You are on page 1of 7

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC UEH


TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------  -------

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN


( Tiểu luận không thuyết trình )
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Họ tên : Đặng Hiểu Nghi


MSSV : 31201022495
Mã LHP : 22D1HIS51002620

GV giảng dạy: Thạc sĩ PHAN THỊ LỆ HƯƠNG

1
1. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của Việt Nam sau Tháng Tám năm 1945,
Đảng và chính quyền cách mạng đã có những chủ trương, đường lối như thế nào để
có thể vượt qua tình thế trên (1945-1946)? (4 điểm).

Sau thành công của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tác động, cỗ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới. Từ đây, mở ra một bước ngoặt mới.
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô
lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ và đánh đuổi quân phát xít Nhật, đồng thời lật
nhào chế độ phong kiến hàng nghìn năm, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
Cùng với đó là sự ra đời của hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở. Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung
tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Song, bên cạnh những thuận lợi cơ
bản, ta phải đối mặt với muôn vàn thách thức liên quan đến vận mệnh của đất nước, đòi
hỏi Đảng và chính quyền cách mạng phải có những chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng
tạo để lèo lái con tàu cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió.
Việc Việt Nam trở thành một đất nước độc lập hoàn toàn gây bất lợi cho các nước
chủ nghĩa đế quốc, nên chúng đã bao vây, cô lập nước ta nói riêng và Đông Dương nói
chung. Không những vậy, những khó khăn trong nước mà Đảng phải đối mặt còn nhiều
hơn: hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu
kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề (nạn đói, nạn dốt, ngân
quỹ quốc gia trống rỗng). Sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 đang đe doạ. Thêm
vào đó, với danh nghĩa Đồng minh đến tước khí giới của phát xít Nhật, phía Bắc 20 vạn
quân đội của Tưởng Giới Thạch mang bọn tay sai kéo vào chiếm đóng, phía Nam, 2
vạn quân Anh - Ấn đổ bộ vào Sài Gòn. Ngày 23.9.1945 quân Pháp núp bóng quân Anh
nổ súng tái chiếm Nam bộ. Nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam
bị đặt trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn
dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
Trước tình hình ấy, ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự
chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc
đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới. Về chỉ đạo chiến lược: mục tiêu của cách mạng Đông Dương vẫn là
dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Đảng cũng
xác định kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng. Đồng thời, từng bước thực hiện nhiệm vụ, chủ trương cấp bách:
củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống
nhân dân. Ứng với những khó khăn, Đảng đều có những biện pháp cụ thể để triển khai:
nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp.
Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc: “Bình đẳng tương trợ”, “Thêm bạn bớt thù”, thực
hiện khẩu hiệu: “Hoa – Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.

2
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp bách lúc bấy
giờ. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần
dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ. Chống giặc
dốt, xóa nạn mù chữ Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “Bình dân
học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa nạn dốt; vận động toàn dân xây
dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới. Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền
cách mạng: Để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam, ngày 6-1-1946 cả
nước tham gia bầu cử Quốc hội, ngày 2-3-1946 Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên và
thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục
được mở rộng nhằm tăng cường lực lượng cách mạng, tập trung chống Pháp ở Nam Bộ.
Đến cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính quy, 36 lực lượng công an được
tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân, tự vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí Nam…
Chính trong lúc chính quyền cách mạng non trẻ ở thế ngàn cân treo sợi tóc, thù
trong giặc ngoài, khó khăn trăm bề đó, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là
chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có những bước đi đúng đắn, sáng tạo. Khi thì mềm dẻo, khôn
khéo mang thiện chí hòa bình để khắc phục khó khăn, xong vẫn giữ vững lập trường cùng
ý chí kiên định, quyết đấu tranh để bảo vệ nền dân chủ.

2. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
trên. Từ việc nghiên cứu những sự kiện lịch sử trên anh, chị rút ra được bài học
kinh nghiệm nào cho bản thân? (6 điểm)
 Ý nghĩa lịch sử:
- Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” đó, Đảng và chính phủ đã có những
chủ trương, biện pháp đưa đất nước tiếp tục tồn tại và phát triển. Một trong những nhân
tố quan trọng tạo nên thắng lợi đó chính là bản lĩnh và sự tài tình của Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đề ra sách lược đúng đắn, biết nắm vững mục tiêu, kiên
trì nguyên tắc, linh hoạt trước muôn vàn sự thay đổi, tạo ra thời cơ và tranh thủ thời cơ để
giành thắng lợi.
- Nếu không trải qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” thì chúng ta không thể có cơ đồ,
vị thế như hiện nay. Nạn đói năm 1945 do phát-xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng hơn
2 triệu người. Ngay sau khi vừa giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ
cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào Diệt giặc đói được triển
khai ngay. "Giặc đói" đã được đẩy lùi, tài chính bắt đầu được gây dựng lại. Chiến thắng
giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của nhà nước cách mạng, thể hiện tính
ưu việt của chế độ mới. Nhân dân càng thêm tin yêu và bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Song song với diệt giặc đói, Chính phủ còn vận động nhân dân xây dựng nền văn
hóa mới, nếp sống mới, xóa bỏ văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, phát
triển phong trào Bình dân học vụ để từng bước xóa nạn mù chữ, tiếng Việt được chính
thức dùng trong hệ thống trường học. Ngày nay, nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi
mới (1986-2021), 30 năm thực hiện Cương lĩnh đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (1991-2021), đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần.

3
- Đây là một sự thật lịch sử không thể phủ nhận, là niềm tự hào, là động lực, là niềm tin
có cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từng bước vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục vững
bước trên con đường đổi mới toàn diện, phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những thành
tựu đó là những minh chứng hùng hồn bác bỏ sự vu cáo, bịa đặt hòng chia rẽ khối đoàn kết
toàn dân tộc, cố tình phủ nhận những thành quả cách mạng mà chúng ta đã đạt được.
 Bài học kinh nghiệm:
Nếu ví tình thế cách mạng Việt Nam năm 1945-1946 như “ngàn cân treo sợi tóc” thì
“sợi tóc” ấy có độ bền giữ được ngàn cân, vì đó là sự kết tinh của sách lược mềm dẻo với lòng
tin vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo
khôn khéo của Đảng đã để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu, không chỉ trong
suốt những năm tháng chống Pháp, chống Mỹ mà còn có ý nghĩa đến ngày hôm nay.
- Thứ nhất, sức mạnh của ngoại giao trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước
hết sức khó khăn, phức tạp. Chính trong thời điểm vô vàn khó khăn đó, ngoại giao đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sử dụng như một vũ khí sắc bén để thực hiện thành công
nhiệm vụ chiến lược. Trước hết, ngoại giao Việt Nam đã vận dụng nhuần nhuyễn phương
châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cuộc đấu tranh ngoại giao của
ta trong giai đoạn này là: “Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Thông
qua các biện pháp ngoại giao, Chính phủ ta đã ký kết với thực dân Pháp hai văn kiện quan
trọng là Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Ta nhân nhượng với Pháp để
kéo dài thời gian hòa hoãn, củng cố và chuẩn bị lực lượng, nhưng không thỏa hiệp các vấn đề
nguyên tắc về độc lập và thống nhất quốc gia. Phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã
hình thành và trở thành nguyên tắc của ngoại giao Việt Nam.
Hơn 70 năm qua, dưới ánh sáng soi đường của Đảng, của Bác Hồ, ngoại giao Việt Nam đã
lập nên nhiều thành tích vẻ vang. Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện những nhiệm vụ nêu
trên, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm đối ngoại của giai đoạn 1945
- 1946. Đại hội XII của Đảng đã đề ra các nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội
ở khu vực và trên thế giới. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua việc từ chỗ bị bao vây về
kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan
hệ kinh tế-thương mại-đầu tư với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ.
- Thứ hai, bài học biết phân hóa kẻ thù.
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam cùng một lúc phải đối phó với nhiều
thế lực quân sự đối địch ở các nước lớn. Tuy nhiên, giữa họ luôn có xung đột và mâu thuẫn về
lợi ích, nhưng khi cần họ sẵn sàng thỏa hiệp mua bán với nhau, bất chấp quyền lợi của nhân
dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn đó và có sách lược phù
hợp với từng đối tượng. Khi cả Pháp và Trung Hoa đều cần phía Việt Nam thỏa thuận giải
pháp mà hai bên có thể chấp nhận được để tránh cuộc xung đột mở rộng, thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, ký bản Hiệp định Sơ bộ
6/3/1946 để nhanh chóng đẩy 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ra khỏi
nước ta, chuẩn bị thực lực cho một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh khỏi.

