Professional Documents
Culture Documents
Chủ đề:Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, quá
trình thống nhất đất nước sau chiến tranh và thời kỳ bao cấp (trước
thời kỳ đổi mới năm 1986)?
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc đọ sức quyết liệt giữa dân tộc Việt
Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đó là một trong những cuộc chiến tranh giải phóng
lâu dài nhất, lớn nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Nhân dân Việt Nam.
Xét toàn cục về mặt chiến lược, nhân tố quyết định làm nên thắng lợi vĩ đại đó là vai trò
lãnh đạo của Đảng với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện; cùng với đó là sự chỉ
đạo chiến lược tài tình, sắc sảo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để đến với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, một trong những nguyên nhân, đồng
thời cũng là bài học sâu sắc nhất về sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược sáng suốt của Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh
cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Liện hệ trong thực tiện:
Chúng ta có thể rút ra mấy bài học kinh nghiệm quý báu sau: Một là, Trung ương Đảng,
Bộ Chính trị đã sớm đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngay sau khi
Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông
Dương được ký kết. Đánh giá đúng bản chất, âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 7/1954) chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của
nhân dân Đông Dương”. Những hoạt động của Mỹ ở miền Nam nước ta đã bộc lộ rõ dã
tâm của chúng muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của
Mỹ để chuẩn bị chiến tranh xâm lược mới nhằm đánh chiếm cả miền Bắc Việt Nam, đè
bẹp phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở khu
vực Đông Nam Á.
Đánh giá đúng kẻ thù, Hội nghị lần thứ 15 (1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa II) chỉ rõ: Mỹ - Diệm chẳng những là kẻ thù của nhân dân miền Nam đang bị
chúng thống trị mà còn là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam, của nhân dân miền Bắc đã
được giải phóng. Trong Diễn văn khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng họp tháng
9/1960, Đảng ta chỉ rõ: “Nhân dân ta từng chịu đau khổ vì bọn đế quốc và ngày nay còn
bị bọn Mỹ - Diệm chia cắt đất nước, giày xéo miền Nam. Ngày nào mà chưa đuổi được
đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn
bạo của Mỹ - Diệm thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon ngủ yên”3. Với quan điểm xem
xét khoa học, biện chứng và cách mạng, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (khoá II) Đảng
ta chỉ rõ: “Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là
chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân”4, Đảng ta khẳng định: Mỹ và tay
sai có quân đông nhưng không có cơ sở chính trị sâu rộng và vững chắc, tuy quân sự
chúng còn mạnh, nhưng chính trị của chúng lại rất yếu mà yếu nhất là ở nông thôn. Từ
đó, Đảng ta xác định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền
Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”5. Với chủ trương đúng đắn đó,
phong trào Đồng Khởi ở miền Nam Việt Nam đã nổ ra và nhanh chóng phát triển thành
cao trào, khởi nghĩa từng phần và giành thắng lợi, đưa cách mạng miền Nam vượt qua
thử thách, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Hai là, về sự lãnh đạo, chỉ đạo nắm thời cơ giành thắng lợi quyết định trong Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975. Để đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, cuộc
kháng chiến của quân dân ta phải trải qua đấu tranh lâu dài, gian khổ suốt 21 năm dòng
mới tạo được thời cơ kết thúc chiến tranh. Thời cơ trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử được tạo ra bởi sức
mạnh của Nhân dân trên cả hai miền đất nước.
Sau khi Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 được ký kết, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ta đã nắm vững thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm: “Động viên những nỗ lực
lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 2 năm 1974-
1975... hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng
công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ
Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam
trong năm 1975”6. Chiến thắng Chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Trị Thiên - Huế -
Đà Nẵng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn, hàng chục tỉnh,
thành phố, thị xã đã được giải phóng, gần một nửa binh lực quân nguỵ trên toàn miền
Nam đã bị tiêu diệt và tan dã. Khả năng tập trung lực lượng để tăng cường phòng thủ Sài
Gòn bị hạn chế. Bộ Chính trị nhận định: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược
lớn, chưa bao giờ ta có đủ điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời
cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc”7.
