You are on page 1of 528

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH


TỦ SÁCH CÁT MINH - 002
THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ
TOÀN TẬP

Tập 2

ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH


Nguyên tác:

Subida al Monte Carmelo

Bản dịch của

NGUYỄN UY NAM và Lm. TRĂNG THẬP TỰ

NHÀ XUẤT BẢN PHƢƠNG ĐÔNG

2018
IMPRIMATUR

Qui Nhơn, ngày 20 tháng 11 năm 2017

 Matthêô Nguyễn Văn Khôi

Giám mục Giáo phận Qui Nhơn


Dẫn vào
“ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH”

I. ĐỈNH CAO NHẮM ĐẾN


Những dòng đầu tiên của lời phi lộ đã cho ta thấy rõ
mục tiêu mà thánh Gioan Thánh Giá muốn dẫn đƣa các độc
giả ngài đến, đó là “đạt tới ánh sáng thần linh của việc nên
một trọn vẹn với Thiên Chúa trong tình yêu nhƣ ngƣời ta có
thể có đƣợc ở đời này”. Dọc dài tác phẩm, thánh nhân sẽ
dùng nhiều nét khác nhau để xác định bản chất của mục tiêu
ấy: “linh hồn đƣợc kết hiệp nên một với Thiên Chúa và đƣợc
biến đổi nhờ tình yêu”.
Những chiều sâu thẳm của sự biến đổi ấy sẽ đƣợc thánh
nhân phân tích với những tƣ tƣởng cũng nhƣ từ ngữ diễn tả
rất chính xác. Ngài không bỏ sót điều gì trong những điểm
quan trọng chính yếu của mục tiêu ấy: Ân sủng có năng lực
đồng hóa tới mức nào, tình yêu có khả năng làm cho đôi bên
trở nên giống nhau, bất chấp những trở ngại đƣợc mô tả cách
bình thản, cũng nhƣ những cấp độ khác nhau dành cho các
linh hồn…
6 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Cũng không đƣợc hấp tấp biến việc kết hiệp nên một
với Thiên Chúa nhờ tình yêu thành một định đề toán học.
Không đƣợc đƣa sự chính xác máy móc của các quy luật vật
lý vào lãnh vực tâm linh. Việc kết hiệp nên một với Thiên
Chúa nhờ tình yêu nói đây tự bản chất có tính tƣơng đối, nó
tùy thuộc vào các khả năng của mỗi linh hồn.
Đọc kỹ thánh Gioan Thánh Giá, ta sẽ thấy ngài muốn
hiểu rằng ẩn sau một cách diễn tả đồng bộ nào đó, sự kết
hiệp nên một ấy đƣợc thể hiện rất đa dạng.
Xét trong cốt yếu, mục tiêu ấy vẫn là một đối với mọi
ngƣời. Mặc dù Thánh Gioan Thánh Giá vẫn thƣờng đề cập
đến những mức độ khác nhau trong việc thực hiện mục tiêu
ấy, khi ám chỉ đến những linh hồn thiếu lòng quảng đại, ngài
đau đớn ghi nhận rằng số linh hồn đạt đến tầm vóc trƣởng
thành thật ít ỏi, thế nhƣng ngài không bao giờ nêu ra một
mục tiêu nào khác, bởi lẽ, làm sao tìm thấy nơi Tin mừng
một thứ mục tiêu khác?
Đường Lên Núi Cát Minh thƣờng xuyên nhắc đến mục
tiêu ấy nhƣ một luận chứng cho nên, mặc dù xét bề ngoài tác
phẩm có vẻ lý thuyết nhƣng thực ra nó là một tác phẩm nêu
bật kiến thức thực hành. Để trở thành một nhà siêu hình học
sành sỏi, trƣớc tiên thánh Gioan Thánh Giá đã là một nhà
thực hành có tầm cỡ.
Trong quyển Dẫn vào Đường Lên Núi Cát Minh1, cha
Giêrađô đã nêu bật việc thánh Gioan Thánh Giá không

1
Ấn bản Critica q. I trang 6.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 7

ngừng nhắc nhở độc giả hƣớng mắt nhìn lên đỉnh cao hoàn
thiện. Phải nói thêm rằng đây không phải là phƣơng thế giả
tạo vay mƣợn ở thuật hùng biện mà là một hệ luận hết sức
quan trọng nơi tác phẩm của vị tiến sĩ huyền giao. Ta cảm
nhận đƣợc sức sinh động của mục tiêu phải đạt đến trên mọi
trang sách. Cả khi không đƣợc nêu rõ, mục tiêu ấy vẫn có
ảnh hƣởng lớn vì độc giả vẫn có thể dễ dàng đoán ra đƣợc.
Cấu trúc chung của tác phẩm Thánh Gioan Thánh Giá, bố
cục ngài chọn, cách phân đoạn và phƣơng pháp của ngài
trong đó có thể có phần hoạt động cá nhân, cũng nhƣ thái độ
thánh nhân khuyến cáo chúng ta khi đã vƣợt khỏi tình trạng
cam chịu, tất cả đều đƣợc trực tiếp dẫn dắt do sự tìm kiếm
hiệp nhất với Thiên Chúa nhờ tình yêu. Có lẽ chính nhờ đó
mà những trang sách đƣợc viết ra trong mối bận tâm duy
nhất này mang sắc thái một cái gì tuyệt đối, một dáng vẻ
trinh nguyên.
Tình yêu là điểm đến sẽ hoàn tất sự giống nhau giữa
đôi bên và thực hiện sự kết hiệp nên một. Tuy nhiên, tình yêu
cũng là phƣơng tiện. Tình yêu hiện diện ngay từ khởi điểm.
Tổng hợp của tƣ tƣởng thánh Gioan Thánh Giá sẽ đƣợc thực
hiện xoay quanh khái niệm tình yêu, nếu không, nó sẽ bị méo
mó. Nhƣ thế, không hề có nghĩa là xem thƣờng những dữ
liệu trí thức chàng sinh viên từng học hành đàng hoàng ở
Salamanca gặt hái đƣợc, nhƣng chính là để nhấn mạnh chỗ
đứng ƣu tiên của tình yêu, cả trong việc xác định mục tiêu
cũng nhƣ việc lựa chọn các phƣơng tiện.
Dƣới ngòi bút Thánh Gioan Thánh Giá, có một từ
thƣờng đƣợc dùng vừa để chỉ mục tiêu vừa để chỉ phƣơng
8 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tiện, đó là từ chiêm niệm. Chúng ta chớ lầm lẫn! Cũng nhƣ từ


nguyện ngắm đối vơí thánh nữ Têrêxa Avila, từ chiêm niệm
đối với thánh Gioan Thánh Giá là môt từ đặc biệt phong phú
với nội dung bao gồm tất cả toàn bộ tƣơng quan của linh hồn
với Thiên Chúa. Đây không phải là một cuộc thao luyện.
Theo mẹ thánh Têrêxa, toàn bộ đời sống phải đƣợc đƣa vào
nguyện ngắm. Cũng thế, với thánh Gioan Thánh Giá, toàn bộ
đời sống phải đƣợc đƣa vào chiêm niệm. Ngƣời ta ghi nhận
rất đúng rằng nơi các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá
những từ ngữ khác nhau: chiêm niệm, nên một với Thiên
Chúa và sự hoàn thiện, trong thực tế có ý nghĩa tƣơng đƣơng.
Việc chiêm niệm mà thánh Gioan Thánh Giá hƣớng dẫn môn
đệ không phải là kết quả của một hoạt động thuần túy trí tuệ
hoặc một thái độ hoàn toàn duy trí thức mà là sự thấu suốt của
một tình yêu hiến dâng tất cả cho Đức Tình Quân để từ đó kết
hiệp nên một với Ngài trong đức tin không gì ngăn trở.

II. NẺO HOÀN THIỆN


Có hai tác phẩm nhắm mô tả chủ yếu về cuộc hành
trình thƣờng là đau đớn của linh hồn đang tiến bƣớc về đỉnh
cao hiệp nhất là Đường Lên Núi Cát Minh và Đêm Dày. Đó
là hai tác phẩm bổ sung nhắm đến cùng một lộ trình. Tác
phẩm đầu mô tả vai trò chủ động của linh hồn, và những
sáng kiến, kể cả những “sáng tạo” của nó (1Lên 14) – theo
nghĩa thƣờng dùng trong ngôn ngữ tình yêu. Linh hồn đóng
vai chủ động khi nó nỗ lực tự một mình mình bƣớc lấy
những bƣớc đầu trên con đƣờng lởm chởm dẫn đến đỉnh núi
Hoàn Thiện. Linh hồn cũng còn chủ động khi phải thực hành
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 9

một sự khổ hạnh tinh tế hơn, đang khi ảnh hƣởng của ân
sủng, vƣợt khỏi mọi sáng kiến cá nhân và không còn theo bất
cứ con đƣờng nào đã vạch sẵn, vẫn đang mạnh mẽ lôi kéo nó
tiến về đỉnh cao duy nhất. Tác phẩm sau mang tựa đề Đêm
Dày nêu rõ sáng kiến của Thiên Chúa đến tiếp trợ sự bất lực
của linh hồn. Cho dù thiện chí và những nỗ lực của linh hồn
có thế nào đi nữa, sáng kiến này vẫn cần thiết. Sáng kiến này
đánh dấu một sự thay đổi về nguyên lý và quy tắc trên những
bƣớc tiến tâm linh. Dầu vậy, sáng kiến của Thiên Chúa vẫn
không loại trừ mọi phản ứng cũng nhƣ mọi sự chuẩn bị từ
phía linh hồn. Và sẽ cứ nhƣ vậy cho đến tận đỉnh cao của đời
sống tâm linh đƣợc mô tả trong Ca Khúc Tâm Linh và Ngọn
Lửa Tình Nồng.
Nếu muốn minh họa cụ thể hoạt động hai chiều trên lộ
trình tâm linh mà thánh Gioan Thánh Giá mô tả (dƣới khía
cạnh chủ động và dƣới khía cạnh thụ động), ta có thể kẻ một
đƣờng thẳng từ dƣới lên tƣợng trƣng vai trò cá nhân trong
hoạt động của linh hồn. Rồi từ một điểm nào đó trên đƣờng
thẳng này, vẽ một cung tròn tách ra từ đƣờng thẳng ấy và sẽ
gặp lại đƣờng thẳng ấy tại đỉnh, để biểu thị sáng kiến của
Thiên Chúa.
Ở đầu đời sống tâm linh, phần lớn thời gian một mình
linh hồn chuyên cần cố gắng theo cung cách của “con cái
loài ngƣời”. Ít ra là ơn thƣờng sủng đang giúp linh hồn hoạt
động tạo cho linh hồn ấn tƣợng ấy. Đó là giai đoạn khổ hạnh
thuần túy. Không bao lâu sau đó, sớm hoặc muộn tùy theo
mức quảng đại linh hồn đã chấp nhận vì Thiên Chúa mà lột
bỏ tất cả những gì không phải là Thiên Chúa. Linh hồn sẽ
10 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cảm nhận đƣợc ảnh hƣởng của Thiên Chúa song song với
hoạt động riêng của mình. Đường Lên bắt đầu trƣớc Đêm
Dày. Xét theo góc độ thời gian, có sự chênh lệch ở điểm khởi
hành. Kế đó, cả hai tác phẩm trình bày những tình trạng rõ là
xảy ra cùng lúc. Giữa hai cách mô tả rất thƣờng có sự đồng
điệu. Không phải đêm giác quan đƣợc xem xét dƣới khía
cạnh chủ động (trong Đường Lên) tƣơng ứng với đêm giác
quan đƣợc nhắm đến dƣới khía cạnh thụ động (trong Đêm
Dày), nhƣng là mỗi điểm trên lộ trình đƣợc mô tả trong Đêm
Dày đòi phải có một thái độ đƣợc trình bày trong Đường Lên
vào lúc này hoặc lúc khác của lộ trình.
Nhƣ thế, có cần phải nói dài dòng rằng hai tác phẩm ấy
không thể tách rời nhau chăng? Những luận chứng tuyệt vời
đƣợc trƣng dẫn ra chứng tỏ rằng trong tƣ tƣởng thánh Gioan
Thánh Giá, hai tác phẩm ấy kết thành một tác phẩm duy
nhất. Trong dự phóng ban đầu của tác giả, tác phẩm ấy đƣợc
chia ra làm hai phần chính yếu. Tác phẩm mà chúng ta gọi
vắn tắt là Đêm Dày đã đƣợc chính thánh Gioan Thánh Giá
gọi rõ là: Đêm Dày của Đường Lên Núi Cát Minh2. Vì lẽ đó,
sự kiện hai tác phẩm có những phân đoạn chính giống nhau,
là chuyện bình thƣờng.
Đêm theo Thánh Gioan Thánh Giá có nghĩa là từ bỏ các
sự vật, một cách tự nguyện hoặc thụ động hứng chịu. Đêm
theo nghĩa ấy trƣớc hết đƣợc thực hiện nơi phần khả giác của
con ngƣời: do đó mà có đêm giác quan chủ động hay chủ ý
(và song song là đêm giác quan thụ động hay thuận tình); kế

2
Xem Ngọn Lửa Tình Nồng.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 11

đó là nơi phần tâm linh, tức là đêm tâm linh chủ động (và thụ
động).
Có thể diễn tả bằng đồ hình sau:
Chủ động của giác quan – của tâm linh
(Đường Lên)
Đêm

Thụ động của giác quan – của tâm linh


(Đêm Dày)
Xét riêng theo tác phẩm Đường Lên có hai phần chính mà
phần thứ hai (đêm tâm linh) đƣợc chia nhỏ dựa theo ba quan
năng của linh hồn: Trí hiểu, dạ nhớ3 và lòng muốn (ý chí).
Từ đó, chúng ta có lƣợc đồ sau đây:
Quyển I: Đêm giác quan.
Quyển II: Đêm tâm linh: Đêm của trí hiểu.
Quyển III: Đêm tâm linh: Đêm của dạ nhớ (Ch I –
XIV).
Đêm của lòng muốn (Ch XV – hết).

3
Trong tiếng Việt ta có thể dịch memoria nhiều cách nhau khác:
ký ức, trí nhớ, bộ nhớ, dạ nhớ. Chúng tôi chọn dịch là dạ nhớ, để
đồng bộ với trí và lòng. Đây từ ta gặp trong Chinh Phụ Ngâm, câu
30:
Nƣớc trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên.
12 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Lời mở đầu rõ ràng là viết chung cho cả Đường Lên lẫn


Đêm Dày bởi lẽ, Đêm Dày là tác phẩm duy nhất của thánh
Gioan thánh giá không có lời mở đầu. Đó là điều hợp lý vì
nhƣ chúng tôi đã nói, Đêm Dày đứng một mình thì tự nó sẽ
không đầy đủ. Nó chỉ là một phần của tác phẩm toàn bộ là
Đường Lên - Đêm Dày; thậm chí nhiều điểm trong lời mở
đầu của Đường Lên chỉ phù hợp với Đêm Dày.
Trong quyển I của tác phẩm Đường Lên Núi Cát Minh,
phải lƣu ý tới một nhận xét tƣơng tự. Hai chƣơng đầu tiên là
những chƣơng chung cho toàn bộ Đường Lên - Đêm Dày.
Chúng đƣa ra những nguyên tắc chung và những định nghĩa
sẽ đƣợc dùng nhƣ nhau trong cả hai tác phẩm.
Tiếp đó, tác giả bàn về đêm giác quan. Tuy nhiên mƣời
chƣơng tiếp theo có thể dùng để chuẩn bị cả cho đêm thuận
tình lẫn đêm chủ ý. Chúng dệt nên những điều phải biết trƣớc
trong học thuyết thánh Gioan Thánh Giá về những mê thích
khả giác.
Nếu nói một cách khắt khe, đêm giác quan chỉ bắt đầu
ở chƣơng XIII. Đọc kĩ phần đầu của chƣơng này đủ thấy
rằng chỉ sau khi đã đƣa ra những chỉ dẫn có giá trị đối với
đêm chủ động lẫn đêm thụ động, thánh Gioan Thánh Giá mới
thật sự chuyển hƣớng và tập trung hẳn vào đêm chủ động. Ba
chƣơng ngắn gọn và tuyệt vời đủ để trình bày tất cả tƣ tƣởng
của thánh nhân về chủ đề ấy.
Những phần khác trong tác phẩm Đường Lên không mấy
khó khăn. Nơi đêm tâm linh, thánh nhân tuần tự bàn về những
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 13

từ bỏ phải thực hiện đối với trí hiểu, dạ nhớ và cuối cùng là đối
với lòng muốn. Phần cuối cùng này vẫn chƣa hoàn tất.

III. ĐÊM GIÁC QUAN


Muốn nghiên cứu rốt ráo đêm giác quan không thể chỉ
dừng lại với quyển I của Đường Lên bởi lẽ phần cảm tính chỉ
có thể gây trở ngại cho việc nên một với Thiên Chúa trong
mức độ nó bị lòng muốn điều khiển. Rõ ràng là phần cảm
tính ấy sẽ chỉ thật sự đƣợc thanh luyện vào lúc lòng muốn
đƣợc thanh luyện. Vì thế, muốn cho việc nghiên cứu đêm
giác quan đƣợc trọn vẹn, ngƣời ta phải vay mƣợn nhiều điểm
liên quan nơi những phần khác của tác phẩm Đường Lên.
Đêm giác quan chủ động là công việc tiêu biểu của
những người mới bắt đầu trên đƣờng tâm linh. Trong thuật
ngữ của thánh Gioan Thánh Giá, điều chủ yếu nơi ngƣời mới
bắt đầu là việc ngƣời ấy còn phải dùng tới suy niệm (1Đêm
1). Nhƣ thế, cụm từ mới bắt đầu ở đây không nhất thiết mang
ý nghĩa thời gian nhƣng là phẩm chất. Ngƣời ta có thể kéo lê
tình trạng mới bắt đầu suốt cả đời. Trong thực tế ngƣời ta có
thể bỏ qua giai đoạn này, ít là nơi những gì liên quan tới việc
dùng phƣơng pháp suy niệm. Tuy nhiên ngƣời ta không bao
giờ có thể tự chƣớc miễn khỏi trải qua đêm giác quan chủ
động. Ai cũng phải ra sức hãm dẹp con ngƣời khả giác của
mình nếu nhƣ nó gây trở ngại cho việc kết hiệp nên một với
Thiên Chúa. Bản chất và mức độ độc hại của những mê thích
khả giác khác nhau đƣợc thánh nhân sáng suốt phân tích chi
tiết, đôi khi thật gay gắt.
14 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Trái với những gì ngƣời ta thƣờng nghĩ, nơi thánh


Gioan có đủ tất cả những yếu tố cần thiết cho việc đào sâu
suy niệm. Chắc hẳn thánh nhân không lên lớp để nói về vấn
đề này. Tuy nhiên, theo chứng từ của José de Jésus-Marie
(Quiroga), Thánh Gioan Thánh Giá vốn rất xuất sắc trong
việc hƣớng dẫn các tập sinh thực hành suy niệm để đƣa họ
tới chiêm niệm cách vững chắc, nên ngài đã không quên đƣa
ra những chỉ dẫn rất hữu ích cho vấn đề ấy.
Chủ đề thông thƣờng của suy niệm là đời sống Đức
Kitô (1Lên 13), vận hành tâm lý tiêu biểu của suy niệm (khởi
đi từ công việc của trí tƣởng tƣợng, kiến trúc của trí tuệ đƣa
đến một thái độ trìu mến kéo dài lâu hay mau), sự cần thiết
của việc suy niệm ấy, cách thức đơn giản hóa việc suy niệm
hoặc hƣớng suy niệm về một cái nhìn đơn giản nội tâm trìu
mến, thời điểm khó khăn khi phải chuyển từ cố gắng bản
thân sang tình trạng hầu nhƣ hoàn toàn bị Thiên Chúa “chi
phối”… vân vân và vân vân... tất cả những điều ấy đều đƣợc
ghi nhận với kinh nghiệm của một nhà tâm lý có cái nhìn
sáng suốt và luôn nhân hậu. Nhờ đó, ngƣời ta đã có thể tránh
cho các linh hồn biết bao sự vụng về và đau khổ!
Một bản văn quan trọng của tác phẩm Đường Lên
(2Lên 29) đƣợc các bản văn khác triển khai, cho thấy thánh
Gioan Thánh Giá cũng đã biết đến việc suy niệm thuần trí
thức hoặc triết học. Nếu nhờ kinh nghiệm, ngài biết rằng việc
suy niệm thƣờng vận dụng trí tuệ và đƣơng nhiên có trí
tƣởng tƣợng nhúng vào (mà mỗi ngƣời có thể tùy ý giản lƣợc
vào cách diễn tả đơn giản nhất của mình) thì ngài cũng biết
rằng lắm ngƣời, sống động và tinh tế hơn, thực tế đã đi đến
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 15

chỗ thoát khỏi hoạt động của các tài năng bên trong để hài
lòng với một thứ sắp xếp các khái niệm và dễ rơi vào ảo
tƣởng. Thế nhƣng tất cả điều đó, dù đƣợc làm cho tinh tế hơn
tới hàng trăm lần thì cũng chỉ là công việc của con ngƣời và
phải dừng lại để Thiên Chúa có thể thực hiện công trình của
Ngài trong linh hồn.
Đối với vị tiến sĩ huyền giao, sở dĩ có suy niệm chính là
để hƣớng linh hồn đến chiêm niệm. Ngài đã chỉ đề cập tới
suy niệm khi bàn về chiêm niệm. Không gì nghịch lý khi nói
rằng suy niệm theo thánh Gioan thánh giá có tính chiêm
niệm cũng tựa nhƣ nói rằng việc khổ hạnh của thánh nhân có
tính chất huyền giao. Nói chính xác là phải nói nhƣ thế.
Quả thật, nếu nhƣ suy niệm đối với thánh Gioan Thánh
Giá chủ yếu hƣớng về chiêm niệm thì sự khổ hạnh đƣợc mô
tả trong đêm giác quan chủ động cốt yếu hƣớng về huyền
giao. Đó là điều đem lại cho khổ hạnh của ngài một tính chất
riêng, tạo nên nét độc đáo sâu sắc nơi những trang đầu tác
phẩm Đường Lên mà một cái nhìn hời hợt vẫn tƣởng là thứ
khổ hạnh cổ điển không hơn không kém.
Ngƣời ta có thể viết rằng: “Đối với một ngƣời nhƣ
thánh Gioan Thánh Giá, những quy tắc về khổ hạnh sẽ mang
tính huyền giao chứ không hẳn là khổ hạnh”4. Những quy tắc
ấy mang tính huyền giao vì tự bên trong vốn hƣớng về sự kết
hiệp nên một với Thiên Chúa nhờ tình yêu. Chúng mang tính
huyền giao nhờ cái động lực kì lạ làm sống lên những trang

4
J. Baruzi Thánh Gioan Thánh Giá và vấn đề kinh nghiệm huyền giao.
16 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

viết đáng sợ và cháy bỏng của chƣơng XIII, quyển I Đường


Lên Núi Cát Minh.
Những quy tắc ấy còn mang tính huyền giao nhờ bởi
chính cơ cấu của chúng, cơ cấu mà đêm chủ động của lòng
muốn sẽ diễn tả rõ, tuy nhiên, các chƣơng XIII và XIV cũng
đủ sáng tỏ để chúng ta có thể nói ngay đôi điều về cơ cấu ấy.
Khi bàn về sự mê thích các thụ tạo mà lòng muốn của con
ngƣời thƣờng vƣớng phải, thƣờng “vẫn háo hức để hƣởng
thụ cho đƣợc”, thánh nhân đã viết rằng để chiến thắng thứ
tình yêu và quyến luyến ấy, cần phải có “một sự háo hức
khác lớn hơn, một thứ tình yêu khác tốt hơn” (1Lên 14).
Ở đó không chỉ kinh nghiệm riêng của một linh hồn
đang lúc cuồng nhiệt cách tự nhiên, cũng không phải là một
lúc vuột khỏi suy luận nhƣng chính là sự dạy bảo rõ ràng đầu
tiên về chỗ cốt lõi của khổ hạnh theo thánh Gioan Thánh Giá,
khổ hạnh đối với các giác quan cũng nhƣ đối với lòng muốn.
Tự nhiên ở đây ta thấy không nên dùng hai chữ phương
pháp. Thay vào đó dùng từ cung cách (hay phương thức) có
lẽ thích hợp hơn. Đây là từ mà một vị tu sĩ sau một thời gian
dài tiếp xúc với thánh Gioan Thánh Giá đã dùng khi viết lại
những kỉ niệm về thánh nhân5. Cung cách ấy ta cũng gặp
đƣợc nơi thánh Phanxicô Salêsiô và nhiều vị khác không
phải nhƣ một bản trình bày lý thuyết nhƣng nhƣ những ví dụ
cụ thể. Đó là cung cách để phản ứng khi “bị cám dỗ hoặc
phải đối diện với một sự từ bỏ. Cung cách ấy không phải là

5
Tủ sách huyền giao Cát Minh, tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá do Cha
Silverio xuất bản tập IV tr 348.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 17

chạy đến với những lập luận nằm trên cùng bình diện với
cám dỗ (chẳng hạn lợi ích của các nhân đức cần thủ đắc,
nguy cơ nhượng bộ cho những tính xấu đang đe dọa vv và
vv…) nhưng là biến tình yêu và duy chỉ tình yêu thành
phương thế, không phải để chống lại cám dỗ nhưng để vượt
thắng cám dỗ”. Tất cả sự hữu hiệu của cung cách phản ứng
ấy không cốt ở chỗ dùng sức để hành động nhƣng ở chỗ
chuyển đổi hoạt động của linh hồn, hút lấy cả linh hồn chỉ
trong một động tác.
Thay vì lập luận chống lại cách vất vả và chỉ hiệu quả
phần nào, linh hồn liền vỗ cánh bay thẳng lên cùng Thiên
Chúa đang hiện diện trong nó, để nói với Ngài rằng nó yêu
Ngài. Linh hồn gạt qua một bên cả sự cám dỗ lẫn những sự
ƣng theo không dám thú nhận mà ngƣời ta thƣờng phải nghĩ
đến, dù là để chống lại. Hành động yêu thƣơng xuất thần này
đƣợc thánh nhân diễn tả bằng một từ ngữ có vẻ hơi mộc mạc
nhƣng đầy gợi ý, đó là sự cất cánh vút bay của loài chim khi
vừa bị ngƣời ta quăng lƣới bắt. Thánh Kinh nói rằng quăng
lƣới trƣớc những loài có cánh là một việc rất vô ích. Cũng
thế, cám dỗ không thể làm hại một linh hồn đang mải miết
nói lời yêu thƣơng với Bạn Tình duy nhất. Thánh vịnh có viết:
“Non accedet ad te malum”. Nghĩa là “nguy hiểm sẽ không
đến với bạn”, một khi bạn kết hiệp nên một với Thiên Chúa.
Chúng ta nên đọc phần mô tả đầy đủ về cung cách phản
ứng ấy mà cha Élisée Các Thánh Tử Đạo ghi lại cho chúng
ta6. Ngay từ đêm giác quan, ta đã thấy cung cách phản ứng

6
Xem Opusculas p. 1366.
18 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ấy thật quan trọng và cần thiết. Và rồi nó sẽ đƣợc áp dụng


thƣờng xuyên, nhất là nơi đêm của lòng muốn.
Cung cách phản ứng ấy đem lại lí do sâu xa khiến tất cả
những ai viết về sự khổ hạnh theo thánh Gioan Thánh Giá
đều thƣờng khẳng định rằng: Mặc dù vẻ nghiêm khắc bề
ngoài có thể làm ngƣời ta tƣởng rằng có một thứ bi quan nào
đó nơi vị tiến sĩ huyền giao nhƣng đúng ra, khi thực hành
việc khổ hạnh thống thiết ấy, không hề có chuyện phá hủy
bất cứ điều gì nơi con ngƣời khả giác của chúng ta. Không hề
có chuyện tiêu hủy bất cứ một khả năng vật lý nào của phần
cảm giác nhƣng chỉ loại bỏ mọi sự cố ý ƣng theo một cách
ích kỷ nơi một hoạt động khả giác mà trong nhiều trƣờng
hợp chúng ta không có khả năng loại bỏ.
Thánh nhân chỉ không muốn cho ngƣời ta quá “tha
thiết”, “quyến luyến”, “say đắm”, “ham”, “mê thích” nhìn,
cảm, nghe, đụng chạm…. Tức là ngài không có ý phá bỏ
phần nhỏ nào của con ngƣời chúng ta vì tự thân các phần ấy
đều tốt lành, bởi chúng đều đƣợc Thiên Chúa tạo nên (1Lên
9), hoặc phần nhỏ nào của những sự vật ngoại giới – “tự
chúng là tốt lành” (2Lên 17) – nhƣng điều thánh nhân muốn
phá bỏ chính là việc cố ý quyến luyến, sự hƣởng thụ dễ dãi
và vô độ những sự vật bên ngoài mà giác quan ta cảm nhận.
Cần phải đọc đêm giác quan chủ động và phần còn lại
của “Đường Lên” với mối bận tâm ấy, nếu không sẽ hiểu sai
tƣ tƣởng của thánh nhân. “Kẻ nào muốn yêu chuộng điều gì
khác cùng lúc với yêu Thiên Chúa là đã coi thƣờng Thiên
Chúa” (1Lên 5). Đó là lý do tại sao “tác hại chính yếu đầu
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 19

tiên mà các mê thích gây ra cho linh hồn, tức là sự chống lại
Thần Khí của Thiên Chúa” (1Lên 6), loại bỏ Thiên Chúa ra
khỏi linh hồn.
Nhƣ thế, mục đích thánh nhân đeo đuổi, cách phản ứng
dẫn đƣa các linh hồn đến đó, lại chẳng nằm gọn trong những
câu ấy sao? Dƣờng nhƣ ở đây chúng ta chạm đến một khái
niệm chủ yếu cho toàn bộ tác phẩm của thánh nhân.
Điều cho thấy cách giải thích tích cực về khổ hạnh theo
thánh Gioan Thánh Giá nhƣ thế là xác đáng, chính là cái mục
tiêu mà sự khổ hạnh ấy hƣớng tới. Chẳng những không hề có
vấn đề phá bỏ những năng lực của phần cảm giác, nhƣng còn
khám phá ra ở đó một sự hiểu biết về các sự vật khả giác và
một sự vui hƣởng các thụ tạo, một sự vui hƣởng vốn là một
thực tế của phần cảm giác từ nay đã đƣợc thanh luyện.
Dƣờng nhƣ ngƣời ta có thể nói đến một sự tinh lọc của phần
cảm giác. Linh hồn khám phá những điều tinh vi tế nhị mà
cho tới lúc đó nó chƣa hề nghĩ mình có, chẳng hạn những
cách thức mới mẻ và tế nhị hơn trong sự thụ hƣởng, khổ đau
và yêu mến. Khi bàn đến không những sự hiểu biết Thiên
Chúa nơi chính Ngài mà cả đến những sự hiểu biết về mọi
thụ tạo trong Thiên Chúa, linh hồn nói rằng: “Bạn tình của
nó là bản hòa âm thinh lặng ấy, bởi lẽ khúc nhạc tâm linh ấy
đƣợc nhận biết và thƣởng thức nơi Ngài” (Ca 15). Sự hòa
điệu ấy đang do hết thảy mọi thụ tạo dệt nên đƣợc linh hồn
nhận ra bản giao hƣởng nơi Thiên Chúa, tựa nhƣ khúc nhạc
của “nhiều nhạc sĩ cùng chơi với thứ nhạc cụ riêng biệt” (Ca
15). Ở phần cuối của Ca Khúc Tâm Linh khi diễn tả ƣớc
muốn đƣợc hiểu biết rừng cây với những vẻ duyên dáng của
20 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nó, nhƣ một “điều hết sức thú vị” (Ca 39) linh hồn xin cho
đƣợc hiểu biết về các loài thụ tạo theo cách ấy. Câu thơ cuối
cùng của Ca Khúc Tâm Linh đã “chẳng chỉ ra phần cảm giác
của linh hồn đã đƣợc thanh luyện và một cách nào đó đã
đƣợc tâm linh hóa hiện đang lắng đọng để “tham dự và
thƣởng thức” theo cách của nó, những điều cao cả thiêng
liêng mà Thiên Chúa ban cho tinh thần? (Ca 40).
Chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn đến phần đầu này của
tác phẩm Đường Lên Núi Cát Minh. Thƣờng thì nó dễ bị hiểu
sai và dễ gây bối rối cho một số độc giả, thế nhƣng đó lại là
phần quan trọng và tiêu biểu. Hiểu đƣợc điều ấy trong chiều
sâu rất giàu sức sống của nó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý
nghĩa phần còn lại của tác phẩm thánh Gioan Thánh Giá và
sẽ không cần phải diễn giải dài dòng.

IV. ĐÊM TRÍ HIỂU


Toàn bộ đêm chủ động của trí hiểu đặt trên khái niệm
đức tin. Với đầu óc cực kỳ tổng hợp của thánh Gioan Thánh
Giá, tất cả đƣợc tóm tắt trong một cái nhìn rõ về bản chất của
đức tin, dựa vào mục tiêu đức tin nhắm đến là sự kết hiệp
nên một với Thiên Chúa. Thế mà đức tin lại là sự lãnh hội sự
thật về Thiên Chúa trong bóng tối. Điều đức tin giúp chúng
ta đạt đến, chính là thực tại về Thiên Chúa. Trong một ý
nghĩa nào đó, chẳng hệ gì nếu ta dùng những từ ngữ nhân
loại để diễn tả điều không thể diễn tả… Cũng chẳng hệ gì
nếu đôi khi chúng ta phải vất vả sắp xếp các khái niệm phàm
nhân để gắng hết sức mà diễn tả điều đức tin muốn nói với
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 21

chúng ta về sự sống của Thiên Chúa. Bởi lẽ dù cách nhận


biết của chúng ta có què cụt đến đâu, đức tin vẫn giúp chúng
ta đạt đến sự sống thân mật với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đƣợc chúng ta tin ở trần gian cũng chính là
Thiên Chúa chúng ta sẽ đƣợc thấy trên thiên đàng. Trong cả
hai trƣờng hợp, đàng sau chút khác biệt giữa thấy và tin,
Đấng chúng ta cảm nhận vẫn là chính Thiên Chúa.
Cũng cần phải thêm rằng đức tin mà thánh Gioan
Thánh Giá muốn nói với chúng ta không phải là thứ đức tin
lý thuyết và trừu tƣợng đƣợc bàn đến trong một thủ bản thần
học, nhƣng là thứ đức tin đƣợc thực hiện trong đời sống, đức
tin của một linh hồn tin tƣởng, đức tin thấm đƣợm tất cả tình
yêu mà nó nâng đỡ và soi dẫn. Đó cũng là đức tin thƣờng
đƣợc các ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Khi bàn đến đức tin
tinh ròng, thánh Gioan Thánh Giá không đối lập nó với đức
ái nhƣng đối lập nó với những thứ pha trộn với những cái tự
nhiên và khả giác cần phải lột bỏ để đức tin đƣợc lộ hiện.
Đức tin tinh ròng theo thánh nhân là thứ đức tin sống động,
đƣợc phong phú nhờ tình yêu và đƣợc các ân huệ Chúa
Thánh Thần biến thành sâu sắc.
Nhƣ thế, rõ ràng đức tin là phƣơng tiện trực tiếp duy
nhất giúp kết hiệp nên một với Thiên Chúa. Toàn thể đêm
chủ động của trí hiểu chỉ là một bài ca đức tin. Đức tin là
phƣơng tiện tuyệt vời, là phƣơng tiện duy nhất thích đáng,
tƣơng xứng, trực tiếp và phù hợp giúp kết hiệp nên một với
Thiên Chúa. Chỉ một mình đức tin có thể nối kết linh hồn với
Thiên Chúa một cách hoàn hảo.
22 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chính khái niệm đức tin ấy cho phép ta tiến bƣớc an


toàn giữa hai mối nguy, một bên là thuyết bất khả tri cho
rằng con ngƣời không sao đạt đƣợc bất cứ một hiểu biết nào
về Thiên Chúa, và bên kia là thuyết thiên khải luôn khoe
mình đã đạt đến Thiên Chúa cách rõ ràng. Thánh Gioan
Thánh Giá không theo thuyết bất khả tri cũng không theo
thuyết thiên khải. Ngài không theo thuyết bất khả tri, bởi lẽ
mặc dù luôn mạnh mẽ quả quyết rằng Thiên Chúa là Đấng
siêu việt, và luôn nhắc ta nhớ rằng không một thụ tạo nào có
thể cho ta một ý tƣởng tƣơng xứng về Thiên Chúa, ngài vẫn
biết rằng đức tin có thể giúp chúng ta đạt đến Thiên Chúa.
Thánh nhân cũng không theo thuyết thiên khải, bởi lẽ ngài
vừa khẳng định rằng con ngƣời có thể đạt đến Thiên Chúa,
vừa biết rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa theo
đúng bản tính Ngài mà vẫn còn sống đƣợc. Nhờ đức tin,
chúng ta đạt đến Thiên Chúa nhƣng là trong bóng tối. Nơi
một trong những bài thơ đẹp nhất ngợi ca “niềm vui đƣợc
nhận biết Thiên Chúa trong đức tin”, ngài viết:
Tôi biết lắm dòng suối cuồn cuộn chảy
Cho dù là đêm.
Toàn bộ quyển II của Đường Lên Núi Cát Minh chỉ là
đem đức tin đặt đối mặt với tất cả những nhận thức khác có
thể có đƣợc. Đức tin là viên đá thử vàng, gạt bỏ hết những
nhận thức thấp kém hơn, cho dù chúng có dồi dào hiểu biết
nhân loại đến đâu hoặc có sức kích thích óc tò mò tự nhiên
của chúng ta đến đâu đi nữa. Đức tin kéo theo hết thảy những
cách nhận thức khác mà trong đó chính đức tin đƣợc nhìn
nhận, đồng thời đem lại tính chất đáng tin cho những cách
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 23

nhận thức ấy. Đây là một sự phân tích chặt chẽ những nhận
thức có thể soi sáng trí hiểu con ngƣời theo trật tự luận lý
chứ không theo trình tự thời gian các nhận thức ấy xuất hiện
nơi linh hồn.
Về điểm này, có lẽ thánh Gioan Thánh Giá là tác giả
đầu tiên đã khiến ta chú ý đến tầm quan trọng của việc chế
ngự trí hiểu đến mức ấy. Một cách cụ thể, mọi nỗ lực của các
tác giả viết về khổ hạnh hầu nhƣ chỉ tập trung vào việc chế
ngự phần cảm giác và lòng muốn. Thế nhƣng thánh Gioan
Thánh Giá cho rằng, một khi trí hiểu đã đƣợc thuần thục, thì
cả con ngƣời chỉ việc đi theo lối nó vạch ra vì nó là quan
năng có sứ mạng soi đƣờng cho chúng ta. Luôn luôn vẫn chỉ
có đức tin mới là chuẩn mực, việc chế ngự bất khoan nhƣợng
nhƣ thế chỉ là để tránh cho linh hồn đừng lạc khỏi nẻo đƣờng
đức tin, hoặc ít ra, tránh cho linh hồn khỏi lãng phí thời giờ
và sức lực.
Có lẽ chỉ trong đêm trí hiểu cái nhan đề Đường Lên
mới đạt đƣợc ý nghĩa trọn vẹn nhất: “…để họ biết thoát khỏi
mọi sự thế tục, khỏi bị mắc kẹt vào những điều thuộc tâm
linh, đƣợc trần trụi triệt để và đƣợc sự tự do tâm linh là điều
cần có để đƣợc nên một với Thiên Chúa …”. Liệu còn có
những lý do nào khác sâu xa hơn thế để khẳng định tầm quan
trọng của đức tin?
Tầm quan trọng ấy lớn đến nỗi có thể ủng hộ cho ngƣời
ta giải thích các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá một
cách duy trí. Nhƣng không! Bí ẩn tột cùng của khoa huyền
giao thánh Gioan Thánh Giá đâu phải là cái khoái hiểu biết!
24 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Không! Lời cuối cùng tác giả Đường Lên muốn nói với
chúng ta không phải là để ca tụng một niềm vui thuần tri
thức! Chỉ cần nhớ lại những khẳng định vô điều kiện của
thánh nhân về vị trí hàng đầu của tình yêu. Nếu dồn tất cả
vào một biện chứng pháp thuần túy dẫn đến chỗ linh hồn tự
hiểu biết về mình một cách tinh tế, thì sẽ hiểu sai bản chất
của đức tin mà thánh nhân giới thiệu với ta. Làm nhƣ thế là
quên rằng sự tinh tuyền mà ngài đòi hỏi linh hồn gắt gao đến
thế, loại hẳn mọi sự pha trộn của phần cảm quan hạ đẳng,
nhƣng không loại trừ sự đóng góp của tình yêu. Ngƣợc lại
chẳng mấy chốc tình yêu (2Lên 32) sẽ tỏ ra sáng suốt hơn cả
trí hiểu và, nhờ đức ái, tình yêu sẽ thông ban cho trí hiểu chút
ít ánh sáng của nó.
Khái niệm động này về đức tin nằm ở trung tâm mọi
vấn đề mà việc thanh luyện chủ động trí hiểu đặt ra. Việc
nghiên cứu toàn diện thánh Gioan Thánh Giá phải đƣa ra
đúng những vấn đề ấy và cho thấy thánh nhân đã giải quyết
nó nhƣ thế nào.
Chỉ cần nêu lên đây một nghiên cứu đặc biệt quan trọng
là nghiên cứu về “ba dấu chỉ” giúp nhận ra lúc nào là lúc
thích hợp để bỏ việc suy niệm và nguyện gẫm suy lý hầu tiến
lên bậc chiêm niệm (Chƣơng 13). Việc nghiên cứu ấy phải
đƣợc bổ túc bằng việc nghiên cứu từ một quan điểm khác
đƣợc trình bày trong chƣơng 9 của Đêm Dày quyển I. Nhƣ
chúng tôi đã có dịp nói, hầu nhƣ bao giờ việc phân tích trong
tác phẩm Đường Lên và những dấu chỉ rút ra từ đó đều giả
định phần song song mang tính thụ động của chúng đƣợc nói
trong Đêm Dày. Cần tách riêng ra để dễ trình bày nhƣng
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 25

trong thực tế cụ thể cả hai gắn liền với nhau trong một trạng
thái duy nhất của linh hồn. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên chỗ
lý thú đáng kể của chƣơng ấy trong lộ trình theo thánh Gioan
Thánh Giá, muốn rõ hơn xin xem thêm những gì chúng tôi
đã nói trong bài dẫn nhập tổng quát.
Chƣơng XIV cũng có một tầm quan trọng đáng kể ở
chỗ nó bao hàm một nghiên cứu cực kỳ tinh tế về “nhận thức
mờ mịt và chung chung” về Thiên Chúa. Muốn hiểu đƣợc
chƣơng ấy trong mọi nét tinh tế của nó, ta phải nghiên cứu
nó song song với những bản văn khác của Đêm Dày bàn về
cùng một chủ đề. Nhận thức ấy gọi là chung chung bởi vì nó
loại trừ mọi cách hiểu biết cụ thể, phân minh rành rẽ; nó vừa
là hiểu biết vừa là tình yêu. Nó là kết quả của một tia sáng
ấm áp, mà Thánh Nhân gọi là “sự chú tâm trìu mến chung
chung”. Nét tiêu biểu của nhận thức này là nó không bao
gồm một yếu tố cụ thể nào mà trí hiểu có thể nắm bắt để thấy
rõ ràng hoặc lòng muốn có thể dùng làm lí do để yêu thƣơng.
Đây là một thái độ tâm linh hơn là một hành vi chính xác. Vả
lại, rõ ràng linh hồn chỉ có thể nhận lấy sự hiểu biết chung
chung ấy mà thôi. Thƣờng thì, chính lúc nhận đƣợc ơn ấy
linh hồn chẳng cảm thấy điều gì. Chỉ sau đó, nó mới có cảm
tƣởng nhƣ vừa thức dậy. Tự nó, nhận thức ấy chẳng can dự
gì với các giác quan và với những quan năng khác. Đó là một
hạt mầm mà những vẻ huy hoàng của việc kết hiệp nên một
với Thiên Chúa sẽ phơi bày ra sự sung mãn bị che giấu.
Nhận thức của đức tin đƣợc phong phú thêm nhờ tình yêu
thoạt đầu có thể xuất hiện nhƣ một mầm cây không màu sắc
và yếu ớt, nhƣng thực ra, nó biểu lộ một tiềm năng sự sống
26 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

có thể phát triển đến vô tận. Cốt lõi của tất cả nhƣng gì thánh
Gioan muốn nói rõ với chúng ta nằm trong những trang sách
ấy, thế nhƣng “ngƣời ta bàn đến quá ít, theo cách mà thánh
nhân trình bày…” (2 Lên 4).
Chƣơng tiếp theo (XV) nói rõ về tinh thần mà trong
thực tế rất đƣợc thánh Gioan Thánh Giá chú ý. Trong nghệ
thuật chuyển tiếp, không phải trên lý thuyết nhƣng ngay giữa
cuộc sống, cần phải có biết bao uyển chuyển và tế nhị!
Thánh nhân đã cung cấp những hƣớng dẫn hết sức mềm dẻo
của một nhà thực hành! Vậy tại sao những trang ấy lại phải
hứng chịu những lời bình giải quá cứng nhắc, lắm khi quá xa
với bản văn mà chúng mong làm cho sáng tỏ?
Để đón nhận ánh sáng đang đƣợc ban cho nó cách thụ
động – nghĩa là nó không cần làm gì với các quan năng –
linh hồn không cần phải làm gì cả ngoài việc trìu mến chú
tâm vào Thiên Chúa. Linh hồn chỉ cần đón nhận những gì
đƣợc ban cho nó. Mọi hoạt động từ nay đã trở thành vô ích,
chỉ cần chạy theo một hoạt động đủ gây trở ngại, khiến tê liệt
cả một việc tốt hơn hẳn toàn bộ những việc linh hồn có thể tự
làm. Từ nay trở đi, không một tài khéo nào của linh hồn là
cần thiết. Thật ra, trƣớc khi linh hồn đạt đến thái độ thuần
túy đón nhận ấy, đã có biết bao vụng về cứng nhắc trong
cách đón nhận đến nỗi có thể cản trở hồng ân đƣợc ban cho
linh hồn, hay ít ra cũng gây cản trở sự phát triển của hồng ân
ấy. Điều linh hồn phải làm chính là phải có một thái độ hoàn
toàn buông xả, một “sự trần trụi thuần túy và sự nghèo khó
tinh thần”. Thánh Gioan Thánh Giá khuyến khích các môn
đệ “hãy ngắm nhìn Thiên Chúa với ánh mắt yêu thương,
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 27

trong tinh thần thanh thản”. Ở đây đòi phải có một sự khổ
hạnh tế nhị, là phải tự kiềm chế, đừng gây cản trở cho việc
nhận lãnh ánh sáng ấm áp đang đƣợc ban không.
Nếu biết đƣợc một số kỹ thuật âm nhạc hiện đại, hẳn
thánh Gioan Thánh Giá đã đề cập đến “sự thư giãn”. Theo
kỹ thuật này, phải để cho các cơ bắp hoàn toàn mềm mại,
buông lỏng theo trọng lƣợng tự nhiên của chúng. Mọi cố
gắng cứng cỏi, mọi sự huy động bắp thịt đều ngăn cản, gây
ra trở ngại. Nếu dám đẩy việc so sánh đi xa hơn, chúng ta sẽ
nói rằng để không gây trở ngại cho việc nhận lãnh cung điệu
nhiệm mầu và để có thể diễn tả cung điệu ấy bằng âm nhạc,
ngƣời nghệ sĩ phải ở trong một tình trạng thụ cảm mềm mại,
toàn thể con ngƣời nghệ sĩ ấy phải hoàn toàn chỉ còn là khả
năng thuần túy diễn tả cung điệu ấy. Nếu không phải chính
sự thƣ giãn kiện toàn điệu nhạc ấy thì ít ra nó cũng là điều
kiện cần có để tạo ra sự hoàn hảo ấy. Có một thứ kỹ thuật tạo
thƣ giãn, bao gồm cả việc giúp con ngƣời thực sự đƣợc phục
hồi. Vì không hiểu điều ấy nên nhiều ngƣời không biết gì về
sự mềm mại của nhịp sống thƣờng nhật.
Trong lãnh vực tâm linh cũng thế. Linh hồn chỉ cần mở
lòng ra mà đón nhận. Luôn cần phải có một thứ khổ hạnh
thích hợp đặt linh hồn vào tình trạng đón nhận. Cần phải học
hỏi về thứ khổ hạnh ấy để theo đó mà luyện tập. Thứ khổ
hạnh ấy không hề là nguyên nhân của nguồn ánh sáng đƣợc
thông ban cho linh hồn, nhƣng nó tạo điều kiện giúp linh hồn
lãnh nhận đƣợc nguồn ánh sáng ấy. Do không hiểu thứ khổ
hạnh ấy, nhiều linh hồn sẽ gia tăng những cố gắng vụng về
và sẽ luôn bị căng thẳng trong một thái độ gồng mình cứng
28 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cỏi! Phải biết cách tránh tất cả những cố gắng nhƣ thế. Chính
vì thƣơng xót những linh hồn bị lạc lối ngay tại ngƣỡng cửa
của con đƣờng hẹp dẫn đến niềm vui, mà trong chƣơng XV
này thánh Gioan Thánh Giá đã mô tả cặn kẽ bƣớc chuyển
tiếp khó khăn đi từ việc suy niệm lên đến cái nhìn giản dị
đƣợm nhuần yêu thƣơng hƣớng về Thiên Chúa.
Khốn thay những bác thợ rèn đo lƣờng một công việc
chỉ bằng những tiếng động họ gây ra! Cũng đáng buồn thay
cho những ai đem gắn một nhãn hiệu làm sẵn lên những điều
thánh nhân mô tả, và muốn bằng mọi giá đặt gọn học thuyết
của ngài vào cái khuôn vuông vắn của các phạm trù vốn chỉ
làm cho những nét uyển chuyển của học thuyết trở thành thô
bạo. Những phân tích của thánh nhân rất đúng bởi vì chúng
khiêm nhƣờng thuận theo kinh nghiệm cuộc sống.
Có lẽ không chƣơng sách nào chỉ rõ hơn sự thâm nhập
vào nhau giữa khổ hạnh với huyền giao, đồng thời nói lên
đƣợc sự cần thiết phải nghiên cứu song song cả hành động
của Thiên Chúa và những điều kiện tiếp nhận hành động ấy,
vốn nằm trong khả năng của con ngƣời.
Để chuẩn bị cho các linh hồn đƣợc nhƣ thế và giúp họ
sẵn sàng lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa, thánh Gioan
Thánh Giá đã gần nhƣ phát ghen. Đức tin mà ánh sáng ấy chỉ
nói lên đƣợc một khía cạnh cụ thể, thì cao vƣợt hơn tất cả
những gì mà các giác quan, chính trí hiểu cũng nhƣ các thị
kiến và các mạc khải có thể dạy cho chúng ta về Thiên Chúa!
Thiên Chúa là đấng siêu việt theo nghĩa sít sao nhất của từ
ngữ này. Cũng thế, đức tin siêu việt mọi thứ hiểu biết khác.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 29

Đứng trƣớc sự hiểu biết của đức tin, đƣợc mô tả trong các
chƣơng XIV và XV, không một ánh sáng nào khác có thể tồn
tại. Do đó, xuyên suốt tất cả các chƣơng sau, thánh nhân
không nƣơng tay loại bỏ tất cả những gì không phải là đức
tin và, ngƣợc lại, tán dƣơng tất cả những gì thực sự chứa
đựng đức tin.
Toàn bộ đêm trí hiểu chủ yếu cốt ở sự phân biệt đức tin
khỏi những ánh sáng khác, cốt ở sự sùng thƣợng đức tin và
loại trừ hết thảy những thứ ánh sáng khác. Thánh nhân đã
gần nhƣ cƣỡng bức ngƣời ta để giải phóng họ, ở đó ta cảm
nhận đƣợc tất cả lòng ngài xót thƣơng đối với những linh
hồn đang lao vào không phải nẻo đƣờng của tâm linh lầm lạc
– là nẻo đƣờng trên đó ngƣời ta kiếm tìm của cải trần gian –
mà là lao vào nẻo đƣờng của tâm linh bất toàn – là nẻo
đƣờng trên đó ngƣời ta kiếm tìm của cải trên trời nhƣng lại
không có đủ sự trần trụi và nghèo khó tâm linh cần thiết để
gặp đƣợc những của cải ấy.
Tại sao chúng ta phải kiên quyết nhấn mạnh rằng lòng
thánh nhân quý chuộng đức tin đến phát ghen lên chính là
nền tảng cho tình yêu say đắm của ngài đối với Đấng mà
ngài xiết bao khổ đau khi thấy “ngay cả những ngƣời tự nhận
là bạn của Đấng ấy cũng rất ít biết đến Ngài” (2Lên 7), là
Đấng mà thánh nhân thƣờng thích gọi là “Đấng cứu chuộc
chúng con” với tất cả lòng trìu mến biết ơn! Đêm trí hiểu bao
gồm hai chƣơng tuyệt vời (VII và XXII) chắc hẳn là đủ để
gạt bỏ mãi mãi tƣ tƣởng cho rằng thánh Gioan Thánh Giá đã
mơ tƣởng đến việc kết hiệp nên một với Thiên Chúa mà
không cần đến Đức Kitô. Với tính cách trữ tình cảm động,
30 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hai chƣơng ấy không phải là hai bài suy niệm riêng lẻ.
Chúng là một bộ phận chủ yếu của cơ thể sống động là chính
học thuyết thánh Gioan Thánh Giá. Đấng cứu độ chúng ta đã
thiết lập đức tin ở mức viên mãn của nó trong khi trƣớc kia
đức tin chỉ đƣợc luyện lọc dần dần do trung gian các ngôn sứ
và các thánh trong Cựu Ƣớc. Vì lẽ đó, đối với những ngƣời
cho rằng trong thực tế họ không bằng lòng với đức tin mà
Chúa Kitô đã đem đến cho chúng ta, chắc hẳn Chúa Cha
hằng hữu sẽ đáp lại nhƣ sau: “Nếu con muốn có một lời hoặc
một mạc khải không chỉ là một phần mà là toàn phần thì con
hãy chiêm ngƣỡng Đức Kitô, con sẽ tìm thấy nơi Đức Kitô
tất cả, bởi lẽ Đức Kitô là tất cả lời nói của Ta, là câu trả lời
của Ta, là tất cả thị kiến và mạc khải về Ta”. Đức Kitô là ánh
sáng duy nhất, là con đƣờng duy nhất. Giáo huấn của Đức
Kitô đem lại cho chúng ta đức tin trong sự viên mãn của nó.
Gƣơng sáng Đức Kitô vạch ra cho chúng ta con đƣờng phải
theo, đó là con đƣờng hẹp dẫn đến sự lột bỏ hoàn toàn của
Thập giá. Ôi ai có thể “nghe đƣợc mầu nhiệm của cái cửa và
con đường là Đức Kitô để đƣợc kết hiệp nên một với Thiên
Chúa, ấy sẽ là ngƣời thông thái biết bao! Nếu có một sự nồng
nàn rất say đắm, một thứ trữ tình rất cao nơi hai chƣơng nói
trên, thì đó không phải là biểu hiệu của một “tình yêu nào
đó” thánh nhân dành cho Đấng mà ngài thích tôn kính hình
ảnh thật cảm động đƣợc vẽ lên tấm da ở Sêgovia. Đó là biểu
hiện của một tình yêu đặt nền trên một chân lý chủ yếu, ấy
là, chúng ta không thể đạt đến chỗ kết hiệp nên một với
Thiên Chúa bằng con đƣờng nào khác ngoài con đƣờng đức
tin mà Chúa Kitô đã dạy bảo, cũng không thể bằng một cách
ứng xử nào khác hơn là việc lột bỏ hoàn toàn. Chỉ có cách
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 31

ứng xử nhƣ thế mới hoàn toàn phù hợp với đức tin. Chính
Chúa Cứu Thế đã sống nhƣ thế trƣớc hơn ai hết khi tự lột bỏ
bằng cái chết của Ngài trên Thập giá. Chặng thứ mƣời của
đàng thánh giá cho thấy một khía cạnh chủ yếu trong học
thuyết của thánh Gioan Thánh Giá. Đức tin vào Đức Kitô
Phu Quân đã nâng đỡ linh hồn đang bị dằn vặt bởi đêm dày
tăm tối thì ngay sau đó sẽ nở rộ thành tiếng hân hoan. Khi
linh hồn đƣợc đƣa vào khu vƣờn hằng ao ƣớc để đƣợc kết
hiệp nên một trọn vẹn với Ngài. Nơi đó, khi linh hồn đƣợc
nghỉ ngơi, bờ cổ nhẹ nhàng tựa vào cánh tay của Đấng Chí
Ái (Ca 27) thì những lời đầu tiên linh hồn thốt lên là để ngợi
ca những mầu nhiệm của việc Nhập thể, nhất là mầu nhiệm
trong đó, dƣới cây táo, tƣợng trƣng cho Thập giá, Chúa Kitô
đã đính hôn mãi mãi với các linh hồn (Ca 29). Đức tin khổ
đau và chan chứa mà vị tiến sĩ huyền giao ngợi ca, chảy
xuống từ Thập giá, thấm đỏ màu máu của Đấng chịu đóng
đinh, và đó là thứ đức tin duy nhất mà thánh nhân biết đến.
Ít ra ngƣời ta vẫn thƣờng có cảm tƣởng rằng thánh nhân
cố ý đơn giản hóa cách trình bày của ngài và bằng lòng với
việc khẳng định sự cần thiết phải đứng vững trong đức tin và
lớn lên trong đức tin ấy. Điều chủ yếu là làm sao để đạt tới
chỗ kết hiệp nên một với Thiên Chúa càng mau càng tốt. Về
sau, thánh nhân sẽ diễn tả rõ hơn niềm khát mong đƣợc kết
hiệp nên một với Thiên Chúa càng sớm càng tốt ấy nơi tác
phẩm Ngọn Lửa Tình Nồng bằng những dòng chữ sau: “Vì
thế, ngay ở đời này, linh hồn phải hết sức quan tâm thực
hành những hành vi yêu thƣơng, bởi lẽ một khi đã hoàn thiện
đƣợc ít lâu, thì dù ở đời này hay đời sau, linh hồn đều không
32 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thể chịu nổi sự vắng bóng Thiên Chúa lâu dài” (Lửa I,34).
Không nên phủ nhận rằng một số ân sủng siêu nhiên, ngay cả
khi rõ ràng mang tính đặc sủng, có thể giúp đỡ linh hồn
(2Lên 24). Tuy nhiên, con đẻ của đức nghèo khó tâm linh
không ngừng đƣợc ngợi ca là đức tin, đã giúp đỡ linh hồn
nhiều vô kể và không hề mang theo một chút gì trong những
phiền phức mà những ân huệ ngoại thƣờng vẫn thƣờng kéo
theo. Chính khi cố tình lột bỏ mọi nhận thức cụ thể thuộc trí
hiểu nhƣ thế, đức tin lớn lên và “cùng với nó, lòng mến yêu
Thiên Chúa cũng nhờ đó mà ăn sâu và bám rễ nhiều hơn nơi
linh hồn” (2Lên 24,8). Nhờ càng lúc càng kiên trì từ bỏ cả
bên trong lẫn bên ngoài nhƣ thế, cả ba nhân đức đối thần,
luôn gắn chặt với nhau, ngày càng lớn mạnh.
Nhƣ thế, tới đây thánh nhân đã có thể kết luận chung
việc nghiên cứu tất cả những nhận thức cụ thể ấy bằng cách
đƣa ra một lời khuyên chung là đừng nhắm đến cũng đừng
mong ƣớc những nhận thức loại ấy (2Lên 23). Thế nhƣng,
ngài vẫn tiếp tục và hoàn tất phần nghiên cứu về sự thanh tẩy
trí hiểu bằng việc phân tích những nhận thức khác nhau có
thể đƣợc ban cho linh hồn cách siêu nhiên. Ngƣời ta đã nói
rất đúng rằng trong lịch sử huyền giao Công giáo, không gì
cảm động hơn là bƣớc tiến hƣớng tới sự hiệp nhất, xuyên qua
cái thử thách của những nhận thức siêu nhiên mang tính cụ
thể (Baruzi).
Trong cuộc hành trình ấy, thánh Gioan Thánh Giá đề
cập nhiều vấn đề mà tất cả đều liên quan đến đời sống tâm
linh chẳng hạn việc hiểu biết Thánh Kinh, mối liên kết cụ thể
rất chặt chẽ giữa đức vâng lời và đức tin, những liên hệ với
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 33

vị linh hƣớng, quan hệ giữa đức tin và lý trí. Nhiều điều nơi
các vấn đề ấy sẽ thƣờng đƣợc nhắc đến. Tuy nhiên vì chúng
không chủ yếu liên quan đến lộ trình thuần túy của thánh
Gioan Thánh Giá, chúng tôi chỉ nêu lên chứ không bàn luận.
Điều thánh nhân không bao giờ mệt mỏi là ca ngợi sự
tuyệt hảo của đức tin. Trong Đêm Dày, đức tin là chiếc áo
dài trắng linh hồn khoác lấy để dễ dàng trốn đi trong đêm tối
(2Đêm, 21). Đức tin còn là dòng suối pha lê nằm ngay ở lối
vào khu vƣờn, nơi diễn ra sự hiệp nhất hoàn hảo (Ca, lời mở
đầu). Thánh nhân luôn nhắc nhở rằng điều quan trọng không
phải là biết nhiều nhƣng là yêu nhiều. Chỉ cần một đức tin
thật trần trụi là đủ để thiêu đốt lòng muốn, không để mình rơi
vào những vực thẳm tò mò khác mà sẽ là chuyện kì lạ nếu
không xảy ra điều gì hiểm nguy (2Lên 29).
Đàng khác, cụ thể mà nói, khi đƣợc đẩy tới tận cùng
những đòi hỏi của nó, đức tin sẽ lôi kéo trọn vẹn con ngƣời về
với Thiên Chúa, mạnh đến nỗi, nơi trạng thái của một linh hồn
luôn tập trung nhìn lên Thiên Chúa, ngƣời ta không còn dễ
dàng phân biệt điều gì thuộc về đức tin và điều gì thuộc về tình
yêu. Từ đó mới có đƣợc cách diễn tả tuyệt diệu dù không chính
xác về mặt suy lý, rút ra từ lời tựa tác phẩm Ca Khúc Tâm Linh
“… đức tin, ở đó dù không biết đƣợc Ngài Thiên Chúa chúng
ta vẫn yêu mến” (Ca, lời mở đầu, 2). Một đức tin khiến cho
chúng ta yêu mến! Để diễn đạt tình yêu, có những cái nhìn của
linh hồn còn có sức diễn tả hơn cả những lời nói….
Để đạt đến đó, luôn cần có cùng một thái độ khổ hạnh
chủ yếu. Lời khuyên sau cùng thánh nhân đƣa ra cho chúng
34 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ta, về vấn đề những tình cảm tâm linh nơi những dòng cuối
của đêm trí hiểu một lần nữa lại nhắn nhủ chúng ta về sự trần
trụi và nghèo khó tâm linh: “Ƣớc gì linh hồn hãy luôn luôn
nhẫn nại, khiêm tốn và luôn cƣ xử thụ động đối với những
lĩnh hội ấy”. Linh hồn phải luôn khiêm tốn và từ bỏ….
Dƣới sức chi phối của Thiên Chúa, chỉ một thái độ
mềm mại hoàn toàn, đƣợc kiên trì gìn giữ qua mọi niềm vui
và thử thách của tinh thần, mới cho phép linh hồn đạt đến
Thiên Chúa trong một cái nhìn đức tin chan chứa tình yêu
mến Ngài.

V. ĐÊM CỦA DẠ NHỚ


Theo tổng hợp đƣợc đề ra ở chƣơng VI quyển II của
Đường Lên Núi Cát Minh, sau khi nghiên cứu việc thanh
luyện trí hiểu bằng đức tin ở quyển II, đến quyển III của
Đường Lên thánh Gioan Thánh Giá trình bày việc thanh
luyện dạ nhớ bằng đức cậy trƣớc khi kết thúc tác phẩm bằng
việc nghiên cứu sự thanh luyện lòng muốn bằng đức ái.
Cha Crisógono7 rồi tiếp đến là triết gia Jacques
Maritain8 đã cho thấy nền tảng vững chắc của việc liên kết
đức cậy với dạ nhớ và sự phong phú của sự xếp đặt ấy trong
lãnh vực thực hành. Dù không phải là một trong những phần
đƣợc triển khai đầy đủ nhất, đây vẫn là một trong những
phần độc đáo nhất, một trong những phần thánh nhân để lộ
nét duyên dáng của ngài nhiều hơn cả, bởi lẽ phần này soi
7
San Juan de la Cruz, Su obra scientifica y su obra literaria q. I.
8
Les degrés du savoir trang 655 – 658.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 35

sáng, lập luận và đem lại một nguyên tắc dễ hiểu trong một
lãnh vực mà có lẽ nhiều tác giả khác chỉ đƣa ra những lời
khuyên cổ điển cho vấn đề. Mặc dù tự bản năng họ trực giác
thấy sự cần thiết của nó, họ không thấy rõ nền tảng thực sự
của nó là phải gắn liền việc chế ngự dạ nhớ với một nhân đức
đối thần là đức trông cậy.
Tất cả những điều chúng ta có thể “giữ lại” nơi mình,
tất cả những điều chúng ta có thể “ghi vào sổ riêng” nhƣ
những hiểu biết do trí tƣởng tƣợng, có nguồn gốc tự nhiên
hoặc siêu nhiên, cũng nhƣ những hiểu biết thuộc bình diện
thuần túy khả tri, đã đƣợc thánh Gioan Thánh Giá liệt kê
thành đối tƣợng của dạ nhớ. Cũng phải ghi nhận ngay rằng
điều quan trọng với thánh nhân không phải là cái kỷ niệm
cho bằng “sự quyến luyến vì có đƣợc kỷ niệm ấy” (3 Lên
15). Ở đây chúng ta gặp lại một chỉ dẫn đã đƣợc đƣa ra khi
bàn về trí hiểu.
Làm sao không ngạc nhiên khi hầu hết những chỉ dẫn
của thánh nhân đều ngỏ với những linh hồn đã lên đƣờng
tiến về Ngọn Núi hoàn thiện, những linh hồn mà Thiên
Chúa đã ghi dấu ấn sáng kiến của Ngài và đã bị Thiên
Chúa chộp lấy không nhiều thì ít? Biết bao lời nhắn nhủ
đƣợc ghi lại ở đây cho ta nhận ra thánh nhân đang ngỏ lời
với một linh hồn ít nhất đã ở trong đêm giác quan, thậm
chí có khi đã ở trong đêm tâm linh. Nhiều lần, để đúng
theo tƣ tƣởng thánh nhân, cần phải tham khảo những mô tả
về đêm thụ động. Chắc hẳn đây không phải là lần cuối
cùng chúng ta lƣu ý tính chất song hành của hai tác phẩm
bổ sung cho nhau. Cho nên dọc suốt hành trình đêm chủ
36 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

động của dạ nhớ, cần phải cung cấp những chỉ dẫn theo
thứ tự thời gian, đó là những chỉ dẫn thật quý giá mà thỉnh
thoảng thánh nhân vẫn làm.
Hẳn thánh Gioan Thánh Giá đã linh cảm rằng ghi nhận
của ngài về đề tài này sẽ gây ngạc nhiên cho một số ngƣời.
Đôi khi ta thấy rõ – nhất là ở chƣơng II và XIII – một cung
giọng thật linh hoạt, thánh nhân nhƣ đối mặt với một ngƣời
phản bác và đáp lại bằng một thứ văn phong trực tiếp, không
kém phần nồng nhiệt. Lúc ấy, ta nhƣ cảm nhận đƣợc hơi thở
của niềm xác tín, phát xuất từ kinh nghiệm, cho phép thánh
nhân bàn đến vấn đề với tất cả uy thế.
Việc đầu tiên cần lƣu ý là phải nhớ đến mục tiêu mà
những lời khuyên của thánh nhân nhắm đến. Ngài không
nhắm giáo huấn những ngƣời mới bắt đầu mà nhắm đến
những linh hồn đã lên đƣờng tiến đến sự kết hiệp nên một
với Thiên Chúa, những linh hồn rõ ràng đã đƣợc Thiên Chúa
chiếm đoạt không nhiều thì ít. Nhƣ thế, cần phải “lôi dạ nhớ
ra khỏi phạm vi và những giới hạn tự nhiên của nó” và nâng
nó lên cao đến “niềm cậy trông tối thƣợng” (3Lên 2,3). Để
không bị lệch hƣớng, đừng rời mắt khỏi vẻ huy hoàng của
mục tiêu nhắm tới, linh hồn phải dán chặt đôi mắt nhìn lên
Thiên Chúa, tránh tất cả những gì có thể gây thành ấn tƣợng,
chỉnh đốn ngay cả đến những động tác đầu tiên, kiên quyết
chỉ hƣớng nhìn lên Thiên Chúa và đón lấy từ Ngài tất cả
những gì mà linh hồn hy vọng. “Đối với một lợi ích to lớn
nhƣ thế, thì chịu đựng và chấp nhận khổ đau với lòng nhẫn
nại và cậy trông nào có sá gì?”
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 37

Điều kì lạ là nguyên lý nền tảng của đêm dạ nhớ chỉ


đƣợc đƣa ra để kết luận ở chƣơng cuối, dù rằng trong suốt
quá trình, nhiều lần nó đã đƣợc công thức hóa trong bản văn.
Với kiểu lập luận tuyệt đối rất quen thuộc với ngài, vị tiến sĩ
huyền giao đã viết công thức nguyên lý nền tảng ấy nhƣ sau:
“…Và điều ngƣời ta trông đợi là điều ngƣời ta chƣa có. Và
càng trần trụi thiếu thốn tất cả những gì không phải là Thiên
Chúa, ngƣời ta càng có khả năng và tƣ cách để trông chờ,
càng có đức trông cậy. Ngƣợc lại, càng có đƣợc nhiều, ngƣời
ta càng mất khả năng và thiên khiếu để mong chờ, càng ít
đức trông cậy. ” (3Lên 15,1). Ngƣời ta cảm thấy giữa đức
cậy trông và đức nghèo khó có một khái niệm nối kết, cho
phép ta có đƣợc nhiều áp dụng cụ thể, đó là khái niệm chiếm
hữu. Vả lại, cũng không phải chỉ của cải trần thế mới khiến
cho con ngƣời thành bất công… Đó là lý do giải thích những
đòi hỏi của ngài.
Thánh nhân đã phát kiến ra một cách diễn tả mới mẻ rất
tuyệt vời: “Những linh hồn sở hữu chủ”. Đây sẽ chẳng bao
giờ là những linh hồn biết cậy trông. Không nên giảm nhẹ
những đòi hỏi gắt gao của Thiên Chúa. Lúc nào, thánh nhân
cũng nhƣ phát ghen lên khi nhắc lại những đòi hỏi ấy – đó là
nguyên tắc ngài vẫn trung thành áp dụng – đồng thời cũng
cho thấy lợi ích của những đòi hỏi ấy vì chúng sẽ dẫn đến
“điều thiện tối cao là sự kết hiệp nên một”, ở đó từ nay Thiên
Chúa sở hữu mọi thứ nhƣ một “vị chủ tể tuyệt đối” (3Lên 2).
Tuy nhiên, nếu cần thì hẳn nhiều ngƣời sẽ sẵn lòng
chấp nhận sự nghèo khó bề ngoài với điều kiện đƣợc giữ lại
kho tàng những kỷ niệm của mình. Họ lập luận nhƣ sau:
38 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

“Thứ tài sản này tuyệt đối thuộc về chúng tôi và quả thật chỉ
thuộc về chúng tôi, không ai đƣợc phép cƣớp đoạt”.
Nhƣng không! Thánh Gioan Thánh Giá đòi ta phải tự
nguyện làm cho mình trống rỗng cả trong lãnh vực này. Tại
sao lại ngần ngại bởi vì “không gì có thể giúp ta yêu mến
Thiên Chúa bằng động tác rất nhỏ bé của đức tin và đức cậy”
(3Lên 8,5). Tựa nhƣ đức tin siêu việt vƣợt mọi hiểu biết, đức
cậy siêu việt trên mọi sở hữu và đáng cho ta lột bỏ mọi sở
hữu, nhất là những sở hữu bên trong. “Tiếc thay, nhiều ngƣời
không muốn mất sự dịu dàng và hoan lạc do các nhận thức
nơi dạ nhớ, cho nên cũng không đạt đến chỗ chiếm hữu trọn
vẹn đƣợc sự chiếm hữu tối cao và sự dịu dàng tột đỉnh”
(3Lên 7,2).
Thế nhƣng nguyên lý nền tảng của sự nghèo khó bên
trong đối với mọi ký ức đƣợc diễn tả bằng những chỉ dẫn cụ
thể nào? Ở đây và hầu nhƣ tiềm ẩn khắp nơi, chúng ta gặp lại
những khái niệm chủ chốt về thái độ khổ hạnh nền tảng đƣợc
mô tả trong đêm trí hiểu. Khổ hạnh? Thật sao? Đúng thế, nếu
nhƣ ngƣời ta không quên rằng đối với thánh Gioan Thánh
Giá, tự yếu tính, khổ hạnh luôn hƣớng về huyền giao, khi sự
khổ hạnh ấy không ngầm nói rằng một linh hồn đã sống đời
huyền giao nghĩa là nhiều hay ít đã trở thành thụ động dƣới
sức chiếm hữu của Thiên Chúa.
Những đƣờng nét chủ đạo trong khổ hạnh theo thánh
Gioan Thánh Giá phải kể đến: Cần kíp là phải luôn hƣớng
mắt về mục tiêu phải đạt tới; phải biết dùng phƣơng cách
huyền giao để vƣợt qua những khó khăn thay vì dùng sức
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 39

mạnh để chống trả; phải biết trình bày những sự từ bỏ đã


đƣợc ấn định dƣới khía cạnh tích cực hơn là dƣới khía
cạnh tiêu cực; nhất là chủ yếu phải có thái độ mềm dẻo,
tuyệt đối sẵn sàng, vốn là thái độ duy nhất cho phép Thiên
Chúa hành động trong linh hồn một cách tự do không bị
trở ngại.
Có lẽ chƣa bao giờ thánh nhân mô tả tốt hơn thế về
cách thức hoàn toàn sẵn sàng đáp lại sáng kiến của Thiên
Chúa, không co cứng hoặc căng thẳng. Phải để cho “dạ nhớ
đƣợc tự do và thanh thản” (3Lên 2). Chỉ lúc đó, khi dạ nhớ
đã hoàn toàn trở nên mềm mại, mới diễn ra nhịp thở thần
thiêng của đức cậy: “Nhờ buông quên và lắng lòng xa bỏ mọi
điều ấy, linh hồn sẵn sàng để đƣợc Chúa Thánh Thần tác
động và dạy dỗ” (3Lên 6,3).
Nếu cảm thấy một linh hồn còn bỡ ngỡ nhƣ một ngƣời
thực tập vụng về phải gồng các cơ bắp, thánh nhân lại gia
tăng những lời mời gọi nhắc linh hồn ấy phải thƣ thái và hãy
buông mình vào đôi tay của Đấng Trọn Tốt Trọn Lành.
“Ngƣời ta phải thu mình lại, không lo âu hay khổ sở” (3Lên
3). Nếu sợ hãi, linh hồn sẽ cảm thấy bối rối trong đêm tối của
mình. “Linh hồn chỉ còn phải cầu nguyện chuyên chăm và
cậy trông trong sự trơ trụi và trống rỗng, vì phúc lành của nó
chẳng bao lâu sẽ tới” (3Lên 3,6).
Tuy nhiên, không thể tránh khỏi có những lúc linh hồn
mắc phải ấn tƣợng nặng nề vì, xét về mặt nhân loại, nó
nghiệm thấy trong dạ nhớ có biết bao khuyết điểm hạ nhục
nó, khiến nó bị giảm giá trị trong mắt mình và trong mắt kẻ
40 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khác. Nhƣng “ngƣời theo đƣờng tâm linh không nên buồn
rầu về điều đó vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến đúng lúc của
Ngài.” Với lập luận luôn đầy xác tín bất chấp mọi thứ, thánh
nhân tuyên bố nhƣ sau: “Để đạt đƣợc một ơn lành lớn lao
nhƣờng ấy cần phải biết kiên tâm và chịu khổ với lòng kiên
nhẫn đợi chờ và hy vọng” (3Lên 2,15).
Cả khi đối diện không phải với các cơn cám dỗ mà với
những lời mời mọc tạo nên bởi những hình ảnh phù du,
những hiểu biết cụ thể chẳng ích lợi gì cho việc dẫn đƣa linh
hồn đến với Thiên Chúa, thì luôn luôn thánh nhân vẫn
khuyên ta hãy cất cánh vút bay theo cách thức huyền giao.
Ngài nói: “…không đƣợc dừng lại đó nhƣng hãy trút sạch hết
khỏi dạ nhớ và lập tức hƣớng linh hồn về Thiên Chúa với
lòng yêu mến” (3Lên 15,1).
Tất nhiên không nên quên những nguy hiểm của tính
kiêu ngạo và những đòi hỏi của đức khiêm nhƣờng tinh tế
nhất. Cũng không nên coi thƣờng những nguy hiểm do ảo
tƣởng mà ma quỷ có thể dễ dàng làm nảy sinh trong linh hồn.
Nó gợi ý cho linh hồn nhờ vào những kỷ niệm còn giữ lại với
bản năng chiếm hữu. Nhƣng trên tất cả, phải nhớ rằng, ngang
qua mọi hiểu biết cũng nhƣ mọi khô khan, mục tiêu mà linh
hồn đeo đuổi phải định đoạt thái độ của linh hồn trƣớc mọi
việc. Chính vì thế, ngay cả trong trƣờng hợp các thị kiến, lời
nói, tình cảm hay mạc khải, linh hồn không nên coi trọng
mặt chữ và cái vỏ bên ngoài “mà chỉ nên chú trọng xem
mình có đƣợc lòng yêu mến Chúa mà những điều ấy gây ra
trong linh hồn hay không” (3Lên 13,6).
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 41

Chính tình yêu sẽ quyết định nên hay không nên nhớ lại
một điều nào đó. Điều chủ yếu là đừng “muốn cho mình
đƣợc say sƣa” bằng hình ảnh mà chỉ là “rút đƣợc mối lợi tình
yêu” (3Lên 13). Trong trƣờng hợp này, nhớ lại không phải là
“muốn giữ chúng lại nhƣng là để giục lòng yêu mến Thiên
Chúa và thêm hiểu biết về Thiên Chúa” (3Lên 14,2).
Có cần nhấn mạnh dài dòng lời thánh Gioan Thánh Giá
nhắn nhủ rằng tất cả sự phong phú về hình ảnh mà ngƣời ta
muốn có, cũng nhƣ tất cả những điều lạ lùng và tinh tế của trí
hiểu vẫn không đáng giá bằng thực chất của một hành vi đức
tin và đức cậy là hai nhân đức trực tiếp dẫn đƣa linh hồn đến
kết hiệp nên một với Thiên Chúa nhờ tình yêu? Luôn luôn
chỉ có tình yêu là quan trọng. “thay vì xài phí thời gian và
năng lực để tìm hiểu các chuyện ấy, linh hồn có thể chuyên
chăm vào một việc tập luyện tốt và hữu ích hơn: đó là tập
cho lòng muốn phục tùng Thiên Chúa, chuyên lo tìm kiếm sự
trơ trụi và nghèo khó tâm linh lẫn giác quan” (3Lên 13,1).
Bởi lẽ không gì có thể xếp đặt cho một linh hồn đƣợc
luôn đánh động bởi tình yêu – theo gƣơng Đức Mẹ Đồng
Trinh Vinh Hiển (3Lên 2) – cho bằng sự mềm mại tinh tuyền
mà đức nghèo khó tuyệt đối, vốn giàu sẵn một “đức cậy kiên
định” thực hiện cho ta (2Đêm 21).

VI. ĐÊM CỦA LÒNG MUỐN


“Thanh tẩy trí hiểu để dựng xây đức tin, thanh tẩy dạ
nhớ để vun trồng đức cậy cũng chỉ là luống công nếu chúng
ta không thanh tẩy luôn lòng muốn vốn liên quan tới nhân
42 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đức thứ ba là đức mến” (3Lên 16,1). Tất cả những điều ta đã


thực hiện cho trí hiểu cũng phải đƣợc thực hiện trong lãnh
vực lòng muốn (hay còn gọi là ý chí). Vả lại, Thiên Chúa gìn
giữ không để chúng ta lẫn lộn công việc của lòng muốn với
tình cảm có thể đi kèm hoặc không đi kèm theo nó. Tựa nhƣ
trí hiểu phải vƣợt trên mọi đối tƣợng cụ thể của trí tuệ, tin
rằng mình vƣợt hẳn mọi điều mình có thể hiểu, cũng thế,
lòng muốn cũng phải đƣợc hƣớng dẫn đến chỗ gắn bó với
Thiên Chúa trong cảnh xa vắng trống rỗng mọi tình cảm, và
vƣợt hẳn trên mọi tình cảm mà nó có thể cảm nhận. Làm
đƣợc nhƣ thế, chính là yêu mến cách chắc chắn và chân thật
“theo phong cách của đức tin”.
Việc tẩy luyện này rất gay go bởi lẽ những động tác của
lòng muốn thƣờng rất hỗn loạn, thiếu mực thƣớc. Ngay cả
nơi một linh hồn quyết chí tập luyện nhân đức, vẫn còn biết
bao quyến luyến và hoạt động hỗn loạn, thiếu mực thƣớc!
Những thái quá của một số đam mê có thể cho ta thấy
rõ sự hỗn loạn bừa bãi ấy do đâu mà có. Sự hỗn loạn không
nằm nơi chính các sự vật, bởi lẽ chúng đã đƣợc tạo nên thật
tốt lành. Sự hỗn loạn nằm nơi cách ngƣời ta gắn bó với các
sự vật nhƣ thể chúng là điều tốt tối thƣợng khiến ngƣời ta
phải hy sinh những cái còn lại. Quả thế, “mặc dù những của
cải trần thế tự chúng không nhất thiết khiến ngƣời ta phạm
tội, thế nhƣng bởi vì thƣờng thì lòng ngƣời quá yếu đuối, dễ
quyến luyến vào chúng quá đáng mà bỏ mất Thiên Chúa
(Đây mới là tội, bởi vì tội chính là sự lìa bỏ Thiên Chúa). Về
đề tài này, tác giả sách Huấn Ca nói rằng tội không chừa một
ai (3Lên 18). Chỉ một mình Thiên Chúa mới xứng đáng đƣợc
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 43

ta yêu mến hết lòng. Thế mà, một số ngƣời biến các thụ tạo
thành chúa của mình. Đó là lý do Thánh Gioan Thánh Giá
quở trách những ngƣời nhƣ thế bởi lẽ “họ đã nộp cống vật
tình yêu của họ” cho tiền bạc (3Lên 19) hoặc cho bất cứ thứ
gì có thể trở thành đối tƣợng để lòng muốn họ quyến luyến,
dù với bất cứ danh nghĩa nào.
Để hiểu những quy tắc thanh luyện lòng muốn mà
thánh nhân đƣa ra, phải nhớ lại ý định thúc đẩy ngài viết.
Chính mục tiêu ngài muốn các môn sinh đạt đến là thƣớc
đo những đòi hỏi nơi các lời khuyên ngài đề ra cho họ.
Nhiều tác giả khác, mặc dù chỉ thuần túy khổ hạnh, cũng
đã bàn cùng một đề tài nhƣ thánh nhân, nhƣng sắc thái
riêng ở phần cuối tác phẩm Đường Lên hoàn toàn khác với
những sách bàn về khổ hạnh thuần tuý. Nên mở ngoặc một
chút, chỉ cần đo lƣờng sự khác nhau về tham vọng trong
mục tiêu nhắm đến, đủ thấy sự khác nhau về những
phƣơng tiện đòi phải áp dụng. Bàn về một số niềm vui cảm
giác vốn không phải là tội nặng, thánh nhân cho rằng dẫu
sao ngƣời ta cũng phải lột bỏ chúng. Rồi nhƣ cao hứng,
ngài nói thêm: “…Tôi không phủ nhận rằng nhiều nhân
đức vẫn có thể cùng tồn tại với những thứ bất toàn đáng
kể, nhưng nếu không chịu dập tắt thứ vui thỏa này thì
không thể nào có được thứ tâm linh sâu lắng, tinh tuyền và
ý nhị” (3Lên 22,2). Thánh nhân hẳn phải mỉm cƣời dịu
hiền khi viết ra những dòng ấy, gợi tới những bản văn mà
ngài biết rõ về tầng cƣ thất thứ ba của thánh nữ Têrêxa
Avila. Bởi lẽ, “thực hành nhân đức” hoàn toàn khác việc
chiếm hữu “tâm linh sâu lắng, tinh tuyền và ý nhị”.
44 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Một khi đã biết đƣợc điểm khởi hành và cùng đích phải
đạt đến, thì việc còn lại là xác định nguyên tắc dùng làm ánh
sáng cho linh hồn trên bƣớc đƣờng đi lên buổi chiều hôm và
trong đêm tối, khác nào “cây gậy” để bảo đảm bƣớc đi.
Thánh nhân viết nên công thức “nền tảng” ấy ngay ở đầu bài
nghiên cứu của ngài nhƣ sau: “Lòng muốn chỉ đƣợc vui thỏa
nơi những gì đem lại danh dự và vinh quang cho Thiên
Chúa; và danh dự lớn lao nhất ta có thể dâng lên là phụng sự
Thiên Chúa theo sự hoàn thiện mà Tin mừng đòi hỏi. Ngoài
điều ấy ra, mọi thứ đều là vô giá trị và chẳng mang lại lợi ích
gì cho con ngƣời” (3Lên 17,2).
Tuy nhiên, chúng ta chớ nhầm lẫn. Kiểu nói “phục vụ
Ngài” thoạt nhìn có vẻ là một lối diễn tả thật khô khốc nhƣng
thực ra lại là một công thức đầy lòng tôn kính, qua đó thánh
nhân muốn nói đến việc tận hiến chính mình, tức là tình yêu.
Trong chƣơng XXVII, ở một đoạn quan trọng, hai cách diễn
tả tƣơng đƣơng trào ra từ ngọn bút của thánh nhân, cách
nhau chỉ một dòng: “Chỉ vì tình yêu Thiên Chúa”, “chỉ để
phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa” (3Lên 27,4). Nhƣ thế phục
vụ Thiên Chúa một cách tuyệt hảo chính là yêu mến Ngài.
Chính “nền tảng” ấy làm nên sự nhất quán của tất cả
đêm chủ động của lòng muốn. Khi nhắc lại giới răn đầu tiên:
“Ngƣơi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và
hết sức lực” thánh nhân nói thêm rằng lời ấy chính là bản
tóm lƣợc tất cả đời sống tâm linh, cũng là tóm lƣợc tất cả
giáo huấn của thánh nhân. “Lời này hàm chứa tất cả những gì
ngƣời sống theo tâm linh phải làm và những gì tôi muốn chỉ
bảo họ ở đây, ngõ hầu đƣợc thực sự đến gần Thiên Chúa
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 45

trong sự hiệp nhất cùng một lòng muốn với Ngài nhờ vào
đức mến” (3Lên 16,1). Ngƣời ta không thể diễn tả rõ hơn về sự
trổi vƣợt của tình yêu trong giáo huấn của thánh Gioan Thánh
Giá. Học thuyết của thánh nhân là học thuyết về tình yêu.
Nhƣ thế, tình yêu chủ yếu cốt ở điều gì? Tình yêu chủ
yếu cốt ở chỗ hòa hợp lòng muốn của chúng ta phù hợp với ý
muốn của Thiên Chúa, đến nỗi “từ hai lòng muốn ấy chỉ còn
một mà thôi” (1Lên 11 và 2Lên 5). Nhờ từ đó mà phát sinh
ra sự giống nhau giữa linh hồn với Thiên Chúa, hay đúng
hơn, linh hồn đƣợc biến đổi nên Thiên Chúa (2Lên 5).
Việc hiệp nhất tạo nên biến đổi ấy đòi tất cả sức lực của
linh hồn phải tập trung cả vào việc yêu mến, nhƣ trong câu
thánh vịnh tuyệt vời đƣợc thánh nhân trích dẫn và chú giải tới
ba lần trong các tác phẩm của ngài: “Con sẽ gìn giữ sức lực con
cho Ngài, ôi lạy Chúa” (1Lên 11 và 3Lên 16, Đêm Dày).
Nhƣ vậy, xét cho cùng, ngƣời ta có thể dễ dàng quan
niệm một tình yêu thuần triết học, lƣợc bỏ hết khổ đau và chỉ
giữ lại sự hiệp nhất giữa hai lòng muốn trong một thứ thanh
thản siêu hình. Thế nhƣng, một cách cụ thể, thánh Gioan
Thánh Giá bảo rằng các cảm xúc của chúng ta ở trong tình
trạng hết sức hỗn loạn. Ngài cũng ghi nhận rất đúng rằng tình
yêu cốt ở chỗ “vì Thiên Chúa mà hành động để tự lột trần và
tƣớc bỏ hết những gì không phải là Thiên Chúa” (2Lên 5,7).
Ngoài ra, thánh nhân còn khẳng định rằng ƣớc muốn chịu
thiếu thốn mọi sự dịu ngọt nơi cảm nghiệm và vì Chúa Kitô
mà luôn “chọn tất cả những gì là nhạt nhẽo hơn, cả trong sự
hƣởng nếm Thiên Chúa và sự hƣởng nếm thế gian, và nhƣ
46 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thế mới thật là yêu mến Thiên Chúa” (2Lên 7,5). Tƣ tƣởng
ấy rất quen thuộc với thánh nhân đến nỗi ngƣời ta thấy nó
đƣợc lặp lại gần nhƣ y hệt nơi một trong những câu châm
ngôn của ngài: “Tình yêu không cốt ở những rung động sâu
xa, nhƣng cốt ở chỗ biết triệt để từ bỏ và chịu đau khổ nhiều
vì Đấng Chí Ái” (Châm ngôn I,65).
Nhƣ thế, chúng ta đã xa khỏi nền khổ hạnh thuần túy
duy ý chí tới cả hàng trăm dặm! Nền khổ hạnh duy ý chí coi
sự tiến bộ về các nhân đức tự nó là một điều thiện đang khi
thật ra mọi nhân đức sẽ chẳng là gì cả nếu không có tình yêu.
Không gì tiêu biểu cho cung cách của thánh nhân hơn là
chƣơng XXVII tuyệt diệu, trong đó ngài nghiên cứu cho thấy
ngƣời ta có thể đặt niềm vui nơi những nhân đức họ sở hữu
tới mức nào. Hẳn chúng ta đoán đƣợc niềm vui mà một
ngƣời nhƣ chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu có đƣợc khi đọc
phần cuối của chƣơng này. Chị thánh thú nhận chị thật miễn
cƣỡng mỗi khi đọc câu này của thánh vịnh 118: “Inclinavi
cor meum ad faciendas justificationes tuas, propter
retributionem” nghĩa là: Xin cho con hết lòng tuân theo
thánh chỉ, để con khỏi nhục nhã ê chề (Tv 118,80). Mỗi lần
đọc câu ấy, chị lại vội vàng khẳng định tận cõi lòng về tình
yêu vô vị lợi của mình9. Chắc hẳn chị thánh đã cảm thấy an
vui biết bao khi tìm gặp cùng một tƣ tƣởng ấy dƣới ngòi bút
của ngƣời Cha trên đƣờng tâm linh của chị! Bởi lẽ khi tập
nhân đức và làm việc lành, ta phải gặt hái niềm vui trong
Thiên Chúa, khao khát đem những tập luyện và công việc ấy
ra phục vụ Ngài, rồi trong lúc tự tẩy luyện và sống xa vắng
9
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Lời khuyên và kỷ niệm.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 47

niềm vui ấy, phải biết muốn sao cho chỉ một mình Thiên
Chúa vui thỏa và tận hƣởng việc phục vụ ấy trong thầm kín,
không bận tâm tìm bất cứ một sự tôn kính hoặc lợi ích nào
khác hơn là danh dự và vinh quang của Thiên Chúa (3Lên
27). Trong một lời cảm thán thật thống thiết ở chƣơng XIX
của Đêm Tâm Linh, thánh Gioan Thánh Giá than phiền rằng
có quá ít ngƣời hành động nhƣ thế: “Ôi lạy Thiên Chúa, là
Chúa của con. Có biết bao nhiêu ngƣời vẫn đến với Chúa để
tìm nơi Chúa sự ủi an và vui thú cho bản thân họ, để đƣợc
Chúa ban phúc ban ơn. Còn những kẻ muốn làm vui lòng
Chúa, sẵn sàng gác bỏ tƣ lợi sang một bên và chịu thiệt để
thực hiện một điều gì cho Chúa, thì quả là ít ỏi! (2Đêm 19,4).
Cần phải từ bỏ cả những ân sủng phi thƣờng mà ngƣời
ta gọi là đoàn sủng. Thử hỏi những việc không làm vì lòng
mến Chúa nào ích gì và đáng giá gì trƣớc nhan Ngài? (3Lên
30,5). Cần phải điều chỉnh lại việc tôn kính các ảnh tƣợng
thánh. Chỉ chọn ảnh tƣợng nào giúp cho bạn yêu mến Thiên
Chúa nhiều hơn (3Lên 35). Dù là bất cứ sự gắn bó nào khác
cũng chỉ có một điều quan trọng là nó phải gom sức mạnh
của lòng muốn vào Thiên Chúa (3Lên 28), đó là điều giúp
chúng ta chu toàn thật tốt điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự.
Sự thiếu sót nghiêm trọng trong bản văn về đêm chủ
động của lòng muốn lộ ra ngay lập tức khi chúng ta khảo sát
những phân đoạn mà lẽ ra một bài trình bày đầy đủ phải có.
Tất cả sức mạnh của linh hồn “nằm ở nơi các quan
năng, đam mê và mê thích của nó” (3Lên 16,2), chủ yếu là ở
48 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nơi bốn xúc cảm chính là: vui mừng, hy vọng, đau khổ và sợ
hãi. Thế nhƣng thánh nhân chỉ mới bàn đến niềm vui mà
cũng vẫn chƣa hoàn thành.
Quả thật thánh Gioan Thánh Giá đã duyệt qua tất cả
những điều tốt mà lòng muốn có thể vui hƣởng và sắp xếp
chúng thành sáu đề mục nhƣ sau:
- Điều tốt trần thế (của cải vv…)
- Điều tốt tự nhiên (tài năng của thể xác và linh hồn)
- Điều tốt về mặt cảm giác (đối tƣợng của các giác quan
bên ngoài và bên trong)
- Điều tốt luân lý (các nhân đức)
- Điều tốt siêu nhiên (theo nghĩa hẹp của siêu nhiên –
những điều phi thƣờng)
- Điều tốt tâm linh (tất cả những gì có thể giúp đỡ linh
hồn đến với Thiên Chúa chẳng hạn: hình ảnh, các bài
diễn thuyết, những nhà truyền giáo…vv…). Đề mục
thứ sáu này vẫn chƣa hoàn thành.
Ở mỗi đề mục thánh nhân lần lƣợt nghiên cứu:
1. Làm thế nào để “uốn nắn cho lòng muốn hƣớng về
Thiên Chúa nơi những điều tốt ấy?”
2. Những thiệt hại khi lấy làm vui thỏa với những điều
tốt ấy.
3. Những ơn lành khi từ bỏ những điều tốt ấy.
Tất cả cái khó khăn của đời sống tâm linh liên quan tới
lòng muốn chính là phải biết “uốn nắn cõi lòng, hƣớng lòng,
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 49

nâng lòng lên Thiên Chúa nơi những điều tốt ấy”, là “xây
dựng lòng muốn trên nền tảng một tình yêu khiêm nhƣờng”.
Thánh nhân phát ghen lên khi nói về sự tinh tuyền của một
sự hiến dâng nhƣ thế cho Thiên Chúa. Điều quan trọng
không chỉ là dâng lên hoặc hiến tế của lễ cho Chúa về mặt
vật chất. Nơi tất cả những điều ấy, chúng ta phải hành động
“chỉ vì yêu mến Chúa – chỉ để làm vui lòng Chua – chỉ để
cho Chúa đƣợc vui”. Bởi lẽ sỡ dĩ Thiên Chúa phải đƣợc phục
vụ thì chỉ đơn giản vì Ngài là Thiên Chúa chứ không vì lý do
hay mục đích nào khác.
Đòi hỏi này không phải là nguồn gốc của điều mà
chúng ta gọi là phƣơng thức huyền giao đó sao? Phƣơng thức
này đƣợc xem nhƣ sự thể hiện thực tế “nền tảng” của đêm
chủ động của lòng muốn. Khi bàn về đêm giác quan, chúng
tôi đã ghi lại rằng phƣơng thức ấy chủ yếu là “biết dùng tình
yêu – và chỉ tình yêu thôi – làm phƣơng tiện, không phải để
chống lại cám dỗ mà để vƣợt qua cám dỗ”.
Ở đây, điều đƣợc phác họa nơi đêm giác quan đã đi đến
chỗ triển nở trọn vẹn. Dù thánh nhân không nêu rõ từ
phương thức – nhƣ nơi tác phẩm “những kỷ niệm” của cha
Élisée Các Thánh Tử Đạo – chính phương thức tạo nên sự
thống nhất và là linh hồn của tất cả nền khổ hạnh theo thánh
Gioan Thánh Giá, đặc biệt nơi đêm chủ động của lòng muốn.
Nền tảng tâm lý mà phƣơng thức ấy dựa vào đƣợc chỉ
ra ngay từ những dòng đầu tiên của chƣơng XVI nhƣ sau:
“Bốn loại xúc cảm này càng thống trị linh hồn và giao chiến
ở đó, lòng muốn sẽ càng bớt tập trung vào Thiên Chúa và
50 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

càng lệ thuộc vào loài thụ tạo” (3Lên 16,4). Dƣới hình thức
phủ định, điều ấy muốn nói rằng lòng muốn càng hiệp nhất
mạnh mẽ với Thiên Chúa nhờ tình yêu thì các nhân đức càng
gia tăng và các xúc cảm càng bị chế ngự.
Do đó, khi phải đƣơng đầu với cám dỗ – ví dụ nhƣ khi
đối diện với những quyến rũ của vẻ duyên dáng và vẻ đẹp
thể xác – ngƣời môn đệ của thánh nhân dĩ nhiên có thể và
phải nghĩ đến tính chất hƣ ảo của mọi vẻ bề ngoài, vốn chỉ là
một “làn khói, làn hơi trên mặt đất”. Nhƣng trên tất cả là – và
đầy là điều thuần túy Gioan Thánh Gía – ngƣời môn đệ ấy
phải uốn nắn cõi lòng theo Thiên Chúa, hoan hỉ và vui mừng
biết rằng nơi Ngài có đƣợc tất cả nét duyên dáng và vẻ đẹp
ấy ở mức tuyệt hảo, đạt tới mức độ vô cùng và vƣợt trên mọi
loài thụ tạo (3Lên 21). Ôi những lời lẽ dồn dập ấy thật hùng
hồn biết bao!
Chúng tôi không nghĩ rằng có một tác giả nào khác
trình bày “phƣơng thức” trên một cách có hệ thống đến thế.
Trong nhiều trƣờng hợp phƣơng thức này chứng tỏ là
phƣơng thức duy nhất mang lại hiệu quả. Phƣơng thức này
dƣờng nhƣ tỏa sáng nơi toàn bộ đêm chủ động của lòng
muốn. Chẳng phải vì nó đƣợc trình bày theo kiểu tuyệt đối.
Thực ra, thánh Gioan Thánh Giá không thiếu những đoạn
khổ hạnh cổ điển kể cả phong cách gần nhƣ kinh viện, nhƣng
đó không phải là chỗ độc đáo của ngài. Còn những đoạn ám
chỉ cách chống trả cám dỗ và luyện tập nhân đức theo
phƣơng thức này dƣờng nhƣ tạo thành mối dây cốt thiết làm
nên sự thống nhất cho đêm của lòng muốn.
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 51

Sự thán phục mà thánh Gioan Thánh Giá thƣờng đề cập


dựa trên lối diễn tả nền tảng là “phục vụ Thiên Chúa” khi
bàn về những điều tốt trần thế cũng nhƣ điều tốt trên trời mà
trƣớc tiên không phải là tình yêu, chỉ là một biểu hiện của
phƣơng thức này. Thán phục lại chẳng phải là một trong
những hình thức cảm động nhất, đôi khi ngây thơ nhất của
tình yêu đó sao?
Ý tƣởng trên có thể mang những dạng thức hơi khác
nhau và không ngừng đƣợc đổi mới, thế nhƣng nó vẫn là một
và không ngừng đƣợc lặp đi lặp lại: “Còn khi linh hồn đến
gần Thiên Chúa với sự nghiêng chiều của lòng muốn thì nhờ
đó tất cả mọi điều tốt sẽ đến với linh hồn. Cũng thế, khi linh
hồn xa rời Thiên Chúa vì quyến luyến thụ tạo, thì mọi khổ
đau và thiệt hại sẽ đè nặng linh hồn tùy theo mức độ vui thỏa
và sự nghiêng chiều đang gắn chặt nó với loài thụ tạo và
đang khiến nó xa lìa Thiên Chúa” (3Lên 19,1).
Phương thức này lập tức giúp linh hồn có đƣợc “lợi ích
rất lớn lao và chính yếu” đó là đƣợc thoát khỏi niềm vui nơi
loài thụ tạo và cõi lòng đƣợc tự do dành cho Thiên Chúa
(3Lên 20).
“Phƣơng thức” này cũng còn trở thành chuẩn mực giúp
ngƣời ta nhận ra phẩm chất của những thứ tình yêu khác nơi
linh hồn. Nếu trong khi trung tín thực hành phƣơng thức ấy
ngƣời ta nhận thấy lòng yêu thƣơng của mình đối với ngƣời
thân cận thay vì giảm bớt, lại càng gia tăng, thì đó là điều tốt
lành theo ý Thiên Chúa, và lòng yêu thƣơng ấy có cùng lý do
và cùng nguyên nhân nhƣ tình yêu dành cho Thiên Chúa
52 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

(3Lên 23). Nơi một vài trang sau đó (3Lên 24) ý tƣởng trên
lại xuất hiện khi bàn đến những sự vật khả giác.
Phương thức này thích hợp tuyệt đối đối với mục tiêu
phải đạt đến. Chính trong cách hƣớng đến mục tiêu ngƣời ta
đã chiếm đƣợc mục tiêu ấy phần nào. Sự ô uế nơi các đối
tƣợng cám dỗ không còn tạo đƣợc ấn tƣợng đối với linh hồn
và phần tâm linh (tức là linh hồn đã đƣợc hiệp nhất với Thiên
Chúa) có đƣợc “một sự tƣơng hợp thần thiêng với Chúa, biến
cả linh hồn và thân xác họ thành một đền thờ xứng đáng của
Chúa Thánh Thần” (3Lên 23, 4).
Điều tạo nên tính chất riêng của từ ngữ – sự tƣơng hợp
thần thiêng – đã nằm ngay trong phƣơng thức vƣơn tới mục
tiêu (bằng cách vƣợt lên nhờ sự cất cánh vút bay). Có bao
giờ một cuộc đánh vật tay đôi mà không để lại một vết bẩn
nào đó nơi linh hồn?
Làm sao giải thích khác đƣợc cách diễn tả mà thoạt
nhìn tƣởng không thích đáng, nhƣng lại đầy ý nghĩa nơi tác
phẩm Ca Khúc Tâm Linh: “Thậm chí ngƣời ta có thể ví
những sáng tinh mơ là những hành vi yêu thƣơng và bởi
những hành vi ấy ngƣời ta sắm đƣợc các nhân đức” (Ca
21,2). Phƣơng cách để sắm đƣợc các nhân đức không nhất
thiết là phải thực hành ngay nhân đức ấy nhƣng là phải thực
hành yêu thƣơng.
Còn phải trƣng dẫn thêm nhiều bản văn khác chứa đựng
những công thức tiêu biểu của “phƣơng thức” huyền giao ấy.
Ngƣời theo đƣờng tâm linh dù gặp bất cứ sự thú vị nào “dù
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 53

là tình cờ dù là chủ tâm, ngƣời sống theo tâm linh chỉ đƣợc
hƣởng dụng nó vì Thiên Chúa bằng cách nâng sự vui thỏa
của linh hồn lên cùng Ngài” (3Lên 24,7).
Trƣớc thánh Gioan Thánh Giá, nhiều vị khác cũng đã nói
rằng ngƣời ta chỉ từ bỏ đƣợc mọi vật bởi lòng yêu mến Thiên
Chúa (3Lên 24). Tuy nhiên theo nhƣ chúng tôi đƣợc biết, về
điểm này chƣa ai chỉ cho thấy đƣợc làm sao mà chỉ có tình yêu
mới có thể là phƣơng thế để từ bỏ mọi sự vật, hay đúng hơn, để
thay thế các sự vật ấy bằng một điều gì đó tốt hơn đến nỗi
không còn vấn đề đấu tranh mà chỉ là chọn điều ƣu tiên hơn.
Có thể đôi khi điều ƣu tiên hơn ấy đòi phải vất vả hơn (mặc dù
điều vất vả hơn ấy có thể lại là đối tƣợng của tình yêu và thậm
chí là đối tƣợng của sự yêu chuộng hơn…)10
Tuy nhiên, chẳng bao lâu, điều ƣu tiên hơn sẽ tỏ ra là
giàu sức sinh sản đến đáng khâm phục và tỏa sáng trong
niềm vui của Ca Khúc Tâm Linh và Ngọn Lửa Tình Nồng.
Bởi lẽ, tình yêu sẽ sớm thành chủ đề gần nhƣ là tuyệt
đối của thánh Gioan Thánh Giá. Tình yêu đầy âu lo và đớn
đau của Đêm Dày, tình yêu vinh thắng của Ca Khúc Tâm
Linh, tình yêu hoàn tất của Ngọn Lửa Tình Nồng. Thế nhƣng
công trạng lớn lao của thánh Gioan Thánh giá chính là đã
cho thấy rằng ngay từ những từ bỏ đầu tiên, ngay từ những
đấu tranh ban đầu còn rất xa mục tiêu, đối với ngài, vấn đề
lúc nào cũng chỉ là yêu mến.

10
Thánh Âu Tinh có nói: In eo quod amatur aut non laboratur, aut et labor
amatur (Đã yêu thì không còn nặng nhọc mà nếu có nặng nhọc thì cũng là cái
nặng nhọc đáng yêu).
54 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
Dẫn vào „ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH‟ 55
ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Tác phẩm của Gioan Thánh giá, tu sĩ Cát Minh, bàn về


cung cách một linh hồn có thể dọn mình để mau đạt đến sự
nên một với Thiên Chúa; cống hiến những ý kiến và học
thuyết rất ích lợi cho những ngƣời mới bắt đầu cũng nhƣ
những ngƣời đã tiến khá xa trên đƣờng lành, để họ biết thoát
khỏi mọi sự thế tục, khỏi bị mắc kẹt vào những điều thuộc
tâm linh, đƣợc trần trụi triệt để và đƣợc sự tự do tâm linh là
điều cần có để đƣợc nên một với Thiên Chúa.
TÓM LƯỢC

Toàn bộ học thuyết tôi muốn trình bày trong cuốn


Đường Lên Núi Cát Minh này, đƣợc gói ghém trong những
ca khúc sau đây. Những ca khúc này cũng hàm chứa cung
cách tiến lên tận đỉnh ngọn núi ấy, là bậc cao của sự hoàn
thiện mà ở đây chúng ta gọi là sự nên một với Thiên Chúa.
Tôi sẽ triển khai bằng cách căn cứ vào cái nền ấy mà xây đắp
những điều sẽ nói. Do đó, tôi xin gom lại đây toàn thể các ca
khúc ấy, để giúp bạn đọc hiểu và thấy ngay đƣợc khái quát
tất cả những điều tôi sẽ viết. Khi trình bày tôi sẽ nêu lại từng
ca khúc, hoặc có khi từng câu, tùy theo đòi hỏi của từng vấn
đề đƣợc trình bày. Toàn văn các ca khúc nhƣ sau:
TÓM LƢỢC 59

NHỮNG CA KHÚC LINH HỒN HÁT MỪNG VẬN


MAY DIỄM PHÚC, NHỜ SỰ TRẦN TRỤI VÀ THANH
TẨY MÀ ĐƢỢC VƢỢT TỪ ĐÊM TỐI ĐỨC TIN ĐẾN SỰ
KẾT HIỆP NÊN MỘT VỚI ĐỨC LANG QUÂN.

Giữa một đêm dày,


Nồng nàn yêu thương và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Trong tăm tối và an toàn
Cải trang, men theo cầu thang bí mật,
Ôi vận may diễm phúc!
Trong tăm tối và được che khuất,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
Nhờ đêm diễm phúc,
Trong bí mật, vì không ai thấy tôi,
Cả tôi cũng không nhìn gì cả,
Không một ánh sáng và kẻ dẫn đường nào khác
Ngoài chút sáng cháy trong tim.
Chút sáng ấy đang hướng dẫn tôi
Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trưa,
Dẫn đến nơi có người đợi tôi
Người mà tôi biết rõ,
Đợi ở phía không ai lai vãng.
60 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Ôi đêm! Ngươi đã hướng dẫn ta!


Ôi đêm! Đáng yêu hơn rạng đông!
Ôi đêm! Ngươi đã phối hợp
Đức Tình Quân với tình nương
Một tình nương đã được biến đổi nên Tình Quân!
Trên lòng tôi đầy hoa,
Được giữ vẹn cho một mình Chàng,
Chàng lưu lại đó, say ngủ,
Và tôi vuốt ve Chàng,
Và quạt mát cho Chàng bàng quạt bá hương.
Khi tôi đang vân vê tóc Chàng
Khí, từ lỗ châu mai
Bằng bàn tay trong suốt của nó
Đã làm tôi bị thương ở cổ
Và khiến mọi giác quan tôi bị treo lơ lửng.
Tôi ở yên và tự quên đi
Mặt nghiêng trên Tình Quân
Tất cả ngưng lại, và tôi buông mình,
Buông bỏ cả sự chú ý của tôi
Giữa những cánh huệ, và quên.
LỜI TỰA

1 – Để làm sáng tỏ và giúp hiểu đêm dày mà linh hồn


vƣợt qua để đạt tới ánh sáng thần linh của việc kết hiệp nên
một trọn vẹn với Thiên Chúa trong tình yêu (nhƣ ngƣời ta có
thể có đƣợc ở đời này), lẽ ra cần có một ánh sáng tri thức và
một kinh nghiệm khác lớn hơn ánh sáng và kinh nghiệm của
tôi. Để đạt tới đỉnh cao hoàn thiện, có biết bao bóng tối dày
đặc và bao âu lo vất vả cả về tâm linh và thế tục mà những
linh hồn diễm phúc ấy thƣờng phải chịu mà tri thức thô lậu
của nhân loại không thể hiểu và kinh nghiệm cũng không sao
làm sáng tỏ đƣợc. Chỉ ai trải qua mới có thể cảm nhận đƣợc
nhƣng cũng không thể diễn tả ra đƣợc.
2 – Vì thế, để nói đôi điều về đêm dày này tôi sẽ không
cậy vào kinh nghiệm hoặc tri thức, bởi vì cả hai đều có thể
thiếu sót và sai lầm. Dĩ nhiên, tôi không bỏ qua những đóng
góp của tri thức và kinh nghiệm, nhƣng để nói những điều
mà với ơn Chúa tôi sẽ phải nói thì, ít là về những điều quan
trọng và khó hiểu nhất, tôi sẽ dùng Thánh Kinh. Có Thánh
Kinh hƣớng dẫn, ta sẽ không thể lạc đƣờng, bởi lẽ Đấng nói
trong Thánh Kinh là Chúa Thánh Thần. Nếu tôi có sai lầm
điều gì, do không hiểu rõ, cứ tƣởng mình nói theo Thánh
Kinh mà thật ra lại không, thì ấy không phải tôi cố ý lìa xa
cách hiểu đúng đắn và Giáo lý của Mẹ Hội thánh Công giáo.
Trong trƣờng hợp này, không những tôi hoàn toàn vâng phục
lệnh truyền của Hội thánh mà còn xin vâng theo bất cứ ý
kiến nào tốt hơn mà Hội thánh đoán định.
62 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

3 – Tôi đƣợc thôi thúc làm việc này không phải vì thấy
mình có sẵn khả năng làm đƣợc công trình khó khăn này
nhƣng vì trông cậy Chúa sẽ giúp tôi nói đƣợc đôi điều để đáp
ứng nhu cầu lớn lao của nhiều linh hồn mới bƣớc vào đƣờng
nhân đức. Chúa chúng ta muốn đặt những linh hồn ấy trong
đêm dày này, để qua đó mà đạt tới sự nên một với Ngài,
nhƣng họ không tiến xa đƣợc, đôi khi vì không muốn tiến tới
đó, đôi khi vì không hiểu và không có những ngƣời hƣớng
dẫn đủ khả năng và tỉnh táo để dẫn họ đạt tới đỉnh. Và nhƣ
thế, thật đáng thƣơng cho nhiều linh hồn, đƣợc Thiên Chúa
ban tài năng và ân sủng để tiến xa (và nếu có can đảm, họ sẽ
đạt đƣợc đỉnh cao ấy) thế mà trong cách xử đãi với Thiên
Chúa họ vẫn cứ mãi thấp lè tè, hoặc vì họ không muốn hay
không biết, hoặc vì họ không đƣợc dẫn dắt hay không đƣợc
dạy bảo cho biết phải rời khỏi những bƣớc đầu ấy.
Có thể là sau cùng Chúa vẫn đoái thƣơng họ, giúp họ
tiến lên mà không cần những sự dẫn dắt hay dạy bảo ấy. Tuy
nhiên họ sẽ đạt đích chậm hơn nhiều, vất vả hơn nhiều mà lại
ít công trạng hơn, vì không biết hòa mình theo Thiên Chúa
để tự nguyện buông mình vào con đƣờng tinh tuyền và chắc
chắn nhất dẫn đến sự kết hiệp nên một. Đành rằng Thiên
Chúa có thể dẫn đƣa họ mà không cần đến những sự nâng đỡ
ấy, nhƣng bởi vì họ không chịu để cho mình đƣợc dẫn đƣa và
còn chống lại sự hƣớng dẫn của những ngƣời ấy, họ tiến rất
chậm, và vì không vận dụng lòng muốn nên chẳng có công
trạng bao nhiêu, và còn có thể vì đó mà phải đau khổ hơn.
Thật vậy, có những linh hồn thay vì buông mình cho Thiên
Chúa và để cho Ngài nâng đỡ, lại ngăn cản Thiên Chúa bằng
LỜI TỰA 63

sự khuấy động ồn ào, hoặc bằng sự chống cƣỡng của họ. Họ


hành động hệt nhƣ những đứa trẻ đang đƣợc mẹ ẵm trên tay
nhƣng lại kêu la giãy giụa đòi đƣợc xuống đất tự bƣớc đi, để
rồi chẳng tiến đƣợc gì, và nếu có đi đƣợc vài bƣớc chập
chững thì chỉ là những bƣớc đi của con nít.
4 – Vậy, để giúp cho những ngƣời mới bắt đầu và
những ngƣời đã tiến khá xa biết phó mình cho Chúa dẫn đƣa
khi uy linh Ngài muốn đƣa họ tiến tới thì, với ơn Chúa giúp,
chúng tôi sẽ cung cấp cho họ một học thuyết và những lời
khuyên để họ hiểu điều ấy, hoặc ít ra, để họ phó mình cho
Thiên Chúa dẫn đƣa. Bởi vì, có một số cha giải tội và linh
hƣớng, do không có ánh sáng và kinh nghiệm về những nẻo
đƣờng này, đã thƣờng làm hại và ngăn cản các linh hồn ấy,
thay vì giúp đỡ họ trên con đƣờng đó.
Tựa nhƣ những ngƣời xây tháp Babel, do không hiểu
nhau, thay vì cung cấp một chất liệu phù hợp lại trao một thứ
gì đó hoàn toàn khác, nên chẳng làm gì đƣợc cả. Thế mới
hiểu tại sao trong những tình cảnh ấy, khi một linh hồn
không hiểu đƣợc mình và không tìm đƣợc ai hiểu cho, sẽ bị
thử thách khắc nghiệt và đau đớn biết bao. Bởi lẽ đã đến lúc
Thiên Chúa dẫn đƣa linh hồn qua con đƣờng cao vƣợt nhất,
con đƣờng của chiêm niệm tăm tối và khô khan, ở đó linh
hồn dƣờng nhƣ thấy mình bị lạc mất. Rồi giữa lúc linh hồn
đang bị phủ ngập những tăm tối, âu lo, buồn nản và cám dỗ,
thì lại gặp phải những kẻ đã an ủi ông Gióp, bảo rằng đó là
chứng u sầu, phiền muộn hoặc một tính khí nào đó, thậm chí
còn có thể là một khía cạnh của lòng xấu khéo che đậy nên
linh hồn mới bị Thiên Chúa bỏ rơi. Và họ quyết đoán ngay
64 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

rằng linh hồn ấy hẳn đã trở nên xấu xa lắm mới gặp phải
những chuyện nhƣ vậy.
5 – Ngƣời khác lại bảo linh hồn ấy đang thụt lùi, vì nó
không còn tìm thấy thích thú hoặc an ủi nhƣ trƣớc kia trong
những gì thuộc về Thiên Chúa. Nói thế, họ khiến linh hồn
đáng thƣơng ấy bị khốn khổ gấp đôi, bởi vì do nhận ra tình
trạng khốn khổ riêng của mình, linh hồn ấy hết sức khổ tâm
khi thấy rõ hơn ban ngày rằng mình đầy xấu xa tội lỗi. Thật
vậy, trong đêm tối chiêm niệm này, Thiên Chúa có soi sáng
cho linh hồn hiểu ra đƣợc nhƣ thế. Vậy, khi linh hồn thấy có
kẻ vừa ý với mình bảo rằng đó là do lỗi của nó, thì sự đau
đớn và cô đơn tuyệt vọng của nó sẽ tăng lên vô hạn, thƣờng
có thể đi tới mức mà cái chết chỉ còn là một nỗi đau nhỏ
mọn. Thế nhƣng các cha giải tội ấy vẫn chƣa bằng lòng, vì
nghĩ rằng tình trạng ấy là do tội lỗi nên đòi các linh hồn ấy
lục lọi lại quá khứ và xƣng tội chung hết lần này tới lần khác
và nhƣ thế là lại đóng đinh họ thêm nữa. Các vị ấy không
biết rằng đây không phải là lúc bắt xét mình hoặc xƣng tội,
nhƣng là lúc cần để yên các linh hồn ấy nhƣ thế trong cuộc
thanh luyện Thiên Chúa đang thực hiện cho họ, chỉ an ủi và
khích lệ để bao lâu Thiên Chúa còn muốn điều ấy thì họ cũng
muốn nhƣ thế. Bởi lẽ, đến nƣớc này, dù các linh hồn ấy có
làm gì và các vị linh hƣớng có nói gì cũng chẳng có phƣơng
cách nào chữa trị.
6 – Nhờ ơn Chúa, về sau chúng tôi sẽ bàn đến và sẽ nói
rõ lúc ấy linh hồn phải xử sự ra sao, cũng nhƣ cha giải tội
phải làm gì cho linh hồn ấy, và đâu là những dấu chỉ cho biết
đây có phải là một cuộc thanh luyện linh hồn không, và trong
LỜI TỰA 65

trƣờng hợp đúng là thanh luyện, thì đó là thanh luyện giác


quan hay tâm linh (tức là đêm dày sẽ bàn đến sau này), và
làm thế nào có thể biết đƣợc đấy có phải là chứng u sầu hay
một sự bất toàn nào khác về giác quan hoặc tâm linh. Bởi lẽ,
có thể có những linh hồn, hoặc cha giải tội của họ, nghĩ rằng
Thiên Chúa đang đƣa họ qua nẻo đƣờng đêm dày của việc
thanh luyện tâm linh mà trong thực tế lại chỉ là một sự bất
toàn của các linh hồn ấy. Cũng có nhiều linh hồn nghĩ rằng
mình chẳng có cầu nguyện gì cả mà thật ra lại đã cầu nguyện
thật nhiều, và ngƣợc lại, có những ngƣời khác tƣởng mình đã
cầu nguyện rất nhiều mà thực ra lại chỉ cầu nguyện quá ít.
7 – Có những linh hồn khác đáng thƣơng hại, họ vất vả
và mệt mỏi nhiều nhƣng lại đi giật lùi, vì họ đặt kết quả bƣớc
tiến của họ nơi điều chẳng giúp họ nhúc nhích thêm đƣợc
chút nào mà còn cản bƣớc tiến; cũng có những linh hồn khác,
chỉ nghỉ ngơi trong yên tĩnh nhƣng lại tiến bộ rất nhiều. Có
những ngƣời khác nữa, dù đƣợc Thiên Chúa ƣu ái ban ơn để
tiến bƣớc, nhƣng lại lúng túng và rơi vào chƣớng ngại nên
không thẳng tiến đƣợc. Tóm lại, trên một nẻo đƣờng nhƣ thế,
những ai muốn theo sẽ trải qua nhiều cảm nghiệm khác nhau:
Có thể là vui thỏa và khó nhọc, hy vọng và đau khổ, tùy theo
tâm linh họ còn bất toàn hay đã hoàn thiện. Về tất cả những
chuyện ấy, nhờ Thiên Chúa giúp, chúng tôi sẽ cố gắng nói
đôi điều để mỗi linh hồn khi đọc đến sẽ phần nào đó thấy
đƣợc con đƣờng họ đang theo và con đƣờng họ nên theo nếu
muốn đạt tới đỉnh ngọn núi này.
8 – Học thuyết này bàn về đêm dày linh hồn phải trải
qua để đến với Thiên Chúa, nên xin độc giả đừng ngạc nhiên
66 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nếu thấy nó có vẻ hơi tối tăm. Tôi muốn nói là lúc độc giả
bắt đầu đọc. Nhƣng cứ đọc thẳng tới rồi sẽ hiểu hơn về phần
đầu, vì điều sau sẽ giải thích và làm sáng tỏ điều trƣớc. Nếu
đọc toàn bộ thêm lần nữa thì sẽ thấy điều ấy sáng sủa hơn và
cả học thuyết cũng “ổn” hơn. Nếu có ngƣời không thấy thỏa
mãn với học thuyết này, thì ấy là do kiến thức của tôi ít ỏi và
bút pháp của tôi thấp kém, chứ tự bản thân chúng thì những
điều nói đây rất tốt và rất cần thiết. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ
rằng dù ngƣời ta có viết về đề tài này hoàn chỉnh và hoàn hảo
hơn cách tôi viết ở đây, thì cũng chỉ một số ít có thể thƣởng
thức đƣợc, vì rằng ở đây không bàn đến những điều nặng về
luân lý và thú vị đối với những ngƣời vừa theo đƣờng tâm
linh vừa thích đạt đến Thiên Chúa bằng những sự êm đềm
thú vị, nhƣng là bàn đến một học thuyết cốt yếu súc tích và
vững chắc cho hai nhóm ngƣời nói trên, nếu họ muốn đi qua
trạng thái trần trụi tâm linh mà tôi đang nói đây.
9 – Mà mục đích chính của tôi cũng không phải nói với
hết mọi ngƣời, nhƣng chỉ nhắm đến một số ngƣời trong hội
dòng của chúng tôi đang dõi theo dấu chân các vị khai sáng ở
núi Cát Minh, cả tu sĩ và nữ tu, là những ngƣời đã yêu cầu tôi
viết - và là những ngƣời đã đƣợc Thiên Chúa ƣu ái đặt lên
triền dốc của ngọn núi này; những ngƣời này sau khi đã lột
bỏ hẳn những điều thế tục của đời này, sẽ hiểu rõ hơn học
thuyết về sự trần trụi tâm linh.
ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 1

 Bàn về bản chất của đêm dày.


 Bàn về sự cần thiết phải vƣợt qua đêm dày để đạt tới
chỗ kết hiệp nên một với Thiên Chúa.
 Cách riêng bàn về đêm dày của giác quan, của các mê
thích, và về những thiệt hại mà các mê thích gây ra
cho linh hồn.
Chương 1
Hai thứ đêm*

Chương này trình bày ca khúc thứ nhất:


Nói về những khác biệt giữa hai thứ đêm mà những
người theo đường tâm linh phải trải qua, theo hai phần của
con người: phần thượng đẳng và phần hạ đẳng.
Và giải thích ca khúc sau đây.

Ca khúc thứ nhất


Giữa một đêm dày,
Nồng nàn yêu thương và âu lo,
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
1 – Trong ca khúc thứ nhất này, linh hồn hát mừng vì
số phận mình thật diễm phúc và may mắn đƣợc thoát khỏi
mọi sự bên ngoài, khỏi những mê thích và những bất toàn
vốn nằm trong phần dễ cảm của con ngƣời, do sự vô trật tự
của lý trí gây nên. Để hiểu điều ấy, cần biết rằng một linh
hồn muốn đạt tới bậc hoàn thiện, trƣớc hết thƣờng phải trải
qua hai thứ đêm chính yếu, đƣợc ngƣời sống theo tâm linh
gọi là những cuộc thanh luyện và thanh tẩy linh hồn, ở đây
*
Các tựa đề có đánh dấu hoa thị (*) là của riêng bản Việt ngữ. Ngƣời dịch mạn
phép thêm vào để bạn đọc dễ theo dõi tƣ tƣởng của tác giả và tiện tra cứu ở
mục lục.
QUYỂN 1 69

chúng tôi gọi là đêm, bởi vì trong cả hai thứ đêm ấy, linh hồn
nhƣ thể bƣớc đi trong đêm, trong bóng tối.
2 – Đêm thứ nhất hay cuộc thanh luyện thứ nhất thuộc
phần dễ cảm của linh hồn, đƣợc bàn tới trong ca khúc này và
trong phần thứ nhất của sách này. Đêm thứ hai thuộc phần
tâm linh, sẽ đƣợc nói tới trong ca khúc thứ hai tiếp sau; và
chúng tôi sẽ bàn về mặt chủ động của nó trong phần hai và
phần ba; còn mặt thụ động sẽ đƣợc bàn ở phần bốn.
3 – Đêm thứ nhất này dành cho những ngƣời mới bắt
đầu, vào thời kỳ Thiên Chúa khởi sự đƣa họ lên bậc chiêm
niệm. Phần tâm linh cũng có dự phần vào đêm ấy, nhƣ sau
này chúng tôi sẽ có lúc nói tới. Còn đêm thứ hai hay cuộc
thanh luyện thứ hai dành cho những ngƣời đã tiến khá xa,
vào thời kỳ Thiên Chúa muốn đƣa họ lên bậc kết hiệp nên
một với Thiên Chúa; và đây là một đêm tối tăm hơn, mù mịt
hơn; và là một cuộc thanh luyện đáng sợ, nhƣ sẽ nói sau.