4
Có thể nói với sự phân định về “bạn và thù” trong thời kỳ trước đây chính là cơ sở cho
Đảng ta định hình quan điểm “đối tác, đối tượng” trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế. Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) đã chỉ ra các dấu hiệu cơ bản quan trọng để nhận thức đâu là
“đối tác” có thể mở rộng quan hệ hợp tác, đâu là “đối tượng” cần kiên quyết đấu tranh. Đến
năm 2016, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước; thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược theo ngành với 2 nước; xác lập quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước; trở thành
nước duy nhất tại Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các
nước lớn. Việt Nam cũng đã nhận ra các đối tượng cụ thể hiện nay của nước ta như: đối
tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN; đối tượng có tham vọng về chủ quyền lãnh thổ, đối
tượng gây thảm họa thiên tai, môi trường có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế, chính trị - xã
hội... Trên cơ sở xác định các đối tượng cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương để đối phó với từng đối tượng khác nhau, từ đó giúp cho chúng ta bảo vệ được nền
hòa bình, độc lập dân tộc.
- Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng
có nguyên tắc.
Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã phải đối mặt với những
khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa và đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng. Thời gian
đầu, trong điều kiện thực lực của chúng ta còn hạn chế, Đảng và Chính phủ đã phải chấp
nhận những điều kiện để thực hiện sách lược hòa với Trung Hoa Dân quốc, tập trung chống
thực dân Pháp xâm lược nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc. Việc ký kết Hiệp
định Sơ bộ và Tạm ước 14/9 là đỉnh cao của nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông có nhiều
biến đổi khôn lường khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển
ở Việt Nam trở thành nhiệm vụ khó khăn với nhiều thách thức. Khi Trung Quốc công bố
“đường lưỡi bò chín khúc”, đặt giàn khoan trái phép, gây ra các vụ tranh chấp trên Biển
Đông. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta có những chủ trương khéo léo nhằm bảo
vệ chủ quyền biển đảo như: kiên quyết yêu cầu Trung Quốc di chuyển giàn khoan và các
tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam; tuyên truyền để nhân dân và Chính phủ các
nước hiểu hơn về chủ quyền của Việt Nam; kêu gọi nghị viện các nước lên tiếng; cung
cấp tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù
hợp thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế.
 Lịch sử 86 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời điểm
khó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng được
khẳng định. Với việc phát huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao thời kỳ
1945-1946 trong giai đoạn hiện nay chính là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sự
thành công về mặt đối ngoại của Đảng. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về mặt
ngoại giao của Đảng trong giai đoạn1945-1946 sẽ tiếp tục được phát huy trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

