Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NGHÊ THUẬT NẮM THỜI CƠ GIÀNH
CHÍNH QUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945
NHÓM 4
B. NỘI DUNG
Cách đây 77 năm - tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổ ra trên toàn quốc và nhanh chóng giành
được những thắng lợi vẻ vang, ít tổn thất đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó không phải là một thắng lợi
“ăn may”, mà là một quá trình chuẩn bị công phu, lâu dài và khoa học của dân tộc Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi to
lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Giai đoạn: Liên Xô tham chiến. Nhật Bản đầu hàng không điều kiện
Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, do đã kí với Nhật ''Hiệp ước trung lập''
(13-4-1941), Liên Xô đã đứng ngoài cuộc chiến. Tại Hội nghị Ianta (2-1945), theo đề
nghị của Mĩ, Anh, Liên Xô đã chấp thuận tham gia chiến tranh chống Nhật 3 tháng
sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Ngày 8-8-1945, Liên Xô đã tuyên chiến với Nhật Bản. Sáng ngày 9-8-1945,
Hồng quân Liên Xô, với lực lượng 1,5 triệu quân (3 phương diện quân), 5500 xe tăng,
3900 máy bay, 2600 hạm đội Thái Bình Dương, đã mở cuộc tấn công như vũ bão vào đạo
quân Quan Đông của Nhật Bản (gồm 70 vạn quân chủ lực Nhật và hơn 30 vạn quân ngụy
của “Mãn Châu Quốc”, Nội Mông, Tuy Viễn…) đóng trải ra trên một trận tuyến kéo dài
hơn 4500 km từ Bắc Triều Tiên, Đông - Bắc Trung Quốc tới Nam đảo Xakhalin và quần
đảo Curin với việc giao thông, vận chuyển hết sức khó khăn.
Trước khi Liên Xô tiến quân đánh Nhật, ngày 6-8, Mĩ thả bom nguyên tử
xuống Hirôsima và ngày 9-8, quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagadaki,
hủy diệt 2 thành phố này và làm chết hàng chục vạn thường dân vô tội (theo thống
kê của Nhật Bản, số người chết ở Hirôsima là 247.000 người và Nagadaki - 200.000
người, chưa kể những người bị nhiễm xạ chết sau này).
3 giờ sáng ngày 10-8, Chính phủ Nhật gửi cho Mĩ, Anh, Trung Quốc và Liên
Xô bản đề nghị xin chấp nhận đầu hàng theo Tuyên cáo Pốtxđam (công bố ngày 26-
7-1945, kêu gọi Nhật Bản đầu hàng nhưng Nhật khước từ). Liên Xô, Mĩ, Anh, Trung
Quốc đã buộc Nhật phải đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 14-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng không điều kiện các nước
Đồng minh. Tuy thế, Bộ tư lệnh đạo quân Quan Đông không chịu đầu hàng, vẫn
tiếp tục chống cự quyết liệt với quân đội Liên Xô. Ngày 18-8, Hồng quân mới đổ bộ
lên được quần đảo Curin và ngày 20-8, đánh chiếm các thành phố lớn ở Đông Bắc Trung
Quốc (Cáp Nhĩ Tân, Cát Lâm, Trường Xuân); ngày 23-8, chiếm Đại Liên và Lữ Thuận.
Ngày 19-8, viên tư lệnh đạo quân Quan Đông chấp nhận đầu hàng. Nhưng ở một số nơi,
quân đội Liên Xô vẫn phải tiếp tục chiến đấu khoảng 2 tuần lễ nữa mới đánh bại
hoàn toàn quân địch (giết 8 vạn quân, bắt 60 vạn tù binh Nhật, trong đó có Tư lệnh
đạo quân Quan Đông và 148 tướng lĩnh khác).
Kết luận: Có thể nói rằng việc đánh bại chủ nghĩa quân phiệt Nhật là kết quả của
cả một quá trình chiến đấu nhiều năm của các nước Đồng minh và nhân dân các nước bị
Nhật thống trị, còn việc buộc Nhật Bản phải đầu hàng không điều kiện ngày 14-8-1945 là
do những nhân tố sau đây:
-Sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít Đức và ltalia ở châu Âu đã làm cho Nhật
mất đi một chỗ dựa và đặt Nhật vào thế tuyệt vọng.
-Sự thất bại trên các đảo Thái Bình Dương, ở Đông Nam Á; sự thiệt hại nặng
nề về hải quân, không quân trong những trận hải chiến với Mĩ; việc oanh tạc liên
tiếp, dữ dội của không quân Mĩ kéo dài nhiều tháng xuống 70 thành phố lớn của
Nhật (kể cả thủ đô Tôkiô); việc Mĩ chiếm được đảo Ôkinaoa, cửa ngõ đi vào Nhật
Bản; 2 quả bom nguyên tử hủy diệt hai thành phố Hirôsima và Nagadaki, dù là
một tội ác man rợ nhưng cũng đã gay ra tâm lí hoảng sợ và làm suy sụp tinh thần
của giới cầm quyền Nhật Bản.