MINH GIẢI
4 – Đây là tóm tắt điều linh hồn muốn nói trong ca
khúc này: Đƣợc Thiên Chúa lôi kéo, linh hồn đã ra đi chỉ
nguyên vì yêu mến Ngài, đƣợc đốt cháy bằng tình yêu mến
Ngài trong một đêm dày. Đêm ở đây tức là sự tƣớc đoạt và
thanh luyện khỏi mọi mê thích thuộc giác quan, liên hệ đến
mọi thứ bên ngoài của đời này cũng nhƣ những gì đem lại
khoái cảm cho nhục thể và thú vị cho lòng muốn. Tất cả
những điều đó đƣợc thực hiện trong cuộc thanh luyện giác
70 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

quan ấy. Linh hồn cũng nói thêm rằng nó ra đi khi ngôi nhà
của nó đã yên hàn; tức là muốn ám chỉ phần cảm giác, các
mê thích đã dịu xuống và ngủ yên trong linh hồn, và linh hồn
cũng vậy, không còn quan tâm tới chúng nữa. Nó sẽ không ra
khỏi những đau đớn dằn vặt do các mê thích gây ra trƣớc khi
những mê thích này giảm thiểu và ngủ yên.
Đó là lý do tại sao linh hồn bảo rằng số phận mình diễm
phúc: Vì nó đã ra đi mà không bị để ý, tức là không bị bất cứ
một mê thích nào của nhục thể hay một điều gì khác cản trở.
Nó đã ra đi trong đêm, nghĩa là trong khi Thiên Chúa tƣớc
đoạt hết các mê thích ấy của nó, đối với nó, điều này đúng là
một đêm tối.
5 – Thật là một vận may diễm phúc cho linh hồn khi
đƣợc Thiên Chúa đặt vào đêm tối ấy, nơi phát xuất cho nó
biết bao điều tốt và là nơi nó không sao tự mình mà vào
đƣợc; vì không ai có thể tự mình loại trừ hết mọi mê thích để
đến với Thiên Chúa.
6 – Đó là giải thích tổng quát về ca khúc này. Bây giờ
chúng tôi sẽ đi vào từng câu, giảng giải từng câu một và sẽ
trình bày những điều chúng tôi nhắm đến. Chúng tôi cũng sẽ
làm nhƣ thế đối với các ca khúc khác, nhƣ tôi đã nói trong
lời tựa, trƣớc hết sẽ nêu ra từng tiết và giải thích, rồi đến mỗi
câu của tiết ấy.
QUYỂN 1 71

Chương 2
Thế nào là đêm*

Giải thích thế nào là đêm tối mà linh hồn phải trải qua
để đạt tới sự nên một.
“Giữa một đêm dày”
1 – Có ba lý do khiến cái bƣớc linh hồn vƣợt qua để
nên một với Thiên Chúa đƣợc gọi là đêm. Lý do thứ nhất là
do điểm xuất phát từ đó linh hồn đã lên đƣờng. Nó phải ra đi
mà không đƣợc mê thích bất cứ điều gì trong tất cả những cái
nó có đƣợc ở trần gian này. Chối bỏ và thiếu hụt nhƣ vậy
đúng là một thứ đêm đối với mọi giác quan của con ngƣời.
Lý do thứ hai là do phƣơng thế hay con đƣờng linh hồn phải
đi qua để đạt tới sự nên một ấy. Phƣơng thế ấy là đức tin, đối
với trí hiểu thì đức tin cũng tối nhƣ đêm vậy. Lý do thứ ba là
do điểm đến đƣợc nhắm tới, tức là Thiên Chúa. Trong cõi
sống này Thiên Chúa đối với linh hồn cũng là một đêm dày
không hơn không kém. Cả ba đêm ấy phải đi qua linh hồn
hay nói đúng hơn, linh hồn phải trải qua ba đêm ấy để đạt tới
sự nên một với Thiên Chúa.
2 – Về ba loại đêm ấy, ta có đƣợc một hình ảnh sống động
trong sách Tôbia, nơi ba đêm mà thiên thần truyền cho chàng
trẻ tuổi Tôbia phải trải qua trƣớc khi nên một với vợ chàng.
Trong đêm đầu, chàng phải đốt cháy tim con cá trên
lửa, ám chỉ trái tim còn yêu thích và quyến luyến những sự
thuộc về thế gian. Cũng thế, muốn bắt đầu tiến đến cùng
72 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Thiên Chúa, trái tim này phải đốt cháy và thanh tấy tất cả
những gì là thụ tạo trong lửa của tình yêu Thiên Chúa. Có
thanh tẩy nhƣ vậy mới xua trừ đƣợc ma quỷ, vì ma quỷ chỉ
có quyền lực trên linh hồn nào quyến luyến những chuyện
xác phàm mau qua.
3 – Trong đêm thứ hai, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ
được tiếp nhận và nhập đoàn các vị tổ phụ là bậc cha ông
trong đức tin. Bởi vì một khi qua đƣợc đêm thứ nhất, tức là
tự tƣớc bỏ những gì mơn trớn giác quan, linh hồn liền vào
ngay đêm thứ hai, tức là chỉ ở trong đức tin (đức tin không
loại trừ đức ái nhƣng chỉ loại trừ những tri thức khác của trí
hiểu nhƣ chúng tôi sẽ nói sau), vì chỉ có đức tin mới không lệ
thuộc giác quan.
4 – Trong đêm thứ ba, Thiên thần bảo rằng chàng sẽ
nhận được sự chúc phúc, tức là chính Thiên Chúa, Đấng đã
nhờ đêm thứ hai, là đức tin, mà tự thông ban mình cho linh
hồn cách kín ẩn và mật thiết tới nỗi, đối với linh hồn, đó là
một đêm khác nữa. Thật vậy, cuộc thông ban này diễn ra còn
tăm tối hơn những cuộc thông ban khác, nhƣ chúng ta sẽ nói
sau. Sau khi trải qua đêm thứ ba này, tức là sau khi đã hoàn
tất việc Thiên Chúa thông ban trong tâm linh (điều này
thƣờng diễn ra khi linh hồn lâm cảnh tối tăm mù mịt), thì tiếp
theo ngay là việc nên một với Tân Nƣơng tức là Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa. Thật vậy, thiên thần bảo Tôbia rằng
sau đêm thứ ba chàng sẽ nên một với vợ mình trong niềm
kính sợ Chúa. Khi nào niềm kính sợ ấy hoàn hảo, tình yêu
cũng hoàn hảo; và đó là khi nhờ tình yêu mà linh hồn đƣợc
biến đổi.
QUYỂN 1 73

5 – Đêm có ba phần nhƣ vậy nhƣng tất cả chỉ là một


đêm, bởi vì đêm này cũng gồm ba phần nhƣ đêm thƣờng vậy.
Phần thứ nhất, đêm giác quan, sánh đƣợc với phần trƣớc nửa
đêm, khi ta không còn bận tâm tới sự vật chung quanh. Phần
thứ hai, đêm đức tin, sánh đƣợc với lúc nửa đêm, hoàn toàn
tăm tối. Và phần thứ ba giống nhƣ rạng đông, mà sau đó tiếp
liền là ánh sáng ban ngày, tức là Thiên Chúa.
Để hiểu rõ học thuyết này hơn, chúng ta sẽ bàn về từng
nguyên nhân một.
74 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 3
Tước bỏ sự mê thích*

Nói về nguyên nhân thứ nhất của đêm này, tức là nói về
việc tước bỏ sự mê thích đối với mọi thụ tạo, và về lý do tại
sao gọi đây là đêm.
1 – Đêm mà chúng tôi nói đây hiểu về việc tƣớc bỏ sự
mê thích mọi vật. Bởi vì, đêm không gì khác hơn là sự tƣớc
bỏ ánh sáng, và do đó, tƣớc bỏ luôn tất cả những vật có thể
thấy đƣợc nhờ ánh sáng; và điều ấy khiến quan năng thị giác
chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có. Cũng thế, ta có
thể gọi việc giết chết mê thích là một đêm đối với linh hồn,
bởi vì khi đã tƣớc bỏ hết sự mê thích mọi vật, con mắt linh
hồn chìm vào trong tối tăm và trở nên nhƣ không có. Quan
năng thị giác hoạt động nhờ ánh sáng và nuôi mình bằng
những gì có thể thấy đƣợc, và nếu ánh sáng tắt đi thì những
thứ này cũng không còn thấy đƣợc. Cũng vậy, linh hồn nhờ
sự mê thích mà nuôi mình bằng tất cả những gì có thể cảm
nếm đƣợc theo các quan năng của nó. Dập tắt, hoặc nói đúng
hơn, giết chết sự mê thích ấy, linh hồn sẽ thôi không còn
nuôi mình bằng những mê thích mọi vật, và nhìn từ góc độ
sự mê thích thì lúc ấy linh hồn chìm trong tối tăm và trở nên
nhƣ không có.
2 – Hãy thử lấy một ví dụ áp dụng cho hết mọi quan
năng. Khi linh hồn tự tƣớc bỏ sự mê thích và nếm hƣởng tất
cả những gì làm vui thích thính giác, thì về phía quan năng
này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có.
QUYỂN 1 75

Khi linh hồn tự tƣớc bỏ sự nếm hƣởng tất cả những gì có thể


làm vui thích thị giác cũng vậy, về phía quan năng này, linh
hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có. Khi linh
hồn tự tƣớc bỏ sự nếm hƣởng tất cả những mùi thơm dịu
dàng đối với khứu giác thì về phía quan năng này, linh hồn
đã chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có. Cũng vậy,
khi linh hồn từ khƣớc nếm hƣởng tất cả những thức ăn ngon
có thể làm thỏa mãn vị giác, thì về phía quan năng này, linh
hồn cũng đã chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có. Sau
cùng, linh hồn tự diệt trừ mọi thích thú và hài lòng có thể
nhận đƣợc nhờ xúc giác, thì cũng thế, xét theo quan năng
này, linh hồn đã chìm trong tối tăm và trở nên nhƣ không có.
Nhƣ thế, một khi linh hồn đã khƣớc từ và loại bỏ sự mê
thích mọi vật và diệt trừ sự mê thích các sự vật ấy, ta có thể
nói đƣợc rằng nó đang ở trong đêm dày, và hiểu theo một
cách nào đó, đêm này không gì khác hơn là một sự trống
vắng nơi linh hồn, trống vắng tất cả mọi sự.
3 – Lý do là vì, theo triết học, khi mới đƣợc Thiên
Chúa cho nên một với thân xác, linh hồn hệt nhƣ một tấm
bảng trống trơn nhẵn nhụi, chƣa có một chút gì vẽ lên đó cả.
Linh hồn tựa nhƣ kẻ ở trong ngục tối, chẳng biết gì hơn
những điều thấy đƣợc qua những cửa sổ của ngục tối; và
nếu nhƣ qua đó mà chẳng thấy đƣợc gì thì đâu thấy đƣợc
qua chỗ nào khác. Cũng thế, nếu loại bỏ những gì biết đƣợc
qua các giác quan, tựa nhƣ những cửa sổ nhà tù, thì theo lẽ
tự nhiên, linh hồn sẽ không biết đƣợc gì qua một con đƣờng
nào khác.
76 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Khi linh hồn vất bỏ và khƣớc từ những hiểu biết


nhận đƣợc bằng giác quan, nó nhƣ thể đã chìm trong tối
tăm và rơi vào chỗ trống không. Vì nhƣ đã nói, bình
thƣờng ánh sáng không thể lọt vào cửa tò vò nào khác.
Chắc hẳn linh hồn không thể nào thôi nghe, thôi thấy, thôi
ngửi, thôi nếm, thôi cảm, nhƣng những việc ấy không còn
quan trọng đối với nó nữa. Vì đã khƣớc từ và vất bỏ nhƣ
thế, linh hồn không còn bị cản trở gì, cũng nhƣ nó không
còn thấy, không còn nghe... Chẳng khác nào một ngƣời
nhắm mắt cũng ở trong tăm tối nhƣ ngƣời mù không có
khả năng nhìn thấy. Vì lý do ấy, vua Đavít có nói: Từ thuở
bé con nghèo khổ đã nhiều và luôn ngắc ngoải (Tv 87,16).
Ông tự xƣng là kẻ nghèo mặc dù ông giàu có. Ông không
đặt lòng muốn vào sự giàu có nên chẳng khác nào ông thật
sự nghèo khó vậy. Còn nếu ông thật sự nghèo mà lòng
không muốn nghèo thì vẫn không đích thực là ngƣời
nghèo, bởi vì linh hồn vẫn giàu và đầy dục vọng. Chính vì
thế, chúng tôi gọi sự trần trụi này là đêm tối đối với linh
hồn. Ở đây chúng tôi không bàn tới sự vắng bóng các sự
vật, sự thiếu vắng ấy vẫn không khiến linh hồn thành trần
trụi nếu nhƣ nó vẫn cứ mê thích các vật ấy. Chúng tôi chỉ
bàn tới việc lột bỏ nỗi thèm khát và mê thích các sự vật.
Chính đây mới là yếu tố giúp linh hồn đƣợc tự do, không
vƣớng mắc các sự vật ấy, mặc dù vẫn sở hữu chúng. Thật
vậy, những sự vật của trần gian này không chiếm hữu đƣợc
linh hồn, cũng không làm hại đƣợc linh hồn, vì chúng
không xâm nhập đƣợc vào linh hồn. Chỉ có lòng muốn và
sự mê thích các sự vật mới ở trong linh hồn, mới chiếm
hữu và làm hại đƣợc linh hồn thôi.
QUYỂN 1 77

5 – Loại đêm thứ nhất này, nhƣ sẽ nói sau, liên hệ đến
phần dễ cảm của linh hồn, và là một trong hai loại đêm
chúng tôi đã nói linh hồn phải vƣợt qua để đạt tới chỗ nên
một.
6 – Bây giờ xin nói tại sao việc linh hồn lìa bỏ căn nhà
mình trong đêm dày của giác quan để đi tìm nên một với
Thiên Chúa là việc hết sức thích hợp.
78 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 4
Cuộc vượt qua cần thiết*

Bàn về điều hết sức cần thiết, là linh hồn phải thật sự
vượt qua đêm dày của giác quan, tức là giết chết mê thích,
để bước tới nên một với Thiên Chúa.
1 – Tại sao muốn đạt tới việc nên một với Thiên
Chúa, linh hồn phải trải qua đêm dày ấy, tức là phải giết
chết những mê thích và chối bỏ những mê thích về mọi sự?
Chính là vì trƣớc mặt Thiên Chúa, mọi quyến luyến của
linh hồn đối với thụ tạo đều là những bóng tối không hơn,
không kém. Nếu linh hồn để mình bị những quyến luyến
ấy bao phủ thì không thể đƣợc soi sáng và thấm nhuần ánh
sáng tinh ròng và đơn thuần của Thiên Chúa. Linh hồn
phải tống khứ những bóng tối ấy trƣớc đã, bởi vì ánh sáng
không đi đôi với tối tăm. Nhƣ lời thánh Gioan: Tối tăm
không thấu triệt được ánh sáng (Ga 1,5). Có nghĩa là bóng
tối không thể nhận đƣợc ánh sáng.
2 – Thật vậy, triết học dạy rằng hai điều mâu thuẫn
nhau thì không thể tồn tại trong cùng một chủ thể. Những
quyến luyến lệch lạc với thụ tạo là bóng tối, còn Thiên Chúa
là ánh sáng, hai đàng mâu thuẫn nhau, không có gì tƣơng tự
và phù hợp nhau, nhƣ lời thánh Phaolô dạy ngƣời Côrintô:
Thông đồng thế nào được giữa ánh sáng và tối tăm? (2Cr
6,14). Do đó, ánh sáng của ơn nên một với Thiên Chúa
không thể nào ngự trị đƣợc trong linh hồn nếu trƣớc đó nó
không xua trừ hết các quyến luyến lệch lạc.
QUYỂN 1 79

3 – Để sáng tỏ vấn đề hơn, cần nhớ rằng sự nghiêng


chiều và gắn bó với thụ tạo khiến cho chính linh hồn bị hạ
xuống ngang hàng với thụ tạo. Sự nghiêng chiều càng lớn
càng khiến linh hồn ngang hàng và nên giống thụ tạo. Bởi vì,
tình yêu làm cho ngƣời yêu và đối tƣợng đƣợc yêu nên giống
nhau. Chính vì thế, khi nói tới những ngƣời nghiêng chiều về
các thần tƣợng, vua Đavít thốt lên: Ước gì kẻ làm ra hoặc tin
ở tượng thần cũng giống như chúng vậy (Tv 113/115,8). Nhƣ
vậy, ai yêu một thụ tạo cũng thành thấp kém nhƣ thụ tạo ấy,
và một cách nào đó còn thấp kém hơn, vì không những tình
yêu hạ ngƣời ta xuống ngang hàng với đối tƣợng mình yêu,
mà còn bắt phải lụy phục đối tƣợng ấy nữa. Do đó khi linh
hồn yêu mến một thụ tạo, thì mất khả năng nên một cách tinh
ròng với Thiên Chúa và đối với việc biến đổi chính mình.
Nếu bóng tối không thể tiếp nhận ánh sáng thì sự thấp hèn
của thụ tạo càng không thể tiếp nhận sự cao cả của Thiên
Chúa. Bởi vì, hết mọi vật trên trời dƣới đất, đem so sánh với
Thiên Chúa, đều không là gì cả, nhƣ lời Giêrêmia đã nói: Tôi
nhìn xuống đất thì này trống không mông quạnh, và nhìn lên
trời, ánh sáng trên trời đã hết (Gr 4,23). Khi nói mặt đất
trống không mông quạnh, vị ngôn sứ cho ta hiểu rằng mọi thụ
tạo trên mặt đất đều không là gì, và cả trái đất cũng thế. Còn
nhìn lên các tầng trời chẳng thấy ánh sáng, có nghĩa là hết mọi
luồng sáng trên trời so với Thiên Chúa đều chỉ là tăm tối. Nhƣ
thế, hết mọi thụ tạo đều là hƣ không, và có thể nói rằng những
sự nghiêng chiều về chúng còn kém thua sự hƣ không, bởi vì
những nghiêng chiều ấy ngăn cản và loại trừ ánh sáng. Kẻ ở
trong bóng tối không thâu nhận đƣợc ánh sáng. Cũng vậy, linh
hồn nào nghiêng chiều về thụ tạo sẽ không thể nhận biết Thiên
80 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chúa. Bao lâu linh hồn chƣa tự thanh tẩy khỏi sự nghiêng
chiều ấy, nó không thể nào chiếm hữu Ngài, cả ở đời này nhờ
sự biến đổi thật tinh ròng của tình yêu, cả ở đời sau nhờ sự
hƣởng kiến nhãn tiền. Để sáng tỏ vấn đề hơn, chúng tôi xin
nói riêng thêm về điều này nhƣ sau:
4 – Toàn bộ hữu thể của các thụ tạo, so sánh với hữu
thể vô biên của Thiên Chúa chỉ là hƣ không. Do đó linh hồn
nào đặt nghiêng chiều về chúng, chẳng những thành hƣ
không trƣớc mặt Thiên Chúa mà còn kém thua hƣ không
nữa. Bởi lẽ nhƣ đã nói, tình yêu khiến ngƣời ta thành ngang
hàng với đối tƣợng mình yêu, giống đối tƣợng ấy, thậm chí
còn khiến ngƣời ta kém thua đối tƣợng ấy. Một linh hồn nhƣ
thế sẽ không làm sao nên một đƣợc với hữu thể vô biên của
Thiên Chúa. Thật vậy, cái không có thì chẳng thể nào tƣơng
hợp với cái có. Tƣơng tự, tất cả mọi vẻ đẹp của thụ tạo, đem
so sánh với vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, đều xấu xí tột
độ. Đúng nhƣ lời vua Salômôn trong sách Châm ngôn:
Duyên dáng là giả dối, sắc đẹp là hư vô (Cn 31,30). Vì thế,
linh hồn nào nghiêng chiều về vẻ đẹp của một thụ tạo thì,
trƣớc nhan Thiên Chúa cũng hết sức xấu. Linh hồn xấu xa ấy
sẽ vì đó mà không thể nào biến đổi đƣợc thành vẻ đẹp là
chính Thiên Chúa, vì sự xấu xa đâu có chạm tới vẻ đẹp đƣợc.
Tất cả vẻ duyên dáng và thanh nhã của các thụ tạo cũng rất
mực vô duyên và vô vị khi sánh với ân sủng của Thiên Chúa,
và do đó không thể nào đón nhận đƣợc sự duyên dáng và vẻ
đẹp vô biên của Ngài. Vì lẽ điều vô duyên cách xa một trời
một vực với cái vô cùng duyên dáng. Tƣơng tự, tất cả sự tốt
lành của mọi thụ tạo thế gian đem so với sự tốt lành vô biên
QUYỂN 1 81

của Thiên Chúa, có thể gọi đƣợc là gian ác, vì không có ai tốt
lành ngoại trừ một mình Thiên Chúa (Lc 18,19). Vì thế linh
hồn nào dồn tâm huyết vào những của cải thế gian thì rất
mực gian ác trƣớc mặt Thiên Chúa. Điều ác không bao gồm
điều thiện, cũng vậy, một linh hồn nhƣ thế sẽ không thể nào
nên một với Thiên Chúa, Đấng là sự thiện tối thƣợng.
Rồi, tất cả sự khôn ngoan thế gian, tất cả sự khéo léo
của nhân loại, đem so với khôn ngoan vô cùng của Thiên
Chúa chỉ là ngu dốt tột độ, nhƣ thánh Phaolô viết cho tín hữu
Côrintô: Sự khôn ngoan thế gian này là sự điên rồ trước mặt
Thiên Chúa (1Cr 3,19).
5 – Do đó trên đƣờng đi tới chỗ nên một với sự khôn
ngoan Thiên Chúa, linh hồn nào cậy dựa vào kiến thức và tài
khéo của mình quả là rất dốt nát trƣớc mặt Ngài và ở rất xa
sự khôn ngoan. Thật vậy, sự dốt nát đâu biết thế nào là khôn
ngoan, nhƣ lời thánh Phaolô: “Thứ khôn ngoan ấy đối với
Thiên Chúa chỉ là điên rồ”. Trƣớc mặt Thiên Chúa, những
ngƣời tƣởng mình biết đƣợc điều gì, là những ngƣời ngu dốt
nhất. Trong thƣ gửi tín hữu Rôma, thánh Tông đồ đã nói về
họ rằng: Họ khoe mình khôn ngoan nhưng đã trở nên điên rồ
(Rm 1,22). Vậy, ai mới có đƣợc sự khôn ngoan Thiên Chúa?
Chỉ có những kẻ biết trở nên nhƣ những trẻ em dốt nát, vất bỏ
sự hiểu biết của mình đi và tiến bƣớc trong việc phục vụ
Thiên Chúa với tình yêu. Đó cũng là thứ khôn ngoan thánh
Phaolô đã dạy tín hữu Côrintô: Nếu trong anh em có ai tự cho
mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ,
để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên
rồ trước mặt Thiên Chúa (1Cr 3,18-19). Thành thử để nên một
82 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

với Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa, linh hồn phải tiến bƣớc
bằng sự không hiểu biết nhiều hơn là bằng sự hiểu biết.
6 – Vì thế, tất cả quyền thống trị, tất cả sự tự do thế
gian so với sự tự do và quyền thống trị của Thần khí Thiên
Chúa, chỉ là một thứ nô lệ tột độ, chỉ là đau buồn và tù túng.
Do đó linh hồn nào say đắm quyền cao chức trọng,
danh giá, hoặc mong đƣợc tự do thỏa mãn các mê thích thì,
trƣớc mặt Thiên Chúa, sẽ bị coi và bị đối xử không phải nhƣ
con cái mà nhƣ nô lệ thấp hèn, nhƣ tù nhân, vì đã chẳng
muốn theo giáo lý thánh thiện của Chúa dạy rằng: Ai lớn
nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và
kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ (Lc 22,26). Một
linh hồn nhƣ thế sẽ không thể nào đạt tới sự tự do vƣơng giả
của tâm linh, thứ tự do chỉ đạt đƣợc trong sự nên một với
Thiên Chúa. Thật vậy, sự nô lệ không thể có phần gì với tự
do. Tự do không thể nào ở trong một trái tim lụy phục nhiều
ý muốn vặt vãnh vì đó là một trái tim nô lệ. Tự do chỉ ở
trong một trái tim tự do, tức là trái tim của ngƣời con. Đó là
lý do tại sao bà Sara đã yêu cầu chồng bà là ông Abraham
“đuổi kẻ nô tỳ và con của nó” ra khỏi nhà, vì bà nói con của
kẻ nô tỳ không có quyền thừa tự cùng với con của người tự
do (x. St 21,10).
7 – Tƣơng tự, tất cả những vui thú, những hƣơng vị mà
ý muốn tìm đƣợc nơi những sự vật trần gian, đem so với tất
cả những niềm hoan lạc tìm đƣợc nơi bản thể Thiên Chúa thì
chỉ là đau đớn, khổ não và đắng cay tột cùng mà thôi. Cho
nên ngƣời nào đặt tâm huyết vào những thứ ấy thì, trƣớc
QUYỂN 1 83

nhan Thiên Chúa, sẽ đáng chịu đau đớn, khổ não và đắng cay
tột độ. Nó sẽ không thể nào đạt tới những hoan lạc đƣợc ôm
ấp trong sự nên một với Thiên Chúa, nó chỉ đáng chịu đau
đớn và đắng cay.
Tất cả mọi sự giàu có và vinh sang nơi toàn thể thụ tạo,
đem so với sự giàu có là chính Thiên Chúa, thì quả là vô
cùng nghèo nàn và khốn nạn. Do đó, linh hồn nào yêu thích
và chiếm hữu chúng thì, trƣớc mặt Thiên Chúa, thật nghèo và
khốn nạn đến tột cùng. Và do đó, nó sẽ không thể nào đạt tới
tình trạng diễm phúc của giàu có và vinh quang – tức là tình
trạng đƣợc biến đổi nên Thiên Chúa. Thật vậy, do sự khốn
nạn và nghèo nàn tột cùng của nó, linh hồn ấy hết sức cách
xa những gì là giàu có và vinh sang tối cao.
8 – Vì thế, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã kêu
lên trong sách Châm ngôn, than phiền về những con ngƣời
nhƣ vậy, những kẻ vì yêu chuộng những thứ có vẻ xinh tốt
và sang trọng của thế gian nên đã tự làm cho mình thành xấu
xa, thấp hèn, khốn nạn và nghèo nàn: Phàm nhân hỡi, ta mời
gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài
người. Hỡi những kẻ ngây thơ, hãy học cho biết điều khôn
khéo; hỡi những người ngu xuẩn, hãy học cho biết lẽ phải
chăng. Nghe đây, ta sẽ công bố những lời cao quý, môi ta sẽ
thốt lên những điều ngay thẳng... Bên cạnh ta là giàu sang,
danh giá, là phú quý bền lâu và thịnh vượng... để làm giàu
cho những kẻ yêu ta, khiến kho tàng của họ thêm phong phú
(Cn 8,4-6 và 18.21). Ở đây Đức Khôn Ngoan của Thiên
Chúa ngỏ lời với tất cả những ai đặt tâm huyết và nghiêng
chiều vào bất cứ vật gì của trần gian, nhƣ đã nói trên. Đức
84 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Khôn Ngoan gọi họ là những kẻ nhỏ bé, vì họ nên giống với


điều họ yêu mến, là điều nhỏ bé cỏn con. Và vì thế, Đức
Khôn Ngoan nhắn nhủ họ hãy khôn khéo và chú ý, vì Đức
Khôn Ngoan đang bàn về những điều quan trọng chứ không
phải những chuyện cỏn con nhƣ họ. Ngài nhắn nhủ họ rằng
của cải, giàu có và sự vinh quang họ yêu mến phải ở với Đức
Khôn Ngoan và trong Đức Khôn Ngoan chứ không phải ở
nơi họ vẫn tƣởng nghĩ. Những sự giàu có cao sang và sự
công chính vốn đều ở nơi Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa.
Trƣớc mắt họ những của cải thế gian này có vẻ giàu có và
vinh sang đấy, thế nhƣng sự Khôn ngoan nhắc nhở họ nên
lƣu ý rằng những điều Đức Khôn Ngoan đem lại còn tốt đẹp
hơn nhiều, rằng hoa trái mà họ sẽ gặp đƣợc nơi những điều
ấy còn quý báu cho họ hơn cả vàng và châu ngọc; và điều mà
sự Khôn ngoan làm nảy sinh trong các linh hồn còn tốt hơn
cả thứ bạc chọn lọc mà họ rất mực quý mến. Tất cả những
của cải ấy phải đƣợc hiểu về hết mọi thứ nghiêng chiều
ngƣời ta có thể có trong cõi đời này.
QUYỂN 1 85

Chương 5
Cuộc vượt qua cần thiết* (2)

Tiếp tục đề tài, chương này dùng thế giá và các hình
ảnh của Thánh Kinh để tỏ rõ điều hết sức cần thiết là: Linh
hồn phải tiến đến với Thiên Chúa nhờ đêm dày, tức là bằng
cách giết chết lòng mê thích đối với mọi sự.
1 – Qua những gì đã nói trƣớc đây, ta có thể nhận thức
đƣợc phần nào về khoảng cách giữa tất cả những gì là bản
tính các thụ tạo với chính bản tính Thiên Chúa. Chúng ta
cũng thấy những linh hồn nghiêng chiều về một thụ tạo, phải
ở cách xa Thiên Chúa nhƣ thế nào. Bởi vì, chúng tôi xin nói
lại, tình yêu khiến cho ngƣời ta ngang hàng và nên giống với
điều mình yêu. Về điểm này thánh Âu Tinh đã rất thấm thía,
khi thƣa cùng Thiên Chúa trong cuốn “Độc thoại” của ngài
nhƣ sau: Thật khốn thân con! Cho đến bao giờ sự nhỏ hèn và
bất toàn của con mới có thể hòa hợp với sự chính trực của
Chúa. Chúa thật tốt lành, còn con thật xấu xa; Chúa nhân từ
còn con thì phụ bạc; Chúa thánh thiện, còn con thì khốn nạn;
Chúa công chính còn con thì bất chính; Chúa là sự sáng còn
con thì mù lòa; Chúa là sự sống, còn con là chết chóc; Chúa
là linh dược, con là bệnh nhân; Chúa là thực tại tối cao, con
hoàn toàn hư ảo! (Soli loq. đ. 2 GPLT, 40, 866). Đó là
những điều thánh nhân nêu lên để tố cáo mình có xu hƣớng
nghiêng chiều về các thụ tạo.
2 – Vậy, quả là dốt nát tột độ nếu linh hồn nghĩ rằng có
thể vƣơn cao trong việc nên một với Thiên Chúa, mà trƣớc
86 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hết không chịu trút bỏ hết mọi mê thích mọi cái tự nhiên
cũng nhƣ siêu nhiên có thể ngăn cản sự nên một ấy (nhƣ
trƣớc đây chúng tôi đã nêu rõ). Thật vậy, có một khoảng
cách hết sức xa giữa những sự vật ấy và ơn sẽ cađƣợc ban ở
đây, là ơn đƣợc hoàn toàn biến đổi trong Thiên Chúa. Đó là
lý do tại sao Chúa Cứu Thế, khi dạy chúng ta con đƣờng từ
bỏ, đã phán trong Tin mừng: Ai trong anh em không từ bỏ
hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc
14,33). Điều ấy rất rõ ràng, vì giáo lý Con Thiên Chúa đã
đến dạy chúng ta chính là khinh miệt hết mọi sự, để có thể
lãnh nhận phần thƣởng là chính bản thân Thánh Thần Thiên
Chúa. Vậy, bao lâu linh hồn chƣa gỡ mình khỏi những điều
ấy thì không có khả năng lãnh nhận đƣợc Thánh Thần Thiên
Chúa và đạt tới sự hoàn toàn biến đổi trong Ngài.
3 – Về sự thật ấy, chúng ta có một hình ảnh trong sách
Xuất Hành (x. 16,3-4), theo đó, Thiên Chúa đã chỉ ban lƣơng
thực bởi trời là man na cho con cái Israel sau khi họ đã dùng
hết thứ bột mang đi từ Ai Cập. Với hình ảnh ấy, Ngài muốn
nói rằng, trƣớc tiên phải từ bỏ hết mọi sự, vì thứ lƣơng thực
các thiên thần ấy không dung hợp với miệng lƣỡi nào còn
muốn thƣởng thức chút hƣơng vị nơi lƣơng thực loài ngƣời.
Linh hồn nào dừng lại để vui với những hƣơng vị ngoại lai
xa lạ thì chẳng những không tiếp nhận đƣợc Thần Khí Thiên
Chúa, mà hơn nữa còn làm buồn lòng Chúa Uy Linh rất
nhiều, vì họ đòi hỏi lƣơng thực tâm linh nhƣng lại không
mãn nguyện với một mình Thiên Chúa mà vẫn còn lƣu luyến
và nghiêng chiều đối với nhiều sự vật khác. Hình nhƣ cũng
QUYỂN 1 87

chính trong sách Thánh Kinh ấy11 có nói rằng họ không hài
lòng với thứ đồ ăn nhẹ này, nên đã ƣớc ao và kêu nài đƣợc
ăn thịt. Thiên Chúa rất phẫn nộ vì họ đã muốn pha trộn một
thứ đồ ăn thấp hèn thô tục nhƣ vậy vào món ăn cao siêu và
tinh tế đến thế, cũng là món ăn bao gồm hƣơng vị và phẩm
chất của hết mọi thứ thực phẩm. Cho nên vua Đavít mới nói:
Khi họ chưa kịp đã thèm, miếng ăn còn chưa kịp nuốt, thì
cơn giận Chúa Trời đã bừng lên phạt họ (Tv 77/78,30-31).
Ngài khiến lửa bởi trời sa xuống thiêu hủy nhiều nghìn ngƣời
trong bọn họ, vì Ngài ban cho họ thức ăn bởi trời nhƣ thế mà
họ còn mê thích một đồ ăn khác thì quả là điều bất xứng.
4 – Ôi! Giá nhƣ những kẻ theo đƣờng tâm linh biết
đƣợc rằng khi họ không biết dứt bỏ lòng ham muốn những
điều ấu trĩ chẳng đáng giá gì, thì họ đã đánh mất đi những
điều quý giá nhƣờng bao, và mất đi một kho tàng tâm linh
phong phú nhƣờng bao!... giá nhƣ họ biết đƣợc rằng chỉ cần
đừng muốn nếm hƣởng chúng là họ sẽ tìm đƣợc, nơi lƣơng
thực tâm linh giản dị ấy, cái hƣơng vị của tất cả mọi sự nhƣ
thế nào. Tuy nhiên họ không nếm đƣợc. Nguyên nhân khiến
họ không cảm nhận đƣợc hƣơng vị của mọi thứ lƣơng thực
tích chứa trong Manna, chính là vì họ đã không chịu chú ý
tập trung sự mê thích vào chỉ nguyên một mình Manna mà
thôi. Nếu họ đã không tìm đƣợc nơi Manna tất cả sự thích
thú và sức mạnh đã ao ƣớc không phải vì Manna không có
khả năng ấy, nhƣng là vì chính họ đang mải tìm những
chuyện khác. Kẻ nào muốn yêu điều gì khác cùng lúc với
yêu Thiên Chúa là đã coi thƣờng Thiên Chúa, vì đã lấy một
11
Thực ra là sách Dân số 11, 4.
88 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

yếu tố hết sức xa cách Thiên Chúa đem đặt chung với Ngài
trên cùng một bàn cân.
5 – Kinh nghiệm cũng dạy ta rằng, khi nào lòng muốn
nghiêng chiều về một vật gì, nó liền quý vật ấy hơn bất cứ
vật nào khác, vì lẽ những vật này dù có tốt hơn vật đƣợc quý
chuộng kia nhiều nhƣng nếu không gây đƣợc thích thú cho
nó thì nó vẫn không coi trọng. Còn nếu nó muốn nếm thử cả
bên này và bên kia, nó sẽ gây điếm nhục cho bên xứng đáng
hơn, vì nó coi cả hai bên nhƣ nhau. Vậy, vì không một vật
nào có thể ngang hàng với Thiên Chúa, nên linh hồn sẽ gây
sỉ nhục lớn cho Ngài khi nó vừa yêu Ngài vừa yêu sự khác,
gắn bó với sự khác. Đã vậy, ta sẽ nói gì nếu linh hồn yêu sự
vật ấy hơn cả Thiên Chúa?
6 – Đó cũng là điều đƣợc nhấn mạnh khi Chúa truyền
cho ông Môsê lên núi thƣa chuyện với Ngài (Xh 34,2-3).
Ngài truyền cho ông lên núi một mình, bỏ con cái Israel dưới
chân núi, Ngài còn cấm cả loài vật không được gặm cỏ trước
núi ấy. Qua đó Ngài cho thấy rằng linh hồn nào muốn leo
lên ngọn núi hoàn thiện để hiệp thông với Thiên Chúa, không
những phải từ bỏ mọi sự, vất lại phía dƣới, mà còn không
đƣợc để cho các mê thích tức là những súc vật trong linh hồn
đƣợc chăn thả trong đồng cỏ phía trƣớc ngọn núi ấy, nghĩa là
không đƣợc để chúng vui hƣởng những gì khác không thuộc
Thiên Chúa. Chính nơi Thiên Chúa mọi mê thích đều đƣợc
lấp đầy, đó là tình trạng hoàn thiện. Nhƣ vậy, trên con đƣờng
và con dốc tiến lên cùng Thiên Chúa, cần thiết phải thƣờng
xuyên quan tâm trấn áp và giết chết các mê thích. Nhƣ thế
linh hồn sẽ đạt đỉnh nhanh hơn là khi vội vội vàng vàng
QUYỂN 1 89

nhƣng lòng vẫn dính chặt với thụ tạo. Bao lâu chƣa tự thắng
đƣợc nhƣ vậy thì dù có thực hành các nhân đức nhiều đi nữa
vẫn không đạt đƣợc hoàn thiện. Sự hoàn thiện này cốt ở chỗ
giữ linh hồn đƣợc trống rỗng, trần trụi, và đƣợc thanh tẩy
khỏi mọi mê thích.
Chúng ta có một hình ảnh sống động về vấn đề này
trong sách Sáng thế (35,2-3), ở đoạn Tổ phụ Gia cóp muốn
lên núi Bêthel dựng một bàn thờ kính Thiên Chúa để dâng
của lễ trên đó. Trƣớc hết ông truyền cho gia nhân phải giữ ba
điều: Một là phải vất bỏ tất cả các thần ngoại lai, hai là phải
thanh tẩy mình, ba là phải thay đổi y phục.
7 – Ba điều kiện ấy giúp ta hiểu những điều một linh
hồn phải làm khi muốn lên đƣợc núi thánh này để biến chính
mình thành bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa của lễ tình yêu tinh
tuyền, của lễ ca ngợi và tôn kính thuần khiết. Trƣớc khi lên
đỉnh núi, linh hồn ấy phải chu toàn trọn vẹn ba điều kiện
tƣơng tự: Thứ nhất, phải vất bỏ tất cả các thần ngoại lai – tức
là tất cả mọi nghiêng chiều lệch lạc và mọi dính bén; thứ hai,
phải nhờ đêm tối giác quan mà tự thanh tẩy khỏi những tàn
tích do các mê thích ấy để lại trong linh hồn, phải diệt trừ
chúng và thật lòng thống hối về chúng; rồi điều kiện thứ ba
cần có để lên đƣợc ngọn núi cao ấy, là phải thay đổi y phục:
Nhờ việc thực hiện hai điều kiện trên, Thiên Chúa sẽ thay
đổi những y phục ấy bằng những y phục mới, Ngài sẽ lột bỏ
cách nhận biết cũ kỹ của con ngƣời và ban cho linh hồn một
khả năng mới để nhận biết Thiên Chúa trong Thiên Chúa.
Ngài sẽ ban cho nó một tình yêu mới để yêu mến Thiên Chúa
trong Thiên Chúa, vì lòng muốn từ nay đã đƣợc lột bỏ hết
90 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

những ƣớc muốn và sở thích cũ kỹ của con ngƣời. Ngài sẽ


đặt linh hồn vào một hiểu biết mới và một vực thẳm hoan
lạc, vì những hiểu biết khác và những hình ảnh cũ kỹ từ nay
bị gạt ra một bên. Ngài sẽ chấm dứt tất cả những gì thuộc về
con ngƣời cũ – là sự khôn khéo của khả năng tự nhiên – và
dùng tất cả quyền năng Ngài mà mặc cho nó sự khôn khéo
siêu nhiên mới mẻ. Cho đến nỗi, từ nay, những hành động
của nó vốn là hành động của con ngƣời lại trở thành hành
động của Thiên Chúa, tức là điều ngƣời ta sẽ đạt đƣợc trong
tình trạng nên một, trong đó linh hồn chẳng còn đƣợc dùng
vào việc gì khác ngoài việc dùng làm bàn thờ, nơi mà Thiên
Chúa đƣợc thờ phƣợng trong lời ca tụng và tình yêu, và chỉ
có một mình Thiên Chúa ngự đó mà thôi. Do đó ta hiểu tại
sao xƣa kia Thiên Chúa truyền rằng bàn thờ để đỡ khám giao
ƣớc phải rỗng ở bên trong: Chính là để linh hồn hiểu rằng nó
phải hết sức trống rỗng đối với mọi sự, ngõ hầu nó xứng
đáng là một bàn thờ cho uy linh Ngài ngự trị (x. Xh 27,8).
Trên bàn thờ ấy, Thiên Chúa cũng không cho phép đƣợc có
lửa lạ, và lửa riêng của bàn thờ không bao giờ đƣợc tắt.
Nađáp và Abiút là các con của thƣợng tế Aaron, dâng lửa lạ
trên bàn thờ, đã khiến Thiên Chúa nổi giận, giết họ tức khắc
ngay trƣớc bàn thờ (x. Lv 10,1-2). Đó là để chúng ta hiểu
rằng muốn cho linh hồn đƣợc nên bàn thờ xứng đáng, thì ở
đó không đƣợc thiếu tình yêu Thiên Chúa và cũng không
đƣợc pha trộn tình yêu ngoại lai nào.
8 – Thiên Chúa không cho phép một vật nào khác đƣợc
ở chung với Ngài. Do đó chúng ta đọc thấy trong sách Các
Vua quyển I (tức là Samuel I: 1Sm 5,3-5) rằng khi dân
QUYỂN 1 91

Philitinh đặt khám giao ƣớc trong đền thờ có để tƣợng thần
của họ, thì mỗi sáng thức dậy đều thấy đám tƣợng ấy nằm
lăn dƣới đất, vỡ tan tành. Thiên Chúa không chấp nhận cho
ta có một mê thích nào khác ngoài mê thích giữ luật Ngài
cách hoàn hảo và vác lấy thánh giá Chúa Giêsu Kitô. Ngài
muốn rằng Ngài ở đâu thì sự mê thích phải ở đó. Vì thế nên
chúng ta không thấy có lời nào trong Thánh Kinh nói rằng
Thiên Chúa đã truyền đặt điều gì khác vào khám giao ƣớc
nơi có Manna, ngoại trừ sách Luật và gậy ông Aaron là biểu
hiệu của Thánh giá (Xh 16,34 và 25,16). Linh hồn nào không
nhắm điều gì khác hơn là gìn giữ cách hoàn hảo Luật Thiên
Chúa và vác lấy Thánh giá Chúa Giêsu Kitô, sẽ nên khám
giao ƣớc đích thật, có đƣợc Manna chân chính, là chính
Thiên Chúa. Nó sẽ đi đến chỗ chẳng cần bất cứ điều gì khác
mà vẫn có đƣợc lề luật và cây gậy ấy cách hoàn hảo (Đnl
31,26; Ds 17,16-26).
92 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 6
Hậu quả tệ hại của mê thích*

Chương này bàn về những tác hại chính do các mê


thích gây cho linh hồn, vừa ngăn cản vừa gây rối.
1 – Để hiểu rõ hơn và phong phú hơn về vấn đề đã nêu,
thiết tƣởng ở đây cần nêu lên và giải thích làm sao các mê
thích tác hại trên linh hồn về hai phƣơng diện chính: Hậu quả
thứ nhất là chúng ngăn cản sự hiện diện của Thần khí Thiên
Chúa; hậu quả thứ hai là, chúng ở trong linh hồn nào thì gây
mệt mỏi, hành hạ, làm tăm tối, ô nhiễm và suy yếu linh hồn
ấy, nhƣ lời của ngôn sứ Giêrêmia: Dân Ta đã làm hai điều bất
hảo: Chúng đã bỏ Ta là mạch nước hằng sống, để tự đào lấy
bể nước cho mình, nhưng các bể bị rò, không chứa được nước
(Gr 2,13). Bất cứ một hành vi nào bị xáo trộn vì mê thích cũng
gây nên cả hai tác hại ấy, tức là ngăn cản và gây rối.
Trƣớc hết xin nói về tác hại ngăn cản. Rõ ràng là, linh
hồn nào nghiêng chiều về một vật thì do sự nghiêng chiều ấy
nó đã rơi xuống thua kém cả hàng thụ tạo. Mỗi mê thích ấy
càng ăn rễ sâu vào linh hồn càng khiến linh hồn mất khả
năng tiếp nhận Thiên Chúa. Bởi lẽ, theo cách nói của các
triết gia và chúng ta cũng đã bàn đến ở chƣơng 4, hai điều
mâu thuẫn nhau không thể nào cùng ở chung trong một chủ
thể. Nghiêng chiều về Thiên Chúa và nghiêng chiều về thụ
tạo là hai sự nghiêng chiều mâu thuẫn nhau, làm sao hai sự
nghiêng chiều ấy có thể ở chung nơi cùng một lòng muốn?
Bởi lẽ, nào có điều gì tƣơng xứng giữa thụ tạo và Đấng Tạo
QUYỂN 1 93

Hóa? giữa điều thuộc giác quan và điều thuộc tâm linh? giữa
cái hữu hình và cái vô hình? giữa cái nhất thời và cái vĩnh
cửu? giữa lƣơng thực bởi trời thuần túy thuộc về tâm linh với
thứ lƣơng thực thuộc giác quan hoàn toàn theo nhục cảm?
giữa sự trần trụi của Đức Kitô và sự dính bén với một thụ tạo?
2 – Trong lãnh vực tạo hình tự nhiên, ngƣời ta không
thể nào đƣa một hình thù vào một vật thể nếu không xua đuổi
khỏi vật thể ấy cái hình thù trái ngƣợc vốn có trƣớc. Bao lâu
hình thù này còn thì nó sẽ là một cản trở cho hình thù kia.
Hai hình thù ấy loại trừ nhau, không thể đội trời chung với
nhau đƣợc. Cũng vậy, bao lâu linh hồn còn lệ thuộc sinh khí
khả giác của nhục cảm thì Thần khí thuần túy tâm linh không
thể nào vào trong nó đƣợc. Vì thế Chúa có nói: Không nên
lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó (Mt 15,26). Ở
một đoạn khác, Ngài nói: Đừng quăng của thánh cho chó
(Mt 7,6). Bằng những lời ấy, Chúa gọi là con Thiên Chúa
những ngƣời từ bỏ hết những mê thích đối với thụ tạo và sắp
sẵn để lãnh nhận Thánh Thần của Thiên Chúa cách thật tinh
tuyền; còn những kẻ nào muốn đƣợc thỏa thuê các mê thích
nơi các thụ tạo, Ngài so sánh họ với những con chó. Bởi vì,
con cái thì đƣợc ăn cùng bàn và cùng món với Cha, tức là
đƣợc nuôi dƣỡng bằng Thần khí của Ngài, còn chó má thì chỉ
đƣợc ăn những mẩu bánh từ bàn rơi xuống mà thôi.
3 – Do đó phải biết rằng mọi thụ tạo đều chỉ là những
vụn bánh từ bàn của Thiên Chúa rơi xuống. Cho nên kẻ tìm
no thỏa nơi các thụ tạo, có bị gọi là chó cũng đích đáng.
Cũng bởi lý do đó, ngƣời ta lấy mất của nó phần bánh của
con cái, vì nó không chịu nhắc mình lên khỏi những vụn
94 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

bánh là các thụ tạo, để ngồi vào bàn tiệc Thần Khí tự hữu của
Cha nó. Cũng vì thế, những loại ngƣời ấy thật nhƣ những
con chó lúc nào cũng đói vì các vụn bánh chỉ tổ khiêu khích
mê thích thay vì thỏa mãn cơn đói. Vua Đavít khi nói về
những ngƣời ấy, có viết: Chúng tru lên như chó và chạy rong
khắp thành, chúng lang thang tìm kiếm của ăn, chúng gầm
gừ khi không no bụng (Tv 58/59,15-16).
Đó là đặc điểm của kẻ chạy theo các mê thích, lúc nào
cũng bất mãn và chán chƣờng, nhƣ kẻ phải chịu đói khát vậy.
Liệu có thể tƣơng hợp chút nào giữa cơn đói do các thụ tạo
gây ra với sự no thỏa do Thần Khí Thiên Chúa đem lại
không? Do đó, bao lâu ngƣời ta chƣa tống khứ cơn đói thụ
tạo ra khỏi linh hồn thì linh hồn không thể tiếp nhận đƣợc sự
no thỏa Đấng Tạo Hóa. Bởi lẽ, nhƣ đã nói, cơn đói và sự no
thỏa đã là hai điều mâu thuẫn nhau thì không thể ở chung
trong cùng một chủ thể.
4 – Những điều ấy cho thấy khi gột sạch và thanh tẩy
linh hồn khỏi những yếu tố mâu thuẫn ấy, Thiên Chúa còn
phải hành động quyết liệt hơn khi tạo thành nó từ hƣ vô. Vì
những cái mâu thuẫn nơi các tình cảm và mê thích trái ngƣợc
ấy còn đối nghịch và kháng cự lại Thiên Chúa hơn cả hƣ vô,
vì hƣ vô đâu có kháng cự. Nói nhƣ thế là tạm đủ về tác hại
chính yếu đầu tiên mà các mê thích gây ra cho linh hồn, tức
là sự chống lại Thần Khí Thiên Chúa, nhƣ chúng tôi đã nói
nhiều ở trên.
5 – Bây giờ chúng ta hãy nói tới hậu quả thứ hai các mê
thích gây cho linh hồn. Hậu quả này có nhiều loại, vì các mê
QUYỂN 1 95

thích làm cho linh hồn mệt mỏi, hành hạ nó, khiến nó hóa
tăm tối, bị hoen ố và yếu nhƣợc. Sau đây chúng ta sẽ bàn
từng điểm trong 5 điểm ấy.
6 – Trƣớc hết, rõ ràng các mê thích làm cho linh hồn rã
rời mệt mỏi. Chúng nhƣ những đứa bé bất an và rất khó vừa
lòng, luôn đòi mẹ cái này cái nọ, và chẳng bao giờ chịu vừa
lòng cả. Tựa nhƣ kẻ khao khát tìm kho tàng phải đào đất hết
sức rã rời mệt mỏi, linh hồn cũng chán chƣờng mệt mỏi vì
theo đuổi những điều các mê thích của nó đòi hỏi. Kết cuộc,
nó đã đào nên những giếng nứt nẻ không sao chứa đƣợc
nƣớc để thỏa mãn cơn khát của nó. Đó là điều ngôn sứ Isaia
đã nói: Như khi ai đói nằm mơ thấy mình ăn, nhưng bừng
tỉnh dậy, bụng vẫn trống không; hay như ai khát nằm mơ
thấy mình uống, nhưng bừng tỉnh dậy thấy mình vẫn kiệt quệ,
bụng khô (Is 29,8). Linh hồn mang đầy mê thích cũng phải
mệt mỏi rã rời, y nhƣ môt ngƣời lên cơn sốt, chƣa hết sốt là
vẫn còn khó chịu, và cơn khát càng lúc càng tăng thêm. Vì
nhƣ lời trong sách Gióp: Nó sẽ gặp túng thiếu ngay trong dư
dật, bàn tay của mọi kẻ khốn cùng sẽ chụp lên nó (G 20,22).
Linh hồn mệt mỏi và sầu não vì những mê thích của mình.
Nó bị thƣơng, bị chấn động và bị rối loạn vì chúng, nhƣ nƣớc
bị gió đánh mạnh. Chúng làm cho linh hồn xao động không
đƣợc nghỉ yên, ở nơi đâu cũng vậy và việc gì cũng vậy.
Ngôn sứ Isaia nói về các linh hồn này nhƣ sau: Còn ác nhân,
chúng như biển động, không thể lặng yên (Is 57, 20). Ác
nhân nói đây là những kẻ không chế ngự nổi những mê thích
của mình. Linh hồn nào muốn làm thỏa mãn các mê thích sẽ
rã rời mệt mỏi. Nó tựa nhƣ một ngƣời đói mở miệng để tớp
96 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cho đầy gió: Thay vì đƣợc no thỏa, lại càng khát hơn, vì gió
đâu phải là thức ăn của ngƣời ấy. Nhƣ lời của Ngôn sứ
Giêrêmia nói: Nó xông vào sa mạc, lòng những tấp tểnh, nó
rít hơi (Gr 2,24) tức là do lòng muốn nó mê thích, nó vơ vào
những thứ gió hợp với sự nghiêng chiều của nó. Tiếp đó, để
giúp linh hồn ấy hiểu sự khô khan của nó, ngài khuyên: Hãy
ngừng chân lại kẻo mà long móng, kẻo họng ngươi chết khát
(Gr 2,25). Chân ấy tức là tƣ tƣởng, phải giữ cho đừng trần
trụi; họng ấy tức là cái ý muốn lấp đầy nỗi mê thích, phải giữ
cho đừng khát, nếu không thì sẽ càng lúc càng khát khô hơn.
Và nhƣ kẻ si tình phải rã rời mệt mỏi biết bao khi, đến ngày
hẹn đã từng khao khát mong chờ, nó lại bị hụt hẫng! Cũng
thế, linh hồn phải mệt mỏi rã rời với tất cả những mê thích
nó muốn lấp đầy, vì tất cả chỉ gây cho nó một sự trống rỗng
ghê gớm hơn và một cơn đói dữ dội hơn nữa. Vì, nhƣ ngƣời
ta vẫn thƣờng nói, nỗi mê thích giống nhƣ lửa, càng chất củi
vào càng cháy mạnh, cháy hết củi thì thế nào cũng phải tắt.
7 – Về điểm này, tình trạng của sự mê thích còn bi đát
hơn, bởi vì, lửa cháy hết củi sẽ tắt dần, còn sự mê thích một
khi đã đƣợc gia tăng nhờ đƣợc no thỏa, có thiếu chất đốt nó
cũng không tàn dần: Thay vì tàn dần nhƣ lửa thiếu chất đốt,
nó rơi vào chán chƣờng mệt mỏi, vì cơn đói cứ tăng mà đồ
ăn lại thiếu. Ngôn sứ Isaia có bàn về điểm này rằng: Người ta
xẻo bên phải nhưng vẫn đói, người ta ngoặm bên trái nhưng
cũng chẳng no (Is 9,20). Thật vậy, những ai không chịu giết
chết các mê thích của mình, thì nghiêng về bên phải tức là
con đƣờng của Thiên Chúa mà vẫn đói là đúng, vì họ chẳng
đáng đƣợc no thỏa nhờ Thần Khí êm dịu. Và khi họ nghiêng
QUYỂN 1 97

về phía bên trái, tức là khi đã để cho mê thích đƣợc thỏa mãn
nơi một thụ tạo nào đó, họ vẫn không đƣợc no thỏa cách đích
đáng, vì lúc ấy họ vừa bỏ mất điều duy nhất có thể làm thỏa
lòng, vừa ngấu nghiến cái thứ làm họ đói thêm hơn. Do đó,
rõ ràng các mê thích khiến linh hồn rã rời mệt mỏi.
98 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 7
Mê thích sinh khổ não *

Bàn về cách các mê thích hành hạ linh hồn, đồng thời


minh chứng điều ấy bằng những hình ảnh so sánh và bằng
thế giá Thánh Kinh.
1 – Dạng tác hại gây rối thứ hai mà các mê thích gây ra
cho linh hồn, là chúng hành hạ và khiến cho linh hồn sầu
muộn. Chúng khiến linh hồn nên nhƣ ngƣời khốn khổ vì bị
dây trói chặt vào một vật nào đó và chẳng đƣợc nghỉ ngơi
cho tới khi nào đƣợc giải thoát khỏi cực hình ấy. Vua Đavít
nói về những ngƣời này rằng: Con bị lưới ác nhân vây bủa
(Tv 118/119,61). Cũng có thể dịch là: Con bị siết chặt bởi
các dây tội lỗi, tức là các mê thích của con. Một ngƣời nằm
mình trần trên những gai góc và mũi nhọn, bị đau đớn khổ sở
thế nào thì linh hồn cũng phải đau đớn khổ sở khi ngả mình
trên các mê thích nhƣ thế. Cũng nhƣ gai nhọn, những mê
thích ấy gây thƣơng tích phiền muộn, dính đeo vào và gây
khổ sở. Vua Đavít nói rằng: Chúng bao vây tôi như thể bầy
ong, chúng cháy bừng như lửa bụi gai (Tv 117/118,12). Bởi
vì các mê thích chẳng khác nào bụi gai, trong đó lửa của âu
lo và khốn khổ cứ tăng thêm mạnh.
Nhƣ ngƣời nhà nông buộc con bò vào chiếc cày rồi
đánh đập và kích thích nó, chỉ vì nhắm đến mùa gặt; dục
vọng cũng vậy, nó dùng các mê thích gây sầu muộn cho linh
hồn cốt để đoạt đƣợc điều nó mong muốn. Ta có một ví dụ
rất sống động nơi việc nàng Đalila thiết tha muốn biết sức
QUYỂN 1 99

mạnh của Samson do đâu, sự mê thích ấy khiến nàng mệt


mỏi và hành hạ nàng tới nỗi linh hồn nàng bị yếu nhƣợc có
thể chết đƣợc12.
2 – Mê thích càng lớn bao nhiêu, sự hành hạ nó gây cho
linh hồn càng lớn bấy nhiêu. Cho nên càng mê thích càng bị
hành hạ khổ cực. Linh hồn càng để cho mê thích xâm chiếm
càng bị giày vò khốn khổ. Và nhƣ thế, ngay ở đời này, linh hồn
đã hứng lấy trọn vẹn lời sách Khải huyền về thành Babylon: Nó
đã vinh sang hào nhoáng bao nhiêu, hãy giáng cực hình và
tang tóc cho nó bấy nhiêu (Kh 18,7). Một ngƣời rơi vào tay kẻ
thù bị hành hạ khốn khổ thế nào, thì một linh hồn để cho mình
bị các mê thích cuốn hút cũng bị hành hạ khổ sở thế ấy. Về
điểm này, ta có một hình ảnh rất rõ trong sách Thủ Lãnh: Ông
Samson là một ngƣời hùng, lúc đầu đầy sức mạnh và tự do, đã
làm thẩm phán dân Israel, nhƣng về sau ông rơi vào quyền lực
đối phƣơng, chúng cƣớp mất sức mạnh ông, móc mắt ông, và
trói ông lại, bắt ông đẩy cối đá, hành hạ và làm khổ ông nhiều
(x. Tl 16,21). Đó cũng là số phận của những linh hồn để cho kẻ
thù là các mê thích tiếp tục sống và thắng thế trong mình.
Trƣớc hết chúng khiến linh hồn trở nên yếu nhƣợc và mù
quáng, nhƣ sẽ nói sau đây, rồi ngay đó chúng làm khổ và hành
hạ linh hồn, bằng cách cột linh hồn vào cối đá dục vọng, và
những sợi dây cột linh hồn chính là các mê thích.
3 – Cảm thƣơng những ngƣời chỉ vì mong làm thỏa sự
mê thích các thụ tạo mà phải khó nhọc và tốn kém đến thế,
12
Câu này cảm hứng từ lời Thánh Kinh nói về Samson: Bởi vì nàng thúc bách
ông quá, tất cả mọi ngày và nhằng nhẵng đòi ông, thì ông đã nóng lòng sốt
ruột muốn chết được (Tp 16,10).
100 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nên trong sách Isaia, Thiên Chúa nói với họ, đại ý: Tất cả
các ngươi là những kẻ mê thích, hãy đến với nguồn nước, và
tất cả các ngươi là những kẻ không có tiền bạc của ý riêng
và của các mê thích, hãy mau đến, hãy mua của ta mà ăn.
Hãy đến, hãy mua rượu và sữa của Ta (là sự bình an và dịu
ngọt tâm linh), không cần tiền bạc của ý riêng và không cần
phải đổi bằng một sự khó nhọc các ngƣơi đã phải cống hiến
cho các mê thích của các ngƣơi! Tại sao các ngươi mất tiền
bạc (của ý riêng) vì cái chẳng phải là bánh (tức là không
phải Thánh Thần Thiên Chúa) và lao nhọc (do các mê thích
gây ra) vì cái không thể làm cho các ngươi no thỏa? Hãy đến
với Ta và hãy lắng nghe Ta, hãy ăn những điều tốt các ngƣơi
ao ƣớc, hồn các ngƣơi sẽ béo tốt và hoan lạc (x. Is 55,1-2)13.
4 – Đi đến chỗ béo tốt nhƣ thế tức là đã lìa khỏi mọi sự
nếm hƣởng thụ tạo, vì thụ tạo hành hạ khổ sở, còn Thánh
Thần Thiên Chúa làm vui sƣớng. Vì vậy, Chúa kêu gọi
chúng ta trong Tin mừng Mátthêô nhƣ sau: Hãy đến với Ta,
hết thảy những kẻ lao đao và gánh nặng (về những nỗi lo
lắng và mê thích của các ngƣơi, hãy ra khỏi đó), và Ta sẽ
cho nghỉ ngơi lại sức (Mt 11,28). Đây là thứ an nghỉ mà các
mê thích đã cƣớp đoạt mất nhƣ vua Đavít có nói: Tội chồng
chất ngập đầu ngập cổ như gáng nặng vượt quá sức con
(Tv 37/38,5).

13
Nguyên văn: “Hỡi những ai khát, hết thảy hãy đến, có nƣớc đây, cả những ai
không có tiền, cũng hãy đến, hãy mua mà ăn! Hãy đến mà mua, không tiền
không bạc, mà có rƣợu có sữa! Tại sao phí tiền vào cái thứ không phải bánh
ăn, phí của vào đồ không làm no bụng? Hãy nghe Ta và các ngƣơi sẽ có thức
lành mà ăn, và cao lƣơng mà hƣởng tùy theo sở thích” (Is 55,1 –2).
QUYỂN 1 101

Chương 8
Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm
và mù quáng

1 – Tác hại thứ ba mà các mê thích gây ra cho linh hồn


là chúng khiến linh hồn thành mù quáng tối tăm. Kìa xem,
hơi nƣớc khiến không khí thành tối tăm và ngăn cản không
cho mặt trời soi sáng, tấm gƣơng mờ không sao nhận rõ hình
ảnh đƣợc, nƣớc đục không thể phản chiếu rõ ràng khuôn mặt
con ngƣời soi mình trong đó. Cũng vậy, linh hồn nào để
mình bị các mê thích cầm giữ, thì về phƣơng diện trí hiểu, nó
cũng bị mù tối, không còn chỗ cho mặt trời của lý trí tự
nhiên cũng nhƣ mặt trời siêu nhiên của Đức Khôn Ngoan
Thiên Chúa chạm đến và soi sáng. Cho nên tác giả thánh
vịnh có nói: Tội ác con đổ xuống trên mình, làm tối tăm mặt
mũi (Tv 39/40,13).
2 – Chính vì thế, trí hiểu trở thành u mê, lòng muốn bị
tê liệt, dạ nhớ trở nên lú lẫn, tóm lại các hoạt động cần thiết
của linh hồn đều bị hỗn loạn. Bởi lẽ, về phƣơng diện hoạt
động, các quan năng này lệ thuộc vào trí hiểu, nên rõ ràng
một khi trí hiểu bị cản trở, chúng cũng thành hỗn loạn mất
trật tự. Cho nên vua Đavít mới nói: Hồn vía con rụng rời
kinh khiếp (Tv 6,4). Tác giả muốn nói các quan năng của linh
hồn ông đã bị xáo trộn. Thật vậy, nhƣ đã nói, trí hiểu không
có khả năng thâu nhận vẻ chói sáng của Đức Khôn Ngoan
Thiên Chúa, nhƣ thể khí trời đầy mây không có khả năng
thâu nhận ánh sáng mặt trời. Lòng muốn không còn bén nhạy
102 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

để yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu tinh ròng, cũng
nhƣ tấm gƣơng bị hơi thở làm mờ đục không còn phản ảnh
đƣợc rõ ràng nét mặt ngƣời soi. Dạ nhớ cũng vậy, bị mờ mịt
những bóng tối của mê thích, nó không còn phản ảnh đƣợc
hình ảnh Thiên Chúa cách trong sáng, nhƣ thể nƣớc đầy bùn
không sao cho thấy rõ đƣợc khuôn mặt đang soi mình trong đó.
3 – Mê thích khiến linh hồn thành tối tăm và mù quáng,
bởi vì đã là mê thích thì bao giờ cũng mù quáng, tự nó chẳng
có chút hiểu biết nào về mình, nên lý trí phải luôn dẫn dắt nó
nhƣ dẫn ngƣời mù. Do đó mỗi lần linh hồn để cho mê thích
hƣớng dẫn, là mỗi lần nó bị mù tối. Vì, nếu một ngƣời sáng
mắt lại nhờ một ngƣời mù đặc dẫn đƣờng thì chẳng khác nào
hai ngƣời đều mù. Đúng nhƣ lời Chúa phán trong Tin mừng
Mátthêô: Mù mà dẫn đàng cho mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố
(Mt 15,14). Đôi mắt chẳng ích lợi cho con thiêu thân bao
nhiêu, vì sự mê thích vẻ đẹp của ánh sáng khiến mắt nó bị
lóa và sa vào lửa. Cũng thế, có thể nói rằng kẻ nào nuôi mình
bằng sự thỏa mãn mê thích cũng giống nhƣ con cá bị lóa mắt,
đối với nó, phải nói rằng ánh sáng đã vô tình đóng vai trò
bóng tối, khiến nó không nhận ra thứ mồi thợ câu đang nhử
nó. Vua Đavít cho chúng ta hiểu rõ điểm này, khi ông nói về
những ngƣời nhƣ thế: Lửa đã giáng xuống trên chúng và
chúng không thấy được ánh sáng, 14 thứ lửa nung nóng bằng
nhiệt năng và làm lóa mắt bằng ánh sáng. Đó cũng là điều sự
mê thích tạo nên trong linh hồn, nó nung nấu dục vọng và
làm lóa mắt trí khôn, đến nỗi trí khôn không thể thấy đƣợc

14
Đúng ra, nguyên văn Thánh vịnh 57/58, 9-10 là: “Như thể trẻ sinh non không
thấy mặt trời, ước gì lửa giận của Chúa cuốn chúng đi”.
QUYỂN 1 103

ánh sáng của mình nữa. Nguyên nhân của tình trạng lóa mắt
là thế này: Khi ngƣời ta đặt trƣớc đôi mắt một ánh sáng lạ,
năng lực thị giác liền bị thu hút hết vào cái ánh sáng ngay
trƣớc mắt này và không còn thấy đƣợc thứ ánh sáng nào
khác. Sự mê thích cũng vậy, nó vồ vập lấy linh hồn gần tới
độ nhƣ thể nằm ngay trong linh hồn, khiến linh hồn lảo đảo
trong thứ ánh sáng ấy và thỏa thích trong nó, và không còn
đƣợc hƣởng thứ ánh sáng đầy thông minh sáng suốt của
mình. Ngƣời ta sẽ chẳng đƣợc nhìn thấy thứ ánh sáng thông
minh ấy bao lâu chƣa khai trừ sự lóa mắt do mê thích gây ra.
4 – Vì thế, chúng ta có lý để than phiền sự dốt nát của
một số ngƣời đang tự chuốc lấy nhiều việc đền tội khác
thƣờng và nhiều lối thao luyện theo ý riêng. Họ cứ tƣởng
rằng chỉ cần làm mấy việc ấy là đủ để đƣợc nên một với Đức
Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thế nhƣng, làm sao có thể nên
một đƣợc nhƣ vậy nếu họ không chuyên chăm loại trừ các
mê thích của họ. Nếu các linh hồn ấy chuyên chăm nhƣ thế
thì chỉ cần chịu khó nhọc bằng phân nửa trong một tháng
cũng đƣợc lợi nhiều hơn là tập luyện đủ thứ trong nhiều năm.
Bởi vì, nhƣ thể cần phải lao động vất vả thì đất đai mới phì
nhiêu, nếu không thì chỉ sinh cỏ dại, cũng vậy, phải giết chết
các mê thích đi để linh hồn đƣợc tiến bộ. Nếu không, tôi dám
nói rằng linh hồn ấy sẽ không đạt đƣợc hoàn thiện và cũng
không lớn lên đƣợc trong sự nhận biết Thiên Chúa và nhận
biết chính mình. Tất cả những gì nó làm cũng chẳng sinh ích
lợi gì hơn khi ngƣời ta gieo hạt giống trên mảnh đất không
đƣợc cày bừa. Do đó, bao lâu chƣa dập tắt các mê thích thì
vẫn chƣa tẩy trừ đƣợc tăm tối và ngu muội khỏi linh hồn.
104 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Những mê thích ấy nhƣ thác lũ, mà cũng có thể ví đƣợc nhƣ


những hạt bụi nơi con mắt, chƣa gạt chúng đi thì chúng còn
ngăn cản không cho mắt thấy.
5 – Vua Đavít đau lòng khi thấy sự mù quáng của
những ngƣời nhƣ vậy, một đàng họ bị các mê thích ngăn cản
không cho nhận ra vẻ sáng của chân lý, một đàng họ bị Thiên
Chúa phẫn nộ, nên ông đã cảnh giác họ phải cẩn thận: Như
ốc sên vừa bò vừa rữa... ước gì lửa giận của Chúa cuốn
chúng đi nhanh hơn lửa gai bén tới nồi (Tv 57/58,10). Nghĩa
là trƣớc khi những mê thích của chúng kịp lớn mạnh nhƣ bụi
gai rậm, Thiên Chúa đã diệt trừ chúng nhƣ sâu bọ. Bởi vì,
đối với những mê thích sống trong linh hồn, để chúng có thể
nghe đƣợc tiếng Ngài, Thiên Chúa sẽ dùng hình phạt và sự
nghiêm trị ở đời nay hay đời sau, mà khiến chúng tan biến đi.
Tức là Ngài thanh tẩy chúng. Lại còn nói rằng: Ngài sẽ làm
chúng tan biến trong cơn giận là bởi vì khi giết chết các mê
thích, ngƣời ta phải hứng chịu nỗi khổ do sự tàn phá chúng
gây ra trong linh hồn.
6 – Ôi phải chi ngƣời ta biết đƣợc giá trị của thứ ánh
sáng thần linh họ bị tƣớc đoạt do sự mù tối mà các nghiêng
chiều và các mê thích gây ra cho họ, và phải chi ngƣời ta biết
đƣợc rằng nếu ai không chịu hy sinh những nghiêng chiều và
mê thích ấy sẽ gặp tai ƣơng và thiệt hại mỗi ngày đến mức
nào! Họ không nên tự phụ mình hiểu biết sâu sắc và đƣợc
nhiều ơn Chúa, để nghĩ lầm rằng dù mình có nghiêng chiều
và mê thích đi nữa, những thứ này cũng không làm tối tăm
mù quáng, cũng không khiến mình dần dần bị rơi vào chỗ
càng lúc càng tồi tệ. Thật vậy, ai có thể ngờ rằng một ngƣời
QUYỂN 1 105

già giặn trong khôn ngoan và đầy dẫy ơn huệ Thiên Chúa
nhƣ vua Salômôn mà còn rơi vào chỗ mù quáng, lòng muốn
bị bạc nhƣợc đến nỗi đã lập nhiều bàn thờ dâng kính các
ngẫu tƣợng và thờ lạy chúng ngay trong tuổi già của ông?
Ông ra nông nỗi ấy chỉ vì nghiêng chiều quyến luyến các bà
vợ và không chịu chăm lo gạt bỏ các mê thích và những hoan
lạc của tim ông (x. 1V 11,4). Chính ông đã nói về mình trong
sách Giảng viên rằng: Tôi đã không để lòng mất một thú vui
nào (x. Gv 2,10). Việc buông theo các mê thích này mãnh
liệt đến nỗi, dù lúc đầu ông thực sự khôn ngoan đấy nhƣng
về sau, vì ông không chịu gạt bỏ chúng, dần dần ông đã bị
chúng làm cho mù quáng, tâm trí ra mê muội, và cuối cùng
chúng đã dập tắt hẳn nguồn ánh sáng khôn ngoan lớn lao
Thiên Chúa đã ban cho ông, thành thử tới tuổi già, ông đã lìa
bỏ Thiên Chúa.
7 – Vậy, một ngƣời hết sức am tƣờng về khoảng cách
muôn trùng giữa điều thiện và điều ác mà các mê thích còn
hoành hành mãnh liệt đến thế, thì thử hỏi, đối với sự dốt nát
của chúng ta, nếu chúng ta không chịu kiềm chế các mê thích
ấy thì còn gì mà chúng chẳng làm nổi? Quả thật, nhƣ lời
Thiên Chúa nói với ngôn sứ Giôna khi phán về dân thành
Ninivê, chúng ta đúng là những kẻ chƣa phân biệt tay phải
với tay trái (x. Gn 4,11). Từng bƣớc trong cuộc sống ta còn
tƣởng ác là thiện và tƣởng thiện là ác, chỉ vì chúng ta ngu muội.
Mà nếu các sự mê thích lại vào hùa với những tăm tối tự nhiên
của ta, thì điều gì sẽ xảy ra, nếu chẳng phải là nhƣ Isaia đã than
phiền, khi ông nói về những ngƣời ƣa chiều theo các mê thích
của họ: Tựa như người mù men theo tường, chúng ta mò mẫm,
106 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mò mẫm như người không có mắt. Chúng ta lảo đảo cả trưa


lẫn chiều, đang sung sức mà như người đã chết (Is 59,10). Bởi
vì ngƣời nào đã để cho các mê thích biến mình thành mù quáng
thì ngay giữa chân lý và điều xứng hợp, họ vẫn chẳng thấy
đƣợc gì hơn khi họ ở trong tăm tối.
QUYỂN 1 107

Chương 9
Mê thích gây hoen ố *

Bàn về việc các mê thích khiến linh hồn bị nhơ nhớp


như thế nào: Minh chứng điều ấy bằng những hình ảnh so
sánh và bằng thế giá Thánh Kinh.
1 – Tác hại thứ tƣ mà các mê thích gây ra là chúng
khiến cho linh hồn bị nhơ nhớp, bị hoen ố, đúng nhƣ lời
trong sách Huấn ca: Ai chạm phải nhựa thông sẽ lấm (Hc
13,1). Kẻ chạm vào nhựa thông là kẻ làm vui thỏa ý muốn
mê thích nơi một thụ tạo nào đó. Cần lƣu ý cách nhà hiền
triết so sánh các thụ tạo với nhựa thông. Bởi vì, giữa sự ƣu
việt của linh hồn so với tất cả những gì tốt nhất nơi các thụ
tạo, sự khác biệt còn cách xa hơn sự khác biệt giữa ngọc
sáng hay vàng ròng so với nhựa thông. Nếu đem một viên
ngọc hay vàng đã nung nóng đặt trên nhựa thông, chúng sẽ
hóa đen và bị nhơ nhớp tùy theo độ nóng làm chảy nhựa và
dìm chúng xuống. Cũng thế, linh hồn bị mê thích nung nấu,
quyến luyến với các thụ tạo nào đó, cũng sẽ bị sức nóng của
mê thích hút sự nhơ nhớp vào mình và bị hoen ố.
Giữa linh hồn và các thụ tạo mà ta cảm giác đƣợc, sự
khác biệt còn lớn hơn cả sự khác biệt giữa một chất lỏng
trong sáng và một thứ bùn rất nhơ bẩn. Nhƣ chất lỏng này sẽ
bị hƣ hoại nếu đem đổ vào bùn, linh hồn nào gắn bó với thụ
tạo cũng bị nhơ bẩn nhƣ vậy.
Những vết nhọ nồi làm hỏng khuôn mặt rất xinh đẹp kiều
diễm. Cũng thế, linh hồn vốn là hình ảnh rất xinh đẹp kiều
108 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

diễm về Thiên Chúa, nhƣng nếu linh hồn chiều theo các mê
thích vô trật tự thì sẽ bị chúng làm cho xấu xa và nhơ nhớp.
2 – Vì thế, khi ngôn sứ Giêrêmia than phiền về sự suy
thoái và xấu xí mà những quyến luyến lệch lạc ấy gây ra cho
linh hồn, ông đã diễn tả vẻ đẹp của nó trƣớc rồi mới nói đến
sự xấu xa của nó: Những người nazir (những ngƣời khấn để
tóc) sáng chói hơn tuyết, trắng hơn sữa, cốt cách của họ
thắm hơn san hô, nước da họ rực rỡ như bích ngọc. Bây giờ
nước da đen đỉu quá mồ hóng, ngoài đường không thể nào
nhận ra (Ac 4,7-8). Ông muốn nói: Mái tóc của họ (tức là
của linh hồn ) trắng hơn tuyết, sáng hơn sữa, bóng hơn ngà
thời cổ, đẹp hơn lam ngọc. Thế mà nay mặt họ lại đen hơn
than, và tại các nơi công cộng, ngƣời ta không còn nhận ra
họ nữa. Ở đây chúng ta phải hiểu tóc là những tình cảm và tƣ
tƣởng của linh hồn, tóc này, nếu đƣợc hƣớng dẫn tới chỗ mà
Thiên Chúa đã định cho chúng - tức là hƣớng đến chính
mình Ngài, thì tóc này sẽ trắng hơn tuyết, sáng hơn sữa, bóng
hơn ngà và đẹp hơn bích ngọc. Bốn vật này ám chỉ đến đủ
mỏi thứ đẹp đẽ và tuyệt hảo của các thụ tạo mang thể chất.
Bên trên những vẻ đẹp ấy là linh hồn và các hoạt động của
nó, tức là những nazir hay những tóc trắng nói trên. Nếu linh
hồn và những hoạt động của nó bị hỗn loạn và bị hƣớng tới
chỗ Thiên Chúa không định cho nó, tức là nếu chúng bị đem
phục vụ các thụ tạo, thì ngôn sứ Giêrêmia nói rằng mặt
chúng trở nên đen và cứ tiếp tục đen hơn than.
3 – Chính sự mê thích các vật đời này cách vô trật tự đã
gây nên mọi tệ hại ấy và cả những tệ hại lớn hơn nữa, tàn phá
mất vẻ kiều diễm của linh hồn. Đến nỗi nếu phải trình bày rõ
QUYỂN 1 109

về những xấu xa và nhơ bẩn các mê thích ấy có thể gây ra


cho linh hồn, chắc rằng chúng ta sẽ chẳng thấy có gì ở đời
này so sánh đƣợc, cho dù là sánh với cảnh đầy mạng nhện và
rắn rết, với sự hôi thối ghê tởm của của xác chết, hoặc với
bất cứ điều nhơ nhớp bẩn thỉu nào khác ngƣời ta có thể thấy
hay tƣởng tƣợng ra, cũng chẳng thấm vào đâu. Cho dù trong
thực tế, xét về mặt hữu thể tự nhiên, một linh hồn lệch lạc
vẫn tiếp tục là một hữu thể tốt đẹp vì đã đƣợc Thiên Chúa tạo
dựng; thì xét về mặt luân lý, nó đã thành xấu xa, ghê tởm,
nhơ nhớp và tăm tối, với tất cả những tác hại chúng tôi sắp
quảng diễn đây và còn tệ hơn thế nhiều. Chúng kinh khủng
đến nỗi chỉ một mê thích vô trật tự thôi (nhƣ chúng tôi sẽ nói
sau) dù chẳng phải là chuyện đáng tội trọng, cũng đủ khiến
linh hồn bị lệ thuộc, nhơ nhớp và xấu xa đến nỗi không thể
nào hòa hợp với Thiên Chúa trong ơn nên một, khi mê thích
ấy chƣa đƣợc thanh tẩy. Thử hỏi linh hồn sẽ mang hình dáng
quái dị đến mức nào một khi nó hoàn toàn mất trật tự trong
các đam mê và bị bỏ mặc cho các mê thích của nó? Nó sẽ xa
lìa Thiên Chúa và sự thánh thiện của Ngài đến mức nào?
4 – Không thể nào lấy lời mà diễn tả hoặc lấy trí khôn
mà quan niệm đƣợc đủ các thứ nhơ bẩn mà các mê thích đủ
loại gây ra trong linh hồn. Nếu ta có thể nói lên đƣợc hoặc
giúp ngƣời khác hiểu đƣợc điều đó, hẳn họ sẽ kinh ngạc và
rất đau lòng khi thấy mỗi mê thích, bất kể lớn nhỏ, tùy chất
lƣợng của nó, đều để lại cho linh hồn một vết thẹo và một
tình trạng nhơ bẩn xấu xa nhƣ thế nào; và càng đau lòng hơn
nữa khi thấy rằng chỉ riêng nơi một sự vô trật tự nào đó của
lý trí thôi, đã có thể có vô số điều nhơ bẩn lớn nhỏ khác
110 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nhau, mỗi điều đều tàn phá theo một cách riêng của nó. Nếu
linh hồn ngƣời công chính chỉ cần một sự toàn thiện là sự
chính trực của linh hồn thôi, đã có vô vàn những thiên ân rất
phong phú và nhiều nhân đức diễm lệ, mỗi nhân đức đều độc
đáo và duyên dáng tùy theo số lƣợng và vẻ độc đáo của các
tâm tình yêu mến mà ngƣời đó đã bày tỏ với Thiên Chúa, -
thì cũng vậy, một linh hồn lệch lạc sẽ tùy theo những mê
thích khác nhau của nó đối với các thụ tạo, mà chuốc lấy bao
điều khốn nạn khác nhau, đủ thứ nhơ bẩn hèn hạ, tùy theo
những mê thích ấy vẽ nên trong nó.
5 – Những mê thích khác nhau ấy đƣợc gợi hình khéo
léo trong sách ngôn sứ Êzêkiel (x. Êd 8,10-16). Sách ấy thuật
lại rằng Thiên Chúa tỏ cho vị ngôn sứ thấy chung quanh các
bức tƣờng phía trong đền thờ, những hình hài vẽ đủ các giống
vật bò sát trên đất và tất cả sự ghê tởm của các thú vật nhơ
nhớp. Rồi Thiên Chúa phán cùng Êzêkiel: Hỡi con người,
ngươi đã thấy chưa, ngươi có thấy những điều ghê tởm mà
những người này làm trong tối tăm, mỗi người nơi am thờ kín
ẩn nhất của nó hay chăng? Rồi Thiên Chúa đã truyền cho ông
tiến vào sâu hơn, để thấy nhiều điều ghê tởm kinh khủng hơn
nữa. Ông cho biết ông đã thấy tại đó nhiều ngƣời đàn bà đang
ngồi than khóc Adonis, thần tình yêu của họ. Thiên Chúa còn
truyền cho ông vào sâu hơn nữa để thấy nhiều tội ác còn ghê
gớm hơn, và ông cho biết ông nhận thấy ở đó có “hai mƣơi
lăm ngƣời đang quay lƣng về phía đền thờ”.
6 – Những giống bò sát và thú vật nhơ bẩn đủ loại vẽ
trong khu thứ nhất của đền thờ là những tƣ tƣởng và những
quan niệm của trí hiểu về các vật hèn hạ dƣới đất này và về
QUYỂN 1 111

hết mọi loài thụ tạo. Có thể nói chúng đƣợc vẽ nên trong đền
thờ linh hồn mỗi khi linh hồn để cho chúng làm mờ trí hiểu,
là căn phòng thứ nhất của linh hồn. Vào sâu hơn, trong căn
phòng thứ hai, có những phụ nữ đang khóc than thần Adonis,
ấy là những mê thích ngụ tại quan năng thứ hai của linh hồn,
là lòng muốn. Những mê thích ấy nhƣ thể đang khóc than,
bởi chúng đang ao ƣớc điều mà lòng muốn quyến luyến.
Chúng là những loài bò sát đã đƣợc vẽ vời trong trí hiểu. Và
những ngƣời nam ở trong căn phòng thứ ba là những hình
ảnh và biểu tƣợng về các thụ tạo mà dạ nhớ, là phần thứ ba
của linh hồn, cứ duy trì và cứ nghiền đi ngẫm lại trong mình.
Nói rằng những ngƣời này quay lƣng lại đền thờ, là vì khi
nào linh hồn quyến luyến một vật nào dƣới đất này và ôm ấp
nó cách trọn vẹn hoàn toàn theo cả ba quan năng, thì có thể
nói nó đã quay lƣng lại đền thờ Thiên Chúa là lƣơng tri15,
vốn không chấp nhận một thụ tạo nào chống lại Thiên Chúa.
7 – Thiết tƣởng những điều nói trên đủ để hiểu đôi chút
về sự lộn xộn dơ bẩn do các mê thích gây ra cho linh hồn.
Còn nếu cứ phải bàn riêng đến cả sự xấu xa ít hệ trọng hơn
mà những bất toàn và các biến thái của nó gây ra trong linh
hồn, và rồi về sự xấu xa mà các tội nhẹ và bao nhiêu biến
thái của chúng gây ra (sự xấu xa này còn trầm trọng hơn sự
xấu xa của những điều bất toàn kia nữa), cũng nhƣ về sự xấu
xa mà những mê thích của tội trọng và bao nhiêu biến thái
của chúng gây ra (đây quả là sự xấu xa toàn diện của linh
hồn). Nếu cứ phải nói hết mọi sự với bao nhiêu khía cạnh
khác biệt nhau của chúng thì chẳng bao giờ xong, cả đến trí
15
Nguyên văn: lý trí ngay chính của linh hồn.
112 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hiểu của thiên thần chắc cũng không đủ để có thể am tƣờng


hết. Điều tôi nói và điều nằm trong đề tài của chúng ta, chính
là: mọi mê thích, dù chỉ nghiêng về một bất toàn hết sức nhỏ,
cũng vẫn làm cho linh hồn thành nhơ nhớp và hoen ố.
QUYỂN 1 113

Chương 10
Mê thích đưa tới nguội lạnh và suy yếu *

Bàn về việc các mê thích khiến linh hồn thành nguội


lạnh và bị suy yếu trên đường nhân đức.
1 – Tác hại thứ năm do các mê thích gây cho linh hồn,
là chúng khiến linh hồn hóa thành nguội lạnh và bị suy yếu,
không đủ sức theo đuổi đƣờng nhân đức và kiên trì trên
đƣờng ấy. Sức mạnh của mê thích bị chia chẻ làm nhiều
phần, khiến nó bị yếu hơn là khi nó chỉ hoàn toàn gắn bó với
một vật nào đó thôi. Mê thích ấy càng bị chia chẻ cho nhiều
vật, sức mạnh nó dành cho mỗi vật càng yếu đi. Các triết gia
nói rằng dũng lực mà quy về một mối thì mạnh hơn là khi bị
chia chẻ. Do đó, rõ ràng là nếu mê thích của lòng muốn tràn
đổ vào điều gì khác ngoài nhân đức, thì đối với nhân đức nó
sẽ rất yếu ớt. Một linh hồn chia chẻ lòng muốn vào những
chuyện không đâu, thì giống nhƣ nƣớc đã gặp chỗ chảy
xuống rồi thì không thể ngoi lên đƣợc và không còn tiện
dụng đƣợc nữa. Vì vậy tổ phụ Giacóp đã so sánh Ruben con
ông với thứ nƣớc tràn ra ngoài, bởi lẽ về một tội nào đó,
chàng đã buông cƣơng cho các mê thích của chàng. Ông nói:
Con chảy tràn ra như nước, con sẽ không lớn mạnh (x. St
49,4). Dƣờng nhƣ ông muốn nói: Vì con đã buông mình theo
các mê thích nhƣ nƣớc chảy xuôi, con sẽ chẳng tiến đƣợc
trên đƣờng nhân đức.
Nƣớc nóng không đậy vung sẽ dễ mất hết sức nóng.
Các loại thuốc thơm không đóng kín sẽ mau mất hƣơng vị và
114 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cƣờng độ mùi thơm của chúng. Cũng vậy, linh hồn nào
không tập trung vào một mê thích duy nhất là mê thích Thiên
Chúa sẽ mất sức nóng và nghị lực trên đƣờng nhân đức. Vua
Đavít biết rõ điều ấy nên đã thƣa với Chúa: Con sẽ giữ sức
mạnh con cho Chúa16, tức là con sẽ tập trung sức mạnh các
mê thích của con vào một mình Chúa mà thôi.
2 – Các mê thích còn làm suy yếu dũng lực (và cũng là
nhân đức) của linh hồn vì chúng hút mất sinh lực của linh
hồn, tựa nhƣ những chồi nhỏ quanh thân cây, rút tỉa hết nhựa
sống khiến cây không sinh đƣợc hoa trái. Ta cũng có thể đem
áp dụng lời sau đây của Chúa cho các linh hồn ấy: Khốn cho
những kẻ mang thai hay nuôi con dại trong những ngày ấy
(Mt 24, 19). Nhƣ việc mang thai và nuôi nấng làm hao mòn
sức lực ngƣời mẹ, các mê thích cũng vậy, nếu không bị loại
trừ, sẽ ngày càng thu hút sức mạnh của linh hồn. Chúng càng
lớn mạnh, linh hồn càng kiệt quệ, tựa nhƣ những chồi non làm
kiệt quệ thân cây vậy. Về điểm này Chúa đã khuyên ta Hãy
thắt lưng (Lc 12,35), tức là hãy giết chết các mê thích của ta.
Thật vậy, chúng chẳng khác nào những con đỉa hút máu. Nhƣ
sách Châm ngôn có nói: Những con đỉa (tức là các mê thích)
là những đứa con nói luôn miệng: Cho xin! Cho xin!17.
3 – Nhƣ vậy đã rõ, các mê thích chẳng gây đƣợc cho
linh hồn sự lành nào, mà trái lại chỉ lấy mất những sự lành
chúng gặp trong đó. Bao lâu chƣa giết chết chúng, chúng vẫn
không ngừng làm điều mà ngƣời ta nói về những con rắn lục
16
Nguyên văn lời thánh vịnh: “Lạy Thiên Chúa là sức mạnh con, con ngước
mắt nhìn Ngài” (Tv 58/59, 10).
17
Nguyên văn: “Con đỉa có hai con gái: Cho xin! Cho xin!” (Cn 30, 15).
QUYỂN 1 115

con, rằng chúng lớn dần trong dạ mẹ, ăn ruột mẹ và giết chết
mẹ, để sống ngay bên xác mẹ. Nếu ta không chịu giết chết
các mê thích thì rồi chúng cũng sẽ làm nhƣ vậy: Cuối cùng,
chúng sẽ giết chết sự sống trong Thiên Chúa của linh hồn,
chỉ vì linh hồn đã không chịu bóp nghẹt chúng trƣớc. Bởi đó,
sách Huấn ca có nói: Đam mê xác thịt đừng chiếm lòng con,
xin đừng phó con cho tình dục thao túng (Hc 23,6).
4 – Ngay cả khi chúng không đến nỗi quá quắt nhƣ vậy,
cũng thật hết sức đau lòng cho tình cảnh khốn cùng của một
linh hồn bị các mê thích ấy khống chế, khiến không còn chịu
đựng nổi chính mình, vô dụng với những ngƣời chung
quanh, uể oải và lƣời biếng trƣớc những gì thuộc về Thiên
Chúa. Lắm thứ khí huyết bệnh hoạn khiến bệnh nhân bị nặng
nề mệt mỏi không bƣớc nổi, lắm thứ cảm giác chán ngấy
khiến ngƣời ấy chán ăn, nhƣng không có thứ nào sánh đƣợc
với tình trạng các mê thích đối với thụ tạo gây ra cho linh
hồn, khiến nó hóa nặng nề và buồn nản trong việc theo
đƣờng nhân đức. Nhƣ thế, thông thƣờng, nguyên nhân khiến
nhiều linh hồn không còn nhiệt tình háo hức trên con đƣờng
nhân đức, chính là vì họ còn giữ những mê thích và quyến
luyến không hoàn toàn dành cho Thiên Chúa.
116 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 11
Diệt hẳn mê thích *
Chương này chứng minh rằng muốn đạt tới sự nên một
với Thiên Chúa, linh hồn cần phải lột bỏ hết mọi mê thích, cả
những mê thích hết sức nhỏ nhặt.
1 – Có lẽ từ lâu độc giả đã muốn hỏi xem: Để đạt tới
bậc hoàn thiện cao ấy, có cần phải giết chết hoàn toàn mọi
mê thích cả lớn lẫn nhỏ chăng? Hay chỉ cần giết một số mê
thích nào đó và bỏ qua một số khác, ít là những mê thích
không mấy quan trọng? Bởi thật là gay go và hết sức khó
khăn để linh hồn có thể đạt đƣợc sự tinh tuyền và trần trụi,
đến độ chẳng còn tha thiết và nghiêng chiều về bất cứ một
điều gì!
2 – Về vấn đề này, xin trả lời nhƣ sau: Trƣớc hết, không
phải mọi mê thích đều gây hại nhƣ nhau, và cản trở linh hồn
ngang nhau, vì có những mê thích hữu ý và những mê thích
theo phản ứng tự nhiên. Về những mê thích theo phản ứng tự
nhiên (vốn là chuyện ngoài ý muốn), ta không thể nào tẩy trừ
chúng, tức là không thể nào hoàn toàn giết sạch chúng ngay ở
đời này, nên bao lâu ta không ƣng theo chúng và chúng không
vƣợt quá những rung động tự nhiên (tức là tất cả những rung
động mà trong đó lòng muốn tự do không hề dự phần chút
nào, cả trƣớc lẫn sau), thì chúng ít ngăn cản hoặc không ngăn
cản linh hồn trên đƣờng nên một. Đàng khác những mê thích
ấy, dù không hoàn toàn bị giết chết vẫn không ngăn cản đƣợc
ta đến nỗi không thể nào vƣơn tới sự nên một với Chúa, vì
QUYỂN 1 117

ngay cả khí chúng cứ bám chặt lấy bản tính tự nhiên, thì về
mặt tâm linh hữu trí, linh hồn vẫn có thể rất tự do. Lắm khi
còn có thể xảy ra tình trạng: Linh hồn đã vận dụng lòng muốn
để nên một sâu xa trong nguyện gẫm an tĩnh rồi, mà những mê
thích ấy vẫn cứ cựa quậy trong phần cảm giác của con ngƣời,
dù ở phần thƣợng tầng, linh hồn đang mải mê cầu nguyện,
chẳng can dự gì với chúng.
Còn đối với tất cả những mê thích có tính cách hữu ý,
nếu ta muốn đạt tới sự nên một toàn diện, thì nhất thiết phải
diệt sạch, phải khử sạch khỏi linh hồn từ những điều trầm
trọng đƣa đến tội nặng cho tới những điều ít trầm trọng hơn
chỉ đƣa tới tội nhẹ, và cả đến những điều nhỏ mọn chỉ đƣa
tới những bất toàn, dù là những bất toàn nhỏ bé nhất. Lý do
là vì bậc nên một với Thiên Chúa cốt ở chỗ linh hồn giữ cho
ý muốn mình đƣợc hoàn toàn biến đổi sang ý muốn Thiên
Chúa, đến nỗi không còn điều gì trái nghịch với ý muốn này,
nhƣng trong hết mọi sự và đối với mọi vấn đề, nó chỉ còn
chuyển động theo ý Thiên Chúa muốn mà thôi.
3 – Trong tình trạng nên một ấy, hai ý muốn biến thành
một, thành ý muốn Thiên Chúa, đến nỗi ý muốn Thiên Chúa
cũng là ý muốn của linh hồn. Nếu linh hồn này còn tha thiết
với một điều bất toàn nào đó, là điều Thiên Chúa không
muốn, thì chƣa đạt tới chỗ có cùng một ý muốn với Thiên
Chúa, vì còn muốn điều Thiên Chúa không muốn. Do đó,
nếu linh hồn muốn hoàn toàn nên một với Thiên Chúa bằng
tình yêu và lòng muốn, trƣớc tiên phải khử trừ hết mọi mê
thích trong ý muốn, ngay cả những mê thích nhỏ bé nhất.
Tức là, khi đã nhận biết rồi thì không đƣợc cố ý thuận tình
118 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

muốn bất cứ một điều bất toàn nào, nhƣng phải hết sức tự
chủ và vận dụng tự do để cự tuyệt ngay khi vừa thoáng thấy
nó. Tôi nói: “Khi đã nhận biết”, bởi lẽ thƣờng thì do lơ đãng,
do vô tình hoặc do thiếu năng lực, linh hồn vẫn rất dễ rơi vào
những điều bất toàn, vào tội nhẹ và những mê thích tự nhiên.
Những tội nhƣ vậy không do cố ý, tựa nhƣ là những điều lén
lút đột nhập, nên có lời viết: Người công chính ngã bảy lần
còn chỗi dậy được (Cn 24,16). Thế nhƣng còn các mê thích
có tính cách hữu ý, đƣa đến những tội nhẹ cố ý, dù chỉ là
những điều hết sức nhỏ, nếu ngƣời ta không lƣớt thắng thì
cũng đủ gây ngăn trở (cho sự nên một với Thiên Chúa). Còn
về những thói quen đã bị giết chết, dù lắm lúc một số tác
động thuộc những mê thích khác nhau còn xuất hiện nhƣng
chúng không gây tác hại nhiều. Dĩ nhiên, ta vẫn phải quyết
khai trừ chúng, bởi lẽ chúng còn phát sinh đƣợc cũng là do
một một điểm bất toàn đã thành thói quen. Còn những thói
quen về những điều bất toàn hữu ý, mà ngƣời ta không bao
giờ chịu chiến thắng cho dứt khoát thì không những chúng
ngăn trở việc nên một với Thiên Chúa mà còn cản trở cả
bƣớc đƣờng hoàn thiện nữa.
4 – Có những bất toàn đã thành thói quen thƣờng gặp
nhƣ: thói nói nhiều, để lòng quyến luyến một điều nào đó
không bao giờ muốn thắng vƣợt, chẳng hạn đối với một
ngƣời, một bộ quần áo, một quyển vở, một căn phòng, một
loại đồ ăn, một kiểu chuyện gẫu, sở thích thƣởng thức điều
này, điều nọ, muốn biết, muốn nghe và nhiều chuyện khác
tƣơng tự... Bất cứ điều gì trong những bất toàn ấy, mà linh
hồn quyến luyến thành quen đi, cũng đều gây biết bao thiệt
QUYỂN 1 119

hại cho khả năng tăng trƣởng và tiến bộ về nhân đức. Có thể
nói nếu mỗi ngày ngƣời ta vấp phải nhiều bất toàn khác và
nhiều tội nhẹ riêng rẽ, nhƣng là những điều không phát sinh
từ một thói quen thƣờng xuyên của một tính xấu thƣờng
xuyên nào đó, thì có lẽ vẫn không bị ngăn trở cho bằng
trƣờng hợp linh hồn tha thiết với một vật nào đó. Bao lâu còn
bị ràng buộc vào đó, dù sự bất toàn ấy chỉ là một chuyện
không đâu, linh hồn vẫn không thể tiến tới trên con đƣờng
hoàn thiện. Một con chim đã bị cột thì cột bằng một sợi chỉ
mảnh mai hay bằng một sợi dây lớn có khác gì mấy? Dù sợi
chỉ có mảnh mai đến đâu, bao lâu con chim chƣa giựt đứt
đƣợc để bay đi thì vẫn còn mất tự do nhƣ bị cột bằng sợi dây
lớn. Thực ra, sợi chỉ thì dễ bứt đứt hơn, nhƣng dù dễ dàng
đến đâu, nếu không chịu giựt đứt, vẫn không thể nào cất
cánh. Đó cũng chính là tình trạng của một linh hồn còn dính
bén với một thụ tạo. Dù có nhiều nhân đức, nó vẫn sẽ không
đạt đƣợc sự tự do của ơn nên một với Thiên Chúa. Mê thích
và sự dính bén nơi linh hồn có đăc tính giống nhƣ đặc tính
mà ngƣời ta gán cho loại “cá ép” đối với chiếc tàu. Dù chỉ là
một con cá bé tí, một khi đã ép mình vào chiếc tàu nào, nó
làm cho chiếc tàu ấy phải đứng yên không thể nào tới bến
hoặc chạy thêm đƣợc18. Thật vậy, quả là đáng thƣơng hại cho
nhiều linh hồn, chẳng khác nào những chiếc tàu giàu có, chất
đầy mọi thứ phong phú, các công trình, các cuộc linh thao,
các nhân đức và các hồng ân Thiên Chúa ban cho họ, vậy mà
vì không có can đảm dứt bỏ một sở thích nhỏ, một điều tha

18
Theo một huyền thoại hàng hải thời xƣa ở bên Tây (ND - chú thích của ngƣời
dịch).
120 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thiết hay một nghiêng chiều nào đó (thật ra những thứ ấy chỉ
là một), họ chẳng bao giờ tiến lên đƣợc, cũng không cập
đƣợc bến hoàn thiện, dù họ chỉ cần vỗ cánh một cái cho đứt
hẳn sợi dây ràng buộc, chỉ cần gỡ bỏ con cá ép tí teo của mê
thích đang phá rầy là xong.
5 – Thiên Chúa đã làm cho họ cắt đứt đƣợc nhiều sợi
dây thật lớn trói buộc vào những điều tội lỗi và những
chuyện hão huyền, thế nhƣng thật đáng tiếc, chỉ vì không
chịu từ bỏ một chuyện trẻ con mà Thiên Chúa dạy họ phải
thắng vƣợt để tỏ lòng yêu mến Ngài – một sự ràng buộc
không lớn hơn sợi chỉ hay sợi tóc – nên họ đã bỏ cuộc,
không đạt tới đƣợc ơn lành lớn lao dƣờng ấy. Tệ hơn nữa, vì
chút quyến luyến ấy, chẳng những họ không tiến bƣớc mà
còn thụt lùi, bỏ mất cả những bƣớc đã tiến và đạt đƣợc từ bao
lâu nay với bao công lao khó nhọc. Vì ai cũng biết rõ rằng
trên con đƣờng này không tiến là lùi, không đƣợc là thua.
Chính Chúa đã muốn dạy chúng ta điều ấy khi Ngài nói: Ai
không đi với Ta tức là chống lại Ta, và kẻ không cùng Ta thu
họp tức là làm tan tác (Mt 12,30). Ai không để ý trám lại vết
nứt nhỏ trên chiếc bình, sẽ mất hết thứ chất lỏng chứa bên
trong. Sách Huấn ca dạy chúng ta rằng: Ai khinh lợi nhỏ sẽ
khánh kiệt (Hc 19,1), tức là ai khinh chê những điều nhỏ mọn
sẽ dần dần sa ngã. Sách còn nói thêm: Một tia lửa nhen cả lò
than (Hc 11,32), tức là tự một tia lửa thôi, ngọn lửa sẽ bùng
lên. Một điểm bất toàn đủ để kéo theo một điểm bất toàn
khác và những điểm này lại kéo theo nhiều điểm khác nữa.
Thành thử không bao giờ có chuyện một linh hồn lơ là trong
việc lƣớt thắng một mê thích mà lại không mắc phải nhiều
QUYỂN 1 121

mê thích khác, phát sinh từ chính sự yếu đuối và bất toàn của
linh hồn đối với mê thích mà nó cần thắng vƣợt. Và do đó,
nó luôn đi đến chỗ sa ngã. Chúng ta cũng đã từng thấy nhiều
ngƣời vốn đƣợc Thiên Chúa ban ơn tiến mau trong việc từ bỏ
triệt để và sống tự do tâm linh; thế rồi, chỉ vì họ lại để mình
dính bén với một nghiêng chiều nào đó, dƣới một danh nghĩa
việc lành, trao đổi chuyện trò hoặc tình bạn, mà mất dần tinh
thần nhiệt thành, sự cảm nếm Thiên Chúa, cũng nhƣ sự cô
tịch thánh thiện và rồi mất hẳn niềm vui thỏa và sự bền bỉ tập
luyện linh thao. Họ đi đến chỗ mất hết tất cả, bởi lẽ ngay từ
đầu không chịu khai trừ chút sở thích và mê thích thuộc giác
quan để giữ cho mình đƣợc cô tịch mà đến với Thiên Chúa.
6 – Trên con đƣờng này, muốn đạt đích thì phải luôn
luôn bƣớc đi. Muốn vậy, phải luôn luôn giết chết các ao ƣớc,
không đƣợc duy trì chúng. Nếu không tẩy sạch hết, sẽ không
thể nào đạt đích. Củi sẽ không biến thành lửa nếu còn thiếu
độ nóng cần thiết, dù chỉ một độ hết sức nhỏ. Cũng thế, linh
hồn sẽ không biến hóa nên Thiên Chúa, nếu còn bất toàn ở
một điểm, dù chỉ là một bất toàn không đáng gì so với một
mê thích hữu ý. Nhƣ chúng ta sẽ bàn tới sau này trong đêm
tối đức tin, linh hồn chỉ có một lòng muốn thôi. Nếu lòng
muốn này bị vƣớng mắc hoặc bị đầu tƣ vào một thụ tạo nào
đó, nó sẽ không còn tự do, đơn nhất và tinh ròng, là những
điều kiện mà cuộc biến đổi thần linh đòi phải có.
7 – Trong sách Thủ Lãnh có một hình ảnh về vấn đề
này: Thiên thần đến với con cái Israel và bảo họ rằng, vì họ
đã không tận diệt đám dân thù nghịch, trái lại còn giao kết
với một số ngƣời trong bọn chúng, cho nên Thiên Chúa sẽ để
122 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chúng ở lại giữa họ nhƣ địch thù, để chúng làm cớ cho họ


vấp phạm và hƣ mất 19. Thiên Chúa cũng xử sự y nhƣ thế đối
với một số linh hồn: Ngài đã lôi kéo họ ra khỏi thế gian và
giết chết những tên khổng lồ trong số các tội lỗi của họ và
tận diệt phần đa số các kẻ thù của họ - tức là những dịp vấp
phạm mà họ gặp phải trong thế gian, cốt để họ đƣợc tự do
hơn mà đi vào đất hứa, tức là nên một với Thiên Chúa. Thế
nhƣng họ lại kéo bè kết cánh, thỏa hiệp với đám dân bé nhỏ
ấy, tức là những bất toàn mà họ không chịu diệt hẳn đi. Vì
thế, Thiên Chúa chán ngán và để họ gục ngã trong các mê
thích của họ càng lúc càng tệ hơn.
8 – Sách Giôsua cũng cho ta một hình ảnh về vấn đề
này: Khi dân Israel khởi sự chiếm đất hứa, Thiên Chúa
truyền cho họ phải tàn sát hết tất cả mọi thứ trong thành
Giêricô, không đƣợc để sót một sinh vật nào, cả đàn ông lẫn
đàn bà, từ trẻ con tới ngƣời già cả, và tất cả mọi thú vật; họ
cũng không đƣợc lấy hoặc ao ƣớc một chút gì trong toàn bộ
các chiến lợi phẩm. Ấy là để chúng ta hiểu rằng, muốn đƣợc
nên một với Thiên Chúa cũng thế, phải giết sạch những gì
còn lẩn lút trong linh hồn, cả cái ít và cái nhiều, cái bé và cái
lớn, linh hồn không đƣợc khao khát gì nơi tất cả những thứ
đó, và phải từ bỏ triệt để nhƣ thể linh hồn không hề có đối
với chúng và chúng không hề có đối với linh hồn vậy. Đó là
điều thánh Phaolô đã dạy chúng ta trong thƣ gửi giáo đoàn
Côrintô: Anh em thân mến, tôi xin cảnh giác anh em điều

19
Nguyên văn: “Nên Ta đã nói: Ta sẽ không đuổi chúng trƣớc mặt ngƣơi,
chúng sẽ ở bên sƣờn các ngƣơi, và các thần của chúng sẽ là bẫy hại các
ngƣơi” (Tp 2, 3).
QUYỂN 1 123

này: Thời buổi đã co rút lại! Cho nên từ nay, những kẻ có vợ


thì hãy ở như không có, những kẻ khóc (đối với sự vật thế gian
này) hãy như không khóc; những kẻ vui hãy như không vui,
những kẻ mua hãy như không cầm giữ, và hưởng thế gian
như không tận hưởng (1Cr 7,29-31). Nói thế, thánh Tông đồ
muốn dạy chúng ta biết cần phải giữ cho linh hồn đƣợc thanh
thoát đối với hết mọi sự để tiến đến với Thiên Chúa.
124 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 12
Tác hại dây chuyền và đồng bộ *

Chương này giải thích rõ đâu là những mê thích đủ sức


gây cho linh hồn những thiệt hại đã nêu.
1 – Thiết tƣởng còn có thể nói rộng nói dài về vấn đề
đêm giác quan này, vì còn lắm điều phải nói về những tác hại
mà các mê thích gây ra, không những theo mấy cách thế đã
trình bày, mà còn theo nhiều cách thế khác nữa. Tuy nhiên,
theo mục đích chúng tôi tự đề ra, những điều nói trên đây đã
tạm đủ. Có lẽ bấy nhiêu cũng đủ giúp hiểu tại sao lại gọi việc
giết chết các mê thích là đêm tối, và tại sao cần phải lao vào
đêm ấy để đến với Thiên Chúa. Nhƣng trƣớc khi nêu rõ linh
hồn phải lao vào đó cách nào, và cũng để kết thúc phần này,
còn phải làm sáng tỏ vấn nạn mà độc giả có thể gặp phải về
những gì đã nói.
2 – Vấn nạn ấy gồm hai điểm: Một là, phải chăng bất
cứ mê thích nào cũng đủ tạo nên trong linh hồn hai tác hại đã
bàn đến: Một tác hại ngăn cản, tức là khiến linh hồn mất ơn
thánh Chúa, và một tác hại gây rối, gây cho linh hồn năm
thiệt hại chính đã nêu trên. Điểm thứ hai là, phải chăng bất
cứ mê thích nào, dù hết sức nhỏ bé, thuộc bất cứ loại nào,
cũng đủ sức gây ra hết mọi thiệt hại ấy cùng một trật, hay chỉ
là, một số mê thích gây nên những thiệt hại này và những mê
thích gây những thiệt hại khác, chẳng hạn một số mê thích
gây dằn vặt, một số khác gây mệt mỏi, và một số khác lại
gây tăm tối v. v...
QUYỂN 1 125

3 – Về điểm thứ nhất, xin thƣa, nếu nói tới tác hại ngăn
cản, khiến linh hồn mất ơn Chúa, thì chỉ những mê thích tự ý
và mang tính chất tội trọng mới có thể gây nên tác hại ấy cách
dứt khoát, cƣớp mất ơn thánh ở đời này và cƣớp mất vinh
quang ở đời sau, không cho ta đƣợc chiếm hữu Thiên Chúa.
Còn về điểm thứ hai, xin thƣa: Cả những mê thích đƣa
đến tội trọng, những mê thích hữu ý đƣa đến tội nhẹ, cho tới
những mê thích chỉ mang tính chất là những điều bất toàn,
mỗi một mê thích đều đủ sức cùng một lúc tạo nên hết mọi
thiệt hại gây rối trong linh hồn. Những thiệt hại này càng lúc
càng đẩy linh hồn hƣớng về thụ tạo, cũng y nhƣ tác hại ngăn
cản hỗ trợ cho việc quay lƣng với Thiên Chúa.
Tuy nhiên giữa các mê thích vẫn có điểm khác biệt:
Những mê thích thuộc tội trọng gây nên sự mù tối, khổ hình,
nhơ nhớp, yếu nhƣợc toàn diện... Còn những mê thích khác
thuộc tội nhẹ hoặc chỉ là những điều bất toàn thì không gây
những tác hại ấy cách toàn diện và dứt điểm, vì chúng không
tƣớc đoạt đƣợc ơn thánh (nếu tƣớc đoạt đƣợc thì chúng đã bắt
linh hồn phải nằm dƣới sự thống trị của chúng, bởi lẽ cái chết
của ơn thánh đem lại sự sống cho chúng). Tuy nhiên chúng vẫn
đẻ ra đƣợc đôi điều trong các tác hại ấy, dù ở mức độ yếu ớt
hơn và tùy sự suy yếu của ơn thánh mà chúng tạo ra trong
linh hồn. Theo đó, mê thích nào càng khiến ơn thánh nguội
đi, càng gây nên nhiều khổ hình, mù tối và nhơ nhớp hơn.
4 – Cần lƣu ý rằng mặc dầu mỗi mê thích đều gây ra
những tác hại gây rối trên đây, nhƣng trong đó, một số thì
chủ yếu và trực tiếp gây những tác hại này, một số gây các
126 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tác hại khác; và những mê thích khác cũng vậy. Mê thích


nhục dục cũng gây ra tất cả các tác hại ấy, nhƣng cốt yếu và
đặc thù của nó là làm nhơ nhớp cả linh hồn và thân xác. Mê
thích thuộc tính hà tiện cũng gây ra tất cả các tác hại ấy,
nhƣng chính yếu và trực tiếp, nó gây nên sầu muộn. Mê thích
hƣ danh cũng gây ra hết mọi tác hại, nhƣng chính yếu và trực
tiếp, nó gây ra tăm tối và mù quáng. Sự mê ăn uống cũng gây
ra hết mọi tác hại nhƣng chính yếu là nó khiến ngƣời ta lãnh
đạm với đƣờng nhân đức. Về các mê thích khác cũng tƣơng
tự nhƣ thế...
5. Sở dĩ bất cứ tác động nào của một mê thích hữu ý
đều cùng một lúc gây ra trong linh hồn hết mọi hậu quả ấy,
chính là vì nó trực tiếp đối nghịch với hết mọi tác động nhân
đức đang làm phát sinh trong linh hồn những hậu quả trái
ngƣợc. Một tác động nhân đức làm phát khởi và sinh ra trong
linh hồn cùng một lúc vừa sự dịu dàng, bình an, an ủi, ánh
sáng, sự trong suốt và sức mạnh, còn một mê thích vô trật tự
gây ra dằn vặt, khổ não, mệt mỏi, mù tối và yếu nhƣợc. Việc
thực hành một nhân đức làm cho mọi nhân đức đƣợc lớn lên,
ngƣợc lại, việc chiều theo chỉ một nết xấu thôi cũng đủ làm
lớn mạnh hết mọi nết xấu khác và các hậu quả của chúng
trong linh hồn. Ngay khi chiều theo sự mê thích ngƣời ta
không thấy đƣợc tất cả mọi tác hại ấy - vì lúc ấy ngƣời ta
đang mải mê với sự thích thú nó đem lại, nhƣng sớm muộn
ngƣời ta sẽ cảm thấy rõ các tác hại nó để lại. Điều ấy đƣợc
biểu thị nơi cuốn sách thiên thần đã ra lệnh cho thánh Gioan
phải ăn (x. Kh 19,9): Mới ngậm vào miệng thì thấy ngon
ngọt nhƣng nuốt vào bụng rồi lại gây cay đắng. Cũng vậy,
QUYỂN 1 127

các mê thích khi vừa mới chiều theo thì dịu ngọt và có vẻ tốt
lành, nhƣng sau đó ngƣời ta sẽ cảm thấy cay đắng. Những ai
đã từng buông mình theo mê thích có thể nhận thấy rõ điều
ấy. Dĩ nhiên cũng có một số ngƣời bị mù tối và vô cảm đến
độ không còn cảm thấy đƣợc chuyện ấy; họ không nghĩ tới
chuyện tiến bƣớc trong Thiên Chúa, nên không thấy đƣợc
những gì ngăn cản họ đạt tới Ngài.
6 – Ở đây tôi không nhắm nói về những mê thích tự
nhiên khác không mang tính hữu ý, cũng không nhắm nói về
những tƣ tƣởng không vƣợt qua những rung động sơ khởi, và
không nhắm nói về nhiều cám dỗ mà ngƣời ta không chiều
theo, bởi vì tất cả những điều ấy không gây nên trong linh
hồn một tác hại nào trong những tác hại kể trên. Thật vậy,
mặc dầu sự náo loạn và đam mê chúng quấy lên trong lúc ấy
khiến cho ngƣời bị thử thách có cảm tƣởng chúng đã làm họ
bị nhơ nhớp và mù quáng, nhƣng thật ra không phải vậy, mà
đúng hơn, chúng còn nên cớ cho họ đƣợc những lợi ích
ngƣợc hẳn. Tùy theo sức chiến đấu chống cự của họ nhiều
hay ít, mà họ đƣợc thêm sức mạnh, sự tinh ròng, ánh sáng và
niềm an ủi, cùng với nhiều ơn lành khác, nhƣ lời Chúa đã
phán với thánh Phaolô: Quyền năng được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối (2Cr 12,9).
Trong khi đó, những mê thích hữu ý sẽ sinh ra hết mọi
tác hại chúng tôi đã nói tới, và còn nhiều hơn nữa. Vì thế,
bận tâm chính yếu của các bậc thầy tâm linh là đòi hỏi các
môn đệ phải giết chết ngay bất cứ một mê thích nào, và ở lại
trong sự “rỗng không” đối với những điều họ mong ƣớc, ngõ
hầu đƣợc giải thoát khỏi tình trạng khốn nạn kinh khủng ấy.
128 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 13
Cách xử sự *

Bàn về cách thế và phương tiện phải sử dụng để tiến


vào đêm giác quan.
1 – Bây giờ xin nêu vài ý kiến để bạn biết và có thể tiến
vào đêm giác quan. Muốn đạt mục đích này, cần biết rằng
linh hồn thƣờng tiến vào đêm giác quan bằng hai cách: hoặc
chủ ý hoặc thuận tình. Chủ ý là tất cả những gì linh hồn có
thể làm và thực sự đích thân làm để tiến vào đó, mà chúng
tôi sẽ bàn trong những ý kiến dƣới đây. Còn thuận tình là khi
linh hồn không làm gì cả, chỉ có Thiên Chúa hành động trong
nó, còn nó chỉ xử sự nhƣ ngƣời bị động. Về cách này chúng
tôi sẽ nói trong cuốn thứ tƣ (tức Đêm dày) khi bàn về những
ngƣời mới bắt đầu tiến trên đƣờng tâm linh. Ở đó, với ơn
Chúa giúp, tôi sẽ dành cho họ nhiều ý kiến dựa trên những
điểm bất toàn đầy dẫy họ thƣờng vấp phải trên con đƣờng ấy,
cho nên tôi sẽ không nói rộng ở đây. Lại nữa, đây không phải
chỗ thích hợp, vì lúc này chúng ta chỉ bàn về những nguyên
nhân khiến cho cuộc vƣợt qua này đƣợc gọi là đêm, về bản
chất đêm này ra sao, và nó có mấy phần. Tuy nhiên, để khỏi
quá ngắn ngủi và để độc giả không mất nhiều phần lợi ích vì
không đƣợc cống hiến ngay một phƣơng dƣợc hoặc một lời
khuyên giúp vƣợt qua tăm tối của các mê thích, ở đây cũng
xin trình bày tóm tắt phƣơng thế sẽ nói sau này. Tôi cũng sẽ
làm nhƣ thế ở đoạn kết của cả hai cuốn sau, tức là khi nói về
các nguyên nhân khác của đêm này, điều mà khi đƣợc ơn
Chúa giúp, tôi sẽ bàn ngay.
QUYỂN 1 129

2 – Những lời khuyên dƣới đây về việc chiến thắng các


mê thích thật vắn tắt và ít ỏi, nhƣng thiết tƣởng càng cô đọng
lại càng ích lợi và hiệu nghiệm. Do đó, ngƣời nào thật tình
muốn thực hiện thì không cần các lời khuyên khác nữa, bởi
vì các lời khuyên này đã gồm tóm tất cả.
3 – Lời khuyên thứ nhất là hãy thƣờng xuyên khao khát
bắt chƣớc Chúa Kitô trong hết mọi sự, tự uốn nắn theo khuôn
mẫu cuộc đời Ngài, nghiền ngẫm cuộc đời Ngài thật kỹ để
biết mà bắt chƣớc, và trong hết mọi sự sẽ xử sự nhƣ chính
Ngài xử sự.
4 – Lời khuyên thứ hai là, để thực hiện điều trên đây
cho tốt, bất cứ sự thích thú nào mời mọc giác quan, nếu
không nguyên vì danh dự và vinh quang Thiên Chúa, thì hãy
từ bỏ và khai trừ vì lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô, là Đấng
khi sống ở trần gian này đã không có cũng chẳng muốn có
một sở thích hoặc ƣớc muốn nào khác hơn là thi hành ý
muốn của Cha Ngài, ý muốn mà Ngài gọi là của ăn, là lƣơng
thực của Ngài (x. Ga 4,34). Xin nêu một ví dụ. Tôi có một
dịp đƣợc nghe thật thích thú về những điều chẳng quan hệ gì
tới việc phục vụ Thiên Chúa, tôi sẽ không màng thích thú
cũng không màng nghe. Hoặc nếu tôi thấy khoái cảm khi
nhìn xem những điều không giúp tôi nghĩ đến Thiên Chúa
hơn, tôi sẽ không màng sự thích thú ấy và sẽ không nhìn
những điều ấy. Hoặc nếu có dịp đƣợc thích thú trong lời nói
hay trong bất luận chuyện gì khác, tôi cũng xử sự tƣơng tự
nhƣ thế. Hãy làm cho mọi giác quan đều bị thất nghiệp mỗi
khi có thể làm đƣợc nhƣ thế; còn nếu không thể đƣợc thì ít ra
đừng ƣớc ao thƣởng thức những điều ấy, dù chúng cứ tuôn
130 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đến trong ta. Và nhƣ thế, ta cần sớm cố gắng giết chết các
giác quan và khiến chúng nên vô cảm đối với sở thích ấy, tựa
nhƣ chúng đã chìm trong tăm tối. Nếu biết chăm lo nhƣ vậy,
chẳng bao lâu ta sẽ tiến bộ nhiều.
5 – Vậy, muốn giết chết và bình định bốn mối xúc cảm
tự nhiên - là vui thỏa, hy vọng, sợ hãi và đau đớn - để cho sự
bình lặng của chúng phát sinh những ơn lành khác nữa, cần
áp dụng phƣơng dƣợc toàn diện sau đây, là nguyên nhân của
công trạng đích thực và những nhân đức lớn:
6 – Ƣớc gì linh hồn luôn chăm chú quay hƣớng về:
- Không phải cái dễ hơn, nhƣng là cái khó hơn,
- Không phải cái ngon ngọt hơn, nhƣng là cái nhạt
nhẽo hơn;
- Không phải cái thích thú hơn, nhƣng là cái không
thích thú mấy;
- Không phải sự an nghỉ, nhƣng là sự nặng nhọc;
- Không phải niềm an ủi, nhƣng là sự phiền muộn;
- Không phải cái hơn, nhƣng là cái kém;
- Không phải cái cao hơn, quý hơn, nhƣng là cái thấp
hơn và bị khinh chê hơn;
- Không phải phía muốn đôi điều, nhƣng là về phía
không muốn gì cả;
- Không nhằm cái khá hơn trong các sự vật trần gian,
nhƣng nhằm cái tệ hơn, và khao khát vì Đức Kitô mà
QUYỂN 1 131

lao vào sự hoàn toàn trần trụi, trống không và nghèo


khó đối với hết mọi sự ở trần gian.
7 – Cần phải ôm lấy những việc ấy với cả tấm lòng và
phải cố gắng ép lòng muốn theo đó. Nếu biết tận tình thực
hiện các điều ấy, thì chỉ trong ít lâu ngƣời ta sẽ tìm thấy nơi
chúng một niềm hoan lạc và an ủi lớn lao, khi ngƣời ta thực
hiện cách trật tự và khôn ngoan.
8 – Những điều nêu trên, nếu đƣợc thực hiện cẩn thận,
đã đủ để đi vào đêm giác quan. Tuy nhiên, để dồi dào hơn,
chúng tôi xin nói thêm một cách thao luyện dạy cho ta biết
giết chết đam mê của xác thịt, đam mê của con mắt và sự
kiêu hãnh về sức sống20, là những điểm thánh Gioan nói là
hiện đang thống trị trong thế gian, và tự chúng, phát sinh hết
mọi mê thích khác.
9 – Thứ nhất, khi hành động, hãy cố gắng sao để tự
khinh chê mình và ao ƣớc cho hết mọi ngƣời làm nhƣ thế.
Thứ hai, khi nói, hãy cố gắng sao để tự khinh chê mình
và ao ƣớc hết mọi ngƣời làm nhƣ thế.
Thứ ba, khi suy nghĩ, hãy cố gắng sao để tự khinh chê
mình và ao ƣớc hết mọi ngƣời làm nhƣ thế.
10 – Để kết luận về những ý kiến và quy luật này,
thiết tƣởng nên ghi lại đây những lời đã ghi nơi hình vẽ
Đƣờng Lên Núi Cát Minh ở đầu sách này. Những lời này
chỉ dẫn về việc lên đỉnh núi là cao điểm của ơn nên một.

