Professional Documents
Culture Documents
Khi thảo luận và thông qua dự thảo kế hoạch lần cuối, Bộ Chính trị nhận
định:’’ Cả năm 1975 tiến công quân sự mạnh, tạo nên phong trào chính trị,
thúc đẩy thời cơ,… có thể tạo ra thời cơ mới với nhiều thuận lợi mới, thậm
chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến mà ta chưa lường hết được. Thời
cơ lớn tạo ra một ngày bằng 20 năm, nếu bỏ lỡ thời cơ là có tội với dân tộc.’’
Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm
1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Do đó, bên cạnh kế
hoạch hai bước trên đây (kế hoạch cơ bản), Tổng hành dinh còn xây dựng
một kế hoạch thời cơ, giải phóng miền Nam sớm hơn hai năm.
Những quyết định của Hội nghị Bộ chính trị cuối 1974 đầu 1975 là ngọn
đuốc soi đường dẫn đến đại thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân 1975. Hội nghĩ đã phân tích, đánh giá chính xác về tình hình tiến công,
phương án hành động với tinh thần quyết tâm cao độ chờ đợi thời cơ.
- Chiến thắng Tây Nguyên đã đẩy đối phương vào thế bị động, lúng túng,
tác động đến tinh thần binh sĩ địch trên khắp chiến trường; cổ vũ, động
viên mạnh mẽ tinh thần và khí thế tiến công của quân, dân ta ở tiền tuyến
và hậu phương, củng cố quyết tâm chiến đấu và lòng tin của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta vào thắng lợi cuối cùng.
- Chiến thắng Tây Nguyên chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ của quân
và dân ta sang giai đoạn mới: từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát
triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Sau khi mất hoàn toàn Quân khu I và Quân khu II. Nguyễn Văn Thiệu ra
sức phòng vệ cho quân khu III và Quân khu IV. Chúng tập hợp tàn quân,
củng cố lực lượng và bố phòng từ xa với quyết tâm giữ lại Phan Rang trở
vào Nam, ngăn chặn hướng tiến công của quân ta cho đến mùa mưa 1976.
Nguyễn Văn Thiệu cho rằng cầm quân đến lúc đó, ta sẽ suy yếu và Quân
đội Sài Gòn có thời gian để phản kích chiếm lại một số vùng và chèn ép
ta trên bàn đàm phán.
Về phía Mĩ, để giúp chính quyền Sài Gòn, Pho cho lập cầu hàng không
khẩn cấp chuyên chở vũ khí, trang bị cho quân đội Sài Gòn.
Thời cơ đã chín muồi, lực lượng địch đang nao núng, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng nhận định:’’ Thời cơ đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm
quyết tâm giải phóng miền Nam’’. Quyết định mở cuộc tổng công kích,
tổng khởi nghĩa vào Sài Gòn- Gia Định và nhấn mạnh:’’ Phải tập trung
nhanh nhất lực lượng, binh khí kĩ thuật và vật chất, giải phóng miền Nam
trước mùa mưa.’’
Để chuẩn bị, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ tư lệnh và Đảng uỷ
mặt trận vào ngày 3/4. Quyết định tên chiến dịch đánh vào Sài Gòn- Gia
Định là ‘Chiến dịch Hồ Chí Minh’
Đầu tháng 4/1975, nhân dân đã sống trong những ngày hào hùng, quyết
thắng. Cả dân tộc rộn ràng trong mùa Xuân với tinh thần ‘ Đánh nhanh
đến, đánh nhanh thắng’ với khẩu quyết ‘Thần tốc, bất ngờ, táo bạo, chiến
thắng’.
- Diễn biến:
Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn, ta tiến công
Xuân Lộc, Phan Rang từ ngày 9/4/1975
Ngày 21/4, thị xã Xuân Lộc và tỉnh Long Khánh hoàn toàn
giải phóng, cánh cửa phía đông Sài Gòn đã mở sẵn đón quân
ta tiến vào trận chiến quyết liệt cuối cùng.
Quân đoàn II tiến vào Sài Gòn, trong quá trình hành quân, ta
tiêu diệt căn cứ phòng thủ của địch ở Phan Rang (16/4), giải
phóng tỉnh Ninh Thuận, một số ven biển khu VI và một loạt
hải đảo miền Trung, trong đó có các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa- Việt Nam.
Do các phòng tuyến phòng thủ bị chọc thủng và Phnom Penh
được giải phóng, nội bộ Mĩ và chính quyền Sài Gòn càng
thêm hoảng loạn. Ngày 18/4/1975, tổng thống Mĩ ra lệnh di
tàn hết người Mĩ khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4, Nguyễn Văn Thiệu
từ chức tổng thống.