Ba là, nét nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp
chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy. Đó là sự kết hợp giữa những đòn tiến công quân sự
bằng các trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của bộ đội chủ lực đánh thẳng vào
các đô thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch và kết hợp chặt chẽ với sự nổi
dậy mạnh mẽ của quần chúng cách mạng, đập tan bộ máy kìm kẹp của ngụy quân, ngụy
quyền ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Để chỉ đạo các lực lượng đẩy nhanh
tiến công, trong bức điện gửi vào chiến trường 18 giờ 00 ngày 27/3/1975, Bộ Chính trị đã
chỉ thị: “Phải nhanh chóng phát động quần chúng vũ trang nổi dậy, đập tan các lực lượng
kìm kẹp ở cơ sở, chiếm lĩnh các công sở... và vận động binh sĩ địch bỏ súng đầu hàng,
làm tan rã các đơn vị quân ngụy”8. Sự nổi dậy mạnh mẽ của đông đảo nhân dân trên các
địa bàn từ nông thôn đến thành thị đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực tập trung lực lượng
vào mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công, nhanh chóng đập tan sự kháng cự của
địch. Lực lượng du kích đã cùng nhân dân bao vây, bức hàng, vận động địch ra trình
diện, giữ trật tự an toàn vùng mới giải phóng, bảo vệ các nhà máy, công sở, không để
địch phá hoại... Để chuẩn bị cho giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Trong bức điện gửi
Trung ương Cục miền Nam, 15 giờ 30 ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị chỉ thị: “… Sẵn sàng
phát động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tiến công của quân đội. Sự hợp đồng
giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành
động”9.
Bốn là, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết tiến hành
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi trọn vẹn. Đầu năm
1975, trên cơ sở đánh giá, so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ chiến lược
để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trước thời cơ đó, Bộ Chính trị,
Quân uỷ Trung ương nhận định: “Nắm chắc thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian
cao độ nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo
bất ngờ, làm cho địch không kịp dự kiến, không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụ giải
phóng Sài Gòn trước mùa mưa”10. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch
giải phóng Sài Gòn mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sài Gòn - Gia Định là hướng tiến
công chiến lược chủ yếu và cũng là mục tiêu chiến lược cuối cùng của ta. Thực hiện tư
tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, các đơn vị chủ lực của quân đội
ta đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn.
Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, để thực hiện cách đánh “thần tốc,
táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ta đã sử dụng đại bộ phận lực lượng tinh nhuệ thọc sâu kết
hợp các lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, mở đường cho các
binh đoàn đột kích cơ giới tiến nhanh theo các trục đường, đánh thẳng vào nội đô các
mục tiêu đã lựa chọn, kết hợp các lực lượng đánh từ ngoài vào với đánh từ trong ra khiến
cho quân địch bị chia cắt, phân tán và nhanh chóng bị đập tan. Đó là nét độc đáo sáng tạo
về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tiến công thần tốc, táo bạo và bất ngờ. Cách đánh đó đã
đưa lại hiệu quả to lớn, giành thắng lợi trong một thời gian ngắn. Thực hiện tư tưởng chỉ
đạo chiến lược Đảng, 5 cánh quân chủ lực hùng mạnh của ta tiến hành tổng tiến công vào
Sài Gòn - Gia Định cùng với sự phối hợp chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương và
phong trào nổi dậy mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, chúng ta đã đập tan sự kháng cự
của địch, buộc nội các chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đúng
11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung
bay trên nóc Dinh Độc lập, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi.
Đánh chết cái nết không chừa
Sau khi ký Hiệp định Paris về Việt Nam, Mỹ và các nước phụ thuộc buộc phải rút hết
quân ra khỏi miền Nam Việt Nam vào ngày 29/3/1973, song đế quốc Mỹ vẫn âm mưu
tiếp tục dùng ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh,” áp dụng chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam với chính
sách “Người Việt trị người Việt,” biến miền Nam thành một nước với “chế độ quốc gia”
thân Mỹ, có lợi cho Mỹ, mà thực chất là một thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Vì vậy, bằng
mọi cách, Mỹ-Ngụy ra sức bao vây, lấn chiếm vùng giải phóng của ta, cố tình tiêu diệt
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ ồ ạt đổ tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho
Ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1973, Mỹ đã viện trợ cho Ngụy 2.670 triệu USD, 700 máy
bay, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép, bổ sung vật tư dự trữ chiến tranh hơn 2
triệu tấn. Đồng thời, ráo riết bắt lính, tăng lực lượng vũ trang ở cơ sở để trực tiếp khống
chế nhân dân.
