You are on page 1of 22

ĐẠI HỌC UEH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

CHỦ ĐỀ 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN


CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, THỰC HIỆN HOÀ BÌNH,
THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ (1954 – 1975)

Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 04 năm 2023


TỶ LỆ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC THÀNH VIÊN
Mức độ hoàn
STT Họ và Tên Công việc được phân công
thành (%)
1 Nguyễn Tấn An Thuyết trình (phần 2c) 100%
Nhóm trưởng, Kĩ thuật
2 Lê Thị Lan Anh 100%
(Powerpoint), tổng kiểm tra
3 Tăng Thiên Bảo Thuyết trình (phần 1a) 100%
4 Trần Thùy Duyên Nội dung (phần 2), Phản biện 100%
5 Nguyễn Hồng Hải Nội dung (phần 1), Phản biện 70%
6 Phan Quốc Khang Kĩ thuật (Word) 90%
7 Huỳnh Tiên Kim Thuyết trình (phần 2ab) 100%
8 Nguyễn Trịnh Thảo Linh Nội dung (phần 3), Phản biện 70%
9 Trần Thị Diệu Ngân Nội dung (phần 1), Phản biện 100%
10 Trương Khánh Ngọc Nội dung (phần 1), Phản biện 100%
11 Trịnh Yến Nhi Kĩ thuật (Powerpoint) 80%
12 Phạm Ngọc Phụng Nội dung (phần 3), Phản biện 100%
13 Nguyễn Nam Phương Thuyết trình (phần 1b + 3) 100%
14 Lê Thị Quỳnh Nội dung (phần 2), Phản biện 100%
15 Nguyễn Anh Thư Nội dung (phần 2), Phản biện 100%
16 Trần Thị Hoài Thương Nội dung (phần 3), Phản biện 70%
17 Sẫm Hạ Vy Kĩ thuật (Word) 90%
MỤC LỤC
1. Sự lãnh đạo của Đảng với cách mạng hai miền Nam – Bắc (1954-1965) ...... 1
1.1. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954-1960) ....... 1
1.2. Xây dựng CNXH ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng
miền Nam (Đại hội III) (1961-1965) ................................................................ 4
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965-1975) .................................................... 6
2.1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng ........................... 6
2.2. Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc; giữ vững thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược Chiến tranh
cục bộ của đế quốc Mỹ (1965-1968) ................................................................ 8
2.3. Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-1975) .................................................... 9
3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954-1975 ........14
3.1. Nguyên nhân thắng lợi ...........................................................................14
3.2. Ý nghĩa lịch sử .......................................................................................15
3.3. Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng.............................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................19
1. Sự lãnh đạo của Đảng với cách mạng hai miền Nam – Bắc (1954-1965)

1.1. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng
miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954-1960)
Hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954:

1.1.1. Ở miền Bắc

Thuận lợi: Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh; phong trào giải phóng dân tộc tiếp
tục phát triển; phong trào hòa bình, dân chủ lên cao; miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến.

Khó khăn: đất nước bị chia cắt thành hai miền, miền Nam bị biến thành thuộc địa
kiểu mới của đế quốc Mỹ, miền Bắc nền kinh tế sau chiến tranh còn rất nghèo nàn,
lạc hậu; thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh; xuất hiện sự bất đồng trong hệ
thống XHCN. Tình hình trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải
vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.

Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt để sớm đưa miền
Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến tranh, hàn gắn vết thương chiến tranh,
phục hồi kinh tế quốc dân.

Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công
khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách
mạng.

Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hoà bình được lập lại, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo
đúng lịch trình quy định. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán
bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu

1
tranh chống địch cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình. Trước tinh thần đấu tranh
của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định. Ngày 10-10-1954,
người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn
chinh Pháp và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.

Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục
sản xuất nông nghiệp, cải cách ruộng đất, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho
nông nghiệp. Việc khôi phục công nghiệp, giao thông vận tải cũng hoàn thành.

Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Đến
tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và
miền núi. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách ruộng đất, ta đã phạm phải một số sai
lầm nghiêm trọng. Nguyên nhân là do chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình
hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở
nông thôn miền Bắc. Đảng chỉ đạo công tác sửa sai trong năm 1956-1957, từng
bước khắc phục được những sai lầm đã xảy ra.

Tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra
kế hoạch ba năm – phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960). Kết quả đã tạo nên những
chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc
được củng cố, từng bước đi lên CNXH và trở thành hậu phương ổn định, vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

1.1.2. Ở miền Nam

Từ năm 1954, đế quốc Mỹ thiết lập bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa do
Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, ráo riết thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”,
lập “khu trù mật”, “khu dinh điền” nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những
người yêu nước kháng chiến cũ, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi thi hành
Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân. Mục đích của Mỹ là muốn chia cắt

2
lâu dài đất nước Việt Nam, biến miền Nam thành căn cứ chống phe XHCN và là
thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

Xuất phát từ bối cảnh đó, Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự
sang đấu tranh chính trị, đòi đối phương phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, tiếp tục
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hội nghị lần thứ 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954) xác định Mỹ là
kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam
bộ được thành lập, do Lê Duẩn làm Bí thư. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng
của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đề cương
cách mạng miền Nam, chỉ rõ “ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam
không có con đường nào khác”.

Tháng 3-1959, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình
trạng chiến tranh”. Với luật 10/59, chúng lê máy chém đi khắp miền Nam, dùng
Tòa án quân sự đặc biệt để đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn giết tại chỗ.

Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15, ra Nghị
quyết về cách mạng miền Nam, xác định Nhiệm vụ cơ bản: giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người
cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tư
tưởng chỉ đạo quan trọng cho cách mạng Việt Nam ở miền Nam là phải dùng cách
mạng bạo lực để tự giải phóng mình. Phương hướng phát triển cơ bản là khởi nghĩa
giành chính quyền. Nghị quyết 15 mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên;
thể hiện rõ năng lực bám sát thực tiễn cuộc sống, bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng trong thời kỳ khó khăn của cách mạng.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, nhân dân miền Nam đã tiến hành một số cuộc
khởi nghĩa vũ trang, hình thức là khởi nghĩa đồng loạt (đồng khởi), bắt đầu bùng
nổ ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, sau đó lan ra các huyện khác. Hệ thống kìm kẹp

3
của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng lớn. Thắng lợi của phong trào Đồng
Khởi là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, chuyển cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Từ thắng lợi của phong trào Đồng Khởi, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam được thành lập nhằm tập hợp rộng rãi quần chúng,
nhân dân đoàn kết đấu tranh theo chương trình hành động 10 điểm, hướng tới mục
tiêu đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô
Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới
thống nhất nước nhà.

1.2. Xây dựng CNXH ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền
Nam (1961-1965)

1.2.1. Bối cảnh lịch sử của Đại hội III

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt
Nam vừa hoàn thành khôi phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải cách
ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp; trong khi ở miền Nam, phong trào
chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ nổ ra từ cuối năm 1959 và trở thành
Phong trào Đồng Khởi từ đầu năm 1960.

1.2.2. Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc

Sau khi hoàn thành việc khắc phục hậu quả do cuộc kháng chiến chống Pháp để lại
và thực hiện những nhiệm vụ bước đầu của chính quyền dân chủ nhân dân theo
kinh nghiệm của Liên Xô và Đông Âu sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Đại hội
quyết định sẽ đưa miền Bắc đi lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa ra nhận định
về công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lí, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ ở miền
Bắc. Đảng ta xác định: sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đóng vai
trò quyết định nhất với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và với sự

4
nghiệp thống nhất nước nhà. Đại hội khẳng định đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

1.2.3. Nhiệm vụ cách mạng miền Nam

Do Pháp không thực hiện Tổng tuyển cử theo Hiệp định và việc vận động thực
hiện Hiệp định bị chính quyền Diệm đàn áp, cũng như do sợ thất bại, dẫn đến Việt
Nam chưa thể thống nhất được. Vì lẽ đó, Đại hội đã quyết định sẽ tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và nhận định cuộc cách mạng này
đóng vai trò quyết định trực tiếp với sự nghiệp giải phóng miền Nam.

1.2.4. Quan hệ cách mạng hai miền Nam – Bắc

Đại hội nhận định cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn
nhau nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện hòa bình thống nhất đất nước. Miền Bắc tăng gia sản xuất, là hậu phương
cung cấp sức người sức của cho tiền tuyến miền Nam tiến lên hoàn thành thắng lợi
cách mạng, thống nhất toàn vẹn nước nhà.

1.2.5. Ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(tháng 9/1960)

a) Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất đất nước.

Đại hội đã thảo luận và đánh giá cách mạng hai miền Nam – Bắc nước ta đang có
những bước tiến quan trọng. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách
mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền.

b) Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.

Đại hội đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu của cách mạng nước ta trong
30 năm qua và xác định việc xây dựng Đảng Mác-Lênin đoàn kết nhất trí, liên hệ

5
chặt chẽ với quần chúng, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng, tăng
cường đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Sự đoàn kết, nhất trí của
Đại hội là hạt nhân đoàn kết nhân dân cả nước, là nguồn sức mạnh dẫn đến các
phong trào cách mạng mới ở hai miền Nam – Bắc.

c) Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta xây
dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống
nhất nước nhà”.

