lý luận và thực tiễn của
việc lựa chọn đối tượng trọng yếu trong công tác chỉ đạo bảo đảm kỹ thuật. Từ đó chúng ta rút ra
kết luận: tuyến vận tải là khâu liên kết giữa kho và đơn vị; tuyến vận tải vừa là kho trung chuyển,
vừa là đơn vị sử dụng vũ khí trang bị; tuyến vận tải là một chiến trường. Do đó trong chiến tranh
hiện đại, tuyến vận tải là một khâu trọng yếu cần tập trung khả năng bảo đảm kỹ thuật.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhất là giai đoạn chuẩn bị cho tổng tiến công, chúng ta
đã tập trung khả năng chỉ đạo quản lý và bảo đảm kỹ thuật cho các tuyến vận tải. Các loại
phương tiện cơ giới tốt nhất, nhiều nhất được giành cho các đơn vị vận tải. Thiết bị, vật tư, cán
bộ phân viện kỹ thuật sửa chữa, quản lý hàng kỹ thuật ở các kho, trạm, nhà trường, cơ quan kỹ
thuật được điều đến tăng cường cho tuyến vận tải. Các nhà máy sửa chữa ở hậu phương đã ưu
tiên sửa chữa, cải tiến vũ khí trang bị cho các đơn vị vận tải.

Công tác quản lý, sử dụng, bảo quản bảo dưỡng, sửa chữa các loại vũ khí trang bị trên tuyến
vận tải đã có những thành tích tốt đẹp góp phần trực tiếp vào hiệu suất và chất lượng công tác
vận tải quân sự trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975.

Qua thực tiễn hoạt động bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải quân sự trong kháng chiến
chống Mỹ, chúng ta thấy rõ công tác bảo đảm kỹ thuật có vị trí rất quan trọng trong các mặt công
tác bảo đảm vận tải. Công tác bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải phụ thuộc vào quy luật phát
triển của nghệ thuật vận tải quân sự. Đây là mối quan hệ có tính quy luật thuộc về nghệ thuật
quân sự nói chung.

195
Đối tượng bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải quân sự bao gồm cả ba nhóm: nhóm vũ khí
trang bị của các đơn vị binh chủng hợp thành trong biên chế của tuyến vận tải ; nhóm vũ khí
trang bị của các đơn vị phối thuộc, tăng cường, hành quân qua tuyến vận tải; và nhóm vũ khí
trang bị là hàng hóa mà tuyến vận tải có nhiệm vụ vận chuyển tới đích an toàn, kịp thời, đủ số
lượng và bảo đảm chất lượng. Nội dung của công tác bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải có một
nét phát triển mới là công tác quản lý hàng kỹ thuật trên tuyến vận tải - một yêu cầu bức thiết
phục vụ cho tác chiến chiến lược và chiến dịch. Đây là mối quan hệ có tính quy luật thuộc về nhu
cầu bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải.

Lực lượng bảo đảm kỹ thuật trên tuyến vận tải bao gồm các thành phần kỹ thuật tổng hợp
của các ngành, các binh chủng hợp thành tập trung trên từng khu vực dưới sự thống nhất chỉ huy
trên toàn tuyến. Đây là mối quan hệ có tính quy luật thuộc về khả năng bảo đảm kỹ thuật trên
tuyến vận tải. Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra, dù là đối tượng tác chiến nào thì âm mưu
thủ đoạn đánh phá giao thông, ngăn chặn vận tải cũng sẽ rất ác liệt. Điều kiện địa lý quân sự của
nước ta và khả năng bảo đảm phương tiện vận tải cơ giới của ta còn gặp nhiều khó khăn. Do đó
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, tuyến vận tải quân sự vẫn có thể là một khâu trọng yếu cần tập
trung khả năng bảo đảm kỹ thuật.

3. Duy trì chế độ khai thác, sử dụng và tăng cường khả năng sửa chữa ở cấp chiến
thuật là những biện pháp căn bản để bảo đảm vũ khí trang bị tốt, sẵn sàng chiến đấu cao.

Trong giai đoạn chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, các đơn vị vũ khí
trang bị, đã tiến hành bảo dưỡng sửa chữa những hư hỏng thông thường ở cấp chiến thuật. Hệ số
kỹ thuật của các loại vũ khí trang bị chủ yếu được nâng lên rõ rệt. Các đơn vị công binh, pháo
binh, phòng không, tên lửa, xe tăng... đã làm bảo dưỡng kỹ thuật tốt và đã tổ chức cứu, kéo, sửa
chữa kịp thời những hư hỏng trong hành quân đường dài. Các đơn vị vận tải cơ giới đã bảo đảm
kỹ thuật tốt trong nhiệm vụ chở quân liên tục ngày đêm, với đội hình lớn. Các căn cứ không
quân, hải quân đã chấn chỉnh, bổ sung thiết bị vật tư kỹ thuật, bảo đảm cho máy bay, tàu chiến
có chất lượng tốt, sẵn sàng xuất kích. Các đơn vị bộ binh được ưu tiên giải quyết những yêu cầu
bảo đảm kỹ thuật đầy đủ, khẩn trương chính xác cả về số lượng, chất lượng, tinh đồng bộ và
đúng thời gian quy định. Trong quá trình tổng tiến công, các đơn vị vừa hành quân chiến đấu vừa
tổ chức sửa chữa kịp thời những vũ khí trang bị hư hỏng của ta, vừa kiểm tra bổ sung đồng bộ
trang bị thu được của địch để tăng cường hoả lực và khả năng cơ động của bộ đội.

Nhìn chung, các đơn vị đã bảo đảm vũ khí trang bị tốt, sẵn sàng chiến đấu, phát huy được
tác dụng trong tiến công và nổi dậy. Đặc biệt đã bảo đảm cơ đông cho các binh đoàn chủ lực
trong các chiến dịch tiến công thần tốc. Vũ khí trang bị đã làm đúng chức năng góp phần chuyển
thế mạnh về chiến lược thành sức mạnh chiến dịch chiến đấu áp đảo quân thù trong từng trận
đánh. Sau mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch khả năng bảo đảm kỹ thuật của các đơn vị đã có những
mặt mạnh lên rõ rệt. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mức độ sử dụng hoả lực của ta chưa nhiều,
mức phản ứng bằng máy bay, pháo binh của địch chưa ác liệt nên vũ khí trang bị của ta hư hỏng
không đáng kể, khả năng bảo đảm kỹ thuật chưa được thử thách đúng mức. Chỉ mới có tốc độ
diễn biến khẩn trương, không gian phát triển rộng của các chiến dịch tiến công là những thử
thách đối với khả năng bảo đảm kỹ thuật của ta lúc đó.

196
Thành tích bảo đảm vũ khí trang bị tốt và sẵn sàng chiến đấu trong cuộc tổng tiến công là
kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong đó, sức mạnh tinh thần và các biện pháp kỹ thuật là yếu
tố kết hợp chặt chẽ với nhau và có ý nghĩa quyết định. Sức mạnh tinh thần của cán bộ và chiến sĩ
ta trong cuộc tổng tiến công được phát huy nhờ sự chỉ đạo giáo dục chặt chẽ của tổ chức Đảng
các cấp, được động viên kịp thời bằng tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng",
được cổ vũ mạnh mẽ bằng những chiến công vang dội và dồn dập trên các chiến trường. Với khí
thể xông lên giành toàn thắng, với tình cảm thiêng liêng vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, mỗi
cán bộ, chiến sĩ đều rất quý trọng, giữ gìn những phương tiện thiết thân nhất lúc bấy giờ để hoàn
thành nhiệm vụ là vũ khí trang bị. Mỗi cán bộ, nhân viên kỹ thuật đều mong muốn mang hết sức
mình góp vào thắng lợi chung bằng cách bảo đảm vũ khí trang bị tốt, sẵn sàng chiến đấu cao.
Sức mạnh tinh thần ấy đã biến thành hoạt động cụ thể. Mỗi cán bộ chỉ huy đều lo lắng kiểm tra
đôn đốc giữ gìn, bảo dưỡng vũ khí trang bị cho mình. Mỗi chiến sĩ đều tự giác chăm sóc vũ khí
trang bị của mình. Mỗi nhân viên kỹ thuật đều cố gắng tạo thêm phương tiện, vật tư kỹ thuật và
bám sát đội hình đơn vị để sửa chữa, cứu kéo kịp thời trong hành quân và trong chiến đấu. Nhờ
vậy chế độ khai thác, sử dụng đã được duy trì và khả năng sửa chữa ở cấp chiến thuật đã được
tăng cường. Đây chính là những biện pháp kỹ thuật cần thiết nhất và có tác dụng bổ sung kịp thời
nhất trong hành quân và trong chiến đấu.

Mối quan hệ có tính quy luật giữa yếu tố tinh thần, tư tưởng và biện pháp kỹ thuật là một
thực tế khách quan. Có nhiều ví dụ về vấn đề này trong quá khứ và cả hiện tại: ở đâu và lúc nào
cái gì được xem là cần thiết thì cái đó dược quý trọng, chăm sóc. Ở những nơi, những lúc mà vũ
khí trang bị không được xem là cần thiết lắm thì các biện pháp kỹ thuật cũng không được phát
huy tác dụng.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, ai cũng biết chúng ta cần nhiều vũ khí
trang bị hiện đại để đánh thắng. Ở đây vũ khi trang bị đã được quý trọng đúng mức, do đó các
biện pháp duy trì chế độ khai thác, sử dụng và tăng cường khả năng sử dụng sửa chữa ở cấp
chiến thuật cũng được coi trọng và đã được thực tế kiểm nghiệm là phù hợp với tính chất,
nguyên tắc và phương pháp tiến hành công tác kỹ thuật. Vì vậy có thể xác định những biện pháp
này là căn bản để bảo đảm vũ khí trang bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.