Cậy vào sức mạnh và sự viện trợ của Mỹ, quân Ngụy liên tiếp mở những cuộc hành quân
càn quét, “các chiến dịch tràn ngập lãnh thổ,” tàn sát đẫm máu đồng bào, chiến sỹ ta.
Cũng trong năm 1973, Ngụy quyền Sài Gòn đã tiến hành gần 10.000 cuộc tiến quân càn
quét, lấn chiếm vùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hành
quân cảnh sát-bình định trong vùng chúng kiểm soát để duy trì lực lượng răn đe của Mỹ ở
các vùng phụ cận Việt Nam, nhất là ở Lào và Campuchia. Đồng thời, tiếp tục tăng cường
các hoạt động ngoại giao để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Từ giữa
năm 1973, Mỹ không ngừng tiếp tay cho Ngụy lấn chiếm và bình định, điên cuồng đánh
phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng, gây cho ta những tổn thất nhất định, tiến tới thực hiện
âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta.
Bản lĩnh và trí tuệ của người việt với con đường khai mở đi đến đại thắng mùa xuân
năm 1975
Trước bối cảnh, tình hình ấy, Đảng ta kiên quyết đấu tranh để thực hiện Hiệp định Paris,
gìn giữ hòa bình và từng bước gây dựng, phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.
Đồng thời, chuẩn bị lực lượng để chống trả sự can thiệp của không quân và hải quân Mỹ
khi Ngụy quân Ngụy quyền Sài Gòn lâm vào tình thế khốn cùng, bị ta tiêu diệt.
Có thể khẳng định rằng Nghị quyết Trung ương XXI là văn kiện lịch sử trực tiếp chỉ đạo
cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến tranh,
giải phóng miền Nam Việt Nam. Nó là cơ sở lý luận-thực tiễn đặc biệt quan trọng để Hội
nghị Quân ủy Trung ương (tháng 3/1974) đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến
công địch, vận dụng linh họat trên cả ba vùng chiến lược. Nhờ đó đã góp phần quyết định
nhanh chóng việc xoay chuyển hẳn cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta. Đến
giữa năm 1974, trên toàn miền Nam ta đã xóa được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850
ấp với 1,15 triệu dân. Miền Bắc vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tăng cường sức người, sức
của vào miền Nam nhiều hơn bất kì thời gian nào trước đó
Ta ngày càng mạnh lên, Ngụy càng suy yếu rõ rệt, nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ
trầm trọng. Tuy nhiên, vào thời điểm đó đã xuất hiện thêm một số khó khăn mới, cả
Trung Quốc và Liên Xô đều chấm dứt viện trợ cho ta; Liên Xô chưa muốn ta đẩy mạnh
ngay chiến tranh giải phóng miền Nam, còn Trung Quốc muốn giữ nguyên hiện trạng để
có điều kiện mặc cả với Mỹ. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã
họp nhiều lần để thống nhất quyết tâm chiến lược và thông qua kế hoạch giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Về chiến lược, Đảng ta hạ quyết tâm giải phóng miền Nam
trong thời gian hai năm 1975-1976. Về kế hoạch chiến lược, ta xác định mục tiêu trong
năm 1975 là làm cho quân đội ta lớn mạnh vượt bậc. Nếu thời cơ đến sẽ mở nhiều đợt tấn
công nổi dậy, làm cho địch suy yếu nhanh chóng, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa
trong năm 1976, đánh lớn, đánh nhanh, đánh Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng
lợi cuối cùng.
