You are on page 1of 8

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC UEH – TRƯỜNG KINH DOANH UEH


KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


BỘ MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PHẠM THÀNH TÂM


SINH VIÊN: PHẠM MINH THÚY
MÃ LỚP HP: 22D1HIS51002625
MSSV: 31201024554
LỚP: LM001
KHÓA: 46
Lời tựa đầu

Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Phạm Thành Tâm đã hướng
dẫn và đồng hành cùng em trong suốt bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với
em sự thành công của một môn học không chỉ nằm ở điểm số mà còn là những kiến thức
cuộc sống tuyệt vời mà môn học đó mang lại làm khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, tìm
tòi và phát triển. Môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu sâu sắc, có hệ
thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó
gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Nghiên cứu Lịch sử Đảng mục đích là làm sáng tỏ nội
dung Cương lĩnh, đường lối của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của
đường lối trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Qua môn học này, em không chỉ chiêm nghiệm ra nhiều triết lý và tư tưởng bổ ích mà còn
cải thiện được khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn một cách linh hoạt.

Với bài tiểu luận này, em xin trình bày hai nội dung quan trọng của môn học:
1. Chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ trong giai đoạn 1945 – 1946.
2. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1945 –
1946. Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.

Chúc Thầy thật nhiều sức khỏe và luôn thành công trong sự nghiệp giáo dục!
Em xin chân thành cảm ơn.

Trân trọng.
1

Câu 1: Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của Việt Nam sau Tháng Tám năm
1945, Đảng và chính quyền cách mạng đã có những chủ trương, đường lối như thế
nào để có thể vượt qua tình thế trên (1945-1946)?

1.1. Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của Việt Nam sau Tháng Tám 1945.
Giai đoạn 1945 - 1946, sau khi giành được chính quyền, lập nên nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Đảng ta đã ra sức nỗ lực xây dựng và bảo vệ chính quyền còn non trẻ này.
Quá trình này nhận được được sự ủng hộ và hậu thuẫn từ hệ thống XHCN được hình thành
trên diện rộng do Liên Xô đứng đầu và xảy ra trong thời điểm mà phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao. Trong
nước, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; có Đảng và hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành
biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam.
Thuận lợi là vậy nhưng nhà nước ta cũng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn trong buổi
đầu xây dựng. Cụ thể, bên ngoài, Chủ nghĩa đế quốc vẫn ra sức tấn công, đàn áp phong
trào cách mạng, Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Trong nước, hệ
thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về
nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề. Nền độc lập và chính quyền cách
mạng Việt Nam bị đặt trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi cùng một lúc phải đối phó
với 3 loại giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Điều này thể hiện sự yếu kém của nhà
nước ta trên 3 mặt: chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Về chính trị, 2 miền nước ta đều bị đe dọa bị giặc ngoại xâm. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20
vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào, theo chúng là bọn tay sai thuộc các tổ chức phản
động, âm mưu cướp chính quyền mà nhân dân ta đã giành được. Từ vĩ tuyến 16 trở vào
Nam, hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước
ta. Ngoài ra trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Các thế lực phản động
trong nước ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng giữa lúc chính quyền
cách mạng chưa được củng cố.
Về kinh tế, nạn đói vẫn chưa khắc phục. Hàng hoá khan hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Trong khi đó, ngân sách Nhà nước trống rỗng. Chính quyền chưa quản lí được
Ngân hàng Đông Dương.
Về văn hóa – xã hội, di sản văn hoá lạc hậu của chế độ cũ rất nặng nề. Hơn 90% dân số mù
chữ, tệ nạn xã hội còn phổ biến.
=> Tất cả những khó khăn trên đã diễn ra cùng một lúc. Đứng trước tình thế này, Chính
phủ lâm thời đặt dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương, đường
lối kịp thời để vượt qua.

1.2. Chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ giai đoạn 1945 - 1946.
2

Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc,
vạch ra con đường cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới với chỉ thị “Kháng chiến
kiến quốc”
Về chỉ đạo chiến lược: mục tiêu của cách mạng Đông Dương vẫn là dân tộc giải phóng,
khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Kẻ xác định thù: “Kẻ thù chính
của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Về nhiệm vụ: Đảng nêu bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách là “củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Công tác cụ thể:
Về nội chính, tiến hành xúc tiến việc bầu cử Quốc Hội, thành lập chính phủ chính thức, lập
Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân. Về quân sự, cần động viên lực lượng toàn dân,
kiên trì kháng chiến, cần chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Về ngoại giao, kiên trì
nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, “Thêm bạn bớt thù”, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt
thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế” đối với Pháp”
=> Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ
đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm nghèo của
nước nhà.

1.2.1. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và tình
trạng kiệt quệ về tài chính

1.2.1.1. Xây dựng chính quyền cách mạng


Chính trị: Ngày 6/1/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội. Ngày
2/3/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 9/11/1946, ban hành Hiến pháp
đầu tiên. Các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp
(tỉnh, huyện, xã) theo nguyên tắc bổ sung đầu phiếu
Quân đội: Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam giải phóng quân đổi thành Vệ
quốc đoàn, rời quân đội quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ tăng
lên hàng chục vạn người.