Với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội ta hiện nay cũng như sau này,
chúng ta còn phải nghiên cứu thêm cơ sở lý luận và yêu cầu thực tiễn của công tác kỹ thuật để
tìm ra biện pháp có hiệu quả trong việc bảo đảm vũ khí trang bị tốt, nâng cao trình độ sẵn sàng
chiến đấu của các lực lượng vũ trang.

197
QUÂN VÀ DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
VÀ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975

Trung tướng LƯƠNG TUẤN KHANG

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, đế quốc Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam
đã để lại đồng bằng sông Hồng một tình trạng hoang tàn, đói khổ và biết bao tệ nạn của xã hội
thực dân. Cùng thời gian đó Mỹ từng bước nhảy vào thay thế Pháp đàn áp cách mạng miền Nam,
đồng thời tung gián điệp, biệt kích ra đồng bằng Bắc Bộ móc nối với những phần tử xấu, cưỡng
ép hàng loạt người di cư. Đồng bằng sông Hồng đã trở thành một trong những mục tiêu phá hoại
chủ yếu của đế quốc Mỹ trên miền Bắc nước ta.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trải qua mười năm phấn đấu
kiên cường (1954 - 1964), quân và dân đồng bằng sông Hồng đã nhanh chóng khắc phục hậu quả
do thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ để lại, hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất, từng bước xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát triển văn hoá - xã hội, đẩy mạnh sản xuất, ổn định và cải
thiện một bước đời sống nhân dân, giữ vững an ninh trật tự xã hội, củng cố quốc phòng vững
mạnh, từng bước đáp ứng mọi yêu cầu của cách mạng miền Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Đó là cơ sở vững chắc để quân và dân đồng bằng sông Hồng tiếp tục xây dựng, phát triển trong
thời chiến, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện sức người sức của to lớn,
kịp thời cho chiến trường miền Nam, đóng góp vào Đại thắng mùa xuân 1975.

1. Tiến hành chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân, hải
quân Mỹ, bảo vệ, xây dựng đồng bằng và chi viện miền Nam.

Trước tình hình Mỹ đưa quân vào xâm lược miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc, chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương, quân khu uỷ và các
tỉnh, thành uỷ trên địa bàn Quân khu 3 đã xác định: từng bước chuyển mọi hoạt động của quân
và dân đồng bằng sông Hồng sang tình trạng thời chiến, tiến hành động viên, xây dựng lực lượng
vũ trang đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu chi viện lớn cho chiến trường miền Nam và chiến đấu bảo
vệ miền Bắc, bảo vệ đồng bằng; tích cực triển khai việc phòng tránh sơ tán; đẩy mạnh sản xuất
thời chiến; bảo đảm giao thông vận chuyển; thực hiện vừa chiến đấu vừa sản xuất vừa chi viện
chiến trường.

Với khí thế sục sôi, quân và dân Quân khu 3 đã ra sức đẩy mạnh sản xuất, hết lòng chi viện
chiến trường, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, nên ngay từ đầu giặc leo thang đánh phá
miền Bắc ngày 5 tháng 8 năm 1964, đã đánh trả quyết liệt. Cả ba thứ quân và nhân dân địa
phương hiệp đồng chặt chẽ với các quân, binh chủng đã đánh thắng trận đầu, bắn rơi 5 máy bay,
bắt giặc lái Mỹ. Trong 1.500 ngày đêm chiến đấu, quân và dân Quân khu 3 đã liên tiếp đánh
thắng, bắn rơi 1.524 máy bay, bắt sống 225 giặc lái, bắn cháy 70 tàu chiến; bảo vệ các mục tiêu
then chốt và toàn địa bàn quân khu, bảo đảm giao thông thông suốt, sản xuất về nhiều mặt vẫn
phát triển, đời sống nhân dân được ổn định, an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. Trên
cơ sở đó quân khu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến.

198
2. Hết lòng chi viện sức người sức của, gòp phần cùng đồng bào miền Nam đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam.

Ngay từ khi miền Bắc vừa được hoàn toàn giải phóng, đi đôi với ra sức xây dựng, bảo vệ
miền Bắc, quân và dân đồng bằng sông Hồng đã coi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng cao cả nhất. Ngay từ những năm 1954 - 1955, nhân dân đồng
bằng sông Hồng đã nồng nhiệt đón tiếp, tận tình chăm sóc hàng vạn đồng bào, đồng chí miền
Nam ra tập kết. Trước những hành động tàn bạo của Mỹ - Diệm chà đạp Hiệp định Giơ-ne-vơ,
đàn áp cách mạng miền Nam, quân và dân Quân khu 3 đã sôi sục căm thù, đấu tranh phản đối
Mỹ - ngụy, ai ai cũng mong muốn chính mình được vào miền Nam giết giặc, cứu nước. Cuối
thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60, đồng bằng sông Hồng đã đưa hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ vào tham
gia cùng đồng bào miền Nam chiến đấu, đồng thời huy động nhân lực vật lực góp sức mở những
tuyến đường giao thông vận chuyển từ Bắc vào Nam, chi viện sức người sức của ngày càng lớn
cho cách mạng miền Nam đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch.

Để góp phần đánh bại "chiến lược chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đầu năm 1964, hội
nghị Đảng uỷ Quân khu 3 đã cùng các tỉnh uỷ, thành uỷ động viên toàn Đảng bộ, động viên quân
và dân đồng bằng sông Hồng với nỗ lực cao nhất tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, bảo vệ
miền Bắc, chi viện miền Nam với quyết tâm: "Dù phải hy sinh, gian khổ đến đâu cũng đáp ứng
đầy đủ, kịp thời yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng đất nước". Ngay từ đầu
Quân khu uỷ đã dự kiến: "cần chủ động chuẩn bị khoảng một triệu quân" (trong đó có trên dưới
mười vạn cán bộ) để sẵn sàng chi viện miền Nam, đồng thời chuẩn bị lực lượng chiến đấu bảo vệ
miền Bắc và bảo vệ quân khu. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ tháng 5 năm 1964 đến cuối năm
1965, quân khu đã đưa 203.436 cán bộ, chiến sĩ vào miền Nam chiến đấu gồm 234 đơn vị (1 sư
đoàn, 5 trung đoàn, 170 tiểu đoàn, 55 đại đội bộ binh và binh chủng, một số khung sư đoàn và
trung đoàn). Sự chi viện to lớn, kịp thời ấy của quân và dân đồng bằng sông Hồng đã góp phần
vào sự chuyển biến so sánh lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam, tạo điều kiện đánh những đòn
phủ đầu quân Mỹ khi chúng mới vào miền Nam. Những năm 1967 - 1968, không quân, hải quân
Mỹ đánh phá tàn bạo vào các địa phương trên địa bàn Quân khu 3. Phong trào "toàn dân bàn việc
nước", thi đua chi viện, đánh giặc, sản xuất và bảo đảm giao thông của quân và dân đồng bằng
sông Hồng lại dấy lên sôi nổi ở khắp nơi với các khẩu hiệu "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... Tiếp đó lại đưa 381.230 cán bộ, chiến sĩ
vào chi viện chiến trường, thể hiện trách nhiệm và tình cảm của nhân dân đồng bằng sông Hồng
đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, góp phần vào chiến thắng xuân Mậu Thân 1968.

Để góp phần đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ và góp phần vào cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, trong tình hình địa phương gặp thiên tai nặng nề, địch
đánh phá trở lại miền Bắc, yêu cầu huy dộng chi viện tiền tuyến lơn hơn và khẩn trương hơn
những năm trước đó, quân và dân đồng bằng sông Hồng tiếp tục nêu cao quyết tâm: "Dù phải hy
sinh gian khổ đến đâu cũng đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu của chiến trường miền Nam", nên
đã có nhiều biện pháp tích cực để bảo đảm đủ số quân chi viện thường xuyên hàng năm và
những năm cao điểm. Từ năm 1970 đến năm 1972, đã đưa 285.355 cán bộ, chiến sĩ, gồm cả các
khung huấn luyện quân bổ sung và những đại đội dân quân tự vệ thuộc quân khu ta tiền tuyến
cùng với quân và dân miền Nam đánh thắng cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của địch, góp phần
vào chiến thắng Quảng Trị.