Đường lối cách mạng do Đại hội vạch ra là ngọn đèn pha sáng ngời, chiếu rọi con
đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất nước nhà, tiến
tới một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Thành công của Đại hội lần thứ III của Đảng là cơ sở cho “toàn Đảng và toàn dân
ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây
dựng. Chúng ta tiến lên”.

2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965-1975)

2.1.Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng

Thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã thực hiện chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam, đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ
vào trực tiếp tham chiến, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965)
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong
toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam
chí Bắc.

Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam,
6
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà.

Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh
càng mạnh; cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền
để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong
thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.

Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển
thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công, đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược. Trong giai đoạn này, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp
và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp
tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có
chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN; động viên sức người, sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến giải phóng miền Nam.

Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu
phương lớn. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau.
Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”.

Ý nghĩa của đường lối: Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng,
được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12, có ý nghĩa hết
sức quan trọng: thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ; nắm vững, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH; thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh
mới.

7
2.2.Xây dựng hậu phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc; giữ vững thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược Chiến
tranh cục bộ của đế quốc Mỹ (1965-1968)

Sau khi dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” vào năm 1964, đế quốc Mỹ dùng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Với mưu đồ đưa miền Bắc trở về
thời kỳ đồ đá, Mỹ đã huy động lực lượng lớn không quân và hải quân, trút hàng
triệu tấn bom đạn, gây nên nhiều tội ác tày trời với nhân dân ta.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương:

Một là, kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có
chiến tranh phá hoại.

Hai là, tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình cả
nước có chiến tranh.

Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến
trường chính miền Nam.

Bốn là, phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình
hình mới.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào chống
Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu: các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba
đảm đang”, “Tay cày tay súng”, “Tay búa, tay súng”; trong chiến đấu có “Nhằm
thẳng quân thù mà bắn”; trong chi viện tiền tuyến có “Thóc không thiếu một cân,
quân không thiếu một người”; trong bảo đảm giao thông vận tải có “Xe chưa qua,
nhà không tiếc”.

Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam – Bắc, tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên
bố hạn chế ném bom miền Bắc, và ngày 1-11-1968, Mỹ buộc phải chấm dứt không
điều kiện đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.

8
Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế, miền Bắc đã
đạt được những thành tích đáng tự hào trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, chi viện tiền tuyến lớn miền Nam.

Ở miền Nam, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trong mùa khô năm
1965-1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã huy động 70 vạn quân thực hiện mục tiêu
“tìm diệt” quân giải phóng và “bình định” các vùng nông thôn đồng bằng quan
trọng.

Quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu chống lại chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ và tay sai, với các chiến công như đánh thắng quân chiến đấu Mỹ ở
Núi Thành (5-1965), Vạn Tường (8-1965),… bẻ gãy cuộc phản công chiến, làm
thất bại kế hoạch của địch.

Cuối năm 1967, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ được đẩy đến đỉnh cao,
mọi thủ đoạn và biện pháp chiến tranh đều được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ
vẫn không sao thực hiện được các mục tiêu chính trị và quân sự mà chúng đã đề ra.

Ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III)
đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, bè
bạn, mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm.

Đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt một đã được phát
động trên toàn miền Nam. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ phá
sản, phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam từ ngày 13-5-1968 tại Paris.

2.3.Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đấu giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1969-1975)

Tháng 11-1968: Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn
hạn nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc và
tăng cường lực lượng cho miền Nam.

9
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hưởng thọ 79 tuổi.

Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Từ 1969 - 1972: tình hình khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội
có chuyển biến tốt đẹp trên nhiều mặt:

 Trong nông nghiệp: năm 1969 diện tích các loại cây trồng đều vượt năm
1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh.

 Trong công nghiệp: hầu hết các xí nghiệp bị địch đánh phá đã được khôi
phục, sửa chữa. Hệ thống giao thông, cầu phà, bến bãi được khẩn trương
khôi phục và xây dựng thêm.

 Trong y tế, giáo dục: có bước phát triển tốt so với trước, nhất là hệ thống
giáo dục đại học, tăng lên 36 trường và phân hiệu với hơn 8 vạn sinh viên.

➔ Những kết quả đạt được đã làm tăng cường tiềm lực mọi mặt của hậu phương
lớn miền Bắc, cải thiện đời sống nhân dân, hồi sinh một phần cuộc sống bình
thường, cho phép miền Bắc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng
cao, góp phần quyết định tạo nên chiến thắng to lớn trên chiến trường miền Nam.

