You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA KINH TẾ

BÀI NGHIÊN CỨU


TĂNG TRƯỜNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1995 – 2018
Bộ môn : KINH TẾ VĨ MÔ ỨNG DỤNG
GVHD : LÂM MẠNH HÀ
Nhóm sinh viên thực hiện :
Vũ Đức Linh - 31181021554 - TG002
Dương Văn Anh - 31181026006 - TG002
Nguyễn Quốc Cường - 31181021364 - TG002
Trần Thị Nguyệt Hà – 31181022397 – TG002
Văn Hoàng Khánh Linh – 311810283 – TG002

ĐỀ TÀI: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995-2018 2


PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 4
1. Mục tiêu nghiên cứu 4
2. Đối tượng nghiên cứu 5
3. Khái niệm tăng trưởng kinh tế 5
4. Phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế 5
4.1 GDP và cách tính GDP 5
4.2 GNP và cách tính GNP 8
4.3 PCI và cách tính PCI 9
5. Các yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế 10
5.1 Các yếu tố kinh tế 10
5.1.1 Nguồn nhân lực: 10
5.1.2 Tích lũy vốn 12
5.1.3 Tài nguyên thiên nhiên 12
5.1.4 Tri thức công nghệ 13
5.2. Các yếu tố phi kinh tế 14
5.2.1 Văn hóa-Xã hội 14
5.2.2 Cơ cấu dân tộc - tôn giáo 15
5.2.3 Thể chế chính trị 16
6. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 16
*Mô hình tăng trưởng Solow 16
7. Những chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế 18
7.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài 18
7.2. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước 19
7.3. Chính sách mở cửa nền kinh tế 19
7.4. Phát triển khoa học - công nghệ 20

PHẦN II: SỐ LIỆU THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM 22
8. Tăng trưởng GDP 22
9. Tăng trưởng kinh tế theo khu vực 23
9.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và lạm phát 25

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên thế giới hầu như tất cả các quốc gia đều theo đuổi bốn mục tiêu chung –
tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán thặng dư.
Trong các mục tiêu đó tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là
nhân tố phát triển của mọi quốc gia đối với nhiều nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam. Trong hơn hai thập kỷ qua, kinh tế Việt Nam đã phát triển không ngừng và
có những thành tựu đáng kể, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện. Việt Nam từ
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp.
GDP bình quân đầu người Việt Nam đạt 2587 USD năm 2018. Tỷ lệ nghèo giảm
mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ ngày theo sức mua ngang giá) so với
2002.

Vì lý do đó nhóm đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu về phát triển kinh tế qua các
giai đoạn từ 1995- 2018” nhằm phân tích tình hình kinh tế Việt Nam và một số yếu
tố, khía cạnh ảnh hưởng tới vấn đề tăng trưởng kinh tế từ đó đưa ra một số đánh giá và
các nhân tố chính của tăng trưởng Việt Nam giai đoạn 1995 – 2018.

2. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong các giai đoạn từ
năm 1995- 2018. Và các thành phần cấu thành nên nền kinh tế Việt Nam, các nhóm
ngành kinh tế chủ lực. Và phân tích trạng thái dừng trong nền kinh tế.

3. Khái niệm tăng trưởng kinh tế

Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn,
lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư
là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách
chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên
thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.

4. Phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế


4.1 GDP và cách tính GDP

Tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một phạm
vi lãnh thổ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Khi áp dụng cho phạm vi
toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. GDP là một trong những
chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.

4.1.1 Phương pháp tính GDP

 Phương pháp tính theo tổng chi tiêu

Theo phương pháp chi tiêu, tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia là tổng số tiền
mà các hộ gia đình trong quốc gia đó chi tiêu để mua các hàng hóa cuối cùng. Như
vậy trong một nền kinh tế giản đơn ta có thể dễ dàng tính tổng sản phẩm quốc nội như
là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng hàng năm.

GDP bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình, tiêu dùng cuối cùng của chính
phủ, tích lũy tài sản và chênh lệch xuất - nhập khẩu của một đất nước.

GDP = C + I + G + NX

Trong đó:

● C: là tổng giá trị tiêu dùng cho sản phẩm và dịch vụ của các hộ gia đình
trong quốc gia đó
● I: là tổng giá trị tiêu dùng của các nhà đầu tư
● G: là tổng giá trị chi tiêu của chính phủ
● NX: là xuất khẩu ròng (tính bằng giá trị xuất khẩu trừ đi giá trị nhập khẩu),
thể hiện sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong quốc gia đó

 Phương pháp tính theo tổng thu nhập:


Theo phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí, tổng sản phẩm quốc nội bằng
tổng thu nhập từ các yếu tố tiền lương (wage), tiền lãi (interest), lợi nhuận (profit) và
tiền thuê (rent); đó cũng là tổng chi phí sản xuất các sản phẩm cuối cùng của xã hội.

GDP = W + R + I + Pr + Ti + De

Trong đó:

● W: là tiền lương
● R: là tiền thuê
● I: là tiền lãi
● Pr: là lợi nhuận
● Ti: là các khoản thuế đánh vào dịch vụ, hàng hóa bán trên thị trường và trợ
cấp của chính phủ cho sản xuất (thuế gián thu ròng).
● De: là khấu hao tài sản cố định

 Phương pháp tính theo giá trị gia tăng.

Phương pháp tính theo giá trị gia tăng là tổng cộng tất cả giá trị gia tăng của nền kinh
tế trong một thời kỳ.

Tổng sản phẩm quốc nội = Giá trị tăng thêm + thuế nhập khẩu

Hoặc GDP = Giá trị sản xuất – chi phí trung gian + thuế nhập khẩu

Giá trị tăng thêm của toàn bộ ngành kinh tế được xác định cho cả nước và cho từng
vùng lãnh thổ và bằng tổng giá trị tăng thêm của các ngành kinh tế và thành phần kinh
tế.

Giá trị tăng thêm của từng ngành kinh tế bao gồm:

· Thu nhập của người sản xuất như tiền lương, tiền công (kể cả bằng tiền hay
bằng hiện vật và các khoản trả có tính chất lương), trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, nộp công đoàn cấp trên, thu nhập khác ngoài lương, tiền công
· Thuế sản xuất bao gồm: Thuế hàng hoá (không bao gồm thuế nhập khẩu) thuế
sản xuất và chi phí khác. Thuế sản xuất không bao gồm thuế trực thu như thuế thu
nhập, thuế lợi tức doanh nghiệp…

· Khấu hao tài sản cố định

· Giá trị thặng dư

· Thu nhập hỗn hợp

Giá trị gia tăng của một xí nghiệp là chênh lệch giữa giá trị sản lượng của xí nghiệp
và giá trị các yếu tố vật chất mà xí nghiệp mua của các xí nghiệp khác.