199
Để thực hiện quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam của Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị và Quân uỷ Trung ương, quân và dân đồng bằng chuẩn bị chi viện sức người sức của với mức
cao nhất. Quân khu dự kiến cần huy động tới 1,5 - 2% dân số hàng năm, nhưng trên thực tế, lúc
đó nổi lên một khó khăn lớn là nếu lấy số thanh niên đủ tiêu chuẩn tuyển quân như những năm
trước thì chỉ huy động được 0,4 - 0,5 % dân số. Quân khu uỷ và các tỉnh, thành uỷ đã xác định
phải động viên nỗ lực cao nhất của quân và dân đồng bằng sông Hồng, khắc phục khó khăn tạo
nguồn tạo chất, đáp ứng yêu cầu của chiến trường để đánh thắng. Những thanh niên thấp bé, nhẹ
cân, có bệnh tật thông thường của đợt tuyển quân trước để lại đã được gia đình, hợp tác xã, xí
nghiệp... tập trung chăm sóc, nuôi dưỡng để có đủ điều kiện tuyển quân đợt sau. Riêng về vấn đề
này, khó thống kê được hết sự đóng góp to lớn của từng người, từng nhà, từng cơ sở. Mỗi huyện
đã chi phí hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, nhân dân đóng góp hàng trăm ngàn đồng để mỗi
xã đưa thêm được hàng chục người chi viện tiền tuyến. Những thanh niên ở các cương vị công
tác, sản xuất có thể thay thế được và còn đủ điều kiện tham gia chiến đấu đều được huy động.
Các trường đại học, trung học chuyên nghiệp cũng được huy động tới mức cao nhất để đáp ứng
yêu cầu của thời cơ mới. Chỉ trong một thời gian ngắn từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975,
quân và dân đồng bằng sông Hồng đã đưa vào chiến trường 312.914 cán bộ chiến sĩ, đồng thời
còn huy động hàng chục vạn người tham gia phục vụ chiến trường: 7 trung đoàn, 21 đại đội dân
quân đã vào tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, củng cố vùng mới giải
phóng; hàng vạn tấn lương thực, thực phẩm được huy động.

Tổng kết lại trong 10 năm trực tiếp tham gia chống Mỹ, cứu nước, quân và dân đồng bằng
sông Hồng đã vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vô cùng ác liệt của đế quốc
Mỹ, vừa động viên tổ chức dựa vào chiến trường miền Nam 1.181.935 cán bộ chiếm sĩ (trong đó
có 35.102 chiến sĩ gái), gồm 7 sư đoàn hoàn chỉnh, một số khung sư đoàn, 31 trung đoàn, 1.038
tiểu đoàn, 157 đại đội bộ binh và binh chủng, hàng chục vạn người tham gia phục vụ chiến
trường , chiếm khoảng 20% dân số đồng bằng lúc đó, cùng với hàng triệu tấn vật chất do nhân
dân đóng góp nuôi quân và đưa vào miền Nam. Đã đón tiếp, chăm sóc trên 35 vạn lượt thương
binh, bệnh binh, chăm sóc gần 20 vạn gia đình liệt sĩ và hàng chục vạn gia đình quân nhân trong
chống Mỹ, huy động hàng trăm triệu ngày công để bảo đảm giao thông vận chuyển chi viện tiền
tuyến và phục vụ chiến đấu... Đồng bằng sông Hồng đã làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam.

Làm được như trên, chủ yếu là do có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn của
Đảng, sự chỉ đạo chiến lựoc tài tình của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương có sức mạnh và tình
ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; có truyền thống tốt đẹp của dân tộc; sự đoàn kết hy sinh
phấn đấu của quân và dân dồng bằng sông Hồng và sự giúp đỡ của các nước anh em bè bạn khắp
năm châu.

Riêng đối với Quân khu 3 và các địa phương trên địa bàn quân khu, theo chúng tôi có được
thành công trên là do những nguyên nhân sau đây:

a. Quán triệt và chấp hành nghiêm chỉnh, sáng tạo hai chiến lược cách mạng của
Đảng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam.

200
Căn cứ vào đặc biệt, vị trí, tính chất của đồng bằng sông Hồng, quân và dân trong quân khu
đã quán triệt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, tập trung khẩn trương xây dựng đồng
bằng sông Hồng vững mạnh, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chi viện mọi mặt cho
cách mạng miền Nam, coi đó là nhiệm vụ thiêng liêng cao cả nhất để góp phần vào sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng thời để bảo vệ miền Bắc, bảo vệ địa bàn quân
khu một cách vững chắc. Trước hết phải tập chung nỗ lực cao nhất của toàn dân toàn quân đồng
bằng ra sức cải rạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng hậu phương vững
mạnh toàn diện mới có thể làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và bảo vệ
miền Bắc, đồng thời có tiềm lực dồi dào để chi viện súc người sức của cho cách mạng miền Nam
khi cần thiết.

Từ cách đặt vấn đề như trên và chấp hành chỉ thị của trên, ngay sau khi hoà bình được lập
lại ở miền Bắc, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương ở đồng bằng sông Hồng vừa ra sức xây dựng
đơn vị vừa dành thời gian tham gia xây dựng cơ sở ở địa phương, củng cố vùng mới giải phóng,
tham gia lao động sản xuất góp phần làm thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội; dân quân tự vệ
nêu cao vai trò nòng cốt xung kích cùng toàn dân đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, chấp
hành các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân và dân đồng bằng đã có được 10
năm xây dựng hoà bình. Trong thời gian quý báu đó, với sự nỗ lực của nhân dân, các lực lượng
vũ trang quân khu đã khẩn trương xây dựng, luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, sẵn
sàng chi viện, tạo lên bước phát triển mới, sức mạnh mới về mọi mặt. Nhờ đó ngay sau khi đế
quốc Mỹ tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền
Bắc, quân dân đồng bằng sông Hồng đã vừa kiên quyết chiến đấu, vừa đẩy mạnh, dốc sức chi
viện cho miền Nam, luôn luôn đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của chiến trường, đồng thời có đủ
sức đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch.

Thường xuyên hàng năm và đột xuất trong từng thời kỳ, quân khu đã huy động rất cao sức
người sức của của hậu phương đồng thời phải chống chiến tranh phá hoại rất quyết liệt mà hậu
phương rất ổn định và phát triển đi lên. Đó cũng là một hiện tượng hiếm thấy trong lịch sử chiến
tranh. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt thì
mới làm nên được kỳ tích đó.

Vừa xây dựng, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, vừa chi viện trong thời bình, và vừa chiến
đấu, xây dựng, vừa chi viện trong thời chiến, đó là yêu cầu có tính quy luật đối với quân và dân
đồng bằng sông Hồng. Ngày nay vận dụng kinh nghiệm đó và chấp hành nghiêm chỉnh hai
nhiệm vụ chiến lược mà Đảng ta đã đề ra là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quân và dân đồng bằng sông Hồng đã và
đang dấy lên phong trào "Làm giàu đánh thắng" và đã đạt những kết quả bước đầu.

b. Quán triệt, vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng
trong xây dựng, bảo vệ đồng bằng sông Hồng và chi viện miền Nam.

Xuất phát từ đặc điểm, tính chất của đồng bằng sông Hồng, Quân khu 3 đã cùng các địa
phương động viên tổ chức toàn dân, toàn quân ra sức xây dựng đồng bằng vững mạnh toàn diện,
tạo nên sức mạnh tổng hợp mới ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó mà xây dựng nền

201
quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân. Chính vì vậy nên khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, mỗi người dân, mỗi tổ chức đã
có sức mạnh mới chưa từng thấy trong lịch sử đồng bằng sông Hồng. Đã có những binh đoàn
chủ lực, bộ đội địa phương mạnh, lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ và cơ động rộng rãi, mạnh
mẽ, lực lượng dự bị hùng hậu làm nòng cốt rộng rãi cho toàn dân chiến đấu, sản xuất và chi viện.

Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả chiến tranh chính quy và chiến
tranh du kích của chiến tranh du kích của chiến tranh nhân dân đất đối không cùng phát huy sức
đánh thắng dich ngay từ đầu và chiến tranh liên tiếp. Trong chống chiến tranh phá hoại, đã kết
hợp lực lượng phòng không của ba thứ quân và nhân dân đánh địch, phục vụ chiến đấu, bảo vệ
những mục tiêu trọng yếu nhất, bảo đảm trọng điểm mạnh, toàn cục vững. Máy bay, tàu chiến
dịch đến đâu ngày hay đêm đều bị đánh, biệt kích xuống đâu, vào đâu đều bị diệt, địch không thể
tự do hoạt động theo ý muốn.

Khi có yêu cầu chi viện lớn, lực lượng của Quân khu 3 đã có mặt ở chiến trường cùng quân
và dân miền Nam chiến đấu, đánh tập trung hợp đồng binh chủng và đánh du kích, làm công tác
bảo đảm, phục vụ chiến đấu. Cả ba thứ quân đã làm nòng cốt xung kích toàn dân bảo đảm giao
thông, bảo đảm sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương với những khẩu hiệu
hành động: "Toàn dân bàn việc nước"; "Toàn quân khu hướng ra tiền tuyến"; "Toàn dân bắn máy
bay , tàu chiến"; "Toàn dân bảo đảm giao thông, vận chuyển"; "Xây dựng bộ đội chủ lực tại xã";
"Đưa chiến tranh du kích lên trời, ra biển đánh máy bay tàu chiến Mỹ" v.v.

Vận dụng những kinh nghiệm cũ trong những điều kiện mới hiện nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân và dân đồng bằng sông Hồng quyết ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây
dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm cơ sở để thực
hiện kết hợp hai phương thức tiến hành chiến tranh: chiến tranh nhân dân địa phương và chiến
tranh bằng các binh đoàn chủ lực.

3. Nắm vững tính chất của Quân khu 3 vừa là hậu phương vừa là tiền phương.

Là một bộ phận của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng bằng Quân khu 3 là
nơi đông dân nhiều của, có truyền thống tốt đẹp và khả năng to lớn, có nhiều mục tiêu chiến lược
quan trọng. Nếu địch tiến hành chiến tranh xâm lược hoặc chiến tranh phá hoại đất nước ta, đồng
bằng sông Hồng sẽ là một trong những mục tiêu chủ yếu cử địch. Do đặc điểm như vậy nên khi
chiến tranh lớn, địa bàn đồng bằng cũng sẽ là tiền tuyến lớn.