-Việc Liên Xô tham chiến ở Viễn Đông và xuất kích với một lực lượng rất
hùng hậu đã đặt Nhật Bản vào một thế thất bại hoàn toàn không tránh khỏi được.
-Ở Trung Quốc, quân giải phóng nhân dân đã chuyển sang tổng phản công và
ở nhiều nước Đông Nam Á khác, phong trào chống Nhật đang lên sôi sục (Việt
Nam, Inđônêxia, Mã Lai, Miến Điện).
-Sức ép của nhân dân Nhật Bản và áp lực của phái “chủ hàng” trong nội bộ
giới cầm quyền Nhật.
2) Tình hình trong nước
Giai đoạn từ tháng 9/1939 đến 9/3/1945
- Từ tháng 9/1939 đến 5/1941
Dựa theo dự đoán của Đảng, thông qua các Hội nghị Trung ương lần thứ 6, tháng
9/1939 và Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 5/1941, Trung ương đảng đã đề ra,
hoàn chỉnh đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đông Dương và chủ trương
đường lối về vấn đề chính quyền trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám năm
1945.
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập, công bố Tuyên ngôn,
Chương trình, Điều lệ đoàn kết hết thảy lực lượng yêu nước toàn dân tộc đánh đuổi Pháp
– Nhật cứu nước
- Từ tháng 5/1941 đến 9/3/1945
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Mặt trận Việt Minh vận
động, tổ chức quần chúng tham gia các hoạt động cứu quốc, chuẩn bị lực lượng
chính trị, vũ trang, xây dựng căn cứ địa. tổ chức của Mặt trận Việt Minh được xây
dựng, phát triển ở cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Hà – Tuyên – Thái (Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên), phát triển xuống các tỉnh trung du,
đồng bằng Bắc bộ, Trung bộ.
15/11/1942, Tổng bộ Việt Minh ra bản Chỉ thị, trong đó chỉ ra 3 bước khởi nghĩa
giành chính quyền ở nước ta: “Vấn đề chính quyền của cách mạng ở xứ ta có 3 bước:
a) Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương phải thành lập ngay
được chính phủ nhân dân địa phương ấy. Trừ bọn Việt gian và bọn phản
động ra, toàn dân nam, nữ trong địa phương từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền
tuyển cử và ứng cử để bầu ra chính phủ nhân dân địa phương. Chính phủ nhân
dân địa phương làm ngay những việc sau này: Bỏ sưu thuế và bỏ phu; cho
nhân dân tự do; tổ chức công việc lợi ích cho dân như giáo dục, canh nông,
buôn bán, v.v... Tổ chức quân sự để đeo đuổi cuộc khởi nghĩa.
b) Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương khá to thì thành lập
chính phủ nhân dân lâm thời toàn quốc
c) Lúc vũ trang khởi nghĩa, lấy được toàn quốc thì thành lập chính phủ
nhân dân chính thức toàn quốc do toàn dân bầu ra.”
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, dưới ách thống trị bóc lột nặng nề của Pháp – Nhật
đã dẫn đến hậu quả nặng nề chính là xảy ra nạn đói khủng khiếp làm hơn 2 triệu đồng
bào miền Bắc chết đói.
Kết luận: dựa vào những sự kiện xảy ra trên Đảng ta đã nêu rõ những điều kiện
phát động khởi nghĩa thành công – các dấu hiệu của thời cơ:
1. Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc.
2. Nhân dân không thể sống nữa dưới ách thống trị của Pháp – Nhật
đỉnh điểm là nạn đói năm 1945. Họ đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường
khởi nghĩa.
3. Phe thống trị Đông Đương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông
đến cực điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn quân sự. (Nhật đang bị thua thảm
hại trong cuộc chiến thế giới thứ hai)
4.Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi Đông Dương
như quân Tàu đại thắng quân Nhật, hai phe Pháp – Nhật có sự mẫu thuẫn nội
bộ gay gắt và Nhật có ý đồ lật đổ chính quyền Pháp.
Giai đoạn từ 9/3 đến 14/8/1945
Mâu thuẫn giữa Nhật – Pháp ngày càng tăng cao. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính
Pháp để nắm độc quyền Đông Dương. Cách mạng Đông Dương chỉ còn một kẻ thù là
Nhật. Nhưng Nhật vẫn còn mạnh nên thời cơ vẫn chưa chín muồi. Lãnh đạo nhân dân
tiếp tục đẩy mạnh công việc chuẩn bị mọi mặt cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền
toàn quốc khi thời cơ chín muồi.