1.2.1.2. Giải quyết nạn đói


Biện pháp tạm thời: Hồ Chủ tịch kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ
chức “Ngày đồng tâm” nhằm quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả
nước. Nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ; không dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu.
Biện pháp lâu dài: Khuyến kích tăng gia sản xuất, “Tấc đất tấc vàng”, “Cải cách ruộng đất
để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi”. Bãi bỏ các thứ thuế vô lý như thuế thân, giảm thuế
ruộng đất, giảm tô.

1.2.1.3. Giải quyết nạn dốt


Ngày 8/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập “Nha Bình dân học vụ” - cơ quan chuyên
trách về chống giặc dốt, đồng thời kêu gọi nhân dân cả nước tham gia xóa nạn mù chữ.
Trong vòng 1 năm từ tháng 9/1945 đến tháng 9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76000
3

lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Ngoài ra, Đảng và Chính phủ cũng rất coi
trọng bậc đại học khi cho khai giảng những trường đã có đồng thời mở thêm trường mới.
Ngày 10/10/1945, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh 45/SL thành lập một ban Đại học Văn khoa
tự Hà Nội nhằm đạo tạo giáo viên văn khoa trung học, nhằm nâng cao nền văn học Việt
Nam cho xứng đáng 1 nước độc lập và theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.

1.2.1.4. Giải quyết khó khăn về tài chính


Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện
đóng góp của nhân dân cả nước. Vận động nhân dân hưởng ứng xây dựng “Quỹ độc lập”,
đóng góp tiền của cho phong trào “Tuần lễ vàng”. Ngày 31/1/1946, Chính phủ ra sắc lệnh
phát hành tiền Việt Nam. Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt
Nam trong cả nước thay cho đồng Đông Dương của Pháp trước đây.

1.2.2. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng

Sau vụ khiêu khích trắng trợn ngày 2-9-1945 ở Sài Gòn, thực dân Pháp ráo riết thực hiện
mưu đồ xâm lược Việt Nam. Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây
hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân
dân Nam Bộ bắt đầu. Sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy
ban kháng chiến và đại diện Tổng bộ Việt Minh đã nhanh chóng thống nhất, đề ra chủ
trương hiệu triệu quân, dân Nam bộ đứng lên kháng chiến chống xâm lược Pháp. Nhân dân
các tỉnh Nam bộ đã nêu cao tinh thần chiến đấu “thà chết tự do còn hơn sống nô lệ” nhất
loạt đứng lên dùng các loại vũ khí thô sơ, tự tạo, gậy tầm vông, giáo mác chống trả hành
động xâm lược của thực dân Pháp, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do và chính quyền
cách mạng. Chính phủ, Hồ Chí Minh và nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và
kịp thời chi viện, chia lửa với đồng bào Nam bộ kháng chiến.

Để làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng và tay sai,
Đảng, Chính phủ chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa
hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng. Để tránh mũi nhọn tấn công của các
kẻ thù, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công
khai với danh nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”; Đầu năm 1946, phe
đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký
kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp ước Hoa-Pháp, ngày 28-2-1946). Chính
phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối
mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách
mạng vẫn còn non kém. Trong bối cảnh đó, ngày 3-3-1946 Trung ương Đảng đã đề ra chỉ
thị Tình hình và chủ trương, chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi
ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết củaViệt Nam. Ngày 6-
3-1946, tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội là J.Xanhtơny bản Hiệp định sơ
bộ. Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến phân
tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát triển của tình hình. Ngày 14-9-1946,
4

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với M.Mutê đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước 14-9
tại Mácxây (Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa
ở Việt Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam bộ để tiếp tục đàm phán.

Những chủ trương, sách lược và biện pháp đúng đắn của Đảng ở năm đầu tiên sau Cách
mạng Tháng Tám đã ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam bộ, vạch
trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các loại kẻ thù; củng cố, giữ
vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở; tạo thêm thời
gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến lâu dài.

2. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
1945 - 1946. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.

• Ý nghĩa lịch sử:

Những chủ trương, sách lược và biện pháp đúng đắn của Đảng ở năm đầu tiên sau Cách
mạng Tháng Tám đã ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam bộ, vạch
trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các loại kẻ thù; củng cố, giữ
vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng những
nền móng đầu tiên, cơ bản cho 1 chế độ mới: chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tạo
thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc
kháng chiến lâu dài.