Từ nhận thức đó trong thời bình, Quân khu 3 đã cùng với các địa phương huy động mọi lực
lượng ra sức xây dựng địa phương vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng an
ninh, có văn hoá xã hội phát triển để tạo nên sức mạnh tổng hợp, sẵn sàng đánh thắng địch ngay
từ đầu và chi viện lớn cho tiền tuyến. Khi chiến tranh lan rộng, quân khu đã vừa chiến đấu, vừa
chi viện không ngừng cho chiến trường, vừa xây dựng hậu phương ngày càng ổn định, vững
mạnh toàn diện. Chính vì thế nên trong kháng chiến chống Mỹ, quân và dân Quân khu 3 đã hoàn
thành nhiệm vụ của hậu phương với tiền tuyến, đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch, và
trong bất kỳ tình huống nào cũng đẩy mạnh sản xuất xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá xã hội,
giữ vững an ninh trật tự, thực hiện chính sách hậu phương quân đội để chi viện ngày càng lớn,
càng đánh càng mạnh.

202
4. Kết hợp kinh tế với quốc phòng để thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, việc kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng tại địa phương xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và cả nước. Quân
khu 3 đã xác định: "Căn cứ vào vị trí, nhiệm vụ của từng địa phương để có kế hoạch phát huy thế
mạnh của từng vùng, từng địa phương nhằm làm cho kinh tế và quốc phòng hỗ trợ lẫn nhau cùng
phát triển, cùng vững mạnh. Từng thời kỳ, khi có yêu cầu đột xuất của nhiệm vụ kinh tế hoặc
quốc phòng, thì quyết tâm tập trung thực hiện kỳ được yêu cầu đó". Quân khu đã thường xuyên
động viên tổ chức lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt xung kích trong sản xuất, giữ gìn an ninh,
trật tự, chấp hành chính sách, xây dựng tuyến phòng thủ, làng xã chiến đấu, các tuyến giao
thông... Những năm hoà bình, quân khu đã huy động lực lượng vũ trang xây dựng cơ sở, xây
dựng các công trình kinh tế phát triển nông nghiệp, đặt nền móng cho công nghiệp, làm cơ sở
cho hậu cần tại chỗ và thế trận chiến tranh nhân dân; từng bước xây dựng các công trình phòng
thủ kết hợp với xây dựng các tuyến giao thông, công trình thuỷ lợi trên các trọng điểm ở từng
vùng, tổ chức lực lượng lao động kết hợp với xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở để vừa sản
xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu và dân sinh, kết hợp lực lượng
dân quân tự vệ và an ninh để giữ vững trật tự xã hội; luôn sẵn sàng chủ động chuyển sang thời
chiến nếu địch mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại, đã
kết hợp việc sơ tán các cơ sở công nghiệp với chiến đấu bảo vệ các công trình, công, nông
nghiệp, sơ tán bảo vệ nhân dân, vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu vừa sản xuất, giữ vững an ninh
và trật tự xã hội.

5. Dự kiến đúng tình hình, chuẩn bị sát với nhiệm vụ, xác định đúng trọng điểm, có
phương hướng, bước đi và biện pháp thích hợp để giành được chủ động trong các thời kỳ.

Quán triệt đường lối của Đảng và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương, Quân khu uỷ và các tỉnh,
thành uỷ đã sớm nhận rõ kẻ thù, phán đoán được âm mưu và các trọng điểm, mục tiêu địch sẽ
đánh phá trên địa bàn quân khu; đã dự kiến đúng mức chi viện cho tiền tuyến để có phương
hướng, bước đi, biện pháp tiến hành chuẩn bị từng mặt, từng bước.

Bắt đầu vào thời điểm chi viện lớn, quân khu đã dự kiến mức chi viện cho miền Nam
khoảng một triệu quân (với trên dưới mười vạn cán bộ) và xác định mức huy động thường xuyên
hàng năm khoảng 1% dân số, đột xuất là 2%, trên cơ sở đó, chỉ đạo các địa phương, đơn vị chủ
động chuẩn bị để đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu chi viện chiến trường.

Trong chiến tranh phá hoại đã phán đoán đúng âm mưu của địch đánh phá miền Bắc và địa
bàn Quân khu 3, nên đã tập trung xây dựng các vùng trọng điểm, dồn lực lượng phương tiện để
đủ sức mạnh đánh địch, bảo vệ lâu dài các mục tiêu trọng yếu trên toàn địa bàn và các mục tiêu
kinh tế, các trục đường giao thông.

Nhờ dự kiến sát sự phát triển tình hình, xác định đúng trọng điểm từng thời kỳ và có kế
hoạch chuẩn bị, kiên quyết tập trung xây dựng trọng điểm, đồng thời chú trọng đúng mức tới
toàn cục trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nên quân khu đã giành được chủ động trong các
tình huống chiến tranh, đáp ứng yêu cầu chi viện cho tiền tuyến cả thường xuyên và đột xuất.

203
6. Luôn nắm vững hai khâu then chốt: xây dựng cơ sở và bồi dưỡng cán bộ

Một kinh nghiệm được rút ra ở các địa phương, đơn vị trong Quân khu 3 là muốn hoàn
thành tốt các nhiệm vụ sản xuất, đánh giặc và chi viện tiền tuyến trong bất cứ tình huống nào,
nhất thiết phải đi vào hai khâu: cơ sở và cán bộ của địa phương, đơn vị. Đó là vì mọi chủ trương,
chính sách, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên đều thông qua hành động cách mạng thực tiễn của
quần chúng ở cơ sở và đều do cán bộ trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy thực hiện.

Quân khu 3 và các tỉnh, thành trong quân khu đã đặt vấn đề tập trung chăm lo xây dựng cơ
sở vững mạnh toàn diện, khắc phục các cơ sở yếu kém, đưa phong trào lên đồng đều. Đi đôi với
xây dựng cơ sở vững mạnh, quân khu đã coi trọng tập trung bồi dưỡng cán bộ cả chủ lực, địa
phương về phẩm chất, năng lực, sức khoẻ... Để đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài, thời
bình và thời chiến, phù hợp với từng vùng, từng địa phương, từng nhiệm vụ trên từng trọng
điểm, quân khu đã tích cực, kiên trì bồi dưỡng điển hình, nhân điển hình mà phát triển nhiều cơ
sở mạnh, tạo thế mạnh chung của cả đồng bằng sông Hồng.

Do nắm vững hai khâu then chốt trên đây, hầu hết các địa phương, đơn vị trên địa bàn Quân
khu 3 đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ ở cơ sở, đã có đội ngũ cán bộ vững vàng, chủ động
đáp ứng yêu cầu khôi phục lực lượng khi có chiến tranh xảy ra, bảo đảm được các nhiệm vụ xây
dựng, chiến đấu và chi viện ngày càng lớn.

204
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ TẦM VÓC THỜI ĐẠI CỦA
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975

Giáo sư CAO VĂN LƯỢNG

Đại thắng mùa xuân 1975, đỉnh cao thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, là một sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam, một sự
kiện lịch sử có tầm vóc quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.

1. Cuộc đụng đầu lịch sử có tính chất thời đại

Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ đóng vai trò sen đầm quốc tế, thực hiện
chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhằm đạt tới mưu đồ “bá chủ thế giới”. Đế quốc Mỹ trở
thành kẻ thù của cả loài người tiến bộ, kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam và nhân dân Đông
Dương.

Từ lâu, đế quốc Mỹ đã nhòm ngó nước ta và cố sống cố chết bám lấy Việt Nam và Đông
Dương. Vậy, vì sao đế quốc Mỹ dai dẳng bám lấy Việt Nam và Việt Nam trở thành nơi đụng đầu
lịch sử có tính thời đại, nơi hội tụ của ba dòng thác cách mạng của thời đại?

Việt Nam và Đông Dương là nơi không những có tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà còn
có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
tạo của Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, “là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp
các trào lưu cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phong trào giải phóng dân
tộc lên chủ nghĩa xã hội”1. Tháng 8 năm 1945, lần đầu tiên ở một nước thuộc địa, giai cấp công
nhân Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, một cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ triệt để nhất, có ý nghĩa tiêu biểu và có giá trị nêu tấm gương của thời đại. Ngay sau đó,
nhân dân ta lại tiến hành cuốc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Với
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam trở thành ngọn cờ đầu tiên đánh
gục chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế
giới, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc Á, Phi, Mỹ la-tinh đứng lên chiến đấu chống đế quốc để tự giải
phóng, tự làm chủ vận mệnh của mình. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa nửa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây
lại là lần đầu tiên trong lịch sử các dân tộc thuộc địa, cuộc đấu tranh giải phóng thành công đã
trực tiếp dẫn đến thành lập một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đáng lưu ý nữa là từ tháng 7
năm 1954, cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa đấu tranh chống đế quốc Mỹ nhằm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược này, Việt Nam lại là nơi thể hiện chân lý lớn nhất
của thời đại ngày nay: độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn chặt với nhau.

Hơn nữa, Việt Nam trở thành tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam châu Á.
Đây là một đòn tiến công mạnh mẽ vào chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ.