Đến 29/3/1975, ta giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng và năm tỉnh Bắc Trung Bộ. Đến ngày
mùng 3/4/1975, ta đã quét sạch quân địch và giải phóng toàn bộ đồng bằng ven biển miền
Trung. Ngày 1/4/1975, căn cứ vào sự tấn công dồn dập như vũ bão của ta trên chiến
trường, Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam
trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để
chậm. Ngày 9/4/1975, ta bắt đầu cuộc chiến đấu tạo thế ở Đông Bắc, Tây Nam Sài Gòn
và đánh địch ở toàn miền Đông Nam Bộ với việc huy động lực lượng lớn nhất trong lịch
sử kháng chiến chống Mỹ, mở một chiến dịch tấn công quy mô nhất trong lịch sử chiến
tranh Việt Nam gồm bốn quân đoàn và một số đơn vị tương đương quân đoàn. Ngày
26/4/1975, ta bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia
Định, buộc Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào
11 giờ 30 ngày 30/4/1975, gây chấn động cực kỳ dữ dội đến đồng bằng sông Cửu Long
và Đông Dương.
Trong hai ngày 30/4-1/5/1975, đồng bào và chiến sỹ các tỉnh Đông Nam Bộ đã tiêu diệt,
bắt sống và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân địch và giải phóng toàn bộ vùng Đồng
bằng sông Cửu Long rộng lớn. Đến đây ta đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc chiến
tranh chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành trọn vẹn cách mạng dân chủ nhân dân trên cả
nước, thực hiện tốt lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào." Phát huy thắng lợi trên chiến trường miền Nam Việt Nam, được sự hỗ trợ của
quân và dân ta, nhân dân Campuchia dành thắng lợi ngày 17/4/1975, nhân dân Lào giành
thắng lợi vào tháng 12/1975. Đó là kết quả của hơn 21 năm dài đằng đẵng quân và dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không tiếc máu xương, không sợ hy sinh, gian khổ, đã anh
dũng chiến đấu, giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa giang
sơn gấm vóc về một mối; đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thiên anh hùng ca vĩ đại
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đại thắng mùa
Xuân 1975 là một trong những chiến công chói lọi nhất, đánh dấu bước ngoặt quyết định
đưa đất nước ta bước hẳn vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. 47 năm đã
qua kể từ ngày Đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong gần năm thập niên ấy có biết bao đổi thay và
biến động; nhân dân ta dưới sự lạnh đạo của Đảng đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước và đã đạt được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thời gian càng
lùi xa và những sự kiện chính trị, quân sự trong nước và thế giới càng làm chúng ta nhận
thức sâu sắc hơn tầm vóc, giá trị, ý nghĩa của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó cho phép chúng ta lý giải vì sao Việt Nam,
một nước nhỏ, đất không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã đánh
thắng đế quốc Mỹ, một cường quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất trong các nước
tư bản.
Lý luận và thực tiễn quân sự thế giới đều khẳng định rằng chúng ta đánh thắng đế quốc
Mỹ vì cuộc chiến tranh của nhân dân ta chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh xâm
lược, phi nghĩa do đế quốc Mỹ thực hiện để giành và giữ vững độc lập dân tộc, quyền
sống làm người. Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta là một
cuộc đấu tranh giai cấp cực kỳ quyết liệt. Ta nêu cao ngọn cờ độc lập, tự do, ngọn cờ giải
phóng dân tộc, quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ không chỉ để hoàn thành cuộc
cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước mà còn giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa
hai thế lực cách mạng và phản cách mạng, giữa một bên muốn biến miền Nam Việt Nam
thành “sân sau của chủ nghĩa tư bản,” đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản với một
bên là chúng ta, kiên quyết đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho nên cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là thắng lợi vẻ vang của Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 sáng ngời chính nghĩa của nhân dân ta, vừa mang tính chất
giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc. Do đó, tiến hành kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là một cuộc chiến tranh cứu nước của cả dân tộc ta, không thể chia
cắt, không thể tách rời Nam Bắc. Điều đó đã được nhân dân ta đồng thời thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược nhằm một mục tiêu chung là bảo vệ miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Biện chứng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gần
21 năm do nhân dân ta tiến hành biểu hiện ở chỗ có kiên quyết chiến đấu để giải phóng