• Bài học kinh nghiệm trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương kháng
chiến kiến quốc giai đoạn 1945 - 1946:

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự
nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết
trong hoàn cảnh cụ thể.
Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân. Đồng
thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ
địch bội ước.
Đối với chính sách ngoại giao, bài học rút ra cho giai đoạn hiện nay của Việt Nam đó là
cần: Nâng cao vị thế hợp pháp và sức mạnh chính quyền của cách mạng và Biết phân hóa,
nhận định kẻ thù.
• Bài học kinh nghiệm cho bản thân:

Những đường lối, chủ trương của Đảng ta đưa ra rất chính xác, kịp thời và đúng đắn giúp
dân tộc ta nhanh chóng thoát khỏi tình cảnh khó khăn. chuyển bại thành thắng. Học hỏi
những tinh hoa trong tư tưởng dẫn dắt của Đảng và Chính phủ, bản thân ta rút ra được
5

những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho bản thân khi giải quyết vấn đề. Đó là dù hoàn
cảnh có gian nan đến mấy, thì chúng ta cũng cần phải thích nghi, tìm cách tháo gỡ vấn đề.
Để giải quyết được vấn đề, việc đầu tiên là cần xác định đúng vấn đề, tìm ra nguyên nhân
gốc rễ để từ đó tìm ra các chiến lược giải quyết. Vấn đề nào cấp bách và quan trọng sẽ cần
được ưu tiên về thứ tự giải quyết cũng như sự đầu tư về nguồn lực. Trong quá trình giải
quyết vấn đề cần phải có sự linh hoạt, ứng biến với mọi sự thay đổi đột ngột, biến tiến biết
lùi 1 cách hợp lý, biết chấp nhận “lùi 1 bước để tiến 3 bước” khi cần thiết.

Ngoài ra, ta còn học hỏi được từ chiến lược chính trị, quân sự của Đảng trong giai đoạn
1945 -1946 nói riêng và lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc nói chung về nghệ thuật
nắm bắt cơ hội. Có những thời điểm rất khó khăn nhưng chỉ với một cơ hội nhỏ thôi cũng
là một tia sống giúp ta lật ngược tình thế. V.I.Lênin từng chỉ dẫn kế sách: “Chỉ có thể thắng
một kẻ thù mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn và với một điều kiện bắt buộc là phải lợi
dụng một cách hết sức tỉ mỉ..., hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt bé nhỏ giữa các kẻ
thù... cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh
mạnh về số lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn và ít tin cậy”(1).
Để làm được điều này, ngay từ bước đánh giá vấn đề đã yêu cầu chúng ta phải nhìn nhận
bao quát từ tổng quan đến cụ thể, sau đó đánh giá tỉ mỉ về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức của bản thân trong quá trình giải quyết vấn đề.

Không những vậy, những chỉ đạo, chiến lược của Đảng ta thời kỳ này còn làm ta ý thức
được về sức mạnh tập thể. Không nên tự ôm đồm quá nhiều việc, bởi việc tự lực 1 mình
để giải quyết nhiều vấn đề phức tạp sẽ không mang lại hiệu quả. Thứ nhất, tự nhìn nhận và
đánh giá vấn đề qua duy nhất con mắt của mình sẽ làm cho vấn đề phiến diện đi bởi ý kiến
chủ quan của bản thân. Việc để cho cả tập thể cùng đánh giá sẽ làm vấn đề trở nên khách
quan và nhiều khía cạnh hơn qua nhiều góc nhìn. Thứ hai, năng lực bản thân luôn có hạn
và vấn đề có thể nảy sinh nhiều rủi ro mà bản thân không thể lường trước được. Khi rủi ro
xảy ra, nếu không thể tự xoay xở được thì sẽ làm cho vấn đề tệ đi và hậu quả ảnh hưởng
đến tập thể nếu vấn đề là của chung. Ngược lại, giải quyết vấn đề cùng tập thể sẽ giảm bớt
gánh nặng công việc cũng như trách nhiệm cho mỗi thành viên, đồng thời còn tiết kiệm
được thời gian, chi phí và nguồn lực; vấn đề được giải quyết theo hướng tối ưu hơn. “Muốn
đi nhanh thì đi 1 mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau” là chân lý mà ta đúc kết được từ
đường lối, chiến lược của Đảng và Chính phủ đề ra trong tình thế nước nhà “ngàn cân treo
sợi tóc”.
Trích dẫn câu nói
(1). V.I.Lênin Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 68-69

Tài liệu tham khảo


1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam UEH “Chương 3: CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”; tr.34, 35, 36, 37.

2. Sách giáo khoa Lịch sử 12 “Bài 17: ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
TỪ SAU NGÀY 2/9/1945 ĐẾN TRƯỚC NGÀY 19/12/1946”.

3. Trang thông tin Tỉnh ủy Lạng Sơn - Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ về “HIỆP
ĐỊNH SƠ BỘ NGÀY 06/3/1946, BÀI HỌC VỀ NGHỆ THUẬT LỢI DỤNG MÂU
THUẪN TRONG HÀNG NGŨ KẺ THÙ” - ThS. Nguyễn Thanh Xuân (2021).

4. Trang thông tin Trường Chính trị Lê Duẩn Tỉnh Quảng Trị về “PHÁT HUY NHỮNG
KINH NGHIỆM TỪ SÁCH LƯỢC NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG THỜI KỲ 1945 - 1946
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY” - ThS. Đinh Thị Thu Hoài (2016).

-Hết-

You might also like