Giữa tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc họp quyết định phát triển
lực lượng vũ trang việt Nam giải phóng quân thành lực lượng nòng cốt, xây dựng
chiến khu chống Nhật, …
16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc hướng dẫn tổ chức Ủy ban dân
tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt
Nam.
15/5/1945, Việt Nam giải phóng quân được thành lập.
4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc ra đời gồm các tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Hà –
Tuyên – Thái. (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên)
Kết luận: giai đoạn này Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt chờ đợi thời cơ
chín muồi cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc thắng lợi (14/8-2/9/1945)
Trung tuần tháng 8, thời cơ chín muồi do Nhật bị tổn hại nặng nề bởi hai bom
nguyên tử của Mỹ và Nhật tuyên bố đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam của phe Đồng
Minh khiến cho quân đội Nhật đang đóng quân ở Việt Nam hoang mang.
Đêm 13/8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, ra Quân lệnh số 1 phát
động tổng khởi nghĩa.
14/8 -15/8, Hội nghị đại biểu Đảng quyết định tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trước khi quân Đồng Minh tiến vào Đông Dương
16/8 – 17/8, Đại biểu Quốc dân Tân Trào họp do Hồ Chí Minh chủ trì, hưởng ứng
quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc của Đảng. Cử ra Ủy ban
dân tộc giải phóng Việt Nam (chính phủ lâm thời) do Chủ Tịch Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch lãnh tạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
14/8 – 28/8, chỉ trong vòng 2 tuần Tổng khởi nghĩa giành độc lập và chính quyền
toàn quốc thắng lợi.
30/8, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, báo hiệu
chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam sụp đổ đồng thời cũng dập tắt một đầu mối
quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống
phá chính quyền cách mạng.
2/9, tại quảng trường Ba Đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á.
Những năm sau đó, Việt Nam đã nắm bắt tốt thời thế để bình thường hóa quan hệ
ngoại giao với Hoa Kỳ (1995); gia nhập Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN - năm 1995); năm 2007 gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO);
được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2008-2009 và 2020-2021... Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với trên 200 nước
và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó xác lập nhiều quan hệ đối tác chiến lược, đối tác
toàn diện; là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực; tham gia nhiều
hiệp định thương mại tự do, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Vị thế, uy
tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế thông qua vai trò then
chốt trong những tổ chức khu vực và quốc tế, tổ chức thành công các sự kiện quan trọng,
thực hiện tốt nghĩa vụ tham gia các hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên hợp quốc...
Nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
trở thành bài học quý báu của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Ở mỗi
giai đoạn cách mạng, việc kịp thời nhận diện và nắm bắt tốt thời cơ để giành thắng lợi
trong mọi nhiệm vụ cách mạng luôn được Đảng ta quan tâm. Hiện nay, thế giới và đất
nước đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều cơ hội và
thách thức. Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài, ngày càng phức tạp,
tác động tiêu cực trên nhiều phương diện gây ra không ít khó khăn cho quá trình
phát triển đất nước. Tuy nhiên, phát huy những kết quả đạt được trong lãnh đạo thực
hiện “mục tiêu kép” trong thời gian qua, khắc phục những khó khăn trước mắt, nhất là
nắm lấy những cơ hội từ trong nước và quốc tế để đưa ra những chủ trương đúng đắn,
thực hiện mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã xác định.
Có thể nói, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay diễn ra
trong bối cảnh có nhiều thời cơ, vận hội mới; đồng thời, cũng phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là những biến động nhanh chóng của tình hình
quốc tế, khu vực; những diễn biến phức tạp trên Biển Đông và dịch Covid-19, nhưng
chúng ta luôn tin tưởng, một Đảng đã biết phát huy sức mạnh của cả một dân tộc để dân
tộc đó đứng lên, đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giành và giữ
vững độc lập, tự do của Tổ quốc, thì Đảng đó nhất định sẽ lãnh đạo thành công sự nghiệp
đổi mới và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đó cũng chính là việc vận dụng thành công những bài học từ lịch sử, trong đó có
bài học nắm bắt thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Kết luận: Thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 không phải là sự thắng lợi ăn
may, mà để có thể chớp được thời cơ thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập Tổ quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có sự chuẩn bị suốt 15 năm về chủ trương, lực
lượng và tập dượt qua từng giai đoạn cách mạng và từng cuộc chiến nhỏ đến lớn. Sự
thấm nhuần lý luận Mac Lenin về mặt tư tưởng cũng như tầm nhìn sâu rộng của Chủ tịch
về thời cuộc lúc bấy giờ đã một phần rất lớn giúp cho C
77 năm trôi qua, nhưng bài học về nắm bắt thời cơ vẫn có ý nghĩa lý luận, thực tiễn
và tính thời sự sâu sắc đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa hiện nay.