5
 Qua việc nghiên cứu sự kiện lịch sử quý báu trên, em đã rút ra được một số bài
học sâu sắc dành cho bản thân:
Một là, việc học tập và tự học là một quá trình, là “học tập suốt đời” theo tấm
gương của Bác. Do đó, không nên “giục tốc bất đạt”, không nên quá áp lực, tự làm khó
cho bản thân. Cần hiểu rằng, giá trị con người nằm nhiều ở nhân cách, cách đối nhân xử
thế, việc hành thiện giúp đời... chứ không chỉ nằm ở kết quả học tập, thứ bậc, vị trí ở cơ
quan đoàn thể, danh vọng ngoài xã hội… Mỗi người có sự phấn đấu, học tập, tự hoàn
thiện theo cách riêng của mình và không nên quá chạy đua về học vấn, vị thế. Thậm chí,
cần rèn luyện và học cả tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại; cần trang bị tốt cho mình sức khỏe
thể chất và tinh thần để tăng khả năng vượt khó, vượt qua căng thẳng, áp lực của cuộc
sống hiện đại.
Hai là, trong cuộc sống luôn biết phải nắm bắt thời cơ, tạo thế và lực. Đảng ta đã
vận dụng điều này để nhanh chóng thông qua kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trên cả nước. Đây là yếu tố không thể thiếu trên con đường dẫn đến thành công.
Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội mới luôn
có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và luôn
nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi.
Ba là, ngoài tự học các kiến thức chuyên môn thì cần trang bị cho bản thân các
kiến thức nền tảng về chính trị, văn hóa, xã hội. Đặc biệt, cần có những hiểu biết vững
chắc về lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán và văn hóa Việt Nam, cần thông thạo
ngôn ngữ mẹ đẻ trước khi giỏi ngoại ngữ khác. Bác đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta. Cho
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Ngoài ra, cần trang bị vững chắc các kỹ năng sống,
kỹ năng sinh tồn, ví dụ như: kỹ năng bơi lội, leo núi; kiến thức phòng cháy chữa cháy; kỹ
thuật sơ cứu; cách sửa chữa điện, nước ; hiểu biết về an toàn vệ sinh thực phẩm; kiến
thức về hàng hóa, giá cả thị trường; có khả năng tự chăm sóc bản thân và gia đình...
Bốn là, cần có phương pháp, công cụ học tập đúng đắn. Phương pháp tự học cũng
là cần thiết để học đúng người, đúng cách, đúng nội dung, đúng thời điểm. Kiến thức nên
được tiếp thu liên tục thông qua quá trình tự học hỏi, tự tìm tòi, tự tiếp nhận. Học tập
ngày nay đang tiếp cận theo mô hình gắn nhiều hơn “lý thuyết” với “thực hành”, “thực
hành” với “trải nghiệm”, trong đó trải nghiệm là một xu hướng mới và hiệu quả. Các
năng lực cốt lõi cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng nhân sự nên dành nhiều hàm lượng cho
các kỹ năng mềm, các kỹ năng xã hội và trí tuệ cảm xúc.
Năm là, nhường nhịn là hành vi đối nhân xử thế đẹp mà bất cứ ai trong cuộc sống
cũng cần trang bị cho bản thân mình. Hơn thế nữa, cần hiểu rằng “Lùi một bước, tiến
ngàn dặm”. Đôi khi trong cuộc sống, ta nên biết cách nhún nhường, chịu khó nằm gai
nếm mật, nhất là những lúc khó khăn, trắc trở. Người biết nhường nhịn cư xử cao thượng,
coi trọng hòa khí, không cố chấp, luôn biết coi trọng chữ “hòa” trong giao tiếp, ứng xử.
Tuy nhiên, cũng cần nhận định rõ đâu là giới hạn nhất định dành cho bản thân, chớ nên
nhún nhường quá mức. Chính vì vậy, nhân nhượng là đức tính đáng giá nhưng chỉ khi ta
biết sử dụng khéo léo thì nó không chỉ giúp tránh được tai họa mà còn giúp bản thân tiến
xa hơn.

6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Lý luận chính trị, Tài liệu
hướng dẫn ôn tập môn học Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Lưu hành nội bộ.
2. Tình thế "Ngàn cân treo sợi tóc" và sự ra đời của Lời kêu gọi Toàn quốc kháng
chiến
http://phongkhongkhongquan.vn/2796/tinh-the-ngan-can-treo-soi-toc-va-su-ra-doi-
cua-loi-keu-goi-toan-quoc-khang-chien.html
3. Phát huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao của Đảng thời kỳ
1945-1946 trong giai đoạn hiện nay.
http://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/Nghien-cuu-trao-doi/
phat-huy-nhung-bai-hoc-kinh-nghiem-tu-sach-luoc-ngoai-giao-cua-dang-thoi-ky-
1945-1946-trong-giai-doan-hien-nay-156.html
4. Những bài học quý giá
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/nhung-bai-hoc-quy-gia-280923?
fbclid=IwAR2r3W4NQ_juE3KURusFAgYJcd4fnwFyVVUTxZBOeQek3LEI00ec
5UrMfB4
5. Bài học chớp thời cơ và vận dụng thời cơ - nghệ thuật của đấu tranh cách mạng
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/bai-hoc-chop-thoi-co-va-van-dung-thoi-
co--nghe-thuat-cua-dau-tranh-cach-mang-495834.html
6. Cách mạng tháng Tám 1945: Những bài học còn nguyên giá trị
https://vov.vn/chinh-tri/dang/cach-mang-thang-tam-1945-nhung-bai-hoc-con-
nguyen-gia-tri-422081.vov
7. Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong Toàn quốc kháng chiến
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
https://mattran.thuathienhue.gov.vn/?gd=1&cn=99&tc=31511
8. Bảy mươi năm đối ngoại Việt Nam: Thành tựu và những bài học kinh nghiệm
https://tapchicongsan.org.vn/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/34970/
bay-muoi-nam-doi-ngoai-viet-nam--thanh-tuu-va-nhung-bai-hoc-kinh-
nghiem.aspx.

You might also like