4.1.2 Chỉ số GDP và những điểm còn hạn chế

· GDP được đưa ra dựa trên dữ liệu chính thức thống kê được, do đó, nó
không tính đến, không định lượng được giá trị của các hoạt động kinh tế phi
chính thức như: việc làm ngoài giấy tờ, hoạt động thị trường chợ đen, công
việc tình nguyện và sản xuất hộ gia đình.

· GDP không tính đến lợi nhuận kiếm được trong một quốc gia bởi các công ty
nước ngoài được gửi lại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này có thể vượt quá
sản lượng kinh tế thực tế của một quốc gia.

· GDP chỉ xem xét sản xuất hàng hóa cuối cùng và đầu tư vốn mới mà bỏ qua
hoạt động giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp thông qua các hoạt động chi tiêu và
giao dịch trung gian giữa các doanh nghiệp.

· Sự tăng trưởng GDP không thể đo lường chính xác sự phát triển của một quốc
gia hay sức khỏe của đời sống công dân trong quốc gia đó. Đó là vì GDP chỉ nhấn
mạnh đến sản lượng vật chất mà không xem xét đến thực trạng phát triển tổng thể
của một quốc gia.

4.2 GNP và cách tính GNP


Tổng sản phẩm quốc dân hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế
đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền
của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một
khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu
(trong hay ngoài nước).

GNP thực tế là GNP được tính theo giá cố định nhằm phản ánh đúng sản lượng
gia tăng hàng năm, loại trừ những chênh lệch do biến động giá cả tạo ra. Khi GNP
tính theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.

GNP = C + I + G + (X - M) + NR

Trong đó:

● C = Chi phí tiêu dùng cá nhân


● I = Tổng đầu tư cá nhân quốc nội
● G = Chi phí tiêu dùng của nhà nước
● X = Kim ngạch xuất khẩu ròng các hàng hóa và dịch vụ
● M = Kim ngạch nhập khẩu ròng của hàng hóa và dịch vụ
● NR= Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu nhập ròng)

4.3 PCI và cách tính PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial
Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành
của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh
thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh.

Chỉ số PCI gồm 10 chỉ số thành phần. Một địa phương được coi là có chất
lượng điều hành tốt khi có:

1) Chi phí gia nhập thị trường thấp

2) Tiếp cận đất đai dễ dàng và sử dụng đất ổn định


3) Môi trường kinh doanh minh bạch và thông tin kinh doanh công khai

4) Chi phí không chính thức thấp

5) Thời gian thanh tra, kiểm tra và thực hiện các quy định, thủ tục hành chính nhanh
chóng

6) Môi trường cạnh tranh bình đẳng

7) Chính quyền tỉnh năng động, sáng tạo trong giải quyết vấn đề cho doanh nghiệp

8) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, chất lượng cao

9) Chính sách đào tạo lao động tốt

10) Thủ tục giải quyết tranh chấp công bằng, hiệu quả và duy trì được an ninh trật tự

Phương pháp xây dựng chỉ số PCI

Chỉ số PCI được xây dựng theo quy trình ba bước, gồm:
● Thu thập thông tin từ dữ liệu điều tra và các nguồn dữ liệu đã công bố khác

● Tính toán 10 chỉ số thành phần và chuẩn hóa trên thang điểm 10

● Gán trọng số và tính điểm số PCI tổng hợp gồm điểm trung bình có trọng
số của 10 chỉ số thành phần trên thang điểm tối đa 100

Mục đích của việc nghiên cứu chỉ số PCI

Chỉ số PCI tìm hiểu và lí giải vì sao một số tỉnh, thành vượt lên các tỉnh, thành khác
về phát triển kinh tế tư nhân, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế, từ đó cung cấp thông
tin hữu ích cho lãnh đạo các tỉnh, thành phố để xác định những lĩnh vực và cách thức
để thực hiện những cải cách điều hành kinh tế một cách hiệu quả nhất.

5. Các yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế

5.1 Các yếu tố kinh tế


5.1.1 Nguồn nhân lực:

Con người là yếu tố đầu vào quan trọng và cần thiết của quá trình lao động sản
xuất tạo ra sản phẩm. Vì vậy, con người có sức khỏe, trí tuệ, có tay nghề trình độ cao
và nhiệt huyết là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu đặt ra đối với chất lượng nguồn nhân lực
Việt Nam đó là phải chuẩn bị lực lượng lao động để có thể đáp ứng và hưởng lợi từ
các cam kết quốc tế. Mặc dù, Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với nguồn
cung lao động dồi dào và ổn định nhưng trước xu thế hội nhập cũng đã đặt Việt Nam
trước nhiều cơ hội và thách thức mới.

Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy
định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động là một bộ phận của
dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động và dân số ngoài độ tuổi lao động đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế
quốc dân.

Tỷ lệ thất nghiệp = ( Tổng số người thất nghiệp/Nguồn lao động)x100%

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Đây là số % của dân số trong độ tuổi lao
động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nói lên tình trạng số
người trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang việc nội
trợ hoặc đang trong tình trạng khác.

Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm
kiếm việc làm, nó sẽ ảnh hưởng đến số người đang làm việc và ảnh hưởng đến kết quả
hoạt động của nền kinh tế

Hiện nay, lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ
cấu lao động trẻ. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018, Việt Nam có khoảng 94 triệu
lao động, trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm khoảng 55,16 triệu
người. Tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2018 ước tính là 54 triệu người,
bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
(chiếm 38,6%); khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người (chiếm 26,7%);
khu vực dịch vụ 18,7 triệu người (chiếm 34,7%).
Đồng thời, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua đã có sự cải thiện
đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao
động cao trong khu vực ASEAN. Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động toàn
nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102 triệu đồng/lao động (tương
đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Tính theo giá so sánh, năng suất
lao động năm 2018 tăng 5,93% so với năm 2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng
5,75%/năm, cao hơn mức tăng 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.

Song song với đó, chất lượng lao động Việt Nam trong những năm qua cũng đã
từng bước được nâng lên; Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam
đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc
phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.