20
Nguyên văn “. . . và sự kiêu hãnh về của cải” (1Ga 2,16).
132 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Một đàng, chúng bàn đến những điều thuộc tâm linh và
bên trong, nhƣng một đàng cũng nói về phần tâm linh
còn bất toàn theo cảm giác và bên ngoài, nhƣ đã có chỉ
rõ trên hai con đƣờng ở bên cạnh đƣờng hoàn thiện. Và
do đó, ở đây chúng ta hiểu theo bình diện khả giác; rồi
trong phần thứ hai của đêm này, chúng ta sẽ hiểu theo
bình diện tâm linh.
11 – Những ý kiến ấy nhƣ sau:
- Để đạt tới chỗ thỏa mãn trong mọi sự, đừng tìm
thích riêng một điều gì.
- Để đạt tới chỗ chiếm hữu tất cả, đừng muốn chiếm
hữu một chút gì của bất cứ điều chi.
- Để đạt tới chỗ là tất cả, đừng muốn được là một chút
gì trong bất cứ điều chi.
- Để đạt tới chỗ biết tất cả, đừng tìm biết một chút gì
trong bất cứ điều chi.
- Để đạt tới chỗ không còn cảm nếm, hãy đi qua nơi
bạn không nếm.
- Để đạt tới chỗ không còn biết, hãy đi qua nơi bạn
không biết.
- Để đạt tới chỗ không còn chiếm hữu, hãy đi qua nơi
bạn không chiếm hữu.
- Để đạt tới chỗ bạn không là, hãy đi qua nơi bạn
không là.
QUYỂN 1 133

12 – Phƣơng thế để khỏi ngăn cản cái tất cả:


- Khi bạn dừng lại ở một điều gì đó, là bạn không còn
lao mình vào tất cả.
- Bởi vì, để đi từ tất cả đến tất cả, bạn phải bỏ mình về
tất cả trong tất cả.
- Và một khi bạn đạt tới chỗ có tất cả, phải làm sao để
có mà chẳng muốn gì.
- Và nếu bạn muốn có một điều gì trong tất cả, thì bạn
không còn hoàn toàn có được kho tàng của bạn
trong Thiên Chúa.
Chính trong sự trần trụi ấy, linh hồn tiến trên đƣờng
tâm linh tìm đƣợc sự an tĩnh và nghỉ ngơi. Thật vậy, khi nó
không ao ƣớc gì, thì từ bên trên không có gì làm nó mệt và từ
bên dƣới không có gì áp bức nó, vì nó ở ngay tại tâm điểm sự
khiêm nhƣờng của nó; còn khi nó ao ƣớc một điều gì thì nó
sẽ mệt mỏi nơi chính điều ấy.
134 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 14
Giải nghĩa câu thứ hai của ca khúc

“Nồng nàn yêu thương và âu lo”


1 – Chúng tôi đã giải nghĩa câu thứ nhất của ca khúc,
câu bàn đến giác quan, giúp hiểu thế nào là đêm giác quan và
tại sao lại gọi nó là đêm. Chúng tôi cũng đã nêu rõ phải theo
trật tự và phƣơng thế nào để lao vào đó cách chủ động. Bây
giờ đến lúc phải bàn về những đặc tính và hậu quả kỳ diệu
của nó, là những điều chứa đựng trong các câu kế tiếp của ca
khúc. Tôi chỉ xin nói thật giản lƣợc, xoáy thẳng vào trọng
tâm để giải nghĩa mấy câu thơ ấy, nhƣ tôi đã hứa trong lời
tựa. Rồi tôi sẽ đi ngay sang cuốn thứ hai của đêm tối này, tức
là đêm tâm linh.
2 – Linh hồn nói rằng trong khi nồng nàn yêu thương
và âu lo, nó vƣợt qua và lao vào đêm dày của giác quan để
nên một với Đức Lang Quân. Bởi vì, nhằm vui hƣởng các mê
thích, lòng muốn đã thƣờng yêu chuộng chúng và nghiêng
chiều về chúng đến độ cháy bừng, cho nên muốn chiến thắng
hết mọi mê thích và từ bỏ lòng mê thích mọi sự, nó cần phải
có một sự nồng nàn khác lớn hơn, do một tình yêu khác lớn
hơn, tức là tình yêu của Đức Tình Quân của nó. Một khi có
đƣợc sự thích thú và sức mạnh nơi Ngài, lòng muốn sẽ có
đƣợc nghị lực và sự kiên trì để dễ dàng từ bỏ hết mọi tình
yêu khác.
Để chiến thắng sức mạnh của các mê thích thuộc giác
quan, không những cần phải có lòng yêu mến Đức Tình Quân,
QUYỂN 1 135

mà còn phải nồng nàn yêu thƣơng và âu lo. Thực vậy, kinh
nghiệm cho thấy bản tính khả giác của chúng ta bị đánh động
và cuốn hút vào các sự vật khả giác với biết bao âu lo vì mê
thích, đến nỗi nếu phần tâm linh không cháy bừng bằng chính
yếu tố tâm linh với những âu lo còn lớn hơn nữa, thì sẽ không
thể nào lƣớt thắng cái ách tự nhiên, để tiến vào đêm giác quan,
và sẽ không có đủ can đảm tự tƣớc đoạt khỏi lòng mê thích
mọi thụ tạo để ở trong tình trạng tăm tối đối với mọi sự.
3 – Tuy nhiên ở đây chúng tôi không nói về bản chất và
số lƣợng những nỗi lo âu của tình yêu mà các linh hồn cảm
thấy trong những bƣớc đầu của con đƣờng kết hiệp nên một
này; cũng không nói về những sự hối hả và những khám phá
linh hồn phải làm để ra khỏi nhà (tức là ý riêng), trong đêm
tối (tức là sự giết chết các giác quan). Chúng tôi cũng không
nói những âu lo dành cho Đức Tình Quân nhƣ thế đã giúp
linh hồn vƣợt qua những lao nhọc và nguy hiểm của đêm ấy
dễ dàng biết bao và cảm thấy êm ái ngọt ngào đến ngần nào.
Đây không phải chỗ để bàn đến những chuyện ấy, đàng khác,
đó cũng là những điều không thể diễn tả. Cảm nghiệm đƣợc
và chiêm ngắm đƣợc những điều ấy thì tốt hơn là viết nó ra.
Do đó, chúng tôi xin bƣớc qua giải thích các câu thơ còn lại
ở chƣơng tiếp đây.
136 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 15
Giải nghĩa các câu thơ còn lại của ca khúc
Ôi vận may diễm phúc!
Tôi đã ra đi không bị để ý,
Mái nhà tôi giờ thật yên hàn.
1 – Linh hồn dùng một ẩn dụ để nêu rõ tình cảnh tù đày
đáng thƣơng. Ai trốn đƣợc nơi đó mà không bị ngƣời cai tù
nào ngăn cản đều coi đó là vận may diễm phúc. Quả thật, từ
sau tội tổ tông, linh hồn chẳng khác nào bị cầm tù trong cái
thân xác hay chết này, phải lụy thuộc các xúc cảm và mê
thích tự nhiên. Một khi đƣợc thoát khỏi vòng vây, không còn
lụy thuộc chúng, linh hồn tự cho mình gặp vận may diễm
phúc vì đã ra đi mà không bị để ý - tức là không bị một mê
thích nào ngăn cản và cầm giữ.
2 – Để đƣợc nhƣ thế, linh hồn đã tranh thủ ra đi trong
đêm dày, tức là trong sự lột bỏ hết mọi thích thú và giết chết
mọi mê thích, theo cách thức chúng tôi đã nói. Còn câu mái
nhà tôi giờ thật yên hàn nhằm nói rằng phần giác quan, là
nhà của mọi mê thích, từ nay đƣợc bình an do các mê thích
đã bị chế ngự và thiếp ngủ. Thật vậy, bao lâu các mê thích
chƣa thiếp ngủ nhờ nhục dục bị giết chết, bao lâu nhục dục
chƣa bị dẹp yên đến độ không còn quấy rầy phần tâm linh
nữa, thì linh hồn vẫn chƣa đạt đƣợc tự do chân chính, để vui
hƣởng ơn nên một với Đức Tình Quân của mình đâu.
Hết cuốn thứ nhất.
QUYỂN 2

 Bàn về phƣơng thế gần nhất để vƣơn tới chỗ nên


một với Thiên Chúa, tức là về đức tin.
 Và về phần thứ hai của đêm dày thuộc phần tâm
linh, đƣợc hàm chứa trong ca khúc thứ hai dƣới
đây.
Chương 1
Ca khúc thứ hai

Trong tăm tối và an toàn,


Cải trang, men theo cầu thang bí mật,
Ôi vận may diễm phúc!
Trong tăm tối và được che khuất,
Mái nhà tôi đã thật yên hàn.
1 – Trong ca khúc thứ hai này, linh hồn ca hát vận may
diễm phúc nó có đƣợc nhờ lột bỏ khỏi tâm trí hết mọi bất
toàn về tâm linh và mọi mê thích muốn chiếm hữu về mặt
tâm linh. Vận may diễm phúc ấy thật lớn lao. Linh hồn đã
gặp biết bao khó khăn mới giữ cho ngôi nhà đƣợc yên tịnh về
mặt tâm linh, để tiến vào sự tăm tối bên trong. Có nghĩa là
tâm trí đƣợc lột bỏ hết mọi sự, cả về khả giác lẫn về tâm
linh, chỉ còn lại nguyên đức tin và chỉ nhờ đức tin ấy mà
vƣơn tới Thiên Chúa.
Chính vì thế, ở đây đức tin đƣợc gọi là thang và bí mật.
Mọi bậc thang, tức là mọi tín điều của đức tin đều kín nhiệm
vì bị che giấu với hết mọi giác quan và trí hiểu. Khi linh hồn
lìa bỏ mọi giới hạn tự nhiên và hợp lý, để vƣơn lên nhờ thang
đức tin ấy của Thiên Chúa, nó chìm trong tăm tối, không có
một chút ánh sáng nào của giác quan và trí hiểu, chỉ còn nhờ
đức tin mà leo lên và tiến vào tận những miền sâu thẳm của
Thiên Chúa.
QUYỂN 2 139

Linh hồn nói rằng nó cải trang mà ra đi. Có nghĩa là,


nhờ đức tin hƣớng dẫn tiến lên, nó đƣợc đổi khác từ tƣ trang
y phục đến dáng dấp hành động tự nhiên, tất cả đều đƣợc
biến đổi, mang lấy tính cách thần linh. Chính nhờ sự cải trang
ấy, linh hồn không bị điều gì của thế tục, của lý trí hoặc của
ma quỷ phát hiện và cầm giữ lại. Không một điều gì trong ba
thứ ấy có thể làm hại nó khi nó tiến bƣớc trong đức tin.
Không những thế, lúc đó, linh hồn còn đƣợc giấu ấn,
che chở và giữ xa mọi mƣu chƣớc của ma quỷ, đến độ quả
đúng là nó tiến bƣớc trong tăm tối và được che khuất. Đây
có ý nói là đƣợc che khuất khỏi sự dòm ngó của ma quỷ, vì
đối với ma quỷ thì ánh sáng đức tin còn tăm tối hơn cả bóng
tối nữa.
Nhƣ thế, khi linh hồn đi bằng nẻo ấy, ta có thể nói rằng
nó đƣợc che giấu và bảo vệ không để cho ma quỷ thấy đƣợc.
2 – Vì đó, linh hồn mới nói nó đã ra đi trong tăm tối và
an toàn. Thật vậy, ai có cơ may tiến bƣớc qua nẻo tăm tối
của đức tin, để cho đức tin dẫn dắt trong cảnh mù lòa, sẽ
vƣợt hết mọi biểu thị tự nhiên và mọi lý lẽ tâm linh, mà tiến
bƣớc thật an toàn, nhƣ đã nói trên kia.
Linh hồn còn nói rằng nó đã ra đi trong đêm tâm linh
ấy đang khi mái nhà nó, tức là phần tâm linh và lý trí, đã thật
yên hàn. Thật vậy, khi linh hồn đạt tới sự nên một với Thiên
Chúa, thì những khả năng tự nhiên của nó, những mãnh lực
và âu lo khả giác về mặt tâm linh, tất cả đều đƣợc chế ngự,
thật yên tịnh. Vì thế ở đây linh hồn không bảo rằng nó đã ra
140 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đi với những âu lo, nhƣ trong đêm thứ nhất, đêm giác quan.
Bởi vì, để bƣớc đi trong đêm giác quan và tự lột bỏ những gì
khả giác, cần phải cảm thấy những âu lo bồn chồn của tình
yêu khả giác mới có thể ra đi đƣợc. Còn, để chế ngự cho ngôi
nhà tâm linh đƣợc yên tịnh, chỉ cần chối bỏ hết mọi quan
năng, mọi thích thú và mê thích tâm linh, chối bỏ trong một
đức tin tinh tuyền. Làm đƣợc điều đó rồi, linh hồn đƣợc nối
kết với Đức Tình Quân trong một sự nên một đơn giản, tinh
tuyền, yêu mến và đồng hóa.
3 – Cũng phải ghi nhận thêm rằng trong ca khúc thứ
nhất, khi nhắc tới phần giác quan, linh hồn bảo là nó đã ra đi
trong đêm dày, còn ở đây khi nhắc tới phần tâm linh, nó lại
nói mình ra đi trong tăm tối, bởi lẽ sự mù mịt nơi phần tâm
linh lớn hơn và vì sự tăm tối vốn mù mịt hơn đêm. Thật vậy,
đêm dù tăm tối tới đâu vẫn còn thấy lờ mờ đƣợc một chút gì,
nhƣng nơi chính sự tăm tối thì không còn xem thấy gì hết.
Trong đêm giác quan cũng còn chút ánh sáng, vì trí hiểu và
lý trí chƣa bị mù. Còn đêm tâm linh, tức là đức tin, thì thiếu
hẳn mọi ánh sáng, cả nơi trí hiểu lẫn nơi giác quan. Do đó
linh hồn mới bảo rằng nó tiến bƣớc trong tăm tối và an toàn,
điều mà trong đêm giác quan nó không nói. Thật vậy, linh
hồn càng ít hoạt động nhờ tài năng riêng, càng tiến bƣớc an
toàn, vì càng tiến bƣớc trong đức tin. Đó là điều sẽ đƣợc bàn
sâu rộng trong cuốn thứ hai này, xin bạn đọc lƣu tâm, vì
chúng tôi sẽ nói đến điều rất quan trọng trên đƣờng tâm linh
đích thật. Hẳn sẽ có những điểm hơi tối, nhƣng tất cả đều đan
dệt với nhau, nên chúng sẽ soi sáng lẫn cho nhau, và tôi tin
rằng, mọi ngƣời sẽ hiểu đƣợc thấu đáo.
QUYỂN 2 141

Chương 2
Đức tin *21

- Bắt đầu bàn về phần thứ hai của đêm, đề cập tới
nguyên nhân của đêm này, tức là đức tin.
- Có hai lý do cho thấy phần thứ hai của đêm tối hơn
phần thứ nhất và phần thứ ba.
1 – Bây giờ bắt đầu bàn đến phần thứ hai của đêm, tức
là bàn về đức tin. Đức tin là phƣơng thế kỳ diệu để đạt đến
cùng đích của ta là Thiên Chúa là nguyên nhân thứ ba và là
phần thứ ba của đêm này. Đức tin nằm ở giữa nên đƣợc so
sánh với nửa đêm. Do đó có thể nói, đối với linh hồn, phần
này còn tối hơn cả phần thứ nhất, và một cách nào đó cũng
tối hơn cả phần thứ ba. Bởi lẽ phần thứ nhất tức là đêm giác
quan, đƣợc so sánh với phần đầu của đêm, phần trƣớc nửa
đêm, lúc ngƣời ta không còn nhìn thấy các vật khả giác
nhƣng lúc ấy chƣa xa ánh sáng bằng lúc nửa đêm. Còn phần
thứ ba là phần trƣớc rạng đông, nó ở gần ánh sáng ban ngày
nên không tối bằng nửa đêm. Nó sát liền, phác họa và báo
hiệu ánh sáng ban ngày, và nó đƣợc sánh với chính Thiên
Chúa. Thật vậy, cứ tự nhiên mà nói, đối với linh hồn thì
Thiên Chúa cũng là một đêm dày nhƣ đức tin. Tuy nhiên, sau
khi linh hồn trải qua cả ba phần của đêm nhƣ thế, Thiên
Chúa sẽ chiếu sáng linh hồn cách siêu nhiên bằng những tia

21 *
Các tựa đề có đánh dấu hoa thị (*) là của riêng bản Việt ngữ. Ngƣời dịch
mạn phép thêm vào để bạn đọc dễ theo dõi tƣ tƣởng của tác giả và tiện tra
cứu ở mục lục.
142 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

sáng thần linh của Ngài, là khởi điểm của sự nên một hoàn
hảo tiếp liền sau đó, khi đã vƣợt hết phần thứ ba, nên cũng có
thể nói rằng phần đêm thứ ba này ít tăm tối hơn phần thứ hai.
2 – Phần đêm thứ hai tối hơn phần đầu, vì phần đầu chỉ
chạm đến phần hạ đẳng của con ngƣời là phần cảm giác và do
đó cũng là phần nằm ở mặt ngoài; còn phần thứ hai, tức là đêm
tối đức tin chạm đến phần thƣợng đẳng của con ngƣời tức là
phần lý trí, là phần nằm sâu ở trong và cũng tăm tối hơn, vì nó
tƣớc đoạt luôn cả ánh sáng của lý trí, hay nói đúng hơn, nó
khiến lý trí bị mù tối. Do đó, đêm đức tin đƣợc so sánh rất xác
đáng với nửa đêm, là phần thâm sâu nhất của đêm đen.
3 – Giờ đây chúng ta sẽ chứng minh làm thế nào phần
thứ hai này, tức đức tin, lại là đêm đối với tâm trí, nhƣ phần
thứ nhất đã là đêm đối với giác quan. Rồi sẽ nói đến những
chƣớng ngại trong đêm ấy và linh hồn phải làm gì về mặt
chủ động để vào đƣợc trong đó; còn về mặt thụ động, tức là
những điều Thiên Chúa sẽ làm bất chấp phản ứng của linh
hồn để đẩy nó vào đó, chúng ta sẽ nói sau, ở nơi thích hợp,
tức là cuốn ba (Đêm dày).
QUYỂN 2 143

Chương 3
Lý do khiến đức tin là đêm tối *

- Làm sao đức tin lại là đêm dày cho linh hồn?
- Chứng minh bằng những lý lẽ, thế giá và hình ảnh của
Thánh Kinh.
1 – Các nhà thần học nói rằng đức tin là một nếp
22
quen của linh hồn, một nền nếp vừa chắc chắn vừa tăm tối.
Nó là một nền nếp tăm tối bởi vì nó làm cho chúng ta tin các
chân lý đƣợc chính Thiên Chúa mạc khải, những chân lý
vƣợt trên mọi ánh sáng tự nhiên và vƣợt hẳn mọi khả năng trí
hiểu của loài ngƣời. Do đó mà, đối với linh hồn, ánh sáng
đức tin ấy trở nên nhƣ một bóng tối mù mịt, bởi lẽ cái hơn
hút mất và át mất cái kém. Tựa nhƣ ánh sáng mặt trời át hết
mọi thứ ánh sáng khác, vì những ánh sáng này bị chìm hẳn
khi ánh mặt trời lóa lên chói lọi đập thẳng vào quan năng thị
giác của ta. Nó khiến thị giác hóa mù quáng và không còn
nhìn thấy gì nữa, bởi lẽ ánh sáng của nó quá chênh lệch, vƣợt
hẳn sức chịu đựng của quan năng thị giác. Về ánh sáng đức
tin cũng thế, vì quá sáng nên nó đè bẹp hẳn ánh sáng của trí
hiểu, là thứ chỉ dùng đƣợc cho những hiểu biết thuần tự
nhiên, mặc dù nếu Thiên Chúa muốn nâng lên thì nó cũng có
khả năng tiếp thu những điều siêu nhiên.
2 – Nghĩa là, ánh sáng của trí hiểu không thể tự mình
biết đƣợc điều gì nếu không qua con đƣờng tự nhiên, tức là

22
tức là một phần tính thƣờng trực của hữu thể - habitus (DDB).
144 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

qua các giác quan. Muốn hiểu, ánh sáng của lý trí cần có những
hình ảnh và biểu tƣợng hoặc những điều tƣơng tự với các đối
tƣợng ấy, nếu không, nó sẽ chẳng thể nào hiểu đƣợc. Bởi vì,
theo triết học, phải vừa có đối tượng, vừa có quan năng tiếp
nhận mới có được sự hiểu biết. Vì thế, nếu ta kể cho ai đó nghe
về những vật mà ngƣời ấy chƣa hề biết, cũng chƣa bao giờ thấy
điều gì tƣơng tự với chúng, thì ngƣời ấy sẽ chẳng làm sao biết
đƣợc điều gì về chúng hơn là khi chƣa nghe nói. Chẳng hạn
nếu ta kể cho một ngƣời rằng trên đảo nọ có một con thú mà
ngƣời ấy chƣa bao giờ thấy, và nếu ta không nói con thú ấy có
điểm nào giống với những con thú ngƣời ấy đã biết, thì dù ta có
nói gì đi nữa, nghe xong, ngƣời ấy vẫn chẳng có đƣợc ý niệm
và hình ảnh gì về con thú ấy hơn trƣớc khi ta kể. Xin nêu thêm
một ví dụ khác để hiểu rõ hơn. Đây là một ngƣời mù bẩm sinh,
chƣa bao giờ thấy một màu sắc nào cả, nếu ta bảo ngƣời ấy
rằng màu trắng hoặc màu vàng là nhƣ thế đó, thì có giải thích
mấy đi nữa, ngƣời ấy cũng chẳng hiểu gì hơn, bởi vì ngƣời ấy
chƣa bao giờ thấy những màu ấy hoặc thấy một điều gì tƣơng
tự để dựa vào đó mà đoán định. Ngƣời ấy chỉ giữ lại đƣợc
nguyên tên gọi các màu mà ngƣời ấy đã nghe đƣợc qua thính
giác thôi, còn hình thức hoặc dáng vẻ của chúng thì không có
một ý niệm gì, vì chƣa bao giờ đƣợc thấy.
3 – Thế mà đó lại là cách đức tin hành động trong linh
hồn. Nó nói với ta những điều ta chƣa hề thấy, chƣa hề nghe,
và cũng chẳng có cái gì tƣơng tự với những điều ấy để mà
nghe, mà thấy trƣớc. Ta không thể có một chút ánh sáng nào
nhờ các tri thức tự nhiên, bởi vì điều đức tin nói với ta vƣợt
hẳn mọi giác quan. Tuy vậy, ta tin những điều ngƣời khác
QUYỂN 2 145

dạy cho ta, ta bắt ánh sáng tự nhiên phải mù tối đi và phải
khuất phục. Nhƣ lời thánh Phaolô nói: Đức tin là do bởi lời
đã được nghe (Rm 10,17). Dƣờng nhƣ Ngài muốn nói: Đức
tin không phải là một hiểu biết tiếp thu đƣợc do một giác
quan nào đó; nó chỉ là một ƣng thuận của linh hồn đối với
điều nó biết đƣợc nhờ nghe nói.
4 – Đức tin còn vƣợt xa điều chúng ta hiểu đƣợc qua
những ví dụ vừa kể rất nhiều, vì không những nó không đem
lại kiến thức hoặc sự hiểu biết, mà nhƣ chúng tôi đã nói, nó
còn tƣớc đoạt và làm mù lòa cả những kiến thức và hiểu biết
mà ngƣời ta mong dùng để phê phán chính xác về nó. Những
sự hiểu biết khác thì ngƣời ta thâu nạp đƣợc nhờ ánh sáng
của trí hiểu; còn sự hiểu biết đức tin thì không nhờ ánh sáng
này, vì ta đã nhân danh đức tin mà chối bỏ nó; nếu cứ bám
lấy ánh sáng này, không chịu làm cho nó tối đi thì đức tin sẽ
hỏng mất. Vì thế ngôn sứ Isaia mới nói: Các ngươi mà không
tin, các ngươi sẽ không hiểu (Is 7,9)23. Vậy rõ ràng đức tin là
một đêm dày đối với linh hồn, và chính bằng cách ấy mà nó
đem lại ánh sáng cho linh hồn. Nó càng khiến linh hồn thành
mù tối càng ban cho linh hồn ánh sáng lớn lao hơn về nó. Vì
nó ban ánh sáng bằng cách gây mù tối, theo lời ngôn sứ
Isaia: “Vì nếu các ngƣơi không tin, các ngƣơi sẽ không có
ánh sáng”. Cũng vì thế ta có thể biểu thị đức tin bằng đám
mây đã chia cách con cái Israel khỏi quân Ai Cập khi họ sắp
bƣớc vào biển Đỏ, mà Thánh Kinh nói: Đám mây ấy vừa là
tối tăm vừa làm rạng sáng đêm tối (Xh 14,20).

23
Theo bản 70, còn bản Do Thái viết: “Các ngƣơi mà không vững tin, các
ngƣơi sẽ không vững đƣợc.”
146 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

5 – Thật là chuyện kỳ diệu: Nó là tối tăm mà lại soi


sáng ban đêm. Đức tin, vốn là một đám mây tăm tối và mù
mịt đối với linh hồn. Cả linh hồn lúc nàycũng đang là đêm,
vì khi đức tin xuất hiện, linh hồn bị tƣớc hết ánh sáng tự
nhiên và trở thành mù tối. Đám mây đức tin kia lại dùng sự
mù mịt của nó mà chiếu soi và ban ánh sáng cho sự mù mịt
của linh hồn, khiến cho thầy giáo (là đức tin) hòa hợp với
học trò (là linh hồn). Thật vậy, một ngƣời đã ở trong tăm tối
mù mịt, chỉ có thể đƣợc soi sáng cách thích hợp nhờ một sự
tăm tối mù mịt khác, nhƣ Đavít có dạy Ngày qua mách bảo
cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia (Tv 18A/19A,3).
Nói rõ ra là thế này: Thiên Chúa là ngày trong sự hạnh phúc
vô tận của Ngài, hạnh phúc này là ngày đối với các thiên
thần và các linh hồn đã đƣợc hƣởng phúc, và cả hai nhóm
này cũng đã là những ngày. Ngày mách bảo cho ngày tức là
Thiên Chúa nói với họ và thông ban cho họ Ngôi Lời, là Con
của Ngài, để họ đƣợc biết và vui hƣởng. Còn đêm tức là đức
tin trong Hội thánh chiến đấu, nơi vẫn còn đêm tối. Đức tin
bày tỏ sự hiểu biết cho Hội thánh, và cho bất cứ linh hồn nào,
chính mỗi linh hồn này lại là đêm, vì chƣa đƣợc hƣởng sự
khôn ngoan diễm phúc sáng tỏ, và đang ở trong đức tin nên
bị mù tối, mất cả ánh sáng tự nhiên của mình.
6 – Nhƣ vậy, nói đƣợc rằng: Đức tin là một đêm dày
nên mới soi sáng đƣợc cho linh hồn đang ở trong tăm tối,
đúng nhƣ điều mà cũng chính vua Đavít có nói: Đêm sẽ nên
ánh sáng soi tôi trong niềm hoan lạc24. Ông muốn nói: Khi

24
Nguyên văn: “Tôi có nói: Ít ra tối tăm có thể che khuất tôi đi, ánh sáng
quanh tôi trở thành đêm tối.” (Tv 138/139, 11).
QUYỂN 2 147

ông đƣợc hoan lạc trong sự chiêm niệm tinh trong và sự nên
một cùng Thiên Chúa, đêm đức tin sẽ hƣớng dẫn ông. Thế
mới biết linh hồn phải ở trong mịt mù tăm tối (về mặt tự
nhiên) để có đƣợc ánh sáng mà tiến bƣớc (trên đƣờng nên
một với Thiên Chúa).
148 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 4
Cần đi qua đêm đen *

Nói rộng hơn về việc linh hồn phải ở trong tăm tối đến
mức nào để được đức tin hướng dẫn tới đỉnh chiêm niệm
cách thật tốt đẹp.
1 – Tới đây bạn đã hiểu đƣợc phần nào, tại sao đức tin
lại là một đêm tối đối với linh hồn và tại sao linh hồn lại phải
ở trong tăm tối về mặt tự nhiên, để có thể đƣợc đức tin dẫn
dắt tới đỉnh cao nên một. Tuy nhiên để linh hồn biết xử sự
nhƣ thế, cũng nên giải thích chi tiết hơn một chút về bóng tối
mà linh hồn phải chịu để đƣợc vào trong vực thẳm đức tin.
Vậy nơi chƣơng này, tôi sẽ nói về sự tăm tối cần có và nhờ
ơn Chúa giúp, tôi sẽ nói khá chi tiết những gì cần làm để
đừng cản trở một sự hƣớng dẫn cao vời đến thế.
2 – Vậy tôi xin nói ngay rằng muốn đƣợc đức tin hƣớng
dẫn cách chắc chắn tới tình trạng nên một, linh hồn không
những phải ở trong tăm tối về phía những gì liên quan tới các
thụ tạo và những cái mau qua (tức là phần cảm giác và hạ
đẳng chúng tôi đã bàn tới), mà hơn nữa còn phải làm cho
mình thành mù lòa, tăm tối cả về phía những gì liên quan tới
Thiên Chúa và tâm linh (tức là phần lý trí và thƣợng đẳng
chúng tôi sắp bàn đến). Hiển nhiên, muốn đạt tới sự biến đổi
siêu nhiên ấy, linh hồn cần phải trở thành mù lòa và thoát ly
khỏi tất cả những gì thuộc tính tự nhiên, tức là thuộc cảm
giác và lý trí. Bởi lẽ, siêu nhiên có nghĩa là ở trên tự nhiên;
và tự nhiên thì phải ở dƣới.
QUYỂN 2 149

Muốn cho sự biến đổi và nên một ấy khỏi thành chuyện


của giác quan và tài khéo nhân loại, linh hồn cần phải tự
nguyện trở nên trống rỗng hoàn toàn về tất cả những gì có
thể xâm nhập vào nó, hoặc từ bên trên hoặc từ bên dƣới, tức
là cả về tình cảm và lòng muốn, và phải cố gắng hết sức nó.
Lúc đó, nào ai có thể ngăn cản Thiên Chúa thực hiện điều
đẹp lòng Ngài trong một linh hồn nhẫn nại, đã tự hủy và hóa
nên trần trụi?
Linh hồn phải trở nên trống rỗng toàn triệt, trút hẳn tất
cả những gì đã chất chứa. Dù đạt tới chỗ có đƣợc nhiều điều
siêu nhiên đi nữa, nó vẫn phải luôn coi mình nhƣ tay trắng và
đang đi trong tăm tối, lấy đức tin làm ngƣời dẫn đƣờng và
ánh sáng, chứ không dựa vào những điều mình đã nghe, đã
nếm, đã cảm hay đã tƣởng tƣợng đƣợc. Tất cả những thứ ấy
đều là bóng tối dễ khiến linh hồn lạc đƣờng; còn đức tin thì
vƣợt hẳn trên tất cả những gì ngƣời ta đã nghe, đã nếm, đã
cảm hay đã tƣởng tƣợng đƣợc. Nếu linh hồn không nhắm
mắt lại với những chuyện ấy và chìm hẳn trong tăm tối, nó sẽ
không đến đƣợc tới chỗ mà đức tin dạy bảo cho.
3 – Ngƣời mù, nếu không hoàn toàn mù thì không dễ gì
để cho ngƣời dẫn đƣờng dắt đi. Hễ thấy đƣợc chút ít, dù chỉ
rất ít ở một phía nào đó, anh ta liền nghĩ rằng đó là con
đƣờng tốt nhất, vì anh ta đâu có thấy đƣợc những con đƣờng
khác tốt hơn. Do đó anh ta có thể khiến ngƣời đang dắt anh
và thấy nhiều hơn anh bị lạc đƣờng. Về linh hồn cũng vậy.
Nếu nó dựa trên một chút gì đó đã biết đƣợc, nếm đƣợc hay
cảm đƣợc về Thiên Chúa (dù những điều ấy có lớn lao đến
đâu, so với Thiên Chúa cũng thật ít ỏi và hết sức chênh lệch)
150 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

để làm đƣờng đi thì sẽ rất dễ lạc lối và bị dừng lại, bởi vì


không chịu hoàn toàn trở nên mù tối để đức tin có thể đƣa đi
cách hữu hiệu.
4 – Đó cũng là điều thánh Phaolô muốn nói trong câu:
Ai lại gần Thiên Chúa thì phải tin là Ngài có (Hr 11,6). Tức
là ai ƣớc ao đƣợc nên một với Thiên Chúa thì đừng đi bằng
con đƣờng trí hiểu, đừng dựa vào sở thích, cảm giác hoặc
tƣởng tƣợng hay bất cứ một giác quan nào nhƣng chỉ tin vào
hữu thể Ngài (hữu thể này vuột khỏi sở thích, cảm giác hoặc
tƣởng tƣợng hay bất cứ giác quan nào khác và cũng không để
cho ai ở đời này có thể hiểu thấu). Thật vậy, tất cả những gì
cao siêu nhất ngƣời ta có thể cảm đƣợc hay nếm đƣợc ở đời
này về Thiên Chúa đều cách biệt nghìn trùng so với bản tính
Ngài và so với điều chúng ta sẽ biết khi đƣợc chiếm hữu
Ngài trọn vẹn. Cho nên ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô mới
nói: Những điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe và đã
không hề nảy lên nơi lòng một người phàm nào, tức là hết
thảy những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu
mến Ngài (1Cr 2,9)25. Thật tốt đẹp khi linh hồn có ý đƣợc
nên một ngay ở đời này cách hoàn hảo bằng ơn thánh với
Đấng mà đời sau nó phải đƣợc nên một bằng vinh quang. Đó
là điều thánh Phaolô bảo là mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề
nghe và lòng ngƣời không bao giờ nghĩ tới, cho nên rõ ràng
muốn đạt đến chỗ nên một với Chúa ngay ở đời này cách

25
Tác giả nêu cả ngôn sứ Isaia nhƣng chỉ trích lời thánh Phaolô. Ngôn sứ Isaia
thì nói: “Tự cố chí kim thiên hạ không nghe, không lọt qua tai. . . và mắt
không thấy Thiên Chúa nào trừ phi là Ngài, Đấng đã đáp cứu kẻ có lòng cậy
trông.” (Is 64,3).
QUYỂN 2 151

hoàn hảo bằng ơn thánh và tình yêu, thì nhất thiết phải ở
trong tăm tối đối với (tức là gạt bỏ hết) tất cả những gì có thể
lọt vào qua mắt thấy, có thể tiếp nhận bằng tai nghe, có thể
tƣởng tƣợng ra tùy hứng, hoặc có thể hiểu đƣợc bằng tấm
lòng (ở đây có nghĩa là linh hồn). Nhƣ thế, một linh hồn
muốn đạt đến tình trạng nên một cao độ ấy với Thiên Chúa,
sẽ gặp trở ngại rất lớn khi nó gắn bó với một điều gì đó của
trí hiểu, của tình cảm, của tƣởng tƣợng, của phán đoán, của
lòng muốn, của một cách hành động, một công việc hay một
sự vật đặc biệt nào đó, mà không biết tự dứt bỏ và lột cởi hết
những chuyện đó. Bởi lẽ, nhƣ đã nói, điểm linh hồn vƣơn
đến vƣợt trên tất cả những chuyện đó, cho dù chúng có thể
làm thỏa mãn trí hiểu và sở thích đến đâu cũng vậy; và nhƣ
thế, linh hồn cần vƣợt lên trên tất cả để đạt tới tình trạng
không biết gì.
5 – Do đó, muốn lên đƣờng cần phải bỏ lối mình đang
đi, hay nói đúng hơn, phải vƣơn tới mục đích và bỏ qua
phƣơng tiện, bỏ qua cách thế, để đạt đến cùng đích vƣợt mọi
cách thế, tức là đạt đến Thiên Chúa. Linh hồn nào đạt tới tình
trạng ấy thì chẳng còn cần gì phƣơng tiện hay cách thế, nó
không gắn bó và thậm chí không thể gắn bó với chúng nữa.
Nó không còn gắn bó gì với những cách nghe, nếm hoặc
cảm, mặc dù nó có đủ các cách thế ấy; nó chẳng khác nào
một ngƣời không có gì mà lại sở hữu tất cả. Một khi đã can
đảm vƣợt khỏi giới hạn tự nhiên của những khả năng bên
trong và bên ngoài của mình, linh hồn tiến lên bình diện siêu
nhiên thật trọn vẹn, không còn cần gì đến các cách thế, vì đã
có đủ mọi cách thế ở dạng thực chất. Muốn đạt tới đó, cần rời
152 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khỏi tình trạng tự nhiên, cần ra khỏi mình, lìa bỏ những gì ở


dƣới thấp này để vƣơn tới điều cao vƣợt hơn mọi chiều cao.
6 – Vì thế một khi vƣợt khỏi tất cả những gì có thể biết
đƣợc và hiểu đƣợc về mặt tâm linh cũng nhƣ về mặt tự
nhiên, linh hồn phải hết sức khao khát đạt tới điều mà ở đời
này nó không thể biết đƣợc và lòng nó không thể nghĩ ra
đƣợc. Vất lại đàng sau tất cả những gì nó đã nếm, đã cảm
hoặc có thể nếm, cảm đƣợc ở đời này, cả về mặt thế tục và
tâm linh, nó phải hết sức khao khát đạt tới điều vƣợt hẳn mọi
khả năng nếm, cảm... Muốn đƣợc tự do và rỗng đi để đón
nhận một ơn lành nhƣ thế, nó phải đánh giá mọi thứ khác là
hết sức kém giá trị và không đƣợc bám víu chút nào vào
những gì nó sẽ đón nhận, cả về mặt tâm linh và cảm giác
(nhƣ chúng tôi sẽ nói sau, khi bàn đặc biệt về điểm này). Bởi
vì càng tƣởng nghĩ đến những gì đã nghe, đã nếm, đã tƣởng
tƣợng, và càng quý chuộng những điều ấy, hoặc thuộc bình
diện tâm linh hoặc không, linh hồn càng lìa bỏ sự thiện tối
thƣợng và càng không chịu vƣơn tới đó. Ngƣợc lại càng ít
tƣởng nghĩ tới những gì nó có thể có đƣợc, dù cao quý đến
đâu, thì đối với sự thiện tối thƣợng, linh hồn càng tán dƣơng
và quý chuộng và do đó càng tiến gần tới sự thiện ấy hơn.
Bằng cách đi trong đêm tối nhƣ thế, linh hồn sẽ tiến những
bƣớc thật xa hƣớng đến sự nên một với Thiên Chúa nhờ đức
tin. Chính đức tin cũng tăm tối và nhờ đó mà sẽ ban đƣợc
cho linh hồn một ánh sáng kỳ diệu. Còn nếu linh hồn cứ đòi
thấy, chắc chắn khi nhìn vào Thiên Chúa nó sẽ bị tối tăm mặt
mày còn hơn cả kẻ mở mắt nhìn chòng chọc vào ánh sáng
mặt trời chói chang.
QUYỂN 2 153

7 – Trên con đƣờng này, có khiến các quan năng mình


mù tối đi, ta mới thấy đƣợc ánh sáng, nhƣ lời Đấng Cứu Thế
phán trong Tin Mừng: Ta đến trong thế gian này chính là để
phán xét, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy
được lại hóa đui mù (Ga 9,39). Trên con đƣờng tâm linh
đang nói đây, những lời ấy phải đƣợc hiểu sát theo mặt chữ,
tức là linh hồn nào chịu ở trong tăm tối và chịu hóa mù về
hết mọi ánh sáng riêng và tự nhiên của mình, thì sẽ xem thấy
đƣợc về phƣơng diện siêu nhiên; còn linh hồn nào muốn dựa
vào một ánh sáng cá nhân nào đó thì sẽ bị mù tối hơn và sẽ
phải khựng lại trên nẻo đƣờng nên một.
8 – Để tiếp tục cách sáng sủa hơn, trong chƣơng kế tiếp
đây tôi sẽ giải thích về bản chất của điều vẫn gọi là sự nên
một với Thiên Chúa. Hiểu đƣợc điều đó, ta sẽ có thêm đƣợc
nhiều ánh sáng cho những gì sẽ nói sau này. Thiết tƣởng đây
chính là chỗ thích hợp để nói về điểm ấy. Mặc dù phải gián
đoạn luồng tƣ tƣởng, nhƣng sẽ soi sáng nhiều cho vấn đề
đang bàn luận. Do đó, chƣơng này có thể coi nhƣ một dấu
ngoặc. Liền sau đó chúng ta sẽ trở lại bàn tiếp ba quan năng
của linh hồn trong liên hệ với ba nhân đức hƣớng thần, trong
đêm tâm linh thứ hai này.
154 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 5
Bản chất sự nên một *
Chương này dùng lối so sánh để giải thích rõ về bản
chất sự nên một giữa linh hồn và Thiên Chúa.
1 – Qua những gì đã trình bày trƣớc đây, hẳn bạn đọc
đã hiểu đƣợc đôi phần điều chúng tôi muốn hiểu qua cách
nói “sự nên một giữa linh hồn với Thiên Chúa”, và nhờ đó
bạn sẽ hiểu dễ hơn về những gì chúng tôi sắp nói về việc ấy.
Lúc này chúng tôi không có ý bàn về những cách phân chia
cũng nhƣ từng phần của vấn đề, bởi vì nếu không thì sẽ
chẳng bao giờ kết thúc đƣợc với những chuyện thế nào là sự
nên một theo trí hiểu, theo lòng muốn cũng nhƣ theo dạ nhớ,
thế nào là sự nên một mau qua và sự nên một bền bỉ theo mỗi
quan năng vừa nói, và sau cùng, thế nào là sự nên một mau
qua và sự nên một bền bỉ theo cả ba quan năng ấy cùng một
lúc. Những chuyện ấy chúng tôi sẽ bàn rải rác trong tập này,
khi thì vấn đề nọ, khi thì vấn đề kia. Vả lại đó không phải là
những chuyện cần nói ngay mới hiểu đƣợc những gì chúng
tôisắp trình bày ở đây. Tốt hơn, sẽ giải thích mỗi vấn đề khi
đến lúc của nó, khi đang bàn đến chính những nội dung của
từng vấn đề, ta sẽ có ngay trƣớc mắt những ví dụ sống động
gắn liền với nó. Lúc ấy ngƣời ta sẽ dễ chú ý, dễ hiểu rõ từng
vấn đề hơn và sẽ phê phán đúng hơn.
2 – Ở đây tôi chỉ xin bàn về sự nên một toàn diện và
bền bỉ mà theo bản thể của linh hồn và theo các quan năng
của nó ở tình trạng những thói quen thƣờng xuyên bám lấy
QUYỂN 2 155

sự nên một trong tăm tối; còn ở tình trạng đã lộ hiện, thì với
ơn Chúa giúp chúng tôi sẽ nói sau và sẽ cho thấy làm sao ở
đời này chúng ta không thể có đƣợc sự nên một bền bỉ theo
các quan năng màchỉ có đƣợc sự nên một mau qua.
3 – Vậy, để hiểu đƣợc bản chất sự nên một đang bàn
đây, cần biết rằng nơi hết mọi linh hồn, kể cả linh hồn của
ngƣời tội lỗi nhất trên thế giới, Thiên Chúa vẫn cƣ ngụ trong
đó và nâng đỡ nó theo bản thể. Đó là cách nên một luôn có
giữa Thiên Chúa và thụ tạo, nhờ đó Ngài gìn giữ cho chúng
đƣợc tồn tại; đến nỗi, nếu thiếu sự nên một ấy của Ngài,
chúng sẽ lập tức bị hủy diệt và không tồn tại nữa. Nhƣ thế,
khi nói đến sự nên một giữa linh hồn với Thiên Chúa, chúng
ta không có ý nói về sự nên một theo bản thể kiểu đó, là
chuyện lúc nào cũng có, nhƣng là nói đến sự nên một tạo
biến đổi, biến linh hồn nên Thiên Chúa, là điều không phải
lúc nào cũng có nhƣng chỉ xảy ra khi linh hồn đƣợc nên
giống Thiên Chúa nhờ tình yêu. Chính vì thế ta gọi đây là sự
nên một do giống nhau, trong khi sự nên một kia là do yếu
tính hoặc do bản thể. Sự nên một kia là theo tự nhiên, còn
đây là sự nên một siêu nhiên, một điều chỉ có đƣợc khi nào ý
muốn của linh hồn và ý muốn của Thiên Chúa, hòa hợp nên
một với nhau. Không còn một điều gì trái ngƣợc, không hòa
hợp với ý Thiên Chúa, linh hồn sẽ đƣợc biến đổi biến nên
Thiên Chúa nhờ tình yêu.
4 – Không những dứt bỏ những điều trái ngƣợc đã lộ
hiện, linh hồn còn dứt bỏ cả những điều còn ở trong tình
trạng một xu hƣớng hay thói quen; không những phải tẩy trừ
những hành vi bất toàn hữu ý mà cả những thói quen về bất
156 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cứ một điều bất toàn nào cũng phải diệt trừ. Bởi lẽ mọi thụ
tạo cũng nhƣ mọi hoạt động và tài khéo của thụ tạo đều
không phù hợp với bản tính Thiên Chúa và không vƣơn đƣợc
tới đó. Vì thế, linh hồn phải tự lột bỏ hết tất cả những gì là
thụ tạo cũng nhƣ các hoạt động và tài khéo của nó, có nghĩa
là từ khả năng hiểu biết đến nếm hay cảm đều phải lột bỏ hết
để loại trừ hết tất cả những gì khác biệt và không hòa hợp với
Thiên Chúa, và nhờ đó, có thể mặc lấy sự tƣơng đồng với
Thiên Chúa. Cần phải lột bỏ hết, để chẳngcòn chút gì nơi
linh hồn không phải là ý Thiên Chúa và nhờ đó nó đƣợc biến
đổi nên Thiên Chúa. Nhƣ thế, mặc dầu Thiên Chúa luôn hiện
diện trong linh hồn để ban phát và bảo tồn sự hiện hữu tự
nhiên cho nó, không phải lúc nào Ngài cũng thông ban cho
nó sự hiện hữu siêu nhiên. Điều này vốn chỉ đƣợc thông ban
nhờ tình yêu và ơn thánh, tuy nhiên không phải mọi linh hồn
đều ở trong tình yêu và ơn thánh. Còn những linh hồn có tình
yêu và ơn thánh thì đâu phải ở cùng mức độ nhƣ nhau. Mỗi
linh hồn ở một mức độ tình yêu hơn kém khác nhau. Do đó,
linh hồn nào càng tiến xa trong tình yêu, cũng nhƣ linh hồn
nào càng hòa hợp ý mình với ý Thiên Chúa, Thiên Chúa
càng tự ban mình cho nó nhiều hơn. Linh hồn nào có đƣợc ý
muốn hòa hợp và tƣơng đồng toàn diện thì đƣợc nên một
toàn diện và biến đổi nên Thiên Chúa cách siêu nhiên. Vì lẽ
đó, nhƣ đã giải thích, linh hồn nào càng khoác trên mình
nhiều thụ tạo và những tài khéo riêng, hoặc do quyến luyến
hoặc do thói quen, càng ít có điều kiện để đƣợc để đƣợc nên
một nhƣ thế, vì nó không dành chỗ cho Thiên Chúa trọn vẹn
để Ngài biến đổi nó sang siêu nhiên. Cho nên, linh hồn cần
tự cởi bỏ những điều trái ngƣợc và khác biệt tự nhiên ấy đi,
QUYỂN 2 157

để Thiên Chúa, Đấng đang ban mình cho nó cách tự nhiên,


cũng sẽ ban mình cho nó cách siêu nhiên nhờ ơn thánh.
5 – Đó là điều thánh Gioan đã muốn giúp ta hiểu khi
ngài nói: Họ không do máu huyết mà sinh ra, cũng không
phải do ý của xác thịt, cũng không phải do ý của nam nhân,
nhưng chính do bởi Thiên Chúa mà được sinh ra (Ga 1,13).
Hình nhƣ ngài muốn nói: Thiên Chúa ban quyền trở nên con
cái Ngài (tức là quyền biến đổi nên Thiên Chúa) chỉ riêng
cho những ai không sinh bởi máu huyết, tức là bởi sự nên
một thể chất tự nhiên, hoặc bởi ý muốn của xác thịt, tức là
bởi sự tự do tùy hứng theo tài khéo hoặc khả năng tự nhiên,
cũng không phải do ý muốn của nam nhân (điều này bao
gồm mọi dạng, mọi cách xét đoán và suy luận dựa trên trí
hiểu). Ngài không ban cho bất cứ ai trong những ngƣời vừa
nói đƣợc quyền nên con cái Thiên Chúa, nhƣng chỉ ban cho
những ai sinh bởi Thiên Chúa. Tức là Ngài chỉ ban cho
những ai đã chết đi đối với tất cả những gì là con ngƣời cũ
và đã tái sinh nhờ ân sủng để vƣơn mình lên tới siêu nhiên,
và nhận lấy nơi Thiên Chúa ơn tái sinh và ơn làm con, vƣợt
hẳn mọi điều ngƣời ta có thể tƣởng nghĩ. Bởi lẽ nhƣ chính
thánh Gioan cũng có nói: Ai không sinh lại bởi nước và
Thánh Thần thì không thể vào được Nước Thiên Chúa (Ga
3,5). Đƣợc tái sinh nhờ ơn Thánh Thần tức là có một linh
hồn giống với Thiên Chúa trong sự thanh khiết, không pha
trộn một chút bất hảo nào; và nhờ đó mà có thể đƣợc biến
đổi cách tinh ròng, đƣợc nên một với Thiên Chúa mà dự
phần vào bản tính Ngài, mặc dù chƣa phải là một sự nên
một theo yếu tính.
158 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

6 – Để hiểu rõ hơn, bạn hãy hình dung một tia sáng mặt
trời đang đập vào cửa kính. Nếu cửa kính bị phủ đầy một lớp
tì vết hoặc hơi nƣớc dày đặc, tia sáng sẽ không thể nào khiến
nó rực sáng và hoàn toàn chuyển hóa thành ánh sáng, nhƣ
trong trƣờng hợp nó tinh tuyền và sạch hẳn các tì vết ấy. Nó
càng lắm sƣơng mù và tì vết, ánh sáng càng ít khiến nó đƣợc
rực rỡ; ngƣợc lại, nó càng tinh sạch, ánh sáng càng làm nó
chói chang. Không phải do tia sáng nhƣng là do tấm kính.
Nếu nó hoàn toàn tinh sạch và trong suốt, tia sáng sẽ giúp nó
trở nên rực rỡ và biến đổi đến độ trông nó có vẻ nhƣ chính
tia sáng và cũng chiếu tỏa cùng một ánh sáng nhƣ chính tia
sáng ấy. Dĩ nhiên, dù giống tia sáng, tấm kính vẫn mang một
bản chất khác với tia sáng, nhƣng có thể nói rằng tấm kính ấy
là tia sáng, hoặc là ánh sáng, vì nó thực sự thông phần với tia
sáng hay ánh sáng ấy. Linh hồn cũng tƣơng tự nhƣ tấm kính,
ánh sáng Thiên Chúa luôn luôn xâm nhập vào đó, hay nhƣ đã
nói trên, ánh sáng ấy vẫn luôn cƣ ngụ trong đó, ánh sáng thần
linh của hữu thể Thiên Chúa.
7 – Yêu Thiên Chúa là vì Thiên Chúa mà hành động để
tự lột trần và tƣớc bỏ hết những gì không phải là Thiên Chúa,
tự tẩy trừ hết mọi lớp màn che và mọi tì vết của thụ tạo, tức
là biết giữ cho ý muốn mình đƣợc hoàn toàn nên một với ý
muốn Thiên Chúa. Khi linh hồn biết nhƣờng cho Thiên Chúa
nhƣ thế, nó liền đƣợc chói sáng và biến đổi nên giống Thiên
Chúa, và Thiên Chúa thông ban cho nó hữu thể siêu nhiên
của Ngài, đến nỗi nó có vẻ nhƣ là chính Thiên Chúa và có
đƣợc điều mà chính Thiên Chúa có. Khi Thiên Chúa ban cho
linh hồn hồng ân siêu nhiên ấy, linh hồn đƣợc nên một với
QUYỂN 2 159

Thiên Chúa mật thiết đến nỗi tất cả mọi sự của Thiên Chúa
và của linh hồn đều nên một trong một cuộc biến đổi nhờ dự
phần. Dĩ nhiên, mặc dù đã đƣợc biến đổi, hữu thể tự nhiên
của nó vẫn phân biệt với hữu thể của Thiên Chúa nhƣ trên,
cũng y nhƣ tấm kính khi đƣợc tia sáng chiếu soi, vẫn phân
biệt hẳn với tia sáng.
8 – Bởi đó ta thấy rõ rằng phƣơng thế dẫn đến sự nên
một với Thiên Chúa, nhƣ đã nói ở trên, không phải là việc
linh hồn hiểu biết, nếm, cảm hoặc tƣởng tƣợng về Thiên
Chúa, hoặc là một điều gì khác tƣơng tự, nhƣng là sự tinh
tuyền và tình yêu, tức là sự trần trụi và nhẫn nại hoàn toàn
đối với mọi sự vật chỉ vì Thiên Chúa mà thôi. Không thể có
sự biến đổi hoàn toàn nếu không có sự tinh tuyền hoàn toàn,
cho nên tùy theo mức độ tinh tuyền mà sẽ có đƣợc sự nổi bật,
sự tỏa sáng và sự nên một giữa linh hồn với Thiên Chúa
nhiều hay ít, và nhƣ tôi đã nói, sẽ không có đƣợc sự nên một
hoàn toàn nếu linh hồn không hoàn toàn rực sáng và trong suốt.
9 – Để hiểu thêm, bạn có thể hình dung một tấm hình
nổi rất hoàn chỉnh, với nhiều nét đặc sắc phi thƣờng và
những lớp men rất tế nhị tinh vi, mà một số nét tinh xảo đến
độ khó phân biệt hết những vẻ tế nhị và tuyệt hảo của nó.
Trƣớc tấm hình ấy, một ngƣời có cặp mắt ít sáng sủa tinh
anh, sẽ thấy đƣợc ít điểm đặc sắc tế nhị, còn ngƣời có cặp
mắt tinh anh hơn sẽ thấy đƣợc ở đó nhiều nét đặc sắc và hoàn
hảo. Nếu ai khác còn có cặp mắt sắc sảo hơn nữa sẽ thấy
nhiều điều hoàn hảo hơn nữa; và sau cùng, một ngƣời có khả
năng thị giác sáng chói và trong suốt nhất sẽ còn thấy đƣợc
những điểm đặc sắc và hoàn thiện gấp bội. Đó làmột bức
160 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hình có biết bao điều kỳ thú để xem, dù đã khám phá đƣợc


nhiều điều rồi, vẫn còn nhiều điều khác để khám phá nữa.
10 – Chúng ta cũng có thể nói tƣơng tự nhƣ thế về cách
các linh hồn cảm nhận Thiên Chúa khi họ đƣợc chiếu sáng
và biến đổi. Tùy theo khả năng, mặc dù có thể đã đạt tới sự
nên một với Thiên Chúa, không phải mọi linh hồn đều ở một
mức độ bằng nhau, nhƣng sẽ theo mức độ Thiên Chúa muốn
ban cho mỗi ngƣời. Đó cũng là cách ngƣời ta đƣợc nhìn thấy
Thiên Chúa ở trên trời, kẻ nhiều ngƣời ít, tuy nhiên tất cả đều
thấy Thiên Chúa và đều toại nguyện, vì ai nấy đều đƣợc đầy
ắp khả năng tiếp nhận của mình.
11 – Vì thế, ta có thể gặp thấy ở đời này có những linh
hồn ở bậc hoàn thiện với sự bình an và yên nghỉ ngang nhau,
và mỗi linh hồn đều mãn nguyện. Dù rằng thể linh hồn này
có thể đƣợc nâng cao hơn linh hồn khác, nhƣng tất cả đều
mãn nguyện nhƣ nhau bởi vì khả năng tiếp nhận của họ đều
đƣợc no phỉ. Còn linh hồn nào không đạt tới sự tinh tuyền
mà khả năng nó đòi hỏi, sẽ chẳng bao giờ đạt đƣợc bình an
và thỏa mãn đích thực; bởi lẽ nó đã không đạt đƣợc đến chỗ
biết lột bỏ và làm trong sạch các quan năng của mình, là điều
cần thiết để đạt đƣợc sự nên một đơn giản.
QUYỂN 2 161

Chương 6
Ba nhân đức hướng thần và ba quan năng *

Chương này bàn về cách ba nhân đức hướng thần phải


làm cho ba quan năng của linh hồn nên hoàn thiện và về cách
các nhân đức ấy khiến chúng thành trống rỗng và tăm tối.
1 – Ở đây, chúng ta sẽ bàn về cách đƣa dẫn ba quan
năng của linh hồn là trí hiểu, dạ nhớ và lòng muốn, vào đêm
tối tâm linh, là phƣơng thế giúp đạt đến sự nên một với Thiên
Chúa. Chúng ta đã biết ba nhân đức hƣớng thần tin, cậy, mến
đƣợc quy về ba quan năng ấy, đƣợc coi là đối tƣợng siêu
nhiên riêng của chúng và là phƣơng thế để linh hồn có thể
nên một với Thiên Chúa theo các quan năng mình. Trƣớc hết
cần nêu rõ làm sao ba nhân đức hƣớng thần tin, cậy và mến,
mỗi nhân đức đều tạo nên cùng một sự tăm tối và trống rỗng
nhƣ nhau trong quan năng tƣơng ứng: đức tin trong trí hiểu,
đức cậy trong dạ nhớ và đức mến trong lòng muốn. Tiếp theo
chúng ta sẽ bàn xem phải làm thế nào để trí hiểu đƣợc hoàn
thiện nơi sự tăm tối do đức tin; để dạ nhớ đƣợc hoàn thiện
nhờ sự trống rỗng do đức cậy; và để lòng muốn đƣợc hoàn
thiện nhờ sự tƣớc đoạt và lột bỏ mọi tình cảm mà đến cùng
Thiên Chúa. Nắm đƣợc điều đó rồi, ta sẽ thấy rõ rằng nếu
linh hồn muốn bƣớc đi vững chắc trên con đƣờng tâm linh,
thì cần kíp phải đi qua đêm dày, nƣơng theo ba nhân đức ấy,
là những nhân đức khiến linh hồn trống rỗng về hết mọi sự
và khiến linh hồn thành tăm tối, nhƣ thể không còn nhìn thấy
mọi sự ấy nữa. Nhƣ đã nói, ở đời này, linh hồn không thể
nên một với Thiên Chúa qua trí hiểu, qua sự vui thỏa, sự
162 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tƣởng tƣợng hay một giác quan nào khác, nhƣng phải bằng
đức tin nếu xét theo trí hiểu, bằng đức cậy nếu xét theo dạ
nhớ và bằng tình yêu mến nếu xét theo lòng muốn.
2 – Nhƣ đã nói, tất cả ba nhân đức ấy đều gây nên một
sự trống rỗng trong các quan năng: đức tin gây nên sự trống
rỗng trong trí hiểu, khiến nó bị tăm tối về mặt hiểu biết: đức
cậy gây nên trong dạ nhớ một sự trống rỗng, loại trừ hết mọi
chiếm hữu: và đức mến gây nên sự trống rỗng trong lòng
muốn, lột bỏ hết mọi sự trìu mến và mọi sự vui hƣởng những
gì không phải là Thiên Chúa.
Thật vậy, chúng ta biết rằng đức tin dạy chúng ta điều
mà trí hiểu không sao tiếp thu nổi. Trong thƣ gửi tín hữu
Hipri, thánh Phaolô có nói: Đức tin là một cách thế cho ta
nắm được những điều ta hy vọng, là một phươngthức cho ta
biết những điều ta không xem thấy (Hr 11,1). Mặc dù trí hiểu
tán đồng những điều ấy cách mạnh mẽ và chắc chắn, nhƣng
đó không phải là những điều trí hiểu có thể tự khám phá
đƣợc; vì nếu trí hiểu có thể tự khám phá ra thì không còn là
đức tin nữa. Thật vậy, đức tin có làm cho trí hiểu đƣợc chắc
chắn, nhƣng không làm cho nó đƣợc sáng rõ mà ngƣợc lại,
còn khiến nó thêm tăm tối.
3 – Đức cậy cũng đặt dạ nhớ vào trong một sự trống
rỗng và tăm tối về mọi việc đời này cũng nhƣ đời sau. Bởi lẽ,
hy vọng bao giờ cũng là hy vọng điều chƣa chiếm hữu đƣợc;
vì nếu đã chiếm hữu đƣợc rồi thì đâu còn hy vọng nữa. Bởi
đó mà trong thƣ gửi giáo đoàn Rôma thánh Phaolô có nói:
Thấy được điều mình trông mong thì không còn là trông
QUYỂN 2 163

mong nữa; vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi (Rm
8,24). Nhƣ thế, nhân đức này cũng tạo nên sự trống rỗng, vì
nó liên quan đến những điều ngƣời ta chƣa có chứ không
phải những điều đã có rồi.
4 – Cũng thế, đức ái gây nên nơi lòng muốn một sự
trống rỗng về mọi thứ, bởi lẽ nó buộc ta phải yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự. Điều này chỉ có thể xảy ra khi nào gạt
bỏ đƣợc hết lòng trìu mến đối với mọi sự để chỉ hoàn toàn
trìu mến Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thế, trong Tin Mừng,
Chúa Kitô nói: Ai không từ bỏ hết những gì mình có thì
không thể làm môn đệ Ta được (Lc 14,33). Tức là phải từ bỏ
những gì mình muốn có. Nhƣ thế, cả ba nhân đức ấy đều đặt
linh hồn vào trong sự trống rỗng và tăm tối đối với hết mọi sự.
5 – Cũng nên nhắc lại đây dụ ngôn Đấng Cứu Thế đã
dạy trong Tin Mừng Luca (Lc 11,5) về ngƣời bạn giữa lúc
nửa đêm phải đi xin bạn mình ba chiếc bánh; ngụ ý nói về ba
nhân đức trên đây. Ngài nói ngƣời ấy xin bánh vào lúc nửa
đêm, là để ta hiểu rằng linh hồn phải để cho các quan năng
của mình bị chìm trong tăm tối đối với hết mọi sự, mới
chiếm đƣợc ba nhân đức ấy, và phải tận dụng đêm tối đó để
nên hoàn thiện trong ba nhân đức ấy.
Trong sách Isaia (Is 6,2) ta cũng đọc thấy ngôn sứ nhìn
thấy bên cạnh ngai Thiên Chúa có hai vị thiên thần sốt mến
mà mỗi vị đều có sáu cánh: Hai cánh phủ chân là có ý nói
phải làm cho mù tối và loại trừ hết những trìu mến mà lòng
muốn có đối với mọi sự, để quy hƣớng về Thiên Chúa; hai
cánh che mặt, ngụ ý nói đến sự tăm tối của trí hiểu trƣớc mặt
164 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Thiên Chúa; hai cánh còn lại để bay, ngụ ý nói về đà bay của
đức cậy, hƣớng đến những điều tốt không chiếm hữu đƣợc,
vì đức cậy vƣợt lên trên tất cả những gì có thể chiếm hữu
đƣợc ngoài Thiên Chúa, hoặc ở đời này hoặc ở đời sau.
6 – Vậy phải quy ba quan năng của linh hồn vào ba
nhân đức ấy, định hƣớng cho mỗi quan năng bằng một nhân
đức tƣơng ứng; phải lột trần mỗi quan năng, buộc nó phải ở
trong tăm tối về tất cả những gì sẽ không phải là ba nhân đức
ấy. Đó là đêm tâm linh mà chúng tôi gọi là đêm chủ ý, theo
nghĩa là linh hồn làm tất cả những gì có thể làm đƣợc về phía
nó để tiến vào đêm ấy. Trƣớc đây, khi bàn về đêm giác quan,
chúng tôi đã chỉ dẫn phƣơng cách để giải tỏa (làm trống
rỗng) các quan năng giác quan khỏi những đối tƣợng khả
giác gây mê thích, để linh hồn ra khỏi những giới hạn tự
nhiên của nó và đi vào con đƣờng đức tin. Cũng vậy, trong
đêm tối tâm linh này, với ơn Chúa giúp, chúng tôi sẽ chỉ
phƣơng cách để giải tỏa và thanh tẩy các quan năng tâm linh
khỏi tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, ngõ hầu
chúng đƣợc chìm trong sự tăm tối của ba nhân đức ấy là
phƣơng thế và điều kiện thuận lợi giúp linh hồn đƣợc nên
một cùng Thiên Chúa.
7 – Bằng cách ấy linh hồn sẽ đƣợc hoàn toàn vững chắc
trƣớc các mƣu chƣớc lừa gạt của ma quỷ, cũng nhƣ trƣớc
mãnh lực của tính tự ái và các con đẻ của nó. Các mƣu chƣớc
ấy vẫn thƣờng lừa gạt cách tinh tế và ngăn cản bƣớc tiến của
những ngƣời theo đƣờng tâm linh, chỉ vì họ không biết tự
trút bỏ để làm chủ lấy mình dựa theo ba nhân đức ấy. Do đó,
họ chẳng bao giờ đạt đƣợc thực chất và cốt tủy của ơn lành
QUYỂN 2 165

tâm linh, và không tiến bƣớc đƣợc trên con đƣờng thẳng và
ngắn mà lẽ ra họ đã có thể làm đƣợc.
8 – Xin các bạn độc giả chú ý, bây giờ tôi sẽ đặc biệt
nói với những ngƣời đã bắt đầu tiến vào bậc chiêm niệm.
Còn đối với những ngƣời khởi sự bƣớc vào đƣờng tâm linh,
sẽ phải đƣợc mổ xẻ vấn đề này rộng rãi hơn, nhƣ chúng tôi
sẽ thực hiện trong cuốn thứ hai (tức là cuốn Đêm Dày) khi
chúng tôi bàn về những điều kiện thuận lợi cho những ngƣời
mới khởi sự...
166 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 7
Đường hẹp của trí hiểu *

Chương này cho thấy nẻo đường dẫn đến sự sống đời
đời hẹp như thế nào, và những ai muốn đi qua đó phải trở
nên trần trụi và tự lột bỏ các chướng ngại ra sao.
Bắt đầu nói về sự trần trụi của trí hiểu
1 – Để bàn về sự trần trụi và tinh ròng của ba quan
năng linh hồn, lẽ ra cần phải có một ai khác giàu kiến thức
và đời sống tâm linh hơn tôi mới có thể giúp những ngƣời
theo đƣờng tâm linh hiểu đƣợc con đƣờng Đấng Cứu Thế
đã nói, tức là con đường dẫn đến sự sống, hẹp đến mức nào;
để rồi nhờ xác tín ấy, họ không còn bỡ ngỡ về sự trống rỗng
và trần trụi mà trong đêm tối ấy, các quan năng linh hồn sẽ
phải rơi vào.
2 – Vì thế cần chú ý ghi nhận những lời Đấng Cứu
Chuộc chúng ta đã nói trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 7,14):
Chật biết mấy khung cửa và hẹp biết mấy con đường dẫn đến
sự sống, và ít biết mấy những kẻ tìm thấy nó. Trong câu này,
ta cần ghi nhận giọng tán thán và nhấn mạnh trong kiểu nói
“biết mấy”. Phải hiểu là Ngài muốn nói rằng: Quả thật nó rất
hẹp, hẹp hơn các con tƣởng nhiều.
Cũng cần phải lƣu ý rằng Chúa đã nói đến cửa hẹp
trƣớc tiên là để giúp ta hiểu rằng nếu linh hồn muốn vào qua
cửa ấy là Đức Kitô, ở ngay khởi điểm của con đƣờng, trƣớc
hết nó phải tự co rút lại và lột bỏ khỏi lòng muốn mọi điều
QUYỂN 2 167

khả giác mau qua mà yêu mến Thiên Chúa trên hết tất cả mọi
sự ấy, đó là chuyện của đêm giác quan mà chúng ta đã nói rồi.
3 – Tiếp đến, khi nói con đường hẹp - tức đƣờng hoàn
thiện - Chúa muốn ta hiểu rằng ai muốn theo con đƣờng này
thì không những phải vào bằng cửa hẹp bằng cách lột bỏ
những gì là khả giác mà còn phải giũ bỏ cả những thứ thuộc
tâm linh.
Nhƣ thế, ở đây chúng ta có thể nối kết cửa hẹp với
những gì nơi chúng ta thuộc khả giác và đƣờng chật với
những gì nơi chúng ta thuộc tâm linh và lý trí. Chúa Kitô còn
nói rằng có ít ngƣời tìm đƣợc cửa hẹp này. Chúng ta hãy ghi
nhận lý do tại sao. Chính là vì có ít người biết và muốn đi
vào sự trần trụi triệt để và sự trống rỗng tâm linh. Và quả
thật, con đƣờng dẫn tới đỉnh cao hoàn thiện cheo leo và chật
hẹp đòi hỏi khách bộ hành không đƣợc mang vác bất cứ thứ
gì gây nặng nề cho phần hạ đẳng và bất cứ thứ gì gây rắc rối
cho phần thƣợng đẳng. Để tìm kiếm và đạt tới chính Thiên
Chúa ta chỉ đƣợc tìm kiếm và đạt cho tới một mình Thiên
Chúa mà thôi.
4 – Do đó, rõ ràng linh hồn không những phải đƣợc
bƣớc đi tự do, không bị ràng buộc gì với tất cả những điều
thuộc phần các thụ tạo, mà còn phải đƣợc bƣớc đi tự do, bị
tƣớc lột và bị hủy ra không cả về phần tâm linh. Vì thế, trong
khi dạy dỗ và dẫn dắt ta vào con đƣờng này, Chúa chúng ta
có nói trong Tin Mừng Marcô. Đây là một giáo lý rất đáng
ngƣỡng mộ, tuy nhiên dƣờng nhƣ những ngƣời theo đƣờng
tâm linh lại thực hiện ít hơn mức độ họ cần thực hiện. Đây
168 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cũng là một giáo lý rất phù hợp với đề tài của chúng ta, nên
tôi xin nhắc lại đây trọn vẹn và nêu lên cả ý nghĩa thật và ý
nghĩa tâm linh của nó. Đó là điều Chúa phán nhƣ sau: Ai
muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo. Thật vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn
ai liều mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu
mạng sống ấy (Mc 8,34-35).
5 – Ôi, ai sẽ có thể giúp ngƣời ta hiểu, thực hành và
nếm cảm lời khuyên Đấng Cứu Chuộc dạy phải bỏ mình, để
những ngƣời theo đƣờng tâm linh hiểu rằng cách xử sự họ
cần theo trên con đƣờng này khác hẳn cách xử sự nhiều
ngƣời trong họ vẫn tƣởng. Có những ngƣời tƣởng rằng chỉ
cần lắng lòng đôi chút và cải tổ đời sống qua loa là đủ. Có
những ngƣời khác hài lòng với một vài việc tập luyện nhân
đức, kiên trì nguyện ngắm và lo hy sinh hãm mình, nhƣng họ
lại không đạt đƣợc điều Chúa khuyên dạy là sự trần trụi,
nghèo khó, từ bỏ và sự tinh sạch tâm linh, tất cả chỉ là một.
Chỉ vì họ vẫn còn tìm cách lo cho mặt tự nhiên của họ đƣợc
no thỏa và tô điểm bằng những lời an ủi và những tình cảm
tâm linh, thay vì bắt nó phải trần trụi và chối bỏ mọi sự vì
Thiên Chúa. Họ tƣởng chỉ cần bắt nó từ bỏ những chuyện thế
gian là đủ, chứ không cần hủy diệt nó và thanh tẩy nó về
chuyện điều tốt về mặt tâm linh. Do đó mà, hễ thoáng thấy
phải đƣơng đầu với điều gì cứng cáp và hoàn thiện, hoàn
toàn vắng bóng sự dịu ngọt của Thiên Chúa, phải khô khan,
chán ngán và lao nhọc (nói tắt là những gì làm nên thánh giá
tâm linh thuần túy và sự trần trụi của tinh thần nghèo khó
theo Đức Kitô), họ liền tránh xa nhƣ tránh cái chết. Họ chỉ
QUYỂN 2 169

tìm những cái dịu ngọt và những tƣơng giao êm ái nơi Chúa;
và nhƣ thế, thì còn gì là bỏ mình, là trần trụi tâm linh, chỉ
còn là tật tham ăn tâm linh. Nhƣ thế là họ tự biến mình thành
thù địch của thập giá Đức Kitô (Pl 3,18) về mặt tâm linh.
Thật vậy, vì một tâm linh đích thực thì tìm kiếm nơi Thiên
Chúa điều nhạt nhẽo hơn là điều dịu ngọt; nghiêng về chịu
đau khổ hơn là đƣợc an ủi; bị thiếu thốn mọi sự vì Thiên
Chúa hơn là chiếm hữu; và chịu khô khan sầu muộn hơn là
hƣởng những tƣơng giao êm ái, vì biết rằng có thế mới là
theo Chúa Kitô và bỏ mình, còn nếu làm khác đi thì chỉ là
tìm chính mình trong Thiên Chúa, là điều trái ngƣợc hẳn với
tình yêu. Tìm kiếm chính mình trong Thiên Chúa là tìm kiếm
những vui thích và hoan lạc về Thiên Chúa, còn ngƣợc lại,
tìm kiếm Thiên Chúa trong mình, không những là muốn bị
thiếu hụt điều này điều nọ vì Thiên Chúa, nhƣng còn là vì
Đức Kitô mà chọn tất cả những gì là nhạt nhẽo hơn, cả trong
sự hƣởng nếm Thiên Chúa và sự hƣởng nếm thế gian, và nhƣ
thế mới thật là yêu mến Thiên Chúa.
6 – Ôi, ai sẽ có thể làm cho mọi ngƣời hiểu Thiên Chúa
muốn họ từ bỏ đến mức nào. Chắc hẳn phải từ bỏ đến độ nhƣ
thể là chết đi; nhƣ thể là tự hủy mình đi ở đời này, cả về mặt
tự nhiên và về mặt tâm linh, trong hết mọi sự, trong tất cả
những gì mà lòng muốn quý chuộng. Có thể nói là thật sự từ
bỏ tất cả. Đó chính là điều Đấng Cứu Chuộc ta nhắm đến ở
đây khi nói: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Có
nghĩa là, ai muốn sở hữu hoặc săn đuổi cho mình một điều gì
đó, thì sẽ mất nó. Còn câu: Ai đành mất mạng sống mình vì
Ta, sẽ giữ được nó có nghĩa là: Ai vì Đức Kitô mà từ bỏ tất
170 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cả những gì lòng muốn mình có thể ao ƣớc hoặc nếm hƣởng,


và chọn những gì giống với thánh giá hơn, thì lại đạt đƣợc
(Trong Tin Mừng Ga 12,25, chính Chúa gọi sự “nên giống
thánh giá” là “gớm ghét mạng sống mình”).
Đó cũng là điều Chúa uy linh đã dạy cho hai ngƣời môn
đệ đến xin ngồi bên phải và bên trái Ngài (Mt 20,20-23). Ngài
không đả động gì đến ý nguyện muốn đƣợc vinh quang của
họ, nhƣng lại chỉ cho họ chén mà Ngài phải uống, nhƣ là điều ở
trên đời này, còn quý giá và chắc chắn hơn sự hƣởng thụ.
7 – Chén đắng ấy là chết đi cho tính tự nhiên, lột sạch
nó và hủy diệt nó, để nó có thể bƣớc trên con đƣờng hẹp này
trong tất cả những gì có thể thuộc về nó cả về mặt giác quan
(nhƣ chúng tôi đã nói) cả về mặt linh hồn (nhƣ chúng tôi sắp
nói đây) tức là trong cả trí hiểu, trong sự hƣởng nếm và trong
cảm quan của nó. Không những tính tự nhiên ấy bị tƣớc lột
cả hai mặt, mà hơn nữa, xét về mặt thứ hai là mặt tâm linh,
nó không còn bị vƣớng mắc khi tiến bƣớc trên con đƣờng
hẹp này. Bởi lẽ, nhƣ Đấng Cứu Thế muốn nói, trên con
đƣờng này không có gì khác ngoài sự từ bỏ và thập giá là cây
gậy để chống mà đi, và với cây gậy này, sẽ bƣớc đi dễ và nhẹ
hơn nhiều. Do đó, cái ách và cái gánh Chúa nói trong Tin
Mừng Mt 11,30, là nói về thập giá. Thật vậy, nếu ngƣời nào
đã quyết hạ mình vác thập giá ấy, tức là đã thật sự muốn tìm
và chịu lao nhọc trong hết mọi sự vì Chúa, thì sẽ gặp đƣợc ở
đó một sự nhẹ nhàng và êm ái lớn lao để bƣớc đi trên con
đƣờng này, vì đã hết sức trần trụi và không còn ƣớc ao gì.
Còn ngƣời nào đòi phải có đƣợc một chút gì đó, muốn chiếm
giữ một chút gì đó hoặc về Thiên Chúa hoặc về điều gì khác,
QUYỂN 2 171

thì không còn trần trụi và cũng không phải là đã chối bỏ tất
cả, và nhƣ vậy, sẽ không vững bƣớc cũng không thể trèo cao
trên nẻo đƣờng hẹp này.
8 – Vì thế tôi tha thiết nhắc nhủ những ngƣời theo
đƣờng tâm linh rằng con đƣờng của Thiên Chúa không cốt ở
chỗ có nhiều nhận xét, nhiều phƣơng thế, nhiều cách thức,
nhiều thú vị (mặc dù những điều ấy có phần cần thiết cho
những ngƣời mới khởi sự) nhƣng chỉ cốt ở một điểm cần
thiết duy nhất là biết thực sự bỏ mình cả bên ngoài và bên
trong, tập chịu đau khổ vì Đức Kitô và tự hủy mình trong hết
mọi sự. Tập đƣợc điều ấy thì tất cả những gì đã nói và cả
nhiều điều khác nữa sẽ thành tựu vì tất cả đều gói ghém
trong điều ấy. Còn nếu không chịu tập điều ấy, vì nó là tóm
tắt và là cội rễ mọi nhân đức, thì tất cả những cách thức khác
đều chỉ là vá víu, không tiến đƣợc, cho dù có đạt đƣợc những
nhận thức và ơn thông hiệp cao siêu nhƣ các thiên thần đi
nữa cũng không nghĩa lý gì. Bởi lẽ, chỉ có đƣợc sự tiến bộ
nếu bắt chƣớc Đức Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự
Sống (Ga 14,6). Nhƣ Ngài đã nói trong Tin Mừng Gioan,
không ai đến đƣợc với Cha nếu không qua Ngài. Nơi khác
Ngài còn nói: Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu
(Ga 10,9). Do đó, tâm hồn nào chỉ tìm kiếm sự dịu ngọt và dễ
dãi, không chịu bắt chƣớc Đức Kitô thì tôi không cho là tốt.
9 – Tôi đã nói Đức Kitô là đƣờng, và đƣờng này là chết
đi cho bản tính tự nhiên của ta, cả về mặt cảm giác lẫn về
mặt tâm linh. Tôi xin giải thích thêm về điều ấy, dựa vào
gƣơng Đức Kitô, vì Ngài quả là gƣơng mẫu và là ánh sáng
cho ta.
172 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

10 – Về điểm thứ nhất, chắc chắn Ngài đã chết cho giác


quan, suốt đời Ngài đã chết nhƣ thế về mặt tâm linh và vào
lúc chết Ngài đã thực hiện điều ấy theo quy luật tự nhiên. Thật
vậy, theo cách nói của Ngài thì khi sống Ngài đã không có nơi
dựa đầu, và khi chết tình trạng còn bi đát hơn nữa (Mt 8,20).
11 – Về điểm thứ hai, chắc chắn là chính vào lúc Ngài
chết, Ngài đã rơi vào tình trạng bị hủy ra không trong linh
hồn, chẳng một chút an ủi hoặc xoa dịu nào. Chúa Cha bỏ
mặc Ngài trong sự sầu muộn cực độ, đến nỗi không thể cầm
lòng, Ngài đã thốt lên trên thập giá: Lạy Thiên Chúa tôi, lạy
Thiên Chúa tôi! Tại sao Chúa lại bỏ tôi? (Mt 27,46). Đó là
sự bỏ rơi lớn nhất, chấn động nhất Ngài phải chịu trong cuộc
đời. Nhƣng đó cũng chính là lúc Ngài thực hiện công cuộc
lớn nhất đời Ngài, công cuộc vƣợt trên mọi điềm thiêng và
dấu lạ Ngài đã làm trên trời dƣới đất. Công cuộc ấy là giao
hòa nhân loại với Thiên Chúa, làm cho họ đƣợc hiệp nhất với
Thiên Chúa bằng ơn thánh. Công cuộc ấy đƣợc hoàn thành
vào thời, vào lúc mà Ngài hoàn toàn bị hủy ra không về danh
dự trƣớc mặt con ngƣời, vì khi thấy Ngài, họ đã nhạo báng
Ngài, chẳng còn nể trọng chút nào. Ngài đã hủy mình ra
không về bản tính tự nhiên, vì chính khi chết Ngài đã tự hủy
mình trong bản tính ấy. Ngài bị hủy ra không trƣớc mặt Cha
Ngài, là Đấng thay vì bênh vực và an ủi tâm linh, đã để mặc
Ngài bị bỏ rơi, ngõ hầu đang khi bị hủy diệt và dƣờng nhƣ bị
dồn vào chỗ hƣ không nhƣ thế, Ngài trả nợ thay nhân thế và
nối kết con ngƣời lại với Thiên Chúa. Bởi đó, vua Đavít đã
nói về Ngài: Con quả đã ngu si chẳng hiểu, trước mặt Ngài
như thú vật nào hơn (Tv 72/73,22). Chính là để những ngƣời
QUYỂN 2 173

thực sự theo đƣờng tâm linh hiểu rõ mầu nhiệm về cửa hẹp
và đƣờng chật của Đức Kitô, mà nên một cùng Thiên Chúa.
Đồng thời cũng là để họ biết rằng họ càng tự hủy vì yêu mến
Thiên Chúa, trong cả hai phần cảm giác và tâm linh, càng
đƣợc nên một với Thiên Chúa hơn và công trình họ thực hiện
đƣợc càng lớn hơn. Hơn nữa, khi nào họ đạt đến mức ấy, tức
là bị hủy ra không, đƣợc ở trong sự khiêm nhƣợng tột cùng,
linh hồn họ sẽ hoàn thành cuộc nên một tâm linh với Thiên
Chúa. Đó là một tình trạng vinh hiển nhất và cao vời nhất,
ngƣời ta có thể đạt đƣợc ở đời này. Nó không cốt ở những
hoan lạc, những thú vị, những tình cảm tâm linh, nhƣng chỉ
hệ tại ở một cái chết mãnh liệt trên thập giá, cả về mặt cảm
giác và tâm linh, tức là cả bên ngoài và bên trong.
12 – Tôi không muốn nói dài hơn nữa về đề tài này,
mặc dù trong thâm tâm vẫn ao ƣớc đƣợc tiếp tục, vì thấy cả
những ngƣời tự cho là bạn của Đức Kitô cũng biết về Ngài
quá ít. Thật vậy, dƣờng nhƣ họ đến với Chúa là để tìm nơi
Ngài những dịu ngọt và ủi an cho chính họ, nghĩa là họ quá
yêu mình. Họ không tìm kiếm những cay đắng và những sự
tự hủy của Ngài, là sự tìm kiếm đánh dấu tình yêu của họ đối
với Ngài. Tôi nói những điều này với những ngƣời tự cho
mình là bạn hữu Chúa. Còn những kẻ sống xa Chúa, tách lìa
khỏi Ngài, tức là những ngƣời làm lớn, những nhà thông
thái, những kẻ quyền thế và những ngƣời khác đang sống ở
thế gian, đang lo tìm kiếm thỏa mãn những tham vọng và
những ảo ảnh lớn lao về chính họ, chúng ta có thể nói rằng
họ không biết Đức Kitô: kết cục của họ dù có vẻ tốt đẹp đến
đâu cũng thật cay đắng. Những dòng này không dành cho họ;
174 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cứ chờ đến ngày phán xét sẽ nói sau. Bởi vì, lẽ ra chính họ là
những ngƣời trƣớc hết phải đƣợc nói cho biết những lời này
của Thiên Chúa, vì họ có học và ở một địa vị cao.
13 – Giờ đây, chúng tôi xin nói với những ngƣời theo
đƣờng tâm linh, đặc biệt là những ngƣời Thiên Chúa đã
thƣơng nhắc lên bậc chiêm niệm (nhƣ tôi đã nói, giờ đây tôi
đặc biệt ngỏ lời với những ngƣời ấy), và chúng tôi sẽ nói rõ
làm sao ngƣời ta có thể vƣơn thẳng tới Thiên Chúa nhờ đức
tin, và tự thanh luyện khỏi những điều trái nghịch, tự thu hẹp
mình để vào đƣợc trong nẻo đƣờng hẹp của ơn chiêm niệm
tăm tối.
QUYỂN 2 175

Chương 8
Không gì trong giới tự nhiên
có thể trực tiếp giúp nên một với Thiên Chúa *
Chương này bàn tổng quát về việc không thụ tạo nào và
cũng không nhận thức nào có thể là phương thế trực tiếp
giúp nên một với Thiên Chúa.
1 – Trƣớc khi bàn đến phƣơng thế riêng và tƣơng xứng
giúp nên một với Thiên Chúa, tức là đức tin, thiết tƣởng nên
chứng minh rằng không một thụ tạo nào, không một tƣ tƣởng
nào có thể là phƣơng thế thích hợp giúp trí hiểu nên một với
Thiên Chúa. Hơn thế nữa, tất cả những gì trí hiểu có thể thâu
đạt, nếu gắn bó vào nó thì thay vì nên phƣơng tiện cho trí
hiểu, nó sẽ thành chƣớng ngại. Trong chƣơng này, chúng ta
sẽ chứng minh tổng quát, sẽ nói riêng từng điểm, bàn xuống
hết mọi nhận thức mà trí hiểu có thể tiếp nhận do bất cứ một
giác quan nào, hoặc bên trong hoặc bên ngoài, cùng với
những bất lợi và thiệt hại các nhận thức bên trong hoặc bên
ngoài có thể gây cho nó nếu nó không gắn bó trực tiếp vào
phƣơng thế thích hợp là đức tin.
2 – Nên biết rằng theo một qui tắc triết học, tất cả mọi
phƣơng thế đều phải xứng hợp với mục đích, nghĩa là phải có
một sự phù hợp và giống nhau nào đó với mục đích, đủ để
đạt đƣợc mục đích ngƣời ta theo đuổi. Xin nêu một ví dụ:
Muốn đi tới một thành phố, nhất thiết phải lên đƣờng, là
phƣơng tiện dẫn tới thành phố ấy, nối kết ta với thành phố
ấy. Một ví dụ khác: Muốn nối kết lửa với củi, cần dùng nhiệt
176 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

lƣợng làm phƣơng tiện, phải hun nóng củi tới một độ nóng
nào đó để nó nên giống hệt và tƣơng ứng đƣợc với lửa. Nếu
không dùng phƣơng thế xứng hợp là nhiệt lƣợng, mà lại
dùng những phƣơng thế khác không thích hợp, chẳng hạn
nhƣ khí, nƣớc hoặc đất... thì sẽ không thể nào củi nên một
đƣợc với lửa. Cũng tựa nhƣ ngƣời ta chỉ có thể đi đƣợc tới
một thành phố nếu biết đi qua con đƣờng thích hợp nối kết
với thành phố ấy. Do đó, để trí hiểu nên một đƣợc với Thiên
Chúa trên cõi đời này, cần phải dùng phƣơng thế nào nối kết
đƣợc với Ngài và có đƣợc sự tƣơng tự, giống với Ngài nhất.
3 – Về điểm này, phải lƣu ý rằng giữa tất cả các thụ tạo,
thƣợng đẳng cũng nhƣ hạ đẳng, không một thụ tạo nào có thể
là phƣơng thế gần gũi nối kết đƣợc với Thiên Chúa, hoặc có
thể tƣơng tự đƣợc với hữu thể Ngài. Mặc dù, theo lời các nhà
thần học, mọi thụ tạo đều qui về Thiên Chúa cách nào đó và
đều là dấu vết về Ngài nhiều hay ít tùy theo mức độ hoàn
thiện của bản thể chúng, giữa Thiên Chúa và các thụ tạo ấy
không có một sự tƣơng ứng hay một sự giống nhau nào theo
yếu tính. Ngƣợc lại, giữa hữu thể Thiên Chúa và các thụ tạo
ấy là một khoảng cách vô tận. Do đó trí hiểu không thể nào
đạt đến Thiên Chúa nhờ phƣơng tiện các thụ tạo, trên trời
hay dƣới đất, vì không có sự tƣơng ứng hay giống nhau nào
cả. Bởi đó, khi bàn về các thụ tạo trên trời, vua Đavít đã nói:
Không một thần linh nào sánh kịp Ngài, lạy Chúa (Tv
85/86,8). Qua kiểu nói “thần linh”, tác giả muốn hiểu về các
thiên thần và các linh hồn thánh thiện. Trong thánh vịnh
76/77,14, ông lại viết: Lạy Thiên Chúa, đường lối Ngài quả
là thánh thiện, có thần nào cao cả như Thiên Chúa?. Dƣờng
QUYỂN 2 177

nhƣ ông muốn nói: Lạy Chúa, con đƣờng để đến với Chúa là
một con đƣờng thánh, tức là con đƣờng của đức tin tinh
tuyền. Thật vậy, có Thiên Chúa nào khác cao cả đến thế?
Tức là: có thiên thần nào có bản tính cao cả nhƣ Thiên Chúa,
hay có vị thánh nào có vinh quang cao cả nhƣ Chúa đến độ
có thể là con đƣờng xứng hợp và đầy đủ giúp đạt đến Chúa?
Cũng chính vua Đavít khi nhắc đến mọi vật cả trên trời dƣới
đất, còn nói: Chúa tuy thật là cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ
thấp hèn, kẻ tự mãn tự cao, từ xa Ngài đã biết (Tv
137/138,6). Có nghĩa là: Thiên Chúa rất cao cả trong hữu thể
Ngài, Ngài thấy mọi vật dƣới đất này thật thấp kém so với
bản tính siêu việt của Ngài, còn những điều trên cao, tức là
các thụ tạo trên trời, thì Ngài thấy và biết chúng từ rất xa.
Cho nên tất cả mọi thụ tạo đều không thể nào dùng làm
phƣơng thế xứng hợp cho trí hiểu để đạt tới Thiên Chúa.
4 – Cũng y nhƣ vậy, tất cả những gì trí tƣởng tƣợng có
thể bày ra và trí hiểu có thể tiếp nhận hoặc hiểu đƣợc trên đời
này, đều không thể nào dùng làm phƣơng tiện trực tiếp giúp
nên một với Thiên Chúa. Cứ xét theo lẽ tự nhiên, trí hiểu
không thể nào hiểu đƣợc một vật nếu nó không lọt vào dƣới
những dạng thức và hình ảnh do các giác quan thể chất đem
lại; mà nhƣ đã nói, các vật này cũng không thể nào dùng làm
phƣơng thế dẫn đến sự nên một với Thiên Chúa; mà đã nhƣ
thế cả trí tuệ tự nhiên của ta cũng bất lực. Còn nếu nói về trí
hiểu siêu nhiên, theo khả năng có thể đƣợc ở đời này, thì
phải biết rằng trí hiểu của ta bao lâu còn ở trong nhà tù thân
xác thì không sẵn sàng cũng không có khả năng tiếp nhận
một hiểu biết rạch ròi về Thiên Chúa, vì sự hiểu biết này
178 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

không dành cho những ngƣời còn sống ở trần gian, phải chết
đi mới nhận đƣợc, còn nếu không thì đành chịu thua. Vì thế,
khi Môsê nài xin một sự hiểu biết rạch ròi kiểu ấy, Thiên
Chúa đã trả lời rằng ông không thể thấy Ngài: Người phàm
không thể thấy Ta mà vẫn còn sống (Xh 33,20). Thánh Gioan
cũng nói: Chưa bao giờ đã có ai thấy Thiên Chúa (Ga 1,18)
hoặc điều gì tƣơng tự nhƣ Ngài. Thánh Phaolô (1Cr 2,9)
cũng nhắc lại lời ngôn sứ Isaia (64,4): Mắt chẳng hề thấy, tai
chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Vì thế, Môsê
không dám lại nhìn bụi gai đang bốc cháy, nơi Thiên Chúa
đang hiện diện (Cv 7,32); ông biết rõ rằng trí hiểu của ông
không thể nào suy xét đƣợc về Thiên Chúa cho xứng hợp với
những gì ông đã cảm nhận về Thiên Chúa. Sách cũng có
chép rằng ngôn sứ Êlia, tổ phụ của chúng ta, khi ở trên núi
đã che mặt lại trước sự hiện diện của Thiên Chúa (1V
19,13). Ngài làm nhƣ vậy có nghĩa là ngài đặt trí hiểu vào
tình trạng tăm tối, bởi vì không dám dùng một phƣơng tiện
thô hèn mà chạm đến một thực tại cao cả đến thế. Ngài thấy
rất rõ rằng bất cứ điều gì ngài suy xét hoặc hiểu đƣợc cách
đặc biệt, cũng đều rất xa vời và khác với Thiên Chúa.
5 – Nhƣ thế, không có một nhận thức hay một sự tiếp
thu siêu nhiên nào ở đời này có thể dùng làm phƣơng thế trực
tiếp dẫn đến sự nên một tình yêu cao sâu với Thiên Chúa.
Bởi vì, nhƣ đã nói, tất cả những gì trí hiểu có thể biết, những
gì lòng muốn có thể nếm, những gì trí tƣởng tƣợng có thể tạo
ra, tất cả đều rất khác biệt và không xứng hợp với Thiên
Chúa. Đó là điều ngôn sứ Isaia đã giúp ta hiểu tài tình trong
lời sau đây: Các ngươi cho Thiên Chúa giống tựa ai vậy?
QUYỂN 2 179

Các ngươi lấy gì tương tự để đem so với Ngài? (Có phải các
ngƣơi lầm) như thợ đúc sắt đã đúc một pho tượng, thợ kim
hoàn thì dát vàng và thợ rèn rèn những xà tích bạc? (Is
40,18-19). Thợ đúc sắt ám chỉ trí hiểu, mà chức năng là tạo
nên các ý niệm và gạn lọc chúng khỏi đống sắt của những
hình ảnh biểu thị và hoang tƣởng: Thợ kim hoàn ám chỉ lòng
muốn, vốn có tài tiếp nhận đủ các loại vui thú đƣợc thứ vàng
là tình yêu gây ra; thợ bạc ám chỉ dạ nhớ và trí tƣởng tƣợng;
cũng nhƣ thợ bạc không thể trình bày Thiên Chúa bằng
những lá bạc, thì dạ nhớ và trí tƣởng tƣợng cũng không thể
diễn tả Thiên Chúa bằng những ghi nhận và hình ảnh biểu thị
của chúng. Nhƣ thế có nghĩa là: Trí hiểu với những ý niệm
của chúng không thể quan niệm nổi điều gì sánh đƣợc với
những hoan lạc và dịu ngọt nơi Thiên Chúa; cả dạ nhớ cũng
không thể đặt nổi vào trí tƣởng tƣợng những ghi nhận và
hình ảnh diễn tả đƣợc Ngài. Nhƣ vậy, rõ ràng là không một
điều gì trong các ghi nhận ấy có thể là phƣơng thế trực tiếp
đƣa dẫn đến với Thiên Chúa. Để lại gần Thiên Chúa, nên loại
trừ các ánh sáng của trí hiểu hơn là tận dụng chúng; và để lại
gần tia sáng thần linh hơn thì nên để mình mù lòa và đi trong
tăm tối hơn là mở mắt.
6 – Đó là lý do khiến cho sự chiêm niệm (là phƣơng thế
giúp trí hiểu nhận đƣợc sự hiểu biết cao xa nhất về Thiên
Chúa) đƣợc gọi là thần học nhiệm giao, tức là khoa học về
sự khôn ngoan giấu kín của Thiên Chúa; thật vậy, sự khôn
ngoan này đƣợc giấu kín ngay cả với trí hiểu đang tiếp nhận
nó. Và vì thế, thánh Điônisiô gọi nó là tia tăm tối. Còn ngôn
sứ Barúc thì nói về nó rằng: Chẳng ai trong họ đã biết đường
180 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khôn ngoan, họ đã chẳng thấy những lối đi của nó (Br 3,23).


Vậy, muốn nên một với Thiên Chúa, nhất định trí hiểu phải
chịu mù tối trong tất cả mọi nẻo đƣờng mà nó có thể vƣơn
tới. Ông Aristốt nói rằng: “Đôi mắt loài dơi phản ứng thế nào
trƣớc ánh sáng mặt trời, là thứ ánh sáng hoàn toàn khiến nó
bị tối tăm, thì trí hiểu của chúng ta cũng nhƣ thế trƣớc ánh
sáng rất chói ngời nơi Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn là tăm tối
đối với chúng ta”. Ông còn nói thêm rằng: “Những thực tại
nơi Thiên Chúa càng cao cả và sáng chói thì đối với chúng ta
lại càng xa lạ và tăm tối”. Thánh Tông đồ cũng quả quyết
nhƣ vậy, khi nói rằng: Chính những điều cao cả nơi Thiên
Chúa, lại được loài người biết đến ít nhất (x. 1Cr 2,8).
7 – Chúng ta sẽ không xong đƣợc đề tài này nếu cứ
muốn nêu hết mọi chứng từ và lý lẽ có sức minh chứng rõ
ràng rằng chẳng có một thụ tạo nào hoặc tƣ tƣởng nào có thể
dùng làm thang cho trí hiểu trèo lên tới vị Thiên Chúa cao cả
ấy. Ngƣợc lại, nên biết rằng nếu trí hiểu muốn sử dụng tất cả
các vật thụ tạo, hoặc một số nào trong đó, làm phƣơng thế
gần gũi đƣa đến sự nên một với Thiên Chúa, thì không
những sẽ gặp trở ngại trên bƣớc đƣờng leo lên đỉnh núi ấy,
mà còn có nguy cơ mắc phải nhiều sai lầm và cạm bẫy.
QUYỂN 2 181

Chương 9
Đức tin giúp nên một với Thiên Chúa *

Chương này cho thấy làm sao đức tin lại là phương thế
gần gũi và xứng hợp với trí hiểu nhất, giúp linh hồn có thể
đạt tới sự nên một với Thiên Chúa Tình Yêu, đồng thời chứng
minh điều ấy dựa trên thế giá và hình ảnh Thánh Kinh.
1 – Theo những điều nói trên, trí hiểu muốn đƣợc sẵn
sàng để nên một với Thiên Chúa, thì phải thật trong suốt, trút
sạch tất cả những gì có thể chạm đến giác quan, phải thật
trần trụi và tự giải tỏa khỏi tất cả những gì trí hiểu có thể
thấy rõ. Trí hiểu phải đƣợc nghỉ ngơi và bình lặng, phải đƣợc
định cƣ trong đức tin; chỉ có đức tin là phƣơng thế gần gũi và
xứng hợp giúp linh hồn nên một cùng Thiên Chúa, bởi lẽ
giữa đức tin và Thiên Chúa có sự giống nhau đến độ không
còn gì khác biệt giữa thấy Thiên Chúa và tin Thiên Chúa.
Thiên Chúa vô biên, đức tin cũng nói với ta rằng Ngài vô
biên. Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một bản tính duy nhất, thì
đức tin cũng dạy rằng Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một bản
tính duy nhất. Thiên Chúa là tăm tối đối với trí hiểu của ta thì
đức tin cũng thế, nó khiến trí hiểu của ta bị mù lòa và tăm
tối. Nhƣ thế đức tin là phƣơng thế duy nhất Thiên Chúa dùng
để tỏ mình cho linh hồn trong ánh sáng thần linh, vƣợt hẳn
mọi trí hiểu. Vì vậy, một linh hồn càng có đức tin càng nên
một với Thiên Chúa.
Đó là điều thánh Phaolô muốn nói trong lời đã trích dẫn:
Ai muốn đến gần Thiên Chúa thì phải tin là có Thiên Chúa
182 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

(Hr 11,6), tức là phải nhờ đức tin mà đến với Thiên Chúa. Trí
hiểu phải nhƣ mù lòa, đối diện với tăm tối, chỉ có đức tin
hƣớng dẫn thôi. Chính dƣới sự tăm tối ấy, trí hiểu đƣợc nên
một cùng Thiên Chúa, và cũng chính trong sự tăm tối ấy
Thiên Chúa ẩn mình. Nhƣ vua Đavít có nói: Chúa nghiêng
trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù, ngự trên thần hộ giá,
trên cánh gió lượn bay: Chúa dùng bóng tối làm màn bao
phủ, lấy mây đen nghịt làm trướng che mình (Tv 17,10 –12).
2 – Mây mù Ngài đạp dưới chân, bóng tối Ngài dùng
làm màn bao phủ và mây đen nghịt Ngài dùng làm trướng
che, tất cả nhằm diễn tả một điều là sự tăm tối của đức tin
mà Thiên Chúa tự giam mình trong đó. Còn kiểu nói Ngài
ngự trên các thần hộ giá và lượn bay trên cánh gió, nhằm
nói rằng Ngài vƣợt quá mọi trí hiểu. Thật vậy, các thần hộ
giá (Kêrubim) có nghĩa là những thiên thần thông sáng
đang chiêm niệm. Còn các cánh gió có ý nói về những ghi
nhận và những nhận thức tinh tế và cao vƣợt qua các bậc
thuần thần. Vƣợt trên tất cả những hiểu biết ấy là chính
Thiên Chúa hằng hữu mà không một thụ tạo nào có thể tự
mình đạt tới.
3 – Trong Thánh Kinh, có một hình ảnh về điều ấy. Khi
vua Salômôn hoàn tất việc xây đền thờ, Thiên Chúa đã ngự
xuống trong một đám mây mù mịt và phủ ngập đền thờ, đến
nỗi con cái Israel chẳng còn xem thấy gì hết. Vua Salômôn
đã thốt lên: Thiên Chúa đã hứa Ngài sẽ ngự trong đám mây
mù mịt (1V 8,12). Thiên Chúa cũng đã hiện ra với Môsê trên
núi trong mây mù mịt (Xh 19,9). Tất cả những lần Thiên
Chúa tỏ mình cách long trọng, Ngài đều hiển linh giữa mây
QUYỂN 2 183

tối mịt mù; nhƣ ta cũng còn thấy trong trƣờng hợp ông Gióp,
Thánh Kinh kể rằng Thiên Chúa đã nói với ông trong làn khí
tối tăm (G 38,1; 40,1). Tất cả những bóng tối ấy đều nói lên sự
tăm tối đức tin che khuất Thiên Chúa khi Ngài tự thông ban
cho linh hồn. Nhƣ thánh Phaolô có nói, sự tăm tối này sẽ
chấm dứt khi điều có ngần có hạn sẽ ra không và sự trọn lành
sẽ đến (1Cr 13,10). Điều có ngần có hạn tức là sự mịt mù của
đức tin, còn điều trọn lành là ánh sáng của Thiên Chúa. Ta có
một hình ảnh khá rõ nơi chuyện đạo binh của Ghiđêôn. Tất cả
các chiến sĩ đều cầm đuốc sáng trên tay mà không ai nhìn thấy
chúng, vì chúng bị che giấu trong bình, nhƣng vừa đập bình là
ánh sáng hiện ra ngay (Tl 7,16-20). Đức tin cũng giống nhƣ
những chiếc bình ấy. Nó chứa ánh sáng của Thiên Chúa. Khi
nào đức tin thành toàn và bị đập vỡ do sự lìa bỏ và kết thúc
cuộc sống dễ chết này, thì lập tức vinh quang và ánh sáng của
thần tính chứa đựng trong đó sẽ lộ hiện.
4 – Nhƣ vậy rõ ràng là nếu muốn đạt tới sự nên một
với Thiên Chúa ở đời này và đƣợc hiệp thông trực tiếp với
Ngài, linh hồn cần phải liên kết với sự mù mịt mà Thiên
Chúa đã hứa với Salômôn rằng Ngài sẽ ở trong đó; cần phải
núp mình trong làn khí tối tăm mà Thiên Chúa đã tự hạ
xuống để tỏ mình cho Giacóp; và phải cầm những chiếc
bình tăm tối của Ghiđêôn trên tay. Có nghĩa là phải dùng
lòng muốn để giữ lấy ánh sáng tăm tối qua đức tin, ánh sáng
của sự nên một với Thiên Chúa trong tình yêu, để vừa khi
các bình của cuộc đời này bị đập vỡ, ánh sáng đức tin
không còn bị điều gì ngăn cản nữa, ta liền đƣợc nhìn thấy
Thiên Chúa nhãn tiền trong vinh quang.
184 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

5 – Tới đây, tôi cần phải đặc biệt nói thêm về tất cả
những hiểu biết và nhận thức mà trí hiểu có thể thâu nhận,
cũng nhƣ những chƣớng ngại và thiệt hại chúng có thể gây
ra trên con đƣờng đức tin này. Tôi cũng sẽ nêu rõ linh hồn
sẽ phải xử sự thế nào để những hiểu biết ấy, dù phát xuất
từ giác quan hay từ tâm trí, sẽ sinh ích cho linh hồn chứ
không làm hại.
QUYỂN 2 185

Chương 10
Đôi điều cần phân biệt *

Đôi điều cần phân biệt trong các nhận thức và hiểu biết
mà trí hiểu tiếp nhận.
1 – Trƣớc khi bàn chi tiết về những ích lợi và tác hại
mà các ghi nhận và nhận thức của trí hiểu có thể gây ra cho
linh hồn về mặt đức tin, là phƣơng thế để nên một với Thiên
Chúa, chúng tôi xin dừng lại đây một chút để phân biệt rõ
những nhận thức tự nhiên và siêu nhiên mà trí hiểu có thể
tiếp nhận. Có phân biệt nhƣ thế, chúng ta mới có thể trình
bày cách thứ tự, mạch lạc, hƣớng dẫn cho trí hiểu phần nào
trong đêm và trong bóng tối của đức tin. Phần này rất ngắn.
2 – Trƣớc hết, cần biết rằng trí hiểu có thể tiếp nhận
thông tin và hiểu biết bằng hai con đƣờng tự nhiên và siêu
nhiên. Đƣờng tự nhiên là tất cả những gì trí hiểu có thể
nhận biết hoặc nhờ các giác quan thể chất hoặc nhờ chính
nó (trí hiểu). Đƣờng siêu nhiên là tất cả những gì đƣợc cung
cấp cho trí hiểu, vƣợt ngoài khả năng và sự khéo léo tự
nhiên của nó.
3 – Trong những điều tiếp nhận qua đƣờng siêu nhiên,
một số có tính cách thể chất và một số có tính cách tâm linh.
Những điều có tính cách thể chất lại do hai cách: Một số
đƣợc tiếp nhận qua con đƣờng giác quan thể chất bên ngoài;
số còn lại qua con đƣờng giác quan thể chất bên trong, gồm
tất cả những gì trí tƣởng tƣợng có thể tiếp thu, bịa đặt hoặc
chế tạo ra.
186 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Những nhận thức mang tính tâm linh cũng do hai


cách: Có những điều nổi bật và độc đáo, có những điều mờ
nhạt và tăm tối, chỉ là chuyện chung chung. Trong những
điều nổi bật và độc đáo, có bốn cách nhận thức đặc biệt đƣợc
truyền đạt thẳng cho tâm trí không cần một giác quan thể
chất nào làm trung gian. Đó là: thị kiến, mặc khải, nhãn giới
tâm linh và những tình cảm tâm linh. Còn về hiểu biết tăm
tối và chung chung thì chỉ có một cách, tức là chiêm niệm
nhờ đức tin. Đây là cách ta phải đề ra cho linh hồn, ta sẽ giúp
linh hồn vƣợt qua tất cả những cách khác để hƣớng thẳng tới
đó. Chúng ta hãy khởi sự bàn về những điều hiểu biết qua
con đƣờng thứ nhất trên đây (qua giác quan thể chất bên
ngoài) và giúp linh hồn lột bỏ chúng.
QUYỂN 2 187

Chương 11
Những khoái cảm tâm linh qua giác quan *

Chướng ngại và sự thiệt hại có thể gặp phải nơi những


nhận thức mà trí hiểu tiếp nhận qua những điều được bày tỏ
cách siêu nhiên cho các giác quan thể chất bên ngoài. Linh
hồn phải xử sự thế nào trong những chuyện này?
1 – Ở chƣơng trên đây, ta đã nói đến những nhận thức
đến với trí hiểu qua con đƣờng tự nhiên. Trong cuốn thứ
nhất, khi chỉ đƣờng cho linh hồn đi vào đêm giác quan, đã có
bàn đến những điều ấy, và thiết tƣởng đã đủ rồi, nên ở đây
chúng tôi không nói thêm nữa. Trong chƣơng này sẽ chỉ bàn
đến những thông tin và nhận thức mà trí hiểu chỉ nhận biết
cách siêu nhiên qua con đƣờng các giác quan thể chất bên
ngoài, tức là nghe, xem, ngửi, nếm và đụng chạm. Những
ngƣời theo đƣờng tâm linh có thể và đã vẫn thƣờng nhận
đƣợc những biểu hiện và những đối tƣợng đến với họ một
cách siêu nhiên. Chẳng hạn, mắt họ thấy những hình ảnh và
những ngôi vị thuộc cõi đời đời, nhƣ thấy các thánh, thấy
thiên thần hoặc ma quỷ, thấy những ánh sáng hoặc những vẻ
rực rỡ phi thƣờng, hoặc tai họ nghe thấy những lời phi
thƣờng, có khi là do những ngƣời họ nhìn thấy nói ra, có khi
chỉ nghe nói mà không thấy ngƣời nói. Khứu giác họ có thể
ngửi thấy những mùi rất thơm tho dịu dàng mà không biết
phát xuất từ đâu. Vị giác có thể nếm đƣợc một vị rất dịu
ngọt, xúc giác có thể đƣợc đầy khoái cảm, đôi khi mãnh liệt
đến độ dƣờng nhƣ tất cả xƣơng tủy đều sảng khoái, hớn hở
và chìm ngập trong hoan lạc. Đó là một hoan lạc tựa nhƣ
188 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

điều quen gọi là sự xức dầu tâm linh, bắt nguồn từ tâm linh
và tuôn chảy xuống tận các chi thể của những linh hồn thanh
khiết. Sự thích thú nơi giác quan nhƣ thế là chuyện rất
thƣờng gặp nơi những ngƣời theo đƣờng tâm linh, phát xuất
từ cảm tính và từ lòng sùng đạo của những tâm hồn giàu cảm
giác, nhiều hay ít tùy từng ngƣời.
2 – Phải biết rằng, dù tất cả những điều ấy có thể do
Thiên Chúa muốn xảy ra cho các giác quan thể chất đi nữa,
cũng không bao giờ đƣợc tin chắc vào chúng hoặc nhìn nhận
chúng. Trái lại, phải triệt để chạy trốn chúng, không đƣợc
thử cứu xét xem chúng tốt hay xấu, bởi lẽ chúng càng có tính
cách bên ngoài và thể chất thì càng đáng ngờ, càng không
chắc rằng chúng đến từ Thiên Chúa. Bình thƣờng, cách thích
hợp để Thiên Chúa thông ban chính mình Ngài vẫn là thông
ban qua tâm linh, sẽ chắc chắn và ích lợi nhiều cho linh hồn,
hơn là thông ban qua giác quan, vì qua giác quan thƣờng gặp
nguy cơ bị lừa dối, bị ảo tƣởng. Thật vậy, nơi những hiện
tƣợng ấy, giác quan thể chất tự cho mình là trọng tài thẩm
định các thực tại tâm linh, nên cứ tƣởng rằng các thực tại ấy
giống hệt nhƣ nó cảm thấy, trong khi thực ra hai đàng khác
biệt nhau tựa nhƣ thể chất khác với linh hồn và nhục cảm
khác với lý trí. Thật vậy, giác quan thể chất dốt nát về các
thực tại tâm linh còn hơn là súc vật dốt nát về các thực tại
của lý trí.
3 – Vì thế, ngƣời nào coi trọng những chuyện ấy là lầm
lớn, và dễ gặp nguy cơ bị lừa gạt. Họ sẽ vì chuyện nhỏ mọn
mà hoàn toàn bị cản trở, không tiến đƣợc tới thực tại tâm
linh. Bởi vì, nhƣ đã nói, tất cả những gì thuộc thể chất đều
QUYỂN 2 189

chẳng tƣơng ứng đƣợc với thực tại tâm linh chút nào cả. Vì
vậy, nếu gặp những hiện tƣợng ấy thì phải luôn luôn cầm
chắc rằng đó là do ma quỷ hơn là do Thiên Chúa. Bởi lẽ ma
quỷ có thể tác động trên cái bề ngoài thuộc thể chất mạnh
hơn và lừa gạt trên mặt ấy dễ hơn là trên những điều bên
trong thuộc tâm linh.
4 – Những điều và những dạng biểu lộ theo thể chất
nhƣ thế, càng có tính bên ngoài càng ít sinh lợi ích cho bề
trong và tâm linh, bởi lẽ giữa điều thể chất và điều tâm linh
thật rất cách biệt và thiếu tƣơng xứng. Đúng vậy, cho dù đôi
khi chúng có thông truyền một chút gì về tâm linh (nếu là
bởi Thiên Chúa thì luôn có hiệu quả này), thì vẫn kém xa
trƣờng hợp cũng chính những điều ấy đƣợc thông truyền
qua tâm linh và bề trong. Cũng bởi đó, những sự việc ấy dễ
khiến linh hồn lầm lạc, tự phụ và huênh hoang. Vì là những
điều có thể chạm đến đƣợc và nặng tính cách vật chất,
chúng đánh động nhiều trên các giác quan. Còn linh hồn, vì
tƣởng rằng những cảm giác ấy càng bén nhạy càng quý, nên
sẽ chạy theo chúng và bỏ rơi mất đức tin. Cứ tƣởng rằng đó
là ánh sáng dẫn đƣờng và là phƣơng thế giúp đạt đƣợc điều
mình mong muốn là nên một với Thiên Chúa, linh hồn càng
coi trọng những điều ấy càng đánh mất con đƣờng và
phƣơng thế đích thật là đức tin.
5 – Thêm vào đó, khi thấy những chuyện khác lạ ấy
thƣờng xảy ra cho mình, lắm lúc linh hồn dễ rơi vào chỗ
thầm tự mãn, tƣởng là mình cũng đã là gì đó trƣớc mặt Thiên
Chúa. Và nhƣ thế là mất sự khiêm nhƣờng. Ma quỷ khôn
khéo gieo nơi linh hồn một sự tự mãn kín đáo, nhƣng lắm lúc
190 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cũng khá lộ liễu. Vì thế nhiều khi nó gây ra những hiện


tƣợng ấy nơi các giác quan: Mắt xem thấy hình ảnh các vị
thánh và những ánh huy hoàng diễm lệ, tai nghe những lời
giả dối, mũi ngửi thấy những hƣơng vị thơm tho, miệng nếm
đƣợc những vị ngon ngọt và xúc giác cảm thấy dịu dàng êm
ái. Nó dùng những điều ấy dụ dỗ để rồi sau đó lôi kéo linh
hồn vào nhiều tai họa. Do đó, luôn luôn phải khử trừ những
hiện tƣợng và cảm nhận ấy.
Cho dù một số các hiện tƣợng và cảm nhận ấy là do
Thiên Chúa, thì việc khử trừ chúng cũng không xúc phạm gì
đến Thiên Chúa và cũng không ngăn cản linh hồn tiếp nhận
hiệu quả và hoa trái Thiên Chúa muốn ban cho linh hồn qua
các phƣơng cách ấy, mặc dù linh hồn đã gạt bỏ, không màng
đến chúng.
6 – Lý do là thế này: Những thị kiến có tính thể chất,
hoặc những cảm nhận nơi bất cứ giác quan nào khác, cũng
nhƣ nơi bất cứ sự chuyển thông nào khác của những giác
quan bề trong, nếu thật sự là do Thiên Chúa, thì ngay lúc
chúng xuất hiện hoặc đƣợc cảm nhận, chúng đã gây hiệu quả
nơi tâm linh rồi, chứ không đợi linh hồn suy tính xem có nên
muốn hay không muốn. Y nhƣ trƣờng hợp Thiên Chúa ban
những hiệu quả ấy cách siêu nhiên trong lúc linh hồn thiếu
hẳn sự chú tâm và khả năng, ở đây Thiên Chúa cũng thực
hiện hiệu quả Ngài muốn cho linh hồn qua các phƣơng cách
ấy bất chấp linh hồn muốn hay không. Điều đó đƣợc thực
hiện và hoàn tất trong tâm linh cách thụ động, không đợi
ngƣời ta muốn hay không muốn mới thành hoặc không
thành. Chẳng khác nào đem lửa ném vào một ngƣời ở trần,
QUYỂN 2 191

anh ta có muốn hay không vẫn bị phỏng. Cũng vậy, cho dù


linh hồn không muốn, các thị kiến và hiện tƣợng lành sạch
vẫn thực hiện hiệu quả của chúng trong linh hồn cách ƣu tiên
và chính yếu hơn là trong thân xác. Tƣơng tự, cho dù linh
hồn không muốn, các thị kiến do ma quỷ cũng khiến linh hồn
gặp xáo trộn và khô khan, cũng khiến tâm trí gặp phải sự
huênh hoang và tự phụ. Tuy nhiên chúng không gây đƣợc
điều ác cách hữu hiệu nhƣ là những gì do Thiên Chúa gây
nên điều lành. Những điều do ma quỷ chỉ có thể gây nên
những tác động sơ khởi trên lòng muốn chứ không thể đƣa
đƣợc lòng muốn đi xa hơn nếu nó không ƣng thuận. Sự bất
an nó gây ra cũng không kéo dài bao lâu nếu linh hồn không
dung túng nó do bởi thiếu can đảm và tỉnh thức. Còn những
điều do Thiên Chúa thì xuyên thấu linh hồn và thúc đẩy lòng
muốn yêu mến, để lại một hiệu quả mà linh hồn không
cƣỡng lại đƣợc, nhƣng rất mơ ƣớc, còn hơn cả tấm kính
không cƣỡng lại đƣợc tia sáng mặt trời đang chiếu vào nó.
7 – Do đó, linh hồn không bao giờ đƣợc liều lĩnh chấp
nhận chúng, và nhƣ đã nói, cho dù chúng có xuất phát từ
Thiên Chúa cũng vậy, bởi vì linh hồn nào muốn chấp nhận sẽ
gặp phải 6 điểm bất lợi:
- Trƣớc hết, đức tin bị suy giảm. Thật vậy, nhƣ đã nói,
đức tin vƣợt trên mọi giác quan, cho nên nếu cứ dựa vào
những kinh nghiệm của giác quan sẽ gây thiệt hại cho đức tin
rất nhiều. Và nhƣ thế, nếu không chịu nhắm mắt lại trƣớc tất
cả mọi chuyện thuộc giác quan, là linh hồn tự tách mình khỏi
phƣơng thế giúp nên một với Thiên Chúa (là đức tin).
192 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

- Thứ hai là, nếu không từ bỏ những cảm nhận ấy, sẽ


rất trở ngại cho tâm linh, bởi vì chính linh hồn sẽ dừng lại
ở đó và tâm linh không bay vƣợt đƣợc lên tới cõi vô hình.
Đó là một trong những nguyên do Chúa nêu lên để giải
thích cho môn đệ hiểu rằng Ngài cần phải ra đi nhƣờng
chỗ cho Thánh Thần ngự đến với họ. Đó cũng là lý do tại
sao sau khi phục sinh, Ngài không cho Maria ngƣời
Mácđala chạm đến chân Ngài: Chính là để chị thêm vững
mạnh trong đức tin.
- Thứ ba là, linh hồn sẽ dần dần thích chiếm giữ những
cảm nhận ấy, không còn tiến bƣớc trên đƣờng từ bỏ và trần
trụi thật sự về tâm linh.
- Thứ tƣ là, bởi vì linh hồn lo dán mắt vào phần khả
giác nơi những cảm nhận ấy, là phần rất phụ thuộc chẳng có
gì đáng kể, nó sẽ vô tình đánh mất hiệu quả của chúng, đánh
mất tác dụng tâm linh chúng gây nên đƣợc trong nội tâm. Do
đó, linh hồn không nhận đƣợc cách dồi dào hiệu quả tâm linh
chúng gây nên, hiệu quả này chỉ đƣợc ghi khắc thật sâu đậm
và bền bỉ nếu chúng ta từ chối tất cả những gì thuộc khả giác,
là bình diện hết sức khác biệt với bình diện tâm linh.
- Thứ năm là, linh hồn sẽ sớm đánh mất các ƣu ái của
Thiên Chúa, bởi vì nó sẽ chụp lấy những ơn ấy bằng thái độ
chiếm hữu chứ không biết tận dụng, tức là đã muốn tôn mình
làm chủ, trong khi Thiên Chúa ban chúng cho linh hồn đâu
phải để nó làm chủ. Vậy thì, linh hồn đừng bao giờ nhất mực
cho rằng những điều ấy là do Thiên Chúa.
QUYỂN 2 193

- Thứ sáu là, vì sẵn lòng chấp nhận những điều ấy, linh
hồn mở cửa cho ma quỷ, nó sẽ lừa gạt linh hồn lạc vào
những điều khác tƣơng tự, vì nó thừa biết cách che giấu và
ngụy trang thật tài tình, khiến cho những hiện tƣợng ấy trông
có vẻ nhƣ những điều lành mạnh đến từ Thiên Chúa. Đúng
nhƣ lời thánh Tông đồ đã nói, ma quỷ có thể khoác áo thần
ánh sáng (2Cr 11,24). Về điểm này, với ơn Chúa giúp, chúng
tôi sẽ bàn thêm ở cuốn thứ ba, trong chƣơng nói về tật tham
ăn tâm linh.
8 – Nhƣ thế, để luôn có lợi cho linh hồn thì cứ nhắm
mắt gạt bỏ chúng đi, bất kể chúng phát xuất từ đâu. Nếu
không, linh hồn sẽ dành lợi thế cho những chuyện phát xuất
từ ma quỷ, và cũng là tiếp tay với ma quỷ. Lúc ấy, thay vì
tiếp nhận những điều thuộc về Thiên Chúa lại vớ lấy những
chuyện của ma quỷ, rồi những chuyện của ma quỷ cứ tăng
thêm trong khi những chuyện thuộc về Thiên Chúa đã khựng
lại, và kết cuộc, tất cả chỉ còn là chuyện của ma quỷ, chẳng
còn gì là của Thiên Chúa nữa. Đó là điều đã xảy ra cho nhiều
linh hồn bất an và dốt nát. Họ quá tự tin khi tiếp nhận những
chuyện ấy, đến nỗi sau đó rất khó quay về cùng Thiên Chúa
với một đức tin tinh ròng; lắm ngƣời đã không sao trở lại nổi,
vì ma quỷ đã ăn rễ ở họ quá sâu. Vì thế, tốt nhất là cứ đóng
cửa không cho chúng vào, cứ gạt bỏ hết tất cả. Nếu đó là
những chuyện nguy hại, ta sẽ tránh khỏi mắc mƣu ma quỷ,
còn nếu là những chuyện lành mạnh, sẽ tránh khỏi gây trở
ngại cho đức tin, và nhờ đó tâm linh lại gặt hái đƣợc hoa quả.
Khi thấy linh hồn tiếp nhận chúng, Thiên Chúa sẽ tƣớc đoạt
đi để linh hồn khỏi rơi vào chỗ chiếm hữu chúng mà không
194 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

sinh lợi gì cả, còn ma quỷ thì ngƣợc lại, vì đã tìm đƣợc ngõ
ngách và lợi thế, nên cũng nhồi nhét và tăng thêm những
chuyện của nó. Còn khi linh hồn kiên quyết chống lại những
điều ấy, ma quỷ thấy không làm hại đƣợc linh hồn thì sẽ
ngƣng quấy phá; ngƣợc lại Thiên Chúa sẽ gia tăng và nâng
cấp các ơn huệ dành cho linh hồn biết khiêm nhƣờng và từ
bỏ ấy. Ngài coi nó là ngƣời đầy tớ trung tín trong việc nhỏ,
giao cho nó trách nhiệm trên việc lớn (Mt 25,21).
9 – Nếu linh hồn biết trung tín và dứt bỏ, Thiên Chúa sẽ
không ngừng ban những ơn tƣơng tự. Ngài sẽ nâng nó lên
từng cấp bậc, cho tới khi đƣợc nên một với Ngài và đƣợc
biến đổi trong Ngài. Ngài thử luyện và nâng linh hồn lên dần
dần. Thoạt đầu, Ngài ban cho nó những ơn bên ngoài và thấp
kém ở mức độ cảm giác, hợp với khả năng còn ít ỏi của nó.
Rồi nếu linh hồn biết xử sự thích đáng, biết dùng những thức
ăn sơ khởi ấy cách từ tốn, để nuôi sống và bổ dƣỡng, thì sau
đó Ngài sẽ ban cho nó một lƣơng thực phong phú và cao quý
hơn. Cứ thế, nếu nó thắng đƣợc ma quỷ ở cấp đầu, nó sẽ tiến
tới cấp thứ hai, rồi từ cấp hai sang cấp ba, và từ đó đi qua hết
cả bảy cƣ sở, tức là bảy bậc của tình yêu, cho tới khi Đức Tình
Quân đặt nó vào hầm rƣợu của “đức ái hoàn hảo” (Dc 2,4).
10 – Hạnh phúc thay linh hồn nào biết chiến đấu chống
lại mãnh thú trong sách Khải huyền (Kh 13,1). Mãnh thú này
có bảy đầu ngƣợc với bảy đầu tình yêu. Nó dùng bảy đầu ấy
để giao chiến với từng bậc một: mỗi đầu chiến đấu với linh
hồn ở một cƣ sở, nơi mà linh hồn đang tập luyện và từng
bƣớc tiến xa trên đƣờng tình yêu Thiên Chúa. Chắc chắn,
nếu linh hồn trung kiên chiến đấu ở mỗi bậc và chiến thắng
QUYỂN 2 195

đƣợc, nó sẽ xứng đáng vƣợt hết bậc này lên bậc khác, từ cƣ sở
này lên cƣ sở khác, cho tới khi đạt tới cƣ sở cuối cùng, sau khi
đã chém hết cả bảy cái đầu mà mãnh thú dùng để giao chiến
cách điên loạn. Thánh Gioan nói rằng: “Nó đã đƣợc ban phép
giao tranh với các thánh và có thể thắng họ” (Kh 13,7) ở mỗi
bậc ấy của tình yêu, vì ở mỗi bậc ấy nó đều sử dụng những khí
giới và trang bị đầy đủ. Do đó, thật đau lòng khi thấy nhiều
ngƣời, đã nhảy vào trận chiến tâm linh chống lại mãnh thú mà
lại không chịu chặt đứt cái đầu thứ nhất của nó bằng cách từ
bỏ những chuyện khả giác của thế gian. Lắm ngƣời đã kiên trì
và chặt bỏ đầu thứ nhất, nhƣng lại không chặt đầu thứ hai, tức
là những thị kiến thuộc giác quan mà chúng tôi đang nói tới
nhƣng đáng buồn nhất là một số ngƣời sau khi đã chặt đầu thứ
nhất, đầu thứ hai và cả đầu thứ ba, tức là những điều liên quan
đến giác quan cảm tính bề trong, đã vƣợt khỏi cả bậc suy niệm
và còn tiến xa hơn nữa, thế mà ngay lúc họ sắp tiến vào cõi
tâm linh thuần túy thì con mãnh thú tâm linh ấy lại thắng họ,
nó phản công chống lại họ và hồi sinh cho đến đầu thứ nhất,
và kết cuộc, khi họ sa ngã lại, nó làm cho họ thành xấu xa hơn
trước nhiều, bởi vì nó mang theo bảy thần dữ khác còn xấu
hơn nó nữa (Lc 11,26).
11 – Vậy, nếu muốn chặt đứt đầu thứ nhất và đầu thứ
hai của mãnh thú ấy, ngƣời theo đƣờng tâm linh phải chối bỏ
những nhận thức và khoái cảm nhất thời lọt vào các giác
quan bên ngoài. Họ cần vào cho đƣợc cƣ sở thứ nhất và thứ
hai của tình yêu tức là đức tin sống động, không nên bận tâm
và để mình bị trói buộc với những điều lọt vào các giác quan,
vì đó là điều phá hoại đức tin nhiều nhất.
196 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

12 – Vậy rõ ràng là những thị kiến và nhận thức theo


giác quan không tƣơng xứng chút nào với Thiên Chúa nên
không thể nào là phƣơng tiện giúp nên một với Ngài. Một
trong những lý do khiến Chúa không thích Maria ngƣời
Mácđala cũng nhƣ Tôma chạm đến Ngài, là vì thế. Cũng vì
thế, ma quỷ khoái chí khi một linh hồn chấp nhận những khải
thị và khi thấy linh hồn nghiêng chiều về đó. Bởi lẽ, lúc ấy
nó có rất nhiều dịp và điều kiện thuận lợi để gieo rắc lầm lạc
và phá hủy đức tin ngần nào có thể đƣợc. Nhƣ tôi đã nói, linh
hồn nào thích những chuyện ấy sẽ trở thành thô kệch, tự
chuốc lấy nhiều cám dỗ và nguy hiểm.
13 – Tôi đã bàn hơi rộng về các nhận thức bên ngoài, vì
muốn làm sáng tỏ hơn đôi chút về những điểm tôi sẽ trình
bày tiếp dƣới đây. Tuy nhiên còn có biết bao điều phải nói về
chuyện này, và có lẽ chẳng bao giờ nói hết đƣợc, trừ một vài
trƣờng hợp hết sức khác thƣờng và không đƣợc ƣớc muốn
chút nào. Thiết tƣởng ở đây nói bấy nhiêu đã đủ.
QUYỂN 2 197

Chương 12
Các nhận thức tưởng tượng tự nhiên
không thể giúp nên một với Thiên Chúa *

Bàn về những nhận thức tưởng tượng tự nhiên. nói về


bản chất của chúng và chứng minh rằng chúng không thế là
phương thế xứng hợp dẫn đến sự nên một với Thiên Chúa, và
nếu người ta không lột bỏ chúng thì sẽ gặp thiệt hại ra sao.
1 – Trƣớc khi bàn về những thị kiến hoang tƣởng vốn
thƣờng đƣợc phô bày cách siêu nhiên cho giác quan bên
trong, là khả năng tƣởng tƣợng và hoang tƣởng, để cho mạch
lạc, xin bàn ngay đến những nhận thức tự nhiên của giác
quan thể chất bên trong ấy. Rồi cứ thế mà đi, từ cái kém tới
cái hơn, từ những điều nặng phần bên ngoài tới những điều
nặng phần bên trong hơn, tiến tới tình trạng lắng đọng sâu
xa, trong đó linh hồn đƣợc nên một với Thiên Chúa. Đó là
thứ tự chúng tôi vẫn giữ từ trƣớc tới giờ. Thật vậy, trƣớc hết,
trong cuốn thứ nhất bàn về đêm giác quan, chúng tôi đã nói
về việc lột bỏ cho các giác quan bên ngoài khỏi bị ràng buộc
do những nhận thức tự nhiên về ngoại vật, cũng nhƣ do sức
mạnh tự nhiên của các mê thích. Chúng tôi cũng đã khởi sự
lột bỏ cho các giác quan ấy khỏi bị sa lầy vào những nhận
thức bên ngoài có tính cách siêu nhiên, vẫn thƣờng xảy ra
cho các giác quan bên ngoài (nhƣ chúng tôi đã làm ở chƣơng
trƣớc), để dẫn linh hồn vào đêm tối tâm linh.
2 – Trong cuốn thứ hai này, điều đầu tiên phải xét đến
là giác quan thể chất bên trong, tức là tƣởng tƣợng và hoang
198 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tƣởng. Chúng ta cũng phải giúp chúng trút sạch mọi mô hình
và nhận thức tƣởng tƣợng có thể lọt vào đó cách tự nhiên.
Chúng ta cũng phải chứng minh đƣợc rằng bao lâu linh hồn
chƣa chấm dứt việc chạy theo những hiểu biết ấy, thì không
thể nào đạt tới nên một với Thiên Chúa, bởi lẽ những hiểu
biết ấy không thể nào là phƣơng thế xứng hợp và gần gũi cho
sự nên một ấy.
3 – Cũng nên biết rằng những giác quan chúng tôi đặc
biệt nói tới đây là hai giác quan thể chất bên trong, gọi là
tƣởng tƣợng và hoang tƣởng, chúng liên đới với nhau và yểm
trợ lẫn nhau. Một giác quan diễn tả vẽ vời bằng đủ thứ hình
ảnh, một giác quan tạo ra hình ảnh và những cái đƣợc biểu
thị bằng hình ảnh. Trong câu chuyện đang bàn đây, chúng tôi
nói về cả hai thứ nhƣ nhau. Do đó, khi không thấy nêu rõ tên
thứ nào cách đặc biệt, thì xin nhớ rằng điều chúng tôi nói cho
giác quan này cũng hiểu về giác quan kia, xin nhớ rằng
chúng tôi nói về cả hai không phân biệt.
Hiểu nhƣ thế, tất cả những gì các giác quan ấy có thể
tiếp nhận hoặc sáng chế ra đều đƣợc gọi là tƣởng tƣợng hoặc
hoang tƣởng. Đó là những mô hình đƣợc phô bày cho các
giác quan ấy, có hình ảnh, có dáng dấp thể chất hẳn hoi.
Những mô hình ấy có thể chia làm hai loại. Một loại có tính
siêu nhiên, không cần phải có giác quan giúp đỡ mới biểu lộ
đƣợc, chúng tự biểu lộ trong giác quan bất chấp ngƣời ta
muốn hay không. Chúng tôi gọi đó là những thị kiến tƣởng
tƣợng mà về sau chúng tôi sẽ nói rõ hơn. Còn những mô hình
khác thuộc tự nhiên, là những điều các giác quan ấy có thể
dùng hoạt động của mình mà sáng chế ra đƣợc thành những
QUYỂN 2 199

mô hình, dáng dấp, hình ảnh... và nhƣ thế cả hai giác quan
này hữu ích cho việc suy niệm, là một động tác phô diễn tƣ
tƣởng bằng những hình ảnh, mô hình và dáng dấp do các
giác quan ấy sáng chế ra và hình dung ra. Chẳng hạn, hình
dung thấy Đức Kitô chịu đóng đinh hoặc bị trói vào cột hoặc
ở một tình huống nào khác. Hoặc hình dung thấy Thiên Chúa
uy nghi cao cả ngự trên ngai. Hoặc nghiền ngẫm và tƣởng
tƣợng ra vinh quang nhƣ một luồng sáng rất diễm lệ... hay là
nhiều điều khác tƣơng tự, hoặc về Thiên Chúa hoặc về ngƣời
phàm, mà trí tƣởng tƣợng có thể hình dung ra đƣợc. Nếu linh
hồn muốn đạt đến chỗ nên một với Thiên Chúa, thì phải đi
đến chỗ trút bỏ hết những tƣởng tƣợng ấy, kể nhƣ mình chìm
trong tăm tối về mặt giác quan ấy. Bởi lẽ, những tƣởng tƣợng
ấy không thể có một chút tƣơng xứng nào để làm phƣơng thế
trực tiếp dẫn đến Thiên Chúa, chúng cũng chẳng hơn gì
những cảm nhận theo thể chất của năm giác quan bên ngoài.
4 – Lý do là vì, trí tƣởng tƣợng không thể sáng chế
hoặc vẽ vời ra đƣợc điều gì ngoài những điều nó đã kinh
nghiệm đƣợc nhờ các giác quan bên ngoài, do mắt thấy, tai
nghe... Nhiều lắm là nó có thể cấu tạo nên những điều tƣơng
tự những gì nó đã thấy, đã nghe, đã cảm... mà nhất định là
không thể tốt đẹp hơn và cũng không thể tốt đẹp bằng những
gì nó đã lãnh nhận đƣợc qua các giác quan này. Chẳng hạn,
nó có thể vẽ ra nhiều lâu đài bằng châu ngọc hoặc những
ngọn núi bằng vàng vì nó đã có thấy một ít vàng và một số
ngọc, dù nó có tƣởng tƣợng ra nhiều và sắp xếp thật công
phu, nhƣng thật ra tất cả công trình ấy vẫn kém xa một chút
vàng hoặc một viên ngọc. Và nhƣ đã nói, mọi vật thụ tạo đều
200 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

không thể có một chút tƣơng xứng nào với hữu thể Thiên
Chúa, cho nên tất cả những gì đƣợc tƣởng tƣợng dựa theo
các thụ tạo ấy đều không thể nào dùng làm phƣơng thế trực
tiếp dẫn đến nên một với Thiên Chúa, ngƣợc lại, nhƣ đã nói,
chúng còn gây cản trở cho sự nên một ấy.
5 – Cho nên, những ai hình dung Thiên Chúa dƣới
những hình ảnh nhƣ là: Một đám lửa lớn, một luồng sáng
hoặc bất cứ mô hình nào khác v. v... và nghĩ rằng trong
những thứ ấy có một chút gì đó giống với Ngài, thì càng
thêm vuột xa Ngài. Những ngƣời mới khởi đầu hẳn cần đến
những suy xét ấy, những mô hình và những phƣơng cách suy
niệm ấy để dần dần hun nóng tình yêu và nuôi dƣỡng linh
hồn bằng cảm giác, nhƣ chúng tôi sẽ nói ở phần sau. Nhƣ thế
họ sử dụng những điều ấy nhƣ những phƣơng thế dọn đƣờng
đƣa đến sự nên một với Thiên Chúa. Các linh hồn ấy thƣờng
phải đi qua lối đó để đạt tới tiêu điểm và trạm nghỉ tâm linh.
Tuy nhiên, phải vƣợt qua chứ không đƣợc dừng luôn ở đó.
Nếu không, họ sẽ không bao giờ đạt đến cùng đích, cái đích
điểm không giống với những phƣơng thế dọn đƣờng và
không hòa đồng gì với chúng. Tựa nhƣ các bậc thang đâu có
hòa đồng đƣợc với cao điểm ngƣời ta leo tới. Chúng chỉ là
những phƣơng thế để đạt tới cao điểm ấy. Ngƣời nào lên
thang mà không chịu bỏ các bậc lại sau, cho tới khi không
còn bậc nào nữa, nếu họ muốn dừng lại ở bất cứ bậc nào
trong những bậc ấy, thì sẽ không bao giờ đạt đích, không bao
giờ đạt tới chỗ nghỉ ngơi yên lành và êm ái.
Cũng vậy, linh hồn nào mà ngay ở đời này đã muốn
vƣơn tới chỗ nên một với Đấng là sự nghỉ ngơi tối thƣợng và
QUYỂN 2 201

là sự thiện tối thƣợng, cần phải vƣợt hết mọi cấp độ suy
nghiệm, mọi mô hình, mọi ghi nhận, phải vƣợt qua và đẩy lùi
chúng bởi vì chúng không giống chút nào và cũng không
tƣơng xứng chút nào với cùng đích mà chúng đƣa đến, là
Thiên Chúa. Vì thế, trong sách Công vụ Tông đồ, thánh
Phaolô đã nói: Chúng ta không được nghĩ rằng thần linh
giống như vàng, bạc hay đá, do nghệ thuật và suy tưởng con
người tạo ra (Cv 17,29).
6 – Chính vì thế mà nhiều ngƣời theo đƣờng tâm linh
đã bị lầm lớn. Trong những bƣớc khởi đầu họ đã tập đến với
Thiên Chúa qua phƣơng tiện các hình ảnh, mô hình và suy
niệm, và nhƣ thế là đúng. Thế nhƣng rồi Thiên Chúa muốn
gọi họ đến hƣởng những điều tốt nặng phần tâm linh hơn, nội
tâm hơn và vô hình hơn; cho nên Ngài tƣớc mất sự thích thú
và hƣơng vị họ từng gặp trong nguyện gẫm suy lý, thì họ lại
không chịu hoàn tất giai đoạn khởi đầu ấy. Họ không dám và
không biết cách gỡ mình khỏi những phƣơng tiện cụ thể đã
quen. Có khi họ còn cố gắng tìm cách giữ lại, họ muốn vẫn
tiếp tục gặp Chúa bằng suy xét và bằng nghiền ngẫm theo
mô hình nhƣ trƣớc, và tƣởng rằng sẽ cứ phải làm nhƣ vậy
mãi. Cứ thế, họ vất vả nhiều mà chỉ tìm đƣợc ít hoặc không
tìm đƣợc chút hƣơng vị nào; trái lại, càng vất vả tìm lại
hƣơng vị ban đầu mà không đƣợc, linh hồn càng thêm khô
khan, mệt mỏi và bất an. Bởi lẽ, nhƣ đã nói, linh hồn không
còn nếm nổi thứ đồ ăn quá nặng cảm giác nhƣ thế; nó cần
một thứ khác tinh tế hơn, nội tâm hơn và ít nặng phần cảm
giác hơn. Thức ăn mới này không cốt ở sự vất vả với trí
tƣởng tƣợng nhƣng là để cho linh hồn đƣợc an nghỉ, đƣợc ở
202 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

yên trong tĩnh lặng và nghỉ ngơi, là điều vốn nặng tính tâm linh
hơn. Thật vậy, linh hồn càng tiến hơn về mặt tâm linh, càng bớt
những tác động đặc thù của các quan năng. Nó tập trung vào
một tác động duy nhất, tổng quát và tinh tuyền, và khi ấy, các
quan năng lìa bỏ những gì trƣớc đã dùng để tiến tới tình trạng
hiện đang đạt đƣợc. Cũng nhƣ xong đoạn đƣờng phải đi rồi thì
chân phải dừng lại, thôi bƣớc. Còn nếu cứ tiếp tục bƣớc mãi, thì
chẳng bao giờ tới nơi. Nếu tất cả chỉ là phƣơng tiện thì đến bao
giờ và đến đâu mới đạt tới mục tiêu và đích điểm?
7 – Cho nên thật tội nghiệp cho một số ngƣời, rất muốn
cho linh hồn đƣợc nghỉ ngơi và bình lặng trong sự thƣ thái nội
tâm để đƣợc hƣởng sự bình an và bổ dƣỡng của Thiên Chúa,
nhƣng họ lại cứ khuấy động linh hồn, bắt nó hƣớng ra những
điều nặng phần bên ngoài, buộc nó cứ phải lặp lại cách oan
uổng đoạn đƣờng đã qua, bỏ mất mục tiêu đã đạt đƣợc, bỏ mất
nơi đến mà nó đang đƣợc an nghỉ (là Thiên Chúa) để lặp lại
con đƣờng đã đi qua tức là việc nguyện gẫm suy lý. Điều đó
khiến linh hồn rất chán nản và ghê sợ, và nó chỉ thích đƣợc ở
trong sự bình an khôn tả kia nhƣ một nơi dành riêng cho nó. Nó
cực lòng chẳng khác nào một ngƣời đã vất vả lắm mới đạt tới
nơi an nghỉ mà bây giờ bị buộc phải chịu vất vả nữa.
Thiên Chúa đang ban cho họ những điều mới mẻ,
nhƣng họ không hiểu, cứ tƣởng mình đang ƣơn lƣời không
chịu làm việc, cho nên không để mình đƣợc an nghỉ, lại tìm
cách để xem xét và suy lý. Thế là họ chuốc lấy khô khan và
vất vả, uổng công tìm kiếm sự ngon ngọt ở nơi không còn
ngon ngọt gì cho họ nữa. Có thể nói rằng họ càng ép mình
càng ít đƣợc ích lợi; họ càng khƣ khƣ với cách thức đó, càng
QUYỂN 2 203

tệ hại vì đó là kéo linh hồn ra khỏi sự bình an tâm linh, và đó


là bỏ cái hơn để chọn cái kém, là lùi lại khởi điểm và mất
công làm lại điều đã làm xong đâu vào đấy.
8 – Phải giúp cho những ngƣời nhƣ thế hiểu rằng khi đã
đƣợc dẫn đến ơn chiêm niệm an tĩnh nhƣ vậy, họ phải biết ở
lại đó cách thật chú tâm và dán đôi mắt yêu mến vào Chúa,
đừng bận tâm gì đến trí tƣởng tƣợng và các hoạt động của
nó. Bởi vì, chúng tôi xin nhắc lại, ở đây các quan năng linh
hồn nghỉ ngơi, không còn làm việc cách tác động mà chỉ thụ
động, đón nhận điều Thiên Chúa thực hiện nơi chúng. Nếu
đôi khi chúng có hoạt động đôi chút, thì chẳng phải cố gắng
gì cũng không phải vận dụng khả năng suy lý, mà chỉ là với
sự dịu ngọt của tình yêu, chỉ là do Thiên Chúa thúc đẩy hơn
là do tài năng của linh hồn, nhƣ sẽ giải thích thêm sau.
Ở đây, điều chúng tôi đã nói có thể tạm đủ để giúp bạn
đọc hiểu rằng, đối với những ngƣời khao khát tiến xa hơn,
cần phải biết kịp thời gỡ mình khỏi tất cả những phƣơng thế
và cách thức cầu nguyện ấy, gỡ mình khỏi những công việc
của tƣởng tƣợng, đúng lúc mà bƣớc tiến của tình trạng hiện
nay yêu cầu và đòi hỏi.
9 – Và để giúp bạn biết đƣợc bao giờ và lúc nào thuận
tiện để làm việc ấy, ở chƣơng sau chúng tôi sẽ nêu rõ một số
dấu hiệu nơi chính bản thân mà ngƣời theo đƣờng tâm linh
phải nhận ra để biết rõ bao giờ và lúc nào thì có thể thôi
nguyện gẫm suy lý, ngƣng những công việc của trí tƣởng
tƣợng để tự do sử dụng phƣơng thức nói trên tức là cầu
nguyện an tĩnh.
204 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 13
Những dấu hiệu phải có *

Chương này trình bày những dấu hiệu người theo


đường tâm linh phải có nơi mình để nhờ đó mà nhận biết khi
nào nên bỏ nguyện gẫm suy lý để bước qua bậc chiêm niệm.
1 – Để học thuyết khỏi trở thành tối nghĩa, chƣơng này
xin dành để giúp bạn hiểu đƣợc vào giai đoạn nào và lúc nào
ngƣời theo đƣờng tâm linh nên bỏ lối nguyện gẫm suy lý (tức
là nguyện gẫm dựa theo những tƣởng tƣợng, mô hình và hình
ảnh nhƣ đã nói trên), không quá sớm hay quá muộn, so với
đòi hỏi của tâm linh. Ta cần rời bỏ chúng đúng lúc, không
chậm trễ, để khỏi bị chúng ngăn cản trên đƣờng đến với
Thiên Chúa; nhƣng không nên rời bỏ chúng quá sớm, e rằng
sẽ bị thụt lùi mất. Bởi vì, dù những nhận thức của các quan
năng ấy không là phƣơng thế trực tiếp giúp những ngƣời đã
tiến xa đƣợc nên một với Thiên Chúa, nhƣng vẫn có thể là
phƣơng thế dọn đƣờng giúp những ngƣời mới khởi đầu, có
thể nhờ giác quan mà thu xếp và tập cho tâm trí đƣợc quen
với những vấn đề tâm linh, đồng thời cũng giúp giác quan
đƣợc rảnh rang khỏi vƣớng vào những mô hình và nhận thức
thấp kém và mau qua thuộc tự nhiên và thế tục. Vì thế ở đây
chúng tôi xin nói về một số dấu chỉ và đặc điểm mà ngƣời
theo đƣờng tâm linh phải gặp thấy nơi bản thân để biết đƣợc
đã đến lúc lìa bỏ chúng hay chƣa.
2 – Dấu chỉ thứ nhất là thấy mình không còn có thể suy
niệm hoặc suy lý với trí tƣởng tƣợng, không thể nếm cảm
QUYỂN 2 205

chúng nhƣ trƣớc nữa. Trái lại, từ ít lâu nay cứ thấy khô khan
ngay ở điểm trƣớc đây thƣờng thu hút giác quan và đem lại
dịu ngọt. Thế nhƣng bao lâu còn cảm thấy dịu ngọt và có thể
suy lý trong nguyện ngắm thì đừng bỏ, cứ ở lại cho đến khi nào
linh hồn đƣợc sự bình an thƣ thái sẽ nói đến ở dấu chỉ thứ ba.