17h ngày 26/4, năm cánh quân, với lực lượng 5 quân đoàn và
tương đương quân đoàn, nhanh chóng vượt qua các tuyến
phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn,
đánh chiếm cơ quan đầu não của địch.
10h45’ ngày 30/4/1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào
Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Chính phủ trung ương Sài Gòn,
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
11h30’, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh Độc Lập, báo
hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Cùng thời gian đó, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh
còn lại tiến công và nổi dậy, theo phương thức xã giải phóng
xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh. Ngày
2/5/1975, Châu Đốc là tỉnh cuối cùng của miền Nam được giải
phóng.
Đây là chiến dịch tiến công chiến lược binh chủng hợp thành có quy mô
lớn nhất trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Chiến dịch được thực
hiện trong tình huống hai bên mặt đối mặt, cùng biết rõ ý đồ và lực lượng
của nhau, khó tạo nên yếu tố bất ngờ ngay cả trong phạm vi chiến thuật,
do đó, là bước phát triển về nghệ thuật chỉ huy. Ta tiến công trên tất cả
các hướng, tạo thành thế hợp vây ngay từ đầu, khiến địch chỉ còn cách
chấp nhận tác chiến hoặc đầu hàng. Trong đột phá chiến dịch ta vừa đánh
địch phòng ngự vòng ngoài, vừa dùng các binh đoàn mạnh thọc thẳng vào
chiều sâu và đầu não địch, đánh quỵ địch nhanh chóng. Lần đầu tiên ta sử
dụng bộ đội tăng thiết giáp tập trung ở quy mô binh đoàn (lữ đoàn), đảm
nhiệm một hướng tiến công chủ yếu với tính chất là đoàn (lữ đoàn), đảm
nhiệm một hướng tiến công chủ yếu với tính chất là cụm cơ động thọc
sâu phát huy được sức đột kích nhanh và tăng cường khả năng tác chiến
trong hành tiến. Về chỉ đạo chiến lược, ta đã kết hợp chiến dịch với tiến
công chiến lược trên toàn chiến trường, giành thắng lợi hoàn toàn.
III- ĐÁNH GIÁ
1. Nghệ thuật quân sự
1. Nghệ thuật quân sự áp đảo quân số. Dù quân địch đông hơn và trang bị
vũ khí hiện đại nhiều hơn nhưng ta chọn chiến thuật tập trung vào điểm
yếu mà địch sơ hở. Ví dụ: chiến dịch tây nguyên.
2. Nghệ thuật kết hợp trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao. Đặt
dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của Đảng. Chiến thắng về chính trị
và quân sự tạo điều kiện cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao và thắng
lợi trên mặt trận ngoại giao phản ánh thắng lợi trên mặt trận chính trị và
quân sự.
3. Nghệ thuật kết hợp tấn công và nổi dậy 3 thứ quân. Ta vừa kết hợp
những đợt tấn công trực tiếp với các đợt nổi dậy từ trong lòng địch. Ví dụ
trong cả 3 chiến dịch trên thì công của những người hoạt động dưới lòng
địch tình báo. Hay như nhiều người dân giúp đỡ cho bộ đội giải phóng.
4. Nghệ thuật kết hợp hiệp đồng binh chủng: Đây là lần đầu tiên ta kết
hợp các quân đoàn cùng nhau tác chiến. Bộ binh pháo binh binh chủng
tăng thiết giáp... Từng bước đập tan hệ thống phòng thủ địch.
5. Nghệ thuật "đánh liên hồi" đánh sáng tạo. Ta theo dõi tình hình chiến
sự kỹ càng khi có cơ hội thì mở đồng loạt chiến dịch kế tiếp. Tiêu biểu là
khi đang tiếp diễn chiến dịch tây nguyên, ta lại mở thêm Huế -Đà Nẵng.
6. Nghệ thuật đánh sáng tạo: Bộ chính trị có lối đánh cô cụm tiêu diệt
địch. Chiến dịch tây nguyên và Huế- Đà Nẵng là ví dụ điển hình.
7. Kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Từ đấu tranh
chính trị phát triển lên khởi nghĩa, sau đó là chiến tranh giải phóng. Khởi
nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh
cách mạng.
Còn ở chiến dịch Hồ Chí Minh thì ta vừa đánh địch ở hệ thống phòng thủ
ngoài vừa kết hợp lực lượng bên trong làm địch tan rã.