Việt Nam là một trong số ít nước có thế hệ dân số vàng với khoảng gần 50 triệu
lao động trong độ tuổi được đào tạo tương đối tốt nhưng mức lương trung bình so với
mặt quốc tế là khá thấp (thấp hơn khoảng 30% so với Trung Quốc, Ấn Độ). Nhìn thấy
lợi thế này, gần đây nhiều hãng điện tử, công nghệ cao trên thế giới đã chuyển hướng
đầu tư vào Việt Nam với những dự án hàng tỷ USD thay vì vào Trung Quốc hay các
quốc gia truyền thống ở khu vực Đông Nam Á. Diễn biến phân luồng đào tạo tích cực
trong mấy năm gần đây ở Việt Nam theo hướng chuyển mạnh hơn vào đào tạo nghề
và công nhân kỹ thuật thay vì đổ xô học đại học, cao học được kỳ vọng là sẽ khắc
phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ vốn tồn tại trong một thời kỳ dài. Đội ngũ công
nhân lành nghề sau khi hết thời hạn xuất khẩu lao động ở các nước phát triển cũng là
một xu thế mới bổ sung cho chất lượng của đội ngũ lao động ở nước ta. Hơn nữa, điều
khoản tự do di chuyển lao động trong khối các nước thuộc cộng đồng kinh tế ASEAN
là một nhân tố khác có tác động tích cực tới lực lượng lao động ở Việt Nam trong
những thập niên tới. Sự cải thiện về chất lượng lao động với lực lượng lao động dồi
dào, giá nhân công thấp là một lợi thế quan trọng đóng góp vào sự tăng trưởng của
kinh tế Việt Nam.

5.1.2 Tích lũy vốn


Vốn bao gồm các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng và cơ sở
hạ tầng máy móc kỹ thuật.

Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu, do đó những thay đổi
trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và
công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên.

Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị,
phương tiện vận tải... mới được đưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền
kinh tế.

5.1.3 Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố có sẵn trong tự nhiên mà con người có
thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất. Tài nguyên thiên
nhiên như là đất đai, nước, biển và thủy sản, khoáng sản, khí hậu,...Tài nguyên thiên
nhiên có hai loại là có thể tái sinh và không thể tái sinh

+ Tài nguyên có khả năng tái sinh: Nguồn năng lượng mặt trời, thuỷ triều, sức
gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí.

+ Tài nguyên không có khả năng tái sinh: Quy mô đất đai, các loại khoáng sản,
dầu khí,..

Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình tích lũy vốn và phát triển ổn định.Với những nước được thiên nhiên ưu đãi thì
quá trình tích lũy vốn được rút ngắn do khai thác nguồn tài nguyên sẵn có. Sự giàu có
về tài nguyên là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh tế mà ít bị phụ thuộc vào nước
khác.

Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn
lao động, đặc biệt ở những vùng xa xôi hẻo lánh, cải thiện thu nhập cho người dân.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố sản xuất cổ điển,
những nguồn tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản đặc biệt là dầu mỏ,
rừng và nguồn nước. Biển Việt Nam đa dạng các chủng loài có chất lượng cao, thêm
vào đó trữ lượng cá rất lớn. Việt Nam cũng có tới ¾ diện tích là đồi núi, diện tích rừng
che phủ hơn 30%.

Mặc dù diện tích đất liền chỉ chiếm 1,35% diện tích thế giới, nhưng Việt Nam
được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống sông ngòi chằng chịt, nguồn nước ngọt của Việt
Nam chiếm 2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam
còn có các mỏ khoáng sản có giá trị trải dài từ Bắc đến Nam, với nguồn dầu hỏa và
khí đốt dồi dào, nguồn tài nguyên du lịch rất phong phú đa dạng thu hút đông đảo du
khách.

Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng như vậy, Việt Nam có
đầy đủ điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng là làm thế nào để
tài nguyên thiên nhiên được khai thác một cách hợp lý.

5.1.4 Tri thức công nghệ

Loài người đã trải qua giai đoạn nền công nghiệp thủ công với công cụ lao
động thô sơ. Ngày nay, với các loại máy móc điện tử, các thiết bị điều khiển tự
động,robot thông minh con người đang dần tiến đến giai đoạn tự động hóa quá trình
hoạt động kinh tế với sự giúp đỡ của khoa học công nghệ.

Cách mạng công nghệ không ngừng cải thiện lao động của con người từ lao
động chân tay với việc áp dụng ngày càng phổ cập kỹ thuật cơ giới hoá và tự động
hoá, đến việc lao động trí óc với việc thâm nhập ngày càng rộng rãi các máy tính và
các phương tiện thông tin viễn thông vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Cách mạng
công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến lối sống con người. Các dụng cụ gia đình dần dần
được tự động hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện lợi, đã làm
giảm nhẹ rất nhiều công việc nội trợ của phụ nữ, để họ dành nhiều thời gian cho công
việc khác như giáo dục con cái, học tập, giải trí, sinh hoạt xã hội.

Đặc điểm của yếu tố này là khó xác định sự đóng góp trực tiếp, nhưng nó thể
hiện qua việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khai thác: tăng lao động, tăng hiệu quả
sử dụng vốn, nâng cao năng suất máy móc, thiết bị. Đây là quan điểm phát triển kinh
tế theo chiều sâu. Quan điểm này được thể hiện qua hàm sản xuất của Cobb -
Douglas:

Y= T.Lα .Kβ.Rγ

Trong đó:

● Y: Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP)


● Α,β,γ: Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào
● T: Khoa học - công nghệ; L: Lao động; K: Vốn; R: Tài nguyên

5.2. Các yếu tố phi kinh tế

5.2.1 Văn hóa-Xã hội

Khi nói đến văn hóa của mỗi dân tộc, là nói tới đặc trưng riêng, tới hệ thống giá
trị văn hóa riêng của dân tộc đó. Ðây là di sản quý báu, đã được tích lũy, trao truyền
và bổ sung qua nhiều thế hệ, và chính các đặc điểm riêng trong sự sinh tồn của dân tộc
đã làm cho văn hóa mang bản sắc riêng. Ðồng thời với quá trình tích lũy, trao truyền
và bổ sung ấy, văn hóa của dân tộc còn tiếp nhận một số tinh hoa văn hóa của các dân
tộc khác thông qua quá trình tiếp biến văn hóa, và động thái này đã làm cho văn hóa
vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có tính thời đại, tính nhân loại, phù hợp với sự phát
triển kinh tế. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát
triển cao của mỗi quốc gia. Trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để
tạo ra các yếu tố về chất lượng của lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ
quản lý kinh tế - xã hội. Vì thế trình độ văn hoá cao là mục tiêu của sự phát triển. Để
phát triển lâu dài và ổn định, đầu tư cho phát triển văn hoá được coi là đầu tư cần thiết
nhất và đi trước một bước so với đầu tư sản xuất.