3 – Dấu chỉ thứ hai là thấy mình không còn tha thiết gì
với việc vận dụng trí tƣởng tƣợng và giác quan vào những
điều riêng rẽ khác, cả bên ngoài lẫn nội tâm. Tôi không bảo
rằng phải đợi đến lúc trí tƣởng tƣợng không còn bay nhảy đó
đây (vì ngay cả khi ta lắng lòng tối đa, nó vẫn cứ rong chơi),
nhƣng là linh hồn chẳng thích thú gì trong việc tận dụng nó
vào các điều ấy.
4 – Dấu chỉ thứ ba và chắc chắn nhất là, linh hồn
thích thú đƣợc ở một mình với Thiên Chúa, đƣợc đắm đuối
ngắm nhìn Ngài mà không cần một suy xét riêng nào cả,
chỉ nhìn Ngài trong bình an nội tâm, thƣ thái và nghỉ ngơi;
các quan năng, dạ nhớ, trí hiểu và lòng muốn chẳng phải
làm một động tác hay một thao luyện nào, (tôi muốn nói về
những động tác có giá trị suy lý, đi từ ý này sang ý khác),
chỉ có sự chú tâm và nhận thức tổng quát đầy trìu mến nhƣ
đã nói, mà không cần một sự hiểu biết hay am tƣờng về
một điều gì riêng.

5 – Ngƣời theo đƣờng tâm linh phải gặp thấy nơi bản
thân ít là ba dấu chỉ ấy hợp lại mới có thể an tâm lìa bỏ bậc
nguyện gẫm suy lý theo giác quan để bƣớc vào bậc chiêm
niệm thuần túy tâm linh.
206 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

6 – Chỉ có dấu hiệu thứ nhất mà không có dấu hiệu thứ


hai thì chƣa đủ, vì lắm khi tình trạng không thể tƣởng tƣợng
và suy niệm những điều thuộc về Thiên Chúa nhƣ trƣớc đã
quen, là do sự chia trí và thiếu lắng lòng. Do đó còn phải
thấy cả dấu chỉ thứ hai, tức là không còn tha thiết lƣu luyến
gì với việc nghĩ đến những chuyện xa lạ khác; vì nếu là do
chia trí và thiếu lắng lòng mà không thể vận dụng tƣởng
tƣợng và giác quan để suy về Thiên Chúa, thì tức khắc linh
hồn sẽ thích quay sang những chuyện khác, và tìm ra đủ lý
do để bỏ cầu nguyện.
Nếu chỉ có dấu hiệu thứ nhất và thứ hai thôi cũng
không đủ, cần phải có cả dấu hiệu thứ ba nữa. Bởi vì, mặc dù
thấy mình không thể suy lý hoặc tƣởng nghĩ tới những sự
thật thuộc về Thiên Chúa, và cũng không ham nghĩ tới những
điều gì khác, nhƣng tình trạng ấy vẫn có thể là do tính đa sầu
hoặc do khí huyết xấu của tim óc gây cho giác quan một sự
chán chê hoặc ngƣng trệ, chẳng còn nghĩ gì, muốn gì, và
cũng chẳng còn thiết nghĩ đến chuyện gì khác, chỉ muốn ở lại
trong tình trạng lửng lơ êm ái ấy thôi. Để đề phòng ảo tƣởng
ấy, ngƣời theo đƣờng tâm linh cần phải có dấu hiệu thứ ba,
tức là một nhận thức và chú tâm trìu mến trong bình an, nhƣ
đã nói trên.
7 – Quả thật, trong những bƣớc đầu của bậc này, hầu
nhƣ ngƣời ta không nhận ra mình đang có một nhận thức đầy
yêu mến, vì hai lý do: Một đàng, vì trong những bƣớc đầu,
sự nhận thức đầy yêu mến này, thƣờng rất tinh vi, tế nhị và
hầu nhƣ vô cảm giác; đàng khác, vì linh hồn đã quá quen với
cách tập nguyện ngắm kia, nên không nhận ra và hầu nhƣ
QUYỂN 2 207

không cảm thấy sự mới mẻ này, vừa vô cảm giác vừa thuần
túy tâm linh. Điều này xảy ra nhất là khi linh hồn vì không
hiểu điều ấy nên không để cho mình đƣợc yên nghỉ ở đó, cứ
lo tìm cái gì khác dễ cảm hơn; cho nên mặc dù đang đƣợc
chan hòa sự bình an nội tâm đầy yêu mến, linh hồn vẫn
không quan tâm cảm nhận và vui hƣởng. Tuy nhiên, linh hồn
càng quen ở yên lặng, sự nhận thức tổng quát đầy yêu mến
ấy về Thiên Chúa càng gia tăng, linh hồn càng cảm nhận
đƣợc và càng thích thú về điều ấy hơn mọi điều khác, bởi vì
nó đem lại cho linh hồn sự bình an, nghỉ ngơi, ý vị và hoan
lạc mà không cần phải vất vả.
Để vấn đề đƣợc sáng rõ hơn, trong chƣơng tiếp theo
chúng tôi sẽ trình bày thêm những nguyên nhân và lý do tại
sao những dấu chỉ nêu trên lại cần thiết để tiến bƣớc trên
đƣờng tâm linh.
208 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 14
Cần có đủ ba dấu hiệu*

Chương này minh chứng sự thích đáng của ba dấu


hiệu và giải thích tại sao cần phải có đủ ba dấu hiệu ấy
mới tiến bước.
1 – Chúng ta trở lại dấu hiệu thứ nhất trên đây. Để
bƣớc vào đƣờng tâm linh tức là bậc chiêm niệm, ngƣời
sống theo tâm linh cần phải bỏ phƣơng pháp tƣởng tƣợng
của suy niệm theo giác quan kể từ khi thấy chán ngán
không còn suy luận đƣợc nữa. Sự kiện chán ngán không
còn suy luận đƣợc nhƣ thế có hai lý do mà thật ra chỉ là
một. Lý do thứ nhất là vì, qua con đƣờng nguyện gẫm và
suy lý, một cách nào đó linh hồn đã nhận đƣợc tất cả điều
tốt về mặt tâm linh cần tìm nơi các sự thật về Thiên Chúa.
Một đàng, linh hồn không còn thể nào nguyện gẫm và suy
lý đƣợc nhƣ trƣớc, và không còn thấy thích thú ngọt ngào
gì ở đó nhƣ trƣớc nữa, đàng khác, cho tới lúc ấy, linh hồn
chƣa đạt tới tình trạng tâm linh đang dọn sẵn cho nó, cho
nên nó chán ngán. Thật vậy, theo lẽ thƣờng mỗi khi linh
hồn tiếp nhận một ơn lành tâm linh, thì ít là về mặt tâm
linh nó phải thấy hài lòng về cái phƣơng thế đem lại ơn
lành ấy. Nếu không, thật khó hiểu đƣợc làm sao ơn lành ấy
có thể sinh ích lợi cho nó, hoặc làm sao nó có thể tìm đƣợc
nơi ơn lành ấy sự nâng đỡ và ý vị mà nó đã không nếm
đƣợc khi tiếp nhận ơn ấy? Bởi vì các triết gia có nói: Có
ngon mới bổ. Ông Gióp cũng có nói: Làm sao ăn được
thức ăn nhạt thếch, chẳng ướp muối (G 6,6). Đó là nguyên
nhân khiến linh hồn không còn có thể nguyện gẫm và suy
QUYỂN 2 209

lý nhƣ trƣớc: Tâm linh không còn thấy nó dịu ngọt và ích
lợi bao nhiêu.
2 – Lý do thứ hai là vì, đến giai đoạn này, về cơ bản,
linh hồn đã có đƣợc ơn nguyện gẫm nhƣ một thói quen.
Mục đích việc nguyện gẫm và suy lý về những điều thuộc
về Thiên Chúa, chính là để đƣợc thêm hiểu biết và yêu
mến Thiên Chúa. Mỗi lần linh hồn nhờ nguyện gẫm mà gặt
hái đƣợc sự hiểu biết và yêu mến ấy, là nó đã làm xong
đƣợc một tác động. Rồi cũng nhƣ trong các lãnh vực khác,
tác động nào đƣợc lặp đi lặp lại nhiều thì sau cùng sẽ gây
nên một thói quen. Việc lặp lại tác động hiểu biết và yêu
mến này cũng sẽ dần dần tạo thành nếp, đƣa linh hồn tới
một thói quen. Về phía Thiên Chúa, Ngài cũng thƣờng gây
nên kết quả ấy nơi nhiều linh hồn mà không qua các động
tác ấy (hoặc ít ra là không cần chuẩn bị nhiều), nhƣng ngay
lập tức đã đƣa họ vào chiêm niệm. Điều trƣớc đây thỉnh
thoảng linh hồn mới gặt hái đƣợc nhờ vất vả suy gẫm
những sự thật riêng rẽ, thì từ nay đƣợc thực hiện nhờ nếp
quen. Nó trở nên một nhận thức đã đƣợc lập thành nhƣ một
thói quen, tự bản chất là một nhận thức chung chung đầy
yêu mến, không còn tách biệt và riêng rẽ nhƣ trƣớc nữa.
Nhờ đó, mỗi lần bắt đầu cầu nguyện, linh hồn nhƣ thể
ngƣời đã có sẵn nƣớc trong tay, sẽ uống ngay cách ngon
lành khoan khoái, không phải vất vả gì, không phải nhọc
công quay kéo lấy nƣớc, tức là không cần đến những suy
xét, hình sắc hay hình ảnh nhƣ trƣớc nữa. Có thể nói, vừa
đặt mình trƣớc nhan Thiên Chúa, linh hồn đã có đƣợc ngay
tác động nhận thức đầy yêu mến, bình an và thƣ thái, ở đó
nó uống đƣợc sự khôn ngoan, mến yêu và dịu ngọt.
210 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

3 – Đó là nguyên nhân khiến giờ đây linh hồn hết sức


khổ sở và chán ngán, vì nó đã đƣợc yên nghỉ nhƣ thế rồi mà
lại bắt nó phải suy gẫm và vất vả với những ghi nhận riêng
rẽ. Chẳng khác nào tình cảnh một em bé, đang bú ngon lành
sữa mẹ đã tụ sẵn ở đầu vú, lại bị buộc phải nhả ra để quay lại
với việc nắn bóp, vắt ép, làm tích tụ sữa. Cũng chẳng khác
nào kẻ đã lột vỏ một trái cây và đang hƣởng nếm chất ngọt
mà lại bị buộc phải buông ra để tìm cách lột cái vỏ đã bị lột
mất rồi; chẳng những không còn tìm thấy vỏ mà còn phải bỏ
mất việc hƣởng nếm cái ngon ngọt đã có trong tay. Đúng là
bỏ mồi bắt bóng.
4 – Rất nhiều ngƣời mới bƣớc vào bậc này đã phản
ứng nhƣ thế. Họ tƣởng rằng trọng tâm của vấn đề là phải
tập trung vào chỗ suy lý và hiểu đƣợc những điều riêng lẻ
nhờ những hình ảnh và mô hình, mà thật ra đó chỉ là lớp vỏ
của thực tại tâm linh. Vì không tìm đƣợc những điều ấy
trong sự an tĩnh cốt yếu và đầy yêu thƣơng này (nơi linh
hồn rất muốn ở lại nhƣng lại không hiểu đƣợc cho rõ), họ
nghĩ mình đang bị hỏng mất và đang mất thời giờ. Thế là họ
quay lại tìm cái vỏ của những hình ảnh và suy lý, nhƣng
chúng đâu còn đó nữa mà tìm! Không nếm hƣởng đƣợc điều
cốt yếu mà cũng không tìm lại đƣợc việc nguyện gẫm, họ
đâm ra bối rối, tƣởng mình đã thụt lùi và đang bị mất mát.
Đúng ra là họ có bị mất mát thật, nhƣng không nhƣ họ
tƣởng. Họ bị mất mát về phía các giác quan và về cách thế
sơ khởi của họ trong việc cảm nghiệm; nhƣng chính nhờ
vậy mà họ lợi đƣợc hoa quả tâm linh đang đƣợc trút xuống
cho họ. Qua đó, họ càng hiểu đƣợc ít, thì càng đi sâu vào
đêm tối tâm linh mà chúng tôi đang bàn đến trong sách này
QUYỂN 2 211

và là đêm họ phải vƣợt qua để nên một với Thiên Chúa,


vƣợt trên hết mọi nhận thức.
5 – Về dấu hiệu thứ hai, không cần phải nói nhiều. Đến
lúc này, linh hồn không thể nào hài lòng với những hình ảnh
mang tính thế gian. Nhƣ đã nói trên, ngay cả những hình ảnh
phù hợp với nó hơn, tức là những hình ảnh về Thiên Chúa,
linh hồn còn không nếm cảm đƣợc nữa huống chi là những
hình ảnh phàm tục. Nhƣ đã nói trên, giữa lúc đang lắng đọng
nhƣ thế, trí tƣởng tƣợng vẫn thƣờng bay nhảy biến thiên, tuy
nhiên linh hồn không thấy thích thú hay ham muốn gì, ngƣợc
lại chỉ thấy khổ sở, vì sự bình an thƣ thái và dịu ngọt của nó
bị xáo trộn.
6 – Dấu hiệu thứ ba thích hợp và cần có để có thể rời bỏ
việc nguyện gẫm suy lý mà tiến vào chiêm niệm an tĩnh, là sự
nhận thức chung chung đầy yêu mến tập trung vào Thiên Chúa.
Về dấu hiệu này tƣởng cũng không cần nhấn mạnh ở đây, bởi
vì chúng tôi đã có giúp bạn đọc hiểu đƣợc phần nào khi bàn về
dấu hiệu thứ nhất, và sau này khi đã trình bày xong hẳn về các
nhận thức cụ thể của trí hiểu, chúng tôi cũng sẽ còn phải bàn
thêm, ở chỗ nói về nhận thức chung chung và mờ mịt về Thiên
Chúa. Tạm thời, chúng tôi chỉ nêu một lý do cho thấy rõ vì sao
khi muốn rời bỏ bậc nguyện gẫm suy lý, ngƣời chiêm niệm cần
phải có sự nhận thức chung chung đầy yêu mến tập trung vào
Thiên Chúa. Chính là vì nếu lúc ấy linh hồn không có đƣợc sự
hiểu biết và ở với Thiên Chúa nhƣ thế, nó sẽ không làm gì cả
và không có đƣợc gì cả. Thật vậy, vừa bỏ mất sự nguyện gẫm
là phƣơng cách giúp linh hồn suy lý bằng các quan năng cảm
giác, vừa không có đƣợc sự chiêm niệm, tức là sự nhận thức
212 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chung chung nói trên, là chỗ cho các quan năng tâm linh hoạt
động (gồm có dạ nhớ, trí hiểu và lòng muốn, đƣợc liên kết
trong sự hiểu biết mà Chúa dọn sẵn và trao ban qua ba quan
năng này), thì nhất định linh hồn sẽ bị cắt đứt mọi việc thao
luyện hƣớng đến Thiên Chúa. Bởi lẽ linh hồn chỉ có thể hành
động, tiếp nhận và kiên trì trong hoạt động của nó nhờ qua các
quan năng cảm giác và tâm linh. Nhƣ đã nói, phải qua các quan
năng cảm giác, linh hồn mới có thể suy luận, tìm kiếm và vận
dụng những nhận thức về điều này điều nọ. Qua các quan năng
tâm linh, linh hồn có thể vui hƣởng những hiểu biết đã nhận
đƣợc nơi các quan năng này mà không cần bắt các quan năng
này phải vất vả.
7 – Sự khác biệt giữa việc vận dụng hai loại quan đi
năng chẳng khác nào sự khác biệt giữa lúc làm việc và lúc
vui thỏa vì công việc đã xong, khác biệt giữa cảnh đƣờng
mệt nhọc và cảnh nghỉ ngơi nhàn nhã khi đã đến nơi, hoặc
giữa việc nấu ăn và việc nếm những thức ăn đã dọn ra và
nghiền sẵn hay là giữa việc góp nhặt và việc tận dụng những
gì đã góp nhặt đƣợc.
Nếu linh hồn chẳng động chạm gì đến các quan năng
cảm giác, tức là nguyện gẫm và suy lý, cũng chẳng dính líu
gì đến điều đã đƣợc tiếp nhận và thực hiện nơi cái quan năng
tâm linh, tức là sự chiêm niệm và nhận thức chung chung đã
nói trên, cứ vô công rỗi nghề với cả hai loại quan năng ấy, thì
làm sao có thể nói linh hồn đang bận bịu? Bận bịu thế nào
đƣợc? Cho nên cần kíp linh hồn phải có đƣợc sự nhận thức
chung chung kia đã rồi mới đƣợc rời bỏ con đƣờng nguyện
gẫm và suy lý.
QUYỂN 2 213

8 – Nên biết rằng sự nhận thức chung chung chúng tôi


nói đây, lắm khi rất tinh vi tế nhị, nhất là khi nó thật tinh
ròng, đơn giản và hoàn hảo, nặng tính tâm linh và nội tâm
hơn, đến nỗi dù linh hồn có tập trung chú ý vẫn không thấy,
không cảm đƣợc nó. Nơi một linh hồn tinh tuyền, không bị
chi phối vì những ý tƣởng và khái niệm cụ thể mà các giác
quan và trí hiểu dễ nhận biết, thì nhận thức ấy càng khó đƣợc
nhận biết. Trƣớc đây nhờ những đối tƣợng quen thuộc với trí
hiểu và các giác quan thì linh hồn nhận biết đƣợc, giờ đây
không còn những đối tƣợng khả giác quen thuộc ấy nữa thì
linh hồn không sao có đƣợc những hiểu biết nói trên. Đó là
lý do khiến cho nhận thức chung chung ấy càng tinh ròng,
hoàn hảo và đơn giản, thì càng có vẻ tối tăm đối với trí hiểu
hơn và trí hiểu càng không cảm nhận đƣợc nó. Trái lại, nó
càng kém tinh ròng và kém giản dị khi lọt vào trí hiểu, lại
càng sáng rõ và dễ đƣợc trí hiểu nắm bắt hơn, bởi lẽ lúc ấy
nó đƣợc khoác áo, đƣợc pha trộn, đƣợc biến đổi thành một số
mô hình dễ hiểu nào đó giúp trí hiểu và giác quan có thể nắm
bắt đƣợc.
9 – Ta có thể hiểu rõ điểm ấy hơn qua sự so sánh sau
đây. Nhìn một tia nắng lọt qua khe cửa, ta thấy tia sáng ấy
càng gặp phải nhiều bụi bặm thì lại càng có vẻ nhƣ đang
chạm tới đƣợc và cảm giác đƣợc; càng nổi rõ hơn đối với thị
giác. Tuy nhiên ta cũng thấy rõ là lúc đó bản thân tia sáng ấy
bị kém tinh ròng, kém trong sáng, kém giản dị và kém hoàn
hảo bởi vì chứa đầy bụi bặm. Đồng thời ta cũng thấy rằng tia
sáng ấy càng sạch bụi bặm lại càng khó cảm thấy, và có vẻ
nhƣ càng tăm tối đối với cặp mắt trần của ta. Nó càng trong
suốt, càng có vẻ tăm tối và khó nắm bắt đƣợc. Nếu tia sáng
214 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ấy hoàn toàn tinh ròng, tuyệt không có một hạt bụi nhỏ xíu
nào, thì lúc đó đối với mắt ta nó sẽ có vẻ hoàn toàn tăm tối
và không thể nhận ra đƣợc, bởi vì thiếu hẳn các vật thể hữu
hình làm đối tƣợng cho thị giác. Nghĩa là, mắt không tìm gặp
vật gì để quan sát, bởi vì ánh sáng không phải là đối tƣợng
của thị giác cách tầm thƣờng nhƣng là phƣơng tiện giúp thị
giác thấy đƣợc những vật hữu hình. Nếu không có những vật
hữu hình phản chiếu ánh sáng, ta sẽ chẳng thấy gì cả. Vì thế,
nếu một tia sáng vào bằng cửa này rồi ra bằng cửa khác, mà
không gặp một vật thể nào, ngƣời ta sẽ không thấy gì hết.
Hiểu nhƣ thế, tia sáng càng tinh ròng và trong suốt thì khi
chứa đầy những vật hữu hình, lại càng đƣợc thấy rõ và đƣợc
cảm nghiệm rõ hơn.
10 – Ánh sáng tâm linh đối với trí hiểu cũng vậy. Trí
hiểu chẳng khác nào thị giác của linh hồn. Nhận thức chung
chung và ánh sáng siêu nhiên đang nói đây, ùa vào thật tinh
ròng và đơn giản, trần trụi và xa hẳn mọi mô hình khả tri có
thể làm đối tƣợng cho trí hiểu, cho nên trí hiểu không cảm và
không thấy đƣợc. Trái lại, lắm khi nó còn gây tăm tối cho trí
hiểu (nhất là khi nó thật tinh ròng), vì nó cách ly trí hiểu khỏi
những ánh sáng quen thuộc, tức là những mô hình và tƣởng
tƣợng, khiến cho trí hiểu thấy mình chìm trong tăm tối.
Nhƣng có khi ánh sáng thần linh ấy không xâm chiếm linh
hồn cách quyết liệt nhƣ vậy. Bấy giờ linh hồn không cảm
thấy tăm tối cũng không thấy đƣợc ánh sáng mà cũng không
hiểu đƣợc gì về những điều đã nhận biết đây đó, lắm khi linh
hồn nhƣ chìm vào trong một sự quên lãng sâu thẳm, đến nỗi
chẳng biết mình đã ở đâu và đã làm gì, thời gian có vẻ nhƣ
ngừng lại. Cho nên có thể xảy ra là linh hồn chìm vào quên
QUYỂN 2 215

lãng nhƣ thế suốt nhiều giờ và khi sực nhớ lại thì tƣởng đâu
chỉ mới một chốc lát hoặc chƣa có gì cả.
11 – Nguyên nhân sự quên lãng này là vì nhận thức
chung chung ấy quá tinh ròng và đơn giản. Khi xâm chiếm
linh hồn, nó cũng khiến linh hồn thành đơn giản tinh ròng và
trong suốt, không bị ràng buộc vì những nhận thức và hình
thức mà qua đó các giác quan và dạ nhớ (ký ức) thƣờng hoạt
động khi còn ý thức về thời gian. Và nhƣ thế, nhận thức ấy
đã khiến linh hồn rơi vào tình trạng quên lãng, mất ý thức về
thời gian.
Do đó, nhƣ chúng tôi đã xác định, mặc dù việc tâm
nguyện này diễn ra lâu giờ, các linh hồn ấy dƣờng nhƣ vẫn
cảm thấy ngắn ngủi vì đã đƣợc nên một với cái nhận thức
tinh tuyền vốn siêu vƣợt thời gian. Có thể nói rằng lời kinh
nguyện ấy tuy vắn vỏi nhƣng xuyên thủng các tầng trời (Hc
35,17); vắn vỏi là bởi vì nó không nằm trong thời gian, còn
xuyên thủng các tầng trời là bởi vì linh hồn đã đƣợc nên một
với sự hiểu biết thuộc thiên giới. Chỉ khi hồi tỉnh, các linh
hồn này mới nhận ra những hậu quả mà sự hiểu biết ấy mang
lại, mặc dù trƣớc đó họ không hề ý thức về điều đó, tâm trí
họ đƣợc thăng hoa đạt đến sự hiểu biết thuộc thiên giới, thoát
ra khỏi hình ảnh trừu tƣợng của mọi vật, mọi hình thể, kể cả
sự ghi nhớ về chúng.
Đây là cảm nghiệm từng đƣợc vua thánh Đavít tuyên
bố khi ngài hồi tỉnh từ sự quên lãng này: Suốt năm canh trằn
trọc, phận như chim lạc đàn đậu mái hiên (Tv 102,8). Đavít
bị cô đơn bởi vì cảm thấy xa lạ với hình ảnh đến từ các sự
vật. Trên mái hiên ám chỉ tâm trí đƣợc nâng cao, kết quả là
216 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

linh hồn nhƣ thể rơi vào tình trạng ngu dốt không còn biết
bất cứ sự vật gì ngoại trừ Thiên Chúa, dù linh hồn vẫn không
hiểu làm sao mình lại nhận biết đƣợc Ngài. Chính điều này
đã khiến Tân Nƣơng trong sách Diễm Ca khi đến với Đức
Lang Quân đã thốt lên: Tôi đã chẳng hề biết (Dc 6,12), tức
là, ngoài những hậu quả khác mà giấc ngủ và sự quên lãng ấy
gây nên, nàng không còn nhận biết đƣợc gì cả.
Nhƣ chúng tôi đã đề cập, khi bị nhận thức ấy xâm
chiếm, linh hồn dƣờng nhƣ cảm thấy biếng nhác vì không
làm gì cả với các giác quan hoặc quan năng của nó. Tuy
nhiên, không đƣợc nghĩ rằng linh hồn ấy đang phung phí
thời gian bởi vì dầu cho sự tƣơng tác hòa điệu giữa các
quan năng cảm giác và tâm linh ngừng lại thì trí hiểu vẫn bị
nhận thức ấy xâm chiếm theo cách thức chúng tôi đã giải
thích. Thảo nào vị tân nƣơng đầy khôn ngoan trong Diễm
Ca đã trả lời cho một trong các ngờ vực của nàng nhƣ sau:
Tôi ngủ nhưng lòng tôi vẫn thức (Dc 5,2) nghĩa là dầu xét
về mặt tự nhiên tôi đang ngủ - tức ngƣng làm việc - nhƣng
về mặt siêu nhiên tim tôi vẫn thức vì nó đang đƣợc nâng lên
tầm nhận thức siêu nhiên.
12 – Tuy nhiên chớ nên tƣởng rằng nhận thức này nhất
thiết phải gây ra sự quên lãng nêu trên. Sự quên lãng chỉ xảy
ra khi Thiên Chúa tƣớc bỏ không cho linh hồn sử dụng các
quan năng tự nhiên và tâm linh. Không phải lúc nào nhận
thức này cũng xâm chiếm toàn vẹn linh hồn, do đó không
phải lúc nào cũng xuất hiện sự quên lãng ấy. Nhƣ thế, nhận
thức chúng ta đang bàn đây chỉ đòi loại khỏi trí hiểu mọi
nhận thức cụ thể thuộc lãnh vực trần thế hoặc tâm linh; và
QUYỂN 2 217

cũng đòi lòng muốn không đƣợc suy nghĩ gì đến những điều
ấy. Lúc đó chúng ta có đƣợc dấu chỉ cho thấy linh hồn đã
đƣợc Thiên Chúa chiếm hữu.
Dấu chỉ này cần thiết để giúp nhận ra nhận thức ấy khi
nó chỉ thông giao với riêng trí hiểu, bởi vì đôi khi vẫn xảy ra
những điều này mà linh hồn lại không nhận thấy. Tuy nhiên,
khi nào có cả sự thông giao với lòng muốn - điều này hầu
nhƣ luôn luôn xảy ra - nếu linh hồn muốn phân biện thì chắc
chắn ít nhiều cũng hiểu rằng mình đang bị nhận thức ấy xâm
chiếm. Linh hồn sẽ nhận ra hƣơng vị ngọt ngào của tình yêu
mặc dù không hiểu rõ về những gì mình đang yêu mến. Do
đó, linh hồn sẽ gọi điều ấy là một nhận thức chung chung
đầy yêu mến.
Quả thế, sự thông giao này đƣợc gọi là nhận thức chung
chung đầy yêu mến vì nó đƣợc thông ban cho trí hiểu một
cách tăm tối, đồng thời lòng muốn cũng đƣợc ban cho một
thứ hoan lạc yêu thƣơng mơ hồ mà không phân biện rõ ràng
đƣợc những gì linh hồn đang mến yêu.
13 – Đến đây, thiết tƣởng việc giải thích nêu trên đủ
giúp chúng ta thấy rằng linh hồn cần hiểu rõ nhận thức này
trƣớc khi phải rời bỏ con đƣờng nguyện gẫm suy lý, đồng
thời cũng đảm bảo cho chúng ta rằng mặc dù bề ngoài có vẻ
uể oải song thực sự linh hồn đang hoạt động tốt nếu nhận ra
đƣợc ba dấu chỉ nêu trên. Việc giải thích này cũng đủ để giúp
ta hiểu rằng nếu cách biểu lộ của luồng sáng này có vẻ dễ
nắm bắt hơn thì chƣa hẳn là dấu chỉ cho thấy nó thanh khiết,
cao vời và trong sáng hơn, nhƣ chúng ta đã diễn tả trên kia
qua ví dụ về tia nắng mặt trời khi chạm phải những hạt bụi
218 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thì nhờ đó mắt ta lại dễ trông thấy hơn. Vậy rõ ràng là, theo
nhƣ triết gia Aristoteles và các thần học gia đã xác nhận, ánh
sáng thần linh càng cao vời thì càng tăm tối đối với trí hiểu
của chúng ta.
14 – Ta còn có thể nói nhiều về bản chất nhận thức thần
linh này cũng nhƣ những hiệu quả nó mang lại cho linh hồn.
Tuy nhiên xin để đến một chỗ thích hợp sẽ nói sau vì bàn
luận dài dòng về ở đây chỉ khiến cho học thuyết này càng
thêm tối tăm. Quả thực tôi xin thú nhận, điều này rất đỗi tối
tăm. Một đàng, nhận thức này là một đề tài hiếm khi đƣợc
bàn đến theo kiểu này xét về ngôn từ cũng nhƣ lối viết, vì tự
thân đây là một điều bất thƣờng và tăm tối. Đàng khác, lối
viết vụng về và thiếu kiến thức của tôi càng làm nó tăm tối
thêm. Bởi sợ mình thiếu khả năng giải thích về điểm này,
nên tôi cứ thƣờng vƣợt ra quá giới hạn của phần học thuyết
mình đang trình bày. Nhƣng tôi xin thú nhận, đôi khi tôi cố ý
làm nhƣ thế bởi vì có thể lắm ngƣời chƣa hiểu lý do mình
vừa nêu ra nhƣng biết đâu mình nêu ra những lý do khác lại
giúp họ hiểu đƣợc. Vì thế, tôi nghĩ rằng sử dụng lối trình bày
nhƣ thế sẽ làm sáng tỏ hơn cho những giải thích kế tiếp.
15 – Tóm lại, tôi cho rằng cần phải giải đáp cho vấn
nạn liên quan đến tính cách liên tục của nhận thức chung
chung nói trên. Và tôi sẽ thực hiện điều này một cách vắn
gọn ở chƣơng kế tiếp.
QUYỂN 2 219

Chương 15
Khi mới tiếp cận*

Khi mới tiếp cận với việc chiêm niệm bằng nhận thức
chung chung này, cả những người đã tiến khá xa thỉnh
thoảng vẫn phải thực hành lối nguyện gẫm suy lý và sử dụng
các quan năng tự nhiên.
1 – Từ những vấn đề đƣợc bàn luận có thể lắm ngƣời tự
hỏi không hiểu những linh hồn đã tiến bộ (tức những ngƣời
bắt đầu đƣợc Thiên Chúa đƣa vào lối chiêm niệm thông hiểu
siêu nhiên này) khi đã cảm nghiệm lối chiêm niệm ấy có bao
giờ còn quay lại thực hành lối suy niệm suy lý cũng nhƣ có
còn sử dụng những hình thức tự nhiên nữa không? Xin thƣa
là chúng tôi không chủ trƣơng rằng những ai bắt đầu có đƣợc
nhận thức chung chung đầy yêu mến ấy, đừng bao giờ cố
gắng suy niệm trở lại. Thật vậy, khi bắt đầu tình trạng mới
này, họ chƣa tạo đƣợc thói quen chiêm niệm theo cách này
để có thể thực hiện nó theo ý muốn, cũng nhƣ họ vẫn chƣa
quá xa lìa việc suy gẫm kia. Do đó, đôi khi họ vẫn có thể
nguyện gẫm suy lý theo một cách tự nhiên nhƣ trƣớc đó, qua
các hình thức và mầu nhiệm quen thuộc, đồng thời khám phá
ra ở đấy đôi điều mới mẻ. Quả thế, dựa vào các dấu chỉ đƣợc
nêu trên, chúng ta thấy rằng linh hồn chƣa đƣợc đƣa vào sự
yên nghỉ và thông hiểu thần linh thì vẫn cần vận dụng việc
suy lý cho tới khi đạt đƣợc thói quen chiêm niệm ở một mức
độ hoàn hảo nào đó. Dấu hiệu của mức độ hoàn hảo là ở chỗ
khi nào linh hồn định suy gẫm thì lập tức đạt tới sự thông
hiểu và an bình ấy, đồng thời không sao còn có thể suy gẫm
220 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hay ƣớc muốn suy gẫm nữa. Bao lâu chƣa đạt tới đƣợc tình
trạng ấy, tức tình trạng của những ngƣời đã tiến bộ trong
chiêm niệm, các linh hồn còn dùng cả hai lối, suy gẫm hoặc
chiêm niệm, tùy từng lúc khác nhau.
2 – Thƣờng thì linh hồn sẽ thấy mình sống trong tình
trạng đầy yêu thƣơng và an bình nói trên mà chẳng cần phải
dùng đến các quan năng tƣơng ứng với từng việc, chẳng cần
phải chủ động làm gì mà chỉ việc lãnh nhận. Tuy nhiên, để
tiến vào tình trạng ấy, thƣờng linh hồn cũng thấy cần đƣợc
sự giúp đỡ nhẹ nhàng và êm dịu của suy gẫm.
Nhƣng một khi đã đƣợc đặt vào đó, thì nhƣ chúng tôi đã
lƣu ý, linh hồn sẽ không còn dùng gì đến các quan năng nữa.
Nói chính xác hơn, vào lúc này, công cuộc nơi linh hồn đã
xong, sự thông hiểu và niềm hoan lạc phát sinh nơi linh hồn
mà linh hồn chẳng cần làm bất cứ điều gì ngoại trừ chăm chú
yêu mến Thiên Chúa và giữ mình khỏi mong muốn cảm nhận
hoặc nhìn thấy bất cứ điều gì khác. Linh hồn chẳng cần phải
làm gì ngoại trừ việc mở to đôi mắt thụ động lãnh nhận ánh
sáng. Việc nhận lãnh ánh sáng đƣợc truyền vào linh hồn cách
siêu nhiên đƣợc xem nhƣ là một sự thông hiểu thụ động. Vì
thế khi xác nhận rằng các linh hồn này chẳng làm gì cả thì
không có nghĩa là họ không còn khả năng am hiểu; đúng ra
chỉ muốn nói rằng họ am hiểu những điều đƣợc trao ban mà
chẳng phải nhọc công gì cả giống nhƣ điều vẫn thƣờng xảy ra
khi Thiên Chúa thông ban các cuộc khải thị hoặc linh ứng.
3 – Mặc dù ở đây lòng muốn đƣợc tự do lãnh nhận cái
nhận thức chung chung và mờ mịt này về Thiên Chúa, nhƣng
QUYỂN 2 221

nếu muốn nhận đƣợc thứ ánh sáng thần linh này cách đơn
giản và dồi dào hơn, ta không nên xen vào đó những thứ ánh
sáng dễ thấy khác qua các hình thể, hoặc các hình ảnh của
nguyện gẫm suy lý bởi lẽ không một loại ánh sáng cụ thể nào
trong các loại này có thể sánh ví với ánh sáng thanh quang và
tinh tuyền ấy. Do đó, nếu cứ ao ƣớc theo dõi và tìm hiểu
những điều cụ thể, dù chúng mang tính tâm linh đi nữa, linh
hồn sẽ gây trở ngại cho thứ ánh sáng chung chung, tinh tuyền
và đơn giản ấy của tâm linh, nhƣ thể cho mây mù xen vào
đó, nhƣ thể đem vật chắn đặt trƣớc mắt, khiến không thấy
đƣợc ánh sáng và cảnh vật đàng trƣớc.
4 – Nhƣ thế rõ ràng một khi linh hồn đã thanh tẩy và
loại bỏ hết mọi hình sắc và mọi hình ảnh có thể nhận biết
đƣợc, nó sẽ đƣợc cƣ ngụ trong thứ ánh sáng tinh tuyền và
đơn giản này, và đƣợc hoàn toàn biến đổi nên ánh sáng
này. Thứ ánh sáng này không hề thiếu trong linh hồn
nhƣng chỉ vì linh hồn bị các hình sắc và các bức màn thụ
tạo che phủ và cản ngăn, cho nên không tuôn trào ra đƣợc.
Nếu linh hồn loại bỏ hết các chƣớng ngại và các màn che
ấy, đồng thời biết sống trong sự trần trụi và nghèo khó tâm
linh – nhƣ chúng tôi sẽ cắt nghĩa sau – thì với tình trạng
đơn sơ tinh tuyền ấy, linh hồn sẽ tức khắc đƣợc biến đổi
nên Đức Khôn Ngoan đơn giản và tinh tuyền, tức là chính
Con Thiên Chúa. Bởi lẽ không thể nào linh hồn lại ở trong
tình trạng trống không, vô chủ, cho nên một khi những
điều tự nhiên bị loại khỏi linh hồn đang say mến, thì những
gì thuộc về Thiên Chúa sẽ tuôn vào ngay, một cách vừa tự
nhiên lẫn siêu nhiên.
222 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

5 – Khi không thể suy gẫm đƣợc, ngƣời sống theo tâm
linh nên học biết chú tâm trìu mến ở lại trƣớc nhan Chúa với
tâm hồn thanh thản dù lúc này có vẻ nhƣ đang ở trong tình
trạng biếng nhác. Chẳng bao lâu sự an bình thanh tịnh thần
linh cùng nhận thức điều kỳ diệu siêu việt về Thiên Chúa và
nhuốm đầy tình yêu thƣơng của Ngài sẽ dần dần tràn ngập
linh hồn họ. Họ không nên bám lấy những hình thức nguyện
gẫm suy lý hoặc tƣởng tƣợng nữa, bằng không linh hồn sẽ bị
bất an, bị lôi ra khỏi sự mãn nguyện an bình đã có và bị rơi
vào sự chán ngán và nhờm gớm. Nếu cảm thấy bối rối vì
hình nhƣ mình chẳng làm gì cả, thì nên nhớ rằng giữ cho tâm
hồn đƣợc bình an (tức là làm cho nó an tĩnh, không hoạt
động và không mê thích một điều gì) đã là một thành quả
đáng kể. Đây chính là điều Thiên Chúa dùng lời vua Đavít để
yêu cầu chúng ta: Cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn
khiên thuẫn thì quăng vào lửa. Dừng tay lại, hãy biết rằng
Ta là Thiên Chúa (Tv 46,10-11). Nghĩa là: Hãy giải thoát
ngƣơi khỏi mọi sự, cả trong lẫn ngoài.
QUYỂN 2 223

Chương 16
Những nhận thức tưởng tượng*

Bàn về những nhận thức tưởng tượng được gợi ra


cách siêu nhiên nơi óc sáng tạo vẽ vời. Chúng không thể
là phương tiện giúp linh hồn nên một với Thiên Chúa.
Tại sao?
1 – Chúng ta đã bàn về những điều linh hồn biết đƣợc
cách tự nhiên mà trí tƣởng tƣợng và óc sáng tạo vẽ vời đã
tiếp thu và sử dụng qua nguyện gẫm suy lý. Giờ đây đến lúc
thích hợp để bàn tới những điều linh hồn biết đƣợc cách siêu
nhiên còn gọi là những thị kiến tƣởng tƣợng. Hệt nhƣ những
điều đã biết đƣợc cách tự nhiên, các thị kiến này cũng đến
với trí tƣởng tƣợng dƣới dạng những hình ảnh, hình sắc và
hình thể.
2 – Qua thuật ngữ “thị kiến tƣởng tƣợng” này chúng tôi
muốn nói tới tất cả những gì đến với trí tƣởng tƣợng một
cách siêu nhiên dƣới dạng hình ảnh, hình sắc, hình thể hay
những loại đối tƣợng khả giác. Mọi nhận thức và loại đối
tƣợng khả giác đến với linh hồn cách tự nhiên qua năm giác
quan thể chất, và tác động trên linh hồn thì cũng có thể đến
đƣợc với linh hồn cách siêu nhiên, chẳng cần gì các giác
quan bên ngoài. Bởi lẽ cái giác quan bên trong này, tức óc
sáng tạo vẽ vời cùng với dạ nhớ đƣợc xem nhƣ một nơi tàng
trữ dành cho trí hiểu, cất giữ mọi hình thể và hình ảnh khả tri
đã tiếp nhận. Quan năng này tiếp nhận những hình thể ấy dù
chúng đến từ năm giác quan thể chất hay đến bằng phƣơng
224 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cách siêu nhiên và giữ lại nơi mình tựa nhƣ trong một tấm
gƣơng, rồi sẽ đƣa ra cho trí hiểu để trí hiểu xem xét và phán
định. Óc sáng tạo vẽ vời không những giữ mọi sự lại nhƣ thế
mà còn có thể sáng tạo cũng nhƣ tƣởng tƣợng ra những điều
khác giống với những gì nó đã biết.
3 –Năm giác quan bên ngoài giới thiệu cho cho các
quan năng bên trong những hình ảnh theo loại đối tƣợng của
chúng. Cũng thế, một cách siêu nhiên và không cần đến các
giác quan bên ngoài, Thiên Chúa có thể trình bày cho các
quan năng bên trong này những hình ảnh theo loại đối tƣợng
của chúng, mà còn xinh đẹp và hoàn hảo hơn nhiều. Đây là
điều ma quỷ cũng làm đƣợc.
Chính Thiên Chúa đã lắm lần bày tỏ cho các linh hồn
nhiều điều qua những hình ảnh này và dạy cho họ nhiều lẽ
khôn ngoan. Đó là điều ta vẫn thƣờng thấy nơi mỗi bƣớc
đƣờng Kinh Thánh. Chẳng hạn Isaia nhìn thấy Thiên Chúa
trong vinh quang Ngài dƣới hình ảnh làn khói che phủ đền
thờ và hình ảnh các thiên thần sốt mến (Seraphim) đang dùng
cánh che mặt và chân (x. Is 6,2-4); Giêrêmia thì đƣợc cho
thấy ngọn roi canh giữ (x. Gr 1,11); còn Đaniel thì đƣợc
chiêm niệm nhiều thị kiến (x. Dn 7,10 vv... )
Về phần ma quỷ, chúng cũng bày ra những điều có vẻ
tốt lành để lừa gạt linh hồn. Chẳng hạn trong sách các Vua,
ma quỷ đã lừa bịp tất cả ngôn sứ của vua Akháp bằng cách
vẽ ra trong trí tƣởng tƣợng của họ những chiếc sừng mà nó
bảo là sẽ sử dụng để hủy diệt quân Assyri. Đó quả là một lời
dối trá (x. 1 Vua 22,11-12; 21-22). Cũng nhƣ những thị kiến
QUYỂN 2 225

của vợ Philatô liên quan đến việc kết án Chúa Kitô (x. Mt
27,19) và nhiều thị kiến khác nữa vv...
Có thể nói, nơi tấm gƣơng trí tƣởng tƣợng này, với
những linh hồn đã tiến khá xa, các thị kiến tƣởng tƣợng
này xảy đến thƣờng xuyên hơn loại thị kiến hữu hình bên
ngoài. Xét về khía cạnh hình ảnh và loại đối tƣợng khả
giác thì hai loại thị kiến này không khác nhau nhƣng xét về
sự hoàn thiện và hậu quả phát sinh thì có sự khác biệt rất
lớn. Các thị kiến càng siêu nhiên và nội tâm hơn thì càng
tinh tế và tạo ra hiệu quả nơi linh hồn nhiều hơn những thị
kiến siêu nhiên bên ngoài. Dù vậy vẫn có thể có một số thị
kiến hữu hình bên ngoài gây hiệu quả lớn hơn bởi vì nói
cho cùng, mỗi sự thông giao ấy có uy lực tới mức nào là
tùy theo ý Thiên Chúa muốn. Điều tôi muốn nói ở đây là
tính biểu thị, những thị kiến mang tính bên trong hơn thì
có tính cách tâm linh hơn.
4 – Chính tại nơi quan năng tƣởng tƣợng và sáng tạo
này ma quỷ thƣờng thƣờng gài các cạm bẫy của nó - về mặt
tự nhiên hoặc siêu nhiên - vì đây là cổng và đƣờng vào linh
hồn. Trí hiểu đến đây nhƣ thể đến một cửa khẩu hoặc một
khu chợ để mua bán đồ vậy. Cả Thiên Chúa và cả ma quỷ
đều đem đến đây đủ thứ ngọc đá quý là những hình ảnh và
dạng thức siêu nhiên khác nhau để chào hàng với trí hiểu.
Tuy nhiên đây không phải là phƣơng cách duy nhất Thiên
Chúa dùng để dạy dỗ linh hồn. Thiên Chúa ngự nơi linh hồn
và Ngài có thể tự mình dạy dỗ linh hồn hoặc dùng các
phƣơng thế khác mà dạy dỗ.
226 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

5 – Tôi sẽ không dừng lại đây để nói về những dấu chỉ


giúp phân biệt các thị kiến tốt xấu cũng nhƣ để kể hết những
loại thị kiến khác nhau. Tôi chỉ có ý định khai mở cho trí
hiểu nắm vững về các thị kiến ấy để nó khỏi bị cản trở trên
đƣờng nên một với Đức Khôn Ngoan thần linh nhờ các thị
kiến tốt, đồng thời khỏi bị các thị kiến giả tạo phỉnh gạt.
6 – Vậy tôi xin nói rằng khi gặp những điều biết và thấy
đƣợc qua trí tƣởng tƣợng cũng nhƣ bất cứ hình sắc hay
những loại đối tƣợng khả giác nào khác xuất hiện qua một
hình sắc, hình ảnh hay một ý tƣởng cụ thể nào đó, hoặc là
những thị kiến giả tạo thuộc ma quỷ hoặc dù là những thị
kiến đƣợc nhìn nhận là chân thực phát xuất từ Thiên Chúa đi
nữa, trí hiểu không nên vội bám lấy hay vơ hết vào. Linh hồn
không đƣợc khao khát, chấp nhận hay cầm giữ chúng, nếu
muốn đƣợc siêu thoát, trần trụi, tinh tuyền giản dị không một
tí kiểu cách nào, đúng nhƣ ơn nên một đòi hỏi.
7 – Sở dĩ thế là vì, nhƣ đã nói, các hình ảnh nêu trên
khi đƣợc nhận thức thì đều xuất hiện dƣới một cách thức
giới hạn. Còn Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa, Đấng mà
trí hiểu phải kết hiệp nên một, lại chẳng hề có kiểu hay
cách gì cả. Ngài không có giới hạn mà cũng chẳng thuộc
về một nhận thức cụ thể hay đặc thù nào bởi Ngài hoàn
toàn tinh tuyền và giản dị. Nhƣ thế muốn cho hai cực ấy,
linh hồn và Đức Khôn Ngoan thần linh, có thể nên một với
nhau, cả hai cần phải có một sự tƣơng tự nào đó để làm
nhịp cầu. Do đó, linh hồn cũng phải tinh tuyền và giản dị,
không giới hạn, không bám víu vào bất cứ một nhận thức
đặc thù nào cũng nhƣ không bị đổi thay theo giới hạn các
QUYỂN 2 227

hình sắc, hình ảnh hay các loại đối tƣợng khả giác. Thiên
Chúa không thể bị bất cứ hình ảnh, hình sắc hay bất cứ
hiểu biết cụ thể nào vây bọc; do đó, nếu muốn nên một với
Ngài, linh hồn không đƣợc để cho mình bị giới hạn bởi bất
cứ hình sắc hay hiểu biết nào.
8 – Trong sách Đệ Nhị Luật, Chúa Thánh Thần nói rõ
rằng Thiên Chúa chẳng mặc lấy hình thù nào cả. Chúa đã
phán với anh em từ trong đám lửa: anh em nghe thấy tiếng
nói nhưng không thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi (Đnl
4,12). Tuy nhiên Chúa Thánh Thần cũng xác nhận rằng ở đó
có sự mịt mù, áng mây và tăm tối, tức là nhận thức mù mờ
tăm tối mà chúng ta đã nhắc đến, nơi linh hồn đƣợc kết hiệp
nên một với Thiên Chúa. Ngài còn nói thêm: Ngày Đức
Chúa phán với anh em tại núi Khô-rếp, từ trong đám lửa,
anh em đã không thấy hình bóng nào (Đnl 4,15).
9 – Nơi sách Dân Số, Chúa Thánh Thần cũng xác nhận
rằng bao lâu còn sống ở đời này, linh hồn không thể đạt thấu
sự cao cả của Thiên Chúa dù qua bất cứ hình sắc hay ảnh
tƣợng nào. Thiên Chúa đã quở trách Aaron và Myriam về
việc họ lẩm bẩm chống lại Môsê, ngƣời em của họ. Ngài cho
họ biết tình trạng nên một cao vời và tình bằng hữu Ngài đã
ban cho Môsê: Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ, thì Ta,
Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc sẽ
phán với nó trong giấc mộng. Nhưng với Môsê tôi tớ Ta thì
khác: Tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó. Ta nói với nó trực
diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng Đức
Chúa, nó được ngắm nhìn (Ds 12,6-8).
228 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Rõ ràng là trong tình trạng nên một cao siêu này, Thiên
Chúa tự thông giao với linh hồn không phải ẩn sau một thị
kiến tƣởng tƣợng, hoặc một hình ảnh tƣơng tự nào đó nhƣng
là trực diện, mặt đối mặt; một bên là yếu tính tinh tuyền trơ
trụi của Thiên Chúa, tức là đôi môi yêu thƣơng của Thiên
Chúa và một bên là yếu tính tinh tuyền trơ trụi của linh hồn,
tức là đôi môi của linh hồn yêu mến Thiên Chúa.
10 – Để đạt đến sự kết hiệp nên một yêu thƣơng với
Thiên Chúa nhƣ thế, linh hồn phải cẩn thận không đƣợc dựa
vào các thị kiến tƣởng tƣợng, các hình ảnh, hình sắc hay
những hiểu biết cụ thể bởi vì những thứ này không thể dùng
làm phƣơng tiện trực tiếp và phù hợp để đạt đƣợc hiệu quả
ấy, ngƣợc lại chúng còn có thể gây cản trở. Do đó linh hồn
cần phải khƣớc từ và cố gắng tránh né chúng. Đôi khi chúng
ta đã chấp nhận và trân trọng chúng là vì lợi ích và hiệu quả
tốt mà các thị kiến chân chính mang lại cho linh hồn. Tuy
nhiên đâu nhất thiết phải chấp nhận chúng mới đạt đƣợc hiệu
quả tốt ấy, cho nên nếu muốn tiến bộ, thì tốt hơn nên luôn
biết chối từ chúng.
Cũng nhƣ điều chúng tôi đã nói về các thị kiến hữu hình
bên ngoài, điều tốt lành mà các thị kiến tƣởng tƣợng có thể đem
lại cho linh hồn là thông ban sự hiểu biết, tình yêu hoặc sự dịu
ngọt. Tuy nhiên để các thị kiến ấy sinh ra những hiệu quả này
thì linh hồn cũng chẳng cần phải mong ƣớc chấp nhận chúng.
Nhƣ chúng tôi đã chỉ rõ, ngay lúc các thị kiến này xuất hiện nơi
trí tƣởng tƣợng, chúng đã cùng có mặt trong linh hồn và tuôn
đổ cho nó sự hiểu biết, tình yêu, sự dịu ngọt hay bất cứ điều gì
Thiên Chúa muốn chúng tạo ra.
QUYỂN 2 229

Những thị kiến ấy cùng hiện diện cả nơi trí tƣởng tƣợng
lẫn nơi linh hồn, nhƣng kết quả của chúng gây ra có thể
không cùng một lúc. Chúng tạo kết quả chính yếu bất chấp
sự hƣởng ứng của linh hồn. Linh hồn có muốn ngăn cản cũng
không sao ngăn cản nổi; đồng thời linh hồn cũng bất lực
không biết làm cách nào thu nạp đƣợc kết quả ấy mặc dù đã
biết rõ cách thức chuẩn bị từ trƣớc. Tựa nhƣ tấm kính cửa sổ
không thể ngăn cản tia nắng mặt trời chiếu dọi trên nó. Nhờ
tinh sạch, đƣơng nhiên nó nhận đƣợc sự chiếu dọi cách thụ
động, chẳng phải nhọc công gì cả. Cũng thế, dù linh hồn có
hết sức muốn chối từ các thị kiến này thì cũng vẫn phải nhận
lấy các ảnh hƣởng của chúng và những nhận thức về chúng.
Bởi lẽ một khi lòng muốn đã tự lột bỏ, chỉ chống chõi cách
khiêm nhƣờng và trìu mến thì không thể nào cƣỡng nổi các
ân sủng siêu nhiên tuôn đổ vào mình. Chỉ sự bất toàn dơ bẩn
của linh hồn mới cản trở những ân sủng này tựa nhƣ các vết
bẩn trên tấm kính cửa cản trở tia sáng mặt trời chói lọi.
11 – Vậy rõ ràng là linh hồn càng siêu thoát khỏi lòng
ƣớc muốn và quyến luyến những điều đã biết đƣợc nơi
những hình sắc, hình ảnh và hình dạng có tỳ vết ấy, tức các
lớp vỏ bọc những sự thông hiệp tâm linh, thì linh hồn càng
chuẩn bị để lãnh nhận đƣợc những điều tốt lành và thông
hiệp do những thị kiến ấy gây ra. Khi gác qua một bên tất cả
các thứ ấy là những bức màn che mất những điều tốt lành
tâm linh mà chúng chứa đựng, linh hồn sẽ nhận đƣợc những
điều tốt lành này cách sung mãn, tinh tuyền, tự do và giản dị
hơn. Nếu linh hồn cứ mãi bám lấy những bức màn ấy thì cả
tâm linh lẫn giác quan sẽ bị xâm chiếm đến nỗi không thể có
230 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đƣợc một sự thông hiệp tự do và giản dị. Vì đã hẳn, nếu bị


vƣớng mắc trong lớp vỏ bọc ấy, trí hiểu sẽ không còn tự do
để tiếp nhận những sự thông hiệp tâm linh kia nữa.
Và nếu linh hồn khao khát chấp nhận và chú tâm vào
những điều đã biết đƣợc ấy thì chúng sẽ thành cản trở và rồi
linh hồn sẽ mãi hài lòng với những thứ kém quan trọng nhất -
tức hình sắc, hình ảnh và những hiểu biết cụ thể - là thứ hiểu
biết duy nhất mà linh hồn gặt hái đƣợc từ những thị kiến ấy.
Linh hồn không nắm bắt đƣợc, không hiểu đƣợc điều chính
yếu hơn - tức sự sống tâm linh đang tuôn đổ vào linh hồn -
cũng không thể hiểu đƣợc phƣơng cách lãnh nhận cái tâm
linh ấy và có lẽ cũng không biết diễn tả về nó vì nó thuần túy
tâm linh. Với cách nhận thức riêng của linh hồn, điều duy
nhất linh hồn biết đƣợc về những thị kiến này lại thuộc về
những thứ kém nhất tức những hình ảnh thâu nhận đƣợc qua
các giác quan. Do đó tôi xin xác định rằng dù không hề nỗ
lực tìm hiểu - mà cũng chẳng biết nỗ lực ra sao - linh hồn
vẫn đƣợc thông ban một cách thụ động điều mà nó không thể
hiểu hay tƣởng tƣợng nổi.
12 – Nhƣ thế linh hồn phải luôn ngoảnh mắt khỏi
những nhận thức mình đã có thể thấy hoặc nghe đƣợc cách
cụ thể. Đó là những thứ thuộc về giác quan và không đem lại
đƣợc nền tảng vững chắc cho đức tin. Trái lại linh hồn phải
dán mắt vào những gì vô hình, những gì không thuộc giác
quan mà thuộc về tâm linh, những gì không rơi vào một hình
hài khả giác nhƣng dẫn đƣa linh hồn đến chỗ kết hiệp nên
một với Thiên Chúa trong đức tin là phƣơng thế thích hợp
của sự nên một này. Các thị kiến này nhờ vào những gì cốt
QUYỂN 2 231

yếu nơi chúng, sẽ sinh ích cho linh hồn và giúp đức tin đƣợc
vững vàng hơn, nếu linh hồn biết cách loại bỏ khía cạnh khả
giác và khả tri của chúng, đồng thời biết vận dụng theo đúng
mục đích Thiên Chúa đã định cho chúng. Bởi cũng nhƣ tôi
đã chỉ rõ khi nói về các thị kiến thể lý, Thiên Chúa ban
những thị kiến ấy không phải để linh hồn khao khát chiếm
hữu và dính bén với chúng.
13 – Tuy nhiên, nhƣ thế sẽ phát sinh một vấn nạn: Phải
chăng Thiên Chúa vừa phú ban các thị kiến siêu nhiên lại
vừa không muốn cho linh hồn khát khao, cậy dựa hoặc chú
tâm đến chúng? Nếu vậy thì Ngài ban chúng làm chi? Phải
chăng vì chúng có thể khiến linh hồn rơi vào vô số hiểm
nguy lầm lạc hay ít là sẽ phải gặp nhiều cản trở cho sự tiến
bộ nhƣ đã mô tả? Và rồi tại sao Thiên Chúa lại làm nhƣ thế
đang khi, một cách cốt yếu và tâm linh, Ngài vẫn có thể ban
qua những thị kiến và hình thể thuộc giác quan nhƣ đã nêu?
14 – Về vấn nạn trên, ở chƣơng sau tôi sẽ đƣa ra câu trả
lời mà thiết nghĩ có thể xem nhƣ một nguyên tắc quan trọng
và cần thiết cả cho ngƣời sống theo tâm linh lẫn những ngƣời
dẫn dắt họ. Tôi sẽ trình bày phƣơng cách và mục đích của
Thiên Chúa khi Ngài phú ban các thị kiến ấy. Nhiều ngƣời,
do không hiểu các thị kiến nên mù mờ chẳng biết phải xử lý
thế nào và cũng chẳng biết cách dẫn dắt mình hay kẻ khác
vƣợt qua các thị kiến ấy để đạt đến chỗ nên một với Thiên
Chúa. Họ nghĩ một khi đã biết đƣợc rằng các thị kiến này
chân thật và do Chúa thì có thể an tâm chấp nhận và tin vào
chúng. Họ không chịu suy nghĩ rằng dù đó là những thị kiến
đích thật, nếu họ ƣớc muốn chiếm đoạt và quyến luyến
232 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chúng thì chúng có thể gây cản trở giống nhƣ của cải thế
gian, cho nên họ cần biết chối từ chúng nhƣ chối từ của cải
thế gian. Họ cho rằng nên đón nhận những thị kiến đích thật
và loại bỏ những thị kiến sai lạc, thế rồi họ vừa tự lao vào
vừa kéo những linh hồn khác lao vào biết bao vất vả và hiểm
nguy để phân biệt thật giả nơi các thị kiến ấy... Thế nhƣng
Thiên Chúa đâu truyền bảo họ phải vất vả nhƣ thế và lại còn
đẩy những linh hồn ngây thơ, dễ tin kia vào một cuộc chiến
nguy hiểm. Những ngƣời này đã có sẵn đức tin, là giáo huấn
chân thật và vững chắc làm phƣơng tiện để tiến bƣớc rồi.
15 – Vậy, linh hồn không thể tiến bƣớc trong đức tin
nếu không chịu nhắm mắt làm ngơ với mọi thứ thuộc giác
quan cũng nhƣ với những nhận thực cụ thể, rõ ràng. Hãy
xem Thánh Phêrô, mặc dù đã đích thân chứng kiến cuộc biến
hình của Chúa và biết chắc về thị kiến Đức Kitô vinh quang,
sau khi thuật lại sự kiện ấy trong bức thƣ thứ nhất của Ngài
(x. 2Pr 1,16-18) thánh nhân vẫn không muốn bất cứ ngƣời
nào lấy đó làm chứng lý chủ chốt cho sự chắc chắn. Để giúp
cho đức tin của độc giả, ngài đã tuyên bố: Như vậy chúng tôi
lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm
vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối
tăm (2 Pr 1,19).
Suy tƣ từ sự so sánh trên, chúng tôi khám phá ra
nguyên tắc chúng tôi đang nói đây. Khi bảo ta hãy bám lấy
đức tin từng đƣợc các ngôn sứ truyền dạy, nhƣ bám vào ngọn
đèn soi nơi tăm tối, thánh Phêrô muốn nhắc ta hãy sống trong
tăm tối, mắt nhắm lại trƣớc mọi nguồn sáng khác. Ngài dạy
ta phải dùng đức tin, cũng là một thứ tối tăm, làm đèn soi cho
QUYỂN 2 233

bóng tối ấy. Ngài tuyên bố rằng nếu ta muốn dựa vào những
luồng sáng rực rỡ khác của những hiểu biết cụ thể, ta sẽ thôi
dùng đến ngọn đèn tăm tối của đức tin và rồi ngọn đèn ấy
không còn chiếu sáng cho ta trong nơi tối tăm ngài muốn nói.
Cái nơi ấy tức là trí hiểu, khác nào cái trụ cắm ngọn đuốc
đức tin, phải ở lại trong tăm tối cho tới ngày, ở đời sau, linh
hồn đƣợc hƣởng kiến Thiên Chúa thật rõ ràng; còn ở đời này
thì cho đến khi đƣợc biến đổi và nên một với Thiên Chúa.
234 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 17
Mục đích các ơn ban*

Bàn về cách thức và mục đích của Thiên Chúa khi ban
những điều tốt về mặt tâm linh qua đường giác quan. Câu
trả lời cho vấn nạn đã nêu.
1 – Có thể nói nhiều về mục đích Thiên Chúa nhắm
đến cũng nhƣ cách thức Ngài dùng khi ban những thị kiến
này. Đó là Ngài nhằm nâng một linh hồn từ trạng thái thấp
hèn lên kết hiệp nên một với Ngài. Nhiều sách về đƣờng
tâm linh đã bàn đến vấn đề này. Chuyên luận của tôi cũng
mong đóng góp thêm phần nào. Trong chƣơng này, tôi sẽ
chỉ đƣa ra giải đáp ngắn gọn cho vấn nạn đƣợc nêu lên đó
là: Nếu nhƣ đã nói, những thị kiến siêu nhiên ấy có nhiều
hiểm nguy và có thể cản trở cho bƣớc tiến của linh hồn thì
tại sao Thiên Chúa là Đấng rất khôn ngoan và luôn muốn
cho linh hồn tránh khỏi những chƣớng ngại và cạm bẫy, lại
ban những thị kiến ấy cho họ làm gì?
2 – Để trả lời vấn nạn này, cần phải dựa trên ba nguyên
lý nền tảng. Thứ nhất là thƣ thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma:
những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập (Rm
13,1), tức là mọi việc đƣợc thực hiện đều do Thiên Chúa an
bài. Thứ hai là lời Chúa Thánh Thần trong sách Khôn Ngoan
Đức Khôn Ngoan vươn mạnh tới chân trời kia, cai quản mọi
loài thật tốt đẹp (Kn 8,1) nghĩa là Đức Khôn Ngoan của
Thiên Chúa chạm đến từ khởi nguyên tới tận điểm, từ thái
cực này đến thái cực kia, và bài trí mọi thứ một cách dịu
QUYỂN 2 235

dàng. Thứ ba là lời các thần học gia: Thiên Chúa vận hành
mọi sự theo cách thức của chúng (Thánh Tôma Aquinô: De
veritate).
3 – Theo các nguyên lý ấy, để kích động và nâng linh
hồn lên từ thân phận cực kỳ thấp hèn của nó đến tình trạng
cực kỳ siêu vời đƣợc nên một với Thiên Chúa, chắc hẳn
Thiên Chúa phải thực hiện điều này một cách trật tự, nhịp
nhàng, và theo cách thức của chính linh hồn. Bởi lẽ cái trật tự
linh hồn phải tuân theo trong tiến trình nhận thức bao gồm
các hình sắc và hình ảnh của các thụ tạo, còn cách thức nhận
biết và am hiểu của linh hồn là nhờ vào giác quan, khi Thiên
Chúa muốn nâng linh hồn lên tới tri thức tối cao một cách
dịu dàng, Ngài phải bắt đầu từ chỗ thấp nhất, chạm đến mút
cùng bên này lộ trình của linh hồn là các giác quan để rồi dần
dần dìu dắt linh hồn theo cách riêng của nó đến mút cùng bên
kia là sự khôn ngoan tâm linh, nơi không còn thuộc lãnh vực
giác quan nữa. Để đƣợc nhƣ vậy, trƣớc tiên Thiên Chúa dạy
dỗ linh hồn qua lối nguyện gẫm suy lý và qua những hình
sắc, hình ảnh và những phƣơng tiện khả giác tùy theo cách
hiểu của nó, khi thì tự nhiên, lúc thì siêu nhiên rồi dẫn đƣa
lên tới Thần khí tối cao của Thiên Chúa.
4 – Đó là lý do tại sao Thiên Chúa ban cho linh hồn các
thị kiến, hình sắc, hình ảnh và những nhận thức khả giác, khả
tri và tâm linh khác. Chẳng phải vì Ngài không muốn ban
cho linh hồn sự khôn ngoan tâm linh ngay từ động tác đầu
tiên. Hẳn Ngài sẽ làm điều này nếu nhƣ hai thái cực ấy (nhân
loại và thần linh, giác quan và tâm linh) có thể liên kết với
nhau chỉ bằng một động tác, qua một tiến trình bình thƣờng,
236 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chẳng cần sự can thiệp của nhiều động tác chuẩn bị đi trƣớc.
Quả thế, những động tác này liên kết nhau trật tự hài hòa, cái
này làm nền và chuẩn bị cho cái kia hệt nhƣ nơi các tác nhân
tự nhiên vậy. Các động tác đầu phục vụ cho các động tác thứ
hai, rồi các động tác thứ hai phục vụ các động tác thứ ba và cứ
nhƣ thế ... Cũng thế, Thiên Chúa hoàn thiện con ngƣời theo
cách của loài ngƣời nghĩa là từ chỗ thấp nhất và bên ngoài
nhất đến chỗ cao nhất và nội tâm nhất.
Trƣớc tiên Thiên Chúa hoàn thiện các giác quan thể
chất, động viên linh hồn dùng các sự việc tự nhiên và hoàn
hảo bên ngoài chẳng hạn nhƣ nghe giảng và dự lễ, hành
hƣơng viếng các di tích thánh, hãm mình trong việc ăn uống,
chế ngự xúc giác bằng sám hối và khổ hạnh. Khi các giác
quan này đã khá an định, Thiên Chúa thƣờng hoàn thiện
chúng bằng cách ban cho một số ân huệ và quà tặng tâm linh
để củng cố chúng thêm trong điều thiện. Những truyền đạt
siêu nhiên này có thể là thị kiến về các thánh hay các đồ vật
thánh, những hƣơng vị rất ngọt ngào, những các câu nói,
cùng sự vui thỏa dạt dào nơi xúc giác. Nhờ các truyền đạt ấy,
các giác quan này đƣợc củng cố rất nhiều về mặt nhân đức và
không còn mê thích những chuyện xấu xa. Ngoài ra, các giác
quan hữu hình bên trong mà chúng ta đang bàn ở đây, chẳng
hạn trí tƣởng tƣợng và óc sáng tạo vẽ vời cũng đồng thời đƣợc
hoàn thiện hóa và tập quen với điều thiện nhờ những xét định,
nguyện gẫm và suy lý thánh thiện. Rồi nhờ vào tất cả những
điều ấy, tâm linh đƣợc dạy dỗ.
Một khi nhờ sự thao luyện tự nhiên này mà an định
xong các giác quan bên trong, Thiên Chúa thƣờng hay soi
QUYỂN 2 237

sáng các linh hồn ấy và đẩy họ tiến xa thêm trên đƣờng tâm
linh bằng một số thị kiến siêu nhiên nặng tƣởng tƣợng, sẽ
cùng với những thị kiến trƣớc kia, giúp cho tâm linh lợi đƣợc
rất nhiều và rồi nhờ cả hai loại thị kiến ấy, tâm linh dần dà
đƣợc tinh luyện và cải đổi.
Đây là cách thức Thiên Chúa nâng linh hồn từng bƣớc
tới chỗ nội tâm nhất, mặc dù không phải chính xác theo cùng
một trật tự. Đôi khi Thiên Chúa vẫn hành động cách khác,
ban điều này mà không ban điều kia, hoặc đi từ cái rất thâm
sâu tới cái ít thâm sâu hơn, hoặc cả hai cùng một lúc, tùy
theo cách Thiên Chúa thấy thích hợp đối với linh hồn và tùy
theo cách Ngài muốn ban ơn cho nó. Tuy nhiên thông
thƣờng Chúa vẫn dùng con đƣờng phù hợp với những gì đã
nói trên.
5 – Nhƣ thế, đây là cách Thiên Chúa thƣờng dùng để
đào tạo các linh hồn và thúc đẩy họ tiến trên đƣờng tâm linh.
Khởi đầu Ngài thông ban cho linh hồn sự sống tâm linh qua
những yếu tố bên ngoài, dễ nắm bắt và thích hợp với giác
quan, đồng thời cũng phù hợp với sự bé nhỏ và khả năng ít ỏi
của linh hồn. Ngài làm nhƣ thế để, thông qua lớp vỏ của
những điều khả giác và tốt lành ấy, phần tâm linh sẽ đƣợc
tiến bộ qua những hành vi đặc thù và nhận đƣợc bao nhiêu là
ngụm thông giao tâm linh. Bằng cách đó, linh hồn quen dần
với những gì là tâm linh và tiến về phía bản chất thực sự của
tâm linh, tức là về phía cái vốn xa lạ với mọi giác quan và,
nhƣ chúng tôi đã nói, về phía điều mà linh hồn chỉ có thể đạt
đƣợc dần dần theo cách của nó, tức là qua những giác quan
mà đến lúc này nó vẫn luôn gắn bó. Nhƣ thế, càng tiến gần
238 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hơn trong tƣơng giao tâm linh với Thiên Chúa, linh hồn càng
lột bỏ và làm rỗng hết các nẻo đƣờng giác quan tức nẻo
đƣờng của nguyện gẫm suy lý và tƣởng tƣợng. Do đó, một
khi hoàn toàn đạt tới tƣơng giao với Thiên Chúa theo tâm
linh thì nhất thiết linh hồn phải đẩy lùi tất cả những gì liên
quan đến Thiên Chúa mà có thể rơi vào giác quan. Cũng tựa
nhƣ một vật càng tiến về mút cùng bên này thì càng xa cách
với mút cùng bên kia và một khi đã hoàn toàn đạt tới thái cực
này thì sẽ hoàn toàn xa lìa thái cực kia. Do đó mới có câu
châm ngôn tâm linh: Một khi đã nếm được điều tâm linh rồi,
mọi thứ thuộc xác thịt đều gây chán ngán, nghĩa là những
con đƣờng của xác thịt không còn mang lại hữu ích hay thích
thú gì nữa. Nói cách khác, trên những nẻo đƣờng tâm linh,
mọi tƣơng giao khả giác đều đáng chán. Thật hiển nhiên:
Điều gì thuộc tâm linh sẽ không còn rơi vào giác quan, còn
nếu nó có thể đƣợc giác quan nhận biết thì nó đâu thuộc về
tâm linh thuần túy. Quả vậy, giác quan và tri giác tự nhiên
càng có thể nhận biết điều gì thì điều ấy càng ít tâm linh và ít
siêu nhiên.
6 – Do đó, con ngƣời tâm linh một khi đã hoàn thiện thì
không để tâm đến giác quan, không tiếp nhận các ơn lành
qua chúng, rất ít dùng đến chúng mà cũng chẳng cần phải
dùng đến chúng trong tƣơng giao với Thiên Chúa nhƣ trƣớc
kia, khi chƣa tiến bộ về mặt tâm linh. Đây chính là điều
thánh Phaolô ám chỉ khi ngài viết cho tín hữu Corintô: Khi
tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ
con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn,
thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con (1Cr 13,11).
QUYỂN 2 239

Chúng tôi đã giải thích cho thấy làm thế nào những
điều khả giác cũng nhƣ những nhận thức mà phần tâm linh
có thể rút đƣợc từ các giác quan ấy chỉ là những tập tành của
trẻ con. Do đó, nếu ai cứ bám vào chúng mãi, chẳng chịu rút
ra khỏi chúng, sẽ mãi còn là trẻ con, nói về Thiên Chúa nhƣ
trẻ con, hiểu biết và nghĩ về Thiên Chúa nhƣ trẻ con. Thật
vậy, hễ còn bám víu vào lớp vỏ giác quan, tức trẻ con, linh
hồn chẳng bao giờ đạt đến đƣợc bản chất của tâm linh, tức
con ngƣời hoàn hảo. Vì thế, để lớn lên về mặt tâm linh, linh
hồn không đƣợc thu nhận những khải thị nói trên cho dù
chúng đến từ Thiên Chúa. Chẳng khác nào đứa trẻ phải rời
bỏ vú mẹ để tập cho khẩu vị của nó quen với những thức ăn
đặc và có chất bổ hơn.
7 – Hẳn bạn sẽ hỏi tôi phải chăng bao lâu còn ở tình
trạng trẻ con, linh hồn còn cần sử dụng chúng và rồi sẽ bỏ
chúng khi hồn đã lớn, nhƣ thể một em bé phải đƣợc nuôi
bằng vú mẹ cho đến khi nó đủ lớn để thôi bú?
Tôi xin trả lời rằng đối với việc nguyện gẫm suy lý tự
nhiên mà lúc đầu linh hồn đã dùng để kiếm tìm Thiên Chúa
thì linh hồn phải dùng nó để nuôi mình, không đƣợc bỏ
phƣơng tiện khả giác ấy cho tới thời gian thích hợp để gạt
chúng sang một bên, tức là lúc Thiên Chúa đƣa linh hồn vào
một cuộc gặp gỡ có tính tâm linh hơn, tức là chiêm niệm,
nhƣ đã bàn đến ở chƣơng 13 của quyển này.
Nhƣng đối với những thị kiến tƣởng tƣợng hoặc những
điều khác đã biết đƣợc cách siêu nhiên, đã đập vào các giác
quan ngoài sự ƣng thuận tự do của con ngƣời thì tôi xin nói
240 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

rằng bất cứ khi nào chúng xảy đến, dù hoàn hảo hay kém
hoàn hảo, dù là phát xuất từ Thiên Chúa, thì linh hồn vẫn
không đƣợc ao ƣớc tiếp nhận chúng. Tại sao? Có hai lý do:
Lý do thứ nhất: Nhƣ đã nói, về hiệu quả của thị kiến thì
Thiên Chúa đã làm phát sinh hiệu quả ấy nơi linh hồn mà linh
hồn không thể nào ngăn cản nổi (mặc dù chính thị kiến thì
linh hồn có thể ngăn cản và điều này vẫn thƣờng xảy ra). Ở
đây thứ hiệu quả của thị kiến đã đƣợc ban cho linh hồn theo
bản thể nhiều hơn là qua một con đƣờng khác. Vì, linh hồn
không thể ngăn cản nổi những ơn lành Thiên Chúa muốn ban
cho nó. Linh hồn chỉ có thể gây cản trở do một sự bất toàn hay
do lòng ham muốn chiếm hữu. Thế nhƣng nếu linh hồn đã biết
từ bỏ những nhận thức ấy với lòng khiêm nhƣờng kính sợ thì
đâu còn gì là sự bất toàn hay ham muốn chiếm hữu nữa.
Lý do thứ hai: Nhờ không ao ƣớc tiếp nhận, linh hồn
thoát khỏi mối nguy và nỗi vất vả phải phân biện giữa thị
kiến tốt và thị kiến xấu, giữa thần ánh sáng và thần tăm tối.
Điều ấy chẳng đem lại lợi lộc gì mà chỉ tổ mất thời gian và
gây phiền phức cho linh hồn, lại có nguy cơ rơi vào nhiều
thứ bất toàn và tụt lại mãi phía sau, lấy chuyện chẳng đáng gì
làm quan trọng. Ngƣợc lại, linh hồn gỡ đƣợc mình khỏi kẹt
vào những nhận thức thứ yếu và những hiểu biết riêng lẻ nhƣ
chúng tôi đã từng nói khi bàn về những thị kiến hữu hình và
rồi sẽ còn nói thêm về chúng nhiều hơn.
8 – Có thể tin rằng nếu không nhằm hƣớng dẫn linh hồn
theo cách thức riêng hợp với nó nhƣ chúng tôi đã nói thì hẳn
Chúa chúng ta chẳng bao giờ thông ban cho nó dƣ dật thần
QUYỂN 2 241

trí Ngài qua những con kinh nhỏ hẹp của các hình sắc, hình
ảnh và những hiểu biết cụ thể. Điều linh hồn nhận đƣợc làm
lƣơng thực tâm linh chẳng khác nào bánh đƣợc chia thành
những mảnh vụn bé nhỏ. Vua Đavít đã nói: Làm mưa đá,
Chúa tung từng miếng nhỏ, chịu nổi làm sao giá lạnh của
Ngài! (Tv 147,17). Có thể hiểu là Thiên Chúa gởi Đức Khôn
Ngoan của Ngài tới các linh hồn nhƣ qua những mẩu nhỏ.
Quả rất đáng than phiền khi linh hồn đã có đƣợc khả năng vô
biên mà ngƣời ta vẫn cho nó ăn những mẩu nhỏ qua giác
quan, vì tâm linh nó còn yếu kém và giác quan chƣa bén nhạy.
Và thánh Phaolô, khi viết cho tín hữu Corintô cũng đau
buồn về sự yếu đuối và thiếu chuẩn bị nơi họ để lãnh nhận
điều tâm linh. Ngài nói: Thưa anh em, về phần tôi, tôi đã
không thể nói với anh em như với những con người sống theo
Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính
xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho
anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em
chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không
chịu nổi (1Cr 3,1-2).
9 – Vậy bây giờ vấn đề còn lại là linh hồn cần hiểu rõ
mình phải ứng xử thế nào. Trƣớc hết, linh hồn không đƣợc
dán mắt vào lớp vỏ là những hình ảnh và đối tƣợng đƣợc đề
ra cho mình một cách siêu nhiên, liên quan tới giác quan bên
ngoài: Chẳng hạn những lời vang vọng bên tai, những hình
ảnh các thánh hoặc những tia sáng chói đập vào mắt, những
làn hƣơng nơi khứu giác, những thích thú ngọt ngào nơi vị
giác, những êm ái mềm mại nơi xúc giác, vốn phát xuất từ
tâm linh, và là điều rất thƣờng thấy nơi những ngƣời sống
242 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

theo tâm linh. Đồng thời linh hồn cũng không đƣợc dán mắt
vào bất cứ thị kiến nào thuộc giác quan bên trong chẳng hạn
các tƣởng tƣợng, trái lại, phải từ bỏ tất cả.
Linh hồn chỉ đƣợc dán mắt vào phần tâm linh tốt đẹp
mà những kinh nghiệm ấy gây nên, cố gắng giữ gìn phần tâm
linh ấy bằng cách đem ra thực hành những gì phục vụ Thiên
Chúa một cách trật tự. Đừng bận tâm tới những hình ảnh ấy,
đừng ƣớc ao bất cứ mê thích khả giác nào.
Làm nhƣ thế, ngƣời ta sẽ chỉ rút ra từ các thị kiến ấy
những gì Thiên Chúa muốn họ rút ra đƣợc, đó là tâm tình
sùng mộ, vì Ngài ban những hình ảnh ấy không nhằm điều
chính yếu nào khác. Ngƣời ta sẽ loại trừ yếu tố khả giác mà
có lẽ Thiên Chúa chẳng ban, nếu nhƣ họ có thể tiếp nhận ơn
Ngài trong tâm linh mà chẳng cần gì đến yếu tố ấy (mà nhƣ
chúng tôi đã nói, đó là sự tập luyện và những nhận thức của
giác quan).
QUYỂN 2 243

Chương 18
Những vị linh hướng bị lầm lạc*

Bàn về sự thiệt hại các vị linh hướng có thể gây ra cho


các linh hồn do các vị không biết hướng dẫn về các thị kiến
cho đúng cách. Đàng khác, dù các thị kiến ấy là do Thiên
Chúa đi nữa, người ta vẫn có thể bị lừa.

1 – Về vấn đề thị kiến, chúng tôi không thể nào nói vắn
tắt nhƣ lòng mong ƣớc, bởi có quá nhiều điều phải nói. Mặc
dù xét về cốt yếu, chúng tôi đã nói đến những gì cần thiết để
giúp ngƣời sống theo tâm linh am hiểu họ phải xử sự ra sao
đối với các thị kiến ấy, đồng thời giúp các vị linh hƣớng biết
phƣơng cách cần nắm vững để hƣớng dẫn các đệ tử. Tuy
nhiên, vẫn không thừa khi nhấn mạnh hơn một chút về học
thuyết này đồng thời giúp nhìn thấy rõ hơn mối thiệt hại mà
biết bao tâm hồn trên đƣờng tâm linh cũng nhƣ các vị linh
hƣớng phải gánh chịu nếu họ quá dễ tin đối với các thị kiến
ấy mặc dù chúng phát xuất từ Thiên Chúa.
2 – Lý do thúc đẩy tôi nói rộng thêm đôi điều về đề tài
này chính là vì sự thiếu cẩn trọng mà tôi đã nhận thấy - từ
những điều tôi có thể hiểu - nơi một số vị linh hƣớng. Vì tin
tƣởng vào những nhận thức siêu nhiên này khi cho rằng
chúng tốt lành và phát xuất từ Thiên Chúa, các vị linh hƣớng
này cùng với đệ tử của họ - bị lầm to và trở nên thiển cận. Và
lời của Chúa Cứu Thế thật đúng với trƣờng hợp của họ: Mù
mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố (Mt 15,14).
244 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Ngài không bảo là họ sẽ lăn mà là họ đang lăn. Bởi vì


không cần chờ đến khi họ mắc phải sai lầm thì mới là ngã
lăn. Chỉ nguyên sự kiện một anh mù dám để cho một anh mù
khác dẫn dắt đã là sai lầm rồi, vì nhƣ thế việc họ ngã lăn rất
dễ xảy ra. Trƣớc tiên, có những vị linh hƣớng đã hƣớng dẫn
sai để rồi các linh hồn có đƣợc thị kiến bị lạc đƣờng hoặc bị
thêm hoang mang với các thị kiến ấy. Thay vì dẫn dắt các
linh hồn ấy trên con đƣờng khiêm nhƣờng, các vị lại tiếp tay
giúp họ dán mắt vào các thị kiến khiến họ cứ nằm ỳ lại trong
tình trạng thiếu tinh thần đức tin chân chính. Thay vì xây
dựng các linh hồn ấy trong đức tin, các vị linh hƣớng ấy lại
cứ dài dòng về chuyện các thị kiến nọ. Họ khiến các linh hồn
ấy thấy vị linh hƣớng đang đánh giá và xem trọng các thị
kiến thế là họ cũng đâm ra quí trọng các thị kiến ấy. Do đó,
các linh hồn ấy cứ loay hoay mãi với các thị kiến, không
đƣợc xây dựng gì, cũng chẳng trở nên trống rỗng, trơ trụi,
dửng dƣng với những chuyện ấy để bay lên tầm cao của đức
tin tăm tối. Tất cả những điều ấy phát sinh do thái độ và cách
thức vị linh hƣớng của họ nói về các thị kiến ấy. Đến nỗi, và
tôi chẳng hiểu làm sao, những linh hồn đang đầy ắp ân sủng
và gặp nhiều thuận lợi để tiến bƣớc nhƣ thế lại ngoảnh mặt
chẳng nhìn gì vào vực thẳm đức tin nữa.
3 – Sở dĩ các linh hồn dễ mê mải với các thị kiến ấy
nhƣ thế là vì chúng vốn thuộc giác quan mà tính tự nhiên vẫn
chiều theo. Một khi theo tính tự nhiên, linh hồn vốn đã bị lôi
cuốn và thích biết những chuyện cụ thể và khả giác ấy, thì
chỉ cần thấy cha giải tội của mình hay một nhân vật nào khác
xem trọng thị kiến ấy là linh hồn liền xem trọng chúng. Và
QUYỂN 2 245

rồi linh hồn bị lôi cuốn, nuôi mình với những thị kiến ấy,
đồng thời ngày càng nghiêng chiều gắn bó với chúng hơn mà
không ngờ. Từ đó rất dễ nảy sinh nhiều cái bất toàn vì linh
hồn chẳng còn khiêm nhƣờng nhƣ trƣớc, nó nghĩ rằng mình
cũng đã đáng đƣợc để ý, đã có đƣợc chút gì đó đáng kể và đã
đƣợc Thiên Chúa xem trọng, đến nỗi nó đâm ra hài lòng và
mãn nguyện về mình, là chuyện ngƣợc hẳn với đức khiêm
nhƣờng. Ma quỷ liền bí mật kích thích thêm sự mãn nguyện ấy
cho linh hồn - mà linh hồn không hay. Nó thúc đẩy linh hồn dò
la xem kẻ khác có đƣợc những hồng ân nhƣ thế chăng và liệu
các thị kiến của những kẻ ấy có chân thực hay không; điều đó
đi ngƣợc lại tính đơn sơ thánh thiện và sự cô tịch tâm linh.
4 – Ta hãy tạm kết thúc ở đây phần bàn về những thiệt
hại này và về việc linh hồn sẽ không lớn lên đƣợc trong đức
tin nếu không rút lui khỏi những thị kiến ấy. Nếu linh hồn
không rũ sạch hết mọi sự mà bƣớc đi thì còn gặp những thiệt
hại khác ít cụ thể và khó nhận biết hơn nhƣng lại tinh vi hơn
và đáng ghét hơn trƣớc mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên chúng tôi
xin gác qua một bên cho tới khi bàn đến tật tham ăn tâm linh
và sáu nết xấu khác. Ở đó, nhờ ơn Chúa giúp, chúng tôi sẽ
bàn kỹ hơn về những tì vết tinh vi và tế nhị thƣờng bám vào
tâm linh những ngƣời không biết bƣớc theo con đƣờng trơ
trụi và siêu thoát.
5 – Giờ đây chúng tôi xin nói đôi điều về cung cách
một số cha giải tội đối với các linh hồn và việc các ngài dạy
dỗ họ chƣa đƣợc tốt. Chắc hẳn tôi rất ƣớc mong biết cách
trình bày vấn đề này cho cặn kẽ, bởi vì thật khó giúp hiểu
đƣợc rằng tinh thần ngƣời môn đệ thƣờng đƣợc khuôn đúc
246 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

theo tinh thần vị linh hƣớng của ngƣời ấy cách bí ẩn. Đây là
chuyện quá tỉ mỉ khiến tôi thấy mỏi mệt bởi vì dƣờng nhƣ
không thể nói rõ điều này mà không đề cập điều kia bởi lẽ
trong những chuyện thuộc tâm linh, các vấn đề thƣờng liên
quan với nhau.
6 – Tôi có thể xác quyết rằng nếu cha linh hƣớng thiên
về các chuyện mạc khải và tỏ ra coi trọng chúng, thì cho dù
ngài không nhận thấy, nhất định ngài sẽ trút cái sở thích ấy
vào tâm trí ngƣời đệ tử ngoại trừ trƣờng hơp ngƣời đệ thử
này tiến xa hơn thầy. Mà cho dẫu ngƣời đệ tử tiến xa hơn
thầy đi nữa, nếu vị thầy ấy vẫn tiếp tục hƣớng dẫn đệ tử, tâm
thái của ông sẽ gây cho ngƣời này nhiều thiệt hại. Sự kiện
cha linh hƣớng nghiêng về và thích các thị kiến sẽ làm nảy
sinh nơi ngƣời thụ hƣớng một niềm quí chuộng nào đó đối
với chúng và nếu ngài không hết sức dè chừng, thì thế nào
cũng gây dấu ấn lên ngƣời mà ngài hƣớng dẫn. Nếu ngƣời
này lại có một tâm trí cùng nghiêng chiều nhƣ thế thì, theo ý
tôi, ngƣời này sẽ khiến ngƣơi kia dính bén vào chuyện này hơn.
7 – Đây chƣa phải là lúc luận bàn quá tỉ mỉ. Chúng tôi
chỉ xin nói đến trƣờng hợp vị giải tội không đủ cẩn trọng
trong việc gỡ rối cho linh hồn. Dù vị này có thiên về chuyện
các thị kiến ấy hoặc không, nhƣng thay vì giúp môn đệ tƣớc
bỏ lòng mê thích các thị kiến ấy, lại đi luận bàn với họ về
chúng, loay hoay nêu cho họ các dấu chỉ để nhận rõ những
thị kiến tốt và những thị kiến xấu. Thế nhƣng dù việc nhận
biết các dấu chỉ ấy là điều tốt thì vẫn không nên đẩy họ vào
chỗ phải vất vả, âu lo và bị nguy hiểm nhƣ thế. Bởi lẽ, chỉ
cần coi nhẹ các thị kiến ấy, gạt bỏ chúng đi, là thoát đƣợc tất
QUYỂN 2 247

cả những điều trên và làm đƣợc điều cần phải làm. Mà không
chỉ có thế; khi thấy các linh hồn ấy có đƣợc những tiếp xúc
với Thiên Chúa nhƣ vậy, chính các vị ấy lại yêu cầu họ xin
với Thiên Chúa tỏ cho hoặc nói cho họ chuyện nọ chuyện kia
liên can đến họ hoặc đến ngƣời khác. Thế rồi các linh hồn
khờ khạo ấy đã làm nhƣ thế vì cứ tƣởng rằng thỉnh ý Thiên
Chúa theo kiểu ấy là điều đƣợc phép. Sở dĩ thế là vì họ nghĩ
rằng nếu Thiên Thiên Chúa đã muốn mạc khải hoặc bày tỏ
với ta cách siêu nhiên một đôi điều nhƣ Ngài muốn và vì
mục đích Ngài muốn, thì đƣơng nhiên ta cũng có thể ao ƣớc
đƣợc Ngài mạc khải điều ấy cho ta, và ngay cả đến đƣợc
phép xin Ngài tỏ cho điều ấy.
8 – Rồi nếu xảy ra là Thiên Chúa hạ cố cho lời xin đó thì
càng khiến họ liều lĩnh nghĩ rằng Thiên Chúa thỏa thích với
lời xin xỏ của họ vì Ngài đã đáp lại. Thực ra Thiên Chúa
không thích cũng không muốn điều ấy. Nhiều lúc các vị linh
hƣớng này hành động và tin theo những gì đƣợc mạc khải hay
đƣợc đáp lời cho mình, bởi vì các vị đã quen xử sự với Thiên
Chúa nhƣ thế. Các vị càng tự tin và lòng muốn càng nghiêng
về đó cách tự nhiên. Các vị tự nhiên hài lòng về chúng và
cũng tự nhiên thích nghi chúng theo cách hiểu của các vị.
Thƣờng thì các vị bị lầm rất nhiều và khi thấy các sự việc
không xảy ra nhƣ dự tính các vị đâm ngạc nhiên và rồi đâm ra
hoài nghi không biết có phải chúng do Thiên Chúa không bởi
vì chúng chẳng xảy ra theo cách thức các vị ngóng đợi.
Thế là các vị tự giả định hai điều: thứ nhất, các mạc khải
đến từ Thiên Chúa, vì ngay từ đầu vị đã bám chặt vào chúng,
sự xác tín này là do khuynh hƣớng tự nhiên thiên đã nghiêng
248 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

về đó. Thứ hai, do phát xuất từ Thiên Chúa các mạc khải ấy
phải đƣợc thể hiện đúng theo các vị hiểu hoặc tƣởng nghĩ.
9 – Tin tƣởng nhƣ vậy quả là một sai lầm nghiêm trọng,
bởi lẽ những điều mạc khải hay những lời của Thiên Chúa
đâu phải luôn luôn đƣợc thực hiện nhƣ ngƣời ta hiểu hay nhƣ
ngƣời ta mơ. Thế nên không đƣợc quá chắc chắn vào chúng,
cũng chẳng nên tin chúng một cách mù quáng, dù biết rằng
những mạc khải, những câu đáp hay những lời nói ấy là do
Thiên Chúa. Dù tự chúng là chắc chắn và chân thực, chƣa
hẳn chúng đã luôn chắc chắn và chân thực nhƣ vậy từ trong
nguyên nhân cũng nhƣ theo cách hiểu của chúng ta. Chúng
tôi sẽ chứng minh điều này ở chƣơng kế tiếp. Tiếp đó chúng
tôi cũng sẽ chứng tỏ cho thấy, mặc dù đôi khi Thiên Chúa
vẫn trả lời cách siêu nhiên cho những gì ngƣời ta hỏi Ngài
nhƣng Ngài không ƣa thích chuyện ấy và đôi khi dù có trả lời
đi nữa Ngài vẫn bực mình.
QUYỂN 2 249

Chương 19
Tại sao ta dễ bị gạt*

Giải thích và minh chứng tại sao, cả khi các thị kiến và
lời nói ấy có tính chân thực và phát xuất từ Thiên Chúa, ta
vẫn rất dễ bị chúng lừa gạt. Minh chứng bằng thẩm quyền
của Kinh Thánh.
1 – Mặc dù các thị kiến và các lời của Thiên Chúa tự
bản chất luôn chắc chắn và chân thực, nhƣng đem đặt vào
bối cảnh chúng ta thì không phải lúc nào cũng chắc chắn và
chân thật. Thứ nhất là do cách hiểu của chúng ta về chúng
còn khiếm khuyết. Thứ hai là do đôi khi các nguyên nhân
của chúng thay đổi. Chúng tôi xin minh chứng cho cả hai lý
do trên qua các dữ kiện Kinh Thánh.
Về lý do thứ nhất, rõ ràng là các thị kiến và lời Thiên
Chúa không nhƣ chúng ta quan niệm và không phải lúc nào
cũng xảy ra theo cách chúng ta hiểu. Nguyên nhân là vì
Thiên Chúa vốn vô biên và sâu thẳm nên trong các lời ngôn
sứ, lời nói và mạc khải của ngài, Thiên Chúa thƣờng sử dụng
những con đƣờng khác, những nhận thức và cách hiểu biết
rất khác với câu nói và cách thức chúng ta vẫn có thể hiểu
theo một nghĩa chung. Chúng càng chân thực và chắc chắn
thì dƣờng nhƣ càng không phải thế đối với chúng ta. Điều
này ta có thể gặp rất thƣờng trong Kinh Thánh. Do đó, đối
với nhiều ngƣời thời xƣa, lắm sấm ngôn và lời của Thiên
Chúa đã không đƣợc thể hiện nhƣ họ mong đợi bởi vì họ
hiểu chúng theo cách của họ, tức theo một cách khác, sát mặt
250 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chữ. Ta có thể thấy rõ điều đó trong các bản văn có thẩm


quyền sau đây:
2 – Trong sách Sáng thế, sau khi đƣa ông Abraham đến
đất Canaan, Thiên Chúa đã phán với ông: Ta sẽ ban cho
ngươi đất này (St 15,7). Thiên Chúa cứ nhắc chuyện đó
nhiều lần, còn Abraham thì đã rất cao niên mà Thiên Chúa
vẫn chẳng ban cho ông điều ấy, nên khi Thiên Chúa phán
thêm một lần nữa, Abraham liền đáp lại: Lạy Chúa, làm sao
mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu? (St 15,8). Bấy
giờ Thiên Chúa mới mạc khải cho Abraham rằng không phải
bản thân ông mà là hậu duệ của ông, 400 năm sau sẽ chiếm
hữu đất ấy. Thế là cuối cùng Abraham đã hiểu ra lời hứa ấy.
Lời ấy rất chân thực bởi lẽ, khi Thiên Chúa ban đất ấy cho
hậu duệ ông vì lòng Ngài yêu thƣơng ông thì khác gì Ngài
ban cho ông. Nhƣ thế Abraham đã lầm lẫn trong cách hiểu.
Nếu lúc ấy Abraham đã hành động theo nhƣ cách ông hiểu
thì ông đã lầm to, vì lời sấm ấy đâu phải cho thời điểm ấy.
Còn những ai đã nghe rằng Thiên Chúa sẽ ban đất ấy cho
ông Abraham, thấy ông qua đời mà không chiếm hữu đƣợc
đất ấy, chắc hẳn sẽ bối rối và cho rằng lời sấm ấy là giả dối.
3 – Sự việc cháu ông Abraham là Giacóp khi đƣợc
ngƣời con là Giuse lôi kéo sang Ai Cập vì nạn đói ở đất
Canaan cũng thế. Trên đƣờng đi, Thiên Chúa đã hiện ra với
Giacóp và bảo: Ta là Thiên Chúa của cha ngươi. Đừng sợ
xuống Ai Cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân
lớn. Chính Ta sẽ xuống Ai Cập với ngươi và chính Ta cũng
sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ vuốt mắt cho ngươi (St 46,3-4).
Rồi điều này đâu xảy ra nhƣ cách hiểu của chúng ta bởi vì
QUYỂN 2 251

chúng ta biết rằng cụ già Giacóp đã chết nơi đất Ai Cập (St
49,32) và lúc sinh thời cụ đâu có ra khỏi đó. Điều ấy chỉ
đƣợc thực hiện nơi hậu duệ của cụ Giacóp, mãi nhiều năm
sau mới ra khỏi đó và chính Thiên Chúa là ngƣời dẫn đƣờng
cho họ. Chắc hẳn ai đã biết lời Thiên Chúa hứa với Giacóp
nhƣ trên đều có thể tin rằng sau khi đích thân đến sống tại
Aicập theo mệnh lệnh và hồng ân của Thiên Chúa, vì Thiên
Chúa đã hứa đƣa cụ ra và hứa ủng hộ cụ, chắc chắn cụ
Giacóp sẽ đích thân ra khỏi đó cùng một cách cũng nhƣ lúc
đến vậy; và thế là ngƣời ấy đã hiểu sai và ngạc nhiên khi
thấy Giacóp qua đời tại đất Ai Cập và sự việc đã không đƣợc
thực hiện nhƣ ngƣời ấy mong đợi. Thành ra mặc dù lời nói
của Thiên Chúa tự nó rất chân thực, ngƣời ta vẫn có thể có
ngộ nhận lớn về lời ấy.
4 – Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Thủ Lãnh
chuyện tất cả các chi tộc Israel họp nhau giao chiến chống
chi tộc Benjamin để trừng phạt một tội đại ác mà chi tộc
này đã toa rập dung túng. Đƣợc Thiên Chúa chỉ định cho
một chi tộc dẫn đầu, họ chắc mẩm là sẽ thắng trận, nhƣng
rồi bị đánh bại trận với số tổn thất 22 ngàn ngƣời (x. Tl
20,1-21). Họ sửng sốt và khóc lóc trƣớc nhan Thiên Chúa
suốt ngày, chẳng hiểu nguyên nhân tại sao bại trận. Khi họ
hỏi Thiên Chúa có nên trở lại giao chiến không thì Thiên
Chúa bảo họ hãy đi. Cầm chắc thắng trận, họ đã xuất quân
một cách rất gan dạ và lần thứ hai này họ lại bị đánh tan
với số thƣơng vong 18 ngàn ngƣời (x. Tl 20,23-25). Họ bối
rối cuống cuồng không hiểu tại sao mình bại trận khi chính
Thiên Chúa truyền cho họ giao chiến, và đàng khác quân
252 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

số của họ lại trội hơn đối phƣơng, chi tộc Benjamin chỉ có
25 ngàn 600 lính đang khi họ có tới 400 ngàn (x. Tl
20,17). Thật ra họ đã lầm lẫn trong cách hiểu của họ chứ
Thiên Chúa không hề lừa dối. Ngài không bảo rằng họ sẽ
chiến thắng, mà chỉ bảo họ hãy chiến đấu. Qua những lần
bại trận ấy Thiên Chúa muốn trừng phạt họ vì một sự xao
lãng hoặc khinh thị nào đó, để làm cho họ đƣợc khiêm
nhƣờng. Còn lần cuối, khi trả lời cho họ, Ngài bảo họ sẽ
chiến thắng thì họ đã thắng mặc dù khá vất vả và phải
dùng nhiều mƣu lƣợc.
5 – Đó là một trong những cách các linh hồn thƣờng
lầm lẫn về những lời nói và mạc khải của Thiên Chúa bởi họ
hiểu chúng cách thiển cận theo nghĩa đen. Vì, nhƣ tôi đã giải
thích, mục tiêu chính của Thiên Chúa trong những chuyện ấy
là nhằm nói lên và thông ban cái thần trí chứa đựng trong đó,
là điều vốn khó hiểu. Cái thần trí ấy phong phú hơn văn tự
nhiều, đồng thời lại vƣợt xa các giới hạn của văn tự. Thành
thử kẻ nào cứ bám vào văn tự, vào câu nói, vào hình sắc và
những hình ảnh có thể biết đƣợc nơi thị kiến, sẽ không tránh
khỏi lầm lẫn nhiều và sau đó sẽ tự thấy xấu hổ và bối rối vì
đã để cho mình bị dẫn dắt theo giác quan, không dành chỗ
cho thần trí trong sự trơ trụi của giác quan. Nhƣ thánh Phaolô
có nói: Văn tự giết chết, thần trí mới làm cho sống (2Cr 3,6).
Nhƣ thế cần phải khƣớc từ văn tự, mà trong trƣờng hợp này
chính là giác quan, và lƣu lại trong tăm tối của đức tin, tức là
thần trí, là thứ mà giác quan không thể thấu hiểu đƣợc.
6 – Nhiều ngƣời dân Israel đã hiểu các lời nói và sấm
ngôn của các ngôn sứ theo nghĩa đen, không thấy thành hiện
QUYỂN 2 253

thực nhƣ họ đã hy vọng, cho nên đâm ra xem nhẹ và chẳng


thèm tin, đến nỗi cứ lặp lại một câu ngạn ngữ chế nhạo các
ngôn sứ. Isaia đã than phiền nhƣ sau: Liệu nó dạy được ai,
giải thích được cho ai am hiểu? Có chăng là cho trẻ thơ cai
sữa vừa thôi bú! Thôi thì: “Xáp la-xáp, xáp la-xáp, cáp la-
cáp, cáp la-cáp, dơ-e sam, dơ-e sam!” Phải, Người sẽ dùng
môi miệng cà lăm và tiếng nói xa lạ mà nói với dân này (Is
28,9-11). Câu ngạn ngữ ấy dịch ra là: Cứ hứa và hứa nữa đi,
cứ chờ và chờ thêm nữa ở đây một chút, ở kia một chút. Ở
đây rõ ràng là Isaia cho chúng ta hiểu rằng đám dân ấy đã
nhạo báng các lời ngôn sứ và chế diễu bằng lời ngạn ngữ: Cứ
chờ và chờ thêm nữa đi. Isaia cho chúng ta hiểu rằng các sấm
ngôn ấy chẳng bao giờ đƣợc thực hiện bởi họ đã bám vào
văn tự, tức sữa của con nít, và bám vào giác quan, tức núm
vú mẹ, là những thứ đi ngƣợc với sự cao cả của ơn minh triết
nơi thần trí. Vì điều này mà ngôn sứ Isaia đã nói: Ngài sẽ dạy
sự khôn ngoan của các lời ngôn sứ Ngài? Và Ngài sẽ làm
cho ai hiểu được giáo lý của Ngài nếu chẳng phải là những
kẻ đã xa lìa thứ “sữa” văn tự và các “núm vú” giác quan
của họ? Thảo nào họ chỉ hiểu lời các ngôn sứ theo thứ sữa
của lớp vỏ, của từ ngữ và của các núm vú giác quan của họ,
họ cứ lải nhải: Hãy cứ hứa và hứa nữa đi, hãy chờ và chờ
thêm nữa đi vv... Bởi vì Thiên Chúa phải nói với họ bằng
giáo lý từ miệng Ngài chứ không theo giáo lý của họ và bằng
thứ ngôn ngữ khác với ngôn ngữ họ dùng.
7 – Do đó, chẳng nên lƣu tâm đến giác quan cũng nhƣ
ngôn ngữ của chúng ta, bởi chúng ta biết rằng ngôn ngữ
của Thiên Chúa thì khác; nó thuộc về thần trí và rất khác
254 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

với cách hiểu chúng ta đồng thời lại rất khó. Và khó đến
nỗi chính Giêrêmia, mặc dù là ngôn sứ của Thiên Chúa,
khi thấy các ý tƣởng và lời Thiên Chúa quá khác biệt với
lý trí thông thƣờng của loài ngƣời, dƣờng nhƣ ông đã
hoảng loạn và muốn biện hộ cho dân chúng, ông nói: Ôi,
lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, quả thật Ngài đã gạt gẫm
dân này và Giêrusalem. Ngài từng nói: 'Các ngươi sẽ được
bình an', thế mà gươm lại đã thọc vào cổ! (Gr 4,10). Thứ
bình an Thiên Chúa hứa thực hiện là thứ an bình giữa
Thiên Chúa và loài ngƣời qua trung gian Đấng Mêsia mà
Ngài sẽ sai đến cho họ, thế mà họ lại hiểu về thứ bình an
tạm bợ. Thế nên khi chiến tranh và lao nhọc xảy đến cho
họ thì có vẻ nhƣ Thiên Chúa đã lừa gạt họ bởi vì mọi thứ
xảy ra đều ngƣợc với những gì họ mong đợi. Và cũng theo
lời ngôn sứ Giêrêmia, họ đã thốt lên: Người ta đợi hòa
bình, nhưng chẳng được may lành chi hết! (8,15). Thực là
họ không thể không lầm lẫn một khi cứ dẫn dắt mình sát
theo mặt chữ.
Vì nếu bám sát mặt chữ thì ai mà chẳng bối rối và sai
lầm trƣớc lời tiên tri của Đavít về Đức Kitô trong suốt thánh
vịnh 71? Cách riêng ở chỗ Đavít nói: Ngài làm bá chủ từ
biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất (câu
8). Và ở câu: Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn
cùng không chỗ tựa nương (Tv 71,12). Thế mà rồi lại chỉ
thấy Thiên Chúa sinh ra quá thấp hèn, sống một cuộc đời
nghèo nàn, và chết trong khốn khổ đến nỗi chẳng những
không thống trị quả đất nhất thời trong lúc bình sinh mà Ngài
lại còn phục tùng nhiều kẻ bé mọn cho tới khi phải chết dƣới
QUYỂN 2 255

quyền của Phongxiô Philatô? Chẳng những Ngài không nhất


thời giải thoát các môn đệ đáng thƣơng của Ngài khỏi tay
quyền thế trần gian mà còn để họ bị chúng bách hại và tàn
sát vì danh Ngài?
8 – Chính các lời tiên tri ấy lẽ ra phải đƣợc hiểu theo
nghĩa tâm linh để chỉ về Chúa Kitô, và theo nghĩa ấy chúng
sẽ hết sức chân thực. Vì Chúa Kitô là Chủ Tể không những
toàn cõi đất mà cả cõi trời bởi lẽ Ngài là Thiên Chúa. Còn
những ngƣời nghèo khó đi theo Ngài chẳng những đƣợc
chuộc lại và đƣợc giải thoát khỏi quỷ ma, là thứ quyền lực
mà họ chẳng trông nhờ đƣợc ai cứu giúp để chống lại, mà
hơn nữa, họ còn đƣợc Ngài làm cho trở nên những kẻ thừa
kế Nƣớc Trời. Nhƣ thế khi nói về Chúa Kitô và những kẻ
theo Ngài, Thiên Chúa đã nói theo nghĩa chính yếu, nói về
vƣơng quốc vĩnh cửu và tự do vĩnh hằng. Đang khi đó
ngƣời ta lại theo cách trần tục để hiểu về những thứ không
chính yếu, nhƣ về quyền làm chủ ở đời và tự do trần thế,
những thứ này Thiên Chúa ít quan tâm và trƣớc nhan Ngài
chúng cũng chẳng phải là vƣơng quốc hay tự do gì cả. Do
đó, vì họ bị mù tối do sự thấp kém của văn tự cũng nhƣ vì
không hiểu đƣợc thần trí và sự thật hàm chứa trong đó, họ
đã sát hại Thiên Chúa và là Chúa của họ theo nhƣ cách nói
của thánh Phaolô: Dân cư thành Giêrusalem và các thủ
lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giêsu; khi kết án Ngài,
họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày
Sabát (Cv13,27).
9 – Việc hiểu đúng đắn lời Thiên Chúa thật khó, đến
nỗi ngay cả các môn đệ Đức Kitô vốn từng chung sống với
256 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Ngài, thế mà vẫn lầm lẫn về lời Ngài. Chẳng hạn nhƣ sau khi
Chúa chịu tử nạn, có hai ngƣời lên đƣờng về Emmau, lòng
buồn rầu và thất vọng. Họ nói: Chúng tôi cứ hy vọng là Ngài
sẽ giải thoát Israel (Lc 24,21) bởi lòng họ cứ hiểu ơn cứu độ
và quyền cai trị của Ngài theo cách trần thế nhƣng Đức Kitô
Đấng cứu chuộc chúng ta đã hiện ra cho họ và khiển trách họ
khờ dại, chậm trí và cứng lòng tin đối với những điều các
ngôn sứ đã tiên báo (x. Lc 24,25). Thậm chí ngay cả khi
Chúa về trời, một số ngƣời vẫn còn ngớ ngẩn hỏi Ngài: Thưa
Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục lại vương quốc
Israel chăng? (Cv1,6)...
Chúa Thánh Thần còn khiến nhiều điều đƣợc nói lên
với một ý nghĩa khác hẳn điều ngƣời ta muốn hiểu. Chẳng
hạn việc Ngài khiến Caipha nói về Chúa Kitô rằng: Thà một
người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt (Ga
11,50) - Caipha đã không tự mình nói ra lời ấy; ông đã nói và
hiểu lời ấy theo một mục đích, đang khi Chúa Thánh Thần
lại nhắm đến mục đích khác.
10 – Do đó cho dù các lời nói và các mạc khải phát
xuất từ Thiên Chúa, ta vẫn không thể tin chắc vào chúng bởi
chúng ta có thể lầm lẫn nhiều và rất dễ theo cách hiểu của
chúng ta về chúng. Ý nghĩa tâm linh của tất cả những điều ấy
đều có thể là vực thẳm và rất sâu. Nếu ta muốn khoanh vùng
vào phạm vi ta có thể hiểu về chúng cũng nhƣ vào giới hạn
mà các giác quan của ta có thể nhận thức thì khác nào ta
muốn xòe tay nắm bắt khí trời! Khí trời sẽ vuột mất, còn lại
bàn tay trống không.
QUYỂN 2 257

11 – Chính vì thế, vị linh hƣớng cần phải ngăn cản đệ


tử mình để họ đừng hạ thấp tâm linh xuống chỗ coi trọng
những nhận thức siêu nhiên. Dù ra sao đi nữa, chúng chỉ là
những bụi bặm không đáng kể. Khi chiếm hữu chúng, ngƣời
ta chỉ chiếm đƣợc những ơn lành cực nhỏ, không mảy may
giá trị về mặt tâm linh. Vị linh hƣớng cần phân cách ngƣời
đệ tử khỏi mọi thị kiến và mọi lời nói siêu nhiên, đồng thời
dạy họ biết lƣu lại trong tự do và trong tăm tối của đức tin, vì
đó là nơi Thiên Chúa sẽ tuôn đổ cho họ sự tự do tâm linh và
ân sủng dồi dào, nhờ đó, họ sẽ đƣợc ơn khôn ngoan để hiểu
đƣợc đúng đắn những lời của Thiên Chúa.
Nếu chẳng phải là ngƣời tâm linh, ngƣời ta không thể
nào xét định những vấn đề thuộc về Thiên Chúa cũng
không thể hiểu đƣợc chúng cho đúng đắn. Bao lâu còn xét
đoán theo giác quan, họ chƣa phải là ngƣời tâm linh. Vì
thế, dù những lời ấy đến dƣới lớp áo giác quan họ vẫn
không hiểu đƣợc chúng. Quả đúng nhƣ lời thánh Phaolô
nói: Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận
những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên
rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới
có thể xét đoán. Nhưng con người sống theo Thần Khí thì
xét đoán được mọi sự (1Cr 2,14-15). Con người sống theo
tính tự nhiên ở đây đƣợc hiểu về những ngƣời chỉ để cho
giác quan dẫn dắt mình, còn người sống theo Thần Khí là
những ngƣời không để cho giác quan dẫn dắt. Do đó thật là
liều lĩnh khi dám giao tiếp với Thiên Chúa qua con đƣờng
những nhận thức siêu nhiên nhờ giác quan, hoặc cho phép
kẻ khác làm nhƣ thế.
258 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

12 – Để hiểu vấn đề này hơn, chúng ta hãy đƣa ra vài ví


dụ: Bạn hãy thử đặt ra trƣờng hợp một vị thánh đang sầu não
vì bị các kẻ thù bắt bớ thì đƣợc Thiên Chúa trả lời nhƣ sau:
“Ta sẽ giải thoát con khỏi tất cả kẻ thù của con”. Lời tiên tri
ấy vẫn rất chân thực cả khi đám kẻ thù lƣớt thắng và vị thánh
ấy phải chết vì tay chúng. Kẻ nào hiểu điều ấy theo nghĩa
trần tục hẳn sẽ lầm to: vì có thể Thiên Chúa đã nói về sự tự
do cũng nhƣ sự chiến thắng chân thực và chính yếu, tức ơn
cứu độ, nhờ đó linh hồn đƣợc giải thoát và chiến thắng mọi
kẻ thù của mình một cách chân thực và cao vời hơn nhiều so
với việc đƣợc giải thoát ở đời này. Do đó lời tiên tri ấy chân
thực và phong phú hơn nhiều so với điều ngƣời ta có thể hiểu
(nếu ngƣời ta hiểu theo trần tục ở đời này; qua lời Ngài
Thiên Chúa luôn nhắm đến cái ý nghĩa chính yếu và hữu ích
hơn) còn loài ngƣời thì lại có thể hiểu theo cách thức và ý
định của mình (tức theo cái ý nghĩa ít chính yếu hơn) vì thế
dễ rơi vào sai lầm. Nhƣ chúng ta thấy trong lời tiên tri về
Đức Kitô mà vua Đavít đã nói lên nơi Thánh vịnh thứ 2, Con
sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành, nghiền nát chúng
như đồ sành đồ gốm (Tv 2,9). Ở đây Thiên Chúa phán về
quyền thống trị chính yếu, toàn vẹn và vĩnh cửu - quyền này
đã đƣợc hoàn tất rồi. Ngài không nói về thứ quyền thống trị
trần thế, thứ yếu, đã không đƣợc thực hiện trong cuộc đời
trần thế của Đức Kitô.
13 – Chúng ta hãy đƣa ra một ví dụ khác. Một linh hồn
nọ rất khao khát đƣợc tử đạo. Thiên Chúa cho biết: “Con sẽ
đƣợc tử đạo” rồi ban cho sự an ủi thâm sâu và niềm tin chắc
vào lời hứa ấy. Cuối cùng linh hồn ấy không hề bị giết vì đạo.
QUYỂN 2 259

Hẳn nhiên, lời hứa trên vẫn chân thực, nhƣng tại sao nó lại
không đƣợc thực hiện? Là vì nó sẽ đƣợc hoàn tất khi điều
chính yếu và cốt cán đƣợc làm tròn. Thiên Chúa sẽ cốt yếu
thông ban cho linh hồn ấy tình yêu và phần thƣởng tử đạo.
Ngài biến linh hồn ấy thành một vị tử đạo vì yêu mến, ban cho
ngƣời ấy một chuỗi dài đau khổ còn đau đớn hơn cả cái chết.
Bằng cách đó, Thiên Chúa đã thực sự thực hiện cả nguyện
vọng của linh hồn lẫn lời hứa của Ngài. Bởi vì điểm chính yếu
nơi nguyện vọng của linh hồn không phải là cách chết mà là
khát mong dâng lên Thiên Chúa chứng từ tình yêu của một vị
tử đạo và sự thực thi tình yêu đối với Thiên Chúa nhƣ việc tử
đạo vậy. Vì cái chết tử đạo tự nó chẳng có giá trị gì nếu không
có thứ tình yêu này. Qua nhiều phƣơng cách khác rất hoàn hảo
Thiên Chúa đã thƣơng ban cho linh hồn thứ tình yêu này cùng
với việc thể hiện tình yêu và phần thƣởng của việc tử đạo.
Thành thử cho dù không chết tử đạo, linh hồn vẫn đƣợc toại
nguyện vì đã đạt đƣợc điều nó khao khát.
Khi những khát vọng này cũng nhƣ những khát vọng
tƣơng tự phát sinh từ một thứ tình yêu mãnh liệt thì dầu
chúng không đƣợc hoàn tất theo cách ngƣời ta tƣởng nghĩ
hoặc hiểu về chúng thì chúng vẫn đƣợc hoàn tất một cách
khác cao cả hơn và tôn vinh Thiên Chúa nhiều hơn cách
ngƣời ta thỉnh cầu. Vì thế Đavít đã nói: Lạy Chúa, Ngài nghe
thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn (Tv 10,17) và Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa cũng nói trong sách Châm Ngôn:
Chính nhân mong ước gì, ắt sẽ được ban cho (Cn 10,24). Do
đó, chúng ta thấy nhiều vị thánh từng ƣớc mong nhiều điều
đặc biệt cho Thiên Chúa nhƣng những khát vọng ấy đã
260 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

không đƣợc hoàn tất cho họ ở đời này, dù vậy phải tin rằng
vì khát vọng của họ chính đáng và chân thực nên sẽ đƣợc
thực hiện một cách hoàn hảo ở đời sau. Do đó, lời Thiên
Chúa vẫn là chân thực khi Ngài hứa với các vị ấy ở đời này:
“Khát vọng các con sẽ đƣợc thực hiện” dù cho điều này
không xảy đến theo cách các vị ấy nghĩ.
14 – Những lời nói và thị kiến Thiên Chúa có thể chân
thực vì chắc chắn theo cách này và nhiều cách khác, nhƣng
chúng ta vẫn lầm lẫn về chúng vì không biết hiểu về chúng
một cách cao siêu và chính yếu cũng nhƣ theo những ý định
và ý nghĩa mà Thiên Chúa che giấu ở đó. Do đó, điều chắc
chắn và an toàn hơn hết là các linh hồn nên khôn ngoan tránh
hẳn những chuyện siêu nhiên này bằng cách, nhƣ chúng tôi
đã nói, tập quen giữ cho tâm linh đƣợc tinh tuyền trong đức
tin tăm tối, đó là phƣơng thế để đƣợc kết hiệp nên một với
Thiên Chúa.
QUYỂN 2 261

Chương 20
Vì sao không chắc chắn?*

Chương này trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh, làm


thế nào, những lời Thiên Chúa nói, mặc dù luôn chân thực,
lại không phải là luôn chắc chắn trong mọi trường hợp cụ
thể của chúng.
1 – Bây giờ chúng ta cần minh chứng nguyên nhân thứ
hai khiến cho các thị kiến và lời nói phát xuất từ Thiên Chúa
dầu tự nơi chúng luôn chân thực, không phải bao giờ cũng
chắc chắn đối với chúng ta. Điều này là do bởi các duyên cớ
làm chỗ dựa nền tảng cho chúng. Vì thông thƣờng Thiên
Chúa nói những điều ấy nhƣ những phán quyết dành cho các
thụ tạo và những hành vi của chúng, là những yếu tố hay
thay đổi và có thể bất thành. Nếu những yếu tố ấy thay đổi
hoặc bất thành thì phán quyết về chúng cũng sẽ nhƣ thế. Bởi
lẽ khi một sự việc dựa vào một sự việc khác thì nếu bên này
hỏng, bên kia cũng hỏng luôn. Chẳng hạn Thiên Chúa phán:
“Trong một năm nữa Ta sẽ giáng một tai ƣơng nào đó trên
vƣơng quốc này” và nguyên nhân đƣa đến lời đe dọa ấy là
một sự xúc phạm nào đó mà tại vƣơng quốc ấy ngƣời ta đã
phạm đến Thiên Chúa. Nếu sự xúc phạm ấy ngừng lại hoặc
đổi thay thì hình phạt cũng có thể sẽ ngừng lại. Nhƣ thế, lời
đe dọa ấy vẫn chân thực vì nó dựa trên sự lầm lỗi cụ thể và hẳn
lời đe dọa ấy đã đƣợc thi hành nếu nhƣ lầm lỗi ấy cứ kéo dài.
2 – Chuyện ấy đã xảy ra tại thành Ninivê. Thiên Chúa
đã phán: Còn 40 ngày nữa Ninivê sẽ bị phá hủy (Gn 3,4).
262 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Dân thành đã ăn năn sám hối. Cái nguyên nhân của lời đe
dọa (tức tội lỗi dân thành) không còn nữa cho nên lời đe dọa
đã không đƣợc thực hiện. Nếu nhƣ dân thành không sám hối
thì ắt hẳn lời đe dọa ấy đã đƣợc thực hiện rồi. Chuyện trong
sách Các Vua quyển I (21,21) cũng vật. Vua Akab đã phạm
một tội rất nặng. Thiên Chúa đã sai thánh phụ Êlia của chúng
ta làm sứ giả đến báo cho vua một hình phạt rất lớn dành cho
chính nhà vua, hoàng gia và vƣơng quốc.
Thế nhƣng vua Akab đã đớn đau xé áo mình, mặc áo
nhặm, kiêng ăn và ngủ trên bao bị, rất sầu não và khiêm hạ.
Thiên Chúa liền gửi đến cho vua những lời sau đây cũng qua
chính vị ngôn sứ ấy: Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta
sẽ không giáng họa trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến
đời con nó, Ta sẽ giáng họa xuống nhà nó (1V 21,27-29). Ở
đây chúng ta thấy rằng vì Akab đã thay đổi tâm hồn và sự
quyến luyến của ông nên Thiên Chúa cũng thay đổi án quyết
của Ngài.
3 – Từ đó chúng ta có thể suy ra nhiều điều cho chủ đề
đang bàn ở đây. Dù Thiên Chúa đã mạc khải hay đã nói quả
quyết với một linh hồn sự việc nào đó, hoặc lành hoặc dữ
liên can đến ngƣời ấy hoặc nhiều ngƣời khác, điều ấy vẫn có
thể thay đổi hoặc tăng giảm nhiều ít, hoặc bị hủy bỏ hoàn
toàn tùy theo sự thay đổi hay biến cải tâm tình của linh hồn
ấy hoặc tùy theo duyên cớ mà Thiên Chúa đã dựa vào nay
còn hay mất. Thế là điều ấy không đƣợc hoàn tất nhƣ ngƣời
ta mong đợi và, ngoại trừ một mình Thiên Chúa, thƣờng
chẳng ai biết tại sao. Vì lẽ mặc dù Thiên Chúa phán, dạy và
hứa nhiều điều thì đâu phải để ngƣời ta phải am hiểu hay
QUYỂN 2 263

chiếm hữu chúng ngay nhƣng là để về sau họ sẽ hiểu chúng


đúng vào lúc họ cần đƣợc soi sáng về chúng hoặc thấy có
hậu quả phát sinh từ chúng. Đó là cách Chúa Giêsu đã xử sự
với các môn đệ Ngài. Ngài đƣa ra nhiều dụ ngôn và phán
quyết mà họ không hiểu nổi sự khôn ngoan trong đó, nhƣng
đến khi họ phải giảng giải thì Chúa Thánh Thần đã đến trên
họ. Chính Chúa Kitô đã báo cho họ rằng Chúa Thánh Thần
sẽ cắt nghĩa cho họ tất cả những gì Ngài đã loan báo cho họ
trong cuộc đời dƣơng thế của Ngài (Ga 14,26). Và khi đề cập
việc Chúa Kitô vào thành Giêrusalem thánh Gioan cũng nói:
Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau
khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh
Thánh đã chép những điều đó về Ngài (Ga 12,16). Nhƣ thế,
nhiều sự việc rất cụ thể thuộc về Chúa có thể xảy đến trong
linh hồn một ngƣời mà cả ngƣời ấy lẫn những kẻ dẫn dắt
ngƣời ấy đều không hiểu đƣợc cho mãi đến thời điểm thích
hợp của chúng.
4 – Chuyện trong sách Samuel quyển I cũng thế. Thiên
Chúa phẫn nộ với Hêli, vị tƣ tế của Israel, vì các tội lỗi con
cái ông phạm mà ông không sửa phạt. Ngài sai Samuel đến
nói với ông: Quả Ta có nói là nhà của ngươi và nhà cha
ngươi sẽ đi trước nhan Ta mãi mãi, nhưng giờ đây thì không
đời nào! (1Sm 2,30). Chức vị tƣ tế đã đƣợc thành lập nhằm
đem lại vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa và theo đó
Thiên Chúa đã hứa ban vĩnh viễn cho nhà ông Hêli, nhƣng
khi lòng nhiệt thành của ông đối với danh dự của Thiên Chúa
đã sa sút, ông coi trọng con cái mình hơn Thiên Chúa, che
giấu tội lỗi chúng vì sợ làm chúng bẽ mặt, do đó lời hứa cũng
264 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thành tiêu ma. Hẳn lời hứa ấy sẽ mãi mãi kéo dài nếu họ vẫn
luôn tiếp tục nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa.
Do đó, đừng nghĩ rằng những lời nói và mạc khải đã
phát xuất tự Thiên Chúa là nhất định phải xảy ra theo
đúng từng chữ, nhất là khi chúng lại lệ thuộc các yếu tố
nhân loại là những yếu tố có thể thay đổi, biến cải hoặc
bất thành.
5 – Khi nào những điều ấy lệ thuộc các nguyên nhân
này, thì Thiên Chúa biết nhƣng Ngài không luôn bày tỏ ra.
Ngài nói hoặc mạc khải ra nhƣng vẫn giữ thinh lặng,
không cho biết các điều kiện của Ngài. Chẳng hạn đối với
dân thành Ninivê, Ngài đã quả quyết báo cho họ là họ sẽ bị
tiêu diệt sau 40 ngày (Gn 3,4). Và những lần khác Ngài lại
tuyên bố rõ - nhƣ đối với Rôbôam: Nếu ngươi vâng nghe
tất cả những điều Ta truyền cho ngươi... mà tuân giữ các
giới răn và mệnh lệnh của Ta như Đavít tôi tớ Ta đã làm,
thì Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền
vững như Ta đã xây cho Đavít (1 Sm 11,38). Tuy nhiên,
dầu Thiên Chúa có tuyên bố điều kiện ấy hay không thì ta
vẫn không thể tự tiện giải thích lời Ngài, bởi vì làm sao ta
có thể hiểu đƣợc những sự thật ẩn tàng và biết bao ý nghĩa
hàm chứa nơi các sấm ngôn của Ngài. Ngài ngự trên trời
cao thẳm và tuyên phán theo đƣờng lối đời đời, còn chúng
ta chỉ là những kẻ đui mù đáng thƣơng trên mặt đất này,
chúng ta chỉ hiểu đƣợc những đƣờng lối của xác phàm mau
qua. Nhƣ lời Đấng Khôn Ngoan đã nói: “Thiên Chúa ngự
trên trời, còn bạn ở dưới đất. Vậy hãy ít lời” (Gv 5,1).
QUYỂN 2 265

6 – Hẳn các bạn sẽ bảo tôi rằng nếu chúng ta không thể
hiểu và cũng chẳng nên xen vào những chuyện ấy thì tại sao
Thiên Chúa lại thông ban chúng cho chúng ta? Tôi đã nói rằng
mỗi chuyện sẽ đƣợc hiểu vào lúc của nó theo lệnh của Đấng
phán ra nó và Ngài muốn cho ai hiểu thì ngƣời ấy sẽ hiểu. Mà
nhƣ thế là đúng, vì Thiên Chúa chẳng làm gì vô cớ hoặc sai sự
thật. Do đó phải tin chắc rằng ta không thể nào hiểu thấu ý
nghĩa những lời và những sự thuộc về Thiên Chúa, cũng
không thể quyết đoán về ý nghĩa những gì mình nghe hoặc
thấy, nếu không sẽ bị lầm to và sẽ gặp nhiều bối rối.
Các ngôn sứ là những ngƣời nắm giữ lời Thiên Chúa,
họ biết rõ điều ấy. Đối với họ, truyền đạt lời loan báo cho
dân chúng quả là thách đố lớn bởi vì, nhƣ đã nói, nhiều lời
trong số các lời ấy không xảy ra đúng theo mặt chữ. Điều đó
khiến các ngôn sứ trở nên lố bịch và phải hứng chịu nhiều
diễu cợt, đến nỗi Giêrêmia đã phải thốt lên: Suốt ngày con đã
nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con. Mỗi lần nói
năng là con phải la lớn, phải kêu lên: „Bạo tàn! Phá hủy!‟ Vì
lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày.
Có lần con tự nhủ: Tôi sẽ không nghĩ đến Ngài (20,7-9). Vị
ngôn sứ thánh nói thế không phải vì đã mất sự nhẫn nhục
nhƣng nhƣ một con ngƣời không còn chịu đựng nổi những
đƣờng lối khúc mắc của Thiên Chúa. Tuy nhiên những lời ấy
cũng cho ta hiểu rõ sự cách biệt trời vực giữa những lời
Thiên Chúa phán với việc chúng phải xảy ra theo đúng mặt
chữ. Các ngôn sứ của Thiên Chúa thƣờng bị xem là những kẻ
bịp bợm và họ phải chịu đựng nhiều vì những lời họ loan
báo, đến nỗi ở một nơi khác, Giêrêmia nói: Số phận của
266 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chúng tôi là vực thẳm và kinh hoàng, là đổ nát và tan hoang


(Ai ca 3,47).
7 – Ông Giôna bỏ trốn khi Thiên Chúa sai ông tới rao
giảng về sự hủy diệt thành Ninivê, vì ông vốn biết rằng
những lời Thiên Chúa phán có thể biến đổi so với sự am hiểu
của loài ngƣời khi các nguyên nhân của những lời ấy biến
đổi. Vì thế, để thiên hạ khỏi chế nhạo ông nếu lời tiên báo
của ông không đƣợc thực hiện, Giôna đã chạy trốn, không
chịu loan báo những lời ấy (x. Gn 1,1-3). Rồi Giôna đã lƣu
lại ngoài thành suốt 40 ngày chờ xem lời ngôn sứ ấy có đƣợc
thực hiện không (Gn 1,4-5). Khi lời ấy không đƣợc thực
hiện, ông hết sức buồn phiền đến nỗi đã thƣa với Chúa: Ôi,
lạy Đức Chúa, đó chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở
quê nhà sao? Chính vì thế mà con đã vội vàng trốn đi Tácsít.
Rồi ông đã phẫn uất và cầu xin Thiên Chúa cất mạng sống
ông đi (x. Gn 4,2-3).