205
Có thể nói, với tính chất triệt để chống đế quốc và tay sai, là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết
hợp các trào lưu cách mạng của thời đại, và với vị trí đi đầu trong phong trào chống chủ nghĩa
thực dân ở một địa bàn chiến lược rất quan trọng ở Đông Nam châu Á, cách mạng Việt Nam là
đối tượng chống phá quyết liệt nhất của chủ nghĩa đế quốc. Riêng đối với đế quốc Mỹ, việc xâm
lược Việt Nam, ngăn chặn đẩy lùi cách mạng Việt Nam và cách mạng ba nước Đông Dương
luôn luôn là mục tiêu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Những
tên tai to mặt lớn trong Nhà trắng đều coi Việt Nam là địa bàn then chốt, có ý nghĩa quyết định
đối với việc mở rộng và củng cố địa vị của chủ nghĩa đế quốc ở khu vực Đông Nam châu Á.
Ngay từ năm 1952, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã nhấn mạnh: “Việc bảo vệ thành công Bắc
Kỳ (Việt Nam) là điều quan trọng đối với việc giữ cho lục địa Đông Nam Á nằm trong tay các
lực lượng không cộng sản”1. Năm 1953, tổng thống Mỹ Ai-xen-hao tuyên bố: “Để mất Việt
Nam, mất Đông Dương thì sẽ khó có thể phòng thủ được Ma-lai-xi-a… Bằng bất cứ giá nào đi
nữa cũng phải chặn ngay nó lại (phong trào cách mạng Việt Nam – T.G). Dù sao cũng còn rẻ
hơn cái giá phải trả sau này”2. Kit-xinh-gơ, nhà chiến lược “diều hâu” của Mỹ đã khẳng định:
“Việc mất Việt Nam và Đông Dương sẽ có những hậu quả nghiêm trọng đối với chính sách của
Mỹ ở những nơi khác trên thế giới”3. Còn Ních-xơn thì bộc lộ dã tâm của Mỹ cố bám lấy Việt
Nam trong bài diễn văn nhậm chức và khi trả lời phỏng vấn báo Diễn đàn thông tin quốc tế ngày
10 tháng 2 năm 1970: “Chúng ta hãy làm cho không còn ai nghi ngờ rằng chúng ta sẽ dùng sức
mạnh tới mức cần thiết”, vì “kết cục ra sao ở Việt Nam sẽ có tác động lâu dài đối với vị trí của
Mỹ ở châu Á và trên thế giới”.

Cố sống cố chết bám lấy Việt Nam và ngày càng lao sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam, đế quốc Mỹ còn nhằm biến Việt Nam thành nơi thí nghiệm các chiến lược, chiến
thuật và các loại vũ khí của Mỹ, dùng kinh nghiệm ở Việt Nam để đàn áp và dập tắt phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa. Tờ báo Tây Đức
Belatten (4-1962) đã vạch rõ mưu đồ này của Mỹ: “Hoa kỳ chọn miền Nam Việt Nam là nơi thí
điểm đầu tiên cho loại chiến tranh sau này có thể đem áp dụng vào những hoàn cảnh thích hợp ở
châu Mỹ la-tinh, Trung Đông và có thể cả Trung Âu nữa”.

Chính vì những nguyên nhân trên và những nguyên nhân kinh tế, chính trị khác mà trong
suốt một phần tư thế kỷ qua, trải qua năm đời tổng thống, đế quốc Mỹ đã dốc đến mức cao nhất
sức người sức của vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, một cuộc chiến tranh xâm lược thực
dân mới dài ngày nhất, ác liệt nhất và quy mô lớn nhất trong thời đại ngày nay. Chúng đã đổ vào
miền Nam nước ta một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên, gồm quân Mỹ và quân các nước chư
hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân ngụy. Riêng quân Mỹ, chúng đã huy động lúc
cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50%
lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt
Nam, thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ và trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã huy
động tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném bom xuống nước ta 7 triệu 850 ngàn tấn bom và tiêu tốn
352 tỷ đô la1. Một bộ phận quan trọng của nền công nghiệp Mỹ được huy động để phục vụ cuộc
chiến tranh xâm lược này, gồm hơn 22.000 xí nghiệp lớn nhận đơn đặt hàng quân sự, trong đó có
hơn 6.000 xí nghiệp chuyên sản xuất vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, hơn
1/3 tổng số nhà khoa học chuyên nghiên cứu các loại vũ khí huỷ diệt cũng bị đẩy vào chiến tranh
phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam và gần 5 vạn tên đủ các cỡ của cái gọi là “Trung tâm
đầu não của các cuộc chiến tranh của Mỹ ở nước ngoài” hàng này vắt óc, tính kế cho cuộc chiến
tranh bẩn thỉu này2. Đế quốc Mỹ đã huy động hầu hết những lực lượng thiện chiến nhất của các

206
quân chủng: lục quân, hải quân, không quân, lính thuỷ đánh bộ, đã xuất những tướng lĩnh và
chuyên gia thuộc loại “tài ba” của nước Mỹ, như Ha-kin, Oét-mô-len, A-bram, Uây-en, Mắc
Kên…; những chuyên gia nổi tiếng về “bình định”, lật đổ, như Nâu-tin, Ô Đa-ni-en, Ca-bốt Lốt;
những nhà chiến lược cỡ lớn như Tay-lơ, Xta-lây, Mắc Na-ma-ra, Kít-xinh-gơ… Đế quốc Mỹ
cũng đã áp dụng bốn chiến lược chiến tranh phản cách mạng và hàng loạt chiến thuật khác nhau;
sử dụng tất cả mọi biện pháp, thủ đoạn tàn bạo, thâm độc nhất và mọi vũ khí, phương tiện chiến
tranh hiện đại nhất (trừ vũ khí nguyên tử).

Lao vào cuộc chiến tranh hao người tốn của ở Việt Nam, bọn cầm đầu Nhà trắng nhằm mục
tiêu chiến lược gì? “Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước
của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống
Đông Nam châu Á; đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở
vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”1. Lao vào cuộc phiêu lưu quân sự
với bất cứ giá nào ở Việt Nam, đế quốc Mỹ còn “muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh
tế khổng lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giải phóng dân tộc và chặn đứng bước tiến
của chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới”2.

Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Nhân dân ta đã hiên ngang chấp nhận cuộc đọ sức
quyết liệt với tên trùm đế quốc; và kết cục cuộc đọ sức đó là nhân dân ta đã chiến thắng vẻ vang,
đế quốc Mỹ đã thất bại nhục nhã.

2. Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của thắng lợi.

Đánh giá tổng quát ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đã
khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện
có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là Đại
thắng mùa xuân 1975, là thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử bốn ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta.

Trải qua hơn 20 năm chiến đấu vô cùng anh dũng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng, quân và dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên trùm đế quốc từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh phản cách mạng của năm đời tổng
thống Mỹ: chiến lược của Ai-xen-hao; chiến lược “chiến tranh đặc biệt” thời Ken-nơ-đi (1961 -
1964); chiến lược “chiến tranh cục bộ” thời Giôn-xơn (1965 - 1968); chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh” thời Ních-xơn và Pho (1969 - 1975). Riêng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
xuân 1975, chỉ sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”,
với sức mạnh áp đảo cả về quân sự, chính trị, quân và dân ta đã đập tan hoàn toàn bộ máy quân
sự khổng lồ và hiện đại của chính quyền tay sai được xếp vào loại mạnh nhất ở Đông Nam châu

207
Á. Ta đã loại ra khỏi vòng chiến đấu 1 triệu 10 vạn tên địch, tiêu diệt và làm tan rã 4 quân đoàn
ngụy gồm 13 sư đoàn, nhiều lữ đoàn, trung đoàn bộ binh, lính dù, lính thuỷ đánh bộ, quân biệt
động, 6 sư đoàn không quân, 22 trung đoàn thiết giáp, 22 trung đoàn hải quân, 66 tiểu đoàn pháo
binh, toàn bộ lực lượng cảnh sát dã chiến, bảo an, dân vệ cùng mọi tổ chức quân sự khác của
chúng1. Ta đã phá huỷ và tịch thu 1.492 khẩu pháo, 2.074 xe tăng và xe bọc thép, 1.850 máy
bay, 1.611 tàu các loại2.

Ta đã quét sạch bộ máy ngụy quyền từ trung ương đến địa phương do đế quốc Mỹ dày công
xây dựng gồm 22 vạn tên, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu hồi toàn bộ giang sơn đất nước
về tay nhân dân.

Thắng lợi oanh liệt này là kết quả tất yếu của một quá trình đấu tranh liên tục trong 17 năm
của nhân dân ta chống chủ nghĩa đế quốc nhằm giải phóng đất nước, giành độc lập, tự do cho
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi này đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
ta, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự
lãnh đạo của Đảng tiên phong bắt đầu từ Cách mạng tháng Tám 1945. Với thắng lợi này, lần đầu
tiên sau 117 năm, trên đất nước ta không còn một bóng tên xâm lược; họa chia cắt đất nước và
mọi chướng ngại trên con đường thống nhất nước nhà đã được thanh toán. Nguyện vọng tha thiết
của nhân dân ta trên một trăm năm nay đã được thực hiện.