5.2.2 Cơ cấu dân tộc - tôn giáo

Đề cập các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ
cấu này có thể chia theo chủng tộc (sắc tộc, bộ tộc) theo khu vực sinh sống lâu đời tạo
nên những khác biệt nhất định (miền núi, miền thảo nguyên, miền đồng bằng...) theo tỉ
trọng số lượng trong tổng số dân số (thiểu số, đa số). Sự phát triển tổng thể kinh tế có
thể đem lại những biến đổi kinh tế có lợi cho dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc
khác. Đó là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc. Do vậy lấy tiêu
chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng phải đảm bảo được bản
sắc, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, tránh xung đột và sự mất ổn định chung của
cộng đồng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế

Tôn giáo cũng đi đôi với dân tộc,trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo
khác nhau và mỗi người cũng lựa chọn đi theo một tôn giáo nhất định.Mỗi tôn giáo có
những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống dân tộc từ lâu đời, tạo
ra những ý thức tâm lý -xã hội riêng. Những quan niệm,lý tưởng này có sự ảnh hưởng
tới sự tiến bộ của xã hội. Một nghiên cứu mới khác của Trung tâm Ham Khalifa oui
(2015) thuộc Đại học Tunis El Manar (Tunisia), thông qua việc nghiên cứu thực
nghiệm dữ liệu tôn giáo và kinh tế của 20 nước Hồi giáo (1990- 2014) đã chỉ ra rằng,
phần lớn các nước Hồi giáo không khuyến khích tăng trưởng kinh tế, nhưng ông rút ra
một số nhận định cụ thể và giá trị, đó là:

● Các nước Hồi giáo nếu có tỷ lệ cư dân là người Hồi giáo càng cao thì mức
phát triển kinh tế càng thấp

● Điều kiện xã hội luôn là quan trọng. Tác động tiêu cực của Hồi giáo lên
tăng trưởng kinh tế sẽ càng tăng nếu các nước Hồi giáo ấy chịu tác động
mạnh của nạn mù chữ, thất nghiệp…

5.2.3 Thể chế chính trị

Hệ thống chính trị mà đại diện là nhà nước có vai trò hoạch định đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng đắn sẽ hạn chế
được tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, khuyến khích tích lũy,tiết kiệm,đầu tư,..
làm cho nền tăng trưởng nhanh và đúng hướng.

Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên
tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ
tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây
ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ kinh tế cơ
bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây
ra xung đột chính trị, xã hội.

Một đất nước có nền chính trị ổn định sẽ tạo sự chú ý và thu hút được các nhà đầu tư
nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi tăng trưởng kinh tế.

6. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế

*Mô hình tăng trưởng Solow

Mô hình Solow-Swan là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, một mô hình kinh tế
dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển. Mô
hình này được đưa ra để có thể giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách
nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số, và sự gia tăng
năng suất. Mô hình chỉ sự ảnh hưởng của tiết kiệm, tiến bộ công nghệ đến sự tăng
trưởng theo thời gian. Mô hình còn xác định những nguyên nhân gây ra sự khác biệt
lớn về mức sống của các nước.

- Hàm sản xuất trong mô hình Solow: y=f(k)


Ta có: Y=F(K,L) -> hàm sản xuất
Chia 2 vế cho L ta được Y/L=F(K/L,1)
Đặt y=Y/L, k=K/L, f(k)=F(k,1) => Ta có hàm sản xuất mới y=f(k)

- Hàm tiêu dùng trong mô hình Solow


Nhu cầu về hàng hóa trong mô hình Solow phát sinh từ tiêu dùng (c) và đầu tư
(i) là: y = c+i.
Ta có (s) là tỷ lệ tiết kiệm (0<s<1) => c = 1-s
Solow giả định hàm tiêu dùng có dạng đơn giản như sau: c= (1-s)y
Mà: Tiết kiệm = y-c = y – (1-s)y = sy => Đầu tư i=sy=sf(k)

- Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, cố một khoản chi phí bỏ ra cho việc duy
trì, sữa chữa máy móc, nhà xưởng, chi phí này còn được khấu hao.
Giả sử tỷ lệ khấu hao là ժ => Lượng khấu hao hàng năm là ժk
k là trữ lượng vốn
⇨ Ժ = Δժk/Δk

Đầu tư sẽ làm tăng trữ lượng vốn và khấu hao sẽ làm giảm trữ lượng vốn.

Ta có: Δk = i – ժk mà i = sf(k)

⇨ Δk = sf(k) – ժk
- Trạng thái dừng theo quy tắc vàng:
Ta có c* = y*-i* =f(k*)-i*
Do đó: c*=f(k*) – ժk*
Tiêu dùng lớn nhất khi: [f(k)- ժk)’=0, tức là ժ = MPK (MPK là sản phẩm
biên của vốn)

⇨ Sự tăng trưởng của mức bình quân một công nhân không thể giải thích
được tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.

*Ý nghĩa của mô hình Solow

- Các nước nghèo có tiềm năng tăng trưởng nhanh


- Khi thu nhập quốc gia tăng lên, tăng trưởng có xu hướng chậm lại
- Tăng tỷ lệ tiết kiệm không dẫn đến tăng trưởng bền vững dài hạn.
- Tiếp thu công nghệ mới là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế bền
vững.

*Ưu điểm của mô hình Solow


- Linh hoạt hơn về tỷ lệ của các biến yếu tố sản xuất
- Hiệu suất biên dần của vốn có ý nghĩa thực tế và chính xác hơn
- Tập trung vào quá trình di chuyển về trạng thái dừng.

*Hạn chế của mô hình Solow


- Không phân tích được ảnh hưởng khác có yếu tố tác động đến trạng thái
dừng (ổn định kinh tế và chính trị, giáo dục và y tế tốt, chính phủ hiệu quả,
mở cửa thương mại, vị trí địa lý thuận lợi…….)
- Chỉ có một ngành sản xuất
- Giả định tiết kiệm, tăng trưởng lao động, tiến bộ công nghệ là yếu tố có
sẵn.

Nhưng trên thực tế các yếu tố này đều không tự sẵn mà có.

7. Những chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế

7.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Việt Nam luôn nằm trong nhóm những nước thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài
nhiều nhất thế giới, đặc biệt tiêu biểu các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Mỹ… Trong năm 2018, Việt Nam lần đầu tiên chen chân vào nhóm 20 nước
thu hút FDI nhiều nhất. Không dừng lại đó, năm 2019, Việt Nam lại cán mốc 20 tỷ
USD vốn FDI được giải ngân mặc dù FDI toàn cầu đang có xu hướng giảm cho thấy
Việt Nam có tiềm năng là rất lớn trong việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.