8 – Vậy có gì phải ngạc nhiên khi những điều Thiên Chúa


phán và mạc khải cho các linh hồn không đƣợc thực hiện nhƣ
họ tƣởng nghĩ? Thiên Chúa quả quyết hoặc bày tỏ cho một linh
hồn về một điều lành hoặc dữ nào đó, cho chính nó hay cho
một ngƣời khác, đều dựa trên duyên cớ một sự nhiệt tình, một
sự phục vụ hay một xúc phạm mà linh hồn ấy hoặc linh hồn
khác thực hiện. Nếu duyên cớ mày cứ bền bỉ kéo dài, điều ấy ắt
sẽ đƣợc thực hiện; tuy nhiên vì không chắc gì cái duyên cớ nói
trên bền bỉ kéo dài cho nên sự thực hiện lời quả quyết ấy cũng
không chắc chắn. Do đó, chớ bao giờ an tâm nơi sự hiểu biết
của mình mà chỉ nên chắc dạ nơi đức tin mà thôi.
QUYỂN 2 267

Chương 21
Sự tò mò không cần thiết*

Chương này nhằm minh giải rằng, mặc dù đôi khi


Thiên Chúa có đáp ứng, bày tỏ những điều người ta xin Ngài
mạc khải, nhưng Ngài không thích thấy họ dùng cách này.
Dù Thiên Chúa có đáp ứng thì thường Ngài vẫn phẫn nộ vì
những lời yêu cầu ấy.
1 – Nhƣ chúng tôi đã nói, một số ngƣời sống theo tâm
linh đôi khi đã theo tính tò mò để tìm biết một số việc qua
con đƣờng siêu nhiên và đôi khi Thiên Chúa cũng có đáp lại
những yêu cầu của họ, nên họ xác tín rằng cách ấy là tốt và
hẳn Thiên Chúa cũng vui thích lắm. Thật ra, dù Thiên Chúa
có trả lời đi nữa thì đó cũng không phải là phƣơng sách tốt,
chẳng những Thiên Chúa không thích thú mà còn bực mình.
Hơn nữa, Ngài còn phẫn nộ và bị xúc phạm nhiều về điều ấy.
Lý do là vì không một thụ tạo nào đƣợc phép vƣợt khỏi
những giới hạn tự nhiên Thiên Chúa đã vạch ra cho nó vận
hành. Ngài đã đặt ra cho con ngƣời những giới hạn tự nhiên
và hợp lý để tự điều khiển lấy mình. Vì thế họ không đƣợc
phép tìm cách vƣợt quá những giới hạn ấy. Cố sức kiểm
chứng hay hiểu biết các sự việc thông qua con đƣờng siêu
nhiên là vƣợt qua những ranh giới tự nhiên và điều này là
không đƣợc phép. Cho nên Thiên Chúa chẳng thích thú gì
điều đó vì tất cả những điều gì không đƣợc phép đều xúc
phạm đến Ngài. Vua Akab biết rõ điều ấy cho nên khi Chúa
phán với ông qua lời ngôn sứ Isaia, bảo ông hãy xin một dấu
268 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

lạ, ông đã trả lời: Tôi sẽ chẳng xin một điều như thế và tôi sẽ
không thử thách Thiên Chúa (Is 7,12). Bởi lẽ, muốn thông
giao với Ngài qua những đƣờng nẻo khác thƣờng, hay siêu
nhiên, tức là thử thách Thiên Chúa.
2 – Hẳn các bạn sẽ nói: Nếu thực sự Thiên Chúa không
vui với những câu hỏi ấy thì tại sao đôi khi Ngài vẫn trả lời?
Tôi xin thƣa đôi khi chính là ma quỷ trả lời. Còn nếu đó là
Thiên Chúa, chính là vì Ngài chiều theo sự yếu đuối của linh
hồn muốn đi qua con đƣờng ấy, để nó khỏi nản mà lùi bƣớc,
hoặc để nó khỏi nghĩ rằng Thiên Chúa bất bình với nó rồi vì
thế mà rơi vào cám dỗ, cũng có thể vì nhiều lý do khác tùy
theo sự mỏng dòn của linh hồn ấy mà Thiên Chúa thấy nên
trả lời nó qua nẻo đƣờng ấy. Ngài cũng hành động nhƣ thế
đối với nhiều linh hồn yếu đuối và nhu nhƣợc khi ban cho họ
sự vui thích và dịu dàng đầy cảm giác lúc họ giao tiếp với
Ngài, nhƣ chúng tôi đã nói trên. Đó chẳng phải vì Thiên
Chúa thích ngƣời ta giao tiếp với Ngài qua lối ấy, mà chính
vì nhƣ chúng tôi đã nói, Ngài thƣờng ban ơn cho mỗi ngƣời
theo theo cách thế hay tầm mức của họ. Có thể nói Thiên
Chúa nhƣ một dòng suối, ai mang theo bình nào thì múc theo
sức chứa của bình ấy. Đôi khi Ngài để họ lấy nƣớc qua các
ống dẫn khác thƣờng nhƣng không phải vì thế mà ngƣời ta
đƣợc phép tìm lấy nƣớc nơi các ống dẫn ấy. Chỉ riêng Thiên
Chúa mới có thể ban điều đó khi nào, cách nào và cho kẻ nào
Ngài muốn hoặc vì một lý do nào đó Ngài thấy là tốt, mà loài
ngƣời không đƣợc phép đòi hỏi. Nhƣ thế, nhƣ chúng tôi đã
nói, đôi khi Thiên Chúa chiều theo sự thèm muốn và khẩn
khoản của một số linh hồn vì họ quá ngay thật đơn sơ, khiến
QUYỂN 2 269

đã Ngài không nỡ từ chối kẻo họ buồn lòng, chứ chẳng phải


vì Ngài thích thú gì chuyện đó.
3 – Xin nêu một minh họa khác để có thể hiểu rõ hơn.
Một ông bố trong gia đình dọn lên bàn nhiều thức ăn khác
nhau, một số bổ hơn số khác. Có một em bé muốn dùng món
ở trong một đĩa nọ mặc dù món này chẳng phải là ngon hơn
nhƣng đã chạm mắt nó đầu tiên và nó xin món này bởi nó
khoái ăn món ấy hơn những món khác. Ông bố thấy rằng nếu
cho thằng bé món tốt hơn nó sẽ không thích, nó chỉ nhận
món nó xin mà thôi và nó chỉ khoái mỗi món đó; e rằng
thằng bé chẳng chịu ăn và đâm ra buồn phiền, ông đành miễn
cƣỡng cho nó món nó xin. Thiên Chúa cũng đã hành động
nhƣ thế đối với con cái Israel khi họ xin Ngài ban cho họ một
vị vua. Ngài đã miễn cƣỡng ban cho họ, dầu điều ấy không
tốt cho họ. Vì vậy Ngài đã phán với Samuel: Ngươi cứ nghe
theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì
không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta,
không chịu để Ta làm vua của chúng (1S 8,5-7). Thiên Chúa
cũng xử sự nhƣ thế đối với một số linh hồn. Ngài ban cho họ
điều chẳng phải là tốt nhất cho họ, chỉ vì họ không muốn
hoặc không biết đi qua một lối khác. Nếu nhiều lúc họ nhận
đƣợc những an ủi và những sự dịu dàng êm ái về tâm linh
hay giác quan, chính là vì Thiên Chúa thấy họ không thể ăn
đƣợc thứ thức ăn mạnh mẽ cứng cáp hơn, tức là những thử
thách nơi thập giá của Con Ngài. Đó mới là thức ăn mà
Thiên Chúa muốn họ quý mến hơn bất cứ thứ gì khác.
4 –Tôi cho rằng việc muốn biết chuyện này chuyện nọ
qua con đƣờng siêu nhiên còn tệ hại hơn nhiều so với việc
270 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

muốn có những thích thú tâm linh nơi giác quan. Bởi lẽ tôi
chẳng hề thấy linh hồn nào có tham vọng những chuyện ấy
mà tránh đƣợc tội, ít ra là tội nhẹ, mặc dù linh hồn đó có
những chủ đích tốt và đã đạt mức độ hoàn thiện cao. Cả
những ngƣời bảo ngƣời khác hoặc chuẩn thuận cho ngƣời
khác làm những chuyện ấy cũng thế. Bởi không có gì đòi ta
phải làm nhƣ thế, bởi lẽ lý trí tự nhiên, lề luật và giáo lý Tin
Mừng đã quá đủ để hƣớng dẫn chúng ta. Không một nỗi khó
khăn hay một nhu cầu nào mà không thể đƣợc giải quyết và
chữa trị bằng các phƣơng thế thông dụng này, vừa đẹp lòng
Thiên Chúa vừa lợi ích cho các linh hồn.
Ta cần bám lấy lý trí và giáo lý Tin Mừng đến độ nếu
giờ đây, vô tình hay hữu ý, ta nhận đƣợc một số mạc khải
siêu nhiên, ta sẽ chỉ tiếp nhận những gì hoàn toàn phù hợp
với lý trí và luật Tin Mừng mà thôi. Ta tiếp nhận nhƣ thế
chẳng phải vì đó là chuyện đƣợc mạc khải mà chỉ vì nó hợp
lý trí và đồng thời ta sẽ bỏ qua một bên tất cả những gì chỉ là
thuần túy mạc khải. Cần nhớ rằng một khi có chuyện mạc
khải thì việc cứu xét về tính hợp lý này còn cần phải kỹ hơn
nhiều so với trƣờng hợp không có chuyện mạc khải. Bởi lẽ,
để lƣờng gạt ta, ma quỷ thƣờng nói nhiều điều thuộc vị lai có
vẻ hết sức chân thật, lại còn phù hợp với lý trí nữa.
5 – Từ đó, trong mọi nhu cầu, mọi vất vả và khó khăn
của ta, ta chẳng có phƣơng tiện nào tốt hơn và bảo đảm hơn
là cầu nguyện và hy vọng Thiên Chúa sẽ đến cứu giúp ta
bằng những phƣơng thế Ngài muốn. Chúng ta đọc thấy lời
khuyên này trong Kinh Thánh qua chuyện vua Giôsaphat,
giữa lúc rất đau buồn bị quân thù vây hãm, vị vua thánh thiện
QUYỂN 2 271

này cầu nguyện và thƣa với Thiên Chúa: Quả thật, chúng
con không đủ sức địch nổi đám dân đông đảo đến tấn công
chúng con đâu. Chúng con chỉ biết ngước mắt nhìn lên Ngài
(2Sb 20,12). Ông cầu nguyện nhƣ thế để Thiên Chúa ban
phát cho theo cách thức đẹp lòng Ngài hơn cả.
6 –Tới đây, bạn đã hiểu vì sao, dù đôi khi Thiên Chúa
đáp lại những yêu sách ấy nhƣng Ngài vẫn thịnh nộ. Tôi xin
đƣợc nêu thêm một số điển chứng trong Kinh Thánh.
Sách Samuel quyển I có viết rằng vua Saulê đã xin
ngôn sứ Samuel, là ngƣời đã quá cố, về nói chuyện với vua
và vị ngôn sứ này đã hiện về. Tuy vậy Thiên Chúa đã thịnh
nộ vì ngay tức khắc Samuel đã khiển trách nhà vua vì đã làm
điều đó, Samuel nói: Tại sao ông lại quấy rầy tôi, bắt tôi
phải sống dậy? (1Sm 28,15).
Sách Dân Số kể rằng con cái Israel đòi đƣợc ăn thịt và
Thiên Chúa đã đáp ứng nhƣng Ngài đã thịnh nộ với họ và đã
khiến lửa từ trời xuống trừng phạt nhiều ngƣời trong bọn họ
(Ds 11,33). Vua Đavít cũng kể lại: Nhưng khi họ chưa kịp đã
thèm, khi miếng ăn còn chưa kịp nuốt, thì cơn giận Chúa
Trời đã bừng lên phạt họ (Tv 77,30-31).
Cũng sách Dân Số còn kể rằng Thiên Chúa rất thịnh
nộ với ngôn sứ Balaam vì ông đã theo lời yêu cầu của
Balac vua dân Mađian để đến với họ. Thiên Chúa có bảo
Balaam đi nhƣng vì ông còn vụ lợi, thiên thần đã hiện ra
cùng ông tay cầm thanh gƣơm nhƣ muốn giết chết ông và
nói: Chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta,
272 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

con đường này nguy hiểm (Ds 22,32). Và vì thế thiên thần
đã muốn giết ông ấy.
7 – Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn
thịnh nộ ngay khi đoái thƣơng chiều theo những sự mê thích
của các linh hồn. Trong Kinh Thánh những bằng chứng cũng
nhƣ nhiều ví dụ về điều ấy đã quá rõ, ta không cần lặp lại.
Tôi chỉ xin nói rằng – và còn hơn những gì tôi có thể nói – ai
muốn tiếp xúc với Thiên Chúa qua những nẻo đƣờng nhƣ thế
là rất nguy hiểm, ai bám vào những cách thức ấy sẽ rất lầm
lạc và thƣờng phải chịu nhiều thất vọng, và ai đã từng quý
chuộng những cách thức ấy hẳn sẽ hiểu đƣợc điều tôi đang
nói đây bằng kinh nghiệm.
Ngoài cái khó khăn vốn có trong việc nhận biết để khỏi
sai lầm về các lời nói và các thị kiến phát xuất từ Thiên
Chúa, còn có chuyện là giữa những lời nói và thị kiến ấy,
thƣờng xen vào nhiều điều do ma quỷ. Trong việc cám dỗ
các linh hồn, ma quỷ thƣờng khoác chính bộ áo của Thiên
Chúa, đề ra cho linh hồn những chuyện giống hệt những điều
Thiên Chúa thông ban, nhƣ sói khoác lốt chiên để xâm nhập
đàn chiên (x. Mt 7,15). Nói tắt là hầu nhƣ không thể phân
biệt. Ma quỷ nói nhiều điều có vẻ rất thật, hợp lý và cả
những điều đƣợc thực hiện cách chính xác, cho nên ngƣời ta
dễ hiểu lầm, tƣởng rằng hễ điều đƣợc tiên báo và rồi đƣợc
thực sự thực hiện thì hẳn phải là từ Thiên Chúa. Ngƣời ta đâu
biết rằng, với ánh sáng tự nhiên thật rõ ràng, thì rất dễ dựa
vào các nguyên nhân của một chuyện để biết đƣợc quá khứ
và tƣơng lai của chuyện ấy. Bởi vậy, vì ma quỷ có đƣợc thứ
ánh sáng này rất mạnh nên nó có thể từ một nguyên nhân nào
QUYỂN 2 273

đó dễ dàng suy diễn một hậu quả nào đó. Tuy nhiên không
phải luôn xảy ra nhƣ thế - vì mọi nguyên nhân đều lệ thuộc ý
muốn của Thiên Chúa.
8 – Thử lấy một ví dụ: Ma quỷ biết tìn trạng của trái
đất, mặt trời và những điều kiện khí hậu, trong một không
gian nhất định, không khí bị nhiễm độc và nạn dịch bùng nổ
trên thế giới, vùng này sẽ bị nặng, vùng kia sẽ bị nhẹ. Đó là
nguyên nhân đã biết đƣợc. Có lạ gì khi ma quỷ mạc khải cho
một linh hồn, bảo linh hồn ấy rằng trong vòng một năm hay
nửa năm nữa sẽ có ôn dịch và điều đó đã xảy đến cách xác
thực. Tuy nhiên đó vẫn là lời tiên báo của ma quỷ.
Cũng tƣơng tự nhƣ thế, nó có thể thấy trƣớc sẽ có động
đất và có thể báo trƣớc rằng vào “một thời gian đặc biệt nào
đó sẽ xảy ra động đất”. Đó chỉ là kết quả của một thứ tri thức
tự nhiên, để có nó, chỉ cần giữ cho tâm linh, không bị dục
vọng chi phối, nhƣ lời Boèce đã nói: Nếu bạn muốn biết sự
thật với thứ ánh sáng tự nhiên, bạn hãy đuổi xa bạn niềm
vui, nỗi sợ, hy vọng và đau đớn (Xem “Niềm an ủi của Triết
Học” q. 1,7).
9 – Ta cũng có thể biết đƣợc những biến cố và những
hậu quả siêu nhiên nhờ các nguyên nhân của chúng là những
điều Thiên Chúa quan phòng sẽ sắp đặt cách công bằng và
ngay chính trƣớc những điều tốt và những điều xấu mà con
cái loài ngƣời gây ra. Ngƣời ta có thể theo lẽ tự nhiên mà suy
đoán để biết đƣợc một ngƣời nào đó, một thành phố nào đó
hoặc một tổ chức nào đó sẽ lâm vào tình trạng cùng quẫn đến
độ - theo sự công bình và lòng nhân hậu của Thiên Chúa -
274 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Ngài sẽ can thiệp bằng hình phạt hoặc sự cứu giúp, nói tắt là
bằng cách thức phù hợp với nguyên nhân đang đòi hỏi. Rồi
với sự hiểu biết ấy ngƣời ta có thể nói: “Vào thời điểm đó,
Thiên Chúa sẽ ban cho các bạn chuyện đó hoặc sẽ làm
chuyện đó, hoặc vấn đề đó chắc chắn sẽ xảy ra... ” Thánh nữ
Giuđitha đã giúp Holopherne hiểu sự thật ấy. Để thuyết phục
ông tin rằng con cái Israel chắc chắn sẽ bị diệt vong, trƣớc
hết bà đã kể cho ông nghe nhiều tội lỗi và những điều xấu xa
họ đã làm (Gđt 11,8-12). Rồi bà nói thêm: Vì họ đã làm
những chuyện đó, chắc chắn họ sẽ bị diệt vọng (Gđt 11,15).
Đây là vấn đề xem nhân mà biết quả nhƣ ngƣời ta vẫn nói:
“Những tội thế nọ chắc chắn sẽ gây ra những hình phạt thế
kia”. Đúng nhƣ lời trong sách Khôn Ngoan: Mỗi người sẽ bị
trừng phạt theo tội trạng của mình (Kn 11,17).
10 – Ma quỷ có thể biết chuyện đó không chỉ theo lẽ tự
nhiên mà còn do kinh nghiệm từng đƣợc trông thấy Thiên
Chúa làm những chuyện tƣơng tự. Từ kinh nghiệm ấy, nó có
thể tiên đoán một điều gì đó và rồi đã xảy ra đúng nhƣ thế.
Cũng nhƣ thánh Tôbia đã biết đƣợc hình phạt sẽ đến trên
thành Ninivê (x. Tb 14,6) qua nguyên nhân của nó. Ông đã
cảnh báo con ông: Này con, sau khi ta và mẹ con qua đời,
con hãy rời khỏi mảnh đất này vì nó sẽ không tồn tại nữa
đâu. Bởi lẽ cha thấy chính tội ác của nó là nguyên cớ tận số
của nó (x. Tb 14,12-13). Cả ma quỷ lẫn Tôbia đều có thể biết
đƣợc chuyện đó không chỉ do nơi tội ác của thành ấy mà còn
do kinh nghiệm khi quan sát thấy dân cƣ thành ấy đã phạm
những tội ác từng khiến Thiên Chúa phá hủy thế gian trong
trận đại hồng thủy (x. St 6,5-7); và những tội ác của dân
QUYỂN 2 275

Sôđôma cũng từng khiến dân này bị lửa diệt vong (x. St
19,24-25). Dĩ nhiên Tôbia biết đƣợc chuyện ấy còn là nhờ
thần khí Thiên Chúa nữa.
11 – Và ma quỷ cũng có thể biết đƣợc một ngƣời nào
đó theo lẽ tự nhiên sẽ không thể nào sống lâu quá ngần ấy
năm và báo trƣớc điều đó. Có biết bao nhiêu chuyện nhƣ thế,
không sao nói hết. Ma quỷ có thể dùng tất cả để dệt nên một
mạng lƣới những điều dối trá phức tạp và tinh tế. Muốn thoát
khỏi những cạm bẫy ấy, cần tránh hết mọi lời mạc khải, mọi
thị kiến cũng nhƣ những lời nói siêu nhiên.
Thiên Chúa có lý để nổi giận với những ngƣời chạy
theo những thứ ấy bởi Ngài thấy rằng nhƣ thế là họ liều lĩnh
lao mình vào nhiều nguy hiểm, là tự phụ, tò mò, tích tụ lòng
kiêu căng, gốc rễ của hƣ vinh hão huyền, đƣa đến chỗ coi
khinh những gì thuộc về Thiên Chúa và khởi đầu cho nhiều
điều xấu xa nhƣ đã từng xảy đến cho nhiều ngƣời. Những kẻ
liều lĩnh ấy khiêu khích cơn giận của Thiên Chúa đến nỗi
Ngài cố tình để họ rơi vào lệch lạc và sai lầm, tâm trí u mê
và xa lìa những nẻo đƣờng ngay chính của cuộc sống, lao
theo những thứ hão huyền viển vông nhƣ lời ngôn sứ Isaia:
Đức Chúa đã đổ tràn xuống giữa chúng một thần khí hoang
mang (Is 19,14), nói nôm na ra là tật hiểu ngược nghĩa. Điều
Isaia nói đây đụng thẳng vào vấn đề chúng ta đang bàn. Ông
chống lại những kẻ cứ gắng tìm biết chuyện này chuyện nọ
trong tƣơng lai qua con đƣờng siêu nhiên. Chính vì thế ông
nói Thiên Chúa đã gieo vào tâm trí họ tật hiểu ngƣợc nghĩa.
Chẳng phải vì Thiên Chúa đã muốn hay đã thực sự ban cho
họ tâm linh lầm lạc nhƣng chính vì họ muốn dây mình vào
276 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

những chuyện mà theo lẽ tự nhiên họ không thể đạt tới. Nổi


giận về chuyện ấy, Thiên Chúa đã để mặc cho họ rơi vào lầm
lạc và không ban ánh sáng Ngài cho họ trong những chuyện
mà Ngài không muốn cho họ dây mình vào. Nhƣ thế, Isaia
có ý nói Thiên Chúa tƣớc đoạt ánh sáng để gieo cho họ thứ
tật hiểu ngƣợc nghĩa. Hiểu theo cách ấy chính Thiên Chúa đã
gây nên sự thiệt hại này, Ngài là căn nguyên tƣớc đoạt, bởi lẽ
Ngài rút hết ánh sáng và sự phù giúp của Ngài, rút mất nhiều
đến nỗi nhất thiết họ phải rơi vào lầm lạc.
12 – Theo cách ấy Thiên Chúa cho phép ma quỷ khiến
nhiều ngƣời mù tối và lầm lạc. Những ngƣời này đáng bị nhƣ
vậy vì tội lỗi và tính ngạo mạn của họ. Ma quỷ có thể và đã
thành công tới mức khiến họ tin những gì nó nói và xem nó
là thần trí tốt lành. Niềm tin tƣởng của họ mãnh liệt đến nỗi
không ai có thể thuyết phục đƣợc họ rằng những chuyện ấy
là do ma quỷ. Do sự để mặc của Thiên Chúa, những ngƣời
này đã bị xâm nhập tật hiểu ngƣợc nghĩa hệt nhƣ trƣờng hợp
các ngôn sứ của vua Akáp khi Thiên Chúa để cho họ bị thần
dối trá lừa gạt. Thiên Chúa cho phép ma quỷ khi nói với nó
nhƣ sau: Ngươi sẽ thắng bằng các lời dối trá của ngươi và sẽ
lừa được chúng; hãy ra đi và hãy làm như thế (1V 22,22).
Thế là ma quỷ đã áp đặt quyền lực nó trên các ngôn sứ của
nhà vua và chính nhà vua để gạt họ tới nỗi họ chẳng muốn
tin vào ngôn sứ Mikê, là ngƣời nói lên sự thật cho họ, ngƣợc
với những điều mà những ngôn sứ kia đã tiên báo. Sở dĩ
Thiên Chúa để cho họ mù tối là vì họ quyến luyến việc mong
muốn các sự cố xảy ra theo ý họ và đòi Thiên Chúa phải trả
lời theo những dục vọng và mê thích của riêng họ. Hẳn đó là
QUYỂN 2 277

phƣơng cách và sự chuẩn bị chắc chắn Thiên Chúa dùng để


bỏ mặc cho họ mù lòa và lầm lạc.
13 – Ngôn sứ Êzêkiel đã nói về điều ấy nhân danh Thiên
Chúa. Ông quở trách những kẻ muốn qua nẻo đƣờng siêu
nhiên, biết chuyện này chuyện nọ cho thỏa sự ham danh và tò
mò của tâm trí họ. Ông nói: Quả thật, bất cứ kẻ nào... dựng
các ngẫu tượng trong tâm hồn... , rồi đến thỉnh ý ngôn sứ, thì
này chính Ta, Đức Chúa, Ta sẽ đích thân trả lời cho nó. Ta sẽ
quay mặt lại phạt nó, ... Còn ngôn sứ, nếu nó để cho mình bị
mê hoặc mà nói ra lời nào, thì chính Ta, Đức Chúa, Ta sẽ để
cho ngôn sứ ấy bị mê hoặc (Ed 14,7-9). Điều này có nghĩa là
Thiên Chúa không ban ân huệ trợ giúp để vị ngôn sứ ấy khỏi
lầm lạc; đúng theo nghĩa của câu: “Chính Ta, Đức Chúa, Ta sẽ
đích thân trả lời cho nó. Ta sẽ quay mặt lại phạt nó, ...”. Do đó
nhất định kẻ kia sẽ bị lừa gạt vì đã bị Thiên Chúa khƣớc từ sự
trợ giúp. Bấy giờ ma quỷ thƣờng trả lời hợp theo các thích thú
và mê thích của ngƣời ấy, và vốn là ngƣời mê thích chuyện đó
mà lại đƣợc đáp lại và nhận thức theo ý muốn của mình thỉ
hẳn gã phải rơi vào sai lầm lớn lao.

14 – Xem ra chúng ta đã hơi ra ngoài đề tài của chƣơng


này nhằm minh chứng rằng cho dù Thiên Chúa có trả lời thì đôi
khi Ngài vẫn phẫn nộ. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ, tất cả những
gì nói trên đều góp phần cho chủ ý của chúng tôi. Sự kiện
Thiên Chúa để cho các linh hồn bị lầm lạc nơi những thị kiến
ấy qua nhiều cách thức nhƣ vậy cho thấy rằng Thiên Chúa
không thích gì với việc ngƣời ta khao khát các thị kiến ấy.
278 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 22
Tại sao không được phép?*

Giải thích tại sao dưới thời đại của Luật ân sủng, ta
không được phép hỏi ý Thiên Chúa qua con đường siêu
nhiên như người ta từng làm trong thời luật cũ. Minh chứng
qua giáo huấn của thánh Phaolô.
1 – Nhiều vấn nạn chợt hiện đến khiến chúng tôi không
thể tiến nhanh nhƣ lòng mong muốn. Bởi vì đã nêu ra thì cần
phải làm sáng tỏ để sự thật của học thuyết này luôn sáng rõ
và vững mạnh. Những vấn nạn này dù khiến chúng ta chậm
bƣớc một chút, nhƣng có cái lợi là giúp cho học thuyết đƣợc
sáng tỏ và đƣợc giải thích cặn kẽ hơn.
2 – Trong chƣơng trƣớc, chúng tôi đã nhấn mạnh Thiên
Chúa không muốn cho các linh hồn khao khát dùng con
đƣờng siêu nhiên để nhận đƣợc các thị kiến và mạc khải về
những chuyện cụ thể. Thế nhƣng cũng trong chƣơng đó, khi
suy diễn điều ấy từ các điển chứng Kinh Thánh, ta thấy
phƣơng cách ấy đã từng đƣợc dùng để tiếp xúc với Thiên
Chúa và đƣợc xem là hợp pháp. Hơn nữa, Thiên Chúa không
những cho phép điều ấy mà còn truyền làm nhƣ vậy nữa, và
khi ngƣời ta bỏ qua không làm thì Ngài đã khiển trách.
Chẳng hạn Thiên Chúa đã quở mắng con cái Israel vì họ
muốn qua Ai Cập mà không hỏi ý kiến Ngài trƣớc. Thiên
Chúa phán: Các ngươi đã chẳng dò hỏi từ miệng Ta trước để
biết điều gì là thích hợp (Is 30,2). Trong sách Giôsuê chúng
ta còn đọc thấy chuyện con cái Israel sau khi bị dân Gabaon
QUYỂN 2 279

phỉnh gạt, đã đƣợc Chúa Thánh Thần nhắc cho họ về lầm lỗi
này nhƣ sau: Chúng đã lãnh nhận lương thực của bọn đó và
đã không dò hỏi từ miệng Thiên Chúa (Gs 9,14). Chúng ta
cũng thấy trong Kinh Thánh Môsê luôn hỏi ý Thiên Chúa.
Vua Đavít và các vua khác của Israel đều làm thế khi có
chiến tranh hoặc túng thiếu và kể cả các vị tƣ tế và ngôn sứ
thời cổ cũng làm thế và Thiên Chúa đã trả lời họ mà chẳng
hề giận dữ. Họ đã hành động đúng trong việc ấy đến nỗi nếu
họ không làm thế tức họ đã làm sai. Quả thật nhƣ thế. Vậy tại
sao, ngày nay, trong Luật mới của ân sủng, lại không nhƣ
trƣớc đây?
3 – Về điểm này, chúng ta phải trả lời rằng lý do chính
khiến cho trong Luật Cũ ngƣời ta đƣợc phép dò hỏi Thiên
Chúa và việc các ngôn sứ cũng nhƣ tƣ tế muốn có đƣợc các
thị kiến và mạc khải của Thiên Chúa đƣợc xem là hợp pháp,
chính là vì lúc bấy giờ đức tin chƣa có nền tảng vững chắc và
Luật Tin Mừng cũng chƣa đƣợc công bố. Do đó ngƣời ta cần
dò hỏi Thiên Chúa và Ngài cần trả lời họ khi thì bằng lời nói
khi thì qua các thị kiến hoặc mạc khải, khi thì bằng hình ảnh
hay ví dụ minh họa, khi thì qua các biểu thị khác. Tất cả
những gì Thiên Chúa trả lời, nói, biểu lộ kỳ công hay mạc
khải đều là những mầu nhiệm của đức tin và những chuyện
liên can hoặc bồi đắp cho đức tin. Những sự thật đức tin
không phát xuất tự loài ngƣời mà là từ miệng Thiên Chúa
mạc khải. Vào thời ấy ngƣời ta cần phải dò hỏi chính lời từ
miệng Thiên Chúa. Do đó Thiên Chúa đã khiển trách họ vì
trong các vấn đề của họ, họ không chịu hỏi ý để Ngài nói rõ
ý Ngài cho họ. Ngài dẫn dắt công việc và sự việc của họ đến
280 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

với đức tin mà họ chƣa hay biết vì nó chƣa đƣợc thiết lập.
Thế nhƣng giờ đây đức tin đã đƣợc thiết lập nơi Đức Kitô và
luật Tin Mừng đã đƣợc bày tỏ trong kỷ nguyên ân sủng này
thì không còn lý do gì để thỉnh ý Thiên Chúa theo cách đó để
xin Ngài phán dạy hoặc trả lời nhƣ xƣa kia nữa. Bởi vì khi
ban cho chúng ta Con Ngài – là lời duy nhất của Ngài –
Thiên Chúa không còn lời nào khác. Thiên Chúa đã phán và
mạc khải cho chúng ta mọi sự qua chỉ một lần nơi Lời duy
nhất ấy và Ngài chẳng còn gì để nói thêm nữa.
4 – Và đó chính là ý nghĩa đoạn văn thánh Phaolô viết
để thuyết phục dân Do Thái từ bỏ những lối thực hành trƣớc
kia, những lối giao tiếp với Thiên Chúa dƣới thời Luật
Môsê, và thay vào đó, hãy chăm chú nhìn vào mỗi một
mình Chúa Kitô. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên
Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;
nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng
ta nơi Con của Ngài (Hr 1,1-2). Qua đó thánh tông đồ cho
chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa đã trở nên nhƣ thể câm lặng
và không còn gì để nói nữa vì những gì trƣớc đây Ngài đã
nói từng phần qua các ngôn sứ thì Ngài đã nói hết toàn bộ
trong một lần duy nhất qua việc ban cho chúng ta Đấng
Toàn Thể tức Con của Ngài.
5 – Chính vì thế, giờ đây kẻ nào còn muốn thỉnh ý
Thiên Chúa hay muốn đƣợc một thị kiến hoặc mạc khải nào
đó, không những là đang làm một điều khờ dại mà còn xúc
phạm tới Thiên Chúa, vì kẻ ấy đã không biết hoàn toàn dán
mắt vào Chúa Kitô nhƣng lại muốn đi tìm một điều gì đó hay
một chuyện mới lạ nào khác.
QUYỂN 2 281

Quả thực Thiên Chúa hẳn sẽ trả lời cho họ nhƣ sau:
Nếu nơi Lời của Ta, tức nơi Con của Ta, Ta đã nói với ngƣơi
hết mọi điều phải nói thì giờ đây Ta đâu còn lời nào khác để
có thể trả lời hay mạc khải ngoài Lời ấy? Hãy cứ dán mắt
vào Ngài bởi vì Ta đã nói và mạc khải cho ngƣơi hết mọi sự
nơi Ngài, và ngƣơi sẽ khám phá nơi Ngài nhiều hơn những gì
ngƣơi nài xin và ƣớc muốn. Bởi lẽ việc ngƣơi xin một lời nói
hay một mạc khải chỉ là cái vụn vặt đang khi nếu chăm chú
dán mắt nhìn Ngài, ngƣơi sẽ tìm thấy đƣợc cái toàn thể nơi
Ngài, vì Ngài là tất cả lời nói và câu trả lời của Ta, là tất cả
thị kiến và mạc khải của Ta. Đó là tất cả những gì Ta đã nói,
đã trả lời, đã tỏ bày và mạc khải cho ngƣơi, khi ban Ngài cho
ngƣơi để Ngài làm Anh, làm Bạn đồng hành, làm Tôn sƣ,
làm tiền chuộc và làm phần thƣởng cho ngƣơi. Vì từ cái ngày
cùng với Thánh Thần của Ta, Ta đã ngự xuống trên Ngài tại
núi Tabor và phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Ngài. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài! (Mt 17,5) thì Ta
đã ngƣng tất cả mọi cách giáo huấn và trả lời ngày trƣớc và
đã giao hết mọi sự cho Ngài. Các ngƣơi hãy lắng nghe Ngài,
vì Ta chẳng còn đức tin để mạc khải, chẳng còn những việc
diệu kỳ để tỏ bày nữa. Vậy nếu trƣớc đây Ta có phán dạy thì
chính là để hứa Đức Kitô và nếu ngƣời ta có thỉnh ý Ta, thì
cũng chỉ nhắm đến việc cầu xin và mong chờ Đức Kitô, để từ
nơi Ngài họ sẽ nhận lãnh mọi ơn lành, nhƣ toàn thể giáo lý
của các thánh sử và các tông đồ hiện đang giảng giải. Và lúc
này, kẻ nào còn thỉnh ý Ta theo cách trƣớc đây và muốn Ta
trả lời hay mạc khải cho một chuyện gì thì, xét một cách nào
đó, kẻ ấy đang xin Ta Đức Kitô lần nữa cũng nhƣ xin thêm
đức tin vì cho rằng niềm tin đƣợc ban trong Đức Kitô đã suy
282 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

giảm rồi, và nhƣ thế, kẻ ấy gây xúc phạm nặng nề cho Ngƣời
Con Chí Ái của Ta, không chỉ vì đã thiếu đức tin về điểm
này mà còn ép buộc Ngài tái nhập thể và trải qua lần nữa
cuộc sống và cái chết trƣớc đây của Ngài. Ngƣơi chẳng còn
gì để xin Ta, cũng chẳng nên ao ƣớc các mạc khải hay thị
kiến từ nơi Ta. Hãy chăm chú nhìn Ngài, ngƣơi sẽ tìm thấy
tất cả chuyện đó đã đƣợc thực hiện và ban tặng, và còn nhiều
hơn thế nữa là khác.
6 – Nếu ngƣơi muốn Ta đáp trả ngƣơi một lời an ủi thì
hãy chiêm ngắm Con Ta, Ngài đã vâng phục Ta và chịu lụy
phục kẻ khác vì lòng yêu mến Ta và Ngài đã phải chịu đau
chịu khổ, và rồi ngƣơi sẽ thấy đƣợc câu trả lời của Ngài cho
ngƣơi. Nếu ngƣơi muốn Ta tuyên bố với ngƣơi những điều
kín ẩn hay các sự kiện biến chuyển thì ngƣơi chỉ cần hƣớng
mắt về Ngài và ngƣơi sẽ nhìn thấy những huyền nhiệm thâm
kín nhất lẫn sự khôn ngoan, và các kỳ công của Thiên Chúa
vây bọc quanh Ngài, nhƣ lời vị Tông đồ của Ta đã nói: Trong
Ngài có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết
(Cl 2,3). Những kho tàng khôn ngoan và thông biết này đối
với ngƣơi sẽ cao siêu, dịu ngọt hơn và hữu ích hơn nhiều so
với những điều ngƣơi muốn biết. Vì thế chính vị Tông đồ nói
trên đã lấy lành hãnh diện nói rằng: Tôi đã không muốn biết
đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu
Kitô chịu đóng đinh vào thập giá (1Cr 2,2). Vậy nếu ngƣơi
còn ƣớc muốn những thị kiến, những mạc khải thần linh hay
thể chất khác thì hãy chiêm ngắm Ngài, Đấng hóa thân làm
ngƣời, và ngƣơi sẽ gặp đƣợc nơi Ngài nhiều hơn ngƣơi tƣởng
nghĩ, vì thánh Tông đồ cũng đã nói: Nơi Ngài, tất cả sự viên
mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể (Cl 2,9).
QUYỂN 2 283

7 – Vậy chẳng nên dò hỏi Thiên Chúa theo cách ấy nữa


và không cần Thiên Chúa phải nói thêm nữa vì sau khi hoàn
tất việc mạc khải trọn vẹn đức tin nơi Đức Kitô, Thiên Chúa
không còn và sẽ chẳng bao giờ còn đức tin để mạc khải nữa.
Và lúc này bất cứ ai còn muốn lãnh nhận một điều gì đó qua
con đƣờng siêu nhiên, nhƣ chúng tôi đã nói, thì khác nào tố
cáo Thiên Chúa đã thiếu sót trong việc ban cho chúng ta mọi
thứ cần thiết nơi Con Ngài. Cho dầu khi làm điều này, giả
định ngƣời ấy có đức tin và niềm tin, thì chính sự tò mò ấy
chứng tỏ đức tin của ngƣời ấy còn non kém. Do đó, không
đƣợc mong đợi một học thuyết hay một chuyện gì khác qua
nẻo đƣờng siêu nhiên.
Khi Chúa Kitô phán trên thập giá: Mọi sự đã hoàn tất
(Ga 19,30) rồi trút hơi thở thì không những các kiểu cách cũ
chấm dứt mà tất cả các lễ nghĩa và nghi thức của lề Luật cũ
cũng hoàn tất. Do đó, trong tất cả mọi sự, theo cách thức
nhân loại và hữu hình chúng ta phải vâng giữ Luật của Đức
Kitô - Nhập Thể và luật của Hội Thánh Ngài thông qua các
thừa tác viên, và dùng con đƣờng này để sửa chữa những dốt
nát và yếu nhƣợc tâm linh của chúng ta; và qua nẻo đƣờng ấy
chúng ta sẽ tìm đƣợc phƣơng dƣợc dồi dào cho hết mọi vấn
đề. Những gì ra khỏi con đƣờng này thì sẽ không chỉ là tò mò
mà còn là rất liều lĩnh. Chẳng nên tin điều gì qua đƣờng nẻo
siêu nhiên ngoại trừ những điều đƣợc Đức Kitô - Nhập Thể
và các thừa tác viên nhân loại của Ngài dạy bảo - nhƣ tôi đã
nói - Đến nỗi nhƣ lời thánh Phaolô: Nếu có ai, kể cả chúng
tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh
em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho
anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! (Gl 1,8).
284 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

8 – Quả thực ngƣời ta phải luôn luôn gắn bó với những


điều Chúa Kitô dạy bảo, còn tất cả những gì khác không phù
hợp với giáo huấn Ngài đều chẳng là gì cả và cũng chẳng
đáng tin. Giờ đây những ai còn muốn thông giao với Thiên
Chúa theo lối Luật cũ, sẽ chỉ tiến bƣớc hoài công. Hơn nữa,
vào thời Luật cũ không phải ai cũng đƣợc phép thỉnh vấn
Thiên Chúa và Thiên Chúa cũng đâu trả lời cho hết mọi
ngƣời mà chỉ trả lời cho các tƣ tế và ngôn sứ, rồi dân phải
học lại nơi họ cả về lề luật và giáo lý. Nếu ai đó muốn biết
một điều gì đó từ Thiên Chúa, sẽ không tự mình nhƣng phải
nhờ ngôn sứ hay tƣ tế thỉnh vấn giùm. Vua Đavít thỉnh
thoảng có tự mình thỉnh vấn Thiên Chúa, chính vì ông là một
ngôn sứ và khi làm điều ấy ông luôn khoác lên ngƣời phẩm
phục tƣ tế nhƣ ngƣời ta thấy nơi sách Samuel quyển I (23,9),
chỗ Đavít nói với tƣ tế Abiathar: Đem ê-phốt lại đây!, tức là
hãy khoác áo thụng êphốt vào ngƣời ông. Áo thụng này là
thứ phẩm phục quyền quý nhất của chức tƣ tế. Chính vua
Đavít đã khoác nó lên ngƣời khi thỉnh vấn Thiên Chúa. Còn
những lần khác vua Đavít thỉnh vấn Thiên Chúa qua ngôn sứ
Nathan và qua các ngôn sứ khác. Qua miệng các ngôn sứ và
các tƣ tế ấy, ngƣời ta phải tin rằng chính Thiên Chúa phán họ
chứ không phải do ý kiến riêng của các vị ấy.
9 – Những gì Thiên Chúa phán thời ấy chẳng có quyền
uy hay sức mạnh buộc ngƣời ta phải hoàn toàn tin vào đó nếu
chúng không đƣợc miệng các tƣ tế và ngôn sứ chuẩn y. Đó là
vì Thiên Chúa rất mong muốn cho con ngƣời đƣợc điều
khiển và dẫn dắt do ngƣời đồng loại của họ cũng nhƣ biết
ứng xử và làm chủ bản thân theo lý trí tự nhiên. Ngài hoàn
QUYỂN 2 285

toàn mong muốn rằng những gì Ngài thông ban cho ta cách
siêu nhiên chỉ đƣợc chúng ta tin vững và chỉ đem lại xác tín
và sức mạnh để hành động khi chúng đi qua con kênh nhân
loại, tức qua miệng con ngƣời. Do đó, mỗi lần phán dạy hoặc
mạc khải một điều gì đó cho linh hồn, Thiên Chúa thƣờng
tạo cho họ xu hƣớng bày tỏ điều ấy cho một ai đó thích hợp.
Linh hồn sẽ chỉ đƣợc hoàn toàn thỏa mãn khi nhận đƣợc sự
tán thành từ một ngƣời đồng loại. Trong sách Thủ Lãnh (7,9-
11) ta thấy điều ấy đã xảy đến cho thủ lĩnh Ghítôn. Thiên
Chúa nhiều lần nói rõ với ông rằng ông sẽ thắng quân
Mandian nhƣng ông vẫn cứ hoài nghi và nhát đảm. Thiên
Chúa cứ để ông yếu nhƣợc nhƣ thế cho tới khi ông nghe
đƣợc qua miệng ngƣời phàm điều chính Thiên Chúa đã nói
với ông. Thấy ông nhát đảm nhƣ thế, Thiên Chúa bảo ông:
Đứng lên! Đi xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó vào tay
ngươi... Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng nói gì; sau đó tay
ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại. Ông
nghe một tên lính ngƣời Mađian kể cho một tên lính khác
rằng hắn mơ thấy Ghítôn sẽ chiến thắng chúng. Ghêđêôn liền
đƣợc tăng thêm sức mạnh và bắt đầu sẵn sàng xông trận thật
hoan hỉ. Nhƣ vậy chúng ta thấy, Thiên Chúa không muốn
Ghítôn vững dạ chỉ nhờ vào phƣơng thức siêu nhiên thôi bởi
lẽ ông chỉ an lòng một khi đã đƣợc củng cố bằng phƣơng
thức tự nhiên.
10 – Trƣờng hợp ông Môsê cũng tƣơng tự. Thiên Chúa
truyền cho Môsê đi giải thoát con cái Israel với nhiều lý lẽ.
Ngài còn xác nhận điều đó qua dấu chỉ cây gậy biến thành
con rắn rồi bàn tay thành phong cùi. Thế nhƣng Môsê vẫn
286 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nhát đảm và thấy tối tăm trƣớc sứ mệnh ấy. Thiên Chúa đã
nổi giận nhƣng ông vẫn không thu đƣợc cản đảm để vững dạ
lên đƣờng. Thế rồi Thiên Chúa đã trấn an ông qua ngƣời anh
ông là Aharôn: Nào chẳng có Aharôn, anh ngươi, là người
Lêvi đó sao? Ta biết: Nó ăn nói được lắm; hơn nữa, kìa nó
ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỷ. Ngươi
sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ
ngự nơi miệng ngươi và nơi miệng nó (Xh 4,14-15) để mỗi
ngƣời các ngƣơi sẽ nhận đƣợc sự khích lệ qua miệng ngƣời kia.
11 – Nghe những lời ấy, Môsê thấy an tâm, hy vọng sẽ
có đƣợc sự an ủi nhờ lời tƣ vấn của anh mình. Với tâm hồn
khiêm nhƣờng, ông không dám mạo muội một mình giao
tiếp với Thiên Chúa đồng thời không thể an lòng khi không
có sự hƣớng dẫn khuyên bảo của một ngƣời. Thiên Chúa
cũng muốn thế. Ngài vẫn ở với những kẻ tụ họp nhau để tìm
sự thật nhằm soi sáng và chứng thực sự thật ấy nơi họ, là sự
thật dựa trên lý trí tự nhiên, nhƣ khi Môsê và Aharôn hiệp lại
với nhau Ngài đã hứa sẽ thực hiện, sẽ nói qua cả miệng
ngƣời này lẫn miệng ngƣời kia. Chính vì thế trong Tin Mừng
Chúa nói: Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì
có Thầy ở đấy, giữa họ (Mt 18,20). Ngài soi sáng và củng cố
nơi lòng họ những sự thật thuộc về Thiên Chúa. Cần lƣu ý
rằng Chúa không bảo chỉ một ngƣời mà thôi là Ngài sẽ ở đó,
nhƣng phải ít là hai ngƣời. Ngài nói thế để giúp ta hiểu rằng
Thiên Chúa muốn, trong những chuyện đƣợc cho là phát xuất
tự Thiên Chúa, đừng ai chỉ tin cậy nơi chính mình, cũng
đừng ai xác nhận hay quả quyết những chuyện ấy vƣợt ngoài
quan điểm của Hội Thánh hay ý kiến các thừa tác viên của
QUYỂN 2 287

Hội Thánh. Chúa cho thấy Ngài sẽ không soi sáng và xác
nhận sự thật trong tâm hồn kẻ nào hành động đơn lẻ. Một
ngƣời nhƣ thế sẽ ở trong tình trạng yếu đuối và lạnh nhạt.
12 – Vì thế sách Giảng Viên đã nói rộng ra: Khi chỉ có
một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng
dậy cả! Cũng vậy, hai người nằm chung thì ấm; một mình
làm sao mà ấm được? Một mình dễ bị tấn công, có hai
người, ắt sẽ đương đầu nổi; dây chập ba đâu dễ gì đứt?
Ngƣời này sẽ sƣởi ấm cho ngƣời kia (nghĩa là có hơi ấm
của Thiên Chúa ngự giữa họ); một người mà thôi thì làm
sao tự sưởi ấm được? (nghĩa là làm sao y không lạnh lùng
đối với những chuyện thuộc về Thiên Chúa). Nếu một kẻ
nào đó mạnh hơn và lướt thắng một người (ý nói ma quỷ,
nó biết lƣớt thắng những kẻ muốn đơn độc trong những
chuyện thuộc về Thiên Chúa) thì hai ngƣời cùng chung
nhau sẽ chống cự nổi nó (nghĩa là ngƣời môn đệ và tôn sƣ
hợp nhau để nhận biết và thực thi chân lý). Nhƣ thế, ngƣời
đơn độc sẽ cảm thấy nguội lạnh và yếu đuối trong sự thật,
không đủ sức hành động, mặc dù ngƣời ấy có nghe sự thật
từ Chúa bao nhiêu lần cũng vậy. Ta hãy xem Thánh Phaolô.
Mặc dù thánh nhân đã rao giảng Tin Mừng trong một thời
gian lâu dài, Tin Mừng mà ngài đã học đƣợc từ Thiên Chúa
chứ không phải từ loài ngƣời (x. Gl 1,12), ngài vẫn không
an tâm với mình cho đến khi đã đi bàn bạc với thánh Phêrô
và các vị tông đồ. Ngài nói: Vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và
đã ngược xuôi vô ích (Gl 2,2); vì ngài vẫn không vững dạ
cho tới khi ngƣời khác mang lại cho ngài sự an lòng. Nhƣ
thế nghĩa là gì, thƣa thánh Phaolô! Phải chăng Đấng mạc
288 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khải Tin Mừng cho ngài lại không thể nhắc cho ngài tránh
khỏi sai lầm khi ngài rao giảng sự thật của Đấng ấy sao?
13 – Điều này rõ ràng cho thấy rằng ta chỉ có thể gắn
bó an toàn vào một điều Thiên Chúa mạc khải trừ phi theo
sát trật tự chúng tôi vừa chỉ vẽ. Một ngƣời đã ƣa chuộng loại
mạc khải ấy, thì dù có biết chắc mạc khải ấy đến từ Thiên
Chúa, nhƣ thánh Phaolô chắc chắn về Tin Mừng của ngài vì
ngài đã khởi sự rao giảng nó, họ vẫn có thể lầm lẫn về
chuyện ấy hoặc về những gì liên quan tới chuyện ấy. Thật
thế, không phải lúc nào Thiên Chúa mạc khải toàn diện. Ngài
có thể tỏ cho thấy đó là việc phải làm nhƣng lại không nói
phải làm cách nào. Bởi vì thông thƣờng tất cả những gì có
thể làm đƣợc cho linh hồn nhờ nỗ lực và lời khuyên của con
ngƣời thì Thiên Chúa chẳng hành động cũng chẳng nói năng
đến, mặc dù có thể Ngài vẫn thƣờng xuyên và thân mật tiếp
xúc với linh hồn ấy. Thánh Phaolô dù đã hiểu rõ điều này, dù
chắc chắn rằng Thiên Chúa đã mạc khải Tin Mừng cho ngài,
ngài vẫn bàn bạc với các tông đồ khác.
Sách Xuất Hành còn cho một ví dụ rất rõ (x. Xh 18,21-
22). Thiên Chúa luôn cƣ xử rất thân tình với Môsê, thế
nhƣng Ngài không đích thân ban cho ông lời khuyên rất hữu
ích mà nhạc phụ ông là Giêtrô khuyên ông, là chọn những
thẩm phán khác để giúp đỡ ông và để cho dân chúng khỏi
phải chờ đợi từ sáng cho tới đêm. Thiên Chúa đã chuẩn
thuận lời khuyên ấy. Ngài chẳng đƣa ra lời khuyên ấy vì đó
là điều mà lý trí và phán đoán của con ngƣời có thể nắm bắt
đƣợc. Thiên Chúa thƣờng chẳng bày tỏ những chuyện ấy qua
các thị kiến, mạc khải cũng nhƣ những lời nói của Ngài, vì
QUYỂN 2 289

Ngài luôn muốn ngƣời ta dùng đến lý trí và phán đoán tối đa,
đồng thời mọi thứ phải đƣợc điều chỉnh bởi chúng trừ những
gì thuộc về đức tin là những điều siêu vƣợt mọi phán đoán và
lý trí, dù không ngƣợc với lý trí.
14 – Giả thử có ngƣời chắc chắn rằng Thiên Chúa và
các thánh vẫn trò chuyện thân tình về nhiều chuyện. Ngƣời
này không nên vì đó mà tƣởng rằng các vị ấy cũng phải nói
cho biết những lầm lỗi cụ thể nơi một chuyện gì đó, khi mà
mình vẫn có thể biết đƣợc những lầm lỗi ấy qua một con
đƣờng khác. Thế nên, đừng tƣởng lầm. Trong sách Công Vụ
Tông Đồ, ta thấy mặc dù là thủ lĩnh Hội Thánh và đã từng
đƣợc Thiên Chúa trực tiếp giáo huấn, Thánh Phêrô vẫn mắc
phải sai sót khi ứng xử với dân ngoại. Thiên Chúa vẫn lặng
thinh, không nói cho biết. Thế nhƣng rồi đã có thánh Phaolô
lên tiếng, nhƣ về sau ngài kể lại: “Khi tôi thấy các ông ấy
không đi đúng theo sự thật của Tin Mừng, thì tôi đã nói với
ông Kêpha trƣớc mặt mọi ngƣời: Nếu ông là người Do Thái
mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do
Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như
người Do Thái? (Gl 2,14). Nhƣ thế Thiên Chúa đã không đích
thân cảnh báo thánh Phêrô về sai sót ấy, bởi vì sự giả vờ ấy của
ông là chuyện thuộc phạm vi lý trí mà ông có thể nhận biết nó
qua con đƣờng suy lý.
15 – Nhiều ngƣời đã từng đƣợc Thiên Chúa trò chuyện
thân tình cũng nhƣ ban cho nhiều ánh sáng và sức mạnh
nhƣng lại dựa vào đó để bỏ bê phận vụ. Trong ngày phán xét,
Thiên Chúa sẽ phạt những sai sót và tội lỗi của họ. Nhƣ Chúa
Kitô đã nói trong Tin Mừng, lúc bấy giờ họ bàng hoàng lên
290 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tiếng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng
nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ
quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? (Mt
7,22). Và Chúa bảo Ngài sẽ trả lời họ rằng: Ta không hề biết
các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian
ác! (Mt 7,23). Trong số những kẻ làm điều gian ác ấy có
ngôn sứ Balaam và những kẻ khác tƣơng tự ông ta. Dù trƣớc
đó Thiên Chúa từng nói chuyện thân tình và ban cho họ các
ân sủng, họ vẫn là những kẻ có tội. Cả nhiều bạn bè và
những kẻ đƣợc Chúa chọn dù Chúa đã từng trò chuyện thân
mật với họ trên cõi đời này, một ngày kia Chúa cũng sẽ
khiển trách về lầm lỗi và bê trễ của họ, những lỗi mà Ngài
không cần phải đích thân cảnh báo họ vì qua lề luật và lý trí
tự nhiên Ngài đã cảnh báo họ rồi.
16 – Vậy để kết luận phần này, tôi xin nói và đúc kết từ
những gì đã đƣợc nói nhƣ sau: Tất cả những gì linh hồn lãnh
nhận đƣợc bằng bất cứ cách nào qua con đƣờng siêu nhiên
cần phải thông báo ngay cho cha linh hƣớng của mình cách
rõ ràng, chân thành, toàn vẹn và đơn sơ. Có lẽ linh hồn thấy
việc tƣờng trình này không cần thiết, phí thời giờ và nếu
muốn an toàn thì, nhƣ chúng tôi đã nói, linh hồn chỉ cần
khƣớc từ, đừng bận tâm hay mong muốn những chuyện ấy.
Điều ấy có vẻ càng đúng hơn nữa khi đó là những thị kiến,
mạc khải hay những thông tri siêu nhiên khác, vì chúng đã
rất rõ hoặc nếu không rõ thì cũng ít quan trọng. Tôi xin nói
rằng, ngay cả trong trƣờng hợp ấy, và mặc dù linh hồn chẳng
thấy cần thiết gì, vẫn luôn luôn cần phải trình bày toàn bộ sự
việc cho cha linh hƣớng. Điều này có ba lý do:
QUYỂN 2 291

Thứ nhất, nhƣ chúng tôi đã nói, nhiều khi Thiên Chúa
ban ơn trong linh hồn mà những hậu quả cũng nhƣ sức mạnh,
ánh sáng và sự đảm bảo về chúng không đƣợc xác định rõ.
Thiên Chúa đợi cho tới khi - nhƣ chúng tôi đã nói - linh hồn
này đem ra bàn bạc với ngƣời đã đƣợc Ngài chỉ định làm vị
thẩm phán tâm linh cho nó, là ngƣời có quyền tháo, buộc,
chấp thuận và phi bác đối với nó. Đó là điều chúng tôi đã
chứng minh qua những trích dẫn trên đây cũng nhƣ qua các
cảm nghiệm thƣờng ngày. Nhìn kỹ sẽ thấy điều vẫn diễn ra
nơi các linh hồn khiêm nhƣờng là sau khi đã bàn bạc những
chuyện ấy với ngƣời có thẩm quyền, các linh hồn ấy liền cảm
nghiệm đƣợc sự thỏa mãn, sức mạnh, ánh sáng và sự vững
tâm hoàn toàn mới mẻ. Đến nỗi đối với một số ngƣời, dƣờng
nhƣ mãi đến lúc đã trao đổi xong với vị linh hƣớng, chuyện
ấy mới bén rễ và thuộc về họ, nhƣ thể là bấy giờ chuyện ấy
lại đƣợc ban cho họ một lần nữa.
17 – Lý do thứ hai là, theo lẽ thƣờng, linh hồn thấy
cần có đƣợc lời khuyên về những ơn siêu nhiên này, cần
đƣợc giúp đỡ để ngang qua những ơn này lần bƣớc tìm đến
sự trơ trụi và nghèo khó tâm linh tức là đêm tăm tối. Thiếu
sự hƣớng dẫn đó, có thể linh hồn sẽ không sẵn lòng đón
nhận những ơn ấy, sẽ không hiểu đƣợc mình và vô tình trở
nên chai sạn trên đƣờng tâm linh rồi sẽ chiều theo nẻo
đƣờng giác quan mà qua đó phần nào các chuyện cụ thể ấy
đã diễn ra.
18 – Lý do thứ ba là, về phía linh hồn, đức khiêm
nhƣờng, đức tuân phục và sự khổ hạnh đòi hỏi nó phải tƣờng
trình cho linh hƣớng dù vị này chẳng quan tâm và quý chuộng
292 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

gì những chuyện siêu nhiên ấy. Quả thật, một số linh hồn rất
ngại nói ra chuyện ấy, chính họ nghĩ rằng chúng chẳng đáng
gì cả, nên cũng sợ khó đƣợc ngƣời nghe đón nhận câu chuyện.
Sự sợ hãi ấy là do thiếu đức khiêm nhƣờng. Vì vậy, các linh
hồn này cần phải bắt ép mình nói chuyện ấy ra. Còn một số
khác lại thấy quá xấu hổ khi phải nói lên các chuyện ấy vì
tƣởng chừng đây là những chuyện thuộc về các thánh nhân;
rồi lại còn thêm những khó khăn khác nữa. Thành ra họ đành
im lặng, vì tự thâm sâu họ chẳng quý chuộng gì những chuyện
ấy. Tuy nhiên chính vì thế mà họ cần phải ép mình và phải thổ
lộ cho linh hƣớng. Họ cần khiêm nhƣờng, đơn sơ, dịu dàng và
sẵn sàng nói ra những chuyện ấy, cho đến khi có thể bộc lộ
cách thật dễ dàng.
19 – Xin lƣu ý, chúng tôi đã cứng rắn đòi phải gạt bỏ
những chuyện này và các vị linh hƣớng không đƣợc gợi cho
các linh hồn kể lể dài dòng về chuyện này, thế nhƣng các vị
linh hƣớng không đƣợc tỏ ra chán ngán, ngăn cản họ về
những chuyện ấy hoặc khinh bỉ họ đến nỗi khiến họ co rúm
lại và chẳng dám bày tỏ nữa và nhƣ vậy sẽ đóng mất cánh
cửa, khiến họ gặp phải nhiều điều khó khăn. Bởi lẽ, nhƣ
chúng tôi nói, những ơn ấy cũng là một phƣơng thế. Vì nó là
một phƣơng thế, một con đƣờng Thiên Chúa dùng để hƣớng
dẫn các linh hồn, thì ta không nên chê khinh, cũng không nên
ngạc nhiên hoặc lấy làm chƣớng về chuyện này. Tốt hơn là
nên hành sự một cách rất dịu dàng và trân trọng, nên khích lệ
và giúp họ mạnh dạn bộc lộ ra, và nếu cần, hãy truyền cho họ
phải nói. Do cái khó khăn nhiều linh hồn gặp phải, đôi khi
phải sử dụng hết mọi phƣơng cách.
QUYỂN 2 293

Tiếp đến, cần dẫn dắt họ theo con đƣờng đức tin bằng
cách tế nhị dạy họ biết ngoảnh mặt khỏi tất cả những chuyện
siêu nhiên ấy, biết làm cho dục vọng và tâm linh họ thành trơ
trụi, không còn dính bén gì tới những chuyện ấy thì họ mới
có thể tiến bộ đƣợc. cũng phải giúp họ hiểu rằng một công
việc hay một hành vi của lòng muốn đƣợc thực hiện trong
đức ái thì làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn tất cả thị kiến, mạc
khải và truyền đạt họ có thể có đƣợc tự trời cao, vì những thứ
ơn này chỉ là vô thƣởng vô phạt. Nhiều linh hồn chẳng hề có
đƣợc những thứ ấy thế mà lại tiến xa hơn vƣợt hẳn những
linh hồn khác từng đƣợc nhiều thị kiến và mạc khải.
294 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 23
Những nhận thức thuần tâm linh*

Bắt đầu bàn về những điều trí hiểu đã biết được qua
nẻo đường thuần túy tâm linh và nói về bản chất của chúng.
1 – Những ý kiến chúng tôi đã cống hiến liên quan tới
những điều trí hiểu nhận biết đƣợc qua nẻo đƣờng giác quan,
so với những gì đã đƣợc bàn tới có phần hơi vắn tắt. Thế
nhƣng tôi chẳng muốn bàn rộng hơn, bởi lẽ để hoàn thành ý
định ban đầu là giải tỏa cho trí hiểu khỏi chƣớng ngại do các
chuyện ấy đồng thời dẫn đƣờng cho trí hiểu tiến vào đêm dày
đức tin thì tôi tin rằng mình đã quá dài dòng.
Giờ đây chúng tôi sẽ bàn về bốn cách nhận thức thuần
túy tâm linh mà trí hiểu có thể nhận đƣợc, là các thị kiến26,
mạc khải, lời nói và cảm xúc tâm linh mà trong chƣơng 10
chúng tôi đã gọi là những nhận thức thuần túy tâm linh.
Những cách này đƣợc gọi là thuần túy tâm linh vì, không
nhƣ những cách nhận thức hữu hình do tƣởng tƣợng - những
nhận thức này không đƣợc truyền đạt cho trí hiểu qua con
đƣờng các giác quan thể chất, nhƣng đƣợc gợi ra nơi trí hiểu
một cách sáng sủa và rõ ràng qua con đƣờng siêu nhiên,
chẳng cần đến một trung gian thuộc giác quan hữu hình bên

26
Thị là thấy, kiến là biết – “Thị kiến” nghĩa đơn giản là hình ảnh nhìn thấy, là
điều biết đƣợc nhờ nhìn thấy, nhƣng lại đƣợc dùng nhƣ một thuật ngữ chuyên
môn để chỉ những hiện tƣợng nhìn thấy mang tính tâm linh, vƣợt kinh
nghiệm giác quan thông thƣờng – Ba cách nhận thức còn lại cũng có thể nói
là những cách trí hiểu “nhìn thấy” cho nên ở cuối số 2 chúng đƣợc gọi chung
là “thị kiến” (DG).
QUYỂN 2 295

ngoài hay bên trong nào cả. Việc truyền đạt này xảy đến một
cách thụ động nghĩa linh hồn chẳng có một hành vi hay công
việc nào cộng tác vào đó một cách chủ động.
2 – Hiểu rộng ra và nói cách chung, cả bốn loại nhận
thức này đều có thể đƣợc gọi là các thị kiến của linh hồn vì
đối với linh hồn hiểu biết chính là trông thấy. Những loại
nhận thức này trí hiểu có thể hiểu đƣợc cho nên cũng chẳng
khác nào thấy đƣợc về mặt tâm linh. Do đó những tri thức
đƣợc hình thành bởi chúng nơi trí hiểu đƣợc gọi là những thị
kiến thuộc trí hiểu. Mọi đối tƣợng của các giác quan - chẳng
hạn những gì ngƣời ta có thể xem, nghe, ngửi, nếm và sờ mó
– cũng đều là đối tƣợng của trí hiểu bởi vì chúng có thể đúng
hay sai. Cũng thế, tựa nhƣ tất cả những gì thấy đƣợc xét về
mặt hữu hình đối với đôi mắt xác thịt đều gây nên cho đôi
mắt ấy một hình ảnh thể chất thì tất cả những gì khả tri (hiểu
đƣợc) đối với đôi mắt của linh hồn - tức là đối với trí hiểu -
đều gây nên cho nó một hình ảnh tâm linh - trên đây chúng
tôi đã nói hiểu tức là thấy chính là vì vậy. Nhƣ thế nói một
cách tổng quát, bốn cách nhận thức trên đều có thể đƣợc gọi
chung là các thị kiến - điều này các giác quan khác không thể
có bởi vì mỗi giác quan đều bất lực đối với đối tƣợng của
giác quan khác.
3 – Tuy nhiên, bởi vì những nhận thức này xuất hiện
nơi linh hồn theo cùng cách thức với các giác quan khác, cho
nên nói một cách thích đáng và cụ thể, điều gì trí hiểu lĩnh
nhận theo cách của thị giác (vì trí hiểu có thể thấy sự vật theo
cách tâm linh giống nhƣ mắt phàm chúng ta nhìn thấy các sự
vật cách hữu hình) chúng ta gọi là “thị kiến”; còn những gì
296 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

trí hiểu nhận đƣợc nhƣ thế nhờ hiểu và nghe thấy các điều
mới mẻ - giống nhƣ thính giác nghe đƣợc những sự việc
trƣớc đó chƣa từng nghe đƣợc - chúng ta gọi là “mạc khải”;
còn những gì trí hiểu nhận đƣợc nhờ thính giác chúng ta gọi
là “lời nói”; và những gì trí hiểu nhận đƣợc theo các giác
quan khác chẳng hạn nhƣ hiểu biết một hƣơng tâm linh dịu
dàng, một vị tâm linh, hay những hoan lạc mà linh hồn có
cảm nếm về phƣơng diện siêu nhiên, chúng ta gọi là những
“cảm xúc tâm linh”. Từ tất cả những thứ ấy, trí hiểu rút ra
đƣợc sự hiểu biết hay còn gọi là thị kiến tâm linh mà không
cần nhờ qua bất cứ hình hài vóc dáng nào theo trí tƣởng
tƣợng hay óc sáng tạo vẽ vời tự nhiên, bởi chúng đƣợc
truyền đạt trực tiếp cho linh hồn bằng hoạt động siêu nhiên
và phƣơng thế siêu nhiên.
4 – Trong những chƣơng trƣớc27, ta đã thấy cần thoát
khỏi những nhận thức hữu hình qua trí tƣởng tƣợng. Ở đây
cũng thế, chúng ta cần phải gỡ cho trí hiểu khỏi vƣớng vào
những nhận thức thuần tâm linh này, cần chỉ lối dẫn đƣờng
cho trí hiểu vƣợt qua chúng mà đạt đến đêm tâm linh của đức
tin để đƣợc nên một nên một với Thiên Chúa trong bản thể
Ngài. Thật vậy, nếu bị lúng túng và bị kẹt vào những điều ấy,
trí hiểu sẽ bị cản trở khó đạt đƣợc sự cô tịch và trần trụi đối
với mọi sự, điều mà sự nên một đòi buộc phải có. Đành rằng
những nhận thức tâm linh này cao quý hơn, hữu ích hơn và
chắc chắn hơn nhiều so với những hiểu biết tƣởng tƣợng qua
các giác quan thể chất, đành rằng chúng sẵn tính cách nội
tâm hơn, thuần túy tâm linh hơn, và khó bị ma quỷ xâm
27
Xem lại các chƣơng 4, 8 và 12 (DG).
QUYỂN 2 297

phạm vào hơn, đành rằng chúng đã đƣợc thông ban cho linh
hồn một cách tinh tuyền và tinh tế hơn, mà không đòi linh
hồn phải hoạt động hay phải vận dụng trí tƣởng tƣợng, ít là
xét về mặt chủ động, thế nhƣng trên con đƣờng này, nếu
thiếu khôn ngoan cẩn trọng, trí hiểu vẫn có thể bị lúng túng,
và hơn nữa, vẫn có thể bị sai lầm lớn.
5 – Chúng ta đã có thể kết luận chung cho tất cả bốn
cách nhận thức này bằng lời khuyên mà chúng tôi đã đƣa ra
cho tất cả những cách hiểu biết khác, đó là đừng ƣớc ao cũng
đừng tìm kiếm chúng. Tuy nhiên, để giải thích thêm một số
điểm cho từng cách, đồng thời để dọi thêm ánh sáng và chỉ
dẫn thực hành, tƣởng cũng cần bàn riêng đến những cách một.
Do đó, chúng tôi sẽ đề cập đến cách nhận thức đầu tiên, tức là
các thị kiến tâm linh hay còn gọi là thị kiến thuộc trí hiểu.
298 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 24
Hai loại thị kiến tâm linh*

Bàn về hai loại thị kiến tâm linh thông qua nẻo đường
siêu nhiên.
1 – Giờ đây xin nói riêng đến các thị kiến tâm linh. Đây
là những thị kiến trí hiểu nhận đƣợc không qua một giác
quan thể xác nào và gồm hai loại: Một số là về những điều
hữu hình (mang tính thể chất) và số kia là về những điều vô
hình (tách biệt, không mang tính thể chất).
Những thị kiến về những điều hữu hình (mang tính thể
chất) liên quan đến tất cả những gì mang tính vật chất ở trên
trời và dƣới đất mà linh hồn, ngay khi đang còn trong thân
xác, có thể xem thấy nhờ một thứ ánh sáng siêu nhiên nào đó
phát xuất tự Thiên Chúa. Qua ánh sáng này linh hồn có thể
nhìn thấy mọi thứ hiện không có trƣớc mắt ở cả trên trời lẫn
dƣới đất, nhƣ chúng ta đọc ở chƣơng 21 sách Khải Huyền,
trong đó thánh Gioan mô tả và tán tụng thành Giêrusalem
thiên quốc mà ngài trông thấy ở trên trời. Cũng vậy, hạnh
thánh Biển Đức kể rằng thánh nhân từng nhìn thấy toàn thế
giới trong một thị kiến tâm linh. Trong cuốn Tạp Luận số I
(Quodlibetum I), thánh Tôma bảo rằng thị kiến này đã xảy ra
là nhờ vào thứ ánh sáng phát xuất từ trên cao nhƣ chúng tôi
đã nói trên đây.
2 – Loại thị kiến về những điều vô hình (tách biệt,
không mang tính thể chất) liên quan đến tất cả những gì
không thể đƣợc nhìn thấy nhờ thứ ánh sáng trên đây nhƣng
QUYỂN 2 299

nhờ thứ ánh sáng khác cao vời hơn, gọi là ánh sáng vinh
quang. Các thị kiến về những điều vô hình nhƣ thế, chẳng
hạn về các thiên thần và linh hồn, không thuộc về đời này và
ta cũng không thể thấy đƣợc chúng trong xác phàm hay chết
của ta. Nếu Thiên Chúa muốn thông truyền cho linh hồn biết
chúng một cách cốt yếu nhƣ bản chất của chúng thì lập tức
linh hồn chúng ta sẽ lìa khỏi những gì là xác thịt và thoát
khỏi cảnh sống tạm bợ này. Vì thế khi Môsê xin Thiên Chúa
tỏ cho ông thấy yếu tính của Ngài thì Ngài đã phán: Không
người nào trông thấy Ta mà vẫn có thể tiếp tục sống (Xh
33,20). Vì thế, khi con cái Israel nghĩ rằng họ sắp sửa xem
thấy hoặc đã xem thấy Thiên Chúa hay một thiên thần nào
đó, họ liền sợ mình sẽ phải bị chết, nhƣ trƣờng hợp trong
sách Xuất Hành, dân đã thốt lên đầy sợ hãi: Xin Thiên Chúa
đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất! (Xh 20,19).
Trong sách Thủ Lãnh cũng thế, sau khi cha của Samson là
ông Manuê và bà vợ nhìn thấy thiên thần tận mắt khi vị này
hiện ra ngỏ lời với ông bà dƣới hình dạng một ngƣời đàn ông
rất đẹp trai, ông Manuê đã bảo vợ: Chúng ta sẽ chết mất vì
chúng ta đã xem thấy Thiên Chúa (Tl 13,22).
3 – Nhƣ thế, bao lâu còn sống ở trần gian ta không chịu
nổi những thị kiến loại này ngoại trừ vài trƣờng hợp hiếm hoi
và chớp nhoáng, khi chính Thiên Chúa che chở cho sự sống
tự nhiên và sự hiện hữu của ta. Khi ấy Thiên Chúa che chở
bằng cách rút hẳn phần tâm linh ra và dùng ân sủng Ngài bù
đắp vào vai trò tự nhiên của linh hồn đối với thân xác.
Vì thế khi Thánh Phaolô bảo ngài đƣợc nhấc lên tầng
trời thứ ba, ta vẫn tƣởng rằng ngài nhìn thấy những điều vô
300 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hình, tách biệt, không mang tính thể chất, thì chính ngài lại
nói: Có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở
ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên
Chúa biết (2Cr 12,2). Nghĩa là ngài đã đƣợc “bốc đƣa đi”
đến với những thực tại ấy và những gì ngài thấy thì ngài
chẳng biết là mình đang ở trong hay ngoài thân xác mà chỉ
Chúa mới biết. Ở đây ta thấy rõ ràng ngài đã ra khỏi những
giới hạn của sự sống tự nhiên nhờ một sự can thiệp đặc biệt
của Thiên Chúa. Cũng thế đang khi ta cứ tƣởng rằng Thiên
Chúa tỏ cho Môsê thấy yếu tính của Ngài thì Thiên Chúa lại
bảo Môsê rằng Ngài sẽ đặt ông vào khe đá rồi dùng cánh tay
phải Ngài che phủ và bảo vệ để ông khỏi chết khi vinh quang
Ngài lƣớt qua. Việc lƣớt qua này cho thấy Thiên Chúa tỏ
mình rất chớp nhoáng trên đƣờng Ngài lƣớt qua và dùng
cánh tay phải của Ngài bảo tồn sự sống tự nhiên của Môsê
(x. Xh 33,22).
Tuy nhiên, những thị kiến mang tính bản thể rất cao độ
nhƣ thế, chẳng hạn thị kiến của thánh Phaolô, thị kiến của
Môsê và thánh phụ Êlia của chúng ta khi vị này che mặt
trƣớc tiếng gió hiu hiu thổi của Thiên Chúa (x. 1V 19,12-13),
mặc dù chỉ chớp nhoáng nhƣng vẫn rất hiếm và hầu nhƣ
không xảy ra ngoại trừ cho rất ít ngƣời. Thiên Chúa chỉ phú
ban ân huệ ấy cho những ngƣời rất mạnh mẽ trong tinh thần
Hội Thánh và lề luật Thiên Chúa, nhƣ ba vị đƣợc nêu trên.
4 – Vậy mặc dù ở trần gian các thị kiến thuộc bản thể
tâm linh này không thể đƣợc bóc trần cho ta thấy rõ bằng trí
hiểu, thế nhƣng ta vẫn cảm nhận đƣợc chúng nơi bản thể của
linh hồn qua những cái chạm nhẹ (những vuốt ve âu yếm) và
QUYỂN 2 301

ôm ấp rất dịu dàng. Sự thông giao này thuộc những tình cảm
tâm linh mà nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta sẽ bàn tới sau.
Chính đây là điều ngòi bút chúng tôi nhắm đến, tức sự kết
nối thần linh và sự nên một giữa linh hồn với bản thể Thiên
Chúa. Chúng tôi sẽ nói đến điều này khi bàn về thứ tri thức
huyền giao vừa mù mờ vừa tăm tối. Chúng tôi sẽ nói về cách
thức Thiên Chúa thông qua tri thức đầy yêu thƣơng và tăm
tối này để kết hiệp nên một với linh hồn ở một cấp độ cao
siêu và thần linh. Xét một cách nào đó, tri thức tăm tối và
đầy yêu thƣơng này, tức là đức tin, đƣợc dùng làm phƣơng
thế giúp cho sự nên một với Thiên Chúa ở đời này, phần nào
cũng tựa nhƣ ánh sáng vinh quang ở đời sau sẽ là phƣơng thế
giúp ta có đƣợc thị kiến rõ ràng về Thiên Chúa.
5 – Giờ đây ta hãy bàn đến các thị kiến về những điều
mang tính thể chất nhận đƣợc nơi linh hồn một cách tâm
linh. Chúng cũng theo một cách nhƣ những thị kiến nhận
đƣợc qua các giác quan thể chất. Cũng nhƣ đôi mắt nhìn thấy
các vật hữu hình nhờ vào ánh sáng tự nhiên thì linh hồn
thông qua trí hiểu của nó, xét về mặt nội tâm, cũng nhờ vào
sánh sáng siêu nhiên từ Thiên Chúa mà nhìn thấy chính
những vật tự nhiên này và nhiều vật khác theo ý Thiên Chúa
muốn. Chỉ có sự khác biệt về phƣơng thức và cách nhìn các
vật tự nhiên ấy mà thôi.
Những điều thuộc tâm linh và trí hiểu thì rõ ràng hơn và
tinh tế hơn nhiều so với những điều mang tính thể chất. Một
khi Thiên Chúa muốn thể hiện hồng ân này cho linh hồn,
Ngài thông ban cho nó thứ ánh sáng siêu nhiên mà chúng ta
đang bàn, qua đó, linh hồn đƣợc xem thấy thật dễ dàng và rõ
302 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đến lạ lùng những sự vật Thiên Chúa muốn tỏ bày cho nó.
Dù những sự vật ấy thuộc trên trời hay dƣới đất, dù có hay
không có trƣớc mắt cũng không ngăn cản gì cả. Chuyện này
giống nhƣ đôi khi giữa đêm đen, ta vừa mở rộng cửa thì có
một tia chớp sáng lòa, đột nhiên ngƣời ta nhìn thấy mọi vật
thật rõ ràng và biện biệt. Dù liền sau đó những vật ấy lại
chìm vào tăm tối, các hình dạng và nhận thức về chúng vẫn
còn lƣu lại trong óc sáng tạo vẽ vời. Nơi linh hồn điều này
diễn ra một cách hoàn hảo hơn nhiều. Những điều linh hồn
nhìn thấy bằng tâm linh qua thứ ánh sáng ấy sẽ vẫn in sâu
trong nó tới nỗi mỗi lần tƣởng nghĩ đến chúng, linh hồn lại
thấy chúng nơi mình nhƣ đã thấy chúng lần đầu, cũng giống
nhƣ mỗi lần nhìn vào gƣơng, ngƣời ta đều trông thấy các
hình thể trong đó. Cùng một cách ấy, những gì linh hồn đã
chiêm ngƣỡng sẽ không bao giờ bị xóa hoàn toàn khỏi nó
mặc dù theo dòng thời gian chúng hơi nhạt mờ đi.
6 – Các hoa quả phát sinh nơi linh hồn từ các thị kiến
trên là sự an tĩnh, sáng soi, hân hoan rạng rỡ, dịu dàng, tinh
sạch và yêu thƣơng, khiêm nhƣờng và biết hƣớng lòng lên
cùng Thiên Chúa; các hoa quả này lúc nhiều lúc ít, khi thì
hoa quả này khi thì hoa quả kia trội hơn, tùy theo cái tâm
linh của ngƣời ta khi lãnh nhận chúng cũng nhƣ tùy theo ý
Thiên Chúa muốn.
7 – Ma quỷ cũng có thể ngụy tạo các thị kiến này nơi
linh hồn nhờ vào một thứ ánh sáng tự nhiên nào đó. Nơi ánh
sáng này và qua những thúc giục nơi tâm linh, nó khiến trí
hiểu thấy rõ các sự vật dù chúng có trƣớc mặt hay không.
Chẳng hạn nhƣ nơi trình thuật của thánh Matthêu về việc ma
QUYỂN 2 303

quỷ gợi ra cho Chúa Kitô mọi vương quốc trần gian cùng
vinh quang của chúng (Mt 4,8). Một số vị tiến sĩ giải thích
rằng ma quỷ đã làm điều đó bằng cách dùng những thúc giục
tâm linh để tạo ảo ảnh vì nó không thể nào làm cho Chúa Kitô
nhìn thấy bằng đôi mắt trần của Ngài hết mọi vƣơng quốc trần
gian cùng sự vinh quang của chúng.
Tuy nhiên có sự khác biệt lớn lao giữa các thị kiến ma
quỷ tạo ra và các thị kiến đến từ Thiên Chúa. Những hậu quả
của các thị kiến do ma quỷ gây ra không giống những hoa
quả của các thị kiến tốt. Chúng khiến tâm linh bị khô khan
trong tƣơng giao với Thiên Chúa, dễ nghiêng về sự tự hào, tự
mãn, dễ chấp nhận và xem trọng các thị kiến ấy, mất đi sự
dịu dàng, khiêm nhƣờng và lòng yêu mến Thiên Chúa. Hình
sắc những thị kiến ấy cũng chẳng in sâu nơi linh hồn với sự
sáng sủa dịu dàng nhƣ vẻ sáng của các thị kiến kia, và chúng
cũng không bền, mau bị xóa mờ khỏi linh hồn trừ phi linh hồn
quá quý chuộng chúng vì nhƣ thế linh hồn sẽ tự nhiên nhớ lại
chúng. Tuy nhiên sự nhớ lại này rất khô khan và không đem lại
đƣợc những hoa quả yêu thƣơng và khiêm nhƣờng nhƣ các thị
kiến tốt vẫn gây ra mỗi khi ngƣời ta nhớ đến chúng.
8 – Các thị kiến này chỉ liên quan đến các thụ tạo,
không một chút tƣơng xứng hay phù hợp thiết yếu nào cả đối
với Thiên Chúa, cho nên không thể là một phƣơng thế trực
tiếp giúp trí hiểu đƣợc nên một với Thiên Chúa. Vì thế linh
hồn nên tỏ ra hoàn toàn lãnh đạm với chúng cũng nhƣ đối
với những loại nhận thức khác mà chúng tôi đã nói tới, ngõ
hầu có thể tiến bộ bằng phƣơng thế trực tiếp là đức tin. Cũng
vì thế, linh hồn không đƣợc tích chứa hay giữ lại những hình
304 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ảnh các thị kiến ấy đã đập vào tâm trí mình và cũng không
đƣợc dựa vào chúng. Nếu không, linh hồn sẽ bị vƣớng vào
các hình thể, hình ảnh cũng nhƣ nhân vật và sẽ không từ bỏ
đƣợc mọi sự để lên đƣờng đến với Thiên Chúa.
Cho đi là các hình ảnh ấy vẫn cứ sờ sờ ra đó mãi nhƣng
nếu linh hồn không thèm lƣu tâm đến thì chúng cũng chẳng
cản trở gì nhiều cho linh hồn. Quả thực việc nhớ đến những
thị kiến ấy có thôi thúc linh hồn thêm mến yêu và chiêm
ngắm Thiên Chúa đƣợc đôi chút, tuy nhiên một đức tin tinh
tuyền và trơ trụi, chẳng bận tâm gì tới mọi thứ ấy thì còn thôi
thúc và nâng cao linh hồn hơn nhiều, dù rằng linh hồn chẳng
biết thôi thúc ấy xảy đến cách nào và từ đâu.
Có thể xảy ra là linh hồn cháy bừng những nỗi khắc
khoải vì tình yêu rất tinh tuyền dành Thiên Chúa mà chẳng
biết chúng từ đâu đến và dựa trên nền tảng nào. Tựa nhƣ đức
tin bám rễ ăn sâu hơn vào linh hồn nhờ sự nghèo khó tâm
linh, hay nói cách khác là nhờ sự trống rỗng, tăm tối và trơ
trụi với hết mọi thứ, thì lòng mến yêu Thiên Chúa cũng nhờ
đó mà ăn sâu và bám rễ nhiều hơn nơi linh hồn. Do đó linh
hồn càng muốn chịu tăm tối và hủy diệt hẳn mọi sự bên
ngoài và bên trong mà nó có thể lãnh nhận, thì càng đƣợc đổ
thêm đức tin cùng với đức ái và đức cậy bởi vì ba nhân đức
hƣớng thần này luôn đi chung với nhau nhƣ một.
9 – Đôi khi linh hồn chẳng hiểu cũng chẳng cảm thấy
đƣợc thứ tình yêu này bởi vì nó không ở nơi phần giác quan
với những cảm xúc dịu dàng mà lại ở nơi phần linh hồn với
sự mạnh mẽ, can đảm và bạo dạn hơn trƣớc đó; mặc dù có
QUYỂN 2 305

khi nó cũng tràn ngập giác quan và tạo nên những cảm xúc
dịu dàng êm ái. Thành ra, để đạt đƣợc tình yêu, niềm vui
thỏa mà các thị kiến loại này gây ra cho nó, linh hồn phải có
đƣợc sức mạnh, sự hy sinh và tình yêu ngõ hầu biết ƣớc
muốn ở lại trong tình trạng trống rỗng và tăm tối đối với tất
cả những thứ đó, và biết đặt nền tảng cho tình yêu và sự vui
thỏa này nơi điều mà linh hồn không thấy và không cảm
nghiệm, mà cũng không thể thấy và không thể cảm nghiệm ở
đời này, tức là nơi chính Thiên Chúa, Đấng ta không thể hiểu
nổi và là Đấng siêu vƣợt trên tất cả. Vì thế ta hãy đến với
Ngài bằng cách từ bỏ hết tất cả. Nếu không, dù cho linh hồn
rất khôn khéo, khiêm nhu và mạnh mẽ đến độ ma quỷ không
thể lừa gạt đƣợc linh hồn bằng các thị kiến ấy cũng không
thể xui linh hồn rơi vào một sự tự phụ nào nhƣ nó vốn quen
làm, thì những thứ đó vẫn khiến linh hồn không tiến đƣợc vì
thiếu sự trơ trụi tâm linh, thiếu tinh thần nghèo khó và sự
trống rỗng trong đức tin là những yếu tố cần phải có đối với
sự nên một giữa linh hồn và Thiên Chúa.
10 – Ở các chƣơng 21 và 22 chúng tôi đã trình bày
nguyên tắc về các thị kiến và sự nhận thức siêu nhiên thuộc
giác quan. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho các thị kiến loại
này, vì thế chúng tôi không muốn mất thời gian bàn đến nữa.
306 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 25
Các mạc khải*

Bàn về các mạc khải, bản chất của chúng và làm sao để
phân biện.
1 – Theo trình tự đã đề ra, bây giờ xin bàn đến loại
nhận thức tâm linh thứ hai mà trên đây đã gọi là các mạc
khải; chúng thuộc riêng về tinh thần ngôn sứ.
Về vấn đề này trƣớc tiên phải biết rằng “mạc khải”
không gì khác hơn là “vén màn cho thấy” một điều ẩn tàng
nào đó hay biểu lộ ra một bí mật, một mầu nhiệm nào đó.
Thiên Chúa làm cho linh hồn hiểu ra một điều gì đó tỏ tƣờng
bằng cách tỏ rõ sự thật về điều đó cho trí hiểu hoặc hé mở
cho linh hồn một số điều Ngài đã, đang hay dự định sẽ làm.
2 – Nhƣ thế, có thể phân biệt hai loại mạc khải. Loại
thứ nhất chủ yếu là hé mở cho trí hiểu thấy các sự thật, gọi
đúng ra là những nhận thức thuộc trí hiểu hay là những hiểu
biết. Loại thứ hai là bày tỏ ra các điều bí mật, thích hợp với
tên gọi mạc khải hơn loại trên. Thật ra loại thứ nhất mà gọi là
mạc khải thì không chính xác bởi, nơi chúng, chủ yếu lào
Thiên Chúa khiến linh hồn hiểu đƣợc các sự thật trần trụi
không riêng về lãnh vực trần tục mà cả lãnh vực tâm linh
bằng cách bày tỏ chúng ra một cách sáng sủa tỏ tƣờng. Tuy
vậy tôi vẫn muốn bàn đến chúng dƣới tên gọi là mạc khải,
một đàng vì chúng gần gũi và cũng gắn liền với các mạc
khải, đàng khác để tránh khỏi phải phân tích quá chi li.
QUYỂN 2 307

3 – Vậy ta có thể chia các mạc khải thành hai cách nhận
thức: chúng tôi sẽ gọi loại thứ nhất là những nhận thức thuộc
trí hiểu và loại thứ hai là sự tỏ bày các bí mật và mầu nhiệm
tàng ẩn của Thiên Chúa. Chúng tôi sẽ đƣa ra kết luận về
chúng cách vắn gọn trong hai chƣơng và sau đây là chƣơng
bàn về loại thứ nhất.
308 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 26
Loại mạc khải thứ nhất*

Bàn về cách hiểu những sự thật trần trụi nơi trí hiểu:
Có hai loại hiểu biết và linh hồn phải xử sự thế nào trước hai
loại ấy.
1 – Để nói cho thích đáng về chủ đề nay, tức là việc
nhận thức những sự thật trần trụi, thiết tƣởng tôi cần đƣợc
Thiên Chúa cầm tay giúp viết. Bởi lẽ, thƣa quý độc giả mến
yêu, bạn nên biết rằng những gì nơi các sự thật ấy có tác
dụng đến linh hồn thì vƣợt quá mọi ngôn từ. Tuy nhiên khi
nói đến những điều này tôi chỉ nhằm dẫn đƣờng chỉ lối cho
các linh hồn biết nhờ chúng mà đạt đến sự nên một với Thiên
Chúa, vì thế tôi xin bàn về chúng cách vắn tắt và chừng mực,
đủ đáp ứng cho chủ ý của chúng tôi.
2 – Loại thị kiến này, hay nói đúng hơn, những nhận
thức về các sự thật trần trụi này rất khác với loại thị kiến
chúng tôi đã đề cập ở chƣơng 24. Nó không nhƣ việc xem
thấy những điều hữu hình bằng trí hiểu nhƣng chủ yếu là trí
năng đƣợc hiểu và xem thấy những sự thật về Thiên Chúa và
những sự thật của nhiều điều thuộc quá khứ, hiện tại và
tƣơng lai.
3 – Loại nhận thức này đƣợc phân biệt thành hai: Một
số liên can tới Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, còn một số
khác liên can tới các thụ tạo, nhƣ chúng tôi đã nói. Cả hai
loại đều đem lại hoan lạc cho linh hồn, nhƣng những nhận
thức liên can tới Thiên Chúa vẫn gây ra sự hoan lạc không gì
QUYỂN 2 309

sánh đƣợc và cũng chẳng lời lẽ nào diễn tả đƣợc, bởi lẽ đó là


những nhận thức về chính Thiên Chúa và sự hoan lạc vì
chính Thiên Chúa, Đấng mà vua Đavít từng nói: Không một
ai sánh được như Ngài (Tv 39,6). Thiên Chúa là đối tƣợng
trực tiếp của những nhận thức này, trong đó ta cảm nghiệm
đƣợc một thuộc tính nào đó của Thiên Chúa (hoặc sự toàn
năng, hoặc sức mạnh hoặc lòng nhân từ và dịu dàng của
Ngài) cách thật cao vời... Mỗi lần ngƣời ta cảm nhận đƣợc
ơn thông hiểu này, nó lại gắn chặt vào linh hồn. Điều này
thuộc về sự chiêm niệm thuần túy nên linh hồn thấy rõ là
không sao diễn tả đƣợc bằng lời. Ngƣời ta chỉ có thể bày tỏ
qua một vài kiểu nói chung chung đã thốt lên giữa lúc cảm
nhận thật dồi dào sự hoan lạc và các ơn lành. Tuy nhiên, qua
đó vẫn không thể nào hiểu thấu đƣợc những gì linh hồn cảm
nếm nơi sự chiêm niệm ấy.
4 – Vua Đavít, sau khi cảm nghiệm đôi chút về điều
ấy, cũng chỉ nói lên đƣợc những lời chung chung và khái
quát rằng: Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều
công minh, thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn
lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất
(Tv 18,10 –11).
Chúng ta đọc trong sách Xuất Hành, ông Môsê đã đƣợc
Thiên Chúa tỏ mình khi Ngài lƣớt qua trƣớc mặt ông. Lúc ấy
ông cũng chỉ thốt lên đƣợc những tữ ngữ tổng quát và chung
chung nói trên. Ông vội phủ phục xuống đất, miệng nói:
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân
nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế
hệ (x. Xh 34,5-8). Vì không thể diễn tả những gì đã nhận biết
310 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

về Thiên Chúa qua chỉ một lần nhận thức ấy, nên Môsê chỉ
thể nói và tỏ bày điều đó bằng tất cả những lời trên đây.
Và mặc dù đôi khi trong các lần nhận thức nhƣ thế,
ngƣời ta có thốt ra những lời nói, linh hồn vẫn thấy rõ là nó
đã chẳng nói đƣợc gì về những điều mình cảm nhận vì chẳng
có danh từ thích hợp nào để diễn tả điều đó. Vì thế, khi có
đƣợc cảm nhận cao cả này về Thiên Chúa thì thánh Phaolô
cũng chẳng quan tâm nói lên câu gì ngoài câu: Người phàm
không được phép nói lại (2Cr 12,4).
5 – Những nhận thức thần linh này hƣớng thẳng vào
Thiên Chúa, là Nguyên Lý Tối Cao, nên chẳng bao giờ liên
quan đến những cái cụ thể. Do đó chúng không thể đƣợc diễn
tả một cách chính xác, bằng không, một cách nào đó, chúng
chẳng khác gì một sự thật nào đó về các vật thấp hèn hơn
Thiên Chúa mà ngƣời ta cảm nhận cùng lúc. Đã là những nhận
thức về Thiên Chúa thì không thể nào chính xác nhƣ thế.
Những nhận thức cao vời này là chính sự nên một với
Thiên Chúa nên chỉ linh hồn nào đã đạt đến sự nên một mới
có đƣợc. Nhận đƣợc chúng có nghĩa là linh hồn đƣợc Thiên
Chúa vuốt ve âu yếm và nhƣ thế, linh hồn đang nhận biết và
cảm nếm đƣợc chính Thiên Chúa. Mặc dù không một cách
hiển nhiên rõ ràng nhƣ trong cõi vinh quang, đây vẫn là cái
chạm nhẹ của nhận thức và hƣơng vị cao siêu tới nỗi xuyên
thấu bản thể của linh hồn và ma quỷ không thể xen vào
hoặc tạo ra một cái gì khác tƣơng tự, bởi vì chẳng có gì
giống nhƣ thế mà cũng chẳng có gì so sánh đƣợc. Ma quỷ
cũng không thể trút vào linh hồn một hƣơng vị hay một sự
QUYỂN 2 311

hoan lạc nào giống nhƣ thế đƣợc, bởi lẽ những nhận thức ấy
mang lại một sự hiểu biết về bản tính Thiên Chúa và cuộc
sống đời đời và quỷ ma chẳng thể nào ngụy tạo ra một điều
cao siêu đến thế.
6 – Hẳn nhiên, ma quỷ rất có thể chơi trò bắt chƣớc nhƣ
khỉ, bằng cách đề ra cho linh hồn một số điều gì đó có vẻ cao
cả và dễ thỏa mãn giác quan, rồi thuyết phục linh hồn rằng
đó chính là Thiên Chúa, thế nhƣng những nhận thức loại này
không cách nào thâm nhập đƣợc vào bản thể linh hồn để bất
chợt đổi mới linh hồn và khiến nó yêu thƣơng say đắm nhƣ
những gì thuộc về Thiên Chúa vẫn làm. Trong những gì
Thiên Chúa thực hiện nơi bản thể linh hồn, một số nhận thức
và vuốt ve âu yếm khiến linh hồn đƣợc phong phú đến nỗi
chỉ một động tác thôi cũng đủ để dứt khoát kéo linh hồn ra
khỏi tất cả những bất toàn mà có lẽ suốt cả một đời nó không
sao loại bỏ nổi, và hơn thế nữa, còn đổ đầy cho linh hồn các
nhân đức và ơn lành của Thiên Chúa.
7 – Những cái chạm nhẹ ấy còn dịu ngọt và hoan lạc
đối với linh hồn tới nỗi chỉ nguyên một cái thôi cũng đủ đền
bù rộng rãi cho mọi nỗi nhọc nhằn linh hồn từng chịu trong
cuộc đời của nó, dù những nhọc nhằn ấy nhiều không sao
đếm xuể. Linh hồn đƣợc trở nên mạnh mẽ và hăng say chịu
đựng biết bao điều vì Thiên Chúa đến nỗi dƣờng nhƣ hết sức
đau khổ khi thấy mình chẳng đƣợc chịu đau khổ nhiều.
8 – Linh hồn không thể nào đạt tới những nhận thức
cao cả ấy bằng bất cứ lối so sánh hay tƣởng tƣợng nào của
riêng nó, bởi lẽ những nhận thức ấy vƣợt trên mọi so sánh và
312 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tƣởng tƣợng. Thật vậy, Thiên Chúa thực hiện những nhận
thức ấy nơi linh hồn mà chẳng cần đến sự khéo léo của nó.
Lắm lúc, chính vào lúc linh hồn ít nghĩ tới và ít nhắm đến
điều ấy hơn cả thì Thiên Chúa lại thƣờng ban cho nó những
vuốt ve âu yếm thần linh này để nhắc nó nhớ đến Ngài. Cũng
lắm lúc những cái chạm nhẹ này đến với linh hồn thật bất
ngờ, hoặc do nó nhớ lại một đôi điều gì đó, hoặc do những
chuyện rất nhỏ bé. Những vuốt ve ấy rất bén nhạy, đến nỗi
đôi khi không những chúng khiến linh hồn mà cả thân xác
cũng phải run rẩy. Lắm lúc, chúng lại lẻn vào cái cõi tâm linh
thật an tịnh không mảy may máy động, và khiến tâm linh đột
nhiên cảm thấy thật hoan lạc và tƣơi trẻ.
9 – Lại có lắm lần, chỉ qua một lời nói nào đó hay một
câu nói nghe đƣợc từ Kinh Thánh hay từ một chuyện khác đã
có những chạm nhẹ ấy. Thế nhƣng không phải lúc nào chúng
cũng mang lại cùng một hiệu quả và một tâm tình nhƣ thế,
bởi nhiều khi chúng rất yếu ớt, tuy nhiên, dù yếu ớt mấy đi
nữa thì chỉ một trong những tƣởng nhớ và vuốt ve âu yếm
của Thiên Chúa đối với linh hồn, vẫn có giá trị hơn hẳn
nhiều hiểu biết và nhận định về các thụ tạo và các công trình
của Thiên Chúa. Bởi lẽ các nhận thức này đƣợc ban cho linh
hồn cách đột ngột, không do sự tính toán của nó, linh hồn
chẳng cần quan tâm đến việc muốn hay không muốn mà chỉ
nên khiêm nhƣờng và nhẫn nại đối với chúng vì Thiên Chúa sẽ
thực hiện công việc của Ngài vào lúc và theo cách Ngài muốn.
10 – Về các nhận thức này tôi không bảo chúng ta phải
lãnh đạm với chúng nhƣ với những nhận thức khác đã nói
QUYỂN 2 313

28
trƣớc đây , bởi lẽ chúng là một phần của sự nên một mà
chúng tôi đang dẫn đƣa linh hồn đến. Chính vì sự nên một ấy
mà chúng tôi dạy linh hồn phải trở thành trơ trụi và tách
mình khỏi mọi thứ nhận thức khác. Phƣơng thế để đƣợc
Thiên Chúa ban cho ơn hiệp nhất ấy là lòng khiêm nhƣờng,
biết chịu đựng đau khổ vì Chúa, yêu mến Chúa và khƣớc từ
mọi phần thƣởng. Các hồng ân này không dành cho những
linh hồn tham lam. Chúng phát sinh từ một tình yêu rất đặc
biệt mà Thiên Chúa chỉ dành cho linh hồn nào biết yêu mến
Ngài bằng một trái tim vô vị lợi. Đó là điều Con Thiên Chúa
muốn nói lên trong Tin Mừng thánh Gioan khi Ngài phán: Ai
yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ
yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy (Ga 14,21).
Đây chính là những nhận thức và vuốt ve âu yếm chúng tôi
đã nói - mà Thiên Chúa vẫn ban cho linh hồn nào thực sự
yêu mến Ngài.
(Trên đây là nói về loại nhận thức liên can tới Thiên
Chúa là Đấng Tạo Hóa).
11 – Loại nhận thức thứ hai hay còn gọi là những thị
kiến về những sự thật bên trong thì rất khác biệt với loại
nhận thức chúng tôi đã nói29 bởi chúng liên can đến những
điều thấp kém hơn Thiên Chúa. Loại này bao gồm những
nhận thức về sự thật liên can đến bản chất mọi sự cũng nhƣ
nhận thức về những sự kiện và tình huống xảy đến giữa loài
ngƣời. (Chúng biểu hiện thế nào?)

28
Xem số 5 của chƣơng này.
29
X. số 3 trên đây và chƣơng 25.
314 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Những sự thật này đƣợc ban thẳng vào nội tâm không
cần phải có ai nói năng dạy bảo và một khi đã đƣợc tỏ ra cho
linh hồn liền in sâu vào đó. Dù ngƣời ta có nói cho linh hồn
điều gì khác thì tự thâm sâu nó vẫn không thể tán đồng, dù
chính nó có cố gắng mấy đi nữa cũng vậy. Phần tâm linh sẽ
nhận ra ngay chỗ không ổn nơi những gì ngƣời ta nói, chẳng
khác nào linh hồn đã đƣợc trông thấy sự thật tỏ tƣờng rồi
vậy. Điều này thuộc về ơn tiên tri và thứ ân sủng mà thánh
Phaolô gọi là ơn phân biện các thần trí (1Cr 12,10).
Dù linh hồn xem điều nó hiểu là rất vững chắc và chân
thực, nhƣ đã nói trên, và dù nó không thể nào dứt đƣợc sự ƣng
thuận nội tâm một cách thụ động, thế nhƣng đối với những gì
vị linh hƣớng của mình nói, dù có rất ngƣợc với những gì nó
cảm thấy, nó vẫn phải tin, phải bắt lý trí phục tùng và phải làm
theo lệnh ngài. Đó là cách để linh hồn đƣợc hƣớng dẫn tới chỗ
nên một với Thiên Chúa qua đức tin, vì linh hồn tiến đƣợc tới
sự nên một bằng tin nhiều hơn là bằng hiểu biết.
12 – Về cả hai loại nhận thức trên trong Kinh Thánh có
nhiều chứng cứ. Đối với nhận thức tâm linh mà ngƣời ta có
thể có đƣợc về các sự vật, sách Khôn Ngoan viết: Chính
Người đã khấng ban cho tôi tri thức xác thực về những gì
đang hiện hữu để tôi thấu hiểu cơ cấu của vũ trụ và năng lực
của các nguyên tố tạo thành, thấu hiểu về thời gian từ khởi
thủy, qua các thời đại, và cho đến tận cùng của nó, thấu hiểu
về thời tiết chuyển vần, về các mùa thay đổi, thấu hiểu về chu
kỳ năm tháng, về vị trí tinh tú trên trời, thấu hiểu bản tính
các sinh vật và bản năng các loài dã thú, thấu hiểu các mãnh
lực thần thiêng và các tư tưởng của con người, thấu hiểu các
QUYỂN 2 315

loài thảo mộc và công hiệu của rễ cây. Mọi sự tiềm ẩn và


mọi sự trông thấy được, tôi đều biết hết. Vì chính người thợ
làm ra muôn vật muôn loài đã chỉ dạy cho tôi. Người thợ ấy
chính là Đức Khôn Ngoan (Kn 7,17-21).
Nhận thức về mọi sự mà nhà hiền triết bảo rằng Thiên
Chúa đã ban cho ông là nhận thức thiên phú và tổng quát.
Tuy nhiên ta cũng có thể dựa vào trích đoạn ấy để nói về mọi
nhận thức khác mà Thiên Chúa tuôn đổ cách riêng vào linh
hồn qua nẻo siêu nhiên khi Ngài muốn. Chẳng phải là Thiên
Chúa ban cho các linh hồn cái “nếp quen” tổng quát nhƣ đã
ban cho nhà hiền triết Salômôn nơi những điều kể trên,
nhƣng đôi khi Ngài biểu lộ cho họ vài sự thật về một điều
nào đó trong tất cả những điều nhà hiền triết kể lại trên đây.
Mặc dù thực sự Chúa chúng ta có tuôn đổ cho nhiều
linh hồn những nếp quen để biết đƣợc nhiều điều thì cũng
chẳng bao giờ chúng có tính bao quát nhƣ nếp quen đã từng
đƣợc ban cho vua Salômôn. Đàng khác, các ơn Chúa ban rất
đa dạng. Giữa các ơn ấy thánh Phaolô kể đến: ơn khôn
ngoan, hiểu biết, đức tin, ơn ngôn sứ, ơn cẩn trọng còn gọi là
ơn nhận rõ các thần trí, ơn hiểu các ngôn ngữ, ơn công bố
lời vv... (1Cr 12,8-10). Tất cả những nhận thức ấy đều là
những nếp quen thiên phú đƣợc Thiên Chúa “ban không”
cho những ai Ngài muốn, khi thì theo cách tự nhiên, khi thì
theo cách siêu nhiên. Theo cách tự nhiên nhƣ trƣờng hợp
Balaam và những ngôn sứ thờ ngẫu tƣợng khác, cũng nhƣ
nhiều bà bói toán xƣa đã đƣợc ban ơn nói tiên tri. Còn theo
cách siêu nhiên thì chẳng hạn trƣờng hợp các thánh ngôn sứ,
các tông đồ và các vị thánh khác.
316 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

13 – Ngoài những nếp quen hay các ơn “ban không” ấy,


những ngƣời hoàn thiện hoặc những kẻ đã tiến xa trên đƣờng
hoàn thiện thƣờng rất hay nhận đƣợc ơn soi sáng hoặc ơn
biết đƣợc những điều có trƣớc mắt hoặc không có đó. Họ
biết đƣợc là nhờ tâm linh họ đã đƣợc soi sáng và thanh
luyện. Sách Châm Ngôn có nói về điều ấy nhƣ sau: Nước
phản chiếu khuôn mặt, tâm tư phản ánh con người (Cn
27,19). Tựa nhƣ mặt nƣớc biểu lộ khuôn mặt ngƣời soi mình
trong nó, lòng ngƣời cũng lộ ra trƣớc mắt những ngƣời khôn
ngoan. Những ngƣời khôn ngoan nói đây là những ngƣời đã
đạt đến sự minh triết của các thánh nhân mà Kinh Thánh gọi
là sự khôn ngoan (x. Cn 9,10). Đôi khi các vị này cũng nhận
biết đƣợc những chuyện khác theo cách này nhƣng không phải
luôn luôn theo ý họ muốn vì điều này chỉ dành cho những ai
có nếp quen, mà cũng chẳng phải mọi lúc trong mọi vấn đề vì
còn phải tùy theo ý Thiên Chúa muốn ban cho mới đƣợc.
14 – Nên biết rằng những ngƣời mà tâm linh đã thanh
tẩy thì, kẻ ít ngƣời nhiều, một cách tự nhiên có thể rất dễ
dàng biết đƣợc những điều ngƣời khác đang lo nghĩ, cùng
các khuynh hƣớng và tài năng của kẻ khác, qua những dấu
chỉ bên ngoài dù rất nhỏ nhặt, chẳng hạn những lời nói, cử
chỉ hay các dấu hiệu khác. Ma quỷ thuộc giới tâm linh nên
có thể biết những điều ấy thì ngƣời sống theo tâm linh
cũng thế, nhƣ lời Thánh Tông đồ có nói: Người sống theo
tâm linh xét đoán hết mọi sự (1Cr 2, 15). Chỗ khác ngài
nói: Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu
thẳm nơi Thiên Chúa (x. 1Cr 2, 10). Do đó dầu về mặt tự
nhiên, ngƣời sống theo tâm linh không thể biết các tƣ
QUYỂN 2 317

tƣởng hay những gì ở trong tâm giới song họ vẫn có thể


hiểu rõ chuyện đó nhờ sự soi sáng siêu nhiên hay nhờ các
dấu chỉ. Dù nhiều khi họ bị sai lầm trong việc nhận biết
qua dấu chỉ, nhƣng thông thƣờng phỏng định của họ là
đúng. Dầu thế, vẫn không đƣợc tin cậy nhận thức này hay
nhận thức kia bởi ma quỷ thƣờng hay dây mình vào
chuyện này rất nhiều và rất tinh tế, nhƣ chúng tôi sắp đề
cập, do đó vẫn phải luôn từ chối các nhận thức này.
15 – Về chuyện những ngƣời sống theo tâm linh có thể
nhận biết các sự kiện và biến cố về những con ngƣời vắng
mặt chúng ta có đƣợc một chứng cứ và tỉ dụ trong sách các
Vua quyển II (5,26), chuyện Giêkhazi, đồ đệ của thánh phụ
Êlisa của chúng ta. Anh này đã muốn giấu thánh phụ số tiền
y đã nhận của Naaman ngƣời Syria. Thánh phụ liền bảo anh
ta: Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao?
(2V 5,26). Điều này đã xảy ra về mặt tâm linh khi ngƣời ta
nhìn thấy nơi tâm hồn các sự việc nhƣ thể chúng đang diễn ra
trƣớc mặt. Ta có thể minh chứng bằng một điển cứ khác
cũng trong cuốn sách nêu trên và cũng với thánh phụ Êlisa.
Biết đƣợc tất cả những gì vua xứ Syria đã bí mật bàn bạc với
các hoàng thân, ngài đã nói cho vua Israel hay, do đó những
âm mƣu ấy hóa ra vô hiệu. Khi thấy ngƣời ta đã biết hết cả,
vua Syria liền bảo quần thần: Chẳng lẽ các ngươi không báo
cho ta biết ai trong chúng ta đã bỏ theo vua Israel sao? Một
ngƣời trong nhóm thuộc hạ đáp: Thưa đức vua, chúa công
tôi, chẳng có ai đâu! Chính ông Êlisa, ngôn sứ của Israel, đã
cho vua Israel biết những lời ngài nói trong phòng ngủ của
ngài (2V 6,11-12).
318 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

16 – Cả hai loại nhận thức nêu trên cũng nhƣ những


loại khác đều xảy đến cho linh hồn một cách thụ động mà
linh hồn chẳng phải đóng góp phần gì của nó cả. Có ngƣời
đang lơ đãng chẳng bận tâm gì tới chuyện đó bỗng dƣng có
đƣợc sự hiểu biết sống động về những gì nghe hay đọc, còn
rõ hơn cả âm vang lời nói nhiều. Đôi khi dù chúng đƣợc nói
bằng tiếng Latin là thứ ngôn ngữ ngƣời ấy chẳng biết - thì
ngƣời ấy vẫn nhận thức đƣợc ý nghĩa những lời đó.
17 – Về những phỉnh gạt ma quỷ có thể làm và đang
làm trong những nhận thức và hiểu biết này thì có nhiều điều
để nói, vì những cạm bẫy ở đây rất nguy hiểm và ngụy trang
rất tài tình. Bằng những gợi ý ngấm ngầm, nó đề ra cho linh
hồn đủ thứ nhận thức thuộc trí hiểu và khiến chúng in sâu
vào linh hồn cách mãnh liệt tới mức có vẻ nhƣ không thể nào
khác đƣợc và nếu linh hồn thiếu khiêm nhƣờng và thận
trọng, chắc chắn sẽ nhẹ dạ tin theo cả ngàn lời dối trá. Bởi lẽ
sự gợi ý ngấm ngầm đôi khi ập xuống rất mãnh liệt trên linh
hồn nhất là khi giác quan yếu đuối buông xuôi, ma quỷ khiến
cái nhận thức ấy ùa vào linh hồn cách mãnh liệt, đầy thuyết
phục và chắc nịch, linh hồn cần phải cầu nguyện thật nhiều
và dùng hết sức mình để đẩy lùi nó. Đôi khi ma quỷ phơi bày
ra một cách sai lạc nhƣng lại có vẻ rõ nhƣ ban ngày, phơi bày
những tội lỗi của kẻ khác, những lƣơng tâm xấu xa, những
linh hồn hƣ đốn, tất cả chỉ nhằm bôi nhọ và cố ý làm cho
thiên hạ vạch trần các nết xấu ấy ra thật lộ liễu để ngƣời ta
càng thêm phạm tội. Chúng làm cho các linh hồn này tƣởng
mình đầy nhiệt tình dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa để
cầu cho những kẻ tội lỗi kia. Thực ra đôi khi Thiên Chúa
QUYỂN 2 319

cũng tỏ bày cho các linh hồn thánh thiện biết nhu cầu của
những ngƣời bên cạnh để họ cầu xin Thiên Chúa cứu giúp
cho những ngƣời này. Chúng ta đọc thấy chuyện Thiên Chúa
bày tỏ cho ngôn sứ Giêrêmia cái nhƣợc điểm của ngôn sứ
Baruch nhằm dạy dỗ ông này về điểm ấy (x. Gr 45,3). Tuy
nhiên ma quỷ cũng rất thƣờng xuyên làm nhƣ vậy một cách
sai lạc nhằm đƣa đến những sự bôi nhọ, tội lỗi và nản lòng.
Chúng ta đã có quá nhiều kinh nghiệm về những chuyện ấy.
Còn lắm lần nữa, ma quỷ lại in sâu vào linh hồn những nhận
thức khác và khiến linh hồn tin vào chúng.
18 – Dù những nhận thức trên có đến từ Thiên Chúa
hay không, nếu linh hồn muốn bám víu vào chúng, chúng
cũng chỉ có thể giúp ích rất ít trong việc đƣa linh hồn tiến tới
Thiên Chúa. Nếu linh hồn không chăm lo loại trừ chúng thì
không những chúng sẽ cản trở mà còn gây nhiều thiệt hại và
sai lầm trầm trọng cho linh hồn. Tất cả những nguy hiểm và
bất tiện có thể phát sinh từ những nhận thức siêu nhiên đã
bàn từ trƣớc tới đây, đều có thể xảy ra ở đây và còn nhiều
hơn nữa là đàng khác.
Vì thế, tôi sẽ không nói dài hơn nữa về điểm này.
Những chỉ dẫn tôi đã đƣa ra nơi các chƣơng trƣớc tƣởng
cũng đã đủ. Tôi chỉ xin nói rằng phải luôn tỉnh táo loại trừ
những thứ nhận thức ấy và nên khao khát đƣợc tiến đến hiệp
nhất với Thiên Chúa qua sự không biết gì. Linh hồn phải
luôn nói rõ cho cha giải tội (hay vị linh hƣớng) của mình
biết, đồng thời phải luôn nghe lời ngài chỉ dạy. Vị này cần
dạy cho linh hồn mau chóng vƣợt lên trên những chuyện ấy,
đừng đặt nặng, vì trên con đƣờng nên một với Thiên Chúa,
320 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

những chuyện ấy chẳng hề quan trọng gì. Thiên Chúa muốn


tạo cho linh hồn kết quả nào qua những truyền đạt ấy thì
chính Ngài sẽ làm, chẳng cần linh hồn phải bận tâm hay cố
gắng gì.
Thành ra ở đây không cần gì phải bàn đến sự khác nhau
giữa các hệ quả của những truyền đạt chân chính và các hệ
quả của những truyền đạt sai lạc. Chuyện ấy chỉ khiến bạn
đọc mệt mỏi và sẽ chẳng bao giờ nói cho cùng. Bởi lẽ các hệ
quả của những chuyện nói trên thì không thể thâu tóm vào
một đôi lời vắn tắt vì những nhận thức nhƣ thế rất nhiều và
rất khác nhau nên các hậu quả của chúng cũng vậy, những
nhận thức tốt gây nên hoa quả tốt, những nhận thức xấu tạo
ra hậu quả xấu vv... Thiết tƣởng chỉ cần bảo phải loại trừ tất
cả là đã nói đủ để giúp tránh khỏi bị phỉnh gạt.
QUYỂN 2 321

Chương 27
Loại mạc khải thứ hai*

Bàn về loại mạc khải thứ hai, tức sự tỏ bày những bí


mật và những mầu nhiệm ẩn tàng. Chúng có thể giúp gì cho
sự nên một với Thiên Chúa cũng như có thể cản trở thế nào,
và ma quỷ có thể lừa gạt nhiều về khía cạnh này ra sao.
1 – Loại thứ hai của mạc khải mà chúng tôi nói đây là
sự bày tỏ những điều bí mật và những mầu nhiệm ẩn tàng.
Nó lại có thể đƣợc phân thêm thành hai loại. Loại thứ nhất
liên can tới bản tính Thiên Chúa, gồm mạc khải về mầu
nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Loại thứ hai liên
can tới Thiên Chúa nơi các công việc của Ngài, gồm tất cả
các tín điều còn lại của đức tin Công giáo của chúng ta cũng
nhƣ các mệnh đề nêu rõ những sự thật đức tin liên quan đến
các tín điều ấy. Tiêu biểu cho các mệnh đề này là một số lớn
những lời mạc khải của các ngôn sứ, những lời hứa và lời đe
dọa của Thiên Chúa cũng nhƣ các điều khác đã và đang phải
xảy đến liên quan tới vấn đề đức tin ấy.
Ta cũng có thể kể vào loại thứ hai này nhiều điều cụ thể
khác đƣợc Thiên Chúa mạc khải một cách thông thƣờng về
vũ trụ nói chung, cũng nhƣ về các vƣơng quốc, các tỉnh
thành, các nhà nƣớc, các gia đình và các cá nhân nói riêng.
Các sách Kinh Thánh chúng ta có vô số tỉ dụ đủ loại về
chuyện này, nhất là nơi sách các ngôn sứ, rất dồi dào những
mạc khải với đủ các cách thức. Điều này đã quá rõ ràng và
đơn giản nên tôi chỉ xin thƣa rằng những mạc khải này đƣợc
322 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thể hiện không riêng bằng lời nói nhƣng Thiên Chúa còn
thực hiện bằng nhiều thể, nhiều cách, khi thì chỉ bằng lời, khi
thì chỉ bằng dấu hiệu và ảnh tƣợng hoặc những thứ tƣơng tự,
khi thì cách này pha lẫn cách khác. Ta có thể thấy nơi sách
các ngôn sứ đặc biệt là nơi sách Khải Huyền, tại đó không
những thể hiện đủ thứ mạc khải chúng tôi đã nói đến mà còn
có cả những phƣơng tiện và cách thức mà chúng tôi đang bàn
ở đây nữa.
2 – Ngay cả thời nay, Thiên Chúa vẫn còn thực hiện
những mạc khải thuộc loại thứ hai này cho những kẻ Ngài
muốn. Thiên Chúa vẫn thƣờng bày tỏ cho một số ngƣời
tháng ngày họ sẽ sống, những lao nhọc họ sẽ chịu, hoặc
những gì sẽ xảy đến cho ngƣời này ngƣời kia, nƣớc này nƣớc
nọ vv... Thiên Chúa cũng còn khai mở cả những điều can hệ
đến các mầu nhiệm đức tin của chúng ta, và tỏ cho tâm linh
ta những sự thật về chúng. Tuy vậy, không thể gọi điều này
là mạc khải sát nghĩa bởi lẽ chúng đã đƣợc mạc khải rồi,
đúng hơn phải gọi là sự bày tỏ và công bố ra những điều đã
đƣợc mạc khải.
3 – Về loại mạc khải này, ma quỷ rất có thể xen mình
vào. Bởi lẽ các mạc khải loại này thƣờng thể hiện qua lời
nói, hình hài hay những thứ tƣơng tự vv. . nên ma quỷ dễ bắt
chƣớc hơn nhiều so với các mạc khải thuộc tâm linh thuần
tuý. Do đó, nếu trong loại mạc khải thứ nhất và thứ hai mà
chúng ta đang bàn ở đây có điều gì đó đƣợc mạc khải cho
chúng ta liên quan tới đức tin nhƣng mới mẻ và khác biệt thì
chúng ta hoàn toàn không đƣợc ƣng thuận, cho dầu rất hiển
nhiên là mạc khải ấy đƣợc nói do một vị thiên sứ từ trời.
QUYỂN 2 323

Thánh Phaolô đã nói: Nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một


thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng
khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin
Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! (Gl 1,8).
4 – Bởi lẽ chẳng còn một tín điều nào phải mạc khải
thêm về nội dung đức tin của chúng ta ngoài những điều đã
mạc khải cho Hội Thánh, nên chẳng những không đƣợc nhìn
nhận những gì mới đƣợc mạc khải cho linh hồn có liên can
đến đức tin, mà vì cẩn trọng, linh hồn còn phải bác bỏ những
thứ tạp nham khác có dính líu. Để bảo toàn sự tinh tuyền
thích đáng của đức tin, dù cho nay ta đƣợc mạc khải lại một
lần nữa những sự thật từng đƣợc mạc khải thì không vì lý do
chúng mới đƣợc mạc khải mà ta tin, nhƣng chỉ tin vì chúng
đã từng đƣợc mạc khải đầy đủ cho Hội Thánh. Hãy nhắm đôi
mắt trí hiểu lại trƣớc mạc khải mới này và hãy chỉ cậy dựa
vào giáo lý và đức tin của Hội Thánh, đức tin mà theo lời
thánh Phaolô là do nghe nói (Rm 10,17). Muốn tránh bị lừa
gạt, linh hồn không đƣợc uốn nắn lòng tin và trí hiểu theo
những điểm thuộc đức tin mới đƣợc mạc khải lại - dầu chúng
có vẻ rất thích hợp và chân thật. Bởi lẽ để lừa gạt và gieo
đƣợc những điều dối trá, trƣớc tiên ma quỷ lôi kéo ngƣời ta
bằng những sự thật và những chuyện giống hệt nhƣ thật để
ngƣời ta an lòng, rồi sau đó mới giở trò. Giống nhƣ trƣờng
hợp cái giùi để khâu da. Vì bền chắc nên cái giùi sẽ đi qua
trƣớc sau đó đến sợi chỉ mềm yếu và sợi chỉ mềm này sẽ
không qua đƣợc nếu không đƣợc cái giùi dẫn lối.
5 – Hãy nhớ kỹ điều này: Cả khi không có nguy cơ bị
lừa bịp, linh hồn cũng không nên ao ƣớc hiểu rõ các vấn đề
324 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thuộc đức tin, ngõ hầu bảo toàn cho công trạng của linh hồn
đƣợc tinh tuyền và toàn vẹn cũng nhƣ để đƣợc qua đêm tối
của trí hiểu mà đạt tới ánh sáng thần linh của sự nên một với
Thiên Chúa. Điều quan trọng là phải dán mắt vào các lời tiên
tri xƣa và lãnh đạm với bất cứ mạc khải mới mẻ nào. Hãy
xem Thánh Phêrô, dù một cách nào đó đã nhìn thấy vinh
quang của Con Thiên Chúa trên núi Tabor, thì vẫn nói: Như
vậy chúng tôi càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ (2P
1,19). Nhƣ thể ngài muốn nói: “mặc dù thị kiến của chúng
tôi về Đức Kitô trên núi là chân thực, song lời tiên tri đã
đƣợc mạc khải cho chúng ta vẫn mạnh mẽ và chắc chắn hơn,
anh em tựa linh hồn mình vào lời này là đúng đắn.”
6 –Vì những lý do ấy, cần nhắm mắt trƣớc những mạc
khải nói trên liên can tới các mệnh đề đức tin. Đối với những
mạc khải khác về những chuyện khác, sự đẩy lùi và gạt bỏ
càng cần thiết hơn nhiều, bởi lẽ, ma quỷ rất thƣờng xen vào
những chuyện mạc khải này. Ma quỷ khoác lên chúng cái
dáng vẻ chân thực và chắc chắn đến nỗi tôi cho rằng hễ ai
không nỗ lực loại trừ chúng thì không thể nào không bị lầm
lạc nặng nề. Ma quỷ tập hợp lại biết bao dáng vẻ và những
điểm phù hợp hòng khiến ngƣời ta tin, rồi in sâu vào giác
quan và trí tƣởng tƣợng đến nỗi ngƣời ta nghĩ rằng điều ấy
chắc chắn sẽ xảy ra nhƣ thế. Ma quỷ gắn chặt linh hồn vào
đó và khiến linh hồn trở thành cố chấp đến nỗi nếu linh hồn
thiếu khiêm nhƣờng thì sẽ khó có ai kéo đƣợc nó ra khỏi đó
và làm cho nó tin vào điều ngƣợc lại. Do đó, linh hồn càng
tinh tuyền, cẩn trọng, đơn sơ và khiêm nhƣờng càng phải nỗ
lực chống lại và đẩy lùi những mạc khải cũng nhƣ các thị
QUYỂN 2 325

kiến khác nhƣ thể đó là những cám dỗ rất hiểm nguy vậy.
Quả thật chẳng phải nhờ tìm kiếm chúng, nhƣng chính là nhờ
gạt bỏ chúng mà ta đạt đến sự nên một với Thiên Chúa trong
tình yêu. Đây là điều vua Salômôn muốn bày tỏ khi ngài nói:
Con người cần chi phải muốn và tìm kiếm những thứ vượt
30
quá khả năng tự nhiên của mình? . Nghĩa là để trở nên hoàn
hảo thì chẳng cần mong ƣớc những chuyện siêu nhiên qua
nẻo đƣờng siêu nhiên và vƣợt quá khả năng của mình.
7 – Những vấn nạn ngƣời ta có thể nêu lên về vấn đề
này đã đƣợc trả lời ở các chƣơng 19 và 20 trƣớc đây, xin quý
độc giả xem lại. Tôi chỉ xin thƣa rằng linh hồn phải giữ mình
khỏi mọi chuyện ấy để tiến bƣớc tinh tuyền không lầm lạc
qua đêm tối của đức tin mà đạt tới sự nên một.