miền Nam mới bảo vệ được miền Bắc và có bảo vệ vững chắc miền Bắc mới có điều kiện
để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước với Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả sinh động của tình đoàn kết, của
liên minh chiến đấu giữa Việt Nam, Lào và Campuchia. Với bản chất, âm mưu xâm lược,
với tham vọng độc chiếm bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ muốn xâm chiếm cả Việt
Nam, Lào và Campuchia, dùng nước này để làm bàn đạp và uy hiếp, xâm lược nước kia,
biến Đông Dương thành một chiến trường, thị trường có lợi cho Mỹ. Hiểu rõ âm mưu
thâm độc ấy, ba dân tộc láng giềng Việt Nam, Lào, Campuchia đã đoàn kết chung một
mục tiêu chiến đấu chống một kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và tay sai. Kể từ khi Đảng
Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo cách mạng ba nước, mối tình đoàn kết, gắn bó,
tự nguyện liên minh với nhau hình thành mặt trận nhân dân Đông Dương ngày càng vững
chắc, kết thành một khối liên minh kháng chiến chống đế quốc xâm lược. Đó là cội
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vẻ vang của mỗi dân tộc Việt Nam, Lào,
Campuchia.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, dấu mốc quan trọng đánh dấu sự kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mang tính chất và ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Bởi lẽ, xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ không chỉ nhằm đánh bại cách mạng Việt Nam,
sâu xa hơn nó còn có mục đích thí nghiệm, rút kinh nghiệm qua thử nghiệm để đối phó
với cách mạng thé giới, răn đe, ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Qua đó, tranh giành ảnh hưởng với các đế quốc khác trên các lục địa để
thực hiện mục tiêu chiến lược toàn cầu, tiến tới thống trị châu Âu và thế giới.
Vì vậy, Việt Nam đã trở thành trung tâm đối phó chiến lược toàn cầu của Mỹ. Điều đó
thể hiện rất rõ mỗi thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến chiến
lược toàn cầu của Mỹ. Cho nên, đế quốc Mỹ không chỉ là kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta
mà còn là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đứng lên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
Việt Nam đã trở thành tuyến đầu của phong trào giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa
thực dân mới, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Cho nên Đại thắng mùa Xuân
năm 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta đã đánh thắng kẻ
thù lớn nhất của thời đại, kẻ thù chung của cả loài người tiến bộ. Vì lẽ đó, nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới, đặc biệt nhân dân các nước chủ nghĩa xã hội anh em như Trung
Quốc, Liên Xô và các nước khác đã ủng hộ nước ta cả về vật chất và tinh thần. Đại thắng
mùa Xuân năm 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa.”
Sự lãnh đạo của Đảng - Nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975
Bao trùm lên tất cả là sức mạnh lãnh đạo tài tình, thao lược và sáng tạo của Đảng ta.
Đảng đã biết khai thác, khơi dậy mọi tiềm năng thế mạnh của nhân tố con người và kết
hợp chặt chẽ các nhân tố đó với nhau thành một tổng hợp lực nhằm cùng một hướng để
tăng sức mạnh lên gấp bội.
Đó là sức mạnh của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, sức mạnh của đường lối đúng đắn, sáng
tạo, sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của việc kết hợp chặt chẽ lợi ích
cơ bản của nhân dân ta với những mục tiêu của thời đại; kết hợp cả đường lối cách mạng
và phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp, kể cả lực lượng chính
trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông
thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị và ngoại giao; kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến
công’ đánh địch cả trên ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng thành thị;
đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân: bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đồng thời, Đảng biết tạo thời cơ và
nắm vững thời cơ, biết mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến
tranh, tiến lên thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch và giành chiến
thắng cuối cùng là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta sau 21 năm dài đằng đẵng, thực hiện thống nhất Tổ quốc, Nam
Bắc xum họp một nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều đấy khẳng định rằng nhân
dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ là vì chúng ta mạnh hơn đế quốc Mỹ. Điều này đã được lý
luận và thực tiễn quân sự thế giới khẳng định trong chiến tranh, không bao giờ có chuyện
may rủi, tình cờ. Bên thắng phải là bên mạnh hơn, còn bên thua nhất định là yếu hơn.