Tuy nhiên, Việt Nam cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả dòng vốn
FDI nhằm tận dụng tối đa nguồn lợi từ nó và giúp cho nền kinh tế nước nhà phát triển.

✔ Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách phù hợp với
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết
✔ Xử lý kịp thời vướng mắc trong vấn đề cấp phép điều chỉnh giấy chứng
nhận đầu tư
✔ Nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng (giao thông, cảng biển, ...)

✔ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ tham gia quá trình đầu tư xây
dựng

7.2. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước

Tiết kiệm và đầu tư là một vòng luân chuyển khép kín, là một yếu tố cực kỳ
quan trọng nếu muốn một nền kinh tế phát triển. Một trong những giải pháp để thực
hiện được chính sách một cách có hiệu quả:
✔ Kiểm soát kỷ luật ngân sách, đầu tư công, nhằm giảm dần mức nợ công
và thâm hụt ngân sách
✔ Khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp để nâng cao hiệu quả đầu tư tư
nhân, tăng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
✔ Tận dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư từ nước ngoài

7.3. Chính sách mở cửa nền kinh tế

Hội nhập quốc tế góp phần quan trọng trong việc nâng tầm vị thế của Việt Nam
trong việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao mức sống cho người dân. Một số tổ
chức kinh tế lớn mà Việt Nam đã gia nhập: APEC, ASEAN, WTO…

Việc mở cửa nền kinh tế và gia nhập một số tổ chức lớn trên đã mang lại cho Việt
Nam những lợi ích và thành tựu vô cùng ý nghĩa:
✔ Tác động mạnh đến tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội
✔ Góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nền kinh tế từng bước
được cơ cấu lại, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực được cung ứng đầy đủ cho
nền kinh tế
✔ Thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh giúp gia tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu
✔ Góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng
lưới các nền kinh tế lớn của thế giới

7.4. Phát triển khoa học - công nghệ

Khoa học – công nghệ là một mấu chốt cực kì quan trọng trong việc thúc đẩy
một nền kinh tế phát triển trong một thời đại đổi mới hiện nay. Nó chính là một tri
thức, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, gia tăng hiệu quả sản xuất của một
quốc gia.

Một số giải pháp phát triển khoa học – công nghệ để nền kinh tế được phát
triển một cách bền vững như sau:
✔ Tạo nguồn lực tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học – công
nghệ, vốn là nguồn tiên quyết để phát triển khoa học công nghệ
✔ Khuyến khích doanh nghiệp sản xuất tự tìm đến khoa học để thúc đẩy
nghiên cứu khoa học phát triển hơn
✔ Có chiến lược đào tạo dài hạn nhằm tăng nguồn nhân lực
✔ Tận dụng xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam để tiếp
nhận chuyển giao công nghệ của các nền kinh tế lớn trên thế giới

7.5. Chính sách về vốn nhân lực

Đầu tư và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng tăng trưởng. Cần
phải đầu tư cho giáo dục và đào tạo với tỷ trọng phù hợp.
✔ Coi trọng đầu tư và giáo dục đào tạo với quan điểm “đầu tư cho giáo
dục là quốc sách”, tiếp tục mở rộng nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo ở các cấp.
✔ Nâng cao trình độ văn hóa, trình độ nhận thức cho người lao động.
✔ Nâng cao chất lượng đào tạo cho đội ngũ giáo viên và các cán bộ quản
lý.
✔ Cần phải cải thiện hơn cũng như nâng cao về các mặt như phẩm chất
đạo đức, trình độ chuyên môn,......
✔ Đầu tư cho nguồn nhân lực có trình độ có khoa học công nghệ cao,
nắm bắt được nhanh chóng sự thay đổi của khoa học công nghệ, xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ có năng lực cao.
✔ Chú trọng đến nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn.
✔ Đầu tư đồ bộ cơ sở vật chất kỹ thuật góp phần nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế.

PHẦN II: SỐ LIỆU THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ


VIỆT NAM

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995-2018

8. Tăng trưởng GDP


Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (https://bit.ly/38QjC4U)

Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, Việt Nam đạt tăng trưởng kinh tế ấn tượng, liên
tục đứng đầu trong biểu đồ tăng trưởng. Tăng trưởng GDP giảm trong khoảng từ
1995-1999, bắt đầu tăng vào đầu những năm 2000 và đạt mức cao nhất vào năm 2018.

Theo số liệu từ IMF, kinh tế Việt Nam 2018 tăng trưởng mạnh nhất kể từ sau
2008, đạt mức 7,1%. Cũng năm này, theo thống kê từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Việt
Nam xếp thứ 122 trong danh sách tổng sản phẩm quốc nội.

Năm 1995, mở đầu cho giai đoạn trên, Việt Nam vừa hoàn thành kế hoạch 5
năm (1991-1995) vượt mức. Thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tạo tiền đề
chuyển sang thời kỳ phát triển mới – “Công nghiệp hoá- hiện đại hoá”. 1995 ghi nhận
mức tăng trưởng GDP cao nhất trong giai đoạn trên, đạt 9,5%.

Năm 1999, do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu
Á tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã giảm xuống còn 4,8% - mức thấp nhất
trong hơn hai thập kỷ qua.
9. Tăng trưởng kinh tế theo khu vực

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam


(https://bit.lyV/36AIkDi)

Vào năm 1995, Ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 27,18% trong cơ
cấu GDP, khu vực Công nghiệp và xây dựng chiếm 28,76% và dịch vụ chiếm 44,06%
trong cơ cấu GDP. Đây là năm mở đầu cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.

Sau đó, nền kinh tế Việt Nam chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tốc
độ nhanh chóng, cụ thể:

Tỷ trọng ngành Nông-lâm nghiệp, thuỷ sản có xu hướng giảm dần qua từng
năm, đến 2018, khu vực này chỉ còn chiếm 14,68% trong cơ cấu GDP. Tuy nhiên,
dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước, nội bộ ngành đã có những chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, phát triển tỉ trọng sản phẩm có năng suất, hiệu quả kinh tế và các sản
phẩm có giá trị xuất khẩu. Với sự nỗ lực đó, trong năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất
thế thới về xuất khẩu hạt tiêu, đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo, hạt điều, …
Tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và mạnh trong giai đoạn
1995 – 2004 (từ 28,76% - 41,21%), nghĩa là trong gần 10 năm, khu vực này đã tăng
trưởng hơn 10% trong cơ cấu GDP, sau đó có sự ổn định trong khoảng 33-37% và
tăng quy mô đóng góp vào GDP.