30
Có thể tác giả muốn nói đến lời trong sách Giảng Viên “con người do Thiên
Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện
rắc rối quanh co” (Gv 7, 29).
326 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 28
Những lời nói nội tâm*

Bàn về bản chất và phân loại những lời nói nội tâm mà
tâm linh có thể nhận được một cách siêu nhiên.
1 – Mong rằng quý độc giả luôn thận trọng ghi nhớ
rằng ý hƣớng và mục đích của tôi trong sách này là nhằm
dẫn dắt linh hồn tiến bƣớc với sự tinh tuyền của đức tin
xuyên qua tất cả những điều đƣợc nhận biết cách tự nhiên và
siêu nhiên mà không bị lầm lạc và lúng túng để đạt tới sự nên
một với Thiên Chúa. Độc giả nên hiểu cho rằng đối với
những cách nhận thức của linh hồn và nguyên tắc phong phú
đang bàn, tôi không tỉa gọt cũng chẳng chẻ nhỏ nội dung
thành nhiều phần nhƣ có lẽ trí hiểu đòi hỏi, dù vậy, không
phải đã chỉ bàn qua loa. Thiết nghĩ tôi đã đƣa ra đầy đủ ý
kiến, ánh sáng và chỉ dẫn về tất cả chuyện ấy, để ngƣời ta
biết cách xử sự khôn ngoan trong mọi chuyện xảy đến cho
linh hồn, bên ngoài cũng nhƣ bên trong, ngõ hầu tiến xa hơn.
Đó là lý do tại sao tôi chỉ nói rất vắn tắt về những nhận
thức có tính tiên tri, nhƣ tôi đã làm đối với những thứ nhận
thức khác, bởi có rất nhiều điều phải nói trong mỗi thứ tùy
theo những khác biệt, thể thức, phƣơng cách thƣờng xảy ra
nơi mỗi thứ, tôi cho rằng không sao biết hết đƣợc. Tôi đành
phải hài lòng, khi đã nói lên đƣợc phần cốt yếu về các
nguyên tắc và sự cẩn trọng cần có để xử sự trong những
chuyện này và với tất cả những gì tƣơng tự có thể xảy đến
nơi linh hồn.
QUYỂN 2 327

2 – Bây giờ tôi sẽ làm nhƣ thế đối với cách nhận thức
thứ ba mà chúng ta gọi là các lời nói siêu nhiên. Chúng
thƣờng nảy ra trong tâm trí những ngƣời sống theo tâm linh,
không cần qua một giác quan thể chất nào. Mặc dù có nhiều
loại nhƣng tôi cho rằng có thể giản lƣợc thành 3 loại: liên
tiếp, trang trọng và thực thể (hay “sáng tạo”).
Tôi dùng tính từ “liên tiếp” để ám chỉ những lời nói và
lý lẽ mà tâm trí thƣờng tạo ra và lập luận với chính mình khi
hồi tâm lắng đọng.
Còn những lời nói “trang trọng” ám chỉ một số lời nói cụ
thể và rõ rệt mà tâm trí lãnh nhận không phải tự mình mà qua
một ngƣời khác, có khi đang hồi tâm lắng đọng, có khi không.
Những lời nói thực thể (hay “sáng tạo”) là những lời
khác cũng đƣợc hình thành rõ rệt nơi tâm trí trong lúc nó hồi
tâm lắng đọng hoặc không, chúng tạo thành và thực sự gây ra
nơi bản thể linh hồn chính điều mà chúng biểu thị. Chúng tôi
sẽ bàn về tất cả các loại này theo thứ tự.
328 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 29
Những lời nói “liên tiếp”*

Bàn về loại thứ nhất trong số những lời nói mà đôi khi
một tâm linh lắng đọng có thể tự tạo ra. Nêu rõ căn do của
chúng cũng như ích lợi và tai hại có thể gặp thấy nơi chúng.
1 – Những lời nói “liên tiếp” này luôn xảy đến khi tâm
trí lắng đọng và chăm chú đắm mình vào một nhận định nào
đó. Thông qua những gì nó đang nghiền ngẫm, từ một điểm
này tâm trí rút ra một điểm khác rồi tạo ra nhiều lời nói và lý
lẽ phù hợp một cách rất dễ dàng và cụ thể rồi lập luận và
khám phá ra nơi điều ấy nhiều điều quá ƣ xa lạ đối với nó
đến nỗi tâm trí thấy dƣờng nhƣ không phải chính nó làm điều
đó mà là một ngƣời nào khác đang lý luận nơi nội tâm, đang
trả lời hay đang dạy bảo những điều ấy. Và quả thực rất có lý
do để nghĩ nhƣ thế bởi chính tâm trí tự lập luận, tự trả lời cho
mình nhƣ thể một ngƣời đang hiện diện với một ngƣời khác
vậy. Và xét một cách nào đó, quả thật là nhƣ thế. Vì mặc dù
chính tâm trí thực hiện điều đó nhƣ là một dụng cụ, song
Chúa Thánh Thần vẫn thƣờng xuyên giúp nó sản sinh và
hình thành những nhận thức, lời nói và lý lẽ chân thực ấy. Do
đó, tâm trí tự nói với chính mình nhƣ thể với một ngƣời
khác. Vì một khi trí hiểu lắng đọng và nên một với sự thật về
điều nó tƣởng nghĩ thì Chúa Thánh Thần cũng nên một với
nó nơi sự thật ấy - nhƣ Ngài luôn nên một nơi tất cả sự thật.
Nhờ hiệp thông với Thánh Thần Thiên Chúa theo cách này
qua sự thật ấy, trí hiểu sẽ hình thành trong nội tâm và một
cách liên tục những sự thật khác liên quan đến sự thật nó
QUYỂN 2 329

đang tƣởng nghĩ đang khi Chúa Thánh Thần, Đấng dạy dỗ,
mở cửa và thông ban cho nó ánh sáng của Ngài. Đây là một
trong những cách dạy dỗ của Chúa Thánh Thần.
2 – Do đƣợc vị Tôn sƣ này soi sáng và dạy dỗ theo cách
thức ấy, nên khi hiểu đƣợc các sự thật kia, trí hiểu liền góp
phần tự hình thành nên những sự thật đã nhận đƣợc từ nơi
khác. Thành thử có thể nói là: Tiếng thì của Gacob, nhưng
đôi bàn tay thì của Esau (St 27,22). Khi điều ấy xảy đến cho
ai thì ngƣời này không thể nào không tin rằng các lời lẽ ấy là
do một ngƣời khác nói với họ. Bởi họ không biết đƣợc làm
sao trí hiểu lại có thể dễ dàng tự tạo ra những lời lẽ giống
nhƣ thể do một ngƣời khác nói với nó, về những nhận thức
và sự thật đã từng đƣợc thông tri cho nó từ một ngƣời khác
trƣớc rồi.
3 – Nơi sự truyền đạt và soi sáng ấy trí hiểu không hề
phỉnh gạt, tuy nhiên vẫn có thể và thƣờng xảy ra chuyện
phỉnh gạt này nơi những lời nói rõ ràng và những lập luận
mà trí hiểu rút ra từ sự truyền đạt và soi sáng ấy. Thứ ánh
sáng ban cho nó đôi khi quá tinh tế và thuần tâm linh đến nỗi
trí hiểu không đạt đƣợc đến chỗ am hiểu kỹ lƣỡng, rồi nhƣ
chúng tôi đã nói, chính trí hiểu tự mình hình thành các lập
luận nên nó thƣờng chế ra những lý lẽ thiếu chính xác, cũng
lắm khi có vẻ đúng hoặc không đạt. Bởi lẽ lúc đầu trí hiểu
nắm lấy một đầu dây của sự thật, rồi liền đó nó chêm vào
phần riêng là sự khéo léo hay ngờ nghệch thấp kém của nó,
cho nên sự thật dễ dàng theo khả năng của nó mà bị biến chất
để rồi tất cả đều nhƣ thể cùng do một ngƣời khác nói lên.
330 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Tôi đã biết một ngƣời có đƣợc những lời nói liên


tiếp này. Giữa những lời rất chân thực và cốt yếu đƣợc nói ra
về bí tích Thánh Thể chí thánh thì lại có xen những lời khác
rất là lạc giáo. Tôi rất kinh ngạc về những gì đang xảy ra
trong thời buổi này. Bất luận linh hồn nào, sau khi đạt đƣợc
đôi chút nguyện ngắm, nếu trong lúc lắng đọng mà cảm nhận
đƣợc đôi lời trong những lời nói trên, lập tức liền gán hết cho
Thiên Chúa, rồi cứ đinh ninh là thế và nói: “Thiên Chúa đã
bảo tôi”, “Thiên Chúa đã trả lời tôi”. Nhƣng thực ra đâu phải
vậy, mà nhƣ chúng tôi đã nói, thƣờng là chính các linh hồn
tự nói cho mình những lời nói ấy.
5 – Hơn thế nữa, nỗi khao khát do những thứ ấy gợi lên
cũng nhƣ sự nghiêng chiều của tâm trí gắn chặt vào đó khiến
linh hồn cứ suy nghĩ nhƣ thế. Lúc nào họ cũng bảo chính Thiên
Chúa đã nói, chính Ngài đã trả lời. Nếu những ngƣời này
không biết tự kiềm chế, nếu các vị linh hƣớng không buộc họ
phải chấm dứt ngay những suy lý kiểu ấy, họ sẽ rơi vào nhiều
ảo tƣởng nặng nề. Bởi lẽ nơi các chuyện ấy, linh hồn thƣờng
dệt ra nhiều điều rỗng tuếch làm nhơ bẩn tâm hồn hơn là sự
khiêm nhƣờng và tinh thần hy sinh hãm mình. Họ cứ nghĩ rằng
Thiên Chúa đã phán cho họ điều trọng đại nào đó, nhƣng thực
ra thì điều ấy chỉ hơn cái số không một chút, hay chẳng là gì cả
hoặc còn kém hơn cái số không là đàng khác. Bởi vì điều gì
chẳng đem lại lòng khiêm nhƣờng, lòng bác ái, sự hãm mình,
sự đơn sơ thánh thiện và sự thinh lặng... thì có đáng gì?
Vì vậy, tôi xin thƣa những chuyện này có thể gây lệch
lạc rất nhiều trên con đƣờng dẫn đến sự nên một với Thiên
Chúa bởi một khi linh hồn xem trọng chúng thì chúng sẽ
QUYỂN 2 331

khiến cho linh hồn lệch xa vực thẳm đức tin, nơi mà trí hiểu
phải nằm trong tăm tối và bƣớc đi bằng tình yêu trong đức
tin chứ không phải bằng nhiều lý nhiều lẽ.
6 – Có lẽ bạn sẽ hỏi tôi: tại sao trí hiểu phải tƣớc bỏ
những sự thật này, nếu Thánh Thần Chúa đã dùng chúng soi
sáng trí hiểu thì làm sao lại có thể là xằng bậy đƣợc? Tôi xin
thƣa rằng Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng cho một trí hiểu
đã biết lắng đọng và theo cách lắng đọng nó cần có mà trí
hiểu thì không thể tìm đƣợc sự lắng đọng nào lớn hơn là lắng
đọng trong đức tin. Do đó Chúa Thánh Thần sẽ không soi
sáng cho trí hiểu nơi đâu khác dồi dào cho bằng nơi đức tin.
Bởi lẽ, linh hồn càng tinh tuyền và đƣợc luyện lọc trong đức
tin thì càng đƣợc Thiên Chúa phú ban cho nhiều đức ái, và
nó càng có nhiều đức ái thì Thiên Chúa lại càng soi sáng và
thông ban cho nó nhiều ơn Thánh Thần bởi đức ái là nguyên
nhân và phƣơng tiện để thông ban cho linh hồn các ơn này.
Mặc dù quả thực Chúa Thánh Thần có ban cho linh hồn
đôi chút ánh sáng qua sự sáng soi những sự thật ấy - tuy
nhiên còn khác xa với ánh sáng trong đức tin. Nơi ánh sáng
đức tin, dù vẫn không thể hiểu cho rõ ràng đƣợc, nhƣng xét
về phẩm thì có thể xem ánh sáng đức tin nhƣ thể vàng ròng
và ánh sáng kia là thứ kim loại tầm thƣờng nhất, xét về lƣợng
thì có thể xem ánh sáng đức tin là biển rộng còn thứ ánh sáng
kia chỉ là một giọt nƣớc. Vì một bên, chính Thiên Chúa
thông ban cho linh hồn minh triết của một, hai hoặc ba sự
thật v. v... Còn bên kia nói chung là tất cả Đức Khôn Ngoan
của Thiên Chúa tức chính Con Thiên Chúa, Đấng tự thông
ban cho linh hồn nơi đức tin.
332 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

7 – Và nếu bạn bảo tôi tất cả đều là tốt vì loại ánh sáng
nọ đâu ngăn cản loại ánh sáng trong đức tin, thì tôi xin thƣa
là nếu linh hồn xem trọng loại ánh sáng nọ thì có ngăn cản
nhiều. Sự bận tâm đến những thứ rõ ràng cụ thể và kém quan
trọng đủ ngăn cản sự thông tri của vực thẳm đức tin, nơi mà
Thiên Chúa dạy dỗ linh hồn cách siêu nhiên và bí mật, đồng
thời nâng đỡ nó đạt tới nhân đức và ân sủng theo một cách
mà linh hồn không quan niệm nổi.
Ta không thể cố ý vận dụng trí hiểu vào lời nói liên tiếp
này để mƣu tìm lợi ích, nếu ta làm thế nó sẽ dẫn ta đi lạc
đƣờng, nhƣ lời Đấng Khôn Ngoan trong Diễm Ca ngỏ với
linh hồn: Thôi đi, nàng đừng đưa mắt nhìn anh nữa, đôi mắt
làm anh choáng váng rồi (6,5) nghĩa là, chúng sẽ khiến tôi
bay xa khỏi ngƣời và đƣa tôi lên chỗ cao hơn. Trái lại hãy
đơn sơ và tinh tuyền, đừng vận dụng trí hiểu vào những gì
đƣợc thông ban cho nó cách siêu nhiên, nhƣng hãy vận dụng
lòng muốn để yêu mến Thiên Chúa vì những ơn lành này
đƣợc thông ban qua tình yêu và bằng cách thức này, chúng
đƣợc thông ban còn dồi dào hơn trƣớc.
Với những điều đƣợc thông ban một cách siêu nhiên và
thụ động nhƣ thế mà linh hồn lại chủ động vận dụng sự khéo
léo của trí hiểu tự nhiên hay các quan năng khác, thử hỏi làm
sao có thể đạt tới chúng bằng cách thức và sự thô thiển nhƣ
vậy đƣợc?
Trí hiểu hay các quan năng kia sẽ theo khả năng thấp
kém của mình mà biến đổi những điều đƣợc thông ban và
khiến chúng bị biến dạng. Kết cuộc là trí hiểu sẽ lầm lạc và
QUYỂN 2 333

tự tạo ra những lý lẽ riêng. Các lý lẽ này sẽ không còn mang


tính cách siêu nhiên hay tƣơng đƣơng với siêu nhiên, mà trái
lại, chỉ còn rất tự nhiên, lầm lạc và thấp kém.
8 – Ấy vậy mà có một số trí hiểu nhạy bén và tinh tế tới
nỗi vừa lắng đọng đắm mình vào một suy tƣ nào đó, là tự
nhiên đã rất dễ dàng đƣa ra những nhận thức suy lý rồi tạo ra
từ đó những câu nói và lý lẽ rất sống động. Họ cứ đinh ninh
là chúng do tự Thiên Chúa, nhƣng thực ra chỉ cần nhờ ánh
sáng tự nhiên và đƣợc tự do chút ít đối với hoạt động của các
giác quan thì không cần nguồn trợ giúp siêu nhiên nào, một
mình trí hiểu cũng có thể làm đƣợc chuyện đó và còn nhiều
hơn thế nữa là đàng khác. Chuyện đó xảy ra rất thƣờng.
Nhiều ngƣời đã lầm tƣởng đó là sự nguyện ngắm cao độ và
là ơn thông hiệp với Thiên Chúa, rồi đã viết ra hoặc nhờ
ngƣời khác viết ra những chuyện ấy. Nhƣng những chuyện
nhƣ thế cốt yếu chẳng ăn nhập gì tới một nhân đức nào mà
chỉ góp phần đƣa đến sự vênh vang về chúng mà thôi.
9 – Mong rằng những ngƣời ấy hãy học biết chỉ xem
trọng việc đặt nền tảng lòng muốn nơi một tình yêu khiêm
nhƣờng, nơi sự làm việc chăm chỉ và chịu đựng đau khổ, nhờ
noi gƣơng Con Thiên Chúa trong nếp sống và những hy sinh
của Ngài vì phải qua con đƣờng đó mới đạt tới mọi điều tốt về
mặt tâm linh chứ không phải là qua nhiều suy lý nội tâm đâu.
10 – Ma quỷ thƣờng xen vào loại lời nói nội tâm liên tiếp
này rất nhiều, cách riêng là nơi những ngƣời có phần nghiêng
chiều hay quyến luyến chuyện đó. Ngay lúc họ khởi sự hồi tâm
lắng đọng thì ma quỷ thƣờng có thói quen đề ra cho họ đủ
334 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chuyện khiến họ lạc đề. Bằng gợi ý, nó tạo ra nơi trí hiểu của
họ những nhận thức và lời lẽ. Nó xô đẩy và phỉnh gạt họ một
cách tinh tế bằng những chuyện nhƣ thật. Đây là một trong
những cách thức ma quỷ sử dụng để tự thông ban cho những ai
đã thầm kín hay minh nhiên giao kết với nó cách nào đó, nhƣ
nó vẫn hay tự thông ban cho một số ngƣời lạc giáo, nhất là
những ngƣời đứng đầu lạc giáo bằng cách thông cho trí hiểu họ
những nhận thức và lý lẽ rất tinh vi, sai lệch và lầm lạc.
11 – Từ những điều nói trên, phải hiểu rằng những lời
nói liên tiếp ấy có thể phát sinh nơi trí hiểu từ ba nguyên
nhân sau: Từ Chúa Thánh Thần, Đấng lay động và soi sáng
trí hiểu; từ ánh sáng tự nhiên của chính trí hiểu; và từ ma quỷ
là kẻ có thể nói bằng gợi ý.
Quả là khó mà nói cho đầy đủ mọi dấu chỉ giúp phân
biệt các lời nói ấy phát sinh từ nguyên nhân này hay nguyên
nhân kia, mặc dù vẫn có thể đƣa ra một số dấu chỉ tổng quát
nhƣ sau: những lời lẽ và nhận thức nào khiến linh hồn vừa
đạt đến niềm mến yêu vừa cảm nhận tình yêu đó với lòng
khiêm nhu, kính sợ Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng thuộc
về Chúa Thánh Thần, Đấng thƣờng vẫn mặc cho chúng thứ
tình yêu ấy khi Ngài thực hiện các ân sủng đó.
Khi các lời nói ấy phát sinh chỉ do sự năng động và ánh
sáng của trí hiểu thì chính là trí hiểu đã thực hiện tất cả
những điều đó mà chẳng có sự hoạt động của các nhân đức
nói trên. Lòng muốn có thể yêu mến theo cách tự nhiên nhờ
sự hiểu biết và soi sáng của các sự thật ấy nhƣng sau khi
nguyện gẫm, lòng muốn lại thấy khô khan. Tuy nhiên nó
QUYỂN 2 335

không hƣớng chiều về sự tự phụ hay điều xấu xa nếu nhƣ ma


quỷ không đến cám dỗ nó. Sự khô khan ấy không xảy ra đối
với trƣờng hợp những lời nói phát sinh tự thần lành bởi vì
sau khi nguyện gẫm, lòng muốn thƣờng mang nặng tình cảm
với Thiên Chúa và nghiêng về điều thiện. Đôi khi cũng xảy
ra là lòng muốn vẫn khô khan dầu đƣợc sự thông tri của thần
lành nhƣng đó là do ý Thiên Chúa sắp đặt nhƣ thế nhằm sinh
ích cho linh hồn. Còn những lần khác linh hồn không cảm
nhận đƣợc nhiều các hoạt động hay tác động của các nhân
đức tuy nhiên điều xảy ra ấy vẫn là tốt.
Bởi đó tôi xin nói là đôi khi quả khó biết đƣợc sự khác
biệt giữa lời nói này hay lời nói kia dựa trên các hậu quả
khác nhau mà chúng tạo ra. Tuy nhiên những hậu quả chúng
tôi nêu ra ở trên đây là những hậu quả thông thƣờng nhất
mặc dù có lúc chúng xảy đến dồi dào nhiều hay kém hơn
lúc khác.
Những lời lẽ của ma quỷ cũng thƣờng khó nhận biết và
phân biệt. Thông thƣờng thì chúng làm cho lòng muốn trở
thành khô khan đối với tình yêu mến Thiên Chúa cũng nhƣ
tâm linh thƣờng nghiêng về hƣ danh, tự hào và tự mãn. Tuy
nhiên, đôi khi chúng cũng đặt vào linh hồn một thứ khiêm
nhu giả tạo và những tình cảm nhiệt thành của lòng muốn bắt
nguồn từ lòng tự ái, do đó phải là ngƣời giàu tâm linh mới
nhận biết đƣợc. Sở dĩ ma quỷ làm chuyện đó là để giấu mặt
kỹ hơn vì đôi khi nó biết rất rõ phải làm thế nào cho ngƣời ta
nhỏ lệ trƣớc những cảm tình nó đặt ra để qua đó nó đƣa vào
linh hồn những sự nghiêng chiều mà nó muốn. Ma quỷ luôn
nỗ lực thúc đẩy lòng muốn quý chuộng những thông tri nội
336 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tâm này và gắn bó vào chúng ngõ hầu linh hồn bận tâm vào
những thứ chẳng nhân đức tí nào, mà trái lại, là dịp khiến
ngƣời ta đánh mất cái nhân đức mình đã có.
12 – Xin nhớ là cần phải luôn thận trọng đối với các
loại lời nói trên cũng nhƣ những thứ nhận thức khác, để khỏi
bị phỉnh gạt và khỏi bị cản trở. Xin đừng xem trọng chúng
nhƣng chỉ nghĩ cách tập hƣớng lòng muốn hƣớng về Thiên
Chúa cách kiên định, chu toàn lề luật và các lời khuyên thánh
thiện của Ngài. Sự khôn ngoan của các thánh là ở chỗ luôn
biết hài lòng với việc biết đƣợc các mầu nhiệm và các sự thật
theo sự đơn sơ và chân thật mà Hội Thánh đề ra cho chúng ta.
Nhƣ thế đã đủ để thiêu đốt lòng muốn thật nhiều rồi, đừng nên
lao mình vào những vực thẳm và sự tò mò nơi đó khó lòng
thoát khỏi nguy hiểm. Chính vì thế thánh Phaolô đã nói: Đừng
đi quá mức khi đánh giá mình (Rm 12,3), cũng có thể nói là:
không nên biết nhiều hơn những gì cần biết. Những gì trên đây
về những lời nói liên tiếp thiết tƣởng nhƣ thế là đủ.
QUYỂN 2 337

Chương 30
Những lời trang trọng*

Bàn về những lời nội tâm mà tâm linh nhận được một
cách trang trọng qua nẻo đường siêu nhiên. Cảnh báo về sự
thiệt hại chúng có thể gây ra và cần phải sáng suốt để khỏi
bị lầm lạc nơi chúng.
1 – Loại lời nói nội tâm thứ hai là những lời trang
trọng thỉnh thoảng đƣợc tạo ra nơi tâm trí bằng nẻo đƣờng
siêu nhiên không qua trung gian một giác quan nào, vào
lúc tâm trí lắng đọng hoặc không lắng đọng. Tôi gọi chúng
là trang trọng bởi lẽ có một ngƣời khác nói những lời ấy
một cách trang trọng cho tâm trí mà tâm trí không hề đóng
góp gì vào đó cả. Những lời này rất khác với những lời mà
tôi đã bàn trƣớc đây, không những vì chúng đƣợc tạo ra mà
tâm trí không hề đóng góp gì vào đó nhƣ những trƣờng
hợp trƣớc, mà nhƣ tôi vừa nói, đôi khi chúng xảy đến lúc
tâm trí không lắng đọng, lúc tâm trí không nghĩ gì tới
những điều ngƣời ta nói với nó. Nó khác hẳn với loại lời
nói liên tiếp trên đây là những lời luôn nằm trong đề tài
ngƣời ta đang suy tƣ.
2 – Loại lời nói thứ hai này đôi khi rất rõ rệt, đôi khi
không rõ rệt. Thƣờng chúng giống những ý tƣởng đƣợc nói
cho linh hồn nhận nhƣ một câu trả lời hoặc nhƣ một điều gì
đó rất bất chợt. Khi thì chỉ là một lời, khi thì hai hay nhiều
hơn. Cũng có khi nhiều lời liên tiếp nhau nhƣ những lời liên
tiếp đã bàn trên kia, nhằm dạy dỗ hay bàn luận với linh hồn
338 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

về một điều gì đó. Tất cả lời nói trên xảy đến mà tâm trí không
hề đóng góp gì vào đó. Mọi sự diễn ra nhƣ khi một ngƣời đang
nói với một ngƣời khác. Nhƣ chúng ta đọc thấy những gì đã
xảy đến cho Đaniel (9,22). Vị ngôn sứ này cho biết thiên sứ đã
nói với ông. Vị thiên sứ ấy đã ngỏ với Đaniel những lời trang
trọng và liên tiếp và dạy bảo ông. Vị ấy xƣng ra rằng mình
đến để dạy bảo ông.
3 – Khi những lời nói này chỉ mang tính cách trang
trọng thì hiệu quả chúng tạo ra đƣợc nơi linh hồn chẳng có gì
đáng kể. Thông thƣờng, chúng chỉ nhằm dạy bảo hoặc ban
ánh sáng về một chuyện gì đó, và để có hiệu quả này, chẳng
cần chúng phải hoạt động nhiều hơn cái mục đích mà chúng
nhắm tới. Còn khi những lời nói này phát xuất từ Thiên Chúa
thì chúng luôn phát sinh hiệu quả nơi linh hồn. Chúng khiến
linh hồn mau mắn và sáng suốt trong những điều Thiên Chúa
truyền dạy nó. Mặc dù đôi khi chúng chẳng cất đi sự ái ngại
và khó khăn, thậm chí thƣờng còn làm tăng thêm để qua đó
Thiên Chúa dạy bảo linh hồn, giúp nó khiêm nhƣờng và đạt
đƣợc ơn lành nhiều hơn. Thiên Chúa rất thƣờng để cho linh
hồn phải ái ngại khi Ngài truyền cho nó một điều gì trọng đại
hoặc một chuyện gì đó có thể giúp linh hồn đƣợc vinh dự
hơn. Còn đối với những gì khiêm hạ và thấp hèn thì Thiên
Chúa lại ban cho linh hồn có đƣợc sự dễ dàng và mau mắn
hơn. Quả thế, chúng ta đọc thấy trong sách Xuất Hành (ch. 3-
4) khi Thiên Chúa truyền cho Môsê đi đến gặp vua Pharaon
và giải phóng dân tộc thì Môsê đã cảm thấy rất ái ngại đến
nỗi Thiên Chúa phải truyền lệnh đến ba lần và tỏ cho ông các
dấu chỉ. Tuy nhiên tất cả những điều ấy cũng chẳng khả quan
QUYỂN 2 339

gì hơn cho tới khi Thiên Chúa cho ông Aharon làm bạn đồng
hành với ông, cùng chia sẻ với ông niềm vinh dự ấy.
4 – Trƣờng hợp các lời nói và truyền đạt do ma quỷ thì
hoàn toàn trái ngƣợc, nơi những điều “có giá” thì nó lại
khiến linh hồn thấy mau mắn và dễ dàng đang khi nơi điều
thấp hèn thì nó khiến linh hồn ái ngại. Chắc chắn Thiên Chúa
rất ghê tởm khi thấy các linh hồn nghiêng chiều về những gì
“có giá” tới nỗi ngay cả khi truyền bảo và đặt họ vào những
điều ấy, Ngài vẫn không muốn các linh hồn này nôn nả và
“ham” nắm quyền chỉ huy. Sự dễ dạy mà Thiên Chúa thƣờng
đặt vào linh hồn qua những lời trang trọng này khác hẳn với
sự mau mắn do những lời liên tiếp. Những lời liên tiếp không
gây xúc động tâm trí cũng nhƣ không khiến nó mau mắn nhƣ
thế. Cái khác là ở chỗ những lời trang trọng thì chính xác
hơn hơn và trí hiểu chẳng đóng góp gì vào đó. Dầu vậy điều
này vẫn không ngăn cản sự kiện là đôi khi một số lời liên
tiếp lại gây ra đƣợc hiệu quả lớn lao hơn do nơi sự thông tri
lớn lao hơn thỉnh thoảng vẫn xảy ra giữa thần linh Thiên
Chúa và tâm linh con ngƣời. Tuy nhiên về cách thức thì vẫn
có nhiều khác biệt. Nơi những lời nói trang trọng, linh hồn
chẳng phải nghi ngờ về việc nó có tự nói lên những lời này
không bởi nó thấy rõ là không, nhất là khi nó chẳng hề quan
tâm đến điều đƣợc nói với nó và nếu nó có quan tâm đi nữa thì
nó vẫn thấy rõ ràng và cụ thể rằng điều đó đến tự nơi khác.
5 – Linh hồn chẳng nên xem trọng tất cả những lời trang
trọng này cũng nhƣ những lời liên tiếp nọ, bởi ngoài việc tâm
trí sẽ bị bận bịu với những thứ chẳng phải là phƣơng thế phù
hợp và gần gũi để đạt đến sự nên một với Thiên Chúa, tức là
340 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đức tin, linh hồn còn có thể bị ma quỷ phỉnh gạt rất dễ dàng.
Bởi, đôi khi ngƣời ta hầu nhƣ không biết nổi lời nào phát xuất
từ thần lành, lời nào phát xuất từ thần dữ. Những lời này
không tạo ra nhiều hiệu quả nên khó mà phân biệt chúng qua
các hiệu quả. Lắm lúc, những lời của ma quỷ lại tạo ra nhiều
hiệu quả nơi những ngƣời bất toàn hơn cả những lời của thần
lành tạo ra nơi những ngƣời sống theo tâm linh. Không nên
làm theo những gì các lời ấy nói ra cũng chẳng nên xem trọng
các lời ấy cho dầu chúng do thần lành hoặc thần dữ. Tuy
nhiên phải bày tỏ chúng cho một vị giải tội giàu kinh nghiệm
hoặc một ngƣời kín đáo và khôn ngoan để vị ấy dạy dỗ linh
hồn, coi xem nên làm điều gì trong trƣờng hợp đó, và hãy
nghe lời khuyên của ngài. Đồng thời đối với những lời nói ấy,
linh hồn hãy tỏ ra thái độ lãnh đạm và khƣớc từ. Nếu không
gặp đƣợc một ngƣời giàu kinh nghiệm thì tốt hơn đừng nói
với ai về những lời ấy và cũng chẳng nên xem trọng chúng.
Ngƣời ta dễ gặp những kẻ phá hoại linh hồn hơn là những kẻ
xây dựng nó, vì chẳng phải ai cũng đƣợc ơn dẫn dắt các linh
hồn, mà trong một vấn đề trọng đại nhƣ thế thì việc sai sót hay
đúng đắn có tầm quan trọng rất lớn.
6 – Hãy rất cẩn thận đừng bao giờ để cho linh hồn tự
nghe theo ý riêng mình trong những chuyện đó hoặc làm hay
chấp thuận bất cứ điều gì các lời ấy ngỏ cho nó. Hãy tham
khảo nhiều ý kiến và lời khuyên của kẻ khác, bởi lẽ nơi
chuyện này thƣờng xảy ra những sự lừa phỉnh tinh tế và kỳ
lạ. Đến nỗi, tôi cho rằng linh hồn nào không thù ghét những
chuyện nhƣ thế thì không thể tránh khỏi bị phỉnh gạt trong
nhiều lời của chúng.
QUYỂN 2 341

7 – Chúng tôi đã bàn rõ về những sự phỉnh gạt và nguy


hiểm cũng nhƣ sự cảnh giác đối với chúng ở các chƣơng 19,
20, 21 và 22 của sách này, các bạn có thể xem lại. Ở đây
không sẽ không nói thêm về chuyện này nữa. Tôi chỉ xin
thƣa rằng theo nguyên tắc chủ yếu của tôi thì đừng gán cho
những chuyện này một chút quan trọng nào cả.
342 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 31
Những lời nói thực thể*

Bàn về những lời nói thực thể mà tâm linh nhận được
từ bên trong. Sự khác biệt giữa những lời này và những lời
trang trọng; lợi ích chúng mang lại cũng như sự nhẫn nại và
trân trọng mà linh hồn phải có đối với chúng.
1 – Nhƣ chúng tôi đã nói, loại lời nói nội tâm thứ ba là
lời thực thể (hay lời sáng tạo). Chúng cũng mang tính trang
trọng - bởi chúng đƣợc in vào trong linh hồn một cách rất
trang trọng - nhƣng khác hẳn loại lời trang trọng bởi chúng
tạo ra nơi linh hồn một hiệu quả mãnh liệt tận bản thể, điều
mà những lời trang trọng không làm đƣợc. Nhƣ thế, mặc dù
mọi lời thực thể đều mang tính trang trọng nhƣng không phải
mọi lời trang trọng đều là thực thể mà, nhƣ chúng tôi nói ở
trên, chỉ những lời nào in sâu những gì nó biểu thị vào tận
bản thể linh hồn mới gọi là lời thực thể. Chẳng hạn nhƣ Chúa
chúng ta phán với linh hồn một cách trang trọng: “Hãy nên
tốt lành!” thì lập tức linh hồn sẽ nên tốt lành tận bản thể.
Hoặc nhƣ Ngài phán: “Hãy yêu mến Ta!” thì lập tức linh hồn
liền có và cảm nhận đƣợc nơi mình bản thể của lòng yêu
Chúa; hay nhƣ khi thấy linh hồn đầy sợ hãi, Chúa phán:
“Đừng sợ!”, thì lập tức linh hồn cảm thấy rất mạnh mẽ và an
lòng. Vì nhƣ tác giả thánh vịnh nói: Lời Chúa phán là lời
chân thật (Tv 11/12,7). Chúa tạo ra một cách thực thể trong
linh hồn điều mà Ngài phán cùng nó. Bởi đó chính là điều
Đavít ám chỉ khi ông nói: Này Ngài lên tiếng, tiếng thật uy
hùng (Tv 67,34). Nhƣ điều Ngài đã thực hiện cho Abraham
QUYỂN 2 343

khi Ngài phán: Hãy đi trước nhan Ta và hãy nên hoàn thiện
(St 17,1) và lập tức Abraham đã nên hoàn thiện và luôn bƣớc
đi trong niềm kính sợ Thiên Chúa.
Đó còn là quyền năng của lời Ngài trong Tin Mừng. Nhờ
quyền năng ấy Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh kẻ
chết vv... chỉ bằng toàn lời nói. Cũng theo cách thức ấy, Ngài
đã phán những lời thực thể nhƣ thế với một số linh hồn. Những
lời này rất quan trọng và quý giá đến nỗi chúng trở thành sức
sống, uy lực và ơn lành khôn sánh đối với linh hồn, bởi chỉ một
lời ấy thôi cũng sinh ích cho linh hồn hơn tất cả những điều mà
linh hồn đã thực thi trong suốt cuộc đời của nó.
2 – Đối với những lời này, linh hồn chẳng phải làm gì
hết, kể cả ƣớc muốn hay không ƣớc muốn, kể cả loại bỏ hay
hãi sợ. Linh hồn không phải làm theo những gì lời ấy phán
bảo bởi Thiên Chúa không bao giờ phán với linh hồn những
lời thực thể này với mục đích để linh hồn đem ra thực hành,
nhƣng với mục đích chính Ngài ra tay thực hiện nội dung
những lời ấy - điều này khác với những lời trang trọng và
những lời liên tiếp. Sở dĩ tôi nói linh hồn chẳng có gì phải
muốn hay không muốn là bởi ý muốn của nó không phải là
điều cần thiết để Thiên Chúa thực hiện hiệu quả của những
lời thực thể, mà dù linh hồn không muốn cũng chẳng đủ để
khiến những lời ấy không tạo ra đƣợc những hiệu quả nói
trên. Tốt hơn, linh hồn hãy nhẫn nại và khiêm nhu trƣớc
những lời ấy.
Còn sở dĩ bảo rằng linh hồn chẳng có gì phải loại bỏ là
bởi vì hiệu quả những lời này mang tính thực thể nơi linh
344 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hồn và chan hòa ơn Chúa, còn linh hồn thì lãnh nhận hiệu
quả ấy một cách thụ động nên hành động của nó trở nên hoàn
toàn thừa thãi.
Linh hồn cũng chẳng phải sợ một trò phỉnh gạt nào bởi
lẽ cả trí hiểu lẫn quỷ ma đều không thể xen mình vào chuyện
đó. Ma quỷ cũng không thể nào - một cách thụ động - thực
hiện nổi một hiệu quả thực thể nơi linh hồn tới mức dùng lời
nói của nó mà in đƣợc vào đó cái hiệu quả và một nếp quen
nếu nhƣ linh hồn không quy hàng nó bằng một giao kết tự
nguyện. Chỉ khi nào ma quỷ đã lƣu ngụ nơi linh hồn nhƣ
chúa tể, nó mới in đƣợc vào đó những hiệu quả nhƣ thế,
không phải của điều thiện mà là của điều ác. (Bởi một khi
linh hồn này đã hiệp nhất với ma quỷ trong một giao kết tự
nguyện thì ma quỷ có thể dễ dàng in vào hồn những hiệu quả
xấu xa bằng lời lẽ của nó). Qua kinh nghiệm, chúng ta
thấy, ngay cả đối với những linh hồn tốt lành, ma quỷ vẫn
hành động rất mãnh liệt trong nhiều chuyện bằng cách
dùng lời lẽ gợi ra nhiều hiệu quả nơi các linh hồn ấy. Còn
nếu là những linh hồn xấu xa thì ma quỷ có thể thực hiện
trọn vẹn hiệu quả xấu xa ấy nơi họ. Tuy nhiên ma quỷ
không thể nào in vào hồn những hiệu quả y hệt những hiệu
quả tốt lành nói trên bởi những lời của quỷ không thể sánh
nổi với lời của Thiên Chúa, so với lời nói và hiệu quả của
lời Thiên Chúa thì lời ma quỷ và hiệu quả lời ấy chỉ là số
không. Vì thế, Thiên Chúa đã phán qua ngôn sứ Giêrêmia:
Rơm với lúa có gì chung nhau không? Lời của Ta lại
chẳng giống như lửa, chẳng giống như búa đập tan tảng
đá sao? (Gr 23,28-29).
QUYỂN 2 345

Nhƣ thế, những lời thực thể giúp nhiều cho việc nên
một của linh hồn cùng Thiên Chúa. Chúng càng mang tính
nội tâm và thực thể thì càng sinh ích lợi lớn. Hạnh phúc cho
linh hồn nào đƣợc nghe Thiên Chúa phán những lời thực thể
ấy! Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe
(1Sm 3,10).
346 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 32
Những cảm xúc tâm linh*

Bàn về những nhận thức mà trí hiểu lãnh nhận được từ


những cảm xúc bên trong xảy đến cho linh hồn một cách siêu
nhiên. Nguyên nhân của chúng và cách thức linh hồn phải xử
sự để khỏi gây cản trở trên đường nên một với Thiên Chúa.
1 – Bây giờ xin bàn tiếp đến loại thứ tƣ và cũng là loại
sau cùng của những nhận thức thuộc trí hiểu. Nhƣ vừa nói,
cách nhận thức này có thể rơi vào trí hiểu từ những tình cảm
tâm linh vốn thƣờng đƣợc tạo ra một cách siêu nhiên nơi linh
hồn ngƣời sống theo tâm linh. Chúng tôi liệt kê những nhận
thức này vào số những cách nhận thức riêng biệt của trí hiểu.
2 – Những tình cảm tâm linh cụ thể này có thể thuộc về
hai loại: Loại thứ nhất là những tình cảm nơi lòng muốn; loại
thứ hai là những tình cảm nơi bản thể của linh hồn. Mỗi loại
đều có thể chia thành nhiều loại nhỏ hơn. Loại thuộc lòng
muốn thì rất cao siêu khi phát xuất tự Thiên Chúa, còn loại
thuộc bản thể linh hồn thì cao siêu tột bực và lại rất tốt lành
và hữu ích. Cả linh hồn lẫn ngƣời hƣớng dẫn nó đều không
thể biết hoặc hiểu đƣợc căn nguyên chúng xuất phát tự đâu.
Họ cũng không biết đƣợc vì những việc làm nào mà Thiên
Chúa ban cho linh hồn những hồng ân nhƣ thế. Quả thật,
những hồng ân này không lệ thuộc vào các công việc mà linh
hồn thực hiện hay những suy tƣ mà linh hồn có đƣợc, mặc dù
những điều này là những chuẩn bị tốt để có đƣợc chúng.
Thiên Chúa ban chúng cho kẻ nào Ngài muốn và vì điều gì
QUYỂN 2 347

Ngài muốn. Rất có thể một ngƣời làm nhiều công việc mà
chẳng đƣợc Chúa vuốt ve âu yếm nhƣ thế đang khi một
ngƣời khác chỉ làm ít hơn nhiều, lại đƣợc những ơn rất cao
siêu và rất dồi dào. Thành thử, linh hồn chẳng cần phải cố
chú tâm vào những chuyện tâm linh (mặc dù điều này vẫn là
một trạng huống rất tốt để linh hồn đáng đƣợc Thiên Chúa
ban cho những vuốt ve âu yếm) từ đó linh hồn rút ra đƣợc
những tình cảm nói trên bởi lẽ thƣờng thì sự vuốt ve âu yếm
xảy đến khi linh hồn không hề ngờ tới. Trong các vuốt ve âu
yếm này một số có tính cụ thể và đi qua mau chóng, một số
khác thì không cụ thể và kéo dài lâu hơn.
3 – Những tình cảm này, xét riêng về mặt tình cảm, thì
không thuộc về trí hiểu mà thuộc về lòng muốn. Do đó, tôi
không cố ý bàn đến ở đây, xin dành lại cho đến khi chúng ta
nói về chủ đề “đêm” và sự thanh tẩy lòng muốn trong các
nghiêng chiều của nó nơi cuốn thứ ba tiếp theo đây.
Tuy nhiên, bởi thƣờng thì trong hầu hết các trƣờng hợp,
ơn này làm nảy sinh nơi trí hiểu rất dồi dào những nhận thức,
hiểu biết và sự thật, cho nên cần nêu chúng ra ở đây.
Phải biết rằng những tình cảm này - kể cả tình cảm
thuộc lòng muốn lẫn tình cảm nơi bản thể linh hồn - dẫu phát
sinh từ những vuốt ve âu yếm đột nhiên của Thiên Chúa hoặc
những vuốt ve âu yếm kéo dài và liên tục thì thông thƣờng
vẫn làm nảy sinh nơi trí hiểu dồi dào những nhận thức hay
hiểu biết. Nhận thức này thƣờng là một tri giác rất cao siêu
và rất ngọt ngào về Thiên Chúa nơi trí hiểu mà ngƣời ta
không thể gọi tên cũng nhƣ không thể gọi tên cái tình cảm từ
348 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đó nó phát sinh. Những nhận thức ấy khi theo cách này, lúc
theo cách khác; khi thì rất cao siêu và sáng sủa khi thì ít cao
siêu và sáng sủa hơn, tùy theo tính chất những vuốt ve âu
yếm của Thiên Chúa. Những vuốt ve này gây ra những cảm
tình mà từ đó những nhận thức trên phát sinh.
4 – Vì lý do cẩn trọng và nhằm dẫn dắt trí hiểu bằng
đức tin vƣợt qua những nhận thức này để nên một với Thiên
Chúa, chúng tôi không cần hao phí nhiều lời ở đây. Bởi lẽ,
giống nhƣ những tình cảm mà chúng tôi đã nói, đƣợc tạo ra
một cách thụ động trong linh hồn, mà tự phần mình linh hồn
không hề phải tích cực làm gì để lãnh nhận chúng, thì những
nhận thức về chúng cũng đƣợc nhận vào trong trí hiểu cách
thụ động – theo cách mà các triết gia gọi là “khả thể” - mà
chẳng hề đóng góp gì vào đó cả. Do đó, để khỏi lầm lạc
trong các nhận thức này cũng nhƣ để khỏi ngăn cản lợi ích
do chúng đem lại, trí hiểu chẳng nên làm gì cả đối với
chúng ngoài việc xử sự thụ động với chúng và không vận
dụng khả năng tự nhiên của mình để xen vào. Bởi lẽ, nhƣ
chúng tôi đã nói nơi trƣờng hợp các lời nói liên tiếp, do
bởi hoạt động của mình, trí hiểu sẽ rất dễ gây xáo trộn và
hủy hoại những nhận thức tinh tế ấy vốn là một sự hiểu
biết siêu nhiên ngọt ngào mà yếu tố tự nhiên không thể đạt
tới đồng thời chỉ có thể hiểu nó bằng cách lãnh nhận chứ
không phải hành động.
Do đó, linh hồn không nên nỗ lực tìm kiếm hoặc ham
nhận lãnh chúng kẻo trí hiểu sẽ tự mình chế ra những nhận
thức khác rồi cùng lúc đó ma quỷ lại chêm vào những nhận
thức khác và đầy sai lạc. Ma quỷ có thể làm điều này rất dễ
QUYỂN 2 349

dàng dựa vào các tình cảm nói trên hoặc các tình cảm mà
nó có thể đặt vào linh hồn hiến mình cho những nhận thức
ấy. Vậy các linh hồn nên biết nhẫn nại, khiêm nhu và thụ
động đối với những nhận thức này. Nếu linh hồn lãnh nhận
hồng ân với những tâm thái ấy, Thiên Chúa sẽ đổi mới
chúng khi nào đẹp ý Ngài, khi Ngài thấy linh hồn biết
khiêm nhu và siêu thoát. Bằng cách này, linh hồn sẽ không
gây cản trở cho mình trong việc nhận đƣợc ơn lành mà các
nhận thức này mang đến giúp linh hồn đƣợc nên một với
Thiên Chúa, là sự nên một đƣợc tạo ra một cách thụ động
nơi linh hồn (ơn lành này quả là lớn lao, bởi tất cả ơn vuốt
ve âu yếm ở đây đều là ơn nên một).
5 – Thiết tƣởng những gì đã nói về điểm trên đã đủ. Bởi
lẽ tất cả những gì xảy đến cho linh hồn liên can đến trí hiểu
đều tìm thấy đƣợc những điều cần cẩn trọng và những chỉ
dẫn nơi những chƣơng nêu trên. Mặc dù một điểm nào đó có
vẻ khác biệt đến nỗi không đƣợc liệt kê vào một trong những
điều kể trên thì phải vẫn nhớ rằng không một hiểu biết nào
ngƣời ta lại không thể quy về cho một trong những điều ấy
và qua đó rút ra đƣợc lời chỉ dẫn cần thiết.
350 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH
QUYỂN 3

Quyển này bàn về việc:


 Thanh tẩy chủ ý hay đêm chủ ý dành cho dạ nhớ và
lòng muốn,
 Hƣớng dẫn linh hồn biết cách xử sự đối với những
điều hai quan năng này đã tiếp nhận
 Và nƣơng theo đó để đi tới chỗ nên một với Thiên
Chúa trong đức cậy và đức mến hoàn hảo.
352 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 1
Về nội dung quyển này*31

1 – Chúng tôi đã đƣa ra các chỉ dẫn cho trí hiểu là quan
năng thứ nhất của linh hồn, để trong mọi nhận thức, nó có
thể nên một với Thiên Chúa nhờ đức tin tinh ròng là nhân
đức đối thần đầu tiên. Giờ đây, trong phần còn lại, chúng tôi
cũng sẽ làm y nhƣ thế đối với hai quan năng kia của linh hồn
là dạ nhớ và lòng muốn. Hai quan năng này cũng phải đƣợc
thanh tẩy về những gì chúng đã tiếp nhận để linh hồn có thể
đạt tới sự nên một với Thiên Chúa trong đức cậy và đức mến
hoàn hảo. Đó là nội dung quyển thứ ba này.
Nơi quyển trƣớc, chúng tôi đã bàn khá rộng khi trình
bày và kết luận về những gì liên quan đến trí hiểu, là quan
năng thu nhận mọi đối tƣợng theo cách thức của nó, cho nên
ở đây chúng tôi sẽ bàn vắn tắt về hai quan năng còn lại mà
chẳng cần phải nói nhiều. Bởi lẽ những hoạt động của cả ba
quan năng nói trên vốn tùy thuộc lẫn nhau, nên ngƣời sống
theo tâm linh, khi đƣợc dạy hƣớng trí hiểu về đức tin theo
những giáo huấn đƣợc truyền lại thì hẳn cũng đƣợc dạy phải
hƣớng hai quan năng kia về hai nhân đức còn lại.
2 – Tuy nhiên, để việc trình bày đƣợc liên tục và giúp
bạn đọc hiểu rõ hơn, chúng tôi sẽ bàn riêng từng điểm và xác
định những nhận thức riêng của từng quan năng. Ở đây, xin

31 *
Các tựa đề có đánh dấu hoa thị (*) là của riêng bản Việt ngữ. Ngƣời dịch
mạn phép thêm vào để bạn đọc dễ theo dõi tƣ tƣởng của tác giả và tiện tra
cứu ở mục lục.
QUYỂN 3 353

bắt đầu với những nhận thức của dạ nhớ và xin phân loại vắn
tắt. Các đối tƣợng của dạ nhớ gồm ba loại: tự nhiên, tƣởng
tƣợng và tâm linh; nhƣ thế, các nhận thức của dạ nhớ cũng
thể hiện qua ba cách: tự nhiên, siêu nhiên tƣởng tƣợng và
tâm linh.
3 – Nhờ ơn Chúa giúp, chúng tôi sẽ bàn đến ba cách
nhận thức này: Bắt đầu bằng các nhận thức tự nhiên thuộc
những đối tƣợng mang tính bên ngoài hơn cả. Sau cùng sẽ
bàn đến những nghiêng chiều của lòng muốn để kết thúc
quyển thứ ba này là phần bàn về đêm tâm linh chủ ý.
354 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 2
Giải trừ nhận thức tự nhiên của dạ nhớ*

Chương này bàn về những nhận thức tự nhiên của dạ


nhớ, và cách giải trừ chúng để linh hồn có thể nên một với
Thiên Chúa theo quan năng này.
1 – Bắt đầu mỗi quyển, bạn đọc cần nhớ rõ chủ đích
chúng tôi đã nhắm đến khi biên soạn. Nếu không, đọc những
điều chúng tôi sắp bàn về dạ nhớ và lòng muốn, các bạn có
thể lại gặp những thắc mắc tƣơng tự nhƣ đã gặp khi đọc
những điều bàn về trí hiểu. Thật vậy, nói đến triệt tiêu các
quan năng nơi những hoạt động của chúng thì có vẻ nhƣ
đang phá hủy chúng. Khi thấy chúng tôi nói nhƣ thế hẳn các
bạn sẽ nghĩ rằng chúng tôi đang phá hủy con đƣờng linh thao
thay vì xây dựng nó. Điều ấy quả là đúng nếu nhƣ chúng tôi
chỉ muốn nói riêng với những ngƣời mới bắt đầu, đang cần
đƣợc trang bị bằng những nhận thức suy lý dễ hiểu.
2 – Tuy nhiên ở đây chúng tôi lại muốn hƣớng dẫn nhằm
giúp tiến xa hơn, để ngƣời sống theo tâm linh có thể nhờ
chiêm niệm mà đƣợc nên một với Thiên Chúa. Theo hƣớng
này, mọi phƣơng thế và mọi thao luyện khả giác về ba quan
năng này đều phải vất bỏ lại đằng sau và đều phải dìm vào
thinh lặng, để Thiên Chúa có thể tự thực hiện sự nên một với
Ngài nơi linh hồn. Cần phải theo một con đƣờng khác, tức là
vất bỏ và triệt tiêu các quan năng ấy, cần tƣớc lột thẩm quyền
tự nhiên và những hoạt động của chúng để nhƣờng chỗ cho ơn
thiên phú và soi sáng siêu nhiên. Thật vậy, các quan năng ấy
QUYỂN 3 355

không thể nào đạt tới một mục tiêu cao vời nhƣ thế, trái lại,
còn có thể gây trở ngại nếu ta còn vƣơng vấn chúng.
3 – Linh hồn đạt tới chỗ nhận biết Thiên Chúa qua
những gì Ngài không là, nhiều hơn là qua những gì Ngài thực
sự là. Do đó, để đạt tới Thiên Chúa, linh hồn cần phải đi qua
sự từ bỏ ngần nào có thể, từ bỏ những gì đã tiếp nhận cách tự
nhiên cũng nhƣ siêu nhiên. Đây chính là điều giờ đây ta cần
làm đối với dạ nhớ, chúng ta cần phải lôi dạ nhớ ra khỏi phạm
vi và những giới hạn tự nhiên của nó và phải đƣa nó vƣợt lên
trên chính nó, tức là vƣợt lên trên tất cả mọi nhận thức cụ thể,
khỏi mọi tính cách dễ hiểu và đặt nó vào niềm hi vọng tối cao
hƣớng tới Thiên Chúa, là Đấng ta không sao hiểu thấu.
4 – Chúng ta hãy đi từ những nhận thức tự nhiên.
Những nhận thức tự nhiên nơi dạ nhớ là tất cả những gì dạ
nhớ có thể ghi khắc từ các đối tƣợng của năm giác quan thể
chất gồm: nghe, thấy, ngửi, nếm và sờ mó (thính giác, thị
giác, khứu giác, vị giác và xúc giác), và tất cả những gì
tƣơng tự mà dạ nhớ có thể tạo lập và làm nên. Dạ nhớ phải
lột bỏ và làm cho mình trống rỗng khỏi mọi ghi nhận và hình
sắc ấy, đồng thời phải cố gắng loại trừ nhận thức tƣởng
tƣợng về chúng. Nó phải làm sao để không còn khắc ghi một
nhận thức hay một dấu vết nào của những nhận thức ấy nơi
mình. Nói khác đi, dạ nhớ phải trở thành trơ trụi và trống
vắng nhƣ chƣa từng có sự gì đi ngang qua, quên bẵng và
dửng dƣng với mọi sự.
Dạ nhớ chẳng thể nào nên một với Thiên Chúa, nếu
không giải trừ khỏi mọi thứ hình sắc không phải là Thiên
356 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chúa vì Thiên Chúa không hề rơi vào một hình sắc hay một
ghi nhận cụ thể nào nhƣ chúng tôi đã nói khi bàn về đêm của
trí hiểu. Đức Kitô đã dạy: Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt
6,24). Do đó, dạ nhớ không thể vừa nên một với Thiên Chúa
vừa quấn quít với những hình sắc và nhận thức rõ rệt. Thiên
Chúa chẳng mang hình hài hay sắc tƣớng nào cho dạ nhớ có
thể thấu hiểu, do đó một khi dạ nhớ nên một với Thiên Chúa
nó sẽ thành không hình không dạng, trí tƣởng tƣợng nhƣ biến
mất. Nói tóm, lúc ấy dạ nhớ chìm sâu vào một sự thiện tối
cao, quên hẳn không còn nhớ bất cứ điều gì. Đó là điều hằng
ngày ta vẫn cảm nghiệm. Sự nên một với Thiên Chúa khiến óc
tƣởng tƣợng vẽ vời thành trống rỗng, xóa sạch mọi hình sắc
và nhận thức, đồng thời nâng nó lên tới cấp độ siêu nhiên.
5 – Cũng cần lƣu ý rằng thỉnh thoảng Thiên Chúa có
thể tạo nên những vuốt ve âu yếm trong sự nên một nơi dạ
nhớ: Ngài đột nhiên ban cho một sự rúng động nơi bộ não –
là chỗ ký ức hay dạ nhớ trú ngụ – sự rúng động này mãnh liệt
tới độ dƣờng nhƣ toàn thể đầu óc và trí phán đoán lẫn giác
quan đều tan biến. Sự kiện ấy có thể nhận ra nhiều hay ít tùy
theo cƣờng độ sự vuốt ve âu yếm của Thiên Chúa. Lúc bấy
giờ – do sự nên một này – dạ nhớ hóa thành trống rỗng và
đƣợc thanh tẩy khỏi mọi nhận thức và rơi vào chỗ quên hẳn
chính mình đến nỗi phải cố gắng và vất vả lắm mới nhớ đƣợc
một điều gì đó.
6 – Sự quên lãng ấy của dạ nhớ và sự đình chỉ ấy của trí
tƣởng tƣợng do việc dạ nhớ đƣợc nên một với Thiên Chúa
gây ra. Đôi khi sự quên lãng và đình chỉ ấy đạt tới chỗ suốt
một khoảng thời gian dài trôi qua mà ta chẳng hề cảm thấy
QUYỂN 3 357

hoặc nhận biết những gì đang xảy ra trong thời gian ấy. Lúc
đó trí tƣởng tƣợng bị đình chỉ nên dù có ai làm điều gì gây
đau đớn cho thân xác, nó vẫn chẳng cảm thấy, bởi không có
tƣởng tƣợng thì chẳng có cảm xúc.
Để đƣợc Thiên Chúa ban cho những sự vuốt ve âu yếm
của sự nên một nhƣ thế, linh hồn cần tách rời dạ nhớ khỏi
mọi nhận thức dễ hiểu. Cũng nên biết rằng những đình chỉ
nhƣ thế chỉ xảy ra ở bƣớc đầu của sự nên một, không còn
gặp thấy nơi những ngƣời trọn lành vì lúc ấy sự nên một đã
hoàn hảo.
7 – Hẳn bạn sẽ bảo nói thì có vẻ hay nhƣng kết quả sẽ
là phá hủy mất cách sử dụng tự nhiên cũng nhƣ sự vận hành
của các quan năng, biến con ngƣời thành con vật, và còn tệ
hơn nữa, vì chẳng còn biết suy luận hay nhớ gì đến những
nhu cầu và hoạt động tự nhiên; đang khi Thiên Chúa chỉ
hoàn thiện cái tự nhiên chứ đâu có phá hủy nó! Làm nhƣ trên
chẳng khác gì hủy hoại cái tự nhiên, khiến ngƣời ta quên hết
những giá trị thuộc luân lý và lý trí, không chu toàn nữa.
Làm nhƣ trên sẽ khiến ngƣời ta quên mất những chức năng
tự nhiên và không còn thực hiện nữa; ngƣời ta bị tƣớc đoạt
mất những nhận thức và các hình sắc vốn là những phƣơng
thế giúp họ nhớ lại mọichuyện!
8 – Tôi xin trả lời rằng quả đúng vậy. Dạ nhớ tiến đến
chỗ nên một với Thiên Chúa thì càng tinh giản những nhận
thức cụ thể cho tới khi hoàn toàn đánh mất chúng; đó là lúc
linh hồn nên hoàn thiện và đạt tới tình trạng nên một. Thoạt
đầu, khi điều này diễn ra, ngƣời ta không thể tránh đƣợc
358 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chuyện quên khuấy đi mọi sự vật, bởi vì các hình sắc và nhận
thức đang bị xóa dần khỏi dạ nhớ. Có thể họ sẽ phạm nhiều lỗi
lầm trong việc xử sự và giao tiếp bên ngoài, chẳng hạn quên
ăn, quên uống, không nhớ những gì mình đã làm, đã thấy hay
không thấy, không nhớ những gì thiên hạ có nói hay không
nói... Sở dĩ thế là vì dạ nhớ đã bị thu hút vào Thiên Chúa.
Tuy nhiên, một khi đã đạt đƣợc nếp quen nên một với
Chúa – là một ơn lành tối cao – ngƣời ta sẽ không còn
chuyện lãng quên kiểu đó đối với những gì thuộc lý trí và
luân lý tự nhiên. Trái lại, trong những công việc thích hợp và
cần thiết, họ còn đạt đƣợc sự hoàn hảo hơn nhiều. Họ không
còn thực hiện những chuyện đó thông qua các hình sắc và
nhận thức của dạ nhớ. Bởi vì một khi có đƣợc nếp quen nên
một, mà nay đã là một tình trạng siêu nhiên, dạ nhớ cũng nhƣ
các quan năng khác đều suy yếu trong các hoạt động tự nhiên
của chúng và bƣớc từ những giới hạn tự nhiên của chúng
sang cảnh vực siêu nhiên của Thiên Chúa. Và do đó, một khi
dạ nhớ đã đƣợc biến đổi trong Thiên Chúa, những hình sắc
hoặc nhận thức về mọi vật không còn thể nào in vào đó.
Do đó, trong tình trạng này những hoạt động của dạ nhớ
và của các quan năng khác đều mang tính cách thần linh, vì giờ
đây Thiên Chúa đã chiếm hữu các quan năng ấy nhƣ vị Chúa
Tể toàn trị và biến đổi chúng trong Ngài. Chính Ngài điều động
và truyền khiến chúng cách thần linh bằng Thần khí Ngài và
theo ý muốn Ngài. Giờ đây hoạt động của các quan năng ấy
không còn mang tính cụ thể riêng lẻ, trái lại, những gì linh hồn
thực hiện đều thuộc về Thiên Chúa và đều là những hoạt động
mang tính thần linh. Theo lời thánh Phaolô, ai đã kết hợp với
QUYỂN 3 359

Chúa, thì nên một tinh thần với Ngài (1Cr 6,17). Do đó, các
hoạt động của linh hồn đã nên một với Thiên Chúa đều thuộc
về Thần khí và đều mang tính thần linh.
9 – Vì lẽ đó, công việc của những linh hồn nhƣ thế sẽ
luôn thích hợp và hữu lý chứ chẳng phải là những việc không
thích đáng. Chính Thần khí Thiên Chúa khiến cho các linh
hồn ấy biết điều họ phải biết và làm ngơ những gì không nên
biết, nhớ những gì cần phải nhớ – những gì không hình sắc
hoặc có hình sắc– đồng thời quên đi những gì phải quên.
Chính Thần Khí làm cho họ yêu mến những gì họ phải yêu
mến và không yêu những gì không có nơi Thiên Chúa. Theo
đó, mọi chuyển động đầu tiên của các quan năng nơi những
linh hồn nhƣ thế đều mang tính thần linh. Nào có gì phải
ngạc nhiên về chuyện các chuyển động và hoạt động của
những quan năng ấy đều mang tính thần linh, một khi chúng
đã đƣợc biến đổi thành hữu thể thần linh rồi?
10 – Xin đƣợc nêu thêm vài tỉ dụ về những hoạt động
thần linh nhƣ thế. Tỉ dụ thứ nhất: một ngƣời nọ xin một linh
hồn ở bậc này cầu nguyện cho mình trƣớc nhan Thiên Chúa.
Linh hồn này sẽ quên làm điều ấy bởi lẽ chẳng có một hình sắc
hay nhận thức nào ghi lại trong dạ nhớ về điều ấy. Nếu việc
ngƣời kia xin gởi gắm cho Thiên Chúa là điều thích đáng – nói
cách khác là nếu Thiên Chúa muốn nhận lời khẩn nguyện cho
ngƣời nọ – thì Thiên Chúa sẽ lay động lòng muốn của linh hồn
này và ban cho linh hồn này ƣớc muốn làm điều đó. Còn nếu
Thiên Chúa không muốn lời cầu xin ấy thì dẫu linh hồn này có
nỗ lực cầu nguyện cho ngƣời kia thì cũng không thể và cũng sẽ
chẳng muốn làm nữa, và đôi khi có thể Thiên Chúa lại còn ban
360 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cho linh hồn này ƣớc muốn cầu nguyện cho nhiều ngƣời khác
mà mình chƣa bao giờ biết hoặc nghe tới.
Sở dĩ thế là vì chỉ duy một mình Thiên Chúa lay động
các quan năng của các linh hồn này để thực thi các công việc
thích hợp theo ý muốn và mệnh lệnh của Ngài, và các quan
năng ấy không thể chuyển hƣớng về các công việc khác; và
do đó, các công việc và các lời cầu nguyện của những linh
hồn này luôn đạt hiệu quả.
Đây là trƣờng hợp các công việc và lời cầu nguyện của
Đức Trinh Nữ muôn vàn vinh hiển của chúng ta. Ngay từ
đầu, Mẹ đã đƣợc nâng lên tới tình trạng cao vƣợt, chẳng bao
giờ một hình sắc nào của bất cứ thụ tạo nào in dấu nơi linh
hồn ngài để có thể lay chuyển ngài khỏi Thiên Chúa, trái lại,
ngài luôn luôn đƣợc Chúa Thánh Thần tác động.
11 – Một tỉ dụ khác: một ngƣời nọ phải chu toàn một
công việc cần thiết vào thời điểm nào đó, thế rồi quên bẵng
mất chẳng nhớ gì đến chuyện ấy dù dƣới bất cứ hình sắc nào;
thế nhƣng rồi chẳng ai biết bằng cách nào, dạ nhớ ngƣời ấy
đƣợc đánh động từ trên, để chu toàn việc ấy đúng thời, đúng
cách, không hề sai sót.
12 – Chúa Thánh Thần ban ánh sáng cho các linh hồn
ấy không phải chỉ trong những chuyện này mà còn trong
những chuyện đang và sẽ xảy đến, kể cả những trƣờng hợp ở
xa. Đôi khi Ngài ban ánh sáng ấy qua các hình dạng thuộc trí
hiểu, nhƣng thƣờng thì không qua những hình dạng có thể
nhận thức; linh hồn không hiểu nổi bằng cách nào mình lại
QUYỂN 3 361

biết đƣợc điều ấy. Quả thực, điều ấy đến với các linh hồn này
từ Đức Khôn Ngoan thần linh. Qua đó họ đƣợc tập quen
không nhờ đến các quan năng kia để hiểu biết hay nhận thức
một điều gì (có thể ngăn cản họ trên đƣờng hiệp nhất với
Thiên Chúa) và đạt tới chỗ hiểu biết đƣợc tất cả trong một
nhận thức tổng quát nhƣ có nói nơi những câu thơ dƣới sơ đồ
Ngọn núi ở đầu sách này. Đúng nhƣ lời tác giả sách Khôn
Ngoan: Vì chính Đấng làm nên tất cả, tức là chính Đức Khôn
Ngoan, đã chỉ dạy cho tôi (Kn 7,21).
13 – Có lẽ bạn sẽ bảo rằng linh hồn không thể nào làm
rỗng và tƣớc bỏ khỏi dạ nhớ hết mọi hình sắc và mọi tƣởng
tƣợng vẽ vời triệt để đến mức có thể đạt tới tình trạng siêu
vời nhƣ thế. Bạn cho rằng có hai khó khăn vƣợt quá sức lực
và tài khéo nhân loại, một là không thể dùng tài khéo tự
nhiên của mình để loại bỏ yếu tố tự nhiên, hai là không thể
nào tiếp xúc và nên một với yếu tố siêu nhiên, điều này càng
khó hơn gấp bội, và thực sự mà nói, chỉ với tài khéo tự nhiên
thì điều này là điều bất khả.
Tôi xin thƣa rằng quả thật phải chính Thiên Chúa đích
thân đặt linh hồn vào tình trạng siêu nhiên này mới đƣợc.
Tuy nhiên, chính linh hồn cũng phải hết sức tự chuẩn bị theo
khả năng mình – điều này một cách tự nhiên linh hồn có thể
làm đƣợc, nhất là với sự giúp đỡ Thiên Chúa ban cho. Linh
hồn càng tự mình tiến vào chỗ chối bỏ và làm rỗng khỏi các
hình sắc, Thiên Chúa càng dần dần đƣa nó vào chỗ có đƣợc
ơn nên một. Thiên Chúa thực hiện điều đó nơi linh hồn cách
thụ động nhƣ – nhờ ơn Chúa giúp – chúng tôi sẽ trình bày
nơi đêm thuận tình của linh hồn. Nhƣ thế, khi nào Chúa
362 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

muốn, và tùy theo cách thức chuẩn bị sẵn của linh hồn, Chúa
sẽ hoàn tất việc ban cho linh hồn nếp quen của ơn nên một
trọn hảo với Chúa.
14 – Ở đây đang bàn về đêm và cũng là cuộc thanh tẩy
chủ ý, mà chỉ với đêm này mà thôi, thì ơn nên một với Thiên
Chúa chƣa đƣợc hoàn tất. Do đó, chúng tôi sẽ không đề cập
tới những hậu quả thần linh mà ơn nên một khi đạt tới hoàn
hảo sẽ phát sinh nơi linh hồn cả nơi trí hiểu, dạ nhớ cũng nhƣ
lòng muốn, tuy nhiên chúng tôi sẽ đề cập tới những hậu quả
ấy khi bàn về đêm thuận tình, vì phải qua đêm này sự nên
một giữa linh hồn và Thiên Chúa mới đƣợc thực hiện.
Ở đây, tôi chỉ xin nói làm cách nào dạ nhớ có thể chủ
động theo và tự mình biết tiến vào đêm tối và cuộc thanh tẩy
này. Nói tóm, ngƣời sống theo tâm linh thƣờng phải cẩn
trọng: không đƣợc tích lũy những gì mình nghe, thấy, ngửi,
nếm hay sờ mó, nghĩa là không đƣợc tàng trữ hay khắc ghi
vào dạ nhớ nhƣng cần phải buông bỏ và quên lãng ngay. Nếu
cần, hãy vận dụng hết năng lực để quên nhƣ ngƣời khác vận
dụng để nhớ. Phải làm sao để trong dạ nhớ mình không còn
lại bất cứ nhận thức hay hình ảnh nào về những gì mình đã
biết, nhƣ thể chúng không hề hiện hữu trên trần gian. Có
nghĩa là phải giữ cho dạ nhớ đƣợc tự do, không bị vƣớng vào
một xét định nào từ trên cao cũng nhƣ dƣới thấp, chẳng khác
nào mình không hề có dạ nhớ vậy. Hãy tự nguyện để mặc
cho dạ nhớ của mình mất hút vào quên lãng nhƣ thể nó là
một điều gây phiền toái vậy; bởi lẽ, nếu ngƣời ta muốn sử
dụng một yếu tố tự nhiên nào vào lãnh vực siêu nhiên thì đều
sẽ gây trở ngại chứ chẳng giúp ích gì cả.
QUYỂN 3 363

15 – Có thể lắm ngƣời muốn nhắc lại những thắc mắc


và vấn nạn đã từng nêu lên liên quan đến trí hiểu, chẳng hạn:
nhƣ thế linh hồn sẽ thành lƣời lĩnh, chỉ tổ mất thời gian, mất
hết những sự thiện tâm linh có thể nhận đƣợc qua ký ức. Xin
thƣa rằng trên đây chúng tôi cũng đã trả lời cho tất cả chuyện
này rồi và sau này cũng sẽ nói thêm ở đêm thuận tình vì thế
không lý do gì chúng tôi nán lại để bàn đến chuyện này.
Chỉ có một điểm cần lƣu ý ở đây. Dù trƣớc mắt không
cảm thấy đƣợc lợi lộc do sự đình chỉ các hình sắc và nhận
thức mang lại, ngƣời sống theo tâm linh không đƣợc vì đó
mà nản lòng bởi chắc chắn Thiên Chúa sẽ đến giúp đỡ vào
thời điểm của Ngài. Để đạt đƣợc một ơn lành lớn lao nhƣờng
ấy cần phải biết kiên tâm và chịu khổ với lòng kiên nhẫn đợi
chờ và hy vọng.
16 – Mặc dầu quả thực khó gặp thấy một linh hồn đƣợc
Thiên Chúa thúc đẩy mọi lúc và trong mọi sự, tức là đƣợc
nên một với Thiên Chúa liên tục đến nỗi không cần nhờ vào
một hình sắc nào, các quan năng của nó vẫn luôn đƣợc Thiên
Chúa lay động. Tuy nhiên vẫn có những linh hồn đƣợc Thiên
Chúa thƣờng xuyên thúc đẩy hoạt động của họ chứ không
phải chính họ tự hoạt động. Nơi họ lời thánh Phaolô thật
đúng: Các con cái Thiên Chúa – những kẻ đã đƣợc biến đổi
và nên một trong Ngài – thì được thúc đẩy bởi Thần Khí
Thiên Chúa tức là đƣợc thúc đẩy tới những công việc thần
linh nơi các quan năng của họ (x. Rm 8,14). Sự kiện các hoạt
động ấy mang tính thần linh chẳng có gì lạ, bởi ơn nên một
của linh hồn vốn đã mang tính thần linh.
364 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 3
Thiệt hại thứ nhất khi không chịu lột bỏ *

Chương này bàn về ba thiệt hại linh hồn mắc phải nếu
không chịu nhắm mắt lại trước những nhận thức và ngôn từ
của dạ nhớ. Ở đây nói về thiệt hại thứ nhất.
1 – Những ngƣời sống theo tâm linh nếu còn muốn
dùng các nhận thức và những ngôn từ tự nhiên của dạ nhớ
làm phƣơng tiện đến với Thiên Chúa hoặc để đạt một điều gì
khác sẽ phải hứng chịu ba cái thiệt hại và bất lợi: hai cái
trƣớc mang tính phá hoại, và cái thứ ba mang tính ngăn cản.
Cái thứ nhất do những thực tại trần thế, cái thứ hai do ma
quỷ và cái thứ ba mang tính tƣớc đoạt là sự ngăn cản và trở
ngại mà các nhận thức và những ngôn từ ấy gây ra trên
đƣờng nên một với Thiên Chúa.
2 – Thiệt hại thứ nhất do thế gian. Nó khiến linh hồn
phải gánh chịu nhiều thứ thiệt hại do các nhận thức và trăn
trở mang lại chẳng hạn những sai lạc, bất toàn, mê thích, xét
đoán, những chuyện làm mất thời giờ và lắm chuyện khác
tạo ra nơi linh hồn nhiều dơ bẩn.
Ai thích bận tâm đến những nhận thức và những ngôn
từ ấy, nhất định sẽ phải rơi vào lắm điều sai lạc, đó là chuyện
hiển nhiên, bởi nhiều khi cái thật dƣờng nhƣ lại có vẻ sai, và
cái chắc chắn lại có vẻ đáng ngờ và ngƣợc lại... bởi lẽ nhìn từ
một phía thì chúng ta khó mà hiểu đƣợc sự thật cho thấu đáo.
Muốn thoát khỏi mọi sai lạc ấy cần phải biết làm cho dạ nhớ
trở thành mù lòa đối với mọi nhận thức và những ngôn từ ấy.
QUYỂN 3 365

3 –Nếu để dạ nhớ nghiêng theo những gì nó nghe, thấy,


ngửi, sờ mó và nếm... thì mỗi bƣớc đi ta đều gặp phải những
bất toàn. Xúc cảm của ta sẽ dính bén vào đó, hoặc đớn đau,
hoặc hãi sợ, lúc thì chán ghét, lúc thì hy vọng, vui thỏa hão
huyền hoặc vênh vang giả tạo vv... Tất cả những chuyện ấy ít
ra đều là những bất toàn, đôi khi còn là những tội nhẹ vv...
Chúng khiến linh hồn bị hoen ố cách tinh vi ngay cả khi chúng
là những nhận thức và suy luận liên quan đến Thiên Chúa.
Cũng đã rõ là từ đó sẽ phát sinh những mê thích, bởi
mê thích vẫn thƣờng nảy sinh từ những nhận thức và những
ngôn từ ấy. Chỉ nguyên việc muốn có đƣợc những nhận thức
và những ngôn từ ấy đã là một mê thích rồi. Và cũng rõ ràng
là từ đó ngƣời ta dễ xét đoán liều lĩnh. Suy bụng ta ra bụng
ngƣời, dạ nhớ xét ẩu đoán mò những điều xấu điều tốt của kẻ
khác, mà oái oăm thay đôi khi cái ác lại có vẻ thiện và cái
thiện lại có vẻ ác. Thiết tƣởng không ai có thể giải thoát
mình khỏi mọi điều tác hại trên nếu không biết làm cho dạ
nhớ thành mù lòa, tăm tối đối với mọi sự.
4 – Nếu bạn bảo là ngƣời ta rất có thể thắng vƣợt
đƣợc mọi chuyện ấy khi chúng xảy đến thì tôi xin thƣa
rằng nếu là chuyện những nhận thức nơi dạ nhớ thì không
làm sao có thể đƣợc. Bởi lẽ có cả ngàn điều bất toàn lẻn
vào theo chúng; một số quá tinh vi và tế nhị, chúng chỉ đeo
bám vào linh hồn chút đỉnh nên linh hồn chẳng hề nhận
biết, tựa nhƣ kẻ chạm vào nhựa thông bị nó dính theo lúc
nào không hay. Tốt nhất là hãy dứt khoát một lần, hãy
vƣợt thắng tất cả bằng cách khiến cho dạ nhớ tự quên mình
đối với mọi sự.
366 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Hẳn bạn sẽ bảo rằng nhƣ thế linh hồn cũng bị mất đi
nhiều tƣ tƣởng và nhận thức tốt lành về Thiên Chúa, rất ích
lợi cho linh hồn và kéo theo nhiều hồng ân Thiên Chúa. Tôi
xin thƣa rằng ở đây sự tinh tuyền của linh hồn còn giúp ích
cho linh hồn hơn nhiều. Mà sự tinh tuyền này lại cốt ở chỗ
linh hồn không có một chút quyến luyến nào nơi thụ tạo, nơi
những thứ mau qua, và cũng không bận tâm gì tới chúng.
Theo ý tôi, nếu linh hồn còn bận tâm chút nào thì không
tránh khỏi bị hoen ố do sự bất toàn sẵn có nơi những hoạt
động của các quan năng.
Vì lẽ đó, tốt hơn nên tập đặt quan năng vào chỗ thinh
lặng và tập cho chúng quen tĩnh lặng để Thiên Chúa có thể
lên tiếng. Bởi lẽ, nhƣ đã nói, để đạt tới tình trạng này, các
hoạt động tự nhiên phải mất hút khỏi tầm nhìn. Điều này sẽ
đƣợc thực hiện khi nào, theo nhƣ lời vị ngôn sứ từng nói,
linh hồn cùng các quan năng của mình đi vào nơi cô tịch và
Thiên Chúa ngỏ lời với cõi lòng nó (x. Hs 2,16).
5 – Có lẽ bạn lại bảo rằng linh hồn sẽ mất hết mọi điều
lành vì nếu dạ nhớ không phản tỉnh và không trăn trở về
Thiên Chúa, nhiều sự lo ra chia trí sẽ lẻn vào. Tôi xin thƣa
rằng nếu dạ nhớ đã lùi vào cô tịch, xa lìa mọi vật cả trên trời
lẫn dƣới đất thì không còn cửa ngõ nào để các điều ác, những
chia trí, dại dột và xấu xa có thể lẻn vào linh hồn. Chúng chỉ
vào đƣợc khi nào dạ nhớ sơ hở. Chuyện này rất có thể xảy ra
nếu nhƣ sau khi đã đóng cửa đối với những điều trên cao
mình lại mở nó ra cho những điều dƣới thấp. Còn ở đây,
chúng ta đã đóng cửa với cả mọi thứ mà qua đó những
chuyện xấu xa nói trên có thể lẻn vào. Ta đóng cửa bằng
QUYỂN 3 367

cách làm cho dạ nhớ yên tĩnh và câm nín, chỉ có thính giác
tâm linh lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng và thốt lên
nhƣ Samuel: Lạy Chúa xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang
lắng nghe (1Sm 3,10). Trong sách Diễm Ca, Đức Tình Quân
đòi tình nƣơng của Ngài cũng phải nhƣ thế: Em là thửa vườn
còn khóa,ngọn suối còn niêm (Dc 4,12) nghĩa là đóng kín niêm
phong đối với tất cả những gì có thể vào trong đó.
6 – Vậy thì cứ ở trong tình trạng đóng kín niêm phong
kỹ lƣỡng, đừng lo lắng bận tâm. Xƣa Chúa đã xuất hiện giữa
các môn đệ của Ngài với thân xác, đang khi các cửa đều
đóng kín, và ban bình an cho họ mà họ chẳng biết điều ấy có
thể xảy ra cách nào (x. Ga 20,19-20). Nay Ngài cũng sẽ vào
trong linh hồn một cách tâm linh mà linh hồn chẳng hề biết
sự việc xảy ra cách nào và cũng không cộng tác đƣợc chút gì
vào đó. Linh hồn chỉ biết rằng mọi cánh cửa của các quan
năng là dạ nhớ, trí hiểu và lòng muốn đều đóng chặt. Những
quan năng ấy sẽ đƣợc đầy ắp bình an, bình an tuôn xuống
trên họ như dòng sông Cả (Is 66,12). Trong đó linh hồn sẽ
thấy mình đƣợc giải thoát khỏi mọi sợ hãi, ngờ vực, rối loạn
và tối tăm đã từng khiến nó sợ rằng mình đang hoặc đã lạc
lối (x. Is 48,18). Linh hồn chỉ còn phải cầu nguyện chuyên
chăm và cậy trông trong sự trơ trụi và trống rỗng, vì phúc
lành của nó chẳng bao lâu sẽ tới.
368 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 4
Thiệt hại thứ hai*

Chương này bàn về thiệt hại thứ hai ma quỷ có thể gây
cho linh hồn qua những nhận thức tự nhiên nơi dạ nhớ.
1 – Điều thiệt hại gây rối thứ hai có thể đến với linh
hồn do các nhận thức của dạ nhớ là từ ma quỷ. Ma quỷ có
ảnh hƣởng lớn trên linh hồn qua lối này. Nó có thể thêm vào
đủ thứ hình sắc, nhận thức hay những ngôn từ và nhờ những
thứ ấy, nó khiến linh hồn thành kiêu căng, hà tiện, nóng giận,
ghen tị... Nó đặt vào linh hồn sự căm ghét bất công, tình yêu
hão huyền và đủ thứ dối trá lừa gạt. Thêm vào đó, nó thƣờng
tạo những ấn tƣợng mạnh cho óc tƣởng tƣợng đến nỗi những
cái sai lạc lại có vẻ thật và những cái thật lại có vẻ sai lầm.
Nói tóm lại, mọi trò phỉnh gạt lớn nhất và những điều thiệt
hại ma quỷ gây ra đều đi vào linh hồn ngang qua những nhận
thức và những ngôn từ nơi dạ nhớ. Nếu dạ nhớ của ta biết
nhắm mắt lại với mọi chuyện đó, biết hủy mình đi trong quên
lãng, nó sẽ đóng hẳn đƣợc cánh cửa dẫn tới mọi tai họa ma
quỷ đang tìm cách gây ra, và sẽ tự giải thoát đƣợc khỏi mọi
chuyện đó, và đúng là đƣợc một ơn lành rất lớn.
Ma quỷ không thể làm gì đƣợc nơi linh hồn nếu không
nhờ vào hoạt động của các quan năng của linh hồn, nhất là nhờ
vào các nhận thức nơi dạ nhớ, bởi vì hầu nhƣ mọi hoạt động
của các quan năng khác đều tùy thuộc vào các nhận thức này.
Do đó, nếu dạ nhớ tự hủy mình đi nơi các nhận thức này, thì
ma quỷ sẽ chẳng còn gì để bấu víu, và sẽ chẳng làm gì đƣợc.
QUYỂN 3 369

2 – Tôi mong sao ngƣời sống theo tâm linh hiểu rõ bao
tác hại ma quỷ gây cho những linh hồn hƣớng nhiều về dạ
nhớ. Bọn quỷ gây nên biết bao điều buồn bã, sầu muộn, vui
vẻ hão huyền và xấu xa cả nơi những điều họ nghĩ về Thiên
Chúa lẫn những điều thuộc thế tục, cùng với biết bao ấn
tƣợng dơ bẩn chúng khắc sâu vào tâm trí. Chúng khiến
những linh hồn ấy bị chia trí không thể hồi tâm triệt để. Sự
hồi tâm triệt để này cốt ở chỗ hƣớng toàn bộ linh hồn, theo
mọi quan năng của nó, vào duy một mình sự thiện không thể
hiểu thấu, và tách linh hồn khỏi mọi điều có thể nhận thức,
vốn không phải là sự thiện không thể hiểu thấu.
Mặc dù sự thiện có đƣợc nhờ sự trống rỗng ấy không
đem lại lợi ích khôn tả nhƣ khi linh hồn đƣợc đắm mình
trong Thiên Chúa, nhƣng chỉ nguyên việc giải thoát ta khỏi
nhiều khổ đau sầu não và buồn phiền, hơn nữa còn giải thoát
khỏi các bất toàn và tội lỗi, sự trống rỗng ấy đã là một lợi ích
bao la rồi vậy.
370 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 5
Thiệt hại thứ ba *

Chương này bàn về thiệt hại thứ ba mà linh hồn mắc


phải qua những nhận thức cụ thể tự nhiên của dạ nhớ.
1 – Điều thiệt hại thứ ba những nhận thức tự nhiên gây
cho linh hồn là chúng tƣớc đoạt, ngăn cản điều tốt về mặt
luân lý và tƣớc đoạt cả sự thiện tâm linh.
Trƣớc hết để hiểu tại sao những nhận thức này lại ngăn
cản điều tốt về mặt luân lý nơi linh hồn, cần biết rằng điều
tốt về mặt luân lý cốt ở việc chế ngự các dục vọng và kìm
hãm các mê thích vô trật tự, từ đó phát sinh ra nơi linh hồn
sự tĩnh lặng, an bình, thanh thản và các nhân đức luân lý tức
là điều tốt về mặt luân lý.
Thực ra, linh hồn không thể có đƣợc sự chế ngự và
kìm hãm nói trên nếu không biết quên lãng và đẩy lùi
những thứ làm phát sinh sự yêu thích. Chẳng bao giờ hỗn
loạn có thể phát sinh trong linh hồn mà không do bởi
những nhận thức nơi dạ nhớ. Nếu đã quên hết mọi sự thì
không gì có thể quấy rối sự bình an và khiến cho các mê
thích thức dậy, bởi vì nhƣ ngƣời ta thƣờng nói: mắt không
thấy thì lòng không vấy, không ham.
2 – Kinh nghiệm hằng ngày vẫn luôn cho ta thấy điều
đó. Mỗi lần linh hồn tƣởng nghĩ tới một chuyện gì đó thì liền
bị giao động và lay chuyển vì chuyện ấy, không nhiều thì ít,
tùy theo điều nó nhận thức. Nếu đó là điều nặng nề và gây
QUYỂN 3 371

khó chịu, linh hồn sẽ thấy buồn chán; nếu là điều dễ chịu,
linh hồn sẽ thấy mê thích và vui thỏa...
Do đó, nếu linh hồn cứ để bị giao động vì những gì
mình nhận thức, thế nào cũng đi đến chỗ xáo trộn, sẽ lúc vui,
lúc buồn, lúc ghét, lúc thƣơng, chẳng thể lúc nào cũng duy trì
đƣợc cùng một trạng thái là kết quả của sự an tĩnh luân lý –
trừ khi dám quên hết mọi sự.
Nhƣ vậy, rõ ràng những nhận thức của dạ nhớ đã ngăn
cản linh hồn rất nhiều trong việc đạt đƣợc ơn lành của các
nhân đức luân lý.
3 – Những gì đã nói đủ chứng tỏ cho thấy rằng dạ nhớ
bị vƣớng víu sẽ gây trở ngại cho sự thiện tâm linh. Thật vậy,
khi linh hồn bị giao động, không đặt nền trên sự thiện luân
lý, thì không thể nào đạt đƣợc sự thiện tâm linh là điều chỉ có
đƣợc nơi những linh hồn tiết độ và sống trong an bình.
Ngoài ra, linh hồn không thể chú tâm vào hai chuyện
cùng một lúc. Do đó, nếu linh hồn đang chú tâm và xem
trọng những điều đã nhận thức trong dạ nhớ thì sẽ không thể
nào đƣợc tự do để chú tâm tới điều vƣợt sức nhận thức của
ta, tức là Thiên Chúa. Là vì, nhƣ chúng tôi vẫn thƣờng nói,
muốn đạt đến Thiên Chúa, linh hồn phải đi qua con đƣờng
không hiểu biết hơn là con đƣờng hiểu biết, và có đánh đổi
những gì chóng qua và khả tri mới nhận đƣợc Đấng bất biến
và không thể hiểu thấu.
372 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 6
Những lợi ích khi biết tự buông quên *

Chương này bàn về những lợi ích linh hồn nhận được
khi quên hẳn mọi tư tưởng tự nhiên và nhận thức nơi dạ nhớ.
1 – Từ những thiệt hại xảy đến cho linh hồn qua những
nhận thức nơi dạ nhớ, ta có thể suy ra những lợi ích ngƣợc
lại, phát sinh từ việc linh hồn buông quên và làm rỗng những
điều đã nhận thức ấy; bởi lẽ, theo triết học thì một nguyên tắc
đã áp dụng cho một nhân tố cũng áp dụng đƣợc cho điều trái
ngƣợc với nó.
Trƣớc hết, nhờ sự buông quên ấy, ngƣời sống theo tâm
linh sẽ đƣợc vui hƣởng sự yên tĩnh và bình an linh hồn bởi
không còn sự xáo trộn và biến đổi phát sinh từ những tƣ
tƣởng và nhận thức của dạ nhớ. Họ sẽ có đƣợc sự tinh tuyền
nơi lƣơng tâm và linh hồn, còn đáng giá hơn gấp bội. Nhờ
đó, linh hồn hết sức sẵn sàng đón nhận cả khôn ngoan nhân
loại và khôn ngoan thần linh cùng các nhân đức khác.
2 – Ngƣợc với thiệt hại thứ hai, ngƣời sống theo tâm
linh đƣợc giải thoát khỏi nhiều sự xúi giục, cám dỗ và lay
động mà ma quỷ thƣờng nhờ các tƣ tƣởng và nhận thức để
gieo vào khiến linh hồn mắc nhiều nhiễm uế và tội lỗi, nhƣ
lời vua thánh Đavít: Chúng chế giễu, buông lời thâm độc
(Tv 72,8). Do đó, một khi cái dụng cụ là tƣ tƣởng bị loại
bỏ, ma quỷ sẽ mất chỗ bám víu để dựa vào mà tấn công
tâm trí.
QUYỂN 3 373

3 – Ngƣợc với thiệt hại thứ ba, nhờ buông quên và lắng
lòng xa bỏ mọi điều ấy, linh hồn sẵn sàng để đƣợc Chúa Thánh
Thần tác động và dạy dỗ. Nhƣ tác giả sách Khôn Ngoan có nói,
Thần khí rời xa những lý luận ngu dốt (Kn 1,5).
Tuy nhiên, nhờ vào buông quên và làm rỗng dạ nhớ, dù
ngƣời sống theo tâm linh không đƣợc lợi ích nào khác hơn là
đƣợc thoát khỏi những đau khổ và xáo trộn, thì cũng đã là
một thắng lợi và ơn lành lớn lao rồi. Bởi lẽ, những đau khổ
và xáo trộn mà những vấn đề cũng nhƣ những trƣờng hợp
trái khoáy ấy gây ra cho linh hồn, chẳng những không giúp
gì cho việc giải quyết các vấn đề và trƣờng hợp ấy, mà
thƣờng còn khiến chúng ra tệ hơn và gây thiệt hại cho chính
linh hồn. Vì thế, vua Đavít nói: Thân lom khom, rã rời, kiệt
sức, suốt cả ngày con thiểu não lang thang (Tv 38,7). Quả
vậy, sự náo động luôn là chuyện vô ích, chẳng bao giờ mang
lại lợi lộc gì.
Nhƣ thế, dù mọi sự có tiêu vong và sụp đổ, dù mọi việc
đều ngƣợc hẳn ý ta, cũng đừng náo động làm gì vô ích vì sẽ
gây thiệt hại hơn là giúp giải quyết vấn đề. Còn nếu biết chịu
đựng mọi chuyện với một sự an bình thƣ thái nhƣ nhau thì
không những sẽ ích lợi nhiều cho linh hồn mà hơn nữa –
ngay giữa các nghịch cảnh ấy – sẽ còn giúp nhận định đúng
về chúng và tìm ra đƣợc cách giải quyết thích hợp.
4 – Do biết rõ đƣợc lợi hại của điều ấy, vua Salômôn đã
nói: Tôi nhận ra rằng đối với con người không có hạnh phúc
nào lớn hơn là vui thỏa, vui vẻ và làm lành trong cuộc đời
mình (Gv 3,12). Ông muốn ta hiểu rằng, trong mọi trƣờng
374 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

hợp ấy, dù trái ý đến đâu đi nữa, ta vẫn phải vui thỏa hơn là
náo động, cứ đón nhận mọi thứ cách bình thản nhƣ nhau, để
khỏi đánh mất mối lợi còn lớn lao hơn mọi sự thịnh vƣợng,
tức là sự thƣ thái, sự bình an tâm hồn giữa mọi vấn đề trắc
trở hoặc thuận lợi. Ta sẽ không bao giờ đánh mất sự thƣ thái
ấy nếu biết buông quên các nhận thức và trút bỏ các tƣ
tƣởng, và hơn nữa, biết hết sức tránh để khỏi nghe, khỏi thấy,
khỏi giao tiếp. Bản thân chúng ta rất bấp bênh và mỏng dòn,
cho nên dù đƣợc thao luyện kỹ, vẫn khó mà giữ cho dạ nhớ
tránh khỏi những điều gây xáo trộn và bất ổn khiến tâm linh
lại mất đi sự bình an thƣ thái đã có đƣợc nhờ buông quên tất
cả. Bởi thế ngôn sứ Giêrêmia đã nói: Nỗi niềm riêng canh
cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi (Ac 3,20).
QUYỂN 3 375

Chương 7
Những nhận thức siêu nhiên *

Chương này bàn về loại nhận thức thứ hai của dạ nhớ,
tức là những nhận thức và tưởng tượng siêu nhiên.
1 – Những điều đã nói về những nhận thức tự nhiên nơi
dạ nhớ cũng liên quan đến những hình sắc và nhận thức của
trí tƣởng tƣợng thuộc lãnh vực tự nhiên. Bây giờ xin nói
riêng về những hình sắc và nhận thức khác đƣợc lƣu giữ nơi
dạ nhớ nhƣng lại thuộc về lãnh vực siêu nhiên; chẳng hạn
các thị kiến, mạc khải, lời nói hay tình cảm nhận đƣợc qua
con đƣờng siêu nhiên. Khi những chuyện khác thƣờng này
diễn ra nơi linh hồn, chúng thƣờng để lại đó, nơi dạ nhớ hoặc
nơi trí tƣởng tƣợng, những hình ảnh, hình sắc hoặc nhận
thức, đôi khi rất sống động và đầy ấn tƣợng. Vì thế chúng tôi
cũng cần lƣu ý bạn đọc về việc này, để dạ nhớ khỏi bị lúng
túng trong những chuyện ấy và để những chuyện ấy khỏi
ngăn trở dạ nhớ tiến tới nên một với Thiên Chúa trong đức
cậy tinh tuyền và hoàn hảo.
2 – Tôi xin nói ngay rằng linh hồn nào muốn đạt mục
đích thì không bao giờ đƣợc suy tƣ về những chuyện khác
thƣờng, rõ ràng và cụ thể đã xảy đến cho mình qua nẻo
đƣờng siêu nhiên, để níu giữ những hình thể hình sắc và
nhận thức về chúng. Cần phải luôn ghi nhớ nguyên tắc này:
Linh hồn càng gắn bó với một nhận thức rõ ràng và cụ thể
nào đó, hoặc tự nhiên hoặc siêu nhiên, thì càng ít khả năng
và ít sẵn sàng để lao vào vực thẳm đức tin, nơi mà mọi thứ
376 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khác đều biến tan. Nhƣ chúng tôi đã nói, trong những hình
sắc hoặc nhận thức siêu nhiên đã có thể rơi vào dạ nhớ,
không một thứ gì có thể là Thiên Chúa (không tƣơng xứng
chút nào với Thiên Chúa và cũng không thể là phƣơng cách
dẫn tới Thiên Chúa). Muốn đến với Thiên Chúa, linh hồn
phải làm cho mình trống rỗng hết tất cả những gì không phải
là Thiên Chúa. Dạ nhớ phải tự giải trừ hết mọi hình sắc và
nhận thức ấy để nên một với Thiên Chúa trong đức cậy tuyệt
hảo. Bởi lẽ mọi chiếm hữu đều nghịch với đức cậy, nhƣ lời
thánh Phaolô có nói: Đức cậy nhắm đến những gì người ta
chưa chiếm hữu (x. Rm 8,24; Dt 11,1).
Do đó, dạ nhớ càng buông bỏ, càng có thêm đức cậy và
càng thêm đức cậy càng đƣợc nên một với Thiên Chúa. Linh
hồn càng trông cậy Thiên Chúa, càng đạt đến Ngài nhiều
hơn. Mức độ trông cậy của linh hồn tỉ lệ với mức độ buông
bỏ của nó. Nhƣ thế, khi linh hồn buông bỏ trọn vẹn thì cũng
sẽ chiếm hữu Thiên Chúa trọn vẹn và đƣợc nên một với Ngài
trọn vẹn. Tiếc thay, nhiều ngƣời không muốn mất sự dịu dàng
và hoan lạc do các nhận thức nơi dạ nhớ, cho nên cũng không
đạt đến chỗ chiếm hữu trọn vẹn đƣợc sự thiện tối cao và sự
dịu dàng tột đỉnh. Quả đúng là kẻ nào không từ bỏ mọi thứ
mình có thì không thể là môn đệ Chúa Giêsu (x. Lc 14,33).
QUYỂN 3 377

Chương 8
Thiệt hại do nhận thức siêu nhiên *

Chương này bàn về những thiệt hại mà các nhận thức


siêu nhiên của dạ nhớ có thể gây cho linh hồn nếu linh hồn suy
tưởng về chúng. Những thiệt hại này gồm những loại nào.
1 – Nếu coi trọng và cứ suy tƣởng về những nhận thức
và hình sắc đƣợc nhập tâm về những điều đã xảy ra cho mình
qua nẻo đƣờng siêu nhiên, ngƣời sống theo tâm linh sẽ phải
đƣơng đầu với năm loại thiệt hại.
2 – Thứ nhất là nhiều khi họ bị sai lầm, lẫn cái này với
cái kia.
Thứ hai, họ thƣờng dễ rơi vào những dịp gây nên tự
phụ hoặc khoe khoang.
Thứ ba, ma quỷ có thể lừa gạt họ rất dễ dàng nhờ các
nhận thức đã nói trên.
Thứ tƣ, những suy tƣởng nhƣ thế ngăn cản sự nên một
với Thiên Chúa trong đức cậy.
Thứ năm, phần lớn họ sẽ suy đoán về Thiên Chúa một
cách thấp kém.
3 – Về điểm thứ nhất, rõ ràng là nếu ngƣời sống theo
tâm linh coi trọng và cứ suy tƣởng tới những hình sắc và
nhận thức nói trên thì sẽ thƣờng xuyên lầm lẫn trong cách
phán đoán. Ngay cả đối với những chuyện xảy ra một cách tự
378 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nhiên qua trí tƣởng tƣợng, còn không ai có thể thấu biết hoặc
phán đoán đƣợc toàn diện và chắc chắn về chúng, huống nữa
là đối với những chuyện siêu nhiên vốn vƣợt quá khả năng
chúng ta và hiếm khi xảy ra, thử hỏi ai có thể đoán định?
Ngƣời sống theo tâm linh thƣờng ngỡ rằng những nhận
thức ấy là do Thiên Chúa đang khi thật ra chúng chỉ là những
sản phẩm do óc tƣởng tƣợng vẽ vời của họ. Thậm chí nhiều
chuyện họ tƣởng là do Thiên Chúa, thì lại do ma quỷ, còn
những chuyện họ tƣởng do ma quỷ, lại là do Thiên Chúa. Rất
nhiều khi ngƣời ta ghi sâu những hình sắc và nhận thức về
những chuyện tốt xấu của kẻ khác hoặc của chính mình cũng
nhƣ ghi sâu những hình dạng khác đã gặp đƣợc, để rồi xem
là rất chắc chắn và chân thực, nhƣng thật ra không phải mà
trái lại còn rất sai lạc. Đang khi đó những điều khác vốn chân
thật lại bị coi là sai lạc. Tuy nhiên, theo tôi thì thà chân thật
mà bị coi là sai lạc vẫn an toàn hơn bởi điều này thƣờng phát
sinh do tự lòng khiêm nhƣờng.
4 – Dù không bị lầm về tính chân thực, ngƣời ta vẫn có
thể lầm lẫn về lƣợng hoặc về phẩm, khi ít mà tƣởng nhiều,
nhiều mà tƣởng ít. Xét về phẩm, đang khi ngƣời ta theo
tƣởng tƣợng mà đánh giá sự việc thế nọ thế kia thì thực tế lại
không nhƣ thế; theo lời tiên tri Isaia họ coi bóng tối là ánh
sáng, ánh sáng là bóng tối, cay đắng là ngọt ngào, ngọt ngào
là cay đắng (x. Is 5, 20). Rốt cuộc sẽ là chuyện hy hữu nếu
đúng đƣợc một phía mà không lầm lạc ở phía kia. Dù linh
hồn không muốn dùng óc phê phán để xét đoán, chỉ nguyên
việc coi trọng những nhận thức ấy cũng đủ để phải chịu thiệt
hại ở một mức nào đó, ít là một cách thụ động; nếu chẳng
QUYỂN 3 379

phải là loại thiệt hại đang bàn thì cũng là một trong bốn loại
khác sẽ đề cập tiếp theo dƣới đây.
5 – Để khỏi bị đánh lừa trong sự phán đoán của mình,
ngƣời sống theo tâm linh không nên tìm cách đoán định để
biết bản chất những điều họ đang cảm nghiệm, chẳng hạn
bản chất của thị kiến, của những nhận thức hoặc những tình
cảm này nọ. Họ cũng không nên ao ƣớc biết về chúng hoặc
bận tâm đến chúng, ngoại trừ chuyện cần kể lại cho cha linh
hƣớng để ngài dạy cho biết cách giải trừ dạ nhớ khỏi bị ràng
buộc vào những điều đã nhận thức ấy. Tất cả những nhận
thức ấy có thế nào đi nữa vẫn không thể giúp ngƣời ta có
đƣợc lòng yêu mến Chúa cho bằng một động tác rất nhỏ bé
của đức tin và đức cậy sống động đƣợc thực hiện trong sự
trống rỗng và buông bỏ hết những chuyện ấy.
380 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 9
Tự hào và tự phụ *

Chương này bàn về loại thiệt hại thứ hai là nguy cơ rơi
vào tự hào và tự phụ hão huyền.
1 – Những nhận thức siêu nhiên của dạ nhớ nói trên,
nếu ngƣời sống theo tâm linh chú tâm xem trọng, cũng là
một nguy cơ dễ khiến họ rơi vào tự phụ hoặc vênh vang. Do
đó ai không dính líu tới những điều đã nhận thức ấy thì khỏi
bị rơi vào thói xấu này bởi chẳng thấy nơi mình có gì để tự
phụ, còn trái lại, ai tha thiết với chúng là có nguy cơ rơi vào
chỗ tƣởng mình hẳn phải thế nọ thế kia mới có đƣợc những
thông giao siêu nhiên này. Mặc dù quả tình ngƣời ta có thể
quy những ơn ấy về Thiên Chúa và cảm tạ Chúa, tự nhận
mình bất xứng; thế nhƣng trong tâm trí họ vẫn thƣờng đọng
lại một sự tự mãn ngấm ngầm, vừa tự hào về những ơn ấy
vừa tự hào về chính mình. Bởi vậy, dù họ không ý thức, vẫn
nẩy sinh nơi họ sự kiêu hãnh tâm linh.
2 – Điều ấy có thể lộ ra khá rõ qua thái độ họ không hài
lòng và xa tránh những ai không ca tụng đƣờng tâm linh của
họ, không đánh giá cao những chuyện thông giao họ có
đƣợc. Họ phiền lòng khi nghĩ hoặc nghe nói rằng những
ngƣời khác cũng có những kinh nghiệm thông giao nhƣ –
hoặc còn cao siêu hơn những thông giao của họ. Tất cả
những điều đó nảy sinh do sự tự hào và kiêu ngạo ngấm
ngầm. Những con ngƣời nhƣ thế có thể vô tình không hiểu
rằng họ đang lún sâu vào sự kiêu ngạo tới tận cổ rồi. Họ nghĩ
QUYỂN 3 381

rằng chỉ cần nhận biết sự khốn cùng của mình đôi chút là đủ
nhƣng đồng thời họ lại chất đầy sự tự hào tự mãn mà không
ngờ. Họ nghĩ đƣờng nội tâm và những điều tốt về mặt tâm
linh của mình vƣợt hơn kẻ khác. Họ hệt nhƣ gã biệt phái cảm
tạ Thiên Chúa vì y không giống những kẻ khác và vì y có
đƣợc nhân đức này nọ khiến y hài lòng về mình và đâm ra tự
phụ (Lc 18,11-12). Mặc dù không công nhiên nói ra những
điều trên nhƣ gã biệt phái nọ, những ngƣời này vẫn thƣờng
xuyên có thái đô ấy trong lòng. Một số ngƣời còn quá kiêu
căng đến nỗi trở thành xấu xa hơn cả ma quỷ. Khi thấy mình
có đƣợc đôi nhận thức và tâm tình sùng mộ ngọt ngào về
Thiên Chúa, họ liền thỏa mãn tới độ nghĩ rằng mình đã kề
cận Thiên Chúa và nghĩ rằng những ngƣời không có đƣợc
những loại nhận thức nhƣ thế đều ở trong tình trạng rất thấp
kém rồi khinh bỉ những ngƣời ấy nhƣ gã biệt phái nọ đối với
ngƣời thu thuế.
3 – Để tránh khỏi điều tệ hại nhƣ ôn dịch và đáng ghê
tởm trƣớc nhan Thiên Chúa nhƣ thế, ta cần lƣu tâm hai điều:
Một là nhân đức không nằm nơi những nhận thức và
rung cảm về Thiên Chúa, dẫu cao siêu tới đâu, cũng không
nằm nơi bất cứ điều gì tƣơng tự có thể cảm nhận nơi mình.
Trái lại, nhân đức nằm nơi những gì họ không hề cảm
nghiệm đƣợc, tức là nơi một tâm tình khiêm nhƣờng sâu
thẳm, khinh chê chính mình và mọi thứ của mình (đây là
điều rất rõ nét và nhạy cảm nơi linh hồn), thích đƣợc những
ngƣời khác cũng nghĩ về mình nhƣ thế và chẳng muốn đƣợc
coi trọng chút gì trong lòng kẻ khác.
382 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Hai là phải nhớ rằng mọi thị kiến, mạc khải và tình
cảm thuộc thiên giới, cùng tất cả những gì tƣơng tự ngƣời ta
có thể nghĩ ra, không giá trị bằng một hành động khiêm
nhƣờng nhỏ bé nhất, bởi sự khiêm nhƣờng mang lại những
hiệu quả của đức mến. Ngƣời khiêm nhƣờng không coi trọng
những điều mình có đƣợc và cũng không kiếm tìm chúng.
Ngƣời ấy chẳng nghĩ xấu cho ai khác ngoài chính mình, cũng
chẳng nghĩ tốt gì cho mình mà chỉ nghĩ tốt cho kẻ khác (1Cr
13,4-7). Vì thế, ta không nên dán mắt vào những nhận thức
siêu nhiên này nhƣng hãy tìm buông quên chúng đi để đƣợc
thƣ thái tự do.
QUYỂN 3 383

Chương 10
Thiệt hại do nhận thức tưởng tượng *

Chương này bàn về loại thiệt hại thứ ba ma quỷ có thể


gây ra cho linh hồn qua những nhận thức tưởng tượng của
dạ nhớ.
1 – Từ những gì đã nói ở trên, ta suy ra và hiểu đƣợc
thiệt hại nặng nề ma quỷ có thể gây cho linh hồn qua lối
những nhận thức siêu nhiên này. Nó bày ra trong dạ nhớ và
óc sáng tạo vẽ vời nhiều hình sắc và nhận thức hoàn toàn sai
lạc nhƣng lại có vẻ chân thực tốt lành, rồi bằng gợi ý, đem in
sâu vào tâm trí và giác quan một cách kiến hiệu và chắc chắn
đến nỗi linh hồn thấy rằng quả đúng thế chứ không thể nào
khác. Ma quỷ có thể tự biến hình thành thiên thần ánh sáng
(x. 2Cr 11,14) nên dƣờng nhƣ linh hồn nhìn đâu cũng chỉ
thấy ánh sáng. Còn hơn thế nữa. Cả nơi những nhận thức
chân thực đến từ Thiên Chúa, ma quỷ có thể cám dỗ linh hồn
bằng nhiều cách, đặc biệt nó thúc giục linh hồn chạy theo
những mê thích và quyến luyến vô trật tự hoặc nơi tâm linh,
hoặc nơi giác quan. Nếu linh hồn thích thú với những nhận
thức ấy, thì không còn gì dễ cho ma quỷ hơn là tăng nhanh
các mê thích và quyến luyến khiến linh hồn rơi vào thói háu
ăn về mặt tâm linh và nhiều thiệt hại khác nữa.
2 – Để thành công hơn, ma quỷ thƣờng kích thích cho
giác quan hƣởng nếm hƣơng vị, sự dịu ngọt và hoan lạc đối
với chính những chuyện thuộc về Thiên Chúa, để một khi đã
say mê ngây ngất thứ hƣơng vị ấy, linh hồn bị nó làm cho mù
384 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tối và cứ dán mắt vào hƣơng vị ấy hơn là vào tình yêu, hoặc
ít ra cũng không còn gắn bó tha thiết nhƣ tình yêu đòi hỏi.
Và khi linh hồn đã coi trọng các nhận thức ấy hơn sự trơ trụi
và trống rỗng nơi lòng tin, cậy và yêu mến Thiên Chúa, ma
quỷ dần dần lƣờng gạt và làm cho linh hồn tin vào những
chuyện sai lạc của chúng cách dễ dàng.
Đối với linh hồn đã mù tối, thì sai lạc dƣờng nhƣ chẳng
còn là sai lạc và điều ác không còn là điều ác, vv... bởi tăm
tối có vẻ là ánh sáng, còn ánh sáng lại thành tăm tối (x. Is
5,20). Từ đó, linh hồn rơi vào cả ngàn chuyện đáng tiếc cả
trong lãnh vực tự nhiên lẫn luân lý và tâm linh. Rồi rƣợu trở
thành giấm. Linh hồn mắc phải tất cả những chuyện ấy bởi vì
ngay từ đầu đã không chịu từ khƣớc cái thú vị về những điều
siêu nhiên kia. Thoạt đầu chẳng có gì đáng kể và điều xấu
không tồi tệ đến thế, nên linh hồn chẳng dè chừng và điều
xấu ấy cứ lớn dần nhƣ hạt cải, hóa thành cây lớn (Mt 13,31-
32). Nhƣ ngạn ngữ có câu: “Sai một ly đi một dặm”.
3 – Để tránh điều thiệt hại lớn lao ấy do ma quỷ gây ra,
linh hồn triệt để không đƣợc khao khát nếm hƣởng những
chuyện nhƣ thế, bởi chắc chắn linh hồn sẽ hóa mù tối trong
cái hƣơng vị ấy và sẽ vấp ngã. Cho dầu ma quỷ không can
thiệp, thì tự bản chất của chúng, cái hƣơng vị, khoan khoái
và ngọt ngào ấy cũng đủ khiến linh hồn mù tối. Nhƣ thế
chúng ta hiểu đƣợc lời vua Đavít: Ước gì bóng tối bao phủ
tôi và ánh sáng quanh tôi thành đêm tối! (x. Tv 138,11).
QUYỂN 3 385

Chương 11
Bị cản trở hiệp nhất *

Chương này bàn về thiệt hại thứ tư linh hồn có thể mắc
phải qua những nhận thức siêu nhiên cụ thể của dạ nhớ, tức
là bị cản trở không nên một được với Thiên Chúa.
1 – Về thiệt hại thứ tƣ này, ở đây không có nhiều điều
để nói, bởi nó đã đƣợc nói rõ và liên ục nơi quyển ba này.
Chúng tôi đã chứng minh rằng, để đi tới chỗ nên một với
Thiên Chúa trong đức cậy, linh hồn phải từ bỏ hết mọi sở
hữu nơi dạ nhớ; bởi lẽ để đức cậy hoàn toàn tập trung vào
Thiên Chúa, nơi dạ nhớ không đƣợc lƣu lại điều gì không
phải là Thiên Chúa.
Chúng tôi cũng đã chứng minh rằng không một hình
sắc, hình dáng, hình ảnh hay nhận thức nào khác, dù dƣới đất
hay trên trời, tự nhiên hay siêu nhiên lọt đƣợc vào dạ nhớ,
mà lại là Thiên Chúa hoặc tƣơng tự đƣợc nhƣ Ngài, đúng
theo lời dạy của vua Đavít: Trên cõi trời cao, nào có ai sánh
tày Đức Chúa? Trong hàng thần thánh, hỏi có ai giống Chúa
được chăng? (Tv 88/89,7). Do đó, nếu dạ nhớ muốn chú tâm
đến bất cứ điều gì nói trên thì sẽ bị ngăn trở trong việc đến với
Thiên Chúa, trƣớc hết là vì nó sẽ bị vƣớng víu và kế đến là do
càng chiếm hữu nhiều, dạ nhớ càng có ít niềm cậy trông.
2 – Nhƣ vậy, linh hồn cần phải thành trơ trụi và buông
quên mọi hình sắc và nhận thức cụ thể về những điều siêu
nhiên để khỏi bị ngăn cản nên một với Thiên Chúa theo dạ
nhớ, nơi đức cậy hoàn hảo.
386 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 12
Nguy cơ đánh giá thấp về Thiên Chúa *

Chương này bàn về thiệt hại thứ năm linh hồn có thể
mắc phải qua các hình sắc và nhận thức tưởng tượng siêu
nhiên: Đó là đoán định về Thiên Chúa cách thấp kém và
không xứng hợp.
1 – Điều thiệt hại thứ năm không nhỏ. Nó xảy đến khi
linh hồn muốn giữ lại trong dạ nhớ và trí tƣởng tƣợng những
hình sắc và hình ảnh nói trên về những điều đƣợc thông ban
cách siêu nhiên, nhất là nếu họ muốn lấy đó làm phƣơng thế để
đạt tới ơn nên một với Thiên Chúa. Nhƣ thế họ sẽ rất dễ đi đến
chỗ đoán định về hữu thể siêu việt của Thiên Chúa cách thấp
kém, không xứng với tính cách cao vời không thể hiểu thấu của
Ngài. Cho dù lý trí và trí phán đoán không minh nhiên quan
niệm rằng Thiên Chúa có chút gì giống nhƣ điều đã nhận thức,
nhƣng việc đánh giá cao những nhận thức ấy sẽ khiến linh hồn
không còn xem trọng và cảm nghĩ về Thiên Chúa xứng với sự
cao cả của Ngài nhƣ đức tin đã dạy bảo, rằng Thiên Chúa là
hữu thể khôn sánh và không thể hiểu thấu vv...
Tất cả những gì linh hồn đã đặt vào thụ tạo, nó không
dành cho Thiên Chúa nữa. Ngoài ra, qua việc coi trọng
những điều có thể nhận thức đƣợc nhƣ thế, tự nhiên linh hồn
còn tạo ra bên trong nó một kiểu so sánh nào đó giữa những
nhận thức ấy và Thiên Chúa, khiến không còn đoán định và
quý trọng Thiên Chúa cách cao vời cho thích đáng. Bởi vì
các loài thụ tạo, dù dƣới đất hoặc trên trời, cũng nhƣ mọi
QUYỂN 3 387

nhận thức và ảnh tƣợng cụ thể tự nhiên lẫn siêu nhiên có thể
rơi đƣợc vào các quan năng của linh hồn, thì dù cao siêu mấy
ở đời này, vẫn không thể nào sánh với hữu thể Thiên Chúa.
Nhƣ lời các thần học gia, Thiên Chúa không thuộc bất cứ
chủng loại nào, đang khi các thụ tạo phải có chủng loại. Phần
linh hồn, bao lâu còn ở đời này, nó không thể lãnh hội cách rõ
ràng và minh bạch những gì không thuộc phạm trù chủng loại.
Vì thế thánh Gioan đã nói: Chưa từng có người nào xem thấy
Thiên Chúa (Ga 1,18) và ngôn sứ Isaia cũng nói: Người ta
chưa nghe nói đến bao giờ, tai chưa hề nghe, mắt chưa hề
thấy. Có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như thế (Is
64,3). Và Thiên Chúa đã phán với Môsê rằng ông sẽ không
thể trông thấy Ngài khi ông còn ở đời này (x. Xh 33,20).
Do đó, ngƣời nào gây xáo trộn dạ nhớ và các quan năng
khác của linh hồn bằng những thứ họ có thể hiểu đƣợc thì
không thể quý trọng Thiên Chúa hay cảm nghĩ về Ngài cho
thích đáng.
2 – Chúng tôi xin đƣa ra một so sánh nhỏ: nếu một ai
đó chỉ dán mắt vào đám tôi tớ của nhà vua thì, càng chú tâm
đến họ, ngƣời ấy càng ít lƣu tâm đến đức vua và càng ít quý
trọng ngài. Sự đánh giá không diễn ra rõ ràng lộ liễu nơi trí
hiểu nhƣng đã thể hiện qua việc làm, vì càng chú tâm vào
đám tôi tớ, ngƣời ấy càng bớt chú tâm vào chủ nhân và nhƣ
thế là không coi trọng đức vua là chủ của mình. Khi linh hồn
coi trọng các vật thụ tạo nói trên thì cũng đã cƣ xử với Thiên
Chúa y hệt nhƣ vậy. Việc so sánh này vẫn rất khập khiễng,
bởi lẽ hữu thể Thiên Chúa khác xa mọi thụ tạo của Ngài đến
vô tận. Dù sao, vẫn phải kết luận rằng linh hồn cần thôi dán
388 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mắt vào các thụ tạo hoặc bất cứ hình sắc nào của chúng để có
thể tập trung cái nhìn vào Thiên Chúa trong đức tin và đức cậy.
3 – Do đó, những ngƣời không những coi trọng các
nhận thức tƣởng tƣợng nói trên mà còn nghĩ rằng Thiên
Chúa giống với đôi điều trong những chuyện ấy đồng thời họ
có thể nhờ chúng mà nên một với Thiên Chúa thì quả là lầm
to. Làm thế, trí hiểu của họ sẽ ngày càng đánh mất ánh sáng
đức tin mà chỉ nhờ đó họ mới đƣợc nên một với Thiên Chúa.
Họ cũng sẽ không vƣơn lên đƣợc tới chỗ cao vƣợt của đức
cậy nhờ đó dạ nhớ đƣợc nên một với Thiên Chúa nơi đức
cậy. Chỉ khi nào tách mình khỏi những gì thuộc về tƣởng
tƣợng, ngƣời ta mới đạt đƣợc sự nên một ấy.
QUYỂN 3 389