Cùng với những thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đưa
đất nước ta vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thống nhất, độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
“Với chiến công hiển hách ấy, nhân dân ta thật xứng đáng đứng vào hàng các dân tộc tiên phong
đấu tranh cho lý tưởng đẹp đẽ của loài người, góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình cách mạng
thế giới. Và Đảng ta, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, ngày nay đã trở
thành một Đảng Mác – Lê-nin lớn mạnh, một Đảng tôi luyện về chính trị, vững mạnh về tư
tưởng và tổ chức, một đội ngũ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”1.

Mỗi thắng lợi to lớn của nhân dân ta là một thất bại cay đắng của đế quốc Mỹ. Đối với đế
quốc Mỹ, thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là “thất bại nghiêm trọng nhất trong toàn
bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ”2.

Thật vậy, kể từ ngày 4 tháng 7 năm 1796, ngày công bố Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, đến
ngày 6 tháng 3 năm 1965, ngày đế quốc Mỹ bắt đầu đưa quân vào trực tiếp xâm lược miền Nam
Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tiến hành hàng chục cuộc chiến tranh lớn, và khi kết thúc chiến tranh,
nước Mỹ luôn luôn là kẻ chiến thắng. Cho đến trước khi xảy ra cuộc đụng đầu lịch sử ở Việt
Nam, vai trò đầm sen quốc tế và sức mạnh của Mỹ nói chung chưa bị sứt mẻ. Nhưng từ khi đế
quốc Mỹ lao sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì tình hình này hoàn toàn đảo
ngược. Thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung,
đã đánh dấu một bước ngoặt đi xuống của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Từ chỗ là cường quốc đế quốc
chủ nghĩa số 1, Mỹ đã suy yếu nhiều về quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, kéo cả thế giới tư
bản lún sâu vào một thời kỳ tổng khủng hoảng toàn diện và không phương cứu chữa. Chính thế
lực hiếu chiến Mỹ đã phải kêu lên: trong 199 cuộc “xung đột quân sự” của Mỹ ở nước ngoài
(1798 - 1972) đây là cuộc xung đột đầu tiên mà Mỹ không dám nói rằng mình chiến thắng3. Báo
Pháp Lơ Phi-ga-rô (19-4-1975) vạch rõ: “Kể từ một thế kỷ nay, lần đầu tiên không phải lịch sử đi

208
theo đường lối Hoa Kỳ mà Hoa Kỳ phải đi theo trào lưu của lịch sử”. Ngay bộ trưởng quốc
phòng Mỹ Sơ-le-xinh-gơ cũng đã phải kêu lên: “Đây là một bước thụt lùi hết sức nghiêm trọng
đối với chính sách Mỹ”4, “một sự thất bại có tầm lịch sử và bi đát”5.

Thảm bại của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam không phải chỉ ở chỗ đã
chôn vùi hàng loạt chiến lược, chiến thuật chiến tranh mà bọn cầm đầu Nhà trắng hết lời tán
tụng, làm tiêu tan 700 tỷ đô la, 50.000 sinh mạng binh lính Mỹ… mà còn ở chỗ nó chia rẽ sâu
sắc nước Mỹ, làm cho nội bộ giới cầm quyền ngày càng lục đục, lòng tin của nhân dân Mỹ vào
chính phủ ngày càng giảm sút, cuộc đời chính trị của hàng loạt nhân vật “kiệt xuất” của nước Mỹ
phải kết thúc một cách bi thảm và vị trí đầm sen quốc tế của Mỹ bị lung lay. Chính Kit-xinh-gơ
đã phải thú nhận: “Cuộc rút lui lịch sử khỏi Việt Nam của một đại cương quốc như Mỹ không
thể không đặt ra một số câu hỏi gây ảnh hưởng có hại cho địa vị của Mỹ trên thế giới”1.

Thật khó có thể đánh giá hết những hậu quả nghiêm trọng của thất bại này đối với nước Mỹ.
Cựu ngoại trưởng Mỹ Đin Ra-xcơ nói: “Chúng ta vẫn chưa biết cái giá phải trả cho cuộc chiến
tranh này. Phải đợi hàng chục năm nữa mới biết được”2. Còn thượng nghị sĩ Mỹ Men-xphin thì
cho rằng: “Chúng ta đã phải trả giá và tiếp tục trả giá cho mãi tới thế kỷ sau nữa”3

Đã mười năm trôi qua kể từ khi chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ bị sụp đổ hoàn
toàn ở Việt Nam. Nhưng thời gian đã không làm mờ đi những thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ
ở Việt Nam và càng không làm mờ đi những ảnh hưởng và tác động to lớn của thắng lợi hoàn
toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân 1975,
đối với tiến trình phát triển của cách mạng thế giới.

Lịch sử thế giới từ Cách mạng tháng Mười Nga đã chứng kiến nhiều sự thay đổi to lớn.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đánh dấu một bước nhảy vọt vĩ đại đầu tiên của cách
mạng thế giới, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi oanh liệt của Liên Xô và các lực lượng cách mạng khác
trong chiến tranh thế giới thứ hai làm sụp đổ một mảng lớn của hệ thống đế quốc, đánh dấu một
thời kỳ phát triển vĩ đại mới của cách mạng thế giới. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân 1975, như đồng chí Phi-đen Ca-
xtơ-rô đánh giá, là “một trong những chiến công oanh liệt vĩ đại nhất của loài người”, “một trong
những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, sau
chiến thắng chủ nghĩa phát xít”4. Thắng lợi vĩ đại đó đã đánh dấu một cái mốc quan trọng trong
tiến trình phát triển của cách mạng thế giới.

Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta như
trên không có gì là quá đáng.

Như chúng ta đều biết, từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước ta trở thành nơi thí nghiệm
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ, nơi thử thách sức mạnh và uy tín của Hoa
Kỳ, nơi diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử, nơi tập trung những mâu thuẫn của thời đại: mâu thuẫn
giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa
tư bản; mâu thuẫn giữa các lực lượng hoà bình và dân chủ với các thế lực phản động gây chiến
và xâm lược; mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc.

209
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là “ngọn cờ tiên phong, là trung
tâm và đỉnh cao của cuộc đấu tranh cách mạng của những người lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới chống đế quốc Mỹ”1; là cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa một bên là đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, đại diện cho các lực lượng phản động nhất của thời đại, với một bên là nhân
dân ta, đội quân xung kích của các trào lưu cách mạng dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta không những có ảnh
hưởng quyết định đến tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, mà còn ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển của cách mạng thế giới.

Trong lịch sử thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, đã có nhiều cuộc cách
mạng nổ ra và thắng lợi. Nhưng hiếm có những cuộc cách mạng có tầm vóc quốc tế to lớn, làm
đảo lộn chiến lược toàn cầu của những tên đế quốc hùng mạnh, như cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta. Đánh giá ảnh hưởng và tác động to lớn của thắng lợi mà nhân dân đã
giành được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đối với cách mạng thế giới, Đảng ta đã
chỉ rõ: “Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế
quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận
địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, phá vỡ một phòng tuyến quan
trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam châu Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của
chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng
thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng của thời đại, đem lại lòng tin và
niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên trái đất đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”2.

Ngày nay, chủ nghĩa thực dân cũ cơ bản đã bị sụp đổ trên phạm vi thế giới, nhưng chủ
nghĩa thực dân mới vẫn đang còn là một hiểm hoạ lớn đối với nhiều dân tộc. Cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân mới mà kẻ cầm đầu là đế quốc Mỹ, là một bộ phận của cuộc đấu tranh
giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế
giới.

Trong điều kiện đó, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
chẳng những đã góp phần làm suy yếu đế quốc Mỹ, kẻ thù lớn nhất của thời đại, mở đầu cho thời
kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới trên phạm vi thế giới, mà còn góp phần giải đáp những
vấn đề lý luận và thực tiễn sâu sắc mà thời đại đặt ra.

Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cùng với những
thắng lợi của hai nước anh em Lao, Cam-pu-chia và của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các khu vực khác chứng minh: phong trào giải phóng dân tộc đã trở thành một trong ba dòng
thác cách mạng của thời đại cùng tiến công liên tục từ nhiều phía vào chủ nghĩa đế quốc; phong
trào giải phóng dân tộc muốn thành công thì phải dựa vào các nước xã hội chủ nghĩa, đi theo con
đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải phóng dân tộc rồi đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là xu
hướng phát triển tất yếu của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta còn chứng minh rằng
“trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một dân tộc
nước không rộng, người không đông nhưng đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự
lãnh đạo của một Đảng Mac - Lê-nin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương

210
cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của
các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn
toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ”1.

Những điều trên đây càng làm nổi bật ý nghĩa thắng lợi, tính chất điển hình, tiêu biểu của
cách mạng Việt Nam, của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Cũng chính vì
thế mà nhân dân thế giới hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta,
đánh giá cao những thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được trong cuộc kháng chiến thần thánh
đó và coi những thắng lợi đó là thắng lợi của chính mình, “thắng lợi của tất cả các dân tộc cách
mạng, của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tiến bộ, của tất cả các nước đang đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc và của tất cả các nước đang đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của mình”2.

Rõ ràng, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, sau chiến thắng của Liên Xô và của
các lực lượng cách mạng đối với chủ nghĩa phát-xít, thì thắng lợi của nhân dân ta nói riêng nói
riêng và của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, là sự kiện lịch sử vĩ đại nhất, có tầm vóc quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc. Đó là
“thắng lợi của một sức mạnh mới, sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà không
thế lực xâm lược nào có thể đè bẹp”1. Nó đánh dấu một bước ngoặt đi xuống của chủ nghĩa thực
dân mới của đế quốc Mỹ, đánh dấu một bước phát triển của ba dòng thác cách mạng của thời đại,
làm thay đổi lực lượng so sánh trên thế giới có lợi cho cách mạng, mở ra một giai đoạn mới trong
cục diện quốc tế, giai đoạn mà nhân dân thế giới gọi là “thời kỳ sau Việt Nam”.