Tỷ trọng Dịch vụ có sự sụt giảm trong giai đoạn đầu (1995-2004), giai đoạn kế
tiếp từ 2005 – 2010 tăng giảm liên tục với biên độ nhẹ, và dần quay lại đà tăng trưởng
trong những năm sau với tỷ trọng giao động từ 37-41%. Mặc dù vậy, trong suốt từ
1995-2018, Dịch vụ luôn có tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế.

Năm 2019, Việt Nam đã tổ chức đánh giá lại quy mô tổng sản phẩm trong
nước.

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Việc đánh giá lại quy mô GDP không có gì liên quan đến “cách tính mới”, vì
vẫn sử dụng các phương pháp theo quy định để biên soạn GDP cũng như các chỉ tiêu
kinh tế khác.

Qua biểu đồ trên cho thấy, cơ cấu GDP sau đánh giá lại có nhiều sự thay đổi,
đặc biệt: Tỷ trọng trung bình ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (2010-2017) đã
giảm sút từ 17,4% xuống 14,7%. Khu vực Công nghiệp, xây dựng và khu vực dịch vụ
đều có biến chuyển tăng so với trước đánh giá lại, cụ thể Công nghiệp – xây dựng tăng
1,8%; Dịch vụ tăng 2%.

Việc đánh giá lại càng đánh giá đúng hơn năng lực của nền kinh tế và hiệu quả
các chinh sách. Khẳng định lại một lần nữa Dịch vụ chính là thành phần đóng góp chủ
yếu vào cơ cấu GDP Việt Nam giai đoạn 1995-2018.

1996 – 2000 là giai đoạn đánh giá bước phát triển quan trọng của kinh tế thời
kỳ mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. Nhưng cũng là giai đoạn chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính khu vực (1997-1998) và thiên tai nghiêm trọng. Tuy nhiên kinh tế
Việt Nam vẫn duy trì ở mức tăng trưởng khá. Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
4,1%; Công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%: Dịch vụ tăng 5,2%.

2001-2005, giai đoạn đổi mới đi vào chiều sâu, kế hoạch 5 năm đạt hiệu quả.
Tốc độ tăng trưởng khá cao, giai đoạn này tăng bình quân 7,5%/năm. Đặc biệt 2005
tăng 8,4%. Nông – lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,8% chiếp 20,9% trong cơ cấu GDP;
Công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; Dịch vụ tăng 7%.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành kinh tế giai đoạn 2005-
2018 (theo giá so sánh 2010)
Đơn vị: %

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018

GDP 7,55 6,98 7,13 5,66 5,4 6,42 6,24 5,25 5,42 5,98 6,68 6,21 6,81 7,08

(1) 4,19 3,8 3,96 4,69 1,91 3,29 4,23 2,92 2,63 3,44 2,41 1,36 2,9 3,76

(2) 8,42 7,29 7,36 4,13 5,98 7,17 7,6 7,39 5,08 6,42 9,64 7,57 8 8,85

(3) 8,59 8,39 8,54 7,55 6,55 7,19 7,47 6,71 6,72 6,16 6,33 6,98 7,44 7,03
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

1. Nông-lâm-thuỷ sản
2. Công nghiệp – xây dựng
3. Dịch vụ

Tốc độ tăng trưởng của các ngành có xu hướng giảm bắt đầu từ 2005-2009, sau
đó tăng từ 2010-2018; Ngành ngành nông – lâm - thủy sản ghi nhận tốc độ tăng
trưởng thấp nhất 1,91% vào năm 2009; Hầu hết chỉ số tăng trưởng các khu vực kinh tế
vào năm 2008 sụt giảm là do ảnh hưởng từ đại suy thoái toàn cầu. Tuy nhiên, khu vực
công nghiệp – xây dựng năm 2015 đã trở lại với tốc độ tăng trưởng lên tới 9,64% sau
đó có biến động giảm, song vẫn giữ ở mức cao cho đến 2018.

9.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và lạm phát

Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền.Trong thực tế, có nhiều thước đo để đo lường biến động giá cả của các quốc
gia, hay chính là đo lường lạm phát như: chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất
(PPI), chỉ số giảm phát GDP nhưng CPI vẫn được coi là thước đo phổ biến nhất để đo
lường lạm phát và được quan tâm nhiều nhất vì biến động CPI phản ánh biến động
trong mức sống của người dân. Do đó, khi nền kinh tế có lạm phát có nghĩa là có sự
gia tăng liên tục và kéo dài của CPI.

Sau đây là biểu đồ thể hiện mối tương quan giữa tăng trưởng GDP và lạm phát
của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995-2018:
Nguồn: IMF (https://www.imf.org/en/Countries/VNM)

Từ năm 1996-2007, lạm phát ở Việt Nam tương đối thấp và duy trì ở một con
số ( tức là ở mức dưới 10%).Vào năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh
tế Châu Á nên sang năm 1998 lạm phát từ 3.1% cũng đột ngột tăng lên 9.2%. Tuy
nhiên, năm 2000 lạm phát âm (-0.6%) và năm 2001 lạm phát âm (-0.3%) đây là hai
năm duy nhất có lạm phát âm trong vòng suốt 24 năm.

Năm 2008-2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới khiến lạm
phát tăng một cách đột biến lên (23.1%), Một mức lạm phát quá cao, do đó Chính phủ
phải ngay lập tức đưa ra 8 giải pháp để kiềm chế lạm phát lúc này.Chính phủ đã thực
hiện các biện pháp như thắt chặt tiền tệ, tín dụng, điều chỉnh cơ chế lãi suất, tỷ giá; tiết
kiệm chi tiêu ngân sách, sắp xếp lại kế hoạch đầu tư, cắt giảm các dự án đầu tư kém
hiệu quả; điều chỉnh thuế quan, khuyến khích xuất khẩu và tăng cường quản lý nhập
khẩu, giảm nhập siêu; chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp giảm chi phí sản xuất, chống
đầu cơ, tăng cường quản lý thị trường giá cả; tiếp tục thực hiện các biện pháp hỗ trợ
để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, cân đối cung - cầu...Nhờ vậy, tình hình thị trường
đang từng bước ổn định trở lại.
Trong 2 năm 2008 - 2009, kinh tế Việt Nam không những phải gánh chịu tác
động của cơn bão lạm phát cao trong nước mà còn đối mặt với những ảnh hưởng nặng
nề từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.Với những biện pháp kịp thời và linh hoạt
của Chính phủ, tình hình lạm phát các tháng cuối năm 2008 đã được kiềm chế, tuy vậy
giá cả vẫn ở mức cao và vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp.

Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015, nhờ phối hợp tốt chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa nên đã thực hiện tốt nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Nguyên nhân
chính góp phần làm CPI năm 2015 thấp nhất trong suốt 18 năm là chi phí đẩy giảm,
đặc biệt giá dầu thế giới giảm mạnh khiến giá xăng, giá gas trong nước đều giảm và từ
đó góp phần làm chỉ số giá nhóm hàng “nhà ở và vật liệu xây dựng”, “giao thông” cả
năm lần lượt giảm.

2015-2018 là giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đặc biệt 2018 là năm nền kinh
tế tăng trưởng mạnh mẽ nhất, GDP đạt 7.08%, CPI bằng 3.5%

Như vậy có thể thấy trong vòng hơn 25 năm trở lại đây, tỷ lệ lạm phát của Việt
Nam lên xuống hết sức thất thường, không ổn định khi ở mức 2 con số, khi ở mức một
con số và thậm chí có thể xuống dưới cả 0%. Nguyên nhân lạm phát thiếu ổn định như
vậy là do các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế mang tính ngắn hạn, thiếu tầm nhìn
dài hạn, những năm lạm phát thấp trước đây chủ yếu do giá lương thực thực phẩm và
giá cả các mặt hàng thiết yếu trên cả thế giới giảm thấp.

Lạm phát có thể có tác động tiêu cực hoặc tích cực đến nền kinh tế tùy thuộc
vào cú sốc cung hay cú sốc cầu tại thời điểm đó.Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
lạm phát là mối quan hệ dài hạn, nếu không có bất kỳ cú sốc nào thì lạm phát vẫn tác
động tới tăng trưởng kinh tế một mức trung bình khoảng 10%. Ngưỡng lạm phát cho
nền kinh tế Việt Nam hợp lý là 3,5%/năm.

Để kiềm chế lạm phát thì Nhà nước cũng tiến hành phối hợp thực hiện đồng
thời hai chính sách là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính sách tài khóa là
việc sử dụng chi tiêu của chính phủ và thu ngân sách để tác động đến nền kinh
tế.Chính sách tài khóa thao túng mức độ tổng cầu trong nền kinh tế để đạt được mục
tiêu kinh tế là ổn định giá cả, việc làm đầy đủ và tăng trưởng kinh tế.Chính sách tiền
tệ là quá trình mà cơ quan tiền tệ của một quốc gia kiểm soát việc cung cấp tiền,
thường nhắm mục tiêu điều chỉnh lạm phát, tỷ giá hối đoái với các đồng tiền khác và
tỷ lệ thất nghiệp.

Về chính sách tài khóa: Cần điều chỉnh chính sách thuế theo hướng tăng thu
ngân sách nhưng giảm dần thuế suất, mở rộng phạm vi và đối tượng nộp thuế; Giảm
bớt các nhóm mặt hàng không chịu thuế và thuế suất ưu đãi, đảm bảo nguyên tắc công
bằng trong thu thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế; Kiểm soát chi tiêu công và nâng
cao hiệu quả quản lý chi tiêu công; Giải quyết thâm hụt ngân sách hợp lý nhưng
không gây áp lực lên lạm phát.

Về chính sách tiền tệ: Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, chính sách
thắt chặt tiền tệ nên tiếp tục duy trì nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát. Theo đó, cần
tăng dự trữ bắt buộc, hạn chế gia tăng lãi suất cho vay nhằm khuyến khích đầu tư sản
xuất, giảm lợi ích giữ đồng USD để tránh tình trạng nắm giữ đồng USD và phân tán
nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế.

9.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và thất nghiệp

Thất nghiệp tăng có nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy động vào
hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên; là sự lãng phí lao động xã hội- nhân tố cơ bản
để phát triển kinh tế- xã hội. Thất nghiệp tăng lên cũng có nghĩa nền kinh tế đang suy
thoái- suy thoái do tổng thu nhập quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng; suy thoái do
thiếu vốn đầu tư (vì vốn ngân sách bị thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người
lao động mất việc làm…). Thất nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế
đến (bờ vực) của lạm phát.

*Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động

Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do
đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn. Điều đó ảnh hưởng
đến khả năng tự đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp, trở lại thị trường lao động; con
cái họ sẽ khó khăn khi đến trường; sức khoẻ họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi
dưỡng, để chăm sóc y tế…Có thể nói, thất nghiệp “đẩy” người lao động đến bần cùng,
đến chán nản với cuộc sống, với xã hội; dẫn họ đến những sai phạm đáng tiếc…

*Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội

Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng lãn công, bãi
công, biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống… tăng lên: hiện tượng tiêu cực xã hội
cũng phát sinh nhiều lên như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm…; Sự ủng hộ của
người lao động đối với nhà cầm quyền cũng bị suy giảm… Từ đó, có thể có những
xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến động về chính trị.

Tỷ lệ thất nghiệp ở những người trẻ tuổi cao hơn so với người có tuổi với tay
nghề và kinh nghiệm lâu năm.

*Lợi ích của thất nghiệp

- Thất nghiệp ngắn hạn giúp người lao động tìm công việc ưng ý và phù hợp
với nguyện vọng và năng lực làm tăng hiệu quả xã hội.

- Lợi ích xã hội: Làm cho việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn
và góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.

- Thất nghiệp mang lại thời gian nghỉ ngơi và sức khỏe.

- Thất nghiệp mang lại thời gian cho học hành và trau dồi thêm kỹ năng.

- Thất nghiệp tạo sự cạnh tranh và tăng hiệu quả.

*Hậu quả của thất nghiệp

- Công nhân tuyệt vọng khi không thể có việc làm sau một thời gian dài

- Khủng hoảng gia đình do không có thu nhập

- Cá nhân thất nghiệp bị mất tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp
- Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp các
nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và
dịch vụ

- Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất
theo quy mô.

- Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn
nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc
làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. Các doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.

*Các chính sách để khắc phục thất nghiệp

- Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống dịch vụ việc làm

- Xem xét điều chỉnh tiền lương tối thiểu, đảm bảo tính cân đối giữa các khu
vực có đầu tư nước ngoài và trong nước nhằm mục đích mở rộng thu hút vốn lao động

- Cần có các chính sách đầu tư phát triển kinh tế xã hội ở các vùng trung du,
miền núi, hải đảo và nông thôn nghèo.