Từ tháng 4-1972: đế quốc Mỹ cho máy bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là đợt rải thảm bom 12 ngày
đêm bằng pháo đài bay B.52 tại Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác.

Từ ngày 18 đến 30-12-1972: quân dân miền Bắc đã vừa sản xuất vừa chiến đấu,
trong 12 ngày đêm, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.

Ngày 15-1-1973: Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền
Bắc nước ta. Thắng lợi của ta đã buộc đế quốc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán, ký

10
kết Hiệp định Paris (27-1-1973), công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất của
nước Việt Nam, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Hiệp định Paris (27/1/1973):

Hiệp định Paris về Việt Nam (hay Hiệp định Paris 1973, Hiệp định Ba Lê) là hiệp
định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa
Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Cộng hòa ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973. Về mặt công khai thì đàm
phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản Hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố
10 điểm ngày 8 tháng 5 năm 1969 của phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam,
nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định
bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ.

Nội dung Hiệp định: được chia thành 9 chương, nói về các chủ đề mà về cơ bản
giống như trong bản dự thảo 9 điểm mà Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã thống nhất với nhau vào tháng 10 năm 1972, với xương sống là tuyên bố 10
điểm của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam trước đó.

Các nhân vật đại diện chính thức cho các bên ký kết:

 William P. Rogers, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.


 Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
 Trần Văn Lắm, Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa.
Các nhân vật chủ chốt tham gia đàm phán:
 Lê Đức Thọ: Cố vấn Đặc biệt, Lãnh đạo đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Xuân Thủy: Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
 Henry Kissinger: Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ.

11
 Henry Cabot Lodge, Jr., Trưởng đoàn đàm phán Hoa Kỳ.
Ở miền Nam, từ đầu năm 1969: Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, với âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”.

Ngày 1-1-1969: Đảng ta đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến lược, thể hiện
trong Thư chúc mừng năm mới của Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ
Chính trị (6-1970) đã đề ra chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh”, lấy nông thôn làm hướng tiến công chính, tập trung ngăn chặn và
đẩy lùi chương trình “bình định” của địch.

Năm 1970-1971: ta đã tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, gây tổn thất to
lớn cho Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa
chiến tranh”.

Năm 1971: quân dân Việt Nam phối hợp với quân dân Lào chủ động đánh bại cuộc
hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ – ngụy đánh vào Đường 9 – Nam
Lào; cùng với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng 1-1971”
của Mỹ – ngụy đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông – Bắc Campuchia.

Vào mùa xuân – hè năm 1972: quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy
mô lớn ở Trị – Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9.

Ngày 27-1-1973: ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam”.

Tháng 7-1973: Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã
nêu rõ:

 Con đường cách mạng ở miền Nam: con đường bạo lực cách mạng.

12
 Nhiệm vụ: giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách
mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản.

 Tư tưởng chỉ đạo: tích cực phản công, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Cuối năm 1973 và năm 1974: quân và dân ta ở miền Nam đã liên tiếp giành được
thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, từ Trị – Thiên đến Tây Nam bộ và
vùng ven Sài Gòn.

Chiến thắng này khẳng định quân chủ lực của ta đã mạnh hơn quân chủ lực của
địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi.

Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 (từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974) và đợt 2 (từ ngày
8-12-1974 đến ngày 7-1-1975) đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền
Nam:
Hội nghị Bộ Chính trị họp đợt 1 (từ ngày 30-9 đến 8-10-1974):

Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai
năm 1975-1976 theo tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng
khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa, giải
phóng hoàn toàn miền Nam.

Hội nghị Bộ Chính trị họp đợt 2 (từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975):

Bộ Chính trị đã đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.

Trong khi Bộ Chính trị đang họp, ngày 6-1-1975, Phước Long – tỉnh đầu tiên của
Nam bộ – đã được giải phóng.

Cuối tháng 4 – 1975: Tổng thống Mỹ Gerald R Ford đã từ chối việc viện trợ tiếp
tục cho chính quyền Sài Gòn.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975:

13
Bắt đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên, ta mở tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột
ngày 10-3-1975 và giành được thắng lợi. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã họp
(Hội nghị Bộ Chính trị đợt 2) và quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên, quân ta nhanh chóng
phát triển cuộc tiến công xuống các tỉnh ven biển miền Trung.

Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch tiến công giải
phóng Huế bắt đầu. Ngày 26-3, thành phố Huế được giải phóng. Cùng ngày 26-3,
chiến dịch tiến công giải phóng thành phố Đà Nẵng bắt đầu. Ngày 29-3, Đà Nẵng
được giải phóng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế, Đà Nẵng,
ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam
trước mùa mưa. Ngày 6-4-1975, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra
mệnh lệnh: Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, sốc tới chiến
trường giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng.