“Thời kỳ sau Việt Nam” là thời kỳ cách mạng thế giới bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Ba dòng thác cách mạng của thời đại lớn mạnh vượt bậc, kết thành một sức mạnh tổng hợp hết
sức to lớn. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lớn mạnh nhanh chóng về mọi mặt. Phong trào
giải phóng dân tộc và giành độc lập dân tộc, được thắng lợi của nhân dân ta cổ vũ, đã tiến vào
giai đoạn phát triển mới, vừa quét nốt những vị trí cuối cùng của chủ nghĩa thực dân cũ, vừa
giáng những đòn nặng nề vào chủ nghĩa thực dân mới. Trong vòng năm, sáu năm (tính đến đầu
1982) đã có thêm hơn 20 nước giành được độc lập2 và trở thành những thành viên bình đẳng
trong cộng đồng quốc tế. Phong trào giành độc lập dân tộc ngày càng gắn bó chặt chẽ với hệ
thống xã hội chủ nghĩa, tạo thêm sức mạnh mới cho lực lượng cách mạng. Nhiều nước độc lập
dân tộc đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phản ánh xu thế phát triển tất yếu của lịch sử
trong thời đại ngày nay: độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ
nghĩa, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động có bước phát triển mới
với quy mô rộng lớn và khí thế sôi nổi hơn…

211
KẾT LUẬN HỘI NGHỊ KHOA HỌC
KỶ NIỆM LẦN THỨ 10 NGÀY TOÀN THẮNG
CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
(Tháng 4 năm 1985)
\

Đại tướng HOÀNG VĂN THÁI

Thưa các đồng chí!

Hội nghị khoa học kỷ niệm lần thứ 10 ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước đã làm việc khẩn trương, liên tục, sôi nổi trong hơn hai ngày. Căn cứ vào vị trí, tính
chất, nhiệm vụ , mục đích, yêu cầu của Hội nghị và những ý kiến hướng dẫn quan trọng của
đồng chí Bộ trưởng, chúng ta có thể cùng nhau kết luận Hội nghị khoa học này đã đạt kết quả tốt.
Xin nhiệt liệt hoan nghênh và chân thành cảm ơn sự đóng góp của tất cả các đồng chí.

Vừa qua, trong quân đội ta đã có một số đơn vị tổ chức hội nghị khoa học kỷ niệm 10 năm
giải phóng miền Nam như Viện lịch sử quân sự, Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Học
viện Quân sự cấp cao, Quân khu 7 và thành phố Hồ Chí Minh. Đối với toàn quân, Hội nghị khoa
học mà chúng ta đang dự là Hội nghị khoa học lớn nhất nhân kỷ niệm 10 năm thắng Mỹ.

Từ mùa xuân 1975 toàn thắng đến nay đã được 10 năm. Đã lâu mới lại có dịp họp mặt đông
đảo cán bộ nghiên cứu, khoa học, lý luận, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chủ trì của nhiều đơn
vị, cơ quan, có cả các đồng chí Thủ trưởng Bộ, Thủ trưởng các Tổng cục, các đồng chí lãnh đạo
của Viện Mac – Lê-nin, Viện lịch sử Đảng, Viện Sử học Việt Nam và nhiều cán bộ nghiên cứu
khác… để cùng nhau ôn lại, nêu lên, phân tích và rút ra những kết luận về những sự kiện lịch sử
hào hùng của dân tộc ta, về sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt tài tình của Đảng ta, về sự anh dũng,
sáng tạo của quân và dân ta trong mùa xuân lịch sử năm ấy.

Ban chỉ đạo Hội nghị đã nhận được 46 bản tham luận của nhiều cán bộ trong toàn quân và
một số đồng chí cán bộ ngoài quân đội, trong đó có những bản được chuẩn bị rất công phu, được
cả tập thể tham gia, góp ý, biên soạn. Đồng thời cũng còn nhận được yêu cầu của một số đồng
chí khác – chưa kịp gửi tham luận – xin đăng ký phát biểu ý kiến. Song, thời gian của Hội nghị
không cho phép có thể đọc hết các bản tham luận, phát biểu hết ý kiến. Mong tất cả các đồng chí
thông cảm và cùng nhau ghi nhận rằng: sự hăng hái say mê nghiên cứu khoa học của đông đảo
cán bộ ta như vậy rõ ràng là một dấu hiệu tốt, là điều đáng mừng cần phải nhiệt liệt biểu dương,
cổ vũ.

Hội nghị chúng ta đã được nghe rất nhiều bản tham luận. Mỗi tham luận thường đề cập 1-2
vấn đề. Song toàn bộ các bản tham luận đã phản ánh được nhiều vấn đề rất phong phú về thắng
lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, về thắng lợi của cả cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Qua các bản tham luận, Hội nghị chúng ta đã làm nổi bật một số vấn đề sau đây:

212
1. Các bản tham luận - từ nhiều góc độ khác nhau – đã đánh giá thắng lợi và nhấn mạnh ý
nghĩa của thắng lợi. Về đánh giá thắng lợi và ý nghĩa của thắng lợi mùa xuân 1975, của cả cuộc
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta, trong suốt 10 năm qua, nhiều văn kiện của Đảng, nhiều
bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, những lời ca ngợi của nhiều
Đảng Cộng sản, nhiều nước anh em, bè bạn, các bình luận của báo chí, của giới khoa học ở trong
nước và cả ngoài nước… đã phân tích khá toàn diện và sâu sắc. Trong Hội nghị này, chúng ta
tiếp tục đánh giá thắng lợi và ý nghĩa thắng lợi. Rõ ràng, càng phân tích, chúng ta càng thấy
thắng lợi của dân tộc ta trong mùa Xuân năm ấy lớn quá, đẹp quá, đúng như viên ngọc quý càng
mài càng sáng. Những thắng lợi ấy có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc, vượt qua
mọi không gian và sẽ tồn tại mãi mãi với thời gian. Xét về cả bề rộng và chiều sâu, tầm cao và
sức nặng, thắng lợi mùa xuân 1975 thật là một thắng lợi chưa từng có trong lịch sử 4000 năm giữ
nước và dựng nước của dân tộc ta.

Ta đa thắng một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới với một quy mô lớn nhất, dài
ngày, tàn bạo và ác liệt nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, đánh thắng một đội quân phản
cách mạng đông mạnh, hiện đại và hung hãn nhất của thời đại, đánh thắng cả một liên minh phản
cách mạng tệ hại nhất trên thế giới ngày nay gồm cả bọn thực dân, đế quốc và lũ chư hầu tay sai,
cả bọn cướp nước và bè lũ ngụy quân, ngụy quyền bán nước.

Đối với nhân dân ta, thắng lợi oanh liệt này, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
Nó kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng, hoàn thành triệt để cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, mở đầu kỷ nguyên mới huy hoàng chưa từng có - kỷ nguyên độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản
công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau chiến tranh thế
giới thứ 2, làm suy yếu kẻ thù số 1 của cả loài người, góp phần tăng thêm sức mạnh và thúc đẩy
đà tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại; các nước xã hội chủ nghĩa đều mạnh lên,
phong trào giải phóng dân tộc có bước tiến lớn, trên nhiều nước ở châu Phi và châu Mỹ la-tinh
giành độc lập, phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân trong các nước tư
bản cũng có bước phát triển mới...

Đối với đế quốc Mỹ, ở Việt Nam, Mỹ đã thất bại thảm hại, một thất bại nặng nề và cay đắng
chưa từng có trong lịch sử 200 năm của nước Mỹ.

2. Hầu hết các tham luận - từ nhiều góc độ khác nhau - đều nói về nguyên nhân thắng lợi,
cũng là nói về những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thắng lợi chung của toàn dân, của cả
nước hoặc thành công của từng đơn vị, từng địa phương... Những ý kiến về mặt này rất phong
phú, tôi nghĩ, có thể quy vào một số vấn đề sau đây:

Một là: Chúng ta đều nhất trí rằng: Nguyên nhân cơ bản chủ yếu nhất trong các nguyên
nhân thắng lợi, đồng thời là bài học kinh nghiệm, đặc sắc nổi bật nhất trong tất cả các bài học
kinh nghiệm của mùa xuân 1975 toàn thắng - của cả cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng - là
đường lối cách mạng, đường lối quân sự, đường lối quốc tế độc lập tự chủ rất đúng đắn, sáng tạo,
sự lãnh đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng rất sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, sự chỉ đạo chiến lược rất sắc sảo, già dặn của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung
ương. Chúng ta đều nhận thức rất sâu sắc rằng: không có một Đảng mác-xít-lê-nin-nít kiên
cường và sáng tạo, đoàn kết nhất trí, dày dạn trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách

213
mạng, có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo, biết tranh thủ sự ủng hộ
quốc tế... thì không thể có thắng lợi lớn đến như thế trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc
Việt Nam ta với đế quốc Mỹ, cũng như trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng mùa xuân
1975 lịch sử.