Chương 13
Được tự do đến với Chúa *
Chương này bàn về những lợi ích linh hồn gặt hái được
khi xa lánh những nhận thức của trí tưởng tượng. Trả lời cho
một vấn nạn và nêu rõ sự khác biệt giữa những nhận thức
tưởng tượng tự nhiên và siêu nhiên.
1 – Tƣơng tự nhƣ điều đã nói khi bàn về các hình sắc tự
nhiên, nếu linh hồn muốn lƣu giữ các hình sắc tƣởng tƣợng,
nó sẽ gặp phải năm thứ thiệt hại, còn nếu biết giải trừ các
hình sắc ấy khỏi trí tƣởng tƣợng cũng mang lại cho linh hồn
nhiều lợi ích.
Tuy nhiên, ngoài những lợi ích này, còn có những lợi
ích khác là sự nghỉ ngơi an tĩnh mênh mông cho tâm linh.
Bên cạnh sự nghỉ ngơi an tĩnh linh hồn tự nhiên đƣợc hƣởng
khi thoát khỏi các ảnh tƣợng và hình sắc, linh hồn còn tránh
đƣợc nỗi lo âu thắc mắc không hiểu các hình sắc, ảnh tƣợng
ấy tốt hay xấu và ở mỗi trƣờng hợp phải ứng xử thế nào.
Linh hồn cũng khỏi phải chán chƣờng mệt mỏi vì mất thời
gian với các linh hƣớng để xét xem chúng tốt hay xấu, thuộc
loại này hay loại kia. Linh hồn chẳng bận tâm vì chẳng xem
trọng bất cứ thứ nhận thức nào nói trên.
Thế là, thay vì xài phí thời gian và năng lực để tìm hiểu
các chuyện ấy, linh hồn có thể chuyên chăm vào một việc tập
luyện tốt và hữu ích hơn: đó là tập cho lòng muốn phục tùng
Thiên Chúa, chuyên lo tìm kiếm sự trơ trụi và nghèo khó tâm
linh lẫn giác quan. Sự trơ trụi và nghèo khó này thể hiện qua
390 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

việc tự nguyện để cho mình bị tƣớc đoạt hết mọi nâng đỡ và


mọi an ủi bên trong lẫn bên ngoài. Ngƣời ta sẽ hoàn tất tốt
đẹp việc tập luyện này bằng cách ao ƣớc và cố gắng lìa xa
những hình sắc nói trên bởi nhờ đó họ sẽ đƣợc một lợi ích
lớn lao là tiến gần tới Thiên Chúa là Đấng vốn chẳng hề có
hình ảnh, hình sắc hoặc hình dạng gì cả. Họ càng xa lìa mọi
hình sắc, hình ảnh hoặc hình dạng tƣởng tƣợng thì càng đến
gần Thiên Chúa hơn.
2 – Có lẽ bạn sẽ hỏi: Vậy tại sao nhiều ngƣời sống theo
tâm linh lại khuyên nên tận dụng những thông giao và tâm
tình Thiên Chúa ban và hãy ao ƣớc lãnh nhận ơn lành từ nơi
Thiên Chúa để có cái mà dâng cho Ngài, bởi lẽ nếu Thiên
Chúa không ban cho chúng ta, chúng ta lấy gì mà dâng cho
Ngài? Vả lại, thánh Phaolô có nói: Đừng dập tắt Thần khí
(1Tx 5, 19); hoặc Đức Lang Quân cũng nói với Tân Nƣơng:
Hãy đặt tôi như chiếc ấn trên tim, như chiếc ấn trên cánh tay
người (Dc 8,6). Chiếc ấn này có khác gì một loại nhận thức
nào đó. Thế mà theo học thuyết đƣợc cống hiến trên đây,
chẳng những không đƣợc tìm kiếm tất cả những thứ ấy, mà
còn phải từ chối chúng, dầu chúng đƣợc Thiên Chúa gửi tới!
Mà Thiên Chúa đã ban cho ta là ban điều tốt và điều ấy sẽ tạo
ra hậu quả tốt, thì lẽ nào ta lại vất bỏ các viên ngọc cách phí
phạm? (x. Mt 7,6) Làm nhƣ vậy, khác nào kiêu ngạo không
muốn nhận các điều Thiên Chúa ban, nhƣ thể chúng ta có thể
tự mình sinh lợi ích mà chẳng cần tới những thứ ấy vậy!
3 – Để giải tỏa khúc mắc trên, cần lƣu ý đến những gì
chúng tôi đã nói ở các chƣơng 15 và 16 của quyển II, trong
đó chúng tôi đã trả lời phần lớn cho điểm hoài nghi này. Tại
QUYỂN 3 391

các chƣơng ấy, chúng tôi đã nói rằng các ơn lành dào dạt nơi
linh hồn từ những nhận thức siêu nhiên phát xuất từ Thiên
Chúa vẫn đƣợc thực hiện cách thụ động ngay lúc những nhận
thức ấy đƣợc đề ra cho giác quan mà các quan năng không
cần phải hoạt động gì cả.
Do đó, lòng muốn không cần phải làm một động tác
nào để đón nhận chúng. Nếu linh hồn muốn hành động bằng
các quan năng của nó, với hành động thấp hèn tự nhiên của
nó, nó sẽ chẳng rút ra đƣợc lợi ích nào từ việc tập luyện của
nó mà chỉ ngăn cản công cuộc siêu nhiên Thiên Chúa đang
dùng những nhận thức ấy để thực hiện nơi linh hồn. Thiên
Chúa đã ban cho linh hồn những nhận thức tƣởng tƣợng ấy
cách thụ động, thì linh hồn cũng phải xử sự nơi những nhận
thức ấy cách thụ động, không can thiệp chút gì vào những
hành động bên trong hay bên ngoài của chúng.
Với thái độ ấy, linh hồn giữ vẹn đƣợc các tâm tình về
Thiên Chúa, không đánh mất chúng vì cách thức hoạt động
thấp hèn của nó. Đó cũng đúng là linh hồn không dập tắt Thần
khí; bởi nó chỉ dập tắt Thần khí khi nào nó muốn xử sự khác
với cách Thiên Chúa hƣớng dẫn. Nghĩa là trong khi Thiên
Chúa ban Thần khí cho linh hồn một cách thụ động nhƣ Ngài
vốn thực hiện nơi những nhận thức này, thì linh hồn lại muốn
xử sự nơi các nhận thức ấy một cách chủ động qua việc dùng
trí hiểu để làm hoặc ao ƣớc một chuyện gì đó nơi chúng.
Thật đây là điều rõ ràng: Bởi nếu lúc bấy giờ linh hồn
muốn hành động thì nhất thiết công việc của nó cũng
không thể vƣợt quá bình diện tự nhiên. Bởi tự nó, linh hồn
392 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

không thể nào làm hơn. Nó không tự di chuyển cũng


không thể tự di chuyển vào lãnh vực siêu nhiên, trừ phi
Thiên Chúa lay chuyển và đặt nó vào đó. Nhƣ thế, nếu linh
hồn muốn nỗ lực hành động theo chừng mực của nó, thì
công việc chủ động ấy sẽ ngăn cản công việc thụ động
Thiên Chúa đang thông ban cho nó tức là thần khí. Linh
hồn đã tự đặt mình vào công việc riêng của nó là thứ công
việc khác loại và thấp kém hơn công việc Thiên Chúa
thông ban cho nó; bởi công việc của Thiên Chúa mang tính
cách thụ động và siêu nhiên, còn công việc của linh hồn có
tính cách chủ động và tự nhiên. Thứ công việc tự nhiên
này sẽ dập tắt Thần khí.
4 – Rõ ràng là công việc của linh hồn bao giờ cũng thấp
kém hơn. Các quan năng của linh hồn chỉ có thể tự mình có
đƣợc cân nhắc và hành động trên một hình sắc, hình dáng
hay hình ảnh nào đó. Những thứ này chỉ là lớp vỏ và là tùy
thể bao bọc cái bản thể tâm linh.
Điều thuần túy tâm linh này chỉ chịu nên một với các
quan năng của linh hồn trong sự hiểu biết và tình yêu đích
thực với điều kiện hoạt động của các quan năng ấy ngƣng lại.
Hoạt động này không nhắm điều gì khác hơn là đƣợc nhận
lãnh nơi linh hồn chính bản thể của điều đƣợc hiểu biết và
yêu mến nơi những hình sắc ấy. Nhƣ thế, sự khác biệt giữa
hoạt động chủ ý (chủ động) và đón nhận thuận tình (thụ
động) chỉ là khác biệt giữa điều ngƣời ta đang cố thực hiện
và điều đã đƣợc thực hiện, giữa điều ngƣời ta đang gắng đạt
tới và điều đã đạt tới rồi.
QUYỂN 3 393

Từ đó, có thể suy ra rằng, nếu linh hồn muốn chủ


động vận dụng các quan năng để có đƣợc những nhận
thức siêu nhiên mà Thiên Chúa đã có sáng kiến ban cho
(và linh hồn chỉ thụ động đón nhận – ND) thì khác nào bỏ
đi điều đã đƣợc làm để quay về gắng sức làm lại chính
điều đó. Rồi linh hồn sẽ chẳng vui hƣởng đƣợc điều đã
đƣợc Chúa làm mà cũng chẳng làm nên trò trống gì với
các hoạt động của nó ngoài việc cản ngăn điều đã đƣợc
Chúa làm. Nhƣ chúng tôi đã nói, các quan năng ấy không
thể nào đạt nổi ơn thần khí Thiên Chúa đã ban cho linh
hồn mà không cần gì đến thao tác nào của chúng. Nhƣ thế
nếu linh hồn biến chúng thành một thứ vốn liếng thì sẽ là
trực tiếp dập tắt thần khí mà Thiên Chúa tuôn đổ qua
những nhận thức nói trên.
Vậy linh hồn phải buông bỏ những nhận thức ấy bằng
cách làm ngơ đừng đếm xỉa gì đến chúng. Lúc ấy Thiên
Chúa sẽ nâng linh hồn lên đến chỗ nó không sao đạt nổi và
cũng chẳng ngờ đến. Vì thế, một vị ngôn sứ đã nói: Tôi sẽ ra
đứng ở chòi canh, đứng gác trên tường lũy canh chừng xem
Người nói với tôi điều gì và đáp lại nỗi bất bình của tôi ra
sao! (Kb 2, 1). Nhƣ thể ông muốn nói: Tôi tỉnh thức canh
chừng các quan năng của tôi để không tiến bƣớc trong các
hoạt động của tôi, nhờ đó tôi có thể chiêm nghiệm đƣợc
những gì ngƣời ta nói cùng tôi, tức là hiểu và nếm cảm đƣợc
những gì đã thông ban cho tôi cách siêu nhiên.
5 – Những lời nói của Đức Lang Quân đã trƣng dẫn ở
trên cũng đƣợc hiểu về tình yêu chàng đòi hỏi Tân Nƣơng,
bởi tình yêu có phận vụ đồng hóa những kẻ yêu nhau nơi
394 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

những gì cốt yếu của họ. Vì thế chàng mới bảo nàng hãy đặt
chàng như chiếc ấn trên tim nàng (x. Dc 8,6), nơi mà mọi
mũi tên tình ái (tức là mọi hành vi và động lực của tình yêu)
nhắm tới. Nhƣ thế mọi mũi tên đều đạt tới Tình Quân vì
chàng là mục tiêu của chúng. Chàng muốn tất cả đều dành
cho chàng và rồi linh hồn đƣợc nên giống chàng nhờ những
hành vi và động lực của tình yêu cho tới khi đƣợc biến đổi
nên chàng. Và chàng bảo nàng cũng hãy đặt chàng như chiếc
ấn trên cánh tay nàng (x. Dc 8,6) bởi nơi cánh tay diễn ra
thao tác của tình yêu và chính nơi đó Đức Lang Quân tìm
đƣợc sự đỡ nâng và hoan lạc.
6 – Do đó, đối với mọi nhận thức từ trên ban xuống cho
linh hồn, dù thuộc tƣởng tƣợng hay thuộc loại khác, dù đó là
thị kiến, lời nói, tâm tình hay mạc khải, tất cả tóm lại đều chỉ
là văn từ và lớp vỏ (là cái dùng để ám chỉ, diễn tả, giúp
ngƣời ta hiểu) linh hồn không đƣợc chú tâm đến mà mà chỉ
nên chú trọng xem mình có đƣợc lòng yêu mến Chúa mà
những điều ấy gây ra trong linh hồn hay không. Phải chú
trọng đến các tâm tình theo cách này chứ không đƣợc chú
trọng đến thứ hƣơng vị hay sự ngọt ngào hay các hình dạng,
nghĩa là chỉ chú trọng đến các tâm tình yêu thƣơng chúng đã
làm phát sinh mà thôi.
Để làm mới lại thành quả ấy và nhằm thúc đẩy tâm hồn
thêm lòng yêu mến, thỉnh thoảng có thể hồi tƣởng đến một hình
ảnh hoặc một nhận thức đã làm phát sinh tình yêu. Mặc dù việc
nhớ lại không gây đƣợc hiệu quả mạnh mẽ nhƣ trong lần đầu
đƣợc thông ban nhƣng vẫn làm cho tình yêu nên mới mẻ và
vẫn nâng tâm trí lên với Thiên Chúa nhất là khi nhớ lại những
QUYỂN 3 395

hình dạng, hình ảnh hoặc tâm tình siêu nhiên vốn đã thƣờng
đƣợc khắc sâu vào linh hồn đến độ lƣu lại một thời gian lâu dài
trong đó, thậm chí một số điều không bao giờ bị xóa nhòa. Mỗi
lần linh hồn nhìn ngắm những điều đƣợc khắc ghi ấy, chúng
đều tạo nên những hiệu quả thần linh đầy yêu thƣơng, ngọt
ngào, chói sáng vv... ở những mức độ khác nhau. Đó chính là
mục đích, là lý do tại sao những điều nói trên đƣợc khắc sâu
vào linh hồn. Ai đƣợc Thiên Chúa ban cho điều ấy thì quả là đã
có đƣợc nơi mình cả một “mỏ” hồng ân.
7 – Những hình ảnh gây nên các hiệu quả nói trên
thƣờng đƣợc khắc ghi nơi linh hồn rất sâu đậm, khác hẳn
những hình sắc và hình ảnh khác đƣợc lƣu trữ trong óc
sáng tạo vẽ vời. Do đó khi muốn nhớ lại những thứ ấy, linh
hồn chẳng cần nhờ đến trí tƣởng tƣợng hay óc sáng tạo.
Linh hồn biết chúng đang có sẵn nơi mình, chẳng khác nào
hình ảnh lộ ra trong tấm gƣơng. Khi linh hồn có đƣợc
những hình ảnh ấy nơi mình cách minh nhiên, nó rất có thể
hồi tƣởng đến chúng để có đƣợc cái hiệu quả tình yêu đã
nói. Những hình dạng này không cản trở linh hồn nên một
(với Thiên Chúa) trong đức tin, miễn là linh hồn không ao
ƣớc đắm mình trong hình ảnh ấy nhƣng mau mắn buông bỏ
nó để chỉ tìm ơn ích của tình yêu. Bằng cách ấy, sự hồi
tƣởng sẽ có lợi cho linh hồn.
8 – Thật khó mà phân biệt đƣợc khi nào các hình ảnh này
đƣợc in vào linh hồn, khi nào đƣợc in vào óc sáng tạo vẽ vời.
Bởi lẽ những hình ảnh của óc sáng tạo vẽ vời cũng có mặt rất
thƣờng xuyên. Một số ngƣời thƣờng thấy những thị kiến hình
ảnh nơi trí tƣởng tƣợng và óc sáng tạo vẽ vời của họ nghiệm ra
396 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

rằng chúng rất thƣờng xuất hiện theo cùng một cách thức. Có
thể là do nơi họ khả năng tƣởng tƣợng quá mạnh, chỉ cần một ý
tƣởng nhỏ là lập tức một biểu tƣợng thông thƣờng liền xuất
hiện và thêu dệt ra nơi óc sáng tạo vẽ vời của họ, cũng có thể là
do ma quỷ gây ra, mà cũng có thể là do Thiên Chúa đƣa đến
mà không cần in chúng vào linh hồn một cách thực thụ.
Tuy nhiên, có thể dựa trên kết quả để phân biệt nguồn
gốc những hình ảnh nói trên. Khi chúng chỉ là những hình
ảnh tự nhiên hoặc do ma quỷ, thì dù có lặp đi lặp lại đến
mấy đi nữa, chúng vẫn không đem lại kết quả tốt nào cho
linh hồn, cũng không làm đổi mới tâm linh. Đó chỉ là một
hình ảnh cằn cỗi và vô ích. Đang khi đó, những hình ảnh
đến từ Thiên Chúa, hễ cứ nhớ đến là chúng liền đem lại kết
quả tốt nhƣ kết quả linh hồn nhận đƣợc lần đầu tiên. Còn
những hình ảnh đã in vào linh hồn một cách thực thụ thì,
mỗi khi ngƣời ta nhớ lại chúng, chúng luôn phát sinh một
kết quả tốt nào đó.
9 – Đối với những ngƣời đã có kinh nghiệm thì sẽ dễ
dàng phân biệt đƣợc hai loại hình ảnh ấy, bởi vì giữa
chúng có sự khác biệt rất rõ ràng. Tôi chỉ xin thêm rằng
các hình ảnh đƣợc in vào linh hồn cách thực thụ trong
khoảng thời gian lâu dài thì rất hiếm thấy. Tuy nhiên dù
chúng thuộc loại nào, tốt nhất là linh hồn chẳng nên ƣớc ao
lãnh hội bất cứ điều gì ngoại trừ lãnh hội về Thiên Chúa,
bằng đức tin và trong đức cậy.
Về điểm cuối trong lời phản bác, bảo rằng quả là kiêu
căng nếu dẹp bỏ hết những điều ấy khi chúng do Thiên Chúa
QUYỂN 3 397

mà đến. Tôi xin thƣa rằng đó mới chính là khiêm nhƣờng,


khôn ngoan, khi biết vận dụng những hình ảnh ấy theo cách
thức tốt nhất - nhƣ tôi đã nói - và để cho mình đƣợc hƣớng
dẫn theo nẻo đƣờng an toàn nhất.
398 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 14
Những nhận thức tâm linh nơi dạ nhớ *

Chương này bàn về những nhận thức tâm linh có thể lọt
vào dạ nhớ.
1 – Các nhận thức tâm linh đƣợc chúng tôi xếp vào loại
ba của những nhận thức thuộc dạ nhớ, chẳng phải vì chúng
thuộc giác quan thể chất của óc sáng tạo vẽ vời nhƣ những
nhận thức khác - bởi chúng không mang hình ảnh hay hình
sắc thể chất - nhƣng vì chúng cũng nằm dƣới ảnh hƣởng của
hồi niệm và ký ức tâm linh (dạ nhớ). Thật vậy, khi một điều
gì thuộc loại ấy đã lọt vào linh hồn thì lúc nào muốn nhớ
đến, linh hồn có thể hồi tƣởng lại. Đƣợc nhƣ thế, không phải
là vì sự nhận thức ấy giữ lại dấu vết hay hình ảnh nơi giác
quan thể chất (bởi lẽ, nhƣ đã nói, các giác quan thể chất
không có khả năng đối với các hình sắc tâm linh), nhƣng
chính là nhờ linh hồn nhớ lại điều ấy bằng trí hiểu và tâm
linh thông qua cái hình sắc vẫn còn in trong linh hồn (đây
cũng là cái hình sắc, nhận thức hoặc hình ảnh mang tính tâm
linh hay mô thức nhờ đó linh hồn hồi tƣởng lại) hoặc qua cái
hiệu quả nó tạo ra. Vì lẽ đó, tôi xếp những nhận thức này vào
số những nhận thức thuộc dạ nhớ mặc dù chúng không thuộc
về những nhận thức của óc sáng tạo vẽ vời.
2 – Những nhận thức ấy ra sao và linh hồn phải xử sự
nơi chúng cách nào để đạt đến sự nên một với Thiên Chúa,
chúng tôi đã trình bày đầy đủ ở quyển 2, chƣơng 24, tại đó
chúng tôi đã bàn về chúng nhƣ những nhận thức của trí hiểu.
QUYỂN 3 399

Xin xem lại chƣơng ấy vì ở đó chúng tôi đã phân biệt rõ hai


loại nhận thức tâm linh, một loại liên can đến Đấng Tạo Hóa,
một loại liên can tới những thực tại thụ tạo.
Giờ đây ta thử xem dạ nhớ phải xử sự thế nào để đạt tới
ơn nên một. Ở chƣơng trƣớc chúng tôi vừa bàn về những
nhận thức minh nhiên, những nhận thức liên can tới những
thực tại thụ tạo thuộc loại này. Khi những hình ảnh ấy đem
lại kết quả tốt, ta có thể hồi tƣởng đến chúng, chẳng phải vì
lƣu luyến muốn giữ chúng lại nhƣng là để giục lòng yêu mến
Thiên Chúa và thêm hiểu biết về Thiên Chúa. Còn nếu sự hồi
tƣởng chẳng đem lại kết quả tốt nào thì đừng bao giờ nên ao
ƣớc nhớ tới chúng làm gì.
Còn những nhận thức liên can đến những thực tại thuộc
về Thiên Chúa, tôi xin nói rằng ta nên hồi tƣởng đến chúng
nhiều hết sức, vì chúng sẽ tạo nên một hiệu quả rất lớn. Bởi
lẽ nhƣ trên kia đã nói, đây là những sự vuốt ve âu yếm và
những cảm nghiệm tâm linh khi đƣợc nên một với Thiên
Chúa, là đích điểm mà chúng tôi muốn đƣa linh hồn đạt tới.
Dạ nhớ đừng tìm hồi tƣởng đến những điều ấy qua một hình
sắc, hình ảnh hay hình dạng nào đã đƣợc in vào linh hồn, bởi
lẽ những sự vuốt ve âu yếm và cảm nghiệm nên một với
Đấng Tạo Hóa nhƣ thế không liên quan gì đến chúng. Hãy
hồi tƣởng qua cái hiệu quả chúng tạo ra trong linh hồn, nhƣ
ánh sáng, tình yêu, niềm hoan lạc và sự đổi mới tâm linh. Cứ
mỗi lần linh hồn hồi tƣởng nhƣ thế, một điều gì đó trong hiệu
quả ấy sẽ lại trở nên mới mẻ.
400 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 15
Qui tắc tổng quát cho dạ nhớ *

Quy tắc ứng xử tổng quát cho người sống theo tâm linh
về dạ nhớ.
Để kết thúc phần bàn về dạ nhớ, thiết tƣởng nên vắn
gọn nêu ra ở đây cho ngƣời sống theo tâm linh biết cách ứng
xử tổng quát để đạt tới sự nên một với Thiên Chúa theo quan
năng này. Đành rằng qua những gì đã nói, họ đã có thể nắm
đƣợc điều này nhƣng việc tóm tắt những gì đã nói sẽ giúp họ
hiểu rõ vấn đề hơn.
Xin hãy lƣu ý rằng cao vọng của chúng tôi là giúp các
linh hồn đƣợc nên một với Thiên Chúa từ nơi dạ nhớ và qua
đức trông cậy. Điều ngƣời ta hy vọng đợi mong là điều ngƣời
ta chƣa có. Càng trần trụi thiếu thốn tất cả những gì không
phải là Thiên Chúa, ngƣời ta càng có khả năng và tƣ cách để
trông chờ, hy vọng, càng có đức trông cậy. Ngƣợc lại, càng
có đƣợc nhiều, ngƣời ta càng mất khả năng và thiên khiếu để
mong chờ, càng ít đức trông cậy. Cho nên linh hồn càng loại
trừ khỏi dạ nhớ những hình sắc và những điều tiếc nhớ xa lạ
với Thiên Chúa, càng nhận chìm dạ nhớ vào Thiên Chúa.
Quan năng này càng trống rỗng càng hy vọng đƣợc Thiên
Chúa lấp đầy. Nhƣ vậy, để sống trong đức trông cậy vẹn toàn
và thuần khiết nơi Thiên Chúa, điều ta phải làm là, bất cứ khi
nào thấy có những nhận thức, hình sắc và hình ảnh cụ thể
xuất hiện thì không đƣợc dừng lại đó nhƣng hãy trút sạch hết
khỏi dạ nhớ và lập tức hƣớng linh hồn về Thiên Chúa với
QUYỂN 3 401

lòng yêu mến. Ta sẽ không còn tƣởng nghĩ hoặc ngó ngàng
gì tới những chuyện ấy ngoài cái tối thiểu cần thiết để hiểu
và làm những gì mình thực sự có nghĩa vụ phải làm. Phải
tránh đừng lƣu luyến hoặc thích thú gì đối với những chuyện
ấy, để chúng khỏi làm cho linh hồn bị dính bén. Nhƣ thế,
ngƣời ta không bị buộc phải thôi tƣởng nghĩ hoặc nhớ đến
những điều họ phải làm, phải biết, bởi lẽ một khi ngƣời ta
không còn tình cảm lƣu luyến hoặc muốn chiếm hữu, thì
những điều ấy chẳng còn gây đƣợc thiệt hại gì cho họ.
Những châm ngôn ghi trên hình vẽ Ngọn núi ở đầu sách,
đƣợc nhắc lại nơi chƣơng 13 của quyển thứ nhất, có thể giúp
ta rất nhiều khi thực tập điểm này.
2 – Tuy nhiên xin lƣu ý là không phải vì thế mà chúng
tôi dung hợp, hoặc định dung hợp học thuyết chúng tôi với
cái lý thuyết ôn dịch của một số ngƣời, do bị quỷ kiêu ngạo
và ghen tị thuyết phục, đã muốn ngăn cản không cho các tín
hữu sử dụng cũng nhƣ tôn kính ảnh tƣợng của Chúa và các
thánh, mặc dù đó là việc thánh thiện, cần thiết và cũng đã
quen từ xƣa nay. Học thuyết chúng tôi rất khác biệt với thứ
lý thuyết đó. Khác với họ, chúng tôi không cho rằng không
đƣợc sử dụng và tôn kính ảnh tƣợng. Chúng tôi chỉ muốn
giúp ngƣời ta hiểu đƣợc sự khác biệt giữa các ảnh tƣợng ấy
với Thiên Chúa, hiểu rằng phải vƣợt lên những nét khắc họa,
đừng để chúng ngăn cản mình đạt tới đối tƣợng sống động và
chỉ quan tâm tới chúng trong mức độ chúng giúp ta đạt tới
đối tƣợng thiêng liêng ấy.
Bởi lẽ tựa nhƣ phƣơng thế là tốt và cần thiết để đạt mục
đích, ảnh tƣợng cũng giúp chúng ta tƣởng nhớ đến Chúa và
402 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

các thánh. Nhƣng một khi bám víu và dừng lại ở phƣơng thế
nhiều hơn mức cần thiết thì phƣơng thế sẽ gây cản trở và làm
trệch đƣờng, nhƣ vẫn thƣờng thấy trong bất cứ chuyện nào
khác. Song đối với vấn đề tôi đang nhấn mạnh ở đây sự cản
trở này còn trầm trọng hơn bởi nó liên quan tới các thị kiến
và hình ảnh siêu nhiên là những thứ thƣờng gây ra nhiều
chuyện lừa phỉnh và hiểm nguy.
Bởi lẽ không thể có chuyện lừa bịp hay nguy hiểm
trong việc tƣởng nhớ, tôn kính hoặc quý chuộng các ảnh
tƣợng mà Hội thánh Công giáo đề ra cho chúng ta xét theo lẽ
tự nhiên, vì nơi các ảnh tƣợng ấy ngƣời ta chỉ quý chuộng cái
thực tại mà chúng diễn tả. Việc tƣởng nhớ các ảnh tƣợng hẳn
sẽ sinh ích cho linh hồn vì nó gắn liền với tình yêu đối với
thực tại mà các ảnh tƣợng ấy diễn tả. Miễn là linh hồn không
lƣu tâm đến ảnh tƣợng vì ảnh tƣợng, chúng sẽ giúp cho linh
hồn nên một với Thiên Chúa. Từ bức họa bức hình, linh hồn
sẽ bay lên tới vị Thiên Chúa sống động, lãng quên hết mọi
thụ tạo và những thứ thuộc về thụ tạo.
QUYỂN 3 403

Chương 16
Thanh tẩy lòng muốn *

Bắt đầu bàn về đêm tối của lòng muốn. Phân loại các
nghiêng chiều của lòng muốn.
1 – Thanh tẩy trí hiểu để dựng xây đức tin, thanh tẩy dạ
nhớ để vun trồng đức cậy cũng chỉ là luống công nếu chúng
ta không thanh tẩy luôn lòng muốn vốn liên quan tới nhân
đức thứ ba là đức mến. Nhờ đức mến, những việc đƣợc làm
trong đức tin trở nên sống động và đầy giá trị, bằng không,
các việc ấy chẳng có giá trị gì. Nhƣ thánh Giacôbê có viết:
Không có các việc làm của đức mến, đức tin sẽ chỉ là đức tin
chết (x. 2,20).
Để bàn về đêm và sự trơ trụi chủ động của lòng muốn
nhằm đào luyện và kiện toàn nó về lòng yêu mến Thiên
Chúa, chẳng điển chứng nào thích hợp hơn đoạn Thánh Kinh
ở sách Đệ Nhị Luật nơi Môsê truyền dạy: Ngươi phải yêu
mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết
sức lực của ngươi (Đnl 6,5). Lời này hàm chứa tất cả những
gì ngƣời sống theo tâm linh phải làm và những gì tôi muốn
chỉ bảo họ ở đây, ngõ hầu đƣợc thực sự đến gần Thiên Chúa
trong sự hiệp nhất cùng một lòng muốn với Ngài nhờ vào
đức mến. Lệnh truyền này truyền cho ta phải sử dụng mọi
quan năng, mê thích, hoạt động cũng nhƣ những tình cảm
linh hồn dành cho Thiên Chúa tới mức tất cả mọi khả năng
và sức mạnh của linh hồn đều dồn hết vào đó, nhƣ lời vua
Đavít: Lạy Thiên Chúa là sức mạnh của con, con ngước mắt
nhìn Ngài (Tv 58,10).
404 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

2 – Sức mạnh của linh hồn nằm nơi các quan năng, đam
mê và mê thích của nó. Tất cả đều do lòng muốn điều động.
Khi hƣớng các quan năng, đam mê và mê thích này về Thiên
Chúa và điều khiển chúng xa tránh mọi thứ không phải là
Thiên Chúa, lòng muốn duy trì đƣợc sức mạnh của linh hồn
dành cho Thiên Chúa, do đó, đạt tới chỗ yêu mến Thiên
Chúa với tất cả sức lực của mình.
Để linh hồn có thể làm đƣợc chuyện này, xin đƣợc nói
về sự thanh tẩy lòng muốn khỏi tất cả mọi quyến luyến lệch
lạc của nó, vốn làm phát sinh các mê thích, cảm tình và hoạt
động lệch lạc khiến linh hồn không giữ đƣợc toàn vẹn sức
lực mình cho Thiên Chúa.
Các nghiêng chiều hay xúc cảm này gồm bốn thứ: Vui
thỏa, hy vọng, đớn đau và sợ hãi. Khi ta đặt những xúc cảm
ấy dƣới tác động của lý trí và qui hƣớng chúng về Thiên
Chúa tới mức linh hồn chỉ vui thỏa hy vọng hay sầu buồn đối
với những gì có thể góp phần vào danh dự, vinh quang Thiên
Chúa, không hy vọng nơi điều gì khác, chỉ đau buồn về điều
xúc phạm đến Thiên Chúa và chỉ biết kính sợ một mình
Thiên Chúa, chắc chắn các xúc cảm ấy sẽ đƣợc định hƣớng
và giữ đƣợc sức mạnh và khả năng của linh hồn cho Thiên
Chúa. Vì linh hồn càng vui thỏa về điều gì khác ngoài Thiên
Chúa thì sự vui thỏa nó dành cho Thiên Chúa càng yếu
nhƣợc, càng đặt hy vọng của nó nơi điều gì khác thì càng ít
cậy trông vào Thiên Chúa, về các điểm khác cũng thế...
3 - Để triển khai học thuyết này, chúng tôi sẽ bàn riêng
về từng điểm trong bốn xúc cảm và mê thích của lòng muốn.
QUYỂN 3 405

Trên đƣờng tiến đến nên một với Thiên Chúa, ta cần phải
thanh tẩy lòng muốn khỏi các quyến luyến và mê thích của nó,
để nhờ đó, từ lòng muốn nhân loại thấp hèn, nó trở thành lòng
muốn thần linh, nên một với lòng muốn của Thiên Chúa.
4 - Bốn loại xúc cảm này càng thống trị linh hồn và
giao chiến ở đó, lòng muốn sẽ càng bớt tập trung vào Thiên
Chúa và càng lệ thuộc vào loài thụ tạo. Lúc ấy linh hồn dễ
rơi vào chỗ vui thỏa về những chuyện chẳng đáng mừng, hy
vọng những thứ chẳng mang lại lợi ích gì, sầu khổ vì những
chuyện lẽ ra phải vui thỏa và hãi sợ cái không đáng sợ hãi.
5 - Những quyến luyến ấy nơi linh hồn nếu không đƣợc
kìm hãm sẽ nảy sinh đủ mọi nết xấu và bất toàn. Còn nếu
chúng đi vào trật tự và hợp lý, mọi nhân đức cũng sẽ nhờ đó
phát sinh.
Nên biết rằng khi một trong các xúc cảm ấy đƣợc đƣa
vào trật tự và hòa hợp với lý trí, các xúc cảm còn lại cũng
sẽ rập theo nhƣ vậy. Cả bốn xúc cảm này của linh hồn kết
nghĩa đệ huynh với nhau rất chặt chẽ đến nỗi một trong
bốn thực sự tiến tới đâu thì hầu nhƣ ba loại kia cũng tiến
tới đó, và nếu một trong bốn thực sự thoái lui, hầu nhƣ ba
loại kia cũng thoái lui theo. Nếu lòng muốn vui thỏa về
một điều gì thì cùng lúc và cùng tỉ lệ, nó hẳn phải hy vọng
điều đó, và hầu nhƣ cũng kèm theo nỗi đau lẫn niềm sợ hãi
về điều ấy, còn nếu lòng muốn mất đi sự thú vị đối với
chuyện đó thì cũng sẽ mất đi nỗi sợ, niềm đau và hy vọng
về chuyện đó.
406 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Lòng muốn cùng với bốn xúc cảm của nó đƣợc biểu thị
qua hình ảnh bốn con vật mà Êzêkiel đã nhìn thấy. Chúng liên
kết trong cùng một thân xác, mỗi con vật có bốn khuôn mặt.
Cánh con nọ gắn với cánh con kia; mỗi con đều bƣớc thẳng tới
trƣớc và khi tiến tới, chúng không ngoái lại đàng sau (x. Ed
1,8-9). Nhƣ thế, các cánh lông của một xúc cảm đƣợc gắn với
cánh lông của các xúc cảm kia đến nỗi, một xúc cảm - tức cái
hoạt động của nó - thực sự hƣớng mặt về đâu thì hầu nhƣ nhất
thiết các xúc cảm kia cũng bƣớc theo, khi một xúc cảm bị hạ
thấp, nhƣ đã nói trên, các xúc cảm còn lại cũng bị hạ thấp theo
và khi xúc cảm ấy đƣợc nâng lên, các xúc cảm kia cũng đƣợc
nâng lên theo. Do đó niềm hy vọng của bạn ở đâu thì sự vui
thỏa, nỗi sợ và đớn đau của bạn sẽ đi đến đó còn nếu hy vọng
lui bƣớc thì những thứ kia cũng lui theo. Trƣờng hợp này cũng
đúng cho ba loại xúc cảm vui, sợ và đớn đau.
6 – Phải lƣu ý điều này. Một trong những xúc cảm trên
đi tới đâu thì toàn thể linh hồn, lòng muốn và các quan năng
khác cũng đi theo tới đó. Tất cả các quan năng nhƣ cùng bị
cầm tù nơi xúc cảm ấy và ba xúc cảm còn lại cùng liên kết
với xúc cảm ấy để dùng xích xiềng của chúng khiến linh hồn
khổ đau và ngăn cản không cho linh hồn bay đến chốn tự do
và an nghỉ trong sự chiêm niệm và nên một trong êm ái. Bởi
thế Boece đã nói rằng: Nếu bạn muốn hiểu được chân lý một
cách tỏ tường thì hãy khai trừ khỏi bạn những vui thỏa, hy
vọng, sợ hãi và đớn đau (De consolatione). Thật vậy, bao lâu
những xúc cảm ấy thống trị linh hồn chúng sẽ cƣớp mất sự
thƣ thái và bình an là những thứ cần có để giúp linh hồn đạt
đƣợc sự khôn ngoan, tự nhiên lẫn siêu nhiên.
QUYỂN 3 407

Chương 17
Sự vui thỏa *

Ở đây bắt đầu bàn về sự nghiêng chiều thứ nhất của


lòng muốn là sự vui thỏa. Sự vui thỏa là gì và phân loại
những điều có thể khiến cho lòng muốn được vui thỏa.
1 – Trong các xúc cảm của linh hồn và nghiêng chiều của
lòng muốn trƣớc tiên phải kể đến sự vui thỏa. Sự vui thỏa nói
đây chính là sự thích thú của lòng muốn đối với một điều gì
nào đó đƣợc mến chuộng và phù hợp với nó. Lòng muốn chỉ
vui thỏa nơi những gì nó quí chuộng và khiến nó hài lòng.
Đây là thứ vui thỏa mang tính chủ động, trong đó linh
hồn hiểu đƣợc cụ thể rõ ràng về điều nó vui thích, đồng thời
nó cũng đƣợc tự do có thể vui hƣởng hoặc không. Cũng có
thứ vui thỏa khác mang tính thụ động, trong đó lòng muốn
vui thích mà chẳng hề hiểu đƣợc rõ ràng cụ thể điều mình
vui thích – trừ một vài trƣờng hợp – và cũng không đƣợc tự
do chọn cảm nhận hay không cảm nhận. Chúng tôi sẽ bàn
đến thứ vui thỏa thụ động này sau. Còn bây giờ xin bàn đến
thứ vui thỏa mang tính chủ động và chủ ý, phát sinh từ
những điều cụ thể rõ ràng.
2 – Sự vui thỏa có thể phát sinh từ sáu điều tốt về các
mặt: trần tục, tự nhiên, khả giác, luân lý, siêu nhiên và tâm
linh. Chúng ta sẽ lần lƣợt nói đến từng loại, điều chỉnh lòng
muốn cho phù hợp với lý trí để một khi không còn bị vƣớng
bận những thứ ấy, lòng muốn sẽ hƣớng hết năng lực sự vui
thỏa của nó vào Thiên Chúa.
408 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chúng ta cần nêu một nguyên tắc làm nền móng, nhƣ
một cây gậy để luôn dựa vào. Cần nắm vững nguyên tắc này
vì đây là ánh sáng dẫn đƣờng, để am hiểu đƣợc học thuyết và
để hƣớng mọi ơn lành ấy vào sự vui thỏa nơi Thiên Chúa.
Nguyên tắc này nhƣ sau: Lòng muốn chỉ đƣợc vui thỏa nơi
những gì đem lại danh dự và vinh quang cho Thiên Chúa; và
danh dự lớn lao nhất ta có thể dâng lên là phụng sự Thiên
Chúa theo sự hoàn thiện mà Tin mừng đòi hỏi. Ngoài điều ấy
ra, mọi thứ đều là vô giá trị và chẳng mang lại lợi ích gì cho
con ngƣời.
QUYỂN 3 409

Chương 18
Những điều tốt trần tục *

Chương này bàn về sự vui thỏa với những điều tốt trần
tục. Ta phải qui hướng nó về Thiên Chúa như thế nào.
1 – Loại điều tốt đầu tiên cần bàn đến là những điều tốt
thuộc trần tục. Chúng tôi muốn ám chỉ đến sự giàu có, địa vị,
chức vụ và các thứ tham vọng khác, rồi con cái, bố mẹ, bà
con, cƣới hỏi vv… tất cả những thứ này đều khiến lòng
muốn có thể vui thỏa.
Quả là hão huyền khi ngƣời ta đặt sự vui thỏa nơi của
cải, chức tƣớc, địa vị, chức vụ và những thứ khác tƣơng tự,
là những thứ vốn thƣờng gắn liền với tham vọng ngƣời đời.
Nếu có ai nhờ giàu hơn mà phụng sự Thiên Chúa tốt hơn thì
nên vui; nhƣng thƣờng thì ngƣợc lại, của cải là căn nguyên
khiến ta xúc phạm Thiên Chúa, theo nhƣ lời dạy của nhà
hiền triết: Hỡi con, nếu con giàu có, con sẽ không tránh khỏi
tội (Hc 11,10). Tự bản chất của cải trần tục không nhất thiết
khiến ta phạm tội nhƣng, vì yếu đuối, lòng ta vẫn thƣờng
quyến luyến chúng và lìa bỏ Thiên Chúa – và lìa bỏ Thiên
Chúa tức là phạm tội rồi – cho nên nhà hiền triết mới nói
câu: Con sẽ không tránh khỏi tội.
Trong Tin Mừng, Chúa gọi sự giàu có của cải là những
gai góc (Mt 13,22; Lc 8,14) nhằm giúp ta hiểu rằng ai chủ ý
mê mẩn với của cải thì sẽ bị chấn thƣơng vì tội lỗi. Lời cảm
thán của Chúa nơi Tin Mừng Luca quả là đáng sợ: Người
giàu có khó vào được nước Trời (Lc 18,24) (những ngƣời
410 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

giàu có nói đây tức là những ngƣời đặt sự vui thỏa nơi của
cải). Lời ấy cho ta hiểu rằng chẳng nên vui thỏa vì sự giàu có
bởi chúng khiến ta rơi vào nguy cơ hết sức lớn. Để giúp ta
tránh đƣợc nguy cơ này, vua Đavít cũng có nói: Nếu con
giàu có dư dật, thì đừng đặt tâm hồn con vào đó (Tv 61,11).
2 – Trƣớc một sự thật hiển nhiên nhƣ thế, chẳng cần
chồng chất thêm những chứng cớ trƣng dẫn từ Thánh
Kinh. Để trình bày những tai họa do của cải mang đến chỉ
cần nhắc lại những gì vua Salômôn đã nêu lên trong sách
Giảng viên cũng đủ. Vốn rất giàu có và khôn ngoan, vua
Salômôn biết rõ điều này, nên đã nói: Sau khi nhìn thấy
mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt trời, tôi nhận ra:
Tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát (Gv
1,14; x. 2,17; 2,16). Và người thích tiền bạc có bao nhiêu
cũng không lấy làm đủ; kẻ bo bo giữ của chẳng thu được
lợi lộc gì (Gv 5,9) và người giữ của lại chuốc họa vào thân
(Gv 5,12). Trong Tin Mừng, Chúa có kể chuyện ngƣời nọ
đang khi thỏa chí về hoa lợi tích lũy trong nhiều năm thì
nghe thấy tiếng phán từ trời cao: Đồ ngốc! Nội đêm nay,
người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm
sẵn đó sẽ về tay ai? (Lc 12,20).
Cuối cùng, vua Đavít cũng chỉ dạy chúng ta điều ấy khi
bảo: Đừng sợ chi khi có kẻ phát tài, hoặc cửa nhà tăng thêm
vẻ phong lưu, vì khi chết, nó đâu mang được cả, kiếp vinh
hoa chẳng theo xuống mộ phần (Tv 48/49,17-18). Đavít giúp
ta hiểu rằng nên thƣơng hại hơn là ghen tị với ngƣời láng
giềng giàu có của ta.
QUYỂN 3 411

3 – Nhƣ thế, ngƣời ta chẳng nên vui thỏa vì mình có


của hoặc vì anh em mình giàu có, nếu nhƣ của cải ấy không
giúp mình phụng sự Thiên Chúa. Nếu muốn biết có nên vui
thỏa về một chuyện gì đó (chẳng hạn về của cải) hay chăng thì
phải hỏi xem chúng có đƣợc dùng vào việc phụng sự Thiên
Chúa chăng, bằng không thì sẽ chẳng mang lại lợi lộc gì.
Về các tƣớc vị, địa vị và chức vụ cũng thế… Nếu nhƣ
chúng không giúp ta phục vụ Thiên Chúa nhiều hơn và tiến
tới cuộc sống vĩnh cửu vững chắc hơn, thì vui thỏa vì chúng
quả là hão huyền. Nếu ta không thể biết rõ những thứ ấy có
giúp ta phục vụ Thiên Chúa nhiều hơn chăng, mà cứ nhất
quyết vui thỏa vì chúng thì sự vui thỏa ấy quả là không hợp
lý. Nhƣ lời Chúa đã phán: Được lợi cả thế gian mà mất linh
hồn nào được ích gì! (Mt 16,26). Vậy nếu có vui thỏa với
những thứ ấy thì cũng chỉ vui thỏa nơi những gì giúp ta
phụng sự Thiên Chúa nhiều hơn mà thôi.
4 – Về con cái cũng vậy, không nên vui thỏa chỉ vì
đông con, vì chúng giàu có, lắm tài năng, duyên dáng tự
nhiên hay nhiều may mắn mà chỉ nên vui thỏa vì đám con ấy
biết phụng sự Thiên Chúa. Sự đẹp trai, giàu có, dòng dõi thế
phiệt nào có giúp gì cho Absalom, con vua Đavít, một khi y
không biết phụng sự Thiên Chúa (2Sm 14,25). Nhƣ thế vui
thỏa về những điều ấy quả là hão huyền.
Vì lẽ đó, ƣớc ao con cái cũng là chuyện hão huyền. Một
số ngƣời, vì mong muốn con cái, mà làm náo loạn cả thế giới
lên. Họ đâu biết đƣợc liệu đám con ấy có tốt lành và biết lo
phụng sự Thiên Chúa chăng, hay rồi niềm hạnh phúc đầy
412 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mong đợi của họ sẽ chỉ biến thành đau đớn, sự thƣ thái ủi an
thành đau khổ muộn phiền, danh dự thành tủi nhục, chỉ vì
cũng nhƣ nhiều ngƣời khác, chúng còn xúc phạm đến Thiên
Chúa nặng nề hơn! Chúa Kitô đã nói về những ngƣời này
nhƣ sau: Họ rong ruổi khắp cùng biển cả, đất liền để kiếm
thêm con cháu rồi biến chúng thành những đứa con hư hỏng
và tệ hơn họ gấp đôi (x. Mt 23,15).
5 – Do đó, dù mọi chuyện đều mỉm cƣời với ta và mọi
chuyện đều thành công mỹ mãn, ta vẫn phải e ngại hơn là vui
thỏa, bởi những chuyện ấy thƣờng là dịp, là nguy cơ khiến ta
quên Thiên Chúa và xúc phạm đến Ngài. Nơi sách Giảng
viên, vua Salômôn đã tự nhủ mình hãy cẩn trọng đối với điều
ấy: Cười là điên rồ. Vui là vô tích sự (Gv 2,2). Ý ông muốn
nói: Dù mọi chuyện có cƣời đón tôi, tôi vẫn cho rằng vui
thỏa vì chúng là sai lầm và điên dại. Bởi lẽ thật rất sai lầm và
điên dại khi tìm vui thỏa nơi những thứ khiến ta thỏa mãn vui
cƣời nhƣng lại không biết chắc nó có đem lại cho ta điều tốt
vĩnh cửu nào hay không. Nhà hiền triết từng nói: Dạ người
khôn ở nơi tang tóc, lòng kẻ dại ở chốn vui chơi (Gv 7,4).
Quả thật sự hỉ hoan khiến lòng thành mù tối và không biết
xét định và cân nhắc. Còn những chuyện buồn rầu giúp ta
mở mắt nhìn ra cái lợi cái hại nơi đó. Bởi vậy cũng chính
hiền giả ấy còn nói: Phiền muộn thì tốt hơn vui cười (Gv
7,4), và Đi đám tang thì tốt hơn đi đám tiệc (Gv 7,2) – bởi vì
ở nơi chỗ tang chế, ngƣời ta thấy đƣợc điểm kết thúc của mọi
người, người còn sống phải để tâm suy nghĩ (Gv 7,3).
6 – Vui thỏa vì có chồng thế này, vợ thế nọ mà chẳng
rõ mình có phụng sự Thiên Chúa tốt hơn trong đời sống hôn
QUYỂN 3 413

nhân không thì cũng là một thứ hão huyền. Hôn nhân cũng
khiến ngƣời trong cuộc bị chi phối, nhƣ lời thánh Phaolô nói,
nó khiến vợ chồng chỉ biết lo cho nhau nên không còn dành
đƣợc trọn cõi lòng cho Thiên Chúa (x. 1Cr 7,33-34). Vì vậy
Ngài bảo: Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng
lo kiếm vợ (1Cr 7,27). Còn nếu đã có vợ thì hãy liệu sao cho
lòng đƣợc rảnh rang nhƣ thể không có vợ. Điều này cũng
hợp với những lời ngài dạy chúng ta khi bàn về của cải trần
tục: Tôi xin nói với anh em điều này: Thời gian chẳng còn
bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không
có;ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như
chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;
kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.
Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi (1Cr 7,29-31).
Nhƣ thế, chẳng nên tìm vui thỏa nơi điều gì khác ngoài
việc phụng sự Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hão huyền và
vô ích, vui thỏa mà không hƣớng về Thiên Chúa thì chẳng
thể sinh lợi ích gì cho linh hồn.
414 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 19
Của cải trần tục

Chương này bàn về những thiệt hại linh hồn có thể gặp
phải khi đặt sự vui thỏa nơi của cải trần tục.
1 – Hẳn chúng tôi sẽ không đủ giấy mực lẫn thời gian
để suy diễn những tệ hại linh hồn phải chuốc lấy khi để lòng
muốn của mình nghiêng chiều theo của cải trần tục. Những
chuyện vụn vặt lúc đầu có thể dẫn tới những tai họa khủng
khiếp và hủy hoại những ơn lành lớn lao, khác nào từ một tia
lửa không chịu dập tắt có thể làm phát sinh nhiều đám cháy
lớn thiêu hủy cả thế giới.
Tất cả tệ hại ấy đều bắt nguồn từ một sự mất mát hệ
trọng mà sự vui thỏa nơi của cải trần tục gây ra: đó là sự
xa lìa Thiên Chúa. Khi linh hồn đến với Thiên Chúa nhờ
lòng muốn biết nghiêng chiều về Ngài, thì từ đó sẽ phát
sinh ra mọi ơn lành. Còn khi linh hồn đến gần Thiên Chúa
với sự nghiêng chiều của lòng muốn thì nhờ đó tất cả mọi
điều tốt sẽ đến với linh hồn. Cũng thế, khi linh hồn xa rời
Thiên Chúa vì quyến luyến thụ tạo, thì mọi khổ đau và
thiệt hại sẽ đè nặng linh hồn tùy theo mức độ vui thỏa và
sự nghiêng chiều đang gắn chặt nó với loài thụ tạo và đang
khiến nó xa lìa Thiên Chúa. Linh hồn bị tác hại nhiều hay
ít, về tầm vóc cũng nhƣ cƣờng độ, là tùy theo họ xa lìa
Thiên Chúa tới mức nào.
2 – Thứ tệ hại gây mất mát này làm phát sinh những
những tệ hại khác, mang tính tƣớc đoạt hoặc phá rối. Nó gồm
QUYỂN 3 415

bốn mức độ, mức nọ tệ hại hơn mức kia. Những ai đã mắc
phải mức thứ tƣ, sẽ hứng chịu đủ mọi tệ hại và xấu xa mà
chúng ta có thể kể ra đƣợc. Môsê đã ghi lại kỹ càng bốn mức
độ này nơi sách Đệ Nhị Luật qua những lời sau: Kẻ ta yêu
mến béo phì và hất chân đá hậu. Nó mập, béo và phát phì ra.
Nó đã bỏ Thiên Chúa, Đấng tạo ra nó và lìa xa Thiên Chúa,
Núi Đá độ trì nó (x. Đnl 32,15).
3 – Linh hồn vốn từng đƣợc yêu dấu giờ đây đâm ra
béo phì, tức là dìm mình vui thỏa với loài thụ tạo. Từ đây
nẩy sinh mức độ tệ hại thứ nhất tức là linh hồn bị thụt lùi.
Tâm trí thành đờ đẫn không còn hƣớng về Thiên Chúa. Sự
đờ đẫn làm mờ tối hết các ơn Thiên Chúa ban khác nào áng
mây che tối khí trời, cản ánh sáng mặt trời soi chiếu.
Thật vậy, một khi đặt sự vui thỏa vào một thứ gì đó và
buông thả cho xúc cảm chạy theo những chuyện phù phiếm,
ngƣời sống theo tâm linh sẽ bị tối tăm về phíaThiên Chúa, trí
phán đoán vốn nhạy bén sẽ bị lu mờ. Đó là điều Chúa Thánh
Thần đã dạy nơi sách Khôn Ngoan: Vì sức mê hoặc của sự ác
làm lu mờ sự thiện, và dục vọng quay cuồng biến đổi tâm hồn
chất phác (Kn 4,12). Qua đó Chúa Thánh Thần muốn ta hiểu
rằng ngay cả trƣớc khi trí hiểu kịp manh nha một chút ác ý, chỉ
nguyên sự thèm muốn và vui thỏa về những thứ phù phiếm nói
trên đủ gây cho linh hồn mức độ tệ hại đầu tiên này, khiến tinh
thần thành đần độn và trí phán đoán thành mù tối không còn
hiểu đúng sự thật và xét định cho đúng đƣợc mọi sự.
4 – Bao lâu ta còn nhƣợng bộ đôi chút cho dục vọng
hoặc còn tìm vui thỏa nơi các sự vật trần tục thì sự thánh
416 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

thiện và phán đoán đúng mà ta có đƣợc vẫn chƣa đủ để giữ ta


khỏi rơi vào mối tệ hại này. Bởi thế, qua ông Môsê, Thiên
Chúa dạy: Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ
làm cho những kẻ sáng mắt hóa ra đui mù và làm hỏng việc
của những người công chính (Xh 23,8).
Lời khuyên ấy dành riêng cho những ngƣời sắp làm
thẩm phán vì họ cần phải có óc phán đoán sáng suốt và nhạy
bén. Họ sẽ không giữ đƣợc nhƣ thế nếu lòng họ còn ham hố
và thích nhận quà cáp.
Do đó, Thiên Chúa đã truyền cho Môsê phải giao trách
nhiệm thẩm phán cho những ngƣời biết ghê sợ tính tham lam
hà tiện để phán đoán của họ không bị hƣ hỏng do tìm no thỏa
các đam mê. (x. Xh 18,21-22).
Không những Thiên Chúa bảo các thẩm phán đừng ham
muốn mà còn bảo họ phải ghê sợ tính tham lam hà tiện. Để
hoàn toàn thoát khỏi nghiêng chiều về điều gì đó thì phải
ghét bỏ điều ấy. Phải đấu tranh với một nghiêng chiều bằng
điều ngƣợc lại. Lý do khiến Samuel luôn là một vị thẩm phán
rất công minh và sáng suốt, nhƣ ông xác nhận nơi sách
Samuel quyển I (1Sm 12,3), là vì ông chẳng hề nhận quà cáp
của ai.
5 – Mức độ thứ hai của tệ hại gây mất mát đến từ mức
độ thứ nhất và đƣợc biểu thị bằng phần tiếp theo của câu
trích dẫn trên kia: Nó mập, béo và phát phì ra (Đnl 32,15).
Nghĩa là sự ham muốn các của cải trần tục sẽ mặc sức lớn
mạnh. Lòng muốn chẳng còn dè giữ cũng chẳng còn phải vất
QUYỂN 3 417

vả lo tìm vui thỏa hay hƣởng thụ các của cải thụ tạo. Nó tự
buông thả mình cho vui thỏa. Linh hồn thành ra béo mập và
phát phì với những vui thỏa và mê thích ấy đƣa đến và nỗi
thèm khát các loài thụ tạo sẽ càng khiến lòng muốn phình ra
nhƣ túi tham không đáy.
Điều ấy kéo theo nhiều tệ hại nghiêm trọng. Linh hồn xa
lìa Thiên Chúa và những việc tập luyện thánh thiện, chẳng còn
hứng thú gì với những chuyện ấy vì đang mải nếm hƣởng
những chuyện khác và đang buông mình cho đủ thứ chuyện bất
toàn, phù phiếm và những sự vui thỏa, thích thú hão huyền.
6 – Khi mức độ hai đạt cực điểm, ngƣời ta sẽ bỏ hết
những việc thao luyện tâm linh họ đã từng miệt mài thực tập,
để rồi hƣớng hết tâm trí và sự ham hố vào của cải phàm tục.
Những ngƣời rơi vào mức độ này óc phán đoán và trí
hiểu bị mù tối không nhận biết đƣợc sự thật và đức công bình
nhƣ những ngƣời còn ở mức độ thứ nhất. Họ cực kỳ yếu
nhƣợc, nguội lạnh và thờ ơ đối với việc nhận biết và thực
hành sự thật và đức công bình. Đúng nhƣ lời ngôn sứ Isaia:
Mọi người đều khoái quà cáp và lao mình theo các thứ tiền
thưởng. Họ chẳng phân xử công bình cho kẻ mồ côi và cảnh
ngộ của các quả phụ không khiến họ chạnh lòng chăm sóc
(x. Is 1,23). Về điều này, họ không thể nào không bị buộc
tội, nhất là khi họ là những ngƣời có trách vụ. Những ngƣời
ở mức độ hai này không thể coi là không có ác ý nhƣ trƣờng
hợp những ngƣời ở mức độ thứ nhất. Nhƣ thế, họ ngày càng
lìa xa sự công chính và các nhân đức, bởi lẽ lòng muốn họ
ngày càng nghiêng chiều theo các loài thụ tạo.
418 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Nhƣ vậy, đặc điểm của những ngƣời ở mức độ này là


rất nguội lạnh với các việc tâm linh và làm các việc tâm linh
rất chiếu lệ; họ làm vì bị áp lực, vì thói quen, chứ không vì
lòng yêu mến.
7 – Mức độ thứ ba của tệ hại gây mất mát do dính bén
của cải trần tục đem lại là sự hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa.
Ngƣời ta không lo chu toàn lề luật Chúa, chỉ lo đến công việc
và của cải trần tục để rồi vì ham hố mà phải rơi vào tội trọng.
Cấp thứ ba này đƣợc nêu ra ở câu tiếp theo trong trích dẫn:
Nó đã lìa bỏ Thiên Chúa, Đấng tạo thành nó (Đnl 32,15).
Mức độ này bao gồm tất cả những kẻ để cho các quan
năng linh hồn lún sâu vào các sự vật, của cải và công việc
trần thế đến nỗi chẳng còn làm gì để chu toàn những điều
luật Thiên Chúa đòi buộc. Họ lơ là nặng nề trong những
chuyện liên can đến phần rỗi của họ nhƣng lại rất linh lợi
tinh tế trong những chuyện thế trần. Họ là những ngƣời mà
trong Tin Mừng, Chúa gọi là con cái thế gian và bảo rằng họ
khôn ngoan, tinh quái trong các công việc của họ hơn là con
cái sự sáng trong sự việc của mình (x. Lc 16, 8). Với họ thì
những gì thuộc về Thiên Chúa chẳng là gì cả nhƣng những
chuyện trần thế lại là tất cả. Họ đúng là kẻ ham hố. Sự mê
thích và vui thỏa của họ lan khắp các thụ tạo đến nỗi không
thể nào cảm thấy no thỏa. Thế nhƣng vì chỉ Thiên Chúa mới
là nguồn mạch duy nhất có thể làm cho họ no thỏa, nên họ
càng xa lìa Thiên Chúa thì cơn đói khát càng gia tăng mãnh
liệt. Chính Thiên Chúa đã nói về họ qua lời ngôn sứ
Giêrêmia: Chúng đã lìa bỏ Ta, nguồn suối hằng sống để đào
lấy cho mình những bồn chứa rò rỉ không thể chứa nước (Gr
QUYỂN 3 419

2,13). Những kẻ ham hố ấy chẳng tìm đƣợc thứ gì nơi các


thụ tạo có thể làm dịu cơn khát, trái lại còn bị khát thêm. Vì
ham mê của cải trần tục họ sa vào hàng ngàn thứ tội lỗi và
tác hại của chúng thật vô kể. Vua Đavit nói về họ rằng: Xác
đầy mỡ tiết ra toàn gian ác, và tâm địa chan chứa những
mưu mô (Tv 72,7).
8 – Mức độ thứ tƣ của tệ hại gây mất mát này đƣợc ghi
nơi câu cuối của trích dẫn nêu trên: Nó đã xa lìa Thiên Chúa,
Núi Đá độ trì nó (Đnl 32,15). Ngƣời ta rơi xuống đây từ mức
độ thứ ba vừa đề cập. Vì mê của cải trần tục, linh hồn kẻ ham
hố chẳng còn lƣu tâm đến lề luật Chúa. Nó xa lìa Thiên Chúa
cả nơi dạ nhớ, trí hiểu và lòng muốn. Nó quên bẵng Thiên
Chúa nhƣ thể Ngài không phải là Thiên Chúa của nó. Sở dĩ
thế là vì linh hồn đã tạo nên những thần tƣợng bằng vàng bạc
và của cải trần tục, nhƣ lời thánh Phaolô: Tính tham lam
đồng nghĩa với tôn thờ ngẫu tượng (Cl 3,5). Mức độ thứ tƣ
này đƣa ngƣời ta đến chỗ lãng quên Chúa, thay vì hƣớng hết
tâm hồn về Thiên Chúa, họ thật sự đặt hết tâm huyết vào
vàng bạc nhƣ thể không có một vị Chúa Tể nào khác ngoài
vàng bạc.
9 – Thuộc về mức độ thứ tƣ này là những kẻ không
ngần ngại bắt những chuyện siêu nhiên phục vụ cho các sự
vật trần tục nhƣ phục vụ chúa tể của họ. Đúng ra họ phải làm
ngƣợc lại, tức là qui những thứ ấy về Thiên Chúa, nếu họ
thực sự coi Ngài là Thiên Chúa của họ. Trong số những
ngƣời này có Balaam, kẻ đã đem bán những ân sủng đƣợc
Thiên Chúa ban cho (Ds 22,7). Cả Simon phù thủy cũng
thuộc số này. Ông ta tƣởng có thể đánh giá ân sủng Thiên
420 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chúa bằng tiền bạc và muốn dùng tiền mua ơn Chúa


(Cv18,18-19). Ông ta nghĩ tiền bạc rất giá trị và có thể tìm
đƣợc ngƣời sẵn lòng đổi ân sủng để lấy tiền.
Thời nay có rất đông ngƣời thuộc về mức độ này, theo
hàng ngàn cách khác nhau. Lý trí bị mù quáng do lòng tham,
họ đánh giá các thực tại tâm linh cách rất lệch lạc. Họ phụng
sự tiền bạc chứ không phụng sự Thiên Chúa. Họ chạy theo
sự thúc giục của tiền bạc chứ không phải của Thiên Chúa.
Họ coi trọng giá trị tiền bạc hơn giá trị và phần thƣởng Thiên
Chúa ban. Bằng nhiều cách thế, họ biến tiền bạc thành vị
thần chính yếu và đích nhắm của họ. Thiên Chúa không còn
là cùng đích của họ nữa.
10 – Thuộc về mức độ sau cùng này còn phải kể đến tất
cả những linh hồn coi trọng của cải trần gian đến nỗi coi đó
nhƣ là chúa chúa của mình và không ngần ngại hy sinh cả
mạng sống khi thấy rằng thứ chúa ấy của họ phải tạm thời
giảm bớt đôi chút. Họ đâm ra tuyệt vọng và tự sát vì những
mục đích tồi tệ, và tự đƣa tay chỉ cho thấy thứ tiền công thảm
bại nhận đƣợc do sự phục vụ vị thần của ho. Một khi họ
chẳng còn hy vọng kiếm đƣợc chút gì nơi “thần tài”, ông
thần này liền ban cho họ sự tuyệt vọng và cái chết. Còn
những kẻ mà y không dẫn đến tai họa chung cục chết chóc
này thì y cũng khiến họ dở sống dở chết trong những nỗi khổ
tâm lo lắng và nhiều điều khốn nạn khác. Y loại trừ sự vui
thỏa khỏi tâm hồn họ và chẳng để một điều tốt lành nào lóe
sáng cho họ trên cõi dƣơng trần. Những kẻ bất hạnh ấy phải
liên lỉ nộp sự nghiêng chiều của họ cho thần tài nhƣ nộp
thuế. Họ lao nhọc vì nó, dính bén với nó đến tận cái tai ƣơng
QUYỂN 3 421

cuối cùng là sự diệt vọng. Đó là điều nhà hiền triết đã cảnh


báo: Người giữ của lại chuốc họa vào thân (Gv 5,12).
11 – Cũng thuộc về mức độ này là những kẻ mà thánh
Phaolô bảo rằng: Vì họ không thèm nhận biết Thiên Chúa,
nên Ngài đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những
điều bất xứng (Rm 1,28). Sự vui thỏa lôi kéo con ngƣời vào
tất cả tai họa ấy khi họ đặt sự vui thỏa vào các của cải nhƣ là
mục tiêu tối hậu.
Còn phần những kẻ chỉ bị thiệt hại ít hơn thì họ vẫn rất
đáng thƣơng bởi sự vui thỏa trên đây khiến linh hồn họ lùi xa
trên nẻo đƣờng của Thiên Chúa. Vì thế, Vua Đavít đã nói:
Đừng sợ chi khi có kẻ phát tài, hoặc cửa nhà tăng thêm vẻ
phong lưu” nghĩa là đừng ghen tị với kẻ khác vì nghĩ rằng
họ hơn mình bởi vì khi chết, nó đâu mang được cả, kiếp vinh
hoa chẳng theo xuống mộ phần (Tv 48,17-18).
422 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 20
Của cải trần tục (2)
Chương này bàn về những lợi ích linh hồn có được nhờ
tránh xa sự vui thỏa nơi của cải trần tục.
1 – Ngƣời sống theo tâm linh phải lo sao cho trái tim và
sự vui thỏa của mình đừng dính bén vào một của cải trần tục
nào kẻo sự dính bén ấy sẽ tăng dần, từ ít đến nhiều, từ mức
này đến mức khác; khởi đầu chỉ là chuyện nhỏ, đến cuối
thành chuyện lớn, khác nào một tia lửa đủ thiêu hủy một trái
núi và ngay cả toàn thế giới. Đừng chủ quan nghĩ rằng mình
chỉ dính bén chút ít, chƣa cắt ngay bây giờ về sau cắt vẫn
đƣợc. Thế nhƣng, nếu bạn không có can đảm cắt đứt khi sự
dính bén còn yếu và mới ở bƣớc đầu, làm sao bạn dám nghĩ
mình sẽ cắt đƣợc khi sự dính bén đã lớn mạnh và ăn rễ sâu
hơn? Trong Tin Mừng Chúa có nói: Người nào bất trung
trong việc nhỏ cũng sẽ bất trung trong việc lớn (Lc16,10). Ai
tránh cái nhỏ sẽ không bị rơi vào cái lớn hơn. Tuy nhiên
ngay trong cái nhỏ vẫn có hiểm nguy lớn bởi nó đã tạo đƣợc
vết nứt trên tƣờng rào của trái tim. Ngƣời ta thƣờng nói:
“Khởi đầu một sự việc tức hoàn tất nó đƣợc một nửa rồi”.
Vua Đavít cũng cảnh báo: Dầu cho có dư dật của cải chúng
ta cũng đừng đặt tâm hồn mình nơi chúng (Tv 61,11).
2 – Dù không vì Thiên Chúa hoặc vì sự hoàn thiện Kitô
giáo đòi hỏi, chỉ nguyên những lợi ích trần tục và tâm linh
cũng đáng cho ngƣời ta hoàn toàn giải thoát lòng mình khỏi
sự vui thỏa đối với những của cải nói trên. Nhƣ thế không
QUYỂN 3 423

những tránh đƣợc những thiệt hại nói ở chƣơng trƣớc mà còn
đạt đƣợc sự thanh thoát, là một trong những điều kiện chính
yếu để nên một với Thiên Chúa, và là nhân đức không thể đi
đôi với lòng ham hố.
Ngoài ra, ngƣời ta còn đạt đƣợc sự tự do tâm linh, lý
trí đƣợc sáng suốt, thƣ thái, an tịnh, cậy trông vào Thiên
Chúa, thuận phục Thiên Chúa và lòng muốn sẵn sàng tuân
theo lời Ngài.
Hơn nữa, càng siêu thoát khỏi các thụ tạo ngƣời ta càng
đƣợc vui thỏa và thoải mái nơi chúng hơn. Ngƣời ta không
thể có đƣợc điều ấy nếu nhƣ cứ nhìn ngắm chúng với lòng
quyến luyến muốn chiếm hữu. Não trạng chiếm hữu là một
sợi dây trói buộc, ghì kéo tinh thần ngƣời ta xuống đất và
không để cho lòng họ mở rộng. (2Cr 6,11).
Một khi chẳng dính bén đến loài thụ tạo, ngƣời ta sẽ
nhận thức rõ về chúng để nhận định đúng các sự thật liên
can đến chúng về phƣơng diện tự nhiên lẫn siêu nhiên. Do
đó, cách họ vui hƣởng những điều tốt lành trần thế khác
hẳn so với cách của những kẻ gắn bó với chúng, đồng thời
họ đƣợc hƣởng những ơn ích và thuận lợi lớn hơn nhiều.
Họ vui hƣởng chúng theo bản chất đích thực của chúng
còn những ngƣời kia thì theo sự giả trá của chúng. Một bên
theo cái tốt hơn, bên kia theo cái xấu hơn. Một bên theo
cái chính yếu, bên kia còn để cho giác quan dính bén cho
nên chỉ theo đƣợc cái phụ tùy. Bởi giác quan không thể
nào nắm bắt hay vƣợt quá giới hạn cái phụ tùy, còn tâm
linh một khi đƣợc thanh tẩy khỏi áng mây và các thứ phụ
424 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tùy, sẽ thấu đạt sự thật và giá trị các sự vật, là đối tƣợng
của nó. Sự vui thỏa nơi thụ tạo tựa áng mây làm tăm tối trí
phán đoán, bởi lẽ sự vui thỏa có ý thức đối với loài thụ tạo
bao giờ cũng ẩn chứa cái ý chiếm hữu từ bên trong. Sự vui
thỏa mang tính đam mê bao giờ cũng hiểu ngầm là, nơi
tâm hồn, ngƣời ta đã thƣờng xuyên chiếm hữu những điều
ấy. Nhƣ thế, việc chối bỏ và thanh tẩy một sự vui thỏa nhƣ
thế sẽ làm cho trí phán đoán đƣợc sáng suốt tựa bầu khí trở
nên thanh trong khi mây tan biến.
3 – Nhƣ vậy khi không tìm vui thỏa bằng chiếm hữu
của cải thì lại đƣợc vui thỏa nhƣ kẻ làm chủ tất cả; còn khi
vui thỏa với thái độ chiếm hữu của cải đời này, ngƣời ta
đánh mất cái thú vị về mọi thứ nói chung. Một bên do
chẳng có gì cả nơi lòng mình nên lại có được tất cả cách
rất thong dong, hoàn toàn tự do nhƣ lời thánh Phaolô đã
nói (x. 2Cr 6,10); còn bên kia vì dính bén lòng muốn vào
chúng nên chẳng có mà cũng chẳng đạt đƣợc gì. Của cải
chiếm đoạt tâm hồn họ và giam hãm họ trong khổ hình nhƣ
nô lệ. Do đó, ngƣời ta càng muốn vui thỏa nơi các thụ tạo
ngần nào càng khiến trái tim bị trói buộc và tù hãm phải
thêm âu lo và dằn vặt ngần ấy.
Ngƣời thanh thoát thì lúc cầu nguyện hay những lúc
khác đều chẳng phải áy náy lo âu, không bị mất thời giờ, dễ
hồi tâm và thu tích dƣ dật ơn thiêng. Còn ngƣời dính bén thì
chỉ mất giờ loay hoay với xiềng xích đang trói buộc và cầm
tù họ. Dù cố gắng mấy họ cũng không thể thoát khỏi xiềng
xích ấy chốc lát.
QUYỂN 3 425

Nhƣ vậy, thoạt khi vừa thấy mình nghiêng chiều về sự vui
thỏa với các thụ tạo, ngƣời sống theo tâm linh phải biết kiềm
chế ngay bằng cách nhớ lại nguyên tắc chúng ta đang theo ở
đây. Nguyên tắc ấy là, chẳng nên vui thỏa về điều gì khác hơn
là phụng sự Thiên Chúa và mƣu tìm vinh quang danh dự cho
Thiên Chúa trong tất cả mọi sự; quy hƣớng mọi sự vào mục
đích duy nhất ấy, luôn xa lánh sự hão huyền và không bao giờ
tìm kiếm sự vui thỏa và an ủi nơi cái hão huyền.
4 – Rút vui thỏa khỏi loài thụ tạo còn có một lợi ích
khác rất lớn lao và quan trọng là để trái tim đƣợc tự do dành
cho Thiên Chúa. Đây là bƣớc chuẩn bị đầu tiên để sẵn sàng
lãnh nhận mọi hồng ân Thiên Chúa muốn thực hiện cho linh
hồn, bằng không, Thiên Chúa sẽ chẳng thực hiện. Các hồng
ân ấy lớn lao đến nỗi, ngay cả về mặt trần tục, nếu vì yêu
Chúa và vì sự hoàn thiện Tin Mừng mà từ bỏ một sự vui thỏa
thì Chúa sẽ bù lại gấp trăm ngay ở đời này, nhƣ Ngài đã hứa
trong Tin Mừng (Mt 19,29; Mc 10,30).
Mà dầu không có đƣợc những lời lãi ấy, thì tận thâm
sâu lòng mình, ngƣời sống theo tâm linh vẫn phải dập tắt
những nỗi vui thỏa nơi loài thụ tạo ấy vì chúng khiến Thiên
Chúa buồn lòng. Tin Mừng cho thấy chỉ nguyên việc gã giàu
có nọ hí hửng vui thỏa vì tích lũy đƣợc của cải cho nhiều
năm cũng đủ khiến Thiên Chúa thịnh nộ, đòi hắn phải tính sổ
linh hồn ngay trong đêm ấy (x. Lc 12,20). Nhƣ thế, phải tin
rằng mỗi lần chúng ta vui thỏa hão huyền, Thiên Chúa đều
nhìn thấy và tuyên cáo một hình phạt và một sự cay đắng nào
đó mà chúng ta đáng phải chịu. Hình phạt phát sinh từ sự vui
thỏa hão huyền ấy cay đắng gấp trăm lần cái thích thú mà sự
426 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

vui thỏa ấy mang lại. Trong sách Khải Huyền thánh Gioan
nói về thành Babylon: Nó đã phô trương vinh quang và sống
xa hoa bao nhiêu, thì hãy giáng khổ hình và tang tóc cho nó
bấy nhiêu (Kh 18,7). Bản văn không bảo hình phạt sẽ nặng
nề hơn niềm vui, nhƣng đƣơng nhiên là thế, bởi lẽ những thú
vui ngắn ngủi ở đời này vẫn mang lại cực hình vĩnh cửu. Bản
văn ấy còn giúp ta hiểu rằng không điều gì mà không có một
hình phạt riêng của nó. Đấng sẽ trừng phạt một lời nói bông
lơn (x. Mt 12,36) hẳn nhiên sẽ không tha thứ cho một sự vui
thỏa hão huyền.
QUYỂN 3 427

Chương 21
Nơi những điều tốt tự nhiên

Chương này bàn về sự hão huyền khi lòng muốn tìm vui
thỏa nơi những điều tốt tự nhiên, và về cách vượt qua chúng
mà hướng đến với Thiên Chúa.
1 – Những điều tốt tự nhiên ở đây gồm: sắc đẹp, duyên
dáng, ngoại hình và mọi ƣu điểm khác nơi thân xác cũng nhƣ
các ƣu điểm nơi linh hồn gồm trí thông minh, sự cẩn trọng và
những điểm khác thuộc phần lý trí.
Ngƣời ta không đƣợc vui thỏa vì mình hoặc ngƣời thân
của mình có đƣợc những ƣu điểm ấy mà hãy cảm tạ Thiên
Chúa vì Ngài đã ban cho những điều ấy để nhờ đó ngƣời ta
nhận biết và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn. Quả là hão
huyền và giả dối khi chỉ biết vui thỏa vì có đƣợc những ƣu
điểm nói trên, bởi theo lời vua Salômôn: Duyên dáng là giả
dối, sắc đẹp là hão huyền, chỉ phụ nữ nào biết kính sợ Thiên
Chúa mới đáng ca ngợi (Cn 31, 30). Qua câu nói ấy Salômôn
muốn dạy rằng đúng ra ngƣời ta phải dè chừng những tài
khéo tự nhiên này bởi do chúng, ngƣời ta dễ lãng quên tình
yêu mến Thiên Chúa vì một khi bị chúng lôi cuốn, ngƣời ta
dễ bị rơi vào hão huyền và lầm lạc. Bởi thế, Salômôn cho
rằng duyên dáng thể chất là giả dối vì nó lừa gạt ngƣời ta lạc
đƣờng và lôi kéo ngƣời ta vào những bất xứng do sự vui thỏa
hão huyền và sự khoái chí về mình hay về ngƣời có cái
duyên dáng ấy. Còn sắc đẹp là hão huyền, vì nó khiến cho
những ngƣời quí chuộng và vui thỏa nơi nó sa ngã đủ cách.
428 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Ngƣời ta chỉ đƣợc phép vui thỏa nếu nhờ đó mà mình hoặc
ngƣời khác phụng sự Thiên Chúa đƣợc nhiều hơn. Song tốt
hơn, ngƣời ta hãy dè chừng và lo sợ để những ân huệ và
duyên dáng tự nhiên ấy khỏi làm cớ khiến mình xúc phạm
Thiên Chúa, dán mắt vào chúng với lòng tự phụ hão huyền
hoặc quyến luyến vô độ.
Những ai có đƣợc những ân huệ ấy phải cẩn thận và
sống đoan trang để khỏi vì sự phô bày hão huyền của mình
mà nên dịp cho ngƣời khác phải xa lìa Thiên Chúa dù là
trong phút chốc. Những duyên dáng và ân huệ tự nhiên ấy
thƣờng kích thích và gây dịp tội cho cả ngƣời chủ lẫn ngƣời
ngắm nhìn chúng, đến nỗi hiếm có ai không bị chúng ràng
buộc bằng một sợi dây trói nào đó. Chúng tôi đã từng thấy có
những ngƣời yêu đƣờng tâm linh khi có đƣợc những nét
duyên sắc ấy, đã phải cầu xin Thiên Chúa biến họ thành xấu
xí đi, kẻo nên dịp nên cớ cho kẻ khác rơi vào một thứ vui
thỏa hoặc quyến luyến hão huyền nào đó.
2 – Vậy ngƣời sống theo tâm linh phải thanh tẩy và làm
cho lòng muốn nhắm mắt lại với sự vui thỏa hão huyền ấy,
xác tín rằng vẻ đẹp và các ân huệ tự nhiên khác chỉ là bùn
đất, chúng phát sinh từ đất và sẽ trở về đất; duyên dáng,
thanh lịch chỉ là khói, là khí của trái đất này. Phải xem và
đánh giá chúng nhƣ thế để khỏi rơi vào chỗ hão huyền. Qua
những điều tốt lành trần tục ấy, cần nâng tâm hồn lên với
Thiên Chúa trong sự hân hoan vui thỏa, bởi lẽ chính Thiên
Chúa là toàn thể sự duyên dáng mĩ miều ở mức ƣu việt, vô
cùng trổi vƣợt trên hết mọi loài thụ tạo. Nhƣ lời thánh vịnh:
Ngài thay chúng khác nào thay áo, nhưng chính Ngài tiền
QUYỂN 3 429

hậu y nguyên; tháng năm Ngài vẫn triền miên (Tv 101,27).
Nhƣ thế, trong tất cả ân huệ tốt lành ấy nếu ta không biết
nâng sự vui thỏa lên với Thiên Chúa thì sẽ luôn luôn bị lầm
lạc hoặc ảo tƣởng. Đây là điều mà Salômôn muốn ám chỉ khi
nói đến sự vui thỏa nơi loài thụ tạo: Tôi tự nhủ: Cứ đến đây,
ta sẽ cho ngươi thử hưởng thú vui và nếm mùi hạnh phúc.
Thế nhưng cả cái đó cũng chỉ là phù vân (Gv 2,1). Thế thì,
tại sao ta lại để cho lòng mình bị thụ tạo mê hoặc?
430 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 22
Nơi những điều tốt tự nhiên (2)

Chương này bàn về những thiệt hại linh hồn phải gánh
chịu khi để cho lòng muốn đặt sự vui thỏa nơi những điều tốt
tự nhiên.
1 – Phần lớn thiệt hại và lợi ích tôi đang trình bày nơi
những sự vui thỏa này đều chung cho mọi thứ vui thỏa, đều
là hậu quả trực tiếp của một vui thỏa nào đó hoặc của sự
khƣớc từ cái vui thỏa ấy. Vì thế, ở mỗi loại, tôi đều nói đến
cả hại và lợi vốn cũng có nơi các loại khác.
Tuy nhiên, chủ ý của tôi là nói lên những thiệt hại và
lợi ích riêng biệt theo từng loại vui thỏa do thái độ chiều theo
hay khƣớc từ của linh hồn. Tôi gọi những thiệt hại và lợi ích
ấy là riêng biệt bởi chúng nảy sinh trực tiếp và chính yếu từ
một loại sự vui thỏa nào đó, đang khi chỉ gián tiếp và thứ yếu
từ một loại sự vui thỏa khác.
Chẳng hạn sự nguội lạnh tâm linh trực tiếp phát sinh từ
mọi loại và mỗi loại vui thỏa do đó, tệ hại này là chung cho
cả sáu loại vui thỏa tôi sẽ nói. Còn tà dâm là một tệ hại riêng
biệt, chỉ đi theo sự vui thỏa nơi những điều tốt tự nhiên thuộc
thể xác mà chúng ta đang bàn.
2 – Nhƣ vậy khi linh hồn tìm vui thỏa nơi những điều
tốt tự nhiên, sẽ có những tệ hại tâm linh và thể chất phát sinh
trực tiếp và hữu hiệu nơi linh hồn, đƣợc thu gọn vào sáu loại
chính nhƣ sau:
QUYỂN 3 431

Thứ nhất là thói ham danh, tự phụ, kiêu căng và khinh


ngƣời. Ta không thể dành cho một vật sự trìu mến trổi vƣợt
mà lại không xem nhẹ các vật khác. Ít ra cũng có một sự chê
bai các vật khác vì theo lẽ tự nhiên, khi coi trọng một vật gì,
trái tim sẽ rút lui khỏi những sự vật khác để tập trung vào sự
vật đƣợc quí chuộng. Rồi từ chỗ thực sự xem thƣờng ấy,
ngƣời ta dễ dàng rơi vào chỗ khinh chê một số sự vật khác
một cách riêng biệt hay chung chung, không những trong
lòng mà còn biểu hiện nơi đầu miệng lƣỡi bằng những câu
nói: “ngƣời này chẳng nhƣ ngƣời kia, ngƣời nọ; sự này
chẳng đƣợc nhƣ sự nọ, sự kia... ”.
Tệ hại thứ hai là kích thích giác quan tìm thỏa thích, vui
khoái điều nhục cảm, dâm ô.
Tệ hại thứ ba là khiến ngƣời ta rơi vào chỗ thích đƣợc
nịnh bợ với những lời tán tụng hoa mỹ giả dối hão huyền
nhƣ lời ngôn sứ Isaia: Ôi dân Ta, những kẻ dẫn dắt ngươi
làm ngươi lạc hướng, đường lối ngươi đi, chúng làm cho rối
loạn! (Is 3,12). Những lời khen ngợi nét duyên dáng và sắc
đẹp có thể là chân thực, nhƣng rất hiếm khi nó không để lại
một điều tệ hại ẩn giấu nào đó hoặc khiến ngƣời đƣợc ca tụng
rơi vào sự thỏa mãn vui sƣớng hão huyền, dẫn đến những tình
cảm và ý hƣớng bất toàn.
Tệ hại thứ tƣ mang tính tổng quát, bởi lý trí và trí phán
đoán trở thành quá cùn nhụt và khi tìm vui thỏa đối với của
cải trần tục càng thêm cùn nhụt hơn. Bởi lẽ những điều tốt tự
nhiên còn thân thiết với ngƣời ta hơn những điều tốt trần tục.
Những điều tốt tự nhiên gây ra một ấn tƣợng hiệu lực hơn,
432 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mau chóng hơn và cuốn hút mãnh liệt hơn. Do đó, lý trí và trí
phán đoán không còn đƣợc tự do nhƣng hóa thành mù mịt do
niềm vui thân thiết ấy kích động.
Từ đó phát sinh tệ hại thứ năm là sự lo ra chia trí hƣớng
về các loại thụ tạo.
Rồi từ đây lại phát sinh ra sự nguội lạnh và yếu đuối về
mặt tâm linh là tệ hại thứ sáu. Đây là một tác hại chung và
thƣờng tiến rất xa đến độ khiến ngƣời ta chán ngấy và buồn
bực đối với những chuyện thuộc về Thiên Chúa, thậm chí
còn ghê sợ!
Do tìm thứ vui thỏa này, thế nào ngƣời ta cũng đánh
mất đi cái nhiệt tình đích thật ít ra ở vào bƣớc đầu. Nếu lúc
này còn chút nhiệt tình nào thì cũng sẽ nặng phần cảm tính
và rất thô thiển, ít mang tính tâm linh, ít sâu lắng. Nó tập
trung vào thích thú cảm giác hơn là sức mạnh tâm linh. Tinh
thần trở nên thấp hèn yếu nhƣợc đến mức chẳng dập tắt đƣợc
cái thói quen của thứ vui thỏa nhƣ thế. Chỉ nguyên việc có
thói quen bất toàn ấy đủ ngăn cản nhiệt tình đích thật, cho
dầu ngƣời ta không ƣng thuận các động tác của sự vui thỏa
ấy. Tinh thần sống trong sự yếu nhƣợc của giác quan nhiều
hơn trong sức mạnh của tâm linh. Mỗi khi dịp tội xảy đến,
tinh thần sẽ thấy rõ mình chƣa đƣợc hoàn thiện và mạnh mẽ.
Tôi không phủ nhận rằng nhiều nhân đức vẫn có thể cùng tồn
tại với những thứ bất toàn đáng kể, nhƣng nếu không chịu
dập tắt thứ vui thỏa này thì không thể nào có đƣợc thứ tâm
linh sâu lắng, tinh tuyền và ý nhị, bởi lẽ nơi đây xác thịt đã
làm chủ và chống lại thần khí (x. Ga 5,17); vậy mặc dù tâm
QUYỂN 3 433

linh không nhận thấy đƣợc mình bị thiệt hại tới mức nào thì ít
ra mối tệ hại ấy vẫn kín đáo gây ra một sự lo ra chia trí nào đó.
3 – Tuy nhiên hãy trở lại điều tệ hại thứ hai nói trên. Tệ
hại này hàm chứa nơi nó vô số tệ hại khác, mặc dù ta không
thể dùng bút mực hay lời nói để diễn tả cho rành rẽ hết.
Những tệ hại ấy quá rõ. Làm sao không nhận ra đƣợc những
tệ hại lớn lao phát sinh do việc đặt sự vui thỏa vào cái duyên
dáng và sắc đẹp tự nhiên? Mỗi ngày ta đều nghe thấy xảy ra
biết bao chuyện bi thảm chỉ vì lý do ấy! Biết bao vụ giết
ngƣời, bao chuyện ô nhục, bao vụ phỉ báng, bao vụ phá sản,
bao vụ ghen tƣơng và tranh chấp, bao vụ ngoại tình hãm hiếp
và thông dâm; bao ngƣời thánh thiện bị té ngã, đến nỗi ngƣời
ta ví họ với một phần thứ ba của các tinh tú trên trời bị đuôi
con cựu xà xô xuống đất (Kh 12, 4), với khối vàng ròng bị
mất vẻ bóng sáng ban đầu vì rơi vào bùn nhơ, với những
người danh giá quí phái của Sion từng khoác y phục vàng
ròng giờ bị coi như bình đất vỡ tan tành (x. Ac 4,1-2).
4 – Có chỗ nào mà thứ nọc độc của tệ hại này không lan
tới? Và có ai không từng uống nhiều ít nơi cái chén mạ vàng
của mụ đàn bà Babylon trong sách Khải Huyền? (x. Kh 17,3).
Sự kiện mụ leo lên ngồi trên con mãnh thú khổng lồ bảy đầu và
mƣời triều thiên cho ta hiểu rằng khó ngƣời nào dù quí phái
hoặc dân dã, thánh thiện hay tội lỗi mà không bị mụ cho uống
rƣợu của mụ, và bị mụ khuất phục trái tim một cách nào đó,
nhƣ lời đoạn ấy về mụ sau đây: Vua chúa trần gian đã làm
chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã
say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó (Kh 17,2).
434 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Mụ bá chủ muôn nƣớc kể cả các chức vụ tối cao và


lừng danh trong đền thánh và cả chức tƣ tế thần linh, bằng
cách đặt cái chén ghê tởm của mụ vào tận nơi thánh (x. Đn
2,27). Hầu nhƣ khó tìm đƣợc một dũng sĩ nào không bị mụ
cho uống ít nhiều thứ rƣợu trong chén mụ tức là sự vui thỏa
hão huyền nói trên. Bởi đó mới có lời nói rằng: “Tất cả vua
chúa trên mặt đất đều hóa say sƣa vì thứ rƣợu này”. Thật rất
ít ngƣời, cả trong những ngƣời thánh thiện nhất, không bị mê
hoặc và bị quyến rũ cách nào đó bởi của uống “hoan lạc” và
cái thích thú của sắc đẹp và nét duyên dáng tự nhiên.
5 – Cần chú ý đến cụm từ “họ đã say” nơi bản văn. Bởi
vì, chỉ cần nhắp một chút thứ rƣợu hoan lạc này lập tức trái
tim ngƣời ta bị trói buộc và si mê khiến lý trí trở thành tăm
tối, y hệt những ngƣời say rƣợu vậy. Đến nỗi, nếu ngƣời ta
không dùng ngay tức khắc một thứ thuốc giải độc để hóa giải
cho nhanh thì sự sống của linh hồn sẽ bị lâm nguy. Bởi lẽ sự
yếu nhƣợc tâm linh sẽ tăng lên và đƣa đến cho linh hồn một
đại họa đến nỗi, khác nào Samson sau khi mắt bị chọc thủng
và bộ tóc mang sức mạnh buổi đầu bị cắt, linh hồn sẽ thấy
mình bị dồn ép, bị thành tù nhân của quân địch, phải quay
cối xay đá và rồi có lẽ sẽ phải chết cái chết thứ hai của
Samson, chết cùng với lũ quân thù của ông ta (x. Tl 16,19-
31). Xƣa Samson đã tác hại về thể lý, còn ngày nay nhiều
ngƣời chuốc phải tệ hại này về mặt tâm linh do uống phải
rƣợu của niềm vui thỏa nói trên. Rồi quân địch sẽ đến nói với
linh hồn trong cơn ê chề của nó, những lời mà bọn Philitinh
đã nói với Samson: Chẳng phải ngươi đã từng phá vỡ những
cạm bẫy kiên cố, đã từng xé toạc hàm sư tử, từng giết ngàn
QUYỂN 3 435

quân Philitinh, từng phá tung các cổng thành và từng tự giải
thoát khỏi tất cả thù địch của ngươi đấy sao?...
6 – Để kết luận, chúng ta hãy đƣa ra những liều thuốc
giải cho thứ độc dƣợc này. Ngay khi lòng ta cảm thấy bị lôi
cuốn tới sự vui thỏa hão huyền của những điều tốt tự nhiên
ấy, cần phải nhớ rằng vui thỏa về bất cứ điều gì ngoài việc
phụng sự Thiên Chúa chỉ là hão huyền và sẽ gặp phải hiểm
nguy tệ hại biết bao. Hãy xem xét kỹ tệ hại các thiên thần
từng gánh chịu vì thỏa lòng phỉ chí về nét đẹp và những điều
tốt tự nhiên của mình nên đã bị đẩy xuống vực thẳm địa
ngục. Hãy nhớ chính cái hão huyền ấy hằng ngày vẫn đang
gây ra biết bao tệ hại cho ngƣời ta nhƣ thế. Bởi thế, phải kịp
thời sử dụng cái phƣơng dƣợc mà thi sĩ Ovide đã khuyên
những kẻ mới bắt đầu vấn vƣơng sự vui thỏa nói trên: “Hãy
vội vàng áp dụng phƣơng dƣợc này ngay từ đầu, nếu để các
tai họa đủ thời gian tăng trƣởng trong lòng rồi, thì phƣơng
dƣợc thuốc men kể nhƣ đã quá muộn” (Ovide Remedia
Amoris I, 91-92). Nhà hiền triết cảnh cáo: Nhìn rượu làm
chi: rượu màu đỏ hồng, óng ánh trong ly, rồi trôi xuống cổ.
Nhưng rốt cuộc, rượu như rắn cắn, như nọc độc hổ mang
(Cn 23,31-32).
436 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 23
Nơi những điều tốt tự nhiên (3)

Chương này bàn về những lợi ích linh hồn đạt được
nhờ không chiều theo vui thỏa nơi những điều tốt tự nhiên.
1 – Kéo lòng mình ra khỏi thứ vui thỏa nói trên, linh
hồn sẽ hƣởng đƣợc nhiều lợi ích. Ngoài việc dọn lòng yêu
mến Thiên Chúa và tập đƣợc các nhân đức khác, linh hồn
còn trực tiếp tạo cho mình lòng khiêm nhƣờng và lòng yêu
thƣơng mọi ngƣời nói chung. Vâng, một khi không còn bị
quyến luyến với bất cứ ai do những điều tốt tự nhiên hào
nhoáng gạt gẫm, linh hồn đƣợc tự do và trong sáng để yêu
hết mọi ngƣời nhƣ Thiên Chúa muốn họ đƣợc yêu mến. Ta
biết rằng chẳng ai đáng đƣợc yêu trừ phi ngƣời ấy có đức
hạnh. Nếu ai vì động lực này mà yêu, chính là yêu nhƣ
Thiên Chúa yêu và lòng sẽ cảm thấy rất mực tự do. Nếu
tình yêu ấy có pha chút gắn bó thì sự gắn bó với Thiên
Chúa còn lớn lao hơn. Khi tình yêu này càng tăng triển,
tình yêu mến Thiên Chúa càng tăng thêm và khi lòng mến
Thiên Chúa tăng, tình yêu tha nhân cũng tăng theo. Chúng
đều phát xuất từ cùng một duyên cớ lý lẽ, đó là tình yêu
nơi Thiên Chúa.
2 – Việc chối bỏ thứ vui thỏa nói trên còn mang lại một
lợi ích tuyệt hảo khác là giúp ta thực thi và tuân giữ lời
khuyên của Chúa: Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình
(Mt 16,24). Linh hồn không thể nào từ bỏ đƣợc chính mình
nếu còn tìm vui thỏa nơi những điều tốt tự nhiên ấy. Hễ ai
QUYỂN 3 437

còn có phần chăm chút coi trọng bản thân thì chƣa từ bỏ
chính mình và chƣa bƣớc theo Chúa Kitô đƣợc!
3 – Một lợi ích khác phát sinh do việc khƣớc từ sự vui
thỏa nói trên là sự đại tịnh đại an trong linh hồn: Khi loại trừ
hết những tƣ tƣởng lông bông, linh hồn sẽ giữ cho giác quan
đƣợc lắng đọng, cách riêng là đôi mắt. Một khi không còn
tìm vui thỏa nơi đó, linh hồn sẽ không muốn ngắm nhìn cũng
không muốn để cho các giác quan khác dính vào đó kẻo bị
lôi cuốn và trói buộc phải lãng phí thời giờ tƣởng nghĩ đến
đó. Nhƣ thế linh hồn sẽ thành con rắn khôn ngoan biết bịt tai
chẳng thèm nghe tiếng người dụ rắn, người thạo nghề thôi
miên (Tv 57,5-6). Nhờ canh giữ đƣợc những cổng ngõ của
linh hồn là các giác quan, ngƣời ta sẽ giữ đƣợc và gia tăng sự
bình an và tinh sạch của linh hồn mình.
4 – Còn một lợi ích khác không kém quan trọng dành
cho những ngƣời đã tiến bộ trong việc khƣớc từ thứ vui thỏa
nói trên. Các đối tƣợng và những nhận thức thiếu lành mạnh
không gây đƣợc ấn tƣợng ô uế đối với họ nhƣ đối với những
kẻ vẫn còn vui thỏa chút ít với chúng. Nhƣ thế sự cắt bỏ và
chối từ cái vui thỏa ấy sẽ đem đến cho ngƣời sống theo tâm
linh sự tinh tuyền cả linh hồn lẫn thể xác, tức cả nơi tâm trí
lẫn giác quan, họ sẽ có đƣợc sự tƣơng hợp thần thiêng với
Thiên Chúa, biến cả linh hồn lẫn thể xác họ trở nên một đền
thờ xứng đáng của Chúa Thánh Thần. Sự tinh tuyền ấy
không thể có đƣợc nếu lòng họ vẫn còn tìm vui thỏa nơi
những vẻ tốt lành và duyên sắc tự nhiên. Ở đây, chẳng cần
phải có sự ƣng thuận hay hồi tƣởng đến điều ô uế mới khiến
linh hồn và giác quan thành nhơ nhớp, chỉ cần tìm vui thỏa
438 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

trong nhận thức đối với một điều nhƣ thế cũng đủ khiến linh
hồn và giác quan thành ô uế. Nhƣ lời sách Khôn Ngoan:
Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa
những lý luận ngu dốt, và ghê tởm những chuyện bất công
tức là những tƣ tƣởng không đƣợc thƣợng tầng lý trí qui
hƣớng về Thiên Chúa (Kn 1,5).
5 – Lại còn một lợi ích tổng quát khác nữa. Ngoài việc
đƣợc giải thoát khỏi các tệ hại nói trên, ngƣời ta còn tránh
đƣợc vô số chuyện hão huyền và mất mát khác cả về mặt tâm
linh lẫn trần tục, nhất là khỏi rơi vào chỗ tự hạ thấp phẩm
giá, điều vốn thƣờng xảy đến cho những kẻ tự hào và vui
thỏa với những cái tự nhiên ấy nơi chính họ hoặc nơi ngƣời
khác. Bởi thế, những ai không quí chuộng những chuyện nhƣ
thế mà chỉ quí chuộng những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa
mới thực sự là ngƣời khôn ngoan và cẩn trọng.
6 – Từ những lợi ích trên còn phát sinh ra một lợi ích
cuối cùng. Ta sẽ có đƣợc một tâm hồn quảng đại, rất cần cho
việc phụng sự Thiên Chúa. Ấy là sự tự do tâm linh giúp ta
lƣớt thắng các cám dỗ dễ dàng, vƣợt qua đƣợc các thử thách
và tiến xa trên các nhân đức.
QUYỂN 3 439

Chương 24
Những điều tốt thuộc cảm tính

Chương này bàn về những điều tốt loại thứ ba mà lòng


muốn có thể lấy làm vui thỏa. Về bản chất và phân loại các
điều ấy đồng thời đưa ra phương thế giúp nâng lòng muốn lên
với Thiên Chúa bằng cách tự thanh tẩy khỏi sự vui thỏa này.
1 – Tiếp theo đây xin bàn tới loại thứ ba trong những
điều tốt có thể khiến lòng muốn vui thỏa, tức là những điều
tốt thuộc cảm tính. Những điều tốt thuộc cảm tính chúng tôi
nói đến ở đây bao gồm tất cả mọi thứ ở đời này, mọi thứ có
thể đập vào các giác quan bên ngoài nhƣ thị giác, thính giác,
khứu giác, vị giác và xúc giác cũng nhƣ đập vào quan năng
bên trong của óc tƣởng tƣợng suy luận. Nói tắt là tất cả
những gì thuộc về các giác quan thể chất, cả bên trong lẫn
bên ngoài.
2 – Để thanh tẩy lòng muốn và giúp nó chối từ không
tìm vui thỏa nơi các đối tƣợng khả giác ấy, đồng thời biết
nhờ chúng mà hƣớng lòng lên với Thiên Chúa, cần nhắc lại
một sự thật đã nói tới nhiều lần. Ấy là, cảm quan nơi phần hạ
đẳng của con ngƣời mà chúng ta đang bàn không biết và
không thể biết đƣợc đích thực về Thiên Chúa. Mắt không thể
xem thấy Thiên Chúa hoặc sự vật gì giống nhƣ Ngài, tai
không thể nhận ra tiếng Thiên Chúa hoặc thanh âm nào
giống Ngài, mũi không thể nào ngửi thấy đƣợc một mùi
thơm dịu dàng đến thế, lƣỡi không thể nếm đƣợc một vị đậm
đà cao nhã đến thế, xúc giác cũng không thể cảm nhận đƣợc
440 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

một sự vuốt ve âu yếm tế nhị và khoan khoái đến thế, hoặc


bất cứ thứ gì giống thế. Không hình thể hình dạng nào biểu
thị đƣợc Thiên Chúa để cho tƣ tƣởng hoặc trí tƣởng tƣợng có
thể nắm bắt đƣợc, nhƣ lời nói của ngôn sứ Isaia: Điều mắt
chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề tưởng nghĩ tới
(Is 64,4; x. 1Cr 2,9).
3 – Cần lƣu ý rằng: Các giác quan có thể lãnh nhận
đƣợc thích thú và hoan lạc hoặc từ phía tâm linh (nhờ vào
một sự thông giao nào đó mà chúng nhận đƣợc từ Thiên
Chúa nơi nội tâm) hoặc từ những sự vật bên ngoài. Nhƣ tôi
nói, phần cảm giác của con ngƣời không thể biết đƣợc Thiên
Chúa dù qua nẻo tâm linh hay nẻo giác quan. Phần cảm giác
vốn bất lực, chỉ có thể nhận lãnh yếu tố tâm linh theo cách
thức khả giác và cảm tính mà thôi. Do đó, quả là hão huyền
khi để cho lòng muốn dừng lại tìm vui thỏa nơi những thú vị
phát sinh từ một trong hai nhận thức ấy, vì ít nhất điều này sẽ
gây cản trở khiến lòng muốn không tập trung năng lực vào
Thiên Chúa, không đặt sự vui thỏa của nó nơi một mình
Ngài. Ta chỉ có thể làm trọn đƣợc điều ấy khi biết thanh tẩy
lòng muốn và đặt nó vào tăm tối, không còn tìm vui thỏa nơi
những điều tốt loại ấy cũng nhƣ những điều khác tƣơng tự.
4 – Tôi đã rất cố ý khi nói rằng quả là hão huyền nếu sự
vui thỏa dừng lại nơi bất cứ sự nhận thức nào đƣợc đề cập ở
trên. Bởi lẽ một khi lòng muốn cảm thấy thú vị về điều nó
nghe, thấy hay sờ mó, mà không ngừng lại ở đó nhƣng tự
nâng mình lên tới Thiên Chúa khiến điều đã nhận thức trở
nên một động lực và sức mạnh cho lòng muốn, thì quả là
điều rất tốt đẹp. Lúc đó chẳng những không phải tránh né
QUYỂN 3 441

những xúc cảm ấy, khi chúng gây nên lòng sùng mộ và
nguyện cầu, mà trái lại, còn có thể, và thậm chí còn phải vận
dụng chúng để thao luyện trên đƣờng nên thánh. Quả thật,
vẫn có những linh hồn nhờ các đối tƣợng khả giác mà đƣợc
lôi cuốn mạnh mẽ tới Thiên Chúa.
Tuy nhiên cũng phải rất cẩn trọng trong việc này và
phải nhìn kỹ các hậu quả thu đƣợc. Lắm lúc nhiều ngƣời
sống theo tâm linh đã chạy theo những thú vui giác quan ấy
vịn cớ là chúng giúp cầu nguyện và buông mình cho Thiên
Chúa, nhƣng rút cuộc đã thành chuyện giải trí chứ không
phải cầu nguyện, tìm tự thỏa mãn hơn là làm đẹp ý Thiên
Chúa. Ý hƣớng có vẻ là vì Thiên Chúa nhƣng kết quả thu
lƣợm đƣợc cho thấy đây chỉ là chuyện giải trí của giác quan,
ngƣời ta chỉ gặt đƣợc sự yếu nhƣợc bất toàn hơn là một nghị
lực thôi thúc và quy phục lòng muốn vào Thiên Chúa.
5 – Vì thế, tôi muốn đƣa ra đây một quy tắc giúp nhận
biết khi nào các hoan lạc giác quan nói trên mang lại lợi ích
và khi nào không. Nếu mỗi lần nghe một điệu nhạc, thấy
những gì đẹp mắt, ngửi đƣợc mùi hƣơng thơm dịu, nếm
những vị lạ hoặc có đƣợc vuốt ve âu yếm tinh tế nào đó, mà
ngay lập tức, ngay từ rung động đầu tiên lòng muốn đã
hƣớng nhận thức và tâm tình lên Thiên Chúa, và nghiệm thấy
chính nhận thức này đem lại thích thú hơn là cái nguyên
nhân khả giác đã gây nên thích thú ấy, đồng thời thấy hƣơng
vị khả giác gây thích thú chỉ vì động cơ ấy, thì đúng là dấu
hiệu cho thấy họ đang thu lƣợm đƣợc lợi ích từ những hoan
lạc nói trên và ấn tƣợng khả giác đã giúp ích cho tâm linh.
Trong trƣờng hợp này, ta có thể sử dụng những yếu tố khả
442 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

giác ấy bởi chúng phục vụ cho các mục đích mà vì đó Thiên


Chúa đã tạo ra và ban chúng cho ta, tức là, nhờ chúng ngƣời
ta đƣợc nhận biết và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn.
Ở đây nên hiểu rằng những ngƣời rút đƣợc cái kết quả
tâm linh tinh tuyền đang nói đây, thƣờng không ao ƣớc nó và
cũng không bận tâm tới nó. Tuy nhiên khi nó xuất hiện, họ
sẵn lòng tiếp nhận vì nó mang lại cho họ niềm hoan lạc nơi
Thiên Chúa. Nhƣ thế, họ chẳng nhọc công tìm kiếm nó và
nếu nó có xảy đến với họ, lòng muốn của họ lập tức để nó
qua một bên và hƣớng về Thiên Chúa.
6 – Dù các “duyên cớ” khả giác này giúp họ đến với
Thiên Chúa, những ngƣời ấy ít bận tâm đến chúng, vì tâm
linh họ đã đạt tới chỗ mau mắn hƣớng mọi sự về Thiên Chúa.
Họ đã bị cuốn hút, đƣợc nuôi dƣỡng và đƣợc no thỏa bằng
Thần khí Thiên Chúa, đến nỗi chẳng còn điều gì bên ngoài
lôi cuốn đƣợc họ hoặc có thể khiến họ thèm khát. Nếu họ có
ƣớc ao điều gì để giúp họ nâng hồn lên với Thiên Chúa thì
lập tức sau đó họ cũng gạt nó qua một bên, quên ngay, chẳng
lƣu tâm gì đến nữa.
Những ai không cảm nhận đƣợc sự tự do tâm linh nhƣ
vậy đối với những sự vật và những thích thú khả giác nói
trên, và để cho lòng muốn dừng lại tìm vui thỏa nơi chúng,
nhất định chúng sẽ gây tác hại. Họ cần phải từ khƣớc chúng.
Mặc dầu theo lý mà xét, họ cũng muốn nhờ chúng giúp họ
đến với Thiên Chúa nhƣng chắc chắn chúng sẽ gây cản trở
hơn là giúp đỡ bởi họ mê thích vui hƣởng chúng dựa theo
yếu tố khả giác, họ chỉ tìm sự thích thú hợp với khuynh
QUYỂN 3 443

hƣớng của họ, vì thế sẽ thiệt hại nhiều hơn lợi ích. Khi thấy
mình bị sự mê thích những chuyện giải trí nhƣ thế thống trị,
ta phải dẹp bỏ ngay, bởi sự mê thích ấy càng mạnh, ta càng
bất toàn và yếu nhƣợc.
7 – Vậy, trƣớc bất cứ sự thích thú nào thuộc giác quan,
dù là tình cờ dù là chủ tâm, ngƣời sống theo tâm linh chỉ
đƣợc hƣởng dụng nó vì Thiên Chúa bằng cách nâng sự vui
thỏa của linh hồn lên cùng Ngài. Có thế, sự vui thỏa này mới
trở thành hữu dụng, sinh ích và hoàn hảo. Cần nhớ rằng sự
vui thỏa mà không kèm theo sự chối bỏ và hủy diệt nhƣ thế
đối với mọi thú vui khác, dù nó liên can đến những điều có
vẻ rất cao nhã, nó cũng chỉ là hão huyền, vô ích và ngăn cản
không cho lòng muốn đƣợc nên một với Thiên Chúa.
444 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 25
Nơi điều tốt khả giác

Chương này bàn về những thiệt hại linh hồn phải chịu
một khi để cho lòng muốn được vui thỏa nơi những điều tốt
khả giác.
1 – Trƣớc hết, nếu linh hồn không đặt mình vào tăm tối,
không dập tắt sự vui thỏa có thể nảy sinh từ các sự vật khả
giác, không qui nó về Thiên Chúa thì sẽ gặp phải mọi thứ tệ
hại chung mà chúng tôi đã nói, phát sinh do bất cứ thứ vui
thỏa nào khác, tức là từ những sự vật khả giác. Những tệ hại
ấy là: lý trí bị tăm tối, tâm linh bị nguội lạnh và chán
chƣờng... Đặc biệt phải nói rằng thứ vui thỏa này còn có thể
khiến linh hồn trực tiếp rơi vào nhiều tệ hại cả về mặt tâm
linh, thể chất lẫn khả giác.
2 – Thứ nhất, do chẳng chịu chối bỏ sự vui thỏa nơi các
thụ tạo hữu hình để tiến lên với Thiên Chúa, ngƣời ta có thể
tiếp tục rơi vào sự hão huyền trong tâm, lơ đãng trong trí,
lòng ham hố vô trật tự, tính thiếu lƣơng thiện, buông xuôi cả
nội tâm lẫn bên ngoài, nhơ uế trong tƣ tƣởng, và tính ghen tỵ.
3 – Sự vui thỏa vì nghe những chuyện vô ích sẽ trực
tiếp đƣa đến tƣởng tƣợng bị lệch lạc dẫn đến tính nói hành,
tính ghen tuông, xét đoán bừa bãi, tƣ tƣởng hỗn độn và tự
đấy sẽ nảy sinh ra hằng loạt những tệ hại gớm ghiếc khác.
4 – Sự vui thỏa với những hƣơng vị dịu dàng sẽ khiến
ta ghê tởm kẻ nghèo khổ, là điều đi ngƣợc với giáo lý Chúa
QUYỂN 3 445

Kitô, ngƣợc với tinh thần phục vụ, lòng không thuận phục
trong những điều khiêm nhƣờng, vô cảm tâm linh, ít nhiều
tùy theo mức độ mê thích.
5 – Sự vui thỏa với các món ăn ngon sẽ trực tiếp làm
phát sinh ra tính tham ăn và say sƣa, giận dữ, bất hòa, thiếu
bác ái với cận nhân và những kẻ nghèo khổ, tựa gã giàu
trong Tin Mừng ngày nào cũng yến tiệc linh đình trƣớc mắt
anh chàng nghèo khổ Lazarô (Lc 16,19). Từ đó sẽ phát sinh
những hỗn loạn thể xác, các tật bệnh và những xung động
xấu xa do sự gia tăng những khích thích của thói ham nhục
dục. Điều ấy cũng trực tiếp tạo ra sự ƣơn lƣời thậm tệ, tắt
mất niềm hâm mộ các thực tại tâm linh đến nỗi ngƣời ta
không còn khả năng hƣởng nếm hoặc lƣu tâm suy luận đến
chúng nữa. Sự vui thỏa này cũng tạo nên sự lệch lạc nơi các
giác quan khác cũng nhƣ nơi tâm hồn, đƣa đến chỗ bất mãn
đối với nhiều việc.
6 – Sự vui thỏa nơi xúc giác thích mân mê những vật
thể mềm mại còn mang lại nhiều tệ hại độc địa hơn, khiến
các giác quan dễ lệch lạc và dập tắt mất năng lực tâm linh.
Từ đó, nó sẽ phát sinh ra thói xấu gớm ghiếc là sự nhu nhƣợc
và kích động tùy theo cƣờng độ sự vui thỏa đó. Nó tạo ra tính
ham nhục dục, khiến tâm linh thành yểu điệu và nhút nhát,
giác quan lừa dối, sẵn sàng phạm tội và gây ra tệ hại; nó làm
lòng đầy sự vui thỏa và hoan lạc hão huyền, buông lỏng
miệng lƣỡi, thả cho mắt mặc sức dòm ngó, làm mê hoặc và
cùn nhụt các giác quan khác tùy theo cƣờng độ của sự mê
thích. Nó cản trở, khiến trí phán đoán bị tắc nghẽn, vì chỉ còn
dựa trên những sự điên rồ và ngu dốt tâm linh đồng thời đẻ
446 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ra sự buông lỏng và hay thay đổi về mặt luân lý. Tâm hồn bị
tối tăm và bạc nhƣợc khiến ngƣời ta sợ hãi cả khi chẳng có gì
đáng sợ. Đôi khi sự vui thỏa ấy còn gây ra một tâm linh hỗn
độn và tính vô cảm nơi lƣơng tâm và tâm trí. Từ đó nó khiến
cho lý trí bị suy nhƣợc nhiều và đi tới chỗ không còn biết
cách tiếp nhận hoặc trao ban lời khuyên bảo, không còn khả
năng lĩnh nhận những điều tốt về mặt tâm linh lẫn luân lý, trở
thành vô dụng nhƣ một cái bình vỡ.
7 – Tất cả các tệ hại nêu trên đều phát xuất từ thứ vui
thỏa chúng tôi đã nói, nặng nhẹ khác nhau tùy ngƣời, tùy
cƣờng độ của sự vui thỏa cũng nhƣ tùy sự dễ dãi, sự yếu
nhƣợc, tính hay thay đổi của từng ngƣời. Một số tính khí thì
chỉ với một dịp nhỏ, vẫn phải hứng chịu nhiều thiệt hại hơn
những kẻ khác bị rơi vào dịp hệ trọng hơn.
8 – Cuối cùng, sự vui thỏa thuộc loại xúc giác này có
thể dẫn đến đủ thứ xấu xa và tệ hại do tìm vui thỏa nơi những
điều tốt tự nhiên nhƣ chúng tôi đã đề cập. Tôi không muốn
nhắc lại ở đây, đồng thời cũng không bàn đến nhiều thiệt hại
khác do sự vui thỏa ấy mang tới chẳng hạn sự bỏ bê việc linh
thao và hãm mình đền tội, bị nguội lạnh và thiếu sùng mộ đối
với việc lãnh nhận Bí tích Hòa giải và Thánh Thể.
QUYỂN 3 447

Chương 26
Lợi ích khi biết khước từ

Chương này bàn về những lợi ích tâm linh và vật chất
linh hồn có được khi khước từ sự vui thỏa nơi những điều
khả giác.
1 – Chối bỏ sự vui thỏa nói trên đây, linh hồn sẽ thu
gặt đƣợc nhiều lợi ích kỳ diệu cả về phƣơng diện tâm linh
lẫn vật chất.
2 – Lợi ích thứ nhất: nhờ rút khỏi sự vui thỏa nơi những
điều khả giác, linh hồn tu chỉnh lại bản thân, giảm bớt sự
chia trí đã mắc phải do dùng giác quan vô độ. Họ lắng lòng
tập trung vào Thiên Chúa; giữ vững các nhân đức đã đạt
đƣợc. Nhân đức lớn mạnh và linh hồn tiến nhanh.
3 – Lợi ích tâm linh thứ hai linh hồn đạt đƣợc nhờ
chẳng muốn tìm vui thỏa nơi điều khả giác quả là tuyệt vời.
Có thể nói rất thật rằng từ chỗ ham nhục dục họ trở nên
ngƣời tâm linh, từ thú vật trở thành loài có lý trí, và hơn nữa,
từ phận ngƣời tiến tới trạng huống thiên thần, từ chỗ là ngƣời
phàm dƣới đất thành thần linh thƣợng giới. Thật vậy, những
kẻ tìm vui thích nơi các vật khả giác và đặt sự thỏa mãn của
họ vào đó thì chỉ đáng gọi bằng những thứ chúng ta đã nói,
là: nhục dục, thú tính và vật chất vv... Ngƣợc lại, khi biết
vƣợt lên trên những sự vật khả giác ấy, họ đáng đƣợc gọi
bằng những tƣớc hiệu cao quí, là: sống theo tâm linh, thuộc
về thiên giới vv...
448 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Điều này thật hiển nhiên. Theo lời thánh Tông đồ


(Gl 5,17), việc vận dụng các giác quan và sức mạnh của nhục
dục mâu thuẫn với sức mạnh và việc thao luyện tâm linh cho
nên hễ sức mạnh của bên này yếu kém và suy nhƣợc đi thì
bên kia sẽ tăng lên, bởi không còn đối thủ cản ngăn việc tăng
trƣởng nữa. Do đó, chính khi làm cho tâm linh nên hoàn
thiện (tâm linh tức phần thƣợng đẳng của linh hồn vốn
thƣờng chiêm ngắm Thiên Chúa và thông giao với Ngài)
ngƣời ta sẽ đáng nhận đƣợc tất cả những thuộc tính nói trên
bởi nó đã kiện toàn trong những điều tốt và ân huệ tâm linh
và thiên giới đƣợc Thiên Chúa ban. Thánh Phaolô đã minh
chứng về cả hai loại ngƣời nói trên (1Cr 2,14-15), ngài gọi
con ngƣời nhục cảm, tức con ngƣời chỉ lo sử dụng lòng
muốn mình vào những vật khả giác, là thú vật, không thấu
hiểu được các vấn đề thuộc về Thiên Chúa, còn ngƣời biết
nâng lòng muốn lên với Thiên Chúa thì ngài gọi là con người
sống theo Thần Khí, xét đoán được mọi sự (1Cr 2,14). Và
nhƣ thế ở đây linh hồn rút đƣợc mối lợi diệu kỳ là tƣ thế sẵn
sàng để lãnh nhận những điều tốt của Thiên Chúa và các ân
huệ tâm linh.
5 – Lợi ích thứ ba là sự hƣởng nếm và vui thỏa của lòng
muốn đối với những sự vật trần thế lại đƣợc tăng lên vô hạn,
nhƣ lời Chúa Cứu Thế đã phán: Ngay ở đời này họ sẽ được
hoàn lại gấp trăm lần (Mt 19,29). Thành thử nếu bạn từ chối
một sự vui thỏa, Thiên Chúa sẽ ban cho bạn gấp trăm ngay ở
đời này, cả về tâm linh lẫn vật chất. Ngƣợc lại, nếu chiều
theo một sự vui thỏa dành cho những sự vật khả giác nói
trên, bạn sẽ phải chịu cả trăm nỗi phiền muộn và cay đắng.
QUYỂN 3 449

Từ đôi mắt đã đƣợc thanh tẩy khỏi những sự vui thỏa của thị
giác, linh hồn đƣợc hƣởng sự vui thỏa tâm linh, nhìn điều gì,
dù thuộc phạm vi thần linh hay thế tục, cũng thấy lòng
hƣớng lên Thiên Chúa. Từ thính giác đã đƣợc thanh tẩy khỏi
những vui thỏa khi nghe chuyện này chuyện nọ, linh hồn sẽ
đƣợc hƣởng sự vui thỏa tâm linh lớn gấp trăm, vì nghe điều
gì, dù thuộc phạm vi tâm linh hay phàm tục, cũng đều thấy
lòng hƣớng lên Thiên Chúa. Nơi các giác quan khác đã đƣợc
thanh tẩy, cũng y nhƣ thế. Nhƣ xƣa, lúc còn trong tình trạng
“ngây thơ vô tội”, tất cả những gì ông bà nguyên tổ chúng ta
đã xem, đã nói, đã ăn... trong vƣờn địa đàng đều giúp họ vui
sƣớng gấp bội khi chiêm ngắm Thiên Chúa, bởi phần khả
giác đã đƣợc qui phục và tuân theo lý trí. Cũng thế, ngƣời
nào giác quan đã đƣợc thanh tẩy khỏi moi sự vật khả giác và
phục tùng lý trí thì ngay từ rung động đầu tiên đã nhận đƣợc
cái thích thú của sự chú tâm chiêm ngắm Thiên Chúa đầy
ngọt ngào.
6 – Do đó, với kẻ đã tinh tuyền, thì mọi sự dù cao hay
thấp, đều sinh ích lợi và giúp thêm tinh tuyền hơn nữa;
ngƣợc lại, kẻ ô uế thì dù gặp chuyện cao hay thấp, lớn hay
nhỏ, đều tự rút lấy cái xấu xa từ sự ô uế của chúng. Ai không
lƣớt thắng đƣợc sự vui thỏa theo mê thích sẽ không hƣởng
đƣợc cái thanh thoát, cái vui thỏa nơi Thiên Chúa giữa đời
thƣờng qua trung gian các thụ tạo của Ngài. Ai không còn
sống theo giác quan thì mọi hoạt động thuộc các giác quan
và các quan năng của họ đều đƣợc hƣớng tới sự chiêm niệm
Thiên Chúa. Quả thực, theo nền triết học lành mạnh, “hoạt
động của mỗi vật luôn phù hợp với hữu thể hay nếp sống của
450 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

nó”. Nếu linh hồn nào đã biết hãm dẹp nếp sống thú tính để
sống đời tâm linh thì nhất định sẽ cùng mọi sự thảnh thơi tiến
đến Thiên Chúa, bởi lẽ mọi hành vi và chuyển động tâm linh
của ngƣời ấy đều tuôn trào từ sức sống tâm linh. Do đó, nhờ
trái tim tinh tuyền, ngƣời ấy sẽ tìm đƣợc nơi mọi sự cái nhận
thức về Thiên Chúa đầy vui vẻ, dịu ngọt, trong trắng, tinh
khiết, đầy tâm linh, nhẹ nhàng và trìu mến.
7 – Từ những gì nói trên, tôi suy ra nguyên tắc sau
đây: Cần phải chối bỏ sự vui thỏa và sự thích thú nơi
những điều tốt khả giác ngõ hầu kéo linh hồn ra khỏi nếp
sống cảm giác cho tới khi tập cho giác quan quen với sự
thanh tẩy khỏi sự vui thỏa khả giác, đến nỗi ngay từ
chuyển động đầu tiên, họ đã rút ra đƣợc những lợi ích nói
trên (tức qui hƣớng mọi vật về cho Thiên Chúa ngay). Phải
sợ rằng, vì chƣa phải là thuần tâm linh, từ những thứ vui
thỏa ấy ngƣời ta sẽ rút ra sự thỏa mãn và sức mạnh cho
giác quan hơn là cho tinh thần. Phải sợ rằng sức mạnh khả
giác sẽ lấn lƣớt khiến nhục dục đƣợc dƣỡng nuôi, củng cố
và sẽ lớn mạnh thay vì giảm sút. Nhƣ lời Chúa Cứu Thế đã
phán: Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, sự gì sinh bởi tâm
linh là tâm linh (Ga 3,6). Cần nghiền ngẫm đào sâu lời ấy
vì nó rất đúng. Ai chƣa diệt trừ đƣợc cái thích thú với
những điều khả giác thì chớ mong vận dụng đƣợc nhiều
sức mạnh và hoạt động của giác quan để phục vụ tâm linh.
Năng lực linh hồn sẽ tăng mạnh nhờ sự loại bỏ sức mạnh
khả giác, nhờ sự dập tắt những vui thỏa và mê thích đối
với những điều khả giác hơn là nhờ sự vận dụng chúng
nhƣ ngƣời ta mong muốn.
QUYỂN 3 451

8 – Không cần nêu ra đây những ơn lành của vinh


quang đời sau Chúa dành cho những ngƣời chối từ sự vui
thỏa này. Chỉ cần nhắc đến những đặc điểm thể chất của vinh
quang ấy, chẳng hạn sự nhanh nhẹn và sáng chói, sẽ tuyệt
vời hơn nhiều so với những kẻ đã lạm dụng sự vui thỏa ấy.
Hơn nữa, vinh quang cốt yếu của linh hồn họ sẽ cao vƣợt
hơn nhiều, bởi lẽ vinh quang ấy tỉ lệ với tình yêu họ dành
cho Thiên Chúa, là tình yêu đã giúp họ chối bỏ những thú
vui khả giác ấy. Nhƣ lời thánh Phaolô: Mỗi sự vui thỏa chốc
lát chóng tàn mà họ đã chối từ sẽ làm nên nơi họ mãi mãi
một sức nặng vinh quang khôn lường (2Cr 4,17).
Tôi sẽ không nói thêm ở đây những lợi ích khác về luân
lý, về vật chất cũng nhƣ tâm linh đi kèm với sự khƣớc từ
những vui thỏa này, bởi khi đề cập các sự vui thỏa khác
trƣớc đây tôi đã nói rồi. Chỉ xin nói rằng những ích lợi ấy
thuộc cấp độ siêu việt hơn, bởi lẽ những sự vui thỏa khả giác
gắn chặt với bản tính tự nhiên hơn, cho nên khi chối bỏ
chúng ngƣời ta gặt hái đƣợc một sự tinh tuyền thâm sâu hơn.
452 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 27
Niềm vui từ các nhân đức (1) *

Chương này bàn về bản chất những điều tốt về mặt


luân lý, tức là loại thứ tư, và về việc lòng muốn có thể được
phép vui thỏa nơi những điều ấy cách nào.
1 – Loại điều tốt thứ tƣ có thể khiến cho lòng muốn vui
thỏa là điều tốt về mặt luân lý. Những điều tốt về mặt luân lý
ở đây đƣợc hiểu là các nhân đức và thói quen về mặt luân lý,
việc tập luyện một nhân đức nào đó hay việc thực thi bác ái,
việc tuân giữ luật Thiên Chúa, sự khôn ngoan ở đời và mọi
sự tập luyện để có đƣợc bản tính và khuynh hƣớng tốt.
2 – Nhƣ thế, một khi đã đƣợc sở hữu và tập luyện, có
lẽ những điều tốt về mặt luân lý này đáng cho lòng muốn
vui thỏa hơn bất cứ loại nào trong ba loại nói trên. Ngƣời
ta có thể vui thỏa về những điều tốt ấy vì một trong hai lý
do sau đây hoặc do cả hai lý do hợp lại, hoặc vì các điều
ấy vốn tốt lành hoặc vì chúng là phƣơng thế mang lại điều
tốt cho ta.
Chúng ta đã thấy rằng việc chiếm hữu ba loại điều tốt
nói trên chẳng đáng để cho lòng muốn vui thỏa. Tự chúng,
chúng chẳng có gì tốt lành, cũng chẳng mang lại điều tốt lành
cho ai, bởi chúng rất dòn mỏng và chóng qua. Nói rõ hơn,
chúng chỉ sinh ra nhiều đau đớn muộn phiền sầu não trong
tâm trí. Mặc dù chúng cũng đáng để ngƣời ta vui thỏa đôi
chút theo hƣớng thứ hai, tức là vì có thể vận dụng chúng để
đến với Thiên Chúa, tuy nhiên chuyện này cũng rất bấp
QUYỂN 3 453

bênh, bởi nhƣ chúng ta thƣờng thấy, chúng có thể gây thiệt
hại hơn là lợi ích cho ngƣời sử dụng chúng.
Còn những điều tốt về mặt luân lý thì ngay với lý do
thứ nhất, tức là bản chất chúng vốn tốt, chúng đã đáng cho
ngƣời sở hữu chúng vui thỏa đôi chút, vì chúng đem lại an
bình thƣ thái, lý trí đƣợc sử dụng trật tự và đúng đắn, mọi
hoạt động ăn khớp với nhau. Xét về phƣơng diện phàm
nhân, ngƣời ta không thể đạt đƣợc điều gì tốt hơn chúng ở
đời này.
3 – Nói theo góc độ nhân loại, các nhân đức tự chúng
đáng đƣợc yêu mến và quí chuộng cho nên ngƣời ta có thể vui
thỏa cách chính đáng vì mình sở hữu chúng. Ngƣời ta cũng có
thể thực hành các nhân đức ấy, vì tự bản chất chúng vốn tốt và
còn mang lại điều tốt cho ngƣời ta, cả trên bình diện nhân bản
lẫn trần thế. Theo cách này và vì lẽ ấy, các triết gia, các hiền giả
và lãnh chúa thời xƣa đã quí chuộng, ca tụng và cố gắng sở hữu
và thực hành các nhân đức. Vì còn là lƣơng dân, họ tìm cách
đạt đƣợc và thực hành các nhân đức chỉ vì những lợi ích vật
chất, trần thế và tự nhiên mà họ biết các nhân đức sẽ đem lại
cho họ. Dù vậy không những họ gặt hái đƣợc những điều tốt và
tiếng tăm về mặt vật chất, mà còn đƣợc Thiên Chúa chúc lành,
vì Ngài vốn yêu mến tất cả những gì là tốt lành, cả nơi những
ngƣời bán khai và dân ngoại. Nhƣ lời trong sách Khôn Ngoan,
Thiên Chúa là Đấng chẳng hề ngăn cản bất cứ công việc lành
nào (Kn 7,2), Thiên Chúa ban cho họ đƣợc gia tăng tuổi thọ,
danh dự, chủ quyền và bình an nhƣ Ngài đã từng làm cho dân
Rôma vì dân này đã chấp hành luật lệ tốt. Chính Ngài đã qui
phục hầu nhƣ toàn thể thế giới cho họ, trả cho họ phần thƣởng
454 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

vật chất vì những phong tục tốt của họ mặc dù, do còn chƣa
chịu tin Ngài, họ không thể lãnh phần thƣởng đời đời.
Thiên Chúa rất yêu quí những điều tốt về mặt luân lý
này nên Ngài rất mực hài lòng về Salômôn nguyên vì một
việc ông xin Ngài ban cho ông đƣợc khôn ngoan để có thể
giáo hóa dân chúng, cai trị họ cách công minh và dạy họ
những phong tục tốt lành. Chính Thiên Chúa đã phán với
Salômôn rằng bởi lẽ ông đã không xin Ngài ban của cải và
danh dự, nhƣng lại xin đƣợc ơn khôn ngoan vì mục đích trên,
nên Ngài đã ban cho ông điều ấy và cả những thứ ông không
xin Ngài, đến nỗi về điều này Salômôn vượt trội tất cả các vị
vua trước và sau ông (x. 1V 3,11-53).
4 – Dù có vui thỏa theo hƣớng thứ nhất trên đây, vui
thỏa về những điều tốt luân lý và các việc lành mình thực
hiện đƣợc xét về mặt thế tục, ngƣời Kitô hữu vẫn không
đƣợc dừng lại ở mức mà dân ngoại dừng lại. Đôi mắt linh
hồn của dân ngoại không vƣợt qua đƣợc những chuyện mau
qua của cõi phù sinh này. Còn các Kitô hữu, nhờ đƣợc ánh
sáng đức tin soi dẫn, luôn hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu;
thiếu đức tin ấy, mọi sự ở đời này và đời sau sẽ chẳng giúp
ích gì cho họ. Vì thế, ngƣời Kitô hữu chỉ đƣợc vui thỏa về sự
chiếm hữu và thực thi những điều tốt luân lý ấy chủ yếu và
duy nhất theo hƣớng thứ hai, tức là làm mọi việc vì lòng yêu
mến Thiên Chúa, để chúng đem lại cho họ sự sống vĩnh cửu.
Nhƣ thế, ngƣời Kitô hữu chỉ đƣợc lƣu tâm và vui thỏa
vì đã dùng các thói quen và nhân đức của họ để phục vụ và
tôn vinh Thiên Chúa. Nếu không nhìn theo hƣớng ấy, các
QUYỂN 3 455

nhân đức sẽ không là gì trƣớc nhan Thiên Chúa. Hãy xem


mƣời trinh nữ trong Tin Mừng. Cả mƣời ngƣời đều giữ lòng
trinh khiết và làm nhiều việc thiện, nhƣng năm ngƣời trong
bọn họ đã chẳng vui thỏa theo hƣớng thứ hai, tức là chẳng
nâng sự vui thỏa nơi những điều ấy lên với Thiên Chúa. Họ
đã sử dụng chúng theo hƣớng thứ nhất, tức là vui thỏa hão
huyền chỉ vì có đƣợc những điều tốt ấy. Vì thế họ đã bị loại
ra khỏi thiên đàng, chẳng hề đƣợc Đức lang quân biết ơn hay
tƣởng thƣởng gì cả. (Mt 25,1-12). Lắm ngƣời thời xƣa đã có
đƣợc nhiều nhân đức và làm nhiều việc lành và lắm Kitô hữu
thời nay cũng đang có đƣợc các nhân đức và đang làm những
chuyện vĩ đại. Thế nhƣng những thứ ấy sẽ chẳng giúp họ đạt
tới sự sống đời đời nếu họ không mƣu cầu vinh quang và
danh dự cho một mình Thiên Chúa nơi các điều đó.
Nhƣ vậy, ngƣời Kitô hữu có vui thỏa vì làm đƣợc nhiều
việc lành hoặc đã noi theo những tập tục đáng khen chính là
bởi họ đã làm những điều ấy vì yêu mến Chúa chứ không vì
nguyên do nào khác. Phần thƣởng dành cho kẻ làm những
điều tốt lành ấy chỉ nhằm phục vụ Thiên Chúa lớn lao chừng
nào thì trƣớc nhan Chúa sự tủi hổ dành cho kẻ làm các điều
ấy vì những động cơ khác cũng lớn lao chừng nấy.
5 – Muốn cho niềm vui nơi những điều tốt luân lý đƣợc
hƣớng về Thiên Chúa, ngƣời Kitô hữu phải xác tín rằng giá
trị các việc lành của họ nhƣ chay tịnh, bố thí, hãm mình, cầu
nguyện vv... không hệ tại số lƣợng hay phẩm chất của chúng
mà hệ tại tình yêu mến Thiên Chúa đƣợc thể hiện nơi đó.
Nhƣ thế các việc này sẽ càng cao cả hơn khi ta làm với một
lòng yêu mến Thiên Chúa tinh tuyền trọn vẹn hơn; và cũng là
456 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khi ta ít muốn tìm sự vui thỏa, an ủi hoặc tán dƣơng ở đời


này cũng nhƣ đời sau. Ta không đƣợc để lòng mình dừng lại
nơi cái thích thú, an ủi và ngọt ngào cũng nhƣ các lợi ích
khác vốn thƣờng đi kèm với việc tập luyện và các việc tốt
lành khác, nhƣng hãy dồn sự vui thỏa vào Thiên Chúa, khát
khao dùng chúng để phụng sự Ngài. Nhờ thanh tẩy lòng
muốn, giữ mình khỏi tìm vui thỏa nơi những điều thiện luân
lý, họ âm thầm khao khát chỉ làm thỏa lòng một mình Thiên
Chúa và vui thích với những việc tốt lành ấy. Ta sẽ chẳng
quan tâm hay thích thú điều gì khác ngoài danh dự và vinh
quang Thiên Chúa. Nhƣ thế, tất cả sức mạnh của lòng muốn
liên quan đến những điều tốt luân lý ấy ta đều dồn hết vào
Thiên Chúa.
QUYỂN 3 457