- Tăng cường các chính sách hỗ trợ lao động : giảm tuổi về hưu, giảm giờ làm,

- Hạn chế gia tăng dân số

- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động

- Xúc tiến xây dựng việc làm và chống thất nghiệp.

- Thành lập hệ thống hội đồng tư vấn việc làm từ trung ương đến địa phương

- Đưa ra các giải pháp để chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, giải pháp
kích cầu và đầu tư tiêu dùng đề thúc đẩy sản xuất và tạo thêm việc làm cho người lao
động
- Chính sách thu hút vốn đầu tư

- Chính sách xuất khẩu lao động

9.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và vốn đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là toàn bộ tiền vốn bỏ ra (chi tiêu) để làm tăng
hoặc duy trì năng lực sản xuất và nguồn lực để nâng cao mức sống vật chất và tinh
thần của toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định.

Nước ta xuất phát từ một nước nghèo nàn và lạc hậu thì nguồn vốn lại là một
yếu tố vụ cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Không có tiền
chúng ta không thể làm được gì , không có tiền chúng ta không thể mọc thêm các nhà
máy sản xuất , không thể tận dụng nguồn lao động dồi dào của nước ta, không thể tận
dụng những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta.

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (https://bit.ly/3nswceD)


Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam (https://bit.ly/35AacrW)

Trong năm 2006, khi Việt Nam hoàn tất đàm phán gia nhập WTO thì dòng vốn
FDI tăng lên với một mức nhanh chóng.

Năm 2008 được coi là năm có số vốn đăng ký FDI cao trong lịch sử thu hút đầu
tư trực tiếp vào Việt Nam với hơn 10 tỷ USD vốn FDI thực hiện.

Nếu xét về tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cả thời kỳ 2001-2006 chỉ tăng 13,3%
thì sau một năm tham gia WTO (năm 2007) đã tăng lên 27%. Nguyên nhân khiến
cho đầu tư toàn xã hội năm 2007 tăng cao là khu vực FDI và ngoài nhà nước tăng
với tốc độ kỷ lục 93,4% và 26,9%.

Tuy nhiên, từ năm 2009, sau khi khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 diễn ra,
tiếp đến là khủng hoảng nợ công châu Âu (năm 2010), FDI vào Việt Nam sụt giảm
đáng kể. Cùng với việc đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô từ năm 2012, FDI vào
Việt Nam cũng đã tăng trưởng trở lại và ổn định cho tới hiện nay.

*Đóng góp của FDI:

- Góp phần bổ sung vốn đầu tư xã hội: Vốn FDI là nguồn bổ sung vốn quan
trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn FDI thực hiện năm 2018 đạt
gần 20 tỷ USD là con số lớn, chiếm gần 1/4 tổng vốn đầu tư toàn xã hội và góp phần
20% giá trị GDP

- Thúc đẩy xuất khẩu, mở rộng quan hệ đối ngoại, góp phần nâng cao năng lực
đổi mới sáng tạo, năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại

- Góp phần nâng cao trình độ công nghệ: FDI có thể coi là kênh quan trọng để
phát triển công nghệ. Qua khu vực FDI, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ
tiên tiến của thế giới phát triển các ngành sử dụng công nghệ hiện đại như: Điện tử, cơ
khí, công nghiệp phần mềm, công nghệ sinh học…

- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, từng bước cải thiện chất lượng
nguồn nhân lực

*Thách thức, khó khăn do tác đô ̣ng hai mă ̣t của FDI:

- Liên kết giữa khu vực FDI và khu vực trong nước chưa đạt như kỳ vọng, tỷ lệ
“nội địa hóa” trong một số ngành công nghiệp thấp, giá trị gia tăng trên một đơn vị
sản phẩm không cao.

- Nhiều dự án FDI tập trung ở một vài công đoạn trong các ngành sử dụng
nhiều lao động để gia công, lắp ráp và chế biến; Đầu tư của khu vực FDI vào lĩnh vực
sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn rất hạn chế.

- Khu vực FDI vẫn còn nhiều hành vi tiêu cực, trốn tránh nghĩa vụ tài chính,
một số doanh nghiệp FDI có biểu hiện lạm dụng chính sách ưu đãi, cơ chế “chuyển
giá” để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước và tình trạng kinh doanh
thiếu minh bạch, cạnh tranh không lành mạnh.

- Trong quá trình kinh doanh ở Việt Nam, nhiều DN FDI chỉ tập trung vào khai
thác tài nguyên thiên nhiên, gây tàn phá môi trường tự nhiên, ô nhiễm không khí, ô
nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm bụi…
*Chính sách thúc đẩy đóng góp FDI cho nền kinh tế:

- Ưu tiên thu hút vốn FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ
mới, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghệ thông tin và viễn
thông, điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới…

- Xác định việc thu hút FDI vừa là thời cơ, vừa là thách thức, từ đó xây dựng
mối quan hệ hợp tác, đôi bên cùng có lợi. Để nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị
sản phẩm, tăng tỷ lệ “nội địa hóa” cần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn,
công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại, tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu; Góp phần nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, năng lực cạnh tranh quốc gia,
DN và sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam.

- Có chiến lược đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật làm việc trong các
doanh nghiệp FDI về chuyên môn nghiệp vụ, tác phong, thái độ làm việc. Trau dồi
cho cán bộ quản lý hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại kỹ năng khai thác thị
trường, kỹ năng kinh doanh và luật pháp quốc tế... Quan tâm đến chính sách tiền
lương, xây dựng các tổ chức công đoàn trong các DN FDI để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho người lao động Việt Nam

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đầu tư theo
hướng công khai, minh bạch, đảm bảo tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Đảm bảo tính rõ ràng, chi tiết, dễ dàng áp dụng và minh bạch các thủ tục để cải thiện
môi trường đầu tư. Đồng thời, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật nhằm khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chuyển giao công nghệ, đảm bảo tính
hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với hoạt động này, ngăn tình trạng “chuyển giá”,
trốn thuế, trốn tránh nghĩa vụ tài chính qua các hợp đồng chuyển giao công nghệ.

10. Tiến bộ công nghệ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

*Hiệu quả lao động:


https://docs.google.com/spreadsheets/d/1efoq9yQKMK4zWOKCwYlDfhsaUZHxUj
vtVFDpXqV_cVw/edit?
fbclid=IwAR0uE9svyUI4OacvrDAwwukuFNe5hvACyMKrezoss_Oe3v188h3WJnY
Fm9g#gid=97555149 ( Dữ liệu đã được nhóm thu thập từ nhiều nguồn tư liệu khác
nhau)

You might also like