Hai là: Chúng ta đều thấy, trong chỉ đạo chiến lược của Đảng ta, một thành công nổi bật là
Đảng ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch ta trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như
trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng thời điểm cụ thể; trên cơ sở nhất quán tư tưởng chiến
lược tiến công, đã thực hiện sáng tạo chiến lược tổng hợp. Chiến lược tổng hợp ấy không chỉ là
nghệ thuật quân sự mà còn là phương pháp cách mạng, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách
mạng, trong điều kiện phải đánh một kẻ địch có quân đông, trang bị hiện đại, tiến hành chiến
tranh xâm lược thực dân mới. Có thể nói, đây là một trong những sáng tạo lớn nhất của Đảng ta
trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân 1975; là sự kế thừa xuất sắc sự phát triển sáng tạo những kinh nghiệm của kháng chiến
chống Pháp và Cách mạng tháng 8, cả kinh nghiệm của cách mạng nước ta và cách mạng thế
giới. Cũng có thể nói, đây là một trong những bài học kinh nghiệm lớn nhất trong nghệ thuật chỉ
đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng của Đảng ta. Trong hội nghị này, nhiều tham luận đã
nói tới, nhưng chúng ta cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu công phu hơn nữa, sâu sắc hơn nữa.

Ba là: Chúng ta đều thấy trong nghệ thuật quân sự của cuộc chiến tranh nhân dân chống
Mỹ, cứu nước ở miền Nam có nhiều phát triển mới so với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, mà
nổi bật là những phát triển tới đỉnh cao trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975. Nhiều bản tham luận đã đề cập đến vấn đề này cả về chiến lược và nghệ thuật chiến dịch.
Ví dụ, vấn đề chọn hướng tiến công chiến lược, vấn đề chuẩn bị chiến lược, vấn đề tập trung
"quả đấm" chủ lực, vấn đề tốc độ tiến công thần tốc, vấn đề tổ chức và thực hiện những chiến
dịch có ý nghĩa chiến lược từ chiến dịch Tây Nguyên. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng đến chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử... Đây cũng là một vấn đề rất lớn, chúng ta đã nghiên cứu, nhưng còn phải
nghiên cứu sâu hơn nữa và khẩn trương hơn nữa để ta có thể kịp thời vận dụng và phát triển
trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu hiện nay cũng như sắp tới.

Bốn là: Qua các bản tham luận, chúng ta đều thấy sự nhất trí của mọi người về vị trí quan
trọng và vai trò to lớn của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, của cả 3 thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, của các binh đoàn chiến lược và các quân
chủng, binh chủng. Việc xây dựng và phát triển kịp thời các binh chủng, quân chủng, đặc biệt là
việc thành lập các binh đoàn chiến lược, cả binh đoàn chủ lực cơ động và binh đoàn chủ lực tại
chỗ... kịp thời đã có ý nghĩa rất lớn lao trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Những "quả
đấm" chủ lực ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ kết thúc chiến tranh, tiêu diệt và
làm tan rã toàn bộ quân chủ lực địch, trong sự phối hợp với tác chiến của các lực lượng vũ trang
địa phương và những cuộc nổi dậy của quần chúng, trên cơ sở lực lượng và thế trận của chiến
tranh nhân dân đã phát triển tới đỉnh cao trong mùa xuân 1975.

Năm là: Các bản tham luận cũng đều khẳng định vai trò vĩ đại của nhân dân ta trong chiến
tranh ở tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì bền bỉ hy
sinh chiến đấu suốt mấy chục năm ròng, vừa ngày đêm trực diện đấu tranh chính trị với quân thù,
vừa tiến hành những cuộc nổi dậy trong sự phối hợp với tiến công quân sự, vừa phục vụ chiến
đấu của lực lượng . Trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, ta thấy thật sự

214
là ngày hội của quần chúng ở miền Nam như Mác đã từng dự kiến về tấm lòng và tầm vóc của
quần chúng trong cách mạng. Những cuộc nổi dậy của nhân dân - dưới các hình thức khác nhau,
từ thấp đến cao - ở hầu khắp các địa phương miền Nam trong mùa xuân 1975 đã góp phần có ý
nghĩa quyết định "tốc độ thần tốc" của cả trận quyết chiến chiến lược nói chung, của nhịp độ tác
chiến, của các "quả đấm" chủ lực nói riêng.

Sáu là: Tất cả các tham luận đều khẳng định: Vai trò của miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975 cũng như trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, các văn kiện của Đảng cũng như thực tế đã chứng minh: miền Bắc có vai trò quyết định
trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đại hội Đảng lần thứ IV đã khẳng định không có miền Bắc
xã hội chủ nghĩa thì không thể có thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
nhân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, suốt hơn 20 năm ròng luôn luôn quán triệt sâu
sắc và thực hiện kiên quyết cả 2 chiến lược của cách mạng cả nước: Cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, vừa ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa dốc lóng, dốc sức chi viện miền Nam, vừa kiên cường chống cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ; và chính ngay công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm này trước hết
và chủ yếu cũng là để đánh Mỹ và thắng Mỹ, để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bảy là: Qua các bản tham luận, chúng ta cũng thấy vai trò rất to lớn của công tác đảng -
công tác chính trị, công tác tham mưu, công tác hậu cần, kỹ thuật, trên phạm vi chiến lược cũng
như trong tổ chức và thực hành chiến dịch. Những thành công tốt đẹp trong xây dựng nhân tổ
chính trị - tinh thần, trong xây dựng các kế hoạch tác chiến, trong bảo đảm cơ sở vật chất kỹ
thuật, chiến lược cũng như chiến dịch, trong suốt cả cuộc kháng chiến, nhất là trong trận quyết
chiến chiến lược cuối cùng... cũng là những bài học kinh nghiệm rất quý mà chúng ta đã nghiên
cứu và còn phải tiếp tục nghiên cứu.

Tám là: Qua nhiều tham luận, chúng ta cũng thấy có một vấn đề nổi bật trong cuộc chiến
đấu của quân và dân ta là đã giải quyết thành công vấn đề hậu cần của chiến tranh nhân dân bao
gồm cả hậu cần cơ động và hậu cần tại chỗ, hậu cần trong cả cuộc chiến tranh và đặc biệt là hậu
cần trong trận quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh.

Xây dựng hậu cần của ta gắn chặt với xây dựng hậu phương chiến lược, miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, gắn chặt với xây dựng căn cứ địa cách mạng trong vùng giải phóng ở miền Nam, nhất
là ở Tây Nguyên, cả nam và bắc Tây Nguyên.

Điểm nổi bật trong vấn đề nổi bật này là Đảng ta, dân tộc ta đã sáng tạo đường Hồ Chí
Minh - tuyến đường giao thông vận tải quân sự Bắc - Nam, một kỳ công của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Đã có biết bao công trình nghiên cứu và bình luận về con đường kỳ diệu
này. Nhưng tôi nghĩ "Đường Hồ Chí Minh" vẫn là một đề tài rất lớn về nhiều mặt cần phải
nghiên cứu sâu hơn nữa.

Chín là: Qua nhiều bản tham luận, chúng ta còn thấy rõ vai trò rất to lớn của các địa
phương, nhất là vai trò của các quân khu, các tỉnh, thành phố. Chiến tranh cứu nước của ta là
chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân, ta đánh địch bằng cả vũ trang và chính trị, cả tiến
công quân sự và nổi dậy của quần chúng, cả chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích... Do
đó, cả chủ lực và địa phương trong chiến tranh, kể cả khi kết thúc chiến tranh, đều đóng vai trò

215
rất quan trọng và rất quyết định. Như ta đã thấy, chủ lực của ta có tác dụng trực tiếp quyết định
tiêu diệt chủ lực địch trong thế trận chung của chiến tranh nhân dân, trong sự phối hợp lực lượng
của cả chủ lực và địa phương.

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đến nay chúng ta đã rút ra 10 bài học kinh
nghiệm chủ yếu. Trong cuộc Hội nghị khoa học này, với chủ đề chính là tập trung tham luận về
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, nhưng các tham luận cũng đã đề cập đến tới một
phần rất quan trọng của những bài học kinh nghiệm ấy, mà tôi đã sơ bộ nêu những vấn đề trên.
Chắc chắn còn chưa đầy đủ, mong các đồng chí sẽ bổ sung thêm.

Thưa các đồng chí!

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 diễn ra chỉ gần hai tháng mà đã chứa đựng
biết bao bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu. Nhưng đấy chỉ là một thời kỳ ngắn của cả cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài 20 năm, với biết bao kinh nghiệm cực kỳ phong phú.

Trong cuộc hội nghị khoa học lần này, chúng ta đã nghe bài phát biểu quan trọng của đồng
chí Bộ trưởng về vấn đề chiến lược, về chiến lược cách mạng, chiến lược chiến tranh, chiến lược
quân sự và mối quan hệ giữa chúng. Đây là một hướng nghiên cứu rất quan trọng mà đồng chí
Bộ trưởng đã gợi ý; tất cả chúng ta, cả cán bộ chỉ huy và cán bộ khoa học quân sự - cả khoa học
lịch sử và khoa học phát triển cần tập trung nghiên cứu.

Hội nghị lần này đã bổ sung thêm nhiều tào liệu quý. Các công trình tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ đã và đang sắp hoàn thành cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh thêm. Các công
trình lịch sử kháng chiến chống Mỹ đang và sắp triển khai cần thu thập thêm tài liệu cho đầy đủ
hơn, toàn diện và sâu sắc hơn...

- HẾT -

216

You might also like