Trên cơ sở thế và lực đã có, ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng
Sài Gòn – Gia Định bắt đầu. Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập do Đại tướng
Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy, đồng chí Trần
Văn Trà làm Phó Tư lệnh. Sau 4 ngày đêm tiến công dũng mãnh, vào lúc 11 giờ 30
phút ngày 30-4-1975, lá cờ chiến thắng đã được cắm trên nóc dinh Độc Lập, Sài
Gòn được giải phóng, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 của quân dân ta
đã toàn thắng.

3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954-1975

3.1.Nguyên nhân thắng lợi

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam thành công là nhờ sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ chủ tịch, với đường lối chính trị,

14
quân sự đúng đắn, độc lập, tự chủ, sáng tạo; phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết
hợp đấu tranh quân sự - chính trị - ngoại giao; nhân dân ta giàu lòng yêu nước,
đoàn kết nhất trí, chiến đấu dũng cảm, lao động cần cù và tình đoàn kết chiến đấu
của 3 nước Đông Dương; hậu phương miền Bắc vững mạnh, chi viện kịp thời cho
miền Nam; sự giúp đỡ, ủng hộ của các lực lượng dân chủ, hoà bình trên thế giới,
nhất là Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN cùng sự phản đối của nhân dân
Mỹ và thế giới đối với chiến tranh xâm lược Việt Nam.

3.2.Ý nghĩa lịch sử

Đối với Việt Nam

Thắng lợi có tính thời đại sâu sắc:

 Kết thúc 21 năm chống đế quốc Mĩ, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm
chống đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị của đế quốc và phong kiến,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành lại độc lập thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
 Mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, thống nhất cùng đi lên CNXH; nâng cao
sức mạnh vật chất và tinh thần cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, cùng
với việc tăng uy tín của Đảng và dân tộc trên trường quốc tế.
 Làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ
nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy
mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh Thế
giới thứ Hai; làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ phòng
tuyến quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân mới.

Đối với quốc tế

Thắng lợi có tầm quan trọng quốc tế:

15
 Chiến thắng phản công chống lại cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ
tiền đồ chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á và mở rộng lãnh thổ cho chủ nghĩa
xã hội.
 Chiến thắng này đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc và
làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa thực dân mới.
 Cổ vũ, khích lệ phong trào độc lập, dân chủ và hòa bình thế giới.

3.3.Kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng

Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Đây là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định ngay từ đầu cũng như trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm này bắt nguồn từ lòng nồng nàn yêu nước,
ý chí kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam
được hun đúc từ ngàn đời nay. Khi Tổ quốc lâm nguy, dân tộc ta triệu người như
một, sẵn sàng đứng lên chống giặc cứu nước.

Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị,
đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta". Thắng lợi
của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó
với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên
XHCN.

Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.

16
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được
phát triển đến trình độ cao, sáng tạo, với những nội dung và hình thức đấu tranh
cực kỳ phong phú. Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, toàn quốc tiến
hành chiến tranh với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ
trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng,
tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, trong đó, đòn tiến công quân sự có ý
nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt để làm chủ.

Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với
quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây
dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là hình thức và
phương thức xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng ở cả hai miền
Nam – Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng chiến tại chỗ ở
miền Nam; tổ chức chiến trường…

Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai
trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta sớm xác định miền
Bắc là nền tảng cho lực lượng cách mạng cả nước, sớm định hướng xây dựng miền
Bắc theo con đường XHCN. Xây dựng hậu phương vững chắc, tạo điều kiện để có
thể chi viện lực lượng ngày càng lớn mạnh cho miền Nam và cùng miền Nam hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ quan đầu não
lãnh đạo toàn bộ cách mạng Việt Nam và điều hành chỉ huy chiến tranh trên cả hai
miền Nam – Bắc.

Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia
để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

17
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, ta đã
chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu,
chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của ta cũng là thành quả chung của ba nước Đông Dương. Đó là kết quả
của đường lối kháng chiến đúng đắn, đường lối quốc tế của Việt Nam, Lào và
Campuchia.

Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.

Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại,
đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan
trọng chiến lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để
đánh thắng kẻ thù. Đảng ta biết khai thác, phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết quốc
tế trong chống Mỹ và thắng Mỹ.

Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, xét cho cùng là thắng lợi của con người
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Bản sắc, văn hóa con người Việt Nam hòa quyện
giữa dân tộc và giai cấp, giữa truyền thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ đại của
một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang Tổ quốc, đưa đất nước Việt Nam lên
ngang tầm của thời đại mới.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO

19

You might also like