Việc Mỹ phải quấn cờ về nước sau Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 và Đại thắng
mùa Xuân năm 1975 là minh chứng hùng hồn đầy thuyết phục, đã nói lên điều sâu sắc ấy.
Trong quá khứ đã là như vậy thì trong hiện tại và tương lai, chắc chắn, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt, tài tình của Đảng, các thế hệ con cháu thời đại Hồ Chí Minh vẫn sẽ tiếp tục sự
nghiệp vẻ vang ấy. Tôi tin là như vậy vì ngoài hạnh phúc của Nhân dân, Đảng ta không
có lợi ích nào khác. Tin yêu và đi theo Đảng, chúng ta không thể làm khác, dân tộc Việt
Nam không thể sống khác, dù thời cuộc có thay đổi, song phẩm chất nhân cách, văn hóa
dân tộc của con người Việt Nam không thể đổi thay. Hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh để
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã nói lên điều ấy.
Chương 3
3 Kết quả ý nghĩa
Kết quà của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch quân
sự lớn nhất của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam
đã kết thúc với sự tan rã hoàn toàn của quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Kết
quả của chiến dịch này là sự thống nhất, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trên đất
liền, vùng trời, vùng biển của Việt Nam sau hơn 100 năm bị nước ngoài chiếm đóng và
chia cắt. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, riêng quân dân Sài Gòn - Gia Định đã diệt và
làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống 12.619 tù binh, chiếm 9 căn cứ quân sự, 5 chi khu,
21 phân chi khu và trụ sở tề... thu 12.275 súng và gần như toàn bộ hồ sơ các cơ quan từ
Phủ tổng thống trở xuống. Số ngụy quân lần lượt ra trình diện là 40 vạn và số công an
cảnh sát là 10 vạn. và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ
lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát thuộc Quân khu 3 của QLVNCH và lực lượng dự
bị là tàn quân của Quân đoàn 1 và 2 của QLVNCH rút về, tổng cộng trên 45 vạn quân.
Thu 500 khẩu pháo, hơn 400 xe tăng, xe thiết giáp, 800 máy bay, 600 tàu chiến, 270.000
khẩu súng các loại, 3000 xe quân sự và toàn bộ kho tàng.
Nguyên Nhân thắng lợi
Sức mạnh của tinh thần đoàn kết quân dân đoàn kết dân tộc
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, lại được sự đồng
tình và ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc
Ta có miên Băc lam nghia vụ hâu phương lớn chi viên cho miền Nam
Sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước .Kết hợp với cách đánh phối hợp trong
lẫn ngoài của quân ta.
Đó là toàn bộ những nhân tố tạo sức mạnh, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
3.1 ý nghĩa
Từ một đất nước bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ,
Việt Nam đã giành lại nền độc lập dân tộc sau gần một thế kỷ mất nước và trở thành một
quốc gia độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền được quốc tế thừa nhận… Với đại
thắng mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của các nước
đế quốc, đất nước vĩnh viễn thoát khỏi họa bị chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ những thành
quả bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa cả nước bước vào kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đứng vào hàng ngũ
các quốc gia,dân tộc tiên phong trên thế giới. Qua Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng
ta, nhân dân ta, quân đội ta được rèn luyện cả về phẩm chất lẫn tài năng, càng nhận thức
sâu sắc hơn vị trí và sức mạnh của mình trong thời đại mới. Đồng thời, vị thế và uy tín
của Việt Nam được nâng lên ngang tầm các nước, các dân tộc trên thế giới. Đại thắng
mùa Xuân năm 1975 là sự kiện quan trọng vừa đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch
sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, lại còn có ý nghĩa quốc tế to
lớn. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta thắng lợi đã thức tỉnh, cổ vũ
các dân tộc bị áp bức trên thế giới đứng lên dũng cảm đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân cũ và mới.