Chương 28
Nơi những điều tốt về luân lý

Chương này bàn về bảy thiệt hại có thể gặp phải khi để
cho lòng muốn được vui thỏa nơi những điều tốt về luân lý.
1 – Ngƣời ta có thể rơi vào bảy thứ thiệt hại do vui thỏa
hão huyền về các việc thiện và thói quen của mình. Các tệ
hại này có tính tâm linh, vì thế chúng rất hiểm độc.
2 – Tệ hại thứ nhất là tính hão huyền, kiêu căng,
chuộng hƣ danh và tự phụ. Thƣờng thì ngƣời ta không thể
vui thỏa về các công việc của mình mà lại không quí chuộng
chúng. Từ đó sinh ra tính khoe khoang và những tính khác
nhƣ những gì đƣợc nói về gã biệt phái trong Tin Mừng: Y
cầu kinh và tự tán tụng trƣớc Thiên Chúa bằng cách khoe
mình đã ăn chay và làm nhiều việc lành khác (x. Lc 18,12).
3 – Tệ hại thứ hai thƣờng gắn liền với tệ hại thứ nhất, đó
là tính đoán xét. Ngƣời ta đoán xét kẻ khác bằng cách so sánh
này nọ, cho rằng kẻ khác là xấu xa bất toàn, hành vi và việc
làm của kẻ khác không tốt nhƣ mình. Chẳng những họ xem
thƣờng kẻ khác trong lòng mà đôi khi còn thốt ra ngoài miệng.
Gã biệt phái nói trên cũng mắc khuyết điểm này khi thốt lên
trong lời cầu nguyện của gã: Con tạ ơn Chúa vì con không như
những người khác: trộm cướp, bất công, ngoại tình (Lc 18,11).
Thế là trong chỉ một động tác y đã rơi vào hai thứ tệ hại
trên: Vừa tự tán dƣơng mình vừa khinh chê kẻ khác.
458 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Đó cũng là điều nhiều ngƣời thời nay thƣờng làm: “Tôi


chẳng giống ngƣời kia, tôi không hề làm chuyện này chuyện
kia, nhƣ ông kia bà nọ đã làm”. Nhiều ngƣời còn tệ hơn gã
biệt phái. Gã này không những chê bai kẻ khác mà còn chỉ
thẳng vào một cá nhân: Tôi không như tên thu thuế kia! Còn
những ngƣời nọ không dừng lại ở hai thái độ ấy mà còn tỏ ra
phẫn nộ, ghen tức khi thấy ngƣời ta khen ngợi kẻ khác, khi
kẻ khác làm tốt hơn hoặc trổi vƣợt hơn mình.
4 – Tệ hại thứ ba là do chăm chú tìm cái lý thú nơi các
việc mình làm nên ngƣời ta thƣờng chỉ làm những việc nào
khiến mình thích thú và đƣợc ca ngợi. Nhƣ thế, theo lời Chúa
Kitô tất cả những gì họ làm chỉ cốt cho thiên hạ xem thấy
(Mt 23,5), chớ không phải vì lòng yêu mến Thiên Chúa.
5 – Tệ hại thứ tƣ phát xuất từ tệ hại vừa nói, là họ sẽ
chẳng đƣợc Thiên Chúa ban thƣởng bởi vì ở đời này đã chỉ
tìm vui thỏa và an ủi, lợi lộc về danh dự hay về những thứ
khác từ các công việc mình làm. Chúa Cứu Thế bảo rằng họ
đã nhận được tiền công rồi (Mt 6, 2). Nhƣ thế, họ sẽ bị bỏ lại
một mình, trơ trụi với công việc lao nhọc và bị tủi hổ chẳng
nhận đƣợc một phần thƣởng nào cả.
Thiệt hại này gây cho loài ngƣời chúng ta biết bao khốn
nạn. Tôi cho rằng phần lớn các công việc mà ngƣời ta làm
trƣớc mắt thiên hạ, nếu chẳng đầy tì vết hoặc chẳng giá trị gì
thì cũng đều bất toàn trƣớc nhan Thiên Chúa, bởi chúng
không siêu thoát khỏi các thứ lợi lộc và sự kính nể của ngƣời
đời. Thật vậy, làm sao có thể đoán định khác về một số công
trình và đài tƣởng niệm mà một số ngƣời đã thực hiện? Liệu
QUYỂN 3 459

họ có muốn làm những sự việc trên nếu chúng chẳng đem lại
cho họ danh dự và sự nể trọng của thiên hạ? Nếu nơi những
đền đài ấy danh tánh, dòng họ hoặc quyền uy của họ không
đƣợc lƣu truyền? Thậm chí họ còn đặt huy chƣơng và chiến
bào của họ vào các giáo đƣờng nhƣ thể họ muốn đặt mình
vào thay cho các ảnh tƣợng mà có lẽ mọi ngƣời đều quì gối!
Nơi những công trình ấy, có thể nói rằng một số ngƣời đã tôn
thờ bản thân hơn là tôn thờ Thiên Chúa! Điều chúng ta nói
đây quả là đúng thực nếu nhƣ số ngƣời kia đã thực hiện các
công trình của họ vì những lý do vừa nêu, mà nếu không thì
hẳn họ đã không làm.
Tuy nhiên ngoài những cá nhân thuộc loại tồi tệ nhất đã
nêu, còn biết bao kẻ khác đang rơi vào tệ hại này nơi các
công trình của họ bằng nhiều cách thức khác nhau! Trong số
những ngƣời này, kẻ thì muốn thiên hạ ca tụng họ về công
trình ấy, kẻ thì muốn thiên hạ cảm ơn mình, kẻ khác thì
muốn kể lại những chuyện ấy và thích thú vì kẻ nọ ngƣời kia
thậm chí cả thế giới đều biết đến các công trình của họ. Đôi
khi họ muốn những của họ bố thí hoặc những gì họ làm đến
tai ngƣời thứ ba để thiên hạ biết rõ hơn, còn một số khác thì
muốn đƣợc tất cả những gì đã nêu. Đây chẳng qua chỉ là
chuyện “khua chuông gõ mõ” mà những kẻ háo danh vẫn
thƣờng làm, theo nhƣ lời Chúa Cứu Thế đã nói trong Tin
Mừng (x. Mt 6,2). Chính vì thế, họ sẽ chẳng nhận đƣợc từ nơi
Thiên Chúa một phần thƣởng nào về các công việc họ làm.
6 – Để tránh tệ hại ấy, ngƣời ta cần che giấu các công
việc mình làm hầu chỉ duy một mình Thiên Chúa nhìn thấy,
chẳng nên mong đƣợc ai chú ý tới. Không những phải che
460 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

giấu chúng đối với kẻ khác, ngƣời ta còn phải che giấu chúng
đối với chính mình nghĩa là không đƣợc thỏa chí về chúng
hoặc xem chúng là điều đáng giá, theo đúng tinh thần lời
Chúa dạy: Chớ gì tay trái của ngươi không biết được việc tay
phải ngươi làm (Mt 6,3), chẳng khác nào Chúa nói: Đừng
dùng đôi mắt vật chất và xác thịt mà đánh giá công việc tâm
linh ngƣơi đang thực hiện. Bằng cách ấy, ngƣời ta sẽ tập
trung sức mạnh của lòng muốn vào Thiên Chúa và công việc
của họ sinh đƣợc hoa trái trƣớc nhan Ngài. Nhờ đó ngƣời ta
sẽ không phí “công sức” mà trái lại gặt hái đƣợc “công
trạng” lớn. Đây chính là ý nghĩa câu nói của ông Gióp: Nếu
tôi lặng lẽ để cho lòng bị lôi cuốn và đưa tay lên miệng mà
hôn, thì đó cũng là tội ác đáng trừng phạt (G 31,26-28). Bàn
tay ở đây ám chỉ công việc đã làm và miệng ám chỉ cái lòng
muốn vui thỏa nơi công việc đó. Nhƣ chúng tôi đã nói, đây là
sự thỏa mãn với chính mình, nên Gióp mới nói: “Nếu lòng
tôi thầm kín vui thỏa thì quả đây là một điều gian ác và chối
bỏ Thiên Chúa”; nghĩa là Gióp muốn nói ông chẳng hề lặng
lẽ thích chí cũng không lặng lẽ thỏa lòng.
7 – Tệ hại thứ năm là ngƣời ta sẽ dừng lại trên đƣờng
hoàn thiện. Do đã gắn bó với cái thích thú và ủi an nơi các
việc mình làm, nhiều ngƣời thƣờng nản lòng và mất kiên
nhẫn khi không còn thấy thú vị nơi những việc đang làm và
đang tập luyện. Thông thƣờng khi Thiên Chúa muốn cho ai
tiến bộ Ngài sẽ cho họ bánh khô là thứ bánh dành cho ngƣời
muốn nên hoàn thiện và đòi họ thôi dùng thứ “sữa” của con
nít. Ngài thử sức họ và thanh tẩy cái mê thích trẻ con của họ
để họ có thể thƣởng thức thứ thực phẩm dành cho ngƣời lớn.
QUYỂN 3 461

Thế nhƣng những ngƣời ấy lại thƣờng nhụt chí và mất kiên
trì bởi không tìm đƣợc thứ hƣơng vị cũ nơi các công việc của
họ. Đây chính là ý nghĩa tinh thần của lời trong sách Giảng
viên: Những con ruồi chết làm thối dầu thơm (Gv 10,1). Một
khi thấy cần phải hãm mình chịu khó, họ liền “chết” đối với
các việc lành của họ, nghĩa là họ bỏ bê công việc và đánh
mất sự kiên trì vốn là chỗ ẩn náu cho sự êm dịu tâm linh và
an ủi nội tâm của họ.
8 – Tệ hại thứ sáu là họ thƣờng lầm lạc khi coi trọng
các việc vừa ý họ hơn các việc họ không thấy thích thú. Họ
ca tụng và quí chuộng các việc vừa ý họ và khinh chê các
việc kia. Tuy nhiên thƣờng thì những công việc đòi hãm
mình chịu khó nhiều hơn, nhất là khi ngƣời ta chƣa tiến xa
trên đƣờng hoàn thiện, vẫn đẹp lòng Thiên Chúa hơn và quí
giá trƣớc nhan Ngài hơn, bởi chúng đòi ngƣời ta phải bỏ
mình hơn, còn những công việc đem lại an ủi thì có thể sẽ rất
dễ khiến ngƣời ta tự tìm mình. Nhƣ ngôn sứ Mikêa đã nói:
Việc họ làm xấu xa họ lại cho là tốt (Mi 7,3). Sở dĩ thế là vì
họ tìm tự thỏa mãn nơi các việc họ làm chứ không nhắm làm
hài lòng duy một mình Thiên Chúa.
Điều tệ hại này hiện đang thống trị nơi đám ngƣời sống
theo tâm linh cũng nhƣ đa số loài ngƣời, và nó quả là lớn lao
không thể kể xiết! Khó mà tìm đƣợc lấy một ngƣời làm điều
lành chỉ nguyên vì Thiên Chúa chứ không chút nào vì đƣợc
sự an ủi và thích thú nâng đỡ hoặc vì đƣợc kẻ khác kính nể.
9 – Tệ hại thứ bảy là nếu không dập tắt đƣợc thứ vui
thỏa hão huyền nơi các công việc luân lý, ngƣời ta sẽ mất
462 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khả năng đón nhận định hƣớng và những lời khuyên cần cho
những gì họ đang phải làm. Sự bạc nhƣợc do quen làm việc
theo cái thúc đẩy của sự vui thỏa hão huyền đã trói buộc họ,
cho nên hoặc họ chẳng xem trọng lời khuyên của kẻ khác,
hoặc dù có thấylời khuyên ấy hữu ích họ cũng chẳng muốn
làm theo, bởi không đủ can cảm để làm.
Những ngƣời nhƣ thế sẽ rất nguội lạnh về lòng mến
Chúa yêu ngƣời. Chính sự yêu mình do vui thỏa với những
việc nói trên đã làm cho họ bị nguội mất lòng mến.
QUYỂN 3 463

Chương 29
Nghèo khó tâm linh *

Chương này bàn về những lợi ích nhờ loại trừ sự vui
thỏa nơi những điều tốt về luân lý.
1 – Linh hồn sẽ lãnh nhận đƣợc nhiều lợi ích lớn lao khi
không đặt sự vui thỏa của lòng muốn vào loại điều tốt này
cách hão huyền. Trƣớc tiên, linh hồn sẽ tránh đƣợc nhiều
chƣớc cám dỗ và cạm bẫy của ma quỷ núp dƣới sự vui thỏa về
các việc lành ấy. Lời sau đây trong sách Gióp có thể giúp
chúng ta hiểu: Nó ngủ trong bóng râm, nơi kín ẩn của cây lau
và nơi những chỗ ẩm ướt (G 40,16). Gióp ám chỉ đến ma quỷ.
Nó núp trong chỗ ẩm ƣớt của sự vui thỏa và sự hão huyền của
cây lau (tức các công việc hão huyền) để mê hoặc linh hồn.
Chuyện ma quỷ bí mật phỉnh gạt linh hồn tại sự vui thỏa này
chẳng đáng ngạc nhiên. Thật vậy, không đợi ma quỷ xúi giục,
sự vui thỏa hão huyền từ bản chất đã là một sự lệch lạc, nhất
là khi trong lòng đã có chút ngạo mạn về những công việc ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia nói rất đúng: Sự ngạo mạn của ngươi đã
phỉnh gạt ngươi (Gr 49,16). Bởi lẽ còn trò bịp bợm nào lớn
hơn tật ngạo mạn? Và linh hồn sẽ thoát đƣợc tật ngạo mạn này
khi thanh tẩy mình khỏi sự vui thỏa nói trên.
2 – Lợi ích thứ hai là ngƣời ta sẽ làm các công việc tốt
lành cách phù hợp và hoàn chỉnh hơn. Điều này sẽ không có
đƣợc nếu ngƣời ta vẫn còn đam mê sự vui thỏa và thích thú
nơi các công việc ấy. Cái đam mê vui thỏa ấy dẫn đến chỗ dễ
cáu giận và ham dục vọng khi ngƣời ta bị cƣớp mất sự điềm
464 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đạm quân bình của lý trí. Từ đó họ thƣờng đi đến chỗ hay


thay đổi trong các dự phóng cũng nhƣ công việc, bỏ cái này
lấy cái kia, bắt đầu rồi bỏ ngang, chẳng hoàn tất đƣợc chuyện
gì cả. Khi đã hành động dựa theo sự thích thú vốn là yếu tố
hay thay đổi, nhiều ít tùy cá tính, thì nếu thiếu sự thích thú,
họ sẽ ngƣng luôn cả quyết tâm lẫn công việc, dù đó là một
việc có tầm quan trọng. Nơi những ngƣời này, cái thú vị ấy
chính là linh hồn và sức mạnh của công việc họ làm. Mất đi
sự thú vị ấy, công việc của họ liền tiêu ma kết thúc và họ
chẳng còn kiên gan bền chí nữa. Chúa Kitô đã nói về họ nhƣ
sau: Họ vui mừng đón nhận Lời gieo nhưng rồi vì họ thiếu
kiên gan bền chí, lập tức ma quỷ đến cướp lấy ngay (Lc
8,12-13). Sở dĩ thế là vì với họ, tất cả sức mạnh và gốc rễ sâu
xa đều tập trung cả nơi sự vui thỏa ấy. Vì thế, loại bỏ sự vui
thỏa ấy và rút lòng muốn khỏi đó, ngƣời ta sẽ có đƣợc sự bền
chí và thành công. Nhƣ thế, lợi ích ở đây lớn lao ngần nào thì
sự tệ hại ngƣợc lại cũng lớn lao dƣờng ấy. Ngƣời khôn
ngoan sẽ để mắt chăm chú vào bản chất và lợi ích của công
việc chứ không chú tâm vào cái thú vị. Nhƣ thế họ sẽ không
bắn tên vào „không khí‟ (x. 1Cr 9,26), cũng sẽ không đòi các
công cuộc tốt lành phải góp phần làm cho họ vui thỏa, nhƣng
sẽ rút lấy sự vui thỏa vững chắc nơi công việc họ làm mà
không hề chán nản.
3 – Lợi ích thứ ba có tính cách thần linh. Một khi dập
tắt đƣợc sự vui thỏa hão huyền nơi các công việc của mình,
ngƣời ta sẽ thành „nghèo khó trong tâm linh‟, là một trong
những mối phúc thật Con Thiên Chúa đã nói đến: Phúc cho
ai có tinh thần nghèo khó vì Nước trời là của họ (Mt 5,3).
QUYỂN 3 465

4 – Lợi ích thứ tƣ là hễ ai loại bỏ đƣợc sự vui thỏa ấy sẽ


trở nên dịu dàng, khiêm nhƣờng và khôn ngoan trong khi
hành động. Họ sẽ không hành động cách hung hăng và hấp
tấp do bị lòng ham hố và dễ cáu giận (mà sự vui thỏa nói trên
gây ra) thúc đẩy, cũng không hành động cách tự phụ do sự tự
hào về các công việc mình mà niềm vui thỏa ấy đem lại và
cũng không bất cẩn do bị sự vui thỏa ấy khiến cho mù lòa.
5 – Lợi ích thứ năm là làm cho Thiên Chúa lẫn tha nhân
đƣợc hài lòng, tự giải thoát mình khỏi tính tham lam keo
kiệt, háu ăn và sầu muộn tâm linh cũng nhƣ tính ghen tỵ tâm
linh và hàng ngàn nết xấu khác.
466 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 30
Về các đoàn sủng (1) *

Chương này bắt đầu bàn về những điều tốt siêu nhiên,
tức là loại điều tốt thứ năm có thể khiến cho lòng muốn được
vui thỏa. Bản chất chúng là gì? Làm thế nào để phân biệt
chúng với những điều tốt tâm linh? Phải hướng sự vui thỏa
về chúng lên Thiên Chúa bằng cách nào?
1 – Bây giờ chúng ta cần bàn đến loại điều tốt thứ năm
có thể khiến linh hồn vui thỏa, đó là những điều tốt mang
tính siêu nhiên. Ở đây chúng tôi muốn ám chỉ đến mọi quà
tặng và ân sủng Thiên Chúa ban đƣợc gọi là những ơn Chúa
ban không, vƣợt hẳn khả năng và nhân đức tự nhiên. Chẳng
hạn ơn khôn ngoan và thông hiểu Thiên Chúa ban cho vua
Salômôn cũng nhƣ các ân sủng thánh Phaolô nói đến nhƣ:
đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn hiểu
biết và nhận rõ các thần khí, ơn giảng thuyết, ơn nói đƣợc
nhiều ngôn ngữ (1Cr 12,9-10).
2 – Những điều tốt này đúng ra cũng có tính tâm linh
nhƣ loại điều tốt tâm linh sẽ bàn sau nhƣng do có sự khác
biệt lớn lao giữa hai loại nên tôi muốn tách riêng ra ở đây.
Việc thực thi những điều tốt siêu nhiên này trực tiếp liên hệ
đến lợi ích của nhiều ngƣời và Thiên Chúa đã ban những ơn
này chính là vì lợi ích và mục đích ấy; nhƣ lời thánh Phaolô:
Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung
(1Cr 12,7). Câu này đƣợc hiểu về các ơn siêu nhiên chúng ta
đang đề cập. Còn đối với các ân sủng tâm linh gồm việc thể
QUYỂN 3 467

hiện và thông giao chỉ diễn ra giữa Thiên Chúa và linh hồn
trong sự hiệp thông của trí hiểu và lòng muốn... chúng tôi sẽ
bàn sau.
Nhƣ thế, giữa hai loại ân sủng này có sự khác biệt về
đối tƣợng. Đối tƣợng của các ơn tâm linh là Đấng Tạo Hóa
và linh hồn, còn đối tƣợng của các ơn siêu nhiên là loài thụ
tạo. Đồng thời cũng có sự khác biệt về bản chất nên sẽ khác
nhau trong hoạt động và nhất định cũng phải khác nhau về
mặt học thuyết.
3 – Tuy nhiên bây giờ hãy bàn đến các quà tặng và ơn
siêu nhiên theo lối hiểu của chúng ta ở đây. Tôi xin nói rằng
để thanh tẩy sự vui thỏa hão huyền nơi các ơn siêu nhiên
này, ta phải nhớ rằng chúng bao gồm hai ơn ích: vật chất và
tâm linh.
Ơn ích vật chất là việc chữa lành bệnh nhân, làm cho kẻ
mù đƣợc thấy, phục sinh kẻ chết, khử trừ ma quỷ, dự báo
tƣơng lai để thiên hạ đề phòng và các ơn ích khác cùng loại.
Ơn ích tâm linh và trƣờng cửu: nhờ những việc nói trên,
Thiên Chúa đƣợc nhận biết và phụng sự nơi ngƣời thực hiện
cũng nhƣ nơi ngƣời thụ hƣởng những việc ấy.
4 – Về ơn ích thứ nhất, thuộc phƣơng diện vật chất,
các việc làm và phép lạ siêu nhiên đƣợc xem là ít đáng hoặc
không đáng cho linh hồn vui thỏa. Nếu loại trừ phần ơn ích
tâm linh ra, chúng sẽ chỉ còn ít quan trọng hoặc chẳng quan
trọng gì cả đối với con ngƣời. Bởi lẽ tự chúng, chúng không
phải là phƣơng thế nối kết linh hồn với Thiên Chúa. Chỉ có
468 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

đức mến mới nối kết đƣợc. Thế nhƣng ngƣời ta có thể thực
hiện các việc và các ơn siêu nhiên ấy mà không ở trong tình
trạng ơn thánh và đức mến; dù vẫn thật sự là chính Thiên
Chúa ban cho họ các ơn ấy nhƣ trƣờng hợp ngôn sứ Balaam
(x. Ds 2,20) và trƣờng hợp vua Salômôn. Cũng có ngƣời,
nhƣ trƣờng hợp Simon Phù Thủy, làm đƣợc những điều ấy
cách giả tạo nhờ ma quỷ (x. Cv 8,9-11), hoặc do những
năng lực tự nhiên bí mật khác. Chỉ những công việc và kỳ
công nào sinh ích cho kẻ thực hiện chúng mới đích thực là
ân sủng Thiên Chúa ban. Còn những chuyện kỳ lạ không
kèm theo ơn ích tâm linh và trƣờng cửu, thì thánh Phaolô
nói rõ: Giả như nếu tôi nói được các thứ tiếng của loài
người và của các thiên thần mà không có đức mến thì tôi
cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng. Giả như tôi được nói tiên tri và được biết hết
mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu và nếu tôi có đức tin
toàn vẹn đến độ chuyển dời núi non mà không có đức mến
tôi vẫn chỉ là không vv... (1Cr 13,1-2).
Tự hào về công việc mình đã làm theo kiểu ấy, nhiều
ngƣời muốn xin Chúa Kitô ban vinh quang sẽ thƣa Ngài:
Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên
tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm
nhiều phép lạ đó sao? Nhƣng Chúa sẽ trả lời họ: Xéo đi cho
khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! (Mt 7,22-23).
5 – Nhƣ vậy, ngƣời ta nên vui thỏa không phải vì mình
có đƣợc và đang hƣởng dùng những ơn ấy nhƣng chỉ vì từ đó
mình đã rút ra đƣợc hoa quả tâm linh thứ hai, tức là đã nhờ
chúng mà có thể phụng sự Thiên Chúa với một đức mến
QUYỂN 3 469

chân thực là thứ sẽ sinh hoa kết quả trong cuộc sống đời đời.
Do đó, khi thấy các môn đệ hí hửng vui thỏa vì xua trừ đƣợc
ma quỷ, Chúa Cứu Thế đã trách họ: Các con chớ vui thỏa vì
đã khuất phục lũ quỉ ma nhưng hãy vui thỏa vì tên các con
được ghi vào sách hằng sống (Lc 10,20). Theo thần học
chính thống, lời này muốn nói: “Hãy vui thỏa nếu tên các
con đƣợc ghi vào sách hằng sống”. Thế nên phải hiểu rằng
ngƣời ta chỉ đƣợc vui thỏa khi đi trên con đƣờng đƣa tới sự
sống tức là làm các công việc trong đức mến. Thử hỏi những
việc không làm vì lòng mến Chúa nào ích gì và đáng giá gì
trƣớc nhan Ngài? Lòng mến sẽ không hoàn thiện nếu nó
không mạnh mẽ và kín đáo thanh tẩy sự vui thỏa nơi mọi vật
để chỉ vui thỏa nơi việc làm tròn thánh ý Thiên Chúa mà
thôi. Chỉ theo cách ấy, lòng muốn mới đƣợc nên một với
Thiên Chúa qua những điều tốt siêu nhiên này.
470 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 31
Về các đoàn sủng (2) *

Chương này bàn về những thiệt hại xảy ra cho linh hồn
khi để cho lòng muốn tìm vui thỏa nơi những điều tốt siêu
nhiên.
1 – Theo tôi thấy, linh hồn có thể rơi vào ba tệ hại
chính khi tìm vui thỏa nơi những điều tốt siêu nhiên: thứ nhất
linh hồn sẽ vừa phỉnh gạt vừa bị phỉnh gạt, thứ hai là thiệt
hại về đức tin và thứ ba là thói ham danh hoặc một thứ hão
huyền nào đó.
2 – Tệ hại thứ nhất: Khi hí hửng vui thỏa nơi những
công việc loại này ngƣời ta rất dễ phỉnh gạt kẻ khác và chính
mình. Lý do là vì muốn nhận rõ thật giả nơi những việc ấy,
muốn biết đƣợc nên làm những việc ấy cách nào và khi nào,
phải đƣợc nhiều khôn ngoan và ánh sáng từ Thiên Chúa, thế
nhƣng cả hai điều này đều bị cản trở rất nhiều do sự vui thỏa
và tự hào về những việc ấy.
Sở dĩ thế là vì hai lý do: Thứ nhất, sự vui thỏa làm cùn
nhụt và tăm tối trí phán đoán. Thứ hai, do thích thú với việc
này ngƣời ta không những mong muốn chúng đƣợc thực hiện
nhanh mà còn cảm thấy bị thúc bách phải thi hành chúng khi
chƣa phải lúc.
Giả sử các điềm thiêng và dấu lạ ngƣời ta làm là chân
thực thì hai khuyết điểm ấy cũng đủ khiến họ thƣờng xuyên
bị phỉnh gạt hoặc do không hiểu cho đúng cách, hoặc do
QUYỂN 3 471

không vận dụng đƣợc chúng và không dùng chúng theo cách
thức và thời điểm thích hợp. Khi ban các quà tặng và ân sủng
ấy, quả thực Thiên Chúa cũng ban cho họ ánh sáng và động
lực để biết phải làm cách nào và lúc nào, tuy nhiên có thể do
ham chiếm hữu và còn bất toàn, họ bị phỉnh gạt nghiêm
trọng, không dùng những ơn ấy cách hoàn hảo nhƣ Thiên
Chúa mong muốn, cũng không theo đúng cách thức và thời
điểm Ngài muốn. Nhƣ chúng ta đọc thấy trong câu chuyện
Balaam. Ông này muốn làm điều trái ý Thiên Chúa khi quyết
ra đi nguyền rủa dân Israel, khiến Thiên Chúa phẫn nộ, muốn
giết ông (Ds 22, 22-23). Thêm nữa là chuyện hai thánh Tông
đồ Giacôbê và Gioan muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy
đám dân Samaria vì họ từ chối đón tiếp Chúa, thế nhƣng
Chúa đã khiển tránh hai ông về điều đó (Lc 9,54-55).
3 – Đã rõ là ở đây những ngƣời đƣợc ơn đã bị một động
cơ lệch lạc nào đó thúc đẩy làm các việc ấy vào một lúc
không thích đáng, có thể la do quá coi trọng các việc ấy hoặc
do đƣợc vui thỏa và tự hào về chúng. Còn những ngƣời đã
thoát khỏi sự bất toàn sẽ chỉ đƣợc thôi thúc và quyết định
làm những việc ấy vào đúng lúc và theo đúng cách Thiên
Chúa thúc đẩy họ, bằng không họ sẽ xem nhƣ chƣa tới lúc
thích hợp. Trong sách Giêrêmia, Thiên Chúa đã phàn nàn về
một số ngôn sứ nhƣ sau: Ta chẳng sai chúng làm ngôn sứ thế
mà chúng cứ chạy, Ta chẳng hề nói với chúng thế mà chúng
vẫn tuyên sấm! (Gr 23,21). Ở chỗ khác Chúa phán: Chúng đã
phỉnh gạt dân Ta bằng lời dối trá và các phép lạ của chúng
trong khi Ta chẳng hề truyền bảo chúng mà cũng chẳng sai
chúng đi (Gr 23,32). Cũng ở đoạn trên, Chúa nói về bọn
472 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

ngôn sứ ấy nhƣ sau: Chúng đã trông thấy thị kiến của chính
tâm hồn chúng rồi công bố ra (Gr 23,26). Nếu họ không
quyến luyến cách đáng tởm đối với các việc ấy thì hẳn đã
chẳng xẩy ra nhƣ thế!
4 – Những trích dẫn trên cho thấy cái tệ hại của sự vui
thỏa này không chỉ là đƣa ngƣời ta đến chỗ vận dụng cách lệch
lạc các ơn Thiên Chúa ban, nhƣ Balaam và các ngôn sứ giả đã
từng làm nhiều phép lạ để phỉnh gạt thiên hạ, mà còn đƣa
ngƣời ta tới chỗ làm những việc không đƣợc Thiên Chúa chỉ
định, chẳng hạn công bố ra những thị kiến tự tạo hoặc những
chuyện do quỉ ma bày vẽ cho họ. Khi ma quỷ thấy các vị này
say mê những chuyện ấy, nó liền cung cấp cho họ mảnh đất
rộng rãi với thật nhiều chất liệu. Nó xen mình vào đó bằng
nhiều cách thức và thế là các vị nọ giƣơng buồm và tung hoành
thực hiện các “kỳ công” ấy một cách táo bạo trơ trẽn.
5 – Không phải chỉ có thế! Sự vui thỏa và lòng ham hố
các công chuyện ấy còn đẩy họ xa hơn. Nếu nhƣ trƣớc đây
họ chỉ ngấm ngầm hợp đồng với ma quỷ (bởi nhiều ngƣời
trong số họ làm những việc ấy qua một giao ƣớc bí mật), nay
họ lại dám công khai và minh nhiên giao kết trở thành đồ đệ
và theo phe ma quỷ. Do đó mới có những thầy phù thủy, thầy
ngải, thầy ma thuật, thầy bói, thầy pháp.
Sự vui thỏa nơi những việc ấy còn đi xa tới chỗ một số
ngƣời, nhƣ trƣờng hợp phù thủy Simon (Cv 8,18), chẳng những
muốn dùng tiền bạc để mua những ơn ấy hòng phục vụ ma quỷ
mà còn tìm cách cho có đƣợc các đồ vật linh thánh và những
điều thuộc về Thiên Chúa (ta không thể nhắc đến mà không run
QUYỂN 3 473

rẩy). Có trƣờng hợp thật đáng kinh hãi nhƣ Mình Thánh Chúa
Giêsu Kitô rất đáng tôn thờ của chúng ta đã bị họ cƣỡng chiếm
để dùng vào các việc gian tà ghê tởm của họ. Cầu xin Chúa mở
rộng lòng thƣơng xót tha thứ!
6 – Ai cũng có thể hiểu những kẻ trên đây đã gây thiệt
hại cho chính họ cũng nhƣ cho Kitô giáo biết bao. Cần ghi
nhận sự kiện những thầy đồng bóng và bói toán từng sống
giữa con cái Israel và đã bị vua Saulê trục xuất khỏi xứ. Vì
muốn bắt chƣớc các vị ngôn sứ chân chính của Thiên Chúa,
họ đã rơi vào những điều ghê tởm ấy và đã làm hại cho biết
bao ngƣời(x. 1Sm 28,3).
7 – Nhƣ vậy, ngƣời nào đƣợc Thiên Chúa ban cho
những ơn siêu nhiên ấy thì khi hành động cần tránh ham hố
và vui thỏa nơi ơn ấy và cần cẩn trọng khi thể hiện ơn ấy (tức
là chẳng nên bận tâm đến việc mình đang thi thố những
chuyện đó - ND) bởi lẽ Thiên Chúa đã ban cho họ những ơn
ấy cách siêu nhiên là nhằm phục vụ lợi ích cho Hội thánh
hoặc các thành viên trong đó. Ngài cũng sẽ thôi thúc họ cách
siêu nhiên để biết phải làm cách nào và lúc nào cho đúng.
Bởi vì, chính Chúa đã dạy các tín hữu Ngài đừng lo sẽ nói gì
và nói cách nào (Mt 10,19), vì đó là một vấn đề siêu nhiên
thuộc đức tin. Những sự việc đang nói đây thuộc lãnh vực
siêu nhiên, nên Thiên Chúa cũng muốn những ngƣời đƣợc
các ơn này phải chờ đợi Ngài hành động qua việc thôi thúc
tâm hồn họ, bởi lẽ mọi năng lực đều phải đƣợc thực thi bởi
quyền năng Thiên Chúa (Tv 59,14). Vì thế, trong sách Công
Vụ Tông Đồ (Cv 4,29-30), ta thấy các môn đệ mặc dầu đã
đƣợc phú ban cho các ơn ấy, vẫn khẩn nài Chúa thƣơng đƣa
474 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tay làm các dấu lạ, điềm thiêng và chữa lành bệnh nhân
thông qua các ngài ngõ hầu dẫn dắt các tâm hồn tin vào Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
8 – Thiệt hại thứ hai có thể đến từ thiệt hại thứ nhất là
tổn hại về đức tin. Nó liên quan đến hai phía:
- Thứ nhất liên quan đến những ngƣời khác: vì kẻ đƣợc
ơn ấy cố tình thực hiện các việc diệu kỳ và thi thố quyền năng
không đúng lúc và không cần thiết nên họ đã thử thách Thiên
Chúa – đây là một trọng tội. Tiếp đến, nếu việc ấy không thành
công thì sẽ làm nảy sinh nơi các tâm hồn sự suy giảm tin tƣởng
và khinh dể đức tin. Đôi khi việc thực hiện trái thời vẫn đƣợc
thành công bởi lẽ Thiên Chúa muốn nhƣ thế vì những lý do và
động cơ khác – nhƣ trƣờng hợp mụ phù thủy của vua Saulê
(1Sm 28,12 tt) nếu quả thực ngôn sứ Samuel đã hiện ra với mụ.
Tuy nhiên, ngƣời ta vẫn không khỏi sai lầm và đắc tội bởi đã
dùng các ơn ấy không đúng lúc đúng thời.
- Thứ hai liên quan ngƣời thực hiện những việc nói
trên: Họ có thể bị thiệt hại về công trạng đức tin, bởi việc
quá tự hào về các “phép lạ” này làm suy yếu nếp quen cơ bản
của đức tin, vốn quen đi trong tăm tối. Quả vậy, nơi nào càng
có nhiều dấu lạ và chứng tích thì càng ít công trạng đức tin.
Vì thế thánh Grêgôriô nói rằng đức tin sẽ chẳng còn công
trạng một khi lý trí con ngƣời có thể kiểm định đƣợc (bài
giảng 26 về Tin Mừng I Pl. 76,1197).
Do đó, Thiên Chúa không bao giờ thực hiện các việc
diệu kỳ trừ khi chúng cần để giúp ngƣời ta tin.
QUYỂN 3 475

Chúa không muốn các môn đệ bị mất công trạng do chỉ


tin Ngài sau khi nhìn thấy Ngài đã từ cõi chết sống lại. Do
đó, trƣớc khi chính thức tỏ mình ra cho họ, Chúa đã làm
nhiều điều giúp họ tin Ngài dù không nhìn thấy Ngài.
Trƣờng hợp Maria Mađalêna cũng thế, chị đƣợc chỉ cho thấy
ngôi mộ trống rồi sau đó mới đƣợc các thiên sứ báo cho biết
Chúa đã sống lại (Lc 24,3-7; Ga 20,1-2). Nhƣ lời thánh
Phaolô, đức tin đến từ việc nghe nói (Rm 10,17), nhờ nghe
lời thiên sứ, Maria đã tin trƣớc khi nhìn thấy Chúa. Cả khi
chị trông thấy Chúa, Chúa cũng chỉ mặc hình dáng một
ngƣời bình thƣờng để qua sự hiện diện nồng ấm của Ngài,
Ngài hoàn tất công việc dạy dỗ chị về niềm tin còn thiếu sót
của chị. (Ga 20,11-18; Mt 28,1-6; Lc 24, 4-10). Về phần các
môn đệ, trƣớc hết Chúa sai các phụ nữ đến báo tin cho họ rồi
họ chạy tới xem ngôi mộ (Ga 20,1-10; Mt 28,7-8). Với hai
môn đệ trên đƣờng về Emmau (Lc 24,35), Chúa đã tàng hình
theo bƣớc họ và đã hâm nóng đức tin trong lòng họ trƣớc khi
cho họ đƣợc nhận biết Ngài. Cuối cùng Chúa khiển trách tất
cả môn đệ Ngài vì đã không chịu tin những kẻ tƣờng thuật
cho họ về việc Ngài phục sinh (Mc 16,14). Ngài cũng khiển
trách thánh Tôma vì ông muốn chạm vào các thƣơng tích
Ngài rồi mới chịu tin và Chúa đã phán với ông rằng phúc cho
ai không thấy mà tin (Ga 20,29).
9 – Quả là Chúa thƣờng chẳng thích làm phép lạ. Nếu
Ngài có làm cũng chỉ là vạn bất đắc dĩ. Bởi thế Chúa đã
khiển trách các biệt phái bởi đám này chỉ chịu tin khi nào
Chúa ban cho họ những dấu lạ. Ngài phán: Nếu các ngươi
chẳng thấy những sự kỳ diệu và những dấu lạ, hẳn các ngươi
476 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chẳng tin (Ga 4,48). Do đó, kẻ nào khoái chí vui thỏa nơi
những chuyện siêu nhiêu này sẽ bị thiệt thòi nhiều về phƣơng
diện đức tin.
10 – Tệ hại thứ ba là do hí hửng vui thỏa về những
công việc này, ngƣời ta thƣờng bị rơi vào chỗ ham danh hoặc
hão huyền nào đó. Sự vui thỏa nơi các kỳ công ấy không
thuần túy đặt vào Chúa và vì Chúa cho nên thật hão huyền.
Bằng cứ là Chúa đã khiển trách các môn đệ vì đã vui thỏa
khoái chí về việc bọn quỉ bị họ khắc phục (Lc 10,20). Nếu sự
vui thỏa ấy không mang tính hão huyền thì hẳn Chúa đã
chẳng trách cứ họ.
QUYỂN 3 477

Chương 32
Về các đoàn sủng (3) *

Chương này bàn về hai lợi ích nhờ biết từ bỏ sự vui


thỏa nơi các ân sủng siêu nhiên.
1 – Một khi biết từ bỏ sự vui thỏa ấy, ngoài những lợi
ích gặt hái đƣợc từ sự giải thoát mình khỏi ba tệ hại trên, linh
hồn còn nhận đƣợc hai lợi ích tuyệt hảo khác.
Một là tôn vinh và tán dƣơng Thiên Chúa. Thứ hai là
linh hồn đƣợc nâng cao.
Thiên Chúa đƣợc tán dƣơng nơi linh hồn theo hai cách:
Thứ nhất là bằng cách rút cõi lòng và sự vui thỏa của
lòng muốn khỏi tất cả những gì không phải là Thiên Chúa để
chỉ tập trung vào Chúa mà thôi. Vua Đavít muốn nói đến
điều này qua câu thơ đã trƣng dẫn ở đầu phần bàn về đêm tối
của lòng muốn: Linh hồn con đã khát khao Ngài, miệng lưỡi
này xin ca ngợi tán dương (Tv 62/63,2. 4), bởi một khi nâng
cõi lòng vƣợt lên trên mọi sự, linh hồn sẽ tán dƣơng Thiên
Chúa hơn hết mọi sự ấy.
2 – Linh hồn chỉ tập trung vào một mình Thiên Chúa
nên Thiên Chúa sẽ đƣợc tán dƣơng và tôn vinh bằng cách
biểu lộ cho linh hồn sự tuyệt hảo và cao cả của Ngài, vì khi
linh hồn nâng cao sự vui thỏa của nó lên Ngài, Thiên Chúa
sẽ ban cho nó một chứng tích về chính Ngài. Điều này chỉ
đƣợc thực hiện khi ta xóa sạch khỏi lòng muốn sự vui thỏa
478 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

và niềm an ủi về mọi sự, nhƣ lời Thiên Chúa phán qua miệng
vua Đavít: Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa! (Tv
45/,11). Vua Đavít cũng nói nơi khác: Linh hồn con đã khát
khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất
hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn
Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của
Ngài (Tv 62/63,2-3). Quả thực Thiên Chúa đã đƣợc tán
dƣơng khi ta tách lìa khỏi mọi sự vật và chỉ đặt niềm vui thỏa
nơi Ngài, thì khi ta rút sự vui thỏa của ta khỏi những điều kỳ
diệu để chỉ tập trung vào Ngài, Ngài còn đƣợc tán dƣơng
nhiều hơn bởi lẽ những điều kỳ diệu ấy thuộc lãnh vực siêu
nhiên nên có giá trị cao hơn những điều kia. Khi ta buông bỏ
chúng lại đàng sau để hƣớng sự vui thỏa về một mình Thiên
Chúa, là ta dành cho Thiên Chúa sự vinh quang và tuyệt hảo
lớn lao hơn dành cho những kỳ diệu ấy. Quả thật, vì ai đó mà
ta càng coi nhẹ nhiều điều kể cả những điều lớn lao thì càng
chứng tỏ ta quý trọng và tôn dƣơng ngƣời ấy.
3 – Thêm vào đó, Thiên Chúa còn đƣợc tán dƣơng theo
cách thứ hai, khi ta rút lòng muốn ra khỏi loại công việc ấy.
Ta càng tin tƣởng Thiên Chúa và phục vụ Ngài mà không
cần đến các điềm thiêng và dấu lạ, thì càng tôn vinh Thiên
Chúa hơn, bởi ta đang tin vào Thiên Chúa hơn những gì các
các điềm thiêng và dấu lạ ấy có thể nói với ta về Ngài.
4 – Lợi ích thứ hai là linh hồn đƣợc nâng cao, bởi khi
đã triệt thoái lòng muốn khỏi mọi chứng tích và dấu chỉ tỏ
tƣờng. Linh hồn sẽ đƣợc nâng cao lên trong một đức tin rất
tinh tuyền mà Thiên Chúa tuôn đổ vào linh hồn và gia tăng
phong phú thêm gấp bội. Cùng với đức tin ấy, Thiên Chúa
QUYỂN 3 479

cũng gia tăng cho linh hồn hai nhân đức đối thần còn lại là
đức mến và đức cậy. Từ đó linh hồn hƣởng đƣợc những tri
thức rất cao vời về Thiên Chúa nhờ nếp quen tăm tối và trơ
trụi của đức tin. Linh hồn còn đƣợc vui hƣởng niềm hoan lạc
lớn lao của tình yêu nhờ đức mến, nhờ đó lòng muốn chẳng
vui thỏa nơi bất cứ điều gì ngoài vị Thiên Chúa hằng sống.
Rồi nhờ vào đức cậy, linh hồn cũng hƣởng đƣợc sự thỏa mãn
trong dạ nhớ. Tất cả những điều ấy là một lợi ích diệu kỳ có
tầm quan trọng thiết yếu và trực tiếp đối với sự nên một hoàn
hảo giữa linh hồn và Thiên Chúa.
480 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 33
Những điều tốt tâm linh *

Chương này bàn về bản chất những điều tốt về mặt tâm
linh, tức là loại điều tốt thứ sáu có thể khiến cho lòng muốn
được vui thỏa. Cách phân loại thứ nhất.
1 – Điều chúng tôi nhắm đến nơi tác phẩm này là
hƣớng dẫn các linh hồn để, thông qua những điều tốt tâm
linh, họ đạt tới sự nên một với Thiên Chúa. Vì thế đã đến
lúc chúng ta phải bàn đến loại thứ sáu trong các loại điều
tốt, những điều tốt về mặt tâm linh, là những điều giúp ích
nhiều nhất cho vấn đề này. Cả bạn đọc lẫn chúng tôi đều
phải đặc biệt cẩn trọng xem xét nhận định. Bởi lẽ, do thiếu
hiểu biết, thƣờng một số ngƣời chỉ dùng những điều tốt
tâm linh vào việc phục vụ cho giác quan và bỏ mặc cho
tâm linh trống rỗng. Hiếm có ai không bị cái thú vị cảm
giác đánh cắp mất cái trội vƣợt nơi những điều tốt tâm
linh, hút hết nguồn nƣớc trƣớc khi nƣớc đến đƣợc với phần
tâm linh, khiến tâm linh bị bỏ mặc trong nỗi khát khô và
trống rỗng.
2 – Bàn tới đề tài này tôi xin thƣa rằng những điều tốt
về mặt tâm linh nói đây bao gồm tất cả những gì thúc đẩy và
trợ lực ta vƣơn tới những những tại thần linh, để linh hồn
trao đổi, chuyện vãn với Thiên Chúa và thực hiện những
cuộc hiệp thông giữa Thiên Chúa và linh hồn.
3 – Ta hãy bắt đầu phân chia từ những bậc cao nhất.
Tôi xin nói rằng có hai loại điều tốt tâm linh: một loại “thú
QUYỂN 3 481

vị” và một loại “đau đớn”. Mỗi loại này lại còn phân thành
hai thứ. Nơi loại “thú vị” có những thứ rõ rệt, có thể hiểu
đƣợc phân minh và những thứ khác không hiểu đƣợc rõ rang
và minh bạch. Nơi loại “đau đớn” cũng vậy, một số thì rõ
ràng phân minh, một số thì mơ hồ và tăm tối.
4 – Ta cũng có thể phân biệt tất cả những điều tốt nói
trên dựa theo các quan năng của linh hồn. Một số là những
nhận thức thì thuộc về trí hiểu; số khác mang tính cách tình
cảm thì thuộc lòng muốn; số còn lại có tính tƣởng tƣợng
thuộc về dạ nhớ.
5 – Những loại điều tốt “đau đớn” thuộc về đêm thuận
tình, chúng tôi sẽ nói đến khi bàn về đêm này. Chúng tôi
cũng sẽ bàn riêng loại “thú vị” mơ hồ, không phân minh vào
phần sau cùng, bởi chúng thuộc về các nhận thức chung
chung, mơ hồ, trìu mến nơi diễn ra sự nên một giữa linh hồn
với Thiên Chúa. Điểm này chúng tôi cũng để sang quyển
sau. Còn bây giờ xin đề cập tới ở đây những điều tốt thú vị
thuộc các sự vật rõ ràng và phân minh.
482 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 34
Những điều tốt tâm linh cụ thể *

Chương này bàn về những điều tốt tâm linh đập vào trí
hiểu và dạ nhớ cách cụ thể. Lòng muốn phải xử sự thế nào
đối với sự vui thỏa trước những điều tốt ấy.
1 – Chắc hẳn, nếu nhắm chỉ dẫn cho lòng muốn biết
cách xử sự đối với cái vui thỏa những nhận thức thuộc trí
hiểu và dạ nhớ mang lại, ở đây chúng ta sẽ phải bàn nhiều
điều liên quan tới vô số những nhận thức loại ấy. Tuy nhiên
chúng ta đã bàn khá rộng rãi vấn đề này nơi cuốn thứ hai và
thứ ba này. Chúng ta đã trình bày cách thức hai quan năng ấy
(trí hiểu và dạ nhớ) cần xử sự với những nhận thức ấy để tiến
đến nên một với Thiên Chúa. Thái độ của lòng muốn trƣớc
điểm này cũng tƣơng tự, ở đây chẳng cần phải lặp lại. Chỉ
cần lƣu ý rằng hễ chỗ nào đã nói trí hiểu và dạ nhớ phải xóa
mình khỏi một điều đã nhận thức nào đó thì đƣơng nhiên
lòng muốn cũng phải loại trừ sự vui thỏa của nó đối với điều
ấy. Dạ nhớ và trí hiểu xử sự nhƣ thế nào đối với tất cả các
điều đã nhận thức ấy thì lòng muốn cũng phải xử sự y nhƣ
thế, bởi lẽ trí hiểu và các quan năng khác không thể thừa
nhận hay phủ nhận một điều gì mà không có sự can thiệp của
lòng muốn, bởi cùng chung một nguyên tắc nên đã áp dụng
cho quan năng này thì cũng áp dụng cho quan năng kia.
2 – Bạn đọc cần nắm vững những gì cần làm trong vấn đề
này, bởi vì linh hồn sẽ rơi vào mọi tệ hại ấy nếu không biết cách
hƣớng sự vui thỏa nơi những nhận thức ấy lên với Thiên Chúa.
QUYỂN 3 483

Chương 35
Những điều tốt tâm linh cụ thể (2) *
Chương này bàn về những điều tốt tâm linh thú vị đập vào
lòng muốn cách cụ thể. Chúng xảy đến bằng những cách nào.
1 – Từ tất cả những điều tốt có thể mang đến cho lòng
muốn sự vui thỏa cách cụ thể, có thể qui về bốn loại: lay
động, thôi thúc, hƣớng dẫn và kiện toàn. Chúng ta sẽ bàn
theo thứ tự; trƣớc hết là loại lay động gồm các ảnh tƣợng và
chân dung các vị thánh, các nguyện đƣờng và các nghi lễ.
2 – Về các ảnh tƣợng và chân dung các vị thánh, có thể
xảy ra nhiều thứ phù phiếm và những sự vui thỏa hão huyền.
Những thứ này vốn có tầm quan trọng trong việc thờ phụng
Thiên Chúa và cần thiết để lay động lòng muốn chúng ta
hƣớng tới lòng sùng mộ, nhƣ sự phê chuẩn và thói quen Mẹ
Hội thánh chúng ta cho thấy. Vì thế, chúng ta nên luôn vận
dụng chúng để hâm nóng sự nguội lạnh của chúng ta. Thế
nhƣng nhiều ngƣời lại lo tìm vui thỏa nơi nghệ thuật hội họa
và cách trang trí của những ảnh tƣợng ấy hơn là những gì
chúng biểu thị.
3 – Việc sử dụng ảnh tƣợng đƣợc Hội thánh truyền dạy
nhằm hai mục đích chính: Một là để tỏ lòng tôn kính các
thánh qua các ảnh tƣợng, hai là nhờ đó lay động lòng muốn
và khơi dậy lòng sùng kính đối với các ngài. Với chủ đích
ấy, ảnh tƣợng rất hữu ích, cho nên việc sử dụng chúng là
điều cần thiết. Vì thế, ngƣời ta phải luôn luôn chọn lựa
những thứ ảnh tƣợng phù hợp, sống động, lay động lòng
484 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

muốn tới chỗ sùng mộ nhiều nhất. Phải chú ý vào điều này
hơn là vào giá trị hay sự cầu kỳ nơi kiểu cách trang hoàng
đẹp đẽ. Bởi nhƣ tôi vừa nói, có một số ngƣời thƣờng chăm
chú vào sự cầu kỳ và giá trị của ảnh tƣợng hơn là những gì
chúng biểu thị. Lẽ ra phải nâng lòng sùng kính nội tâm lên
tới vị thánh vô hình và quên ngay đi cái hình tƣợng vốn chỉ
là yếu tố lay động, họ lại hƣớng hết lòng trí vào vẻ mỹ thuật
và sự trang hoàng cầu kỳ bên ngoài đến nỗi giác quan họ
đƣợc thỏa thuê vui khoái nơi đó và tình yêu lẫn lòng muốn
của họ dừng lại nơi đó. Đó là một trở ngại lớn cho đƣờng
tâm linh chân chính vốn đòi phải xóa sạch mọi quyến luyến
vào tất cả những gì cụ thể.
4 – Ngƣời ta thấy rõ điều này nơi thói quen đáng tởm
của một số ngƣời thời đại chúng ta. Thay vì gớm ghét cái kiểu
cách hão huyền thế tục, họ lại tô điểm các ảnh tƣợng bằng
những đồ trang sức mà những kẻ phù phiếm nghĩ ra để thỏa
mãn thói tiêu khiển và những thứ hão huyền của mình. Họ
mặc cho ảnh tƣọng thứ y phục mà nếu chính họ khoác vào
ngƣời sẽ bị kết án, điều này đã và đang khiến cho các vị thánh
mà các ảnh tƣợng ấy biểu thị cũng phải ghê tởm. Họ hợp tác
với ma quỷ để ra sức “phong thánh” cho những chuyện hão
huyền, xúc phạm nặng nề đến các vị thánh. Với kiểu đó, lòng
sùng kính chân thực và trang trọng của linh hồn - vốn loại trừ
và ném xa mọi thứ hão huyền hoặc dấu vết của nó - sẽ biến
thành chuyện trang điểm cho búp bê. Một số ngƣời thậm chí
đang dùng các ảnh tƣợng nhƣ những tƣợng thần chỉ để tìm vui
thỏa nơi đó! Bởi thế, bạn sẽ thấy một số ngƣời không ngớt sƣu
tập ảnh này tƣợng nọ, chọn lựa chúng theo đúng kiểu này cách
QUYỂN 3 485

nọ rồi sắp đặt chúng kiểu nọ kiểu kia sao cho giác quan đƣợc
thỏa thích, còn sự sùng kính trong lòng họ thì rất ít ỏi. Họ gắn
bó với ảnh tƣợng hệt nhƣ Mikha hoặc Laban đã từng quyến
luyến với các tƣợng thần của mình. Mikha đã chạy ra khỏi nhà
miệng la ó lên vì các tƣợng thần đã bị cƣớp mất còn Laban
sau khi rong ruổi đƣờng trƣờng lòng đầy phẫn nộ, đã xô đổ đồ
đạc của Giacóp để tìm cho ra các tƣợng thần của ông ta. (Tl
18,23-24; St 31,33-34).
5 – Những ngƣời có lòng sùng kính chân chính sẽ
hƣớng lòng sùng mộ của họ chủ yếu vào những gì vô hình.
Họ ít cần dùng đến nhiều ảnh tƣợng và nếu có dùng thì chỉ
dùng ảnh tƣợng nào phù hợp với những nét thần linh hơn là
những nét nhân loại. Họ làm cho các ảnh tƣợng ấy cùng với
chính họ phù hợp với kiểu cách của thế giới bên kia và phù
hợp thực trạng của các vị thánh chứ không phải theo kiểu
cách trần thế. Nhờ đó chẳng những hình ảnh trần gian không
khuấy động mê thích của họ mà trái lại họ sẽ chẳng tƣởng
nhớ đến cõi gian trần này nữa bởi những ảnh tƣợng trƣớc
mắt họ chẳng còn chút dáng dấp trần gian nào. Lòng chẳng
còn quyến luyến với những của cải đang sử dụng, nên họ
chẳng lo lắng nhiều nếu thiên hạ lấy mất các vật ấy. Họ tìm
kiếm hình ảnh sống động là Đức Kitô chịu đóng đinh ngay
nơi chính mình, do đó họ vui lòng bị tƣớc đoạt hết mọi sự và
bị vất bỏ lại trần trụi, chẳng có gì.
Ngay cả khi các yếu tố lay động lẫn các phƣơng thế đƣa
họ đến gần Thiên Chúa hơn bị lấy mất, họ vẫn bình tâm.
Thiếu các yếu tố lay động ấy mà vẫn bình lặng và vui thỏa,
linh hồn sẽ đạt đƣợc sự hoàn thiện lớn hơn là khi chiếm hữu
486 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

các yếu tố ấy với sự mê thích và quyến luyến. Niềm vui khi


có đƣợc những ảnh tƣợng dễ giúp linh hồn đạt tới lòng sùng
mộ hơn là một điều tốt đẹp (vì thế, cần phải chọn thứ ảnh
tƣợng nào lay động tâm hồn nhiều hơn), tuy nhiên, sẽ không
hoàn thiện nếu quá gắn bó với chúng nhƣ thể muốn chiếm
hữu chúng đến độ nếu bị lấy mất thì đâm ra buồn sầu.
6 – Nên xác tín rằng linh hồn càng mong ƣớc chiếm hữu
các ảnh tƣợng hay những gì dễ lay động họ thì lòng sùng kính
và lời nguyện của họ càng ít bay lên với Thiên Chúa. Đúng
thực là có một số ảnh tƣợng diễn tả chân xác hơn và thôi thúc
lòng sùng mộ nhiều hơn các ảnh tƣợng khác, và do đó nên quí
chuộng chúng hơn các ảnh tƣợng khác, nhƣng không đƣợc
chiếm hữu và quyến luyến chúng theo nhƣ cách tôi đã trình bày
ở trên. Phải làm sao để tâm linh nhờ chúng mà bay lên với
Thiên Chúa và quên ngay tƣợng này ảnh nọ, thay vì bị nhận
chìm trong sự vui thỏa nơi các dụng cụ. Những dụng cụ này lẽ
ra chỉ đƣợc dùng để giúp linh hồn tiến bộ, giờ đây vì sự bất
toàn của ta chúng lại thành vật cản trở, không kém gì sự cản trở
do gắn bó và chiếm hữu bất cứ sự vật nào khác.
7 – Nếu chƣa hiểu rõ về sự trơ trụi và nghèo khó tâm linh
mà sự hoàn thiện đòi hỏi, có thể bạn sẽ nêu một số phản bác
liên quan tới những gì tôi vừa nói về ảnh tƣợng các thánh. Tuy
nhiên tôi nghĩ bạn sẽ không phản đối nếu tôi chống lại cái bất
toàn ngƣời ta thƣờng mắc phải khi dùng chuỗi hạt. Khó mà tìm
đƣợc kẻ nào chẳng có chút yếu đuối trong chuyện này. Ai cũng
đòi xâu chuỗi kiểu này phải hơn kiểu kia, màu này hơn màu nọ,
kiểu trang hoàng này hơn kiểu trang hoàng khác. Xâu chuỗi
này hay tràng hạt kia chẳng hơn gì nhau trong việc Thiên Chúa
QUYỂN 3 487

nhậm lời. Ngài chỉ nhậm lời những ai tiến bƣớc với một tâm
hồn đơn thành và chính trực, chỉ lo đẹp lòng Ngài chứ không
quan tâm đến kiểu chuỗi hạt này kia – ngoại trừ trƣờng hợp liên
quan đến ân xá.
8 – Lòng ham hố hão huyền nhiều cách nhiều kiểu của
chúng ta gắn chặt với mọi thứ. Nó nhƣ một con sâu đục
khoét những thứ tốt lành, không phân biệt gỗ tốt hay gỗ xấu.
Chẳng phải bạn đã tìm vui thỏa nơi một dụng cụ khi lấy làm
thích thú vì có đƣợc một cỗ tràng hạt ngộ nghĩnh, muốn nó
thuộc kiểu này hơn kiểu kia, đó sao? Khi chọn ảnh tƣợng này
hay ảnh tƣợng khác, bạn có để ý xem nó lay động bạn yêu
mến Thiên Chúa nhiều ít hay bạn chỉ lo ngắm nghía sự quí
giá và nét tân kỳ của nó? Nếu bạn vận dụng lòng ham muốn
và sự vui thỏa để yêu mến Thiên Chúa thì hẳn bạn chẳng bận
tâm gì đến ảnh này tƣợng no. Tiếc thay vẫn có một số ngƣời
đã sống theo tâm linh mà còn quá gắn bó với kiểu dáng của
những dụng cụ ấy, nhƣ thể chiếm hữu và gắn bó với châu
ngọc trần gian.
488 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 36
Về các ảnh tượng

Bàn tiếp về các ảnh tượng, và về sự ngu dốt của một số


người đối với vấn đề này.
1 – Có khối chuyện để nói về sự ngu xuẩn của nhiều
ngƣời trong vấn đề ảnh tƣợng. Một số ngƣời còn ngớ ngẩn
đến độ tin cậy vào một số ảnh tƣợng nọ hơn số ảnh tƣợng
kia, và nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời họ qua các ảnh
tƣợng này hơn các ảnh tƣợng khác, đang khi cả hai thứ đều
diễn tả cùng một đề tài, chẳng hạn về Chúa Kitô hoặc về Đức
Mẹ. Sở dĩ thế là vì họ thích kiểu này hơn kiểu nọ. Điều này
cho thấy họ còn hết sức khờ khạo trong tƣơng quan với
Thiên Chúa. Họ không hiểu trong việc thông giao với Thiên
Chúa cũng nhƣ phụng thờ và tôn vinh danh Ngài, Ngài chỉ đòi
hỏi ngƣời cầu nguyện phải có đức tin và trái tim tinh sạch.
Đôi khi quả là Thiên Chúa có ban nhiều ơn sủng qua
phƣơng thế một ảnh tƣợng này hơn một ảnh tƣợng khác cùng
loại, nhƣng đó chẳng phải vì tƣợng này đẹp hơn tƣợng nọ-
mặc dù có sự khác biệt lớn giữa hai kiểu tƣợng- mà chính vì
do lòng sùng mộ của ngƣời ta đƣợc khơi dậy qua ảnh tƣợng
này nhiều hơn ảnh tƣợng kia. Còn nếu ngƣời ta vẫn có đƣợc
lòng sùng mộ nhƣ nhau nhờ cả hai loại ảnh tƣợng nói trên, hoặc
không cần gì đến cả hai loại ảnh tƣợng ấy, thì họ vẫn nhận lãnh
đƣợc các ân sủng nhƣ thế từ Thiên Chúa.
2 – Do đó lý do khiến Thiên Chúa làm phép lạ và ban
nhiều ơn lành qua một số ảnh tƣợng này hơn một số ảnh
QUYỂN 3 489

tƣợng khác không phải để ngƣời ta quí chuộng những ảnh


tƣợng này hơn ảnh tƣợng nọ mà cốt nhờ sự mới mẻ này, lòng
sùng mộ đã thiếp ngủ cũng nhƣ cảm hứng về cầu nguyện của
các tín hữu đƣợc đánh thức dậy. Để rồi từ đó, nhờ những
hình ảnh ấy, lòng sùng mộ bùng cháy lên và ngƣời ta lại tiếp
tục việc cầu nguyện. Sùng mộ và cầu nguyện là những
phƣơng thế xin Thiên Chúa đoái nhìn và ban xuống những gì
ngƣời ta khấn xin Ngài. Nhờ lời cầu nguyện và những tâm
tình yêu mến, Thiên Chúa lại tiếp tục ban những ơn lành và
phép lạ qua phƣơng tiện là những ảnh tƣợng này. Tuy nhiên,
các ảnh tƣợng ấy chỉ là những tác phẩm ngƣời ta làm ra, chắc
chắn Thiên Chúa không thực hiện các ơn lành vì các ảnh
tƣợng ấy nhƣng vì lòng sùng mộ và đức tin của ngƣời ta đối
với vị thánh đƣợc diễn tả qua ảnh tƣợng ấy. Vì thế, khi bạn
tỏ lòng sùng mộ và đức tin đối với Đức Mẹ trƣớc một ảnh
tƣợng nào đó hay cả khi chẳng có ảnh tƣợng nào cả, bạn
cũng đều lãnh nhận đƣợc những ơn lành nhƣ nhau.
Hơn nữa, qua kinh nghiệm, ta thấy rằng nếu Thiên
Chúa có thực hiện một số ơn lành và phép lạ qua ảnh tƣợng,
Ngài vẫn thƣờng làm qua những ảnh tƣợng đƣợc khắc họa
không mấy công phu hoặc không quá điêu luyện để các tín
hữu đừng cho rằng một kiểu dáng hay nét vẻ nào đó nơi ảnh
tƣợng là lý do tạo ra phép lạ.
3 – Nhiều khi Thiên Chúa thƣờng thực hiện các ơn sủng
này qua những ảnh tƣợng nơi chốn cô tịch và hẻo lánh. Một là
bởi vì khi chịu khó lặn lội đến nơi ấy để thăm viếng, tình cảm
ngƣời ta đƣợc gia tăng và hành vi đức tin của họ thêm mãnh
liệt. Hai là nhƣ thế ngƣời ta xa lánh đƣợc chốn huyên náo trần
490 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tục để chuyên chú cầu nguyện, nhƣ ngày trƣớc Chúa Cứu Thế
vẫn thƣờng làm (Mt 14,23; Lc 6,12).
Vì thế, khi hành hƣơng, ta nên chọn khoảng thời gian ít
ngƣời đi mặc dù nhƣ thế có vẻ khác thƣờng. Tôi chẳng bao
giờ khuyên ai đi vào lúc ồn ào chen lấn bởi vì thƣờng thì,
nhƣ thế, khi từ chốn hành hƣơng về, ngƣời ta còn bị phân
tâm chia trí hơn trƣớc. Quả thật lắm ngƣời tham gia các cuộc
hành hƣơng kiểu ấy nhằm tiêu khiển hơn là vì sùng mộ.
Trở lại chuyện ảnh tƣợng. Nếu đã thực sự có đức tin và
lòng sùng mộ thì bất cứ ảnh tƣợng nào cũng đủ, bằng không
thì mọi ảnh tƣợng đều vô ích. Thuở còn tại thế, Chúa của
chúng ta quả là một ảnh tƣợng sống động, thế nhƣng những
kẻ không có đức tin, ở sát bên Ngài và tận mắt chứng kiến
những việc lạ Ngài làm, mà nào có thu gặt đƣợc lợi ích nào
đâu? Đó là lý do tại sao Chúa không làm nhiều phép lạ tại
quê nhà Ngài, theo lời ghi nhận của thánh sử (Lc 4,24).
4 – Tôi cũng xin nói một lời về những hậu quả siêu
nhiên một số ảnh tƣợng đã gây ra nơi một số ngƣời. Qua
những ảnh tƣợng này Thiên Chúa ban cho họ một ơn đặc
biệt. Hình ảnh của ảnh tƣợng ấy khắc sâu trong tâm trí họ và
lòng sùng kính nó tạo ra cũng kéo dài nơi họ. Hình ảnh ấy
nhƣ thể đang hiện diện, khi họ bất chợt nhớ đến thì họ cảm
nghiệm đƣợc cùng một hiệu quả ân sủng nhƣ khi họ hƣớng
mắt ngắm nhìn ảnh tƣợng ấy, và cảm nghiệm này đậm nhạt
nhiều hay ít tùy lúc. Đây là hiệu quả mà ngƣời ta không có
đƣợc trƣớc một ảnh tƣợng nào khác mặc dù đƣợc trau chuốt
công phu hoàn hảo hơn.
QUYỂN 3 491

5 – Cũng lắm ngƣời có lòng sùng mộ đối với một số


ảnh tƣợng kiểu này hơn kiểu khác. Tuy nhiên đây chỉ là một
sự ƣa thích hơn và là một sự thích thú tự nhiên tựa nhƣ khi ta
thích khuôn mặt một ngƣời nào đó hơn những khuôn mặt
khác. Ta thiện cảm với nó hơn và sẽ đƣa hình ảnh nó vào
trong trí tƣởng tƣợng của ta mặc dù khuôn mặt ấy không đẹp
bằng các khuôn mặt khác, bởi lẽ cảm tính ta tự nhiên
nghiêng về loại hình hài khuôn mặt mình ƣa chuộng. Bởi thế,
khi một số ngƣời nghĩ rằng tình cảm họ dành cho ảnh tƣợng
này ảnh tƣợng nọ là lòng sùng mộ thì có lẽ đó chỉ là cảm tính
và thích thú tự nhiên của họ.
Đôi lúc khi nhìn vào ảnh tƣợng, ngƣời ta thấy nó cử
động và biểu lộ những dấu hiệu, cử chỉ nhƣ muốn cho ngƣời
ta hiểu một điều gì đó hoặc lên tiếng nói một điều gì đó. Về
điều này và những hiệu quả siêu nhiên đang đề cập ở đây, tôi
xin nói rằng nhiều khi đây là những hiệu quả chân thật và tốt
lành Thiên Chúa tạo ra để giúp tăng lòng sùng kính hoặc để
giúp linh hồn chống lại sự lo ra chia trí do sự yếu nhƣợc của
nó, tuy nhiên nhiều khi ma quỷ cũng tạo ra những chuyện ấy
để phỉnh gạt và làm hại linh hồn. Do đó trong chƣơng kế tiếp
tôi sẽ đƣa ra nguyên tắc về tất cả vấn đề này.
492 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 37
Về các ảnh tượng(2)

Làm thế nào để lòng muốn có thể quy hướng sự vui


thỏa trước các ảnh tượng lên Thiên Chúa. Làm thế nào để
khỏi rơi vào lầm lạc và khỏi bị cản trở vì các ảnh tượng.
1 – Nếu đƣợc sử dụng cho thích hợp (qua nẻo đƣờng
thông thƣờng) ảnh tƣợng sẽ hữu ích trong việc giúp chúng ta
nhớ đến Chúa và các thánh, đồng thời lay động lòng muốn
của chúng ta hƣớng tới sùng mộ. Tuy nhiên ảnh tƣợng cũng
có thể khiến chúng ta rơi vào nhiều lầm lạc nếu khi xảy ra
những chuyện siêu nhiên liên quan tới chúng, linh hồn không
biết mình nên làm gì để đến cùng Chúa. Một trong những
phƣơng cách ma quỷ dễ dàng sử dụng để chụp lấy những linh
hồn thiếu tinh tế và ngăn cản con đƣờng đầy sự thật tâm linh
nơi họ chính là những chuyện siêu nhiên và phi thƣờng nó bày
ra qua các ảnh tƣợng, khi thì những thứ ảnh tƣợng vật chất,
mang hình thể chất mà Hội thánh vẫn sử dụng, khi thì những
ảnh tƣợng đƣợc nó in vào óc sáng tạo vẽ vời dƣới hình thù một
vị thánh nào đó hoặc hình ảnh của vị ấy. Ma quỷ tự biến thành
thiên thần sáng láng để phỉnh gạt họ (2Cr 11,14). Ma quỷ rất
tinh quái. Nó lẻn vào ngay trong chính các phƣơng thế hỗ trợ
mà chúng ta đang dùng, để vồ lấy chúng ta lúc chúng ta sơ ý.
Vì thế khi sử dụng những điều tốt, ta phải luôn sáng suốt hơn,
còn điều xấu thì lúc nào cũng đã lộ rõ.
2 – Trong trƣờng hợp này các linh hồn có thể gặp nhiều
thiệt hại: Bị ngăn trở không thể bay lên với Thiên Chúa, sử
QUYỂN 3 493

dụng các ảnh tƣợng cách thô thiển và dốt nát, rồi vì thế mà bị
phỉnh gạt về phƣơng diện tự nhiên cũng nhƣ siêu nhiên. Để
giúp các linh hồn tránh mọi thiệt hại ấy, cũng nhƣ để giúp họ
thanh tẩy sự vui thỏa của lòng muốn và nâng linh hồn lên với
Thiên Chúa theo đúng ý định của Hội thánh trong việc dùng
ảnh tƣợng, tôi xin đƣợc nêu ra một lời khuyên chung cho
mọi tình huống đó là: Thiên Chúa ban ảnh tƣợng làm phƣơng
tiện lay động giúp ta đạt tới các thực tại vô hình, thì ta chỉ
nên sử dụng chúng nhƣ một phƣơng tiện. Sự quí chuộng và
vui thỏa của lòng muốn nơi ảnh tƣợng ấy phải hƣớng tới
những đối tƣợng sống động mà các ảnh tƣợng ấy diễn tả.
Vì thế ngƣời tín hữu cần lƣu ý điều này: Khi nhìn xem
một ảnh tƣợng họ không đƣợc để cho giác quan bị cuốn hút
vào đó. Dù đó là ảnh tƣợng có hình thể chất hay trừu tƣợng,
đƣợc khắc họa tỉ mỉ hay trang hoàng lộng lẫy, dù nó gây
đƣợc lòng sùng mộ khả giác hoặc tâm linh, và dù cho nó biểu
lộ cả những dấu chỉ siêu nhiên, ngƣời tín hữu không đƣợc
lƣu tâm đến các điểm phụ thuộc ấy. Họ không đƣợc dừng lại
ở đó nhƣng hãy lập tức nâng tâm trí lên tới thực tại mà ảnh
tƣợng ấy diễn tả. Cùng với lời cầu nguyện và lòng sùng mộ
của tâm linh, họ chỉ tìm thỏa mãn và vui thích nơi Thiên
Chúa hoặc nơi vị thánh mà mình cầu xin. Nhƣ thế nét khắc
họa và giác quan sẽ không hút mất thực tại mang tính tâm
linh và sống động đang đƣợc diễn tả. Họ sẽ không bị phỉnh
gạt vì không xem trọng những gì ảnh tƣợng nói với họ. Cả
tâm linh lẫn giác quan đều không đƣơc sử dụng để cản ngăn
không cho họ tự do đến với Thiên Chúa. Họ sẽ không đặt
niềm tin cậy vào ảnh tƣợng này nhiều hơn ảnh tƣợng kia. Rồi
494 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

cái ảnh tƣợng đã mang lại lòng sùng kính sẽ lay động họ
nhiều hơn nữa, vì ngay tức khắc tình cảm của họ qui hƣớng
về Thiên Chúa. Mỗi khi Thiên Chúa ban những ơn ấy hoặc
những ơn khác Ngài đều qui hƣớng tình cảm và sự vui thỏa
của lòng muốn về thực tại vô hình. Do đó, Ngài muốn chúng
ta cũng làm nhƣ thế, nghĩa là xóa bỏ sức mạnh và sự thỏa
mãn của các quan năng đối với tất cả mọi sự vật khả giác và
hữu hình.
QUYỂN 3 495

Chương 38
Các nguyện đường

Tiếp tục bàn về những điều tốt lay động lòng ta. Nói về
các nguyện đường32 và những nơi dành cho việc cầu nguyện.
1 – Có lẽ tôi đã giúp các bạn hiểu đƣợc những bất toàn
trầm trọng ngƣời sống theo tâm linh có thể gặp phải nơi
những điểm phụ thuộc liên quan đến ảnh tƣợng. Nếu họ tìm
thích thú và vui thỏa nơi các ảnh tƣợng, họ có thể gặp nguy
hiểm nhiều hơn là nơi những sự vật thể chất và trần tục khác.
Tôi nói “nguy hiểm nhiều hơn” bởi vì đây là “những chuyện
thánh thiện”, nên ngƣời ta an tâm hơn và không hề nghĩ mình
bị rơi vào chỗ muốn chiếm hữu hay quyến luyến lệch lạc.
Thế nên đôi khi họ bị lầm to bởi cứ tƣởng mình đang đầy
lòng sùng kính vì đang cảm thấy thích thú nơi những điều
thánh thiện ấy, song thực ra đó chỉ là tâm trạng và mê thích
tự nhiên họ đặt vào các ảnh tƣợng ấy nhƣ đã từng đặt vào
những chuyện khác mà thôi.
2 – Do đó, chúng ta khởi sự bàn về các phòng nguyện.
Lắm ngƣời không ngớt miệt mài chồng chất hình này tƣợng
nọ vào phòng nguyện của họ, khoái chí sắp xếp và trang
hoàng các ảnh tƣợng ấy sao cho phòng nguyện của họ đƣợc
điểm trang và trông thật mỹ lệ. Tuy nhiên chẳng phải vì thế

32
Nguyện đƣờng: Ngoài những nhà nguyện công, nhiều gia đình Tây Ban Nha
dành một phần của nhà mình để cầu nguyện, và đặt cả bàn thờ để có thể dâng
lễ. Phòng nguyện bên Tây Ban Nha xƣa là chuyện cá nhân, nhà thờ các giáo
xứ và giáo họ ở Việt Nam ngày nay là chuyện của tập thể Dân Chúa (DG).
496 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mà họ yêu mến Chúa nhiều hơn, trái lại họ còn yêu mến Ngài
ít hơn, bởi vì nhƣ đã nói, do đặt niềm thích thú vào các ảnh
tƣợng kiều diễm ấy, họ không còn chú tâm đến thực tại sống
động mà chúng biểu thị. Đồng ý rằng cần phải chú ý hơn đến
tất cả những sự chăm sóc kính cẩn dành cho các ảnh tƣợng và
phải kịch liệt chê trách những ngƣời thiếu nghiêm túc và tôn
kính đối với ảnh tƣợng cũng nhƣ một số nhà tạc tƣợng quá tồi,
thay vì gây nên lòng sùng mộ thì lại làm mất đi. Thiết tƣởng
cần ngăn cản một số nghệ nhân non tay và vụng về trong
ngành nghệ thuật này. Tuy nhiên, việc ấy nào có liên can gì
đến não trạng tƣ hữu, sự dính bén và mê thích nơi bạn khi bạn
chú tâm vào việc trang hoàng và phục sức bề ngoài cho các
ảnh tƣợng đến nỗi chúng vây bủa giác quan và khiến tâm hồn
bạn bị cản ngăn không thể đi lên cùng Chúa? Liệu bạn còn có
thể tự do yêu mến Chúa và quên hết mọi sự vì yêu mến Ngài
không? Vậy nếu vì những chuyện ảnh tƣợng mà bạn mất lòng
yêu mến Chúa thì chẳng những Chúa không nhìn nhận công
lênh của bạn mà còn sửa phạt bạn, bởi trong mọi sự bạn đã
tìm ý thích của bạn hơn ý thích của Chúa.
Bạn có thể hiểu rõ điều này qua cuộc lễ tổ chức nghênh
đón Chúa khi Ngài vào thành Giêrusalem: Trong khi bao
ngƣời miệng hát reo, tay vẫy nhánh cây đón chào (Mt 21,8-9;
Mc 11, 8-10; Lc 19,37-38; Ga 12,13) thì Chúa lại than khóc
(Lc 19,41). Bởi Ngài quá biết họ chỉ rình rang những dấu
hiệu và trang trí bề ngoài còn lòng họ thì vẫn xa cách Ngài.
Về điều này chúng ta có thể nói rằng họ đang tổ chức mừng
lễ cho chính họ chứ chẳng phải cho Chúa nhƣ trƣờng hợp
nhiều ngƣời thời nay vẫn đang làm. Mỗi lần tổ chức lễ lạc
QUYỂN 3 497

đâu đó, họ vui thỏa vì những thích thú họ sẽ nhận đƣợc tại
đó, nhƣ để nhìn ngắm thiên hạ hoặc để đƣợc thiên hạ nhìn
ngắm, hoặc để tiệc tùng hay vì một số khía cạnh nào khác
chứ không phải để làm vui lòng Thiên Chúa. Với khuynh
hƣớng và chủ tâm nhƣ thế họ sẽ không làm Chúa hài lòng gì
cả, nhất là khi chính những kẻ cử hành các buổi lễ ấy lại sáng
chế thêm những chuyện lố bịch và thiếu lòng sùng mộ để
chọc cƣời thiên hạ hầu gia tăng sự tiêu khiển, một số ngƣời
khác lại đƣa ra những chuyện làm thiên hạ khoái chí hơn là
đánh động lòng sùng mộ của họ.
3 – Tôi sẽ phải nói gì về những toan tính vụ lợi của một
số ngƣời đứng ra tổ chức những lễ hội nói trên? Với lòng
ham hố, họ dán mắt vào lợi lộc riêng tƣ hơn là vào việc
phụng sự Thiên Chúa. Họ biết rõ điều ấy và Thiên Chúa
cũng thấy rõ điều ấy. Tuy nhiên dù cách thức nào đi nữa, khi
mọi chuyện diễn ra nhƣ vậy, thì đúng là họ tổ chức lễ lạc ấy
cho chính họ chứ không phải cho Thiên Chúa.
Quả thật, những gì họ làm để tự thỏa mãn hoặc để thiên
hạ thỏa mãn thì Thiên Chúa chẳng thƣởng công. Ngài sẽ
phẫn nộ đối với những kẻ vênh vang với các buổi lễ tôn vinh
Ngài nhƣng lại chỉ tìm tiêu khiển cho chính họ. Đúng nhƣ
Ngài đã xử sự với con cái Israel khi họ ca hát nhảy múa
chung quanh tƣợng thần của họ mà cứ tƣởng nhƣ đang mừng
kính Thiên Chúa, khiến Ngài đã giết chết nhiều ngàn ngƣời
trong bọn họ (Xh 32,7-28). Hoặc nhƣ trƣờng hợp hai vị tƣ tế
Nakal và Abind con của Aaron đã bị Thiên Chúa giết chết
trong lúc tay họ vẫn cầm bình hƣơng bởi họ đã dâng cho
Ngài thứ lửa ngoại lai (Lv 10,1-2). Hoặc trƣờng hợp gã nọ
498 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

tới dự tiệc cƣới mà ăn bận lôi thôi không khoác lễ phục lên
ngƣời nên đã bị đức vua ra lệnh cột tay cột chân, quẳng vào
nơi tối tăm (Mt 22,12-13). Các trƣờng hợp nêu trên cho thấy
Thiên Chúa không dung thứ những bất kính đối với Ngài nơi
những lễ hội đƣợc tổ chức để phụng sự Ngài. Ôi lạy Chúa!
Biết bao con cái loài ngƣời đã tổ chức lễ lạc để tôn vinh
Chúa nhƣng tại đó ma quỷ lại đƣợc quí chuộng hơn Chúa!
Nhƣ một gã lái buôn, ma quỷ rất thỏa chí tại các buổi lễ hội,
hắn làm ăn khấm khá ở đó nhƣ buổi hội chợ phiên vậy. Hẳn
biết bao lần Chúa nói về đám ngƣời hiện diện tại các buổi lễ
hội ấy: Dân này tôn kính Ta bằng đầu môi chóp lưỡi còn
lòng chúng thì xa Ta, bởi chúng đã phụng sự Ta không đúng
cách! (Mt 15,8-9).
Ta phải phụng sự Chúa chỉ vì Ngài là Thiên Chúa chứ
không đƣợc xen vào đó những mục đích khác. Ai không
phụng sự Chúa chỉ vì Ngài là Thiên Chúa thì có nghĩa là đã
phụng sự Ngài mà không nhận Ngài là cứu cánh.
4 – Trở lại đề tài các phòng nguyện, tôi xin nói rằng
một số ngƣời trang hoàng chúng cốt để làm hài lòng họ hơn
làm hài lòng Thiên Chúa. Một số khác lại quá lơ là trong việc
sùng kính những nơi chốn ấy đến nỗi họ không trân trọng
cho bằng phòng để quần áo phàm tục của họ. Một số khác lại
chẳng thèm quan tâm đến chúng bởi họ ham thích chuyện
phàm tục hơn chuyện thiêng thánh.
5 – Tuy nhiên bây giờ hãy bỏ qua chuyện đó mà hãy
nói về những kẻ “chẻ sợi tóc làm tƣ” nghĩa là những kẻ tự
cho mình là đạo đức, nhiệt thành. Nhiều ngƣời trong số họ
QUYỂN 3 499

quá quyến luyến và thích thú với phòng nguyện của họ cũng
nhƣ lối trang trí phòng nguyện ấy đến nỗi thay vì dồn hết
năng lực và thời gian cho việc cầu nguyện và lắng lòng họ lại
phung phí vào việc trang trí phòng nguyện. Họ không nhận
ra rằng việc trang trí phòng nguyện không tạo thuận lợi cho
sự lắng đọng và bình an tâm hồn nên họ bị chia trí nhiều vì
chuyện này cũng nhƣ vì những chuyện khác. Một sự thích
thú nhƣ thế khiến họ bị bất an liên tục, và nếu có ai muốn
dẹp chuyện ấy đi thì họ còn bất an hơn nữa.
500 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 39
Các nguyện đường và đền thờ

Bàn về cách dùng các nguyện đường và đền thờ. Làm


thế nào để nhờ chúng mà hướng tâm linh lên với Thiên Chúa.
1 – Để hƣớng tâm linh lên với Thiên Chúa nơi loại
điều tốt này, ta cần nhớ rằng rất có thể và, hơn nữa, nên cho
phép những ngƣời mới bắt đầu đƣợc tìm đôi sự thích thú và
thỏa mãn khả giác nào đó đối với các ảnh tƣợng, phòng
nguyện cũng nhƣ các đồ vật sùng kính hữu hình khác. Bởi
vào lúc này những ngƣời ấy chƣa thể bỏ đồ ăn bằng sữa
cũng nhƣ chƣa thể bỏ cái thích thú những sự vật trần gian
mà nhờ đó họ dứt bỏ đƣợc những thích thú hạ đẳng khác.
Chẳng khác nào khi muốn lấy vật gì đó khỏi bàn tay một
đứa bé, ngƣời ta thƣờng cho nó một vật khác, để nó khỏi
khóc vì thấy tay mình trống rỗng.
Tuy nhiên, muốn tiến bộ, ngƣời sống theo tâm linh phải
tƣớc bỏ hết mọi sự thú vị và mê thích có thể khiến lòng
muốn của họ vui thỏa. Bởi lẽ, một tâm linh tinh tuyền sẽ
không dính bén với bất cứ thứ gì trong những vật ấy mà sẽ
chỉ ở trong trạng thái lắng đọng và hiệp thông với Thiên
Chúa tận tâm hồn. Dù họ có vận dụng lợi ích của ảnh tƣợng
và nguyện đƣờng, cũng chỉ là chuyện tạm thời bởi ngay lập
tức họ nâng tâm linh lên với Thiên Chúa, quên hết mọi đối
tƣợng khả giác.
2 – Mặc dầu cầu nguyện ở những nơi tƣơm tất thì tốt
hơn, tuy nhiên ta vẫn phải để ý chọn nơi nào mà giác quan và
QUYỂN 3 501

tâm linh ít bị ngăn cản hơn trên đƣờng tiến đến với Thiên
Chúa. Về điều này tƣởng nên nhớ câu Chúa đã trả lời cho
ngƣời phụ nữ Samari khi bà này hỏi Chúa nơi nào thích hợp
cho việc cầu nguyện hơn, tại đền thờ Giêrusalem hay trên núi
Garizim (Ga 4,13-14)? Câu trả lời ấy có ý nói: Lời cầu
nguyện chân thực chẳng gắn liền với ngọn núi hay với đền
thờ, những ngƣời phụng thờ đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính
là những ngƣời biết phụng thờ Ngài trong thần khí và sự thật
(Ga 4,23-24).
Các đền thờ và những nơi chốn tƣơm tất đƣợc dâng
hiến và thích hợp cho việc cầu nguyện và không đƣợc
dùng đền thờ vào các việc khác. Tuy nhiên khi trò chuyện
nội tâm với Thiên Chúa ta cần phải chọn nơi chốn nào giác
quan ít bị xâm chiếm và lôi kéo nhất. Do đó không đƣợc
chọn những nơi làm giác quan vui thích dễ chịu, nhƣ một
số ngƣời thƣờng tìm đến, kẻo thay vì lắng lòng định trí nơi
Chúa, ngƣời ta lại ngụp lặn trong chuyện tiêu khiển thú vị
và êm dịu cho giác quan. Vì thế, một nơi chốn cô tịch thậm
chí “khổ hạnh” vẫn là một chỗ tốt để giúp tâm linh vững
mạnh bay thẳng lên cùng Chúa mà không bị ngăn cản hay
cầm hãm nơi các sự vật hữu hình. Đôi khi những vật hữu
hình có giúp tâm linh nâng cao nhƣng với điều kiện phải
quên chúng ngay và dừng lại nơi Thiên Chúa. Để nêu
gƣơng cho chúng ta, xƣa khi còn tại thế, Chúa Giêsu vẫn
thƣờng chọn nơi hoang vắng để cầu nguyện (Mt 14,23)
hoặc những chỗ giác quan ít bị xâm chiếm và dễ nâng linh
hồn lên với Thiên Chúa, chẳng hạn những ngọn núi cao
cách xa mặt đất và thƣờng khô chồi chẳng đem lại sự tiêu
502 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

khiển nào cho giác quan. (Mt 14,23; Mc 1,35; 6,64; Lc


9,18-28; 6,12; Ga 6,15).
3 – Do đó ngƣời sống theo tâm linh chân chính chẳng
bao giờ bận tâm xem xét nơi chốn cầu nguyện có tiện nghi
thoải mái không, bởi nhƣ vậy chứng tỏ họ vẫn còn dính bén
với giác quan. Họ chỉ bận tâm đến sự lắng lòng và quên hết
chuyện này chuyện nọ. Để đƣợc vậy, họ sẽ chọn chỗ nào
không vƣớng những đối tƣợng khả giác và những thỏa mãn
giác quan. Họ quay lƣng lại với tất cả những gì khả giác để
một khi thoát ly khỏi các loài thụ tạo, họ có thể vui hƣởng sự
cô tịch với Thiên Chúa nhiều hơn. Một số ngƣời sống theo
tâm linh dùng tất cả thời giờ của họ để bài trí các phòng
nguyện và sắp xếp nhiều nơi chốn thoải mái hợp với tính khí
và khuynh hƣớng của họ nhƣng lại rất ít lƣu ý đến sự lắng
đọng bên trong vốn là nhân tố quan trọng nhất. Nếu biết lắng
lòng họ sẽ không còn tìm thỏa mãn nơi cách này kiểu nọ
nhƣng sẽ cảm thấy mệt mỏi vì những chuyện ấy.
QUYỂN 3 503

Chương 40
Tại những nơi cầu nguyện

Bàn tiếp về việc định hướng cho tâm linh đạt được sự
lắng đọng bên trong tại những nơi cầu nguyện.
1 – Lý do khiến một số ngƣời sống theo tâm linh không
bao giờ đạt đƣợc sự vui thỏa đích thực của tâm linh chính là
vì họ chẳng bao giờ triệt bỏ đƣợc cái mê thích muốn đƣợc
vui thỏa từ những sự vật bề ngoài hữu hình ấy. Họ nên biết
rằng mặc dầu nơi xứng hợp đƣợc dành riêng cho các việc cầu
nguyện là đền thờ và nguyện đƣờng hữu hình cũng nhƣ ảnh
tƣợng là những yếu tố lay động việc cầu nguyện, tuy nhiên,
phải làm sao cho sự vui thỏa say mê và hƣơng vị của linh
hồn không chỉ phát sinh từ cái đền thờ hữu hình và đánh
động kia khiến ngƣời ta quên mất việc cầu nguyện nơi đền
thờ sống động tức chốn lắng lòng định trí của linh hồn.
Nhằm cảnh giác chúng ta điều ấy Thánh Tông Đồ đã nói:
Anh em hãy xem, thân xác anh em là đền thờ sống động của
Chúa Thánh Thần, Đấng cư ngụ trong anh em (1Cr 3,16).
Quan điểm này phù hợp với lời xác định của Chúa Kitô ta
đã nêu trên, tức là những kẻ thực sự tôn thờ Chúa Cha phải
là những kẻ tôn thờ Ngài trong thần khí và sự thật (Ga 4,
24). Thiên Chúa chẳng ngó gì đến các nguyện đƣờng và
những nơi chốn bạn trang hoàng để cầu nguyện nếu qua
những vui thỏa và mê thích hƣớng vào các nơi đó, bạn bị
dính bén, giảm mất sự trần trụi nội tâm, tức đức nghèo khó
tâm linh, vốn đòi hỏi bạn phải loại bỏ tất cả những gì bạn có
thể chiếm hữu.
504 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

2 – Để thanh tẩy lòng muốn khỏi sự vui thỏa và mê


thích hão huyền nơi những điều nói trên và qui hƣớng lòng
muốn về Thiên Chúa, khi cầu nguyện bạn chỉ nên lƣu tâm
xét xem lƣơng tâm mình có tinh tuyền, lòng muốn mình có
hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và tâm trí mình có thực sự
gắn chặt vào Ngài không. Rồi, nhƣ tôi đã nói, bạn phải chọn
nơi nào hẻo lánh và cô tịch nhất, và hƣớng tất cả sự vui thỏa
của lòng muốn vào việc khẩn cầu và tôn vinh Thiên Chúa.
Bạn đừng bận tâm gì đến những cái thích thú lặt vặt có tính
bề ngoài ấy, trái lại nên cố gắng từ khƣớc chúng. Nếu linh
hồn vƣớng phải cái vui thỏa với sự sùng mộ khả giác, nó sẽ
chẳng bao giờ đạt đƣợc tới sức mạnh của sự hoan lạc tâm
linh vốn đƣợc khám phá nhờ sự lắng lòng định trí vào sự trần
trụi tâm linh.
QUYỂN 3 505

Chương 41
Tại những nơi tôn sùng

Về một số tệ hại dễ xảy đến cho những kẻ chạy theo cái


thích thú khả giác về những vật và những nơi tôn sùng đạo
đức, theo cách chúng tôi đã đề cập.
1 – Nếu ngƣời sống theo tâm linh liều mình tìm hƣởng
hƣơng vị khả giác nơi những sự vật nói trên, sẽ phải chịu
nhiều tệ hại, cả bên trong lẫn bên ngoài. Về tâm linh, họ sẽ
không bao giờ đạt đƣợc sự lắng đọng bên trong của tâm linh,
vốn cốt ở chỗ vƣợt lên trên tất cả những điều ấy, để cho linh
hồn quên hẳn những hƣơng vị khả giác ấy và sắm đƣợc các
nhân đức với tất cả sức mạnh. Còn về bên ngoài, họ sẽ không
có đƣợc thói quen ở bất cứ nơi nào cũng cầu nguyện đƣợc,
mà chỉ cầu nguyện đƣợc ở những nơi hợp sở thích của họ.
Từ đó nhiều khi họ bỏ cầu nguyện vì, nhƣ ngƣời ta thƣờng
nói, họ chỉ quanh quẩn ở trƣờng làng.
2 – Ngoài ra, mê thích lệch lạc ấy còn khiến họ thay đổi
thất thƣờng. Những ngƣời thuộc nhóm này chẳng bao giờ ở
yên đƣợc một chỗ, không kiên trì đƣợc với một bậc sống;
bạn thấy họ khi ở nơi này, lúc ở chốn khác, khi thì rút vào ẩn
cốc này lúc thì chỗ ẩn tu nọ, khi thì bài trí nguyện đƣờng
này, lúc thì một nguyện đƣờng khác...
Trong số đó lại có những ngƣời bỏ cả cuộc đời để thay
đổi cảnh sống và kiểu sống, do chỉ nhiệt tình và hứng thú ở
bình diện khả giác đối với sự việc tâm linh. Họ chẳng bao
giờ chịu cố gắng đạt tới sự lắng đọng tâm linh bằng cách
506 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

buông bỏ lòng muốn, hạ mình vui nhận những điều trái ý. Do


đó, hễ thấy một chỗ sùng mộ nào có vẻ hợp ý hoặc một lối
sống phù hợp tính khí và khuynh hƣớng của họ hơn, họ liền
bỏ hết những gì đang có để chạy theo. Bởi cứ bị lay chuyển
bởi cái thích thú khả giác ấy, chẳng bao lâu họ lại tìm kiếm
một thứ khác, vì thích thú khả giác vốn thất thƣờng và mau
tàn lụi.
QUYỂN 3 507

Chương 42
Tại những nơi tôn sùng (2)

Về ba loại địa điểm tôn sùng khác nhau và lòng muốn


phải xử sự thế nào cho đúng trước những loại ấy.
1 – Tôi thấy có ba loại địa điểm Thiên Chúa thƣờng
dùng để lay động lòng muốn hƣớng tới sùng mộ.
Thứ nhất là một số cảnh vật có đƣợc dáng vẻ đẹp mắt
phong phú hoặc do sự bài trí đất đai hoặc do cây cối hay sự
yên tịnh tịch liêu, tự nhiên dễ kích thích lòng sùng mộ của
ngƣời ta. Khi sử dụng chúng mà biết lập tức nâng lòng muốn
lên với Thiên Chúa và quên ngay những địa điểm ấy thì thật
hữu ích. Để đạt tới mục đích ngƣời ta không đƣợc dừng lại ở
phƣơng thế và những yếu tố thúc đẩy nhiều hơn mức cần
thiết. Ai cố tìm cách thỏa mãn mê thích và chạy theo cái thú
vị cảm giác nơi các địa điểm ấy, sẽ gặp phải khô khan và
chia trí, bởi lẽ nhận thức và sự thỏa mãn tâm linh chỉ có thể
tìm đƣợc nơi sự lắng đọng bên trong.
2 – Do đó khi tới cầu nguyện tại một địa điểm nhƣ thế
ta phải quên ngay đi cảnh trí và cố gắng lắng lòng nơi Thiên
Chúa nhƣ thể mình hiện không ở tại một địa điểm nhƣ thế.
Bởi nếu cứ qua lại kiếm tìm hƣơng vị và vui hƣởng cảnh trí
thì rõ ràng ta đi tìm sự giải trí khả giác và sự bất định của
tâm hồn chứ không phải sự an tịnh tâm linh.
Chính vì thế tại những vùng hoang địa bao la hoành
tráng nhất, các ẩn sĩ và nhiều thánh ẩn tu khác vẫn chọn cho
508 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

mình những mảnh đất nhỏ bé vừa đủ, dựng lên những tu
phòng và hang động chật hẹp để giam mình vào đó. Thánh
Biển Đức đã sống nhƣ thế trong ba năm trời. Một vị khác,
thánh Simon, đã dùng sợi dây cột vào ngƣời để khỏi đi xa
quá mức chiều dài sợi dây cho phép. Nhiều vị khác cũng
hành động theo lối sống này mà chúng tôi không thể kể tên
ra hết. Bởi các vị thánh ấy đều hiểu rõ nếu không dập tắt
đƣợc mê thích cũng nhƣ sự tham lam tìm kiếm thích thú và
hƣơng vị tâm linh, họ sẽ không thể nào trở thành những
ngƣời sống theo tâm linh chân chính đƣợc.
3 – Loại địa điểm thứ hai có tính cách đặc thù hơn: Có
những địa điểm, không kể là hoang địa hay các nơi chốn
khác, dễ lay động lòng ta hƣớng đến sùng mộ. Ở đó Thiên
Chúa đã ban một số ân sủng tâm linh rất dịu ngọt cho một số
ngƣời đặc biệt. Thế nên tâm hồn những ngƣời này thƣờng
hƣớng về nơi họ từng đƣợc lãnh nhận ân sủng nói trên, đôi
khi họ rất khát mong và khắc khoải muốn trở lại đó dù không
phải lần nào cũng gặp lại đƣợc ân sủng trƣớc kia, bởi điều
này vƣợt ngoài tầm tay họ, vì Thiên Chúa ban phát ân sủng
lúc nào, cách nào và nơi nào tùy Ngài. Ngài không bị lệ
thuộc vào thời gian, nơi chốn hoặc ý muốn của ngƣời lãnh
nhận ân sủng.
Dù vậy, nếu thấy lòng thanh thản không mê thích dính
bén lệch lạc, thỉnh thoảng vẫn nên tới nơi ấy để cầu nguyện,
vì ba lý do sau đây. Một là, mặc dù Thiên Chúa không hề bị
lệ thuộc vào bất cứ địa điểm nào, dƣờng nhƣ Ngài vẫn muốn
đƣợc linh hồn ngợi ca tại nơi Ngài đã ban ơn. Hai là, khi trở
lại nơi ấy, linh hồn dễ tƣởng nghĩ hơn đến việc cảm tạ Thiên
QUYỂN 3 509

Chúa về ơn mình đã nhận đƣợc ở đó. Ba là, việc tƣởng nhớ


ơn đã nhận đƣợc ở đó sẽ kích thích lòng sùng mộ của linh
hồn ấy nhiều hơn nữa.
4 – Ta nên trở lại đó vì ba lý do ấy chứ đừng nghĩ rằng
Thiên Chúa bị bó buộc phải ban ơn tại nơi đó đến nỗi Ngài
không thể ban các ơn ấy ở bất cứ nơi nào Ngài muốn. Quả
thật, không một địa điểm vật chất nào thích hợp và tƣơm tất
hơn đối vơi Thiên Chúa bằng chính linh hồn ngƣời ta.
Về điều này, trong Thánh Kinh (St 12,8) chúng ta đọc
thấy ông Abraham đã dựng lên một bàn thờ tại nơi Thiên
Chúa từng hiện ra với ông và ông đã kêu cầu danh thánh
Ngài tại đó; rồi khi từ Ai Cập trở về, Abrahamlại đi theo con
đƣờng mà Thiên Chúa đã hiện ra với ông và ông đã kêu cầu
danh Ngài một lần nữa tại chính nơi bàn thờ ông đã xây ngày
trƣớc (St 12,8; 13,4). Ông Giacóp cũng ghi dấu nơi Thiên
Chúa đã hiện ra với ông trên đỉnh một cái thang bằng cách
dựng lên tại đó một tảng đá đƣợc xức dầu (St 28,13-18). Còn
Aga thì rất quí chuộng nơi Thiên Thần đã hiện ra cùng bà và
đã đặt tên cho chỗ đó, bà nói: Chắc chắn tại nơi đây tôi đã
trông thấy bờ vai của Đấng nhìn thấy tôi (St 16,3).
5 – Loại địa điểm thứ ba là một số nơi đặc biệt mà
Thiên Chúa chọn để Ngài đƣợc kêu cầu và phụng sự tại đó,
chẳng hạn núi Sinai, nơi Thiên Chúa ban lề luật cho Môsê
(Xh 24,12); nơi Thiên Chúa đã chỉ định cho Abraham hiến tế
con ông (St 22,2); hay núi Khôrép, nơi Thiên Chúa hiện ra
với thánh phụ Êlia của chúng ta (1V 19,8). (Và núi Gargani,
nơi thánh Micae hiện ra với Giám mục Siponto và bảo vị này
510 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

xây cho Thiên Chúa một nguyện đƣờng tại đó nhằm tƣởng
nhớ các thiên thần, cũng nhƣ qua phép lạ xuống tuyết, Đức
Trinh Nữ Diễm Phúc đã chỉ định thánh Patrixiô xây lên tại
nơi nọ ở Rôma một giáo đƣờng kính Ngài).
6 – Vậy chỉ có Thiên Chúa mới biết đƣợc tại sao Ngài
chọn nơi này hơn nơi khác để tại đó Ngài đƣợc ngợi khen tán
tụng. Chúng ta chỉ nên biết rằng tất cả đều nhằm lợi ích của
chúng ta. Thiên Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta
tại những nơi ấy cũng nhƣ bất cứ nơi đâu mà chúng ta cầu
khẩn với đức tin toàn vẹn. Tuy nhiên lời cầu của chúng ta sẽ
đƣợc Thiên Chúa nghe đến hơn ở những nơi chốn đƣợc cung
hiến cho việc phụng sự Ngài bởi vì Hội thánh đã chỉ định và
cung hiến những nơi chốn ấy cho việc cầu nguyện.
QUYỂN 3 511

Chương 43
Những nghi thức đủ loại

Bàn về những nghi thức đủ loại có tác dụnglay động


cõi lòng mà nhiều người dùng để cầu nguyện.
1 –Những sự vui thỏa vô ích và những dính bén bất
toàn chúng tôi vừa nói, có thể đƣợc dung thứ, theo nghĩa là
nhiều khi ngƣời ta rơi vào đó cách ngây thơ vô tội. Nhƣng
không thể chấp nhận đƣợc sự quyến luyến quá mức mà một
số ngƣời đang dành cho đủ loại nghi thức do những kẻ thiếu
sáng suốt và thiếu đức tin chân thành bày vẽ ra.
Tôi không bàn đến ở đây những nghi thức có những tên
gọi dị thƣờng với những từ chẳng có ý nghĩa gì cả, cũng
không bàn đến những câu nói phàm tục mà những kẻ ngu
dốt, những linh hồn khờ khạo đa nghi thƣờng pha trộn vào
các lời nguyện của họ. Những chuyện ấy rõ ràng là xấu xa,
nhuốm màu tội lỗi và nhiều khi là do bí mật giao kết với ma
quỷ. Những chuyện bày đặt nhƣ thế thay vì lôi kéo đƣợc lòng
xót thƣơng của Thiên Chúa, sẽ chỉ khiêu khích cơn thịnh nộ
của Ngài.
2 – Tôi không bàn đến các chuyện ấy mà chỉ muốn
nói đến một số nghi thức dầu không có gì mê tín dị đoan,
hiện đang đƣợc nhiều ngƣời sử dụng với một lòng sùng mộ
thiếu cẩn trọng. Họ quá tin tƣởng vào những cách họ dùng
để làm việc đạo đức hoặc cầu nguyện và gán cho các kiểu
sùng mộ của họ cái hiệu lực đến nỗi, nếu chỉ bỏ sót một
trong các điều chỉ dẫn vạch sẵn hoặc lỡ vƣợt quá qui định
512 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

một chút, lập tức họ cho rằng các nghi thức ấy bất thành và
Thiên Chúa sẽ chẳng nhậm lời. Họ tin cậy vào những cách
thức ấy hơn là vào chính lời cầu nguyện, và điều đó quả là
bất kính và xúc phạm đến Thiên Chúa rất nhiều. Chẳng
hạn, họ cho rằng trong thánh lễ phải đốt đủ bao nhiêu cây
nến không hơn không kém. Hoặc họ cho rằng linh mục
phải hành lễ theo kiểu này kiểu kia, vào một giờ giấc nào
đó không đƣợc sớm hơn hoặc muộn hơn, hoặc phải vào
một ngày chính xác nào đó không sau không trƣớc; các lời
cầu nguyện và các chặng đƣờng thánh giá phải theo đúng
số, đúng kiểu, kèm với một số nghi thức nào đó không
đƣợc làm trƣớc làm sau, không đƣợc làm theo kiểu khác và
ngƣời cử hành nghi thức phải có đƣợc những năng khiếu
đặc tính nào đó. Họ cho rằng nếu chỉ thiếu sót một trong
các điều trên thì tất cả kể nhƣ hỏng hết.
3 – Điều tệ hại hơn nữa và cũng là điều không thể dung
thứ, đó là một số ngƣời còn ao ƣớc cảm nhận đƣợc một hiệu
quả nhất định nào đó nơi những chuyện nói trên, muốn điều
họ cầu xin hoặc mục đích lời cầu xin của họ sẽ thành hiện
thực một khi họ hoàn tất các nghi thức ấy. Nhƣ thế, đúng là
thử thách Thiên Chúa và chọc giận Ngài một cách nghiêm
trọng. Thế nên đôi khi Thiên Chúa cho phép ma quỷ phỉnh
gạt họ, nó khiến họ cảm nhận hoặc nghe đƣợc nhiều điều
chẳng lợi ích gì cho linh hồn họ. Họ đáng phải chịu nhƣ thế
bởi đã quá dính bén với cách thức họ bày vẽ ra để cầu
nguyện, họ muốn ý họ đƣợc thực hiện chứ không phải ý
Thiên Chúa. Do đó họ chẳng gặt hái đƣợc gì cả bởi không
biết đặt tất cả niềm cậy tin vào nơi Thiên Chúa.
QUYỂN 3 513

Chương 44
Qua các việc tôn sùng

Phải làm thế nào để qui hướng lên Thiên Chúa sự vui
thỏa và sức mạnh của lòng muốn qua các việc tôn sùng ấy.
1 – Những kẻ nói trên cần biết rằng họ càng tin cậy vào
những nghi thức của họ thì càng ít cậy trông nơi Thiên Chúa
và không nhận đƣợc điều họ mong ƣớc.
Cũng có lắm ngƣời cầu nguyện vì tham vọng của họ
chứ không phải vì danh dự của Thiên Chúa. Họ vẫn giả định
là nếu điều họ cầu xin đƣợc Thiên Chúa ƣng ý thì Ngài sẽ
thực hiện, bằng không cũng chẳng sao, tuy nhiên do quá dính
bén và tìm vui thỏa hão huyền về điều ấy nên họ háo hức gia
tăng lời cầu xin. Lẽ ra họ nên qui hƣớng các lời cầu xin này
vào việc thực hành những điểm có tầm quan trọng đối với họ
hơn, chẳng hạn sự thanh tẩy lƣơng tâm và học hiểu những
vấn đề liên can tới ơn cứu độ đồng thời loại xa những gì
chẳng liên can đến hai điểm ấy. Nhờ đó, họ sẽ nhận đƣợc
những ơn quan trọng hơn và đồng thời cũng nhận đƣợc tất cả
mọi thứ khác phù hợp với họ (mặc dù họ chẳng cầu xin
những thứ này) một cách dồi dào và sớm sủa vƣợt hẳn
trƣờng hợp họ dùng mọi nỗ lực để xin điều họ ao ƣớc.
2 – Đó là điều Chúa đã từng hứa trong Tin Mừng:
Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho
(Mt 6,33). Đó là khát vọng và là lời nguyện xin hợp ý Thiên
Chúa hơn hết. Để đạt đƣợc các ƣớc muốn của tâm hồn
514 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

chúng ta chẳng có phƣơng thế nào hay hơn là đặt sức mạnh
của lời chúng ta cầu nguyện vào điều làm Thiên Chúa vui
thích nhất. Khi đó, không những Thiên Chúa sẽ ban cho
chúng ta điều chúng ta xin Ngài, tức ơn cứu độ, mà còn ban
cho chúng ta những gì thích hợp và tốt lành cho chúng ta
dầu chúng ta không xin. Vua Đavít đã cho ta hiểu điều ấy
nơi lời thánh vịnh: Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn
Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Ngài (Tv 144,18), tức
những kẻ xin Ngài những điều chân thật nhất, chẳng hạn
những điều liên can tới ơn cứu độ. Nhƣ Đavít có nói tiếp
liền sau đó: Kẻ kính sợ Ngài, Ngài cho toại nguyện, nghe
tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu, Chúa gìn giữ mọi kẻ
mến yêu Người (Tv 144,19-20). Và nhƣ thế, sự gần gũi
đƣợc vua Đavít đề cập ở đây không gì khác hơn việc Thiên
Chúa làm thỏa lòng những kẻ nói trên và ban cho họ những
thứ họ chẳng hề dám nghĩ có thể xin. Ta cũng đọc thấy
trong Thánh Kinh vua Salômôn đã xin một điều khiến
Thiên Chúa hài lòng, đó là xin đƣợc sự khôn ngoan để cai
trị dân Ngài một cách công minh. Thiên Chúa đã trả lời nhà
vua nhƣ sau: Vì ngươi có những tâm tư như thế, ngươi đã
không xin cho được giàu sang phú quí và vinh quang cũng
không xin cho những kẻ ghét ngươi phải chết, hay cho bản
thân ngươi được sống lâu nhưng chỉ xin cho ngươi được
khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân ta Ta, dân mà Ta
đã đặt ngươi làm vua cai trị, cho nên ngươi sẽ được khôn
ngoan và hiểu biết. Hơn nữa, giàu sang, phú quí và vinh
quang Ta cũng sẽ ban cho ngươi đến nỗi trước và sau
ngươi, không có vua nào sánh với ngươi được (2Sb 1,11-
12). Quả thực Thiên Chúa đã thực hiện những điều ấy. Ngài
QUYỂN 3 515

dẹp yên mọi kẻ thù địch của nhà vua đến nỗi các dân tộc
chung quanh đều phải triều cống và chẳng dám nổi loạn
chống nhà vua (x. 1V 4,21-24). Chúng ta cũng đọc thấy
điều nói trên nơi sách Sáng Thế Ký ở đoạn Thiên Chúa hứa
với Abraham rằng sẽ gia tăng dòng dõi ngƣời con chính
thức của ông thành đông đúc nhƣ sao trời theo lời thỉnh cầu
của ông, đồng thời Thiên Chúa còn phán thêm: Ta sẽ gia
tăng hậu duệ của đứa con trai người tỳ nữ vì nó là con trai
của ngươi (St 21,13).
3 – Nhƣ vậy, nơi các lời cầu xin ta phải qui hƣớng về
Thiên Chúa mọi năng lực và sự vui thỏa của lòng muốn chứ
đừng quá lo bám víu vào việc chế ra những nghi thức không
đƣợc Hội thánh Công giáo sử dụng và phê chuẩn. Hãy để vị
linh mục hành lễ theo thể cách của Hội thánh hoặc theo tập
tục của Hội thánh nơi quê nhà vị ấy.
Ngƣời ta không đƣợc mong muốn đem vào sử dụng
những cách thức mới nhƣ thể họ am hiểu hơn cả Chúa Thánh
Thần và Hội thánh của Ngài. Giả nhƣ với sự đơn thành nói
trên họ vẫn không đƣợc Thiên Chúa nghe lời thì họ hãy nên
xác tín rằng có bày vẽ đủ nghi thức khác, Thiên Chúa cũng
chẳng đáp lời đâu. Bởi lẽ, nếu ngƣời ta sống hợp với Thiên
Chúa và làm theo ý Ngài thì Ngài sẽ thực hiện những gì họ
muốn, còn nếu họ chỉ tìm lợi riêng của họ thì họ có ngỏ lời
với Thiên Chúa cũng chỉ vô ích mà thôi.
4 – Còn nơi những nghi thức khác liên can tới việc cầu
xin và những sùng mộ khác, ta đừng gắn bó lòng muốn vào
những nghi lễ và cách thức cầu nguyện nào khác với những
516 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

gì Chúa Kitô đã dạy bảo chúng ta (Lc 11,1-2). Khi các môn
đệ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, rõ ràng là Ngài đã dạy cho
họ tất cả những gì cần làm để đƣợc Cha Hằng Hữu nhận lời,
vì Ngài là Đấng biết rõ ý muốn của Chúa Cha. Ngài đã dạy
bảo họ bảy điều trong kinh Lạy Cha, bao gồm hết mọi nhu
cầu tâm linh và vật chất của ta. Ngài không đề ra cho họ
nhiều cách về nói năng và nghi thức khác. Trái lại, Ngài còn
bảo họ không đƣợc dùng nhiều lời trong lúc cầu nguyện bởi
Cha chúng ta trên trời biết rõ những gì thích hợp cho chúng
ta (x. Mt 6,7-8). Ngài nhấn mạnh giá trị lời cầu nguyện. Ngài
khuyên chúng ta phải luôn cầu nguyện không bao giờ ngừng
(Lc 18,1). Ngài còn dặn chúng ta phải kiên trì cầu nguyện
theo lời kinh ấy với lòng nhiệt thành chăm chú, bởi lẽ, nhƣ
đã nói, những lời kinh ấy bao gồm tất cả những gì nằm trong
ý Chúa và tất cả những gì thích hợp cho chúng ta. Vì thế khi
kêu cầu Cha Hằng Hữu ba lần ở vƣờn Cây Dầu, cả ba lần
Chúa Quyền Uy cũng chỉ lặp lại những lời của Kinh Lạy
Cha, theo lời thuật lại của các thánh sử: Lạy Cha nếu Con
không thể tránh chén này thì xin vâng theo ý Cha (Mt 26,39;
Mc 14,36; Lc 22,42).
Còn về nghi thức chúng ta dùng để cầu nguyện, Chúa
cũng dạy chúng ta một trong hai cách sau: hoặc là chúng ta
kín đáo cầu nguyện trong phòng riêng, không cần ầm ĩ hay
báo cáo cho bất cứ ai, chúng ta có thể chu toàn với một tâm
hồn toàn vẹn và tinh tuyền hơn theo nhƣ lời Ngài dạy: Khi
các ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng kín cửa lại
mà cầu nguyện (Mt 6,7); hoặc là chúng ta tìm đến những nơi
hoang vắng cô tịch, nhƣ Chúa vẫn làm, vào thời gian tốt nhất
QUYỂN 3 517

và thanh thản nhất của ban đêm (Lc 6,12). Nhƣ thế, chúng ta
chẳng còn phải định giờ định ngày, chẳng có chuyện lúc này
thuận tiện hơn lúc khác cho việc sùng mộ của chúng ta, cũng
chẳng nên sử dụng nhiều phƣơng thế khác, nhiều lối “chơi
chữ” hoặc lối cầu nguyện khác ngoại trừ những lời nguyện
Hội thánh vẫn dùng và theo cách thức Hội thánh chỉ dẫn, bởi
lẽ tất cả đều qui vào những lời cầu xin trong Kinh Lạy Cha,
nhƣ chúng tôi đã nói.
5 – Nhƣng không phải vì thế mà tôi kết án, ngƣợc lại,
tôi tán thành việc một số ngƣời dành riêng một số ngày cho
các việc tôn sùng của họ chẳng hạn tuần cửu nhật, ngày ăn
chay hoặc những việc tƣơng tự. Tôi chỉ lên án cách thế và
nghi thức cứng nhắc của họ trong việc sùng mộ nhƣ ngày
xƣa bà Giuđitha từng khiển trách dân thành Bethulia về việc
họ dám định ra thời gian mà họ mong chờ lòng xót thƣơng
của Chúa, bà nói: Các ngươi tính ấn định thời gian cho Chúa
phải thực hiện lòng xót thương của Ngài sao? Như thế chẳng
phải là để làm Chúa dủ lòng thương nhưng là để khiêu khích
cơn thịnh nộ Ngài đấy (Gđt 8,11-12).
518 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chương 45
Các nhà giảng thuyết

Bàn về những điều tốt loại thứ hai, những điều tốt cụ
thể khiến lòng muốn có thể vui thỏa một cách hão huyền.
1 – Loại thứ hai trong những điều tốt thú vị cụ thể có thể
khiến lòng muốn vui thỏa hão huyền là những gì chúng tôi gọi
tên là “thôi thúc” bởi chúng thôi thúc và thuyết phục ta phụng
sự Thiên Chúa. Các nhà giảng thuyết thuộc vào phạm trù này.
Ta có thể bàn đến theo hai phía: những gì liên can tới chính
những nhà giảng thuyết và những gì liên can tới các thính giả
của họ. Cả hai đều cần đƣợc cảnh báo phải học cách qui hƣớng
sự vui thỏa của lòng muốn mình lên với Thiên Chúa.
2 – Về phía nhà giảng thuyết. Để sinh ích cho đại
chúng và để mình khỏi bị cản trở vì một sự vui thỏa hão
huyền và tính tự phụ, các nhà giảng thuyết nên nhớ chức năng
của mình mang tính tâm linh hơn là hùng biện. Đúng là phải
sử dụng lời nói, nhƣng sức mạnh có hiệu lực của việc này cốt
tại tâm linh bên trong. Do đó, dầu có rao giảng nền học thuyết
cao sâu tới đâu, với một nghệ thuật hùng biện và lối văn tao
nhã đến mấy, kết quả bao giờ cũng tỉ lệ với tâm linh bên trong
của ngƣời giảng. Vua Đavít viết: Này Người lên tiếng, tiếng
thật uy hùng (Tv 67, 34) tức là chân lý lời Chúa luôn có hiệu
lực, nhƣng dù lửa tự nó vốn mang năng lực thiêu đốt, lửa sẽ
chẳng đốt cháy khi không có sẵn chất đốt.
3 – Để cho học thuyết đem lại hiệu quả, cần dọn sẵn hai
điều: Một về phía nhà giảng thuyết, một về phía thính giả.
QUYỂN 3 519

Thƣờng thì lợi ích tỉ lệ với sự chuẩn bị của ngƣời thuyết


giảng; cho nên có câu: “Thầy nào, trò nấy”.
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, khi bảy ngƣời con của
vị thƣợng tế Do Thái học theo cách của thánh Phaolô để
trừ quỷ, ma quỷ giận dữ bảo chúng: Đức Giêsu, tao biết;
ông Phaolô tao cũng tường, còn bay, bay là ai? (Cv
19,15), rồi nó nhảy bổ vào chúng, xé nát y phục và đánh
trọng thƣơng. Lý do chính là vì nhóm ngƣời này không có
đƣợc tƣ thái thích hợp chứ không phải là vì Chúa Kitô
không muốn ngƣời ta trừ quỉ nhân danh Ngài. Có lần các
Tông đồ thấy một kẻ nào đó không thuộc nhóm họ nhân
danh Chúa Giêsu để trừ quỉ liền ngăn cấm, nhƣng Chúa đã
quở trách họ và bảo: Đừng ngăn cản người ta, vì không ai
lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại
có thể nói xấu về Thầy (Mc 9,39). Tuy nhiên, Chúa phẫn
nộ với những kẻ giảng dạy lề luật Thiên Chúa mà chính họ
lại không chịu giữ, rao giảng cho kẻ khác thần khí tốt lành
mà nơi mình lại chẳng có thứ thần khí ấy. Vì thế, qua
thánh Phaolô, Chúa đã cảnh cáo: Các ngươi dạy dỗ kẻ
khác mà lại chẳng giáo hóa chính mình, giảng dạy người
ta đừng trộm cắp mà chính mình lại trộm cắp (Rm 2,21).
Chúa Thánh Thần cũng nói qua miệng vua Đavít: Thiên
Chúa phán cùng tội nhân: Thánh chỉ của Ta sao ngươi
thường nhắc nhở, mở miệng ra là chữ thánh ước trên môi?
Nhưng chính ngươi lại ghét điều sửa dạy, Lời Ta truyền
đem vất bỏ sau lưng? (Tv 49/50,16.17). Nhƣ vậy chúng ta
có thể suy ra rằng Chúa sẽ không cho phép lời của một
ngƣời nhƣ thế mang lại hoa trái.
520 ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

4 – Theo cách chung có thể xét định ở đời này, ta


thƣờng thấy nhà giảng thuyết càng có nếp sống tốt lành càng
sinh nhiều hoa trái, dầu cho lời văn của ngài có bình dị, lối
diễn đạt có đơn sơ và học thuyết có tầm thƣờng mấy đi nữa
cũng vậy bởi chính thần khí sống động nơi ngài sẽ phát sinh
lửa nóng cho ngƣời nghe. Còn nếu chẳng có nếp sống tốt
lành thì nhà giảng thuyết sẽ chẳng mang lại nhiều lợi ích dù
cho kiểu nói hoặc học thuyết có cao siêu mấy cũng vậy.
Những câu văn hoa mỹ cũng nhƣ các cử điệu, học thuyết cao
xa, lời lẽ chọn lọc khi đƣợc thần khí tốt lành đi kèm vẫn tạo
ra đƣợc cảm xúc và mang lại hiệu quả hơn, thế nhƣng nếu
thiếu vắng thần khí ấy thì dù cho bài giảng đem lại hƣơng vị
và thích thú cho giác quan và trí hiểu, nó sẽ lay động lòng
ngƣời rất ít hoặc không đƣợc gì cả. Dù tai có nghe trình bày
hay ho đủ thứ kỳ công, ý chí của ngƣời nghe thƣờng vẫn cứ
yếu nhƣợc, nhát đảm nhƣ trƣớc. Lời giảng mơn trớn lỗ tai
khác nào một khúc nhạc du dƣơng hay tiếng chuông vang
rền nhƣng cái thần khí vẫn không thoát khỏi những đƣờng
mòn cũ kỹ thì tiếng nói suông làm sao có đƣợc quyền lực để
phục sinh kẻ chết khỏi nấm mồ!
5 – Dù tôi có vểnh tai nghe một bản nhạc du dƣơng cũng
có nghĩa lý gì nếu nó không thúc giục tôi hoạt động hơn.
Ngƣời ta nói đến đủ thứ kỳ công nhƣng chúng sẽ bị quên ngay
vì không nhen đƣợc lửa cho lòng muốn. Một bài giảng kiểu ấy
sẽ rất ít hiệu quả. Hơn nữa, cái thích thú nó tạo đƣợc cho các
giác quan còn ngăn cản không cho ngƣời ta đạt tới tâm linh.
Ngƣời nghe chỉ vui thích với hình thức và những cái phụ
thuộc của lời giảng. Ngƣời ta ca tụng ngƣời giảng thuyết về
QUYỂN 3 521

chuyện này chuyện nọ và dừng lại ở những thứ ấy chứ không


nhờ bài giảng ấy mà cải thiện đƣợc cuộc sống.
Thánh Phaolô đã giúp giáo dân Côrintô rõ điều ấy khi
ngài nói: Anh em thân mến, khi đến với anh em, tôi đã không
rao giảng Chúa Kitô bằng một học thuyết siêu vời hay bằng
sự khôn ngoan; lời lẽ và lời rao giảng của tôi chẳng hề có
được sự hùng biện của sự khôn ngoan nhân loại nhưng chỉ
nhằm biểu lộ thần khí và chân lý (1Cr 2,1-4).
6 – Ở đây Thánh Tông đồ, cũng nhƣ tôi, không kết án
lối văn hoa mỹ, thuật hùng biện hoặc ngôn từ hay ho bởi quả
thực những thứ này rất quan trọng đối với nhà giảng thuyết
cũng nhƣ đối với mọi lãnh vực khác, bởi lẽ lời hay ý đẹp
nâng cao và phục hƣng ngay cả những chuyện đã rơi vào đồi
bại và hƣ hỏng, khác nào một câu văn dở làm hƣ hại và tiêu
tan những chuyện tốt lành...
(Cuốn Đƣờng Lên Núi Cát Minh đột ngột ngƣng lại ở
câu này trong tất cả các thủ bản. Ngƣời ta tự hỏi không rõ
Thánh nhân có kết thúc đƣợc tác phẩm này hay không... )
MỤC LỤC

DẪN VÀO “ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH” ............................... 5


I. Đỉnh cao nhắm đến ......................................................... 5
II. Nẻo hoàn thiện ............................................................... 8
III. Đêm giác quan ............................................................ 13
IV. Đêm trí hiểu ................................................................ 20
V. Đêm của dạ nhớ .......................................................... 34
VI. Đêm của lòng muốn.................................................... 41
ĐƢỜNG LÊN NÚI CÁT MINH ................................................. 57
Tóm lƣợc ......................................................................... 58
Lời tựa ......................................................................... 61
QUYỂN 1
*
CHƢƠNG 1 Hai thứ đêm .................................................. 68
CHƢƠNG 2 Thế nào là đêm*............................................. 71
CHƢƠNG 3 Tƣớc bỏ sự mê thích* .................................... 74
CHƢƠNG 4 Cuộc vƣợt qua cần thiết* ............................... 78
CHƢƠNG 5 Cuộc vƣợt qua cần thiết* (2) .......................... 85
CHƢƠNG 6 Hậu quả tệ hại của mê thích* ......................... 92
CHƢƠNG 7 Mê thích sinh khổ não *.................................. 98
CHƢƠNG 8 Mê thích khiến linh hồn nên tối tăm
và mù quáng* ................................................. 101
CHƢƠNG 9 Mê thích gây hoen ố * .................................. 107
CHƢƠNG 10 Mê thích đƣa tới nguội lạnh và suy yếu * ... 113
CHƢƠNG 11 Diệt hẳn mê thích *..................................... 116
CHƢƠNG 12 Tác hại dây chuyền và đồng bộ * ............... 124
CHƢƠNG 13 Cách xử sự * .............................................. 128
Mục lục 523

CHƢƠNG 14 Giải nghĩa câu thứ hai của ca khúc * ......... 134
CHƢƠNG 15 Giải nghĩa các câu thơ còn lại của ca khúc 136
QUYỂN 2
CHƢƠNG 1 Ca khúc thứ hai ........................................... 138
CHƢƠNG 2 Đức tin * ...................................................... 141
CHƢƠNG 3 Lý do khiến đức tin là đêm tối *.................... 143
CHƢƠNG 4 Cần đi qua đêm đen * .................................. 148
CHƢƠNG 5 Bản chất sự nên một * ................................. 154
CHƢƠNG 6 Ba nhân đức hƣớng thần và ba quan năng *161
Chƣơng 7 Đƣờng hẹp của trí hiểu *................................. 166
Chƣơng 8 Không gì trong giới tự nhiên có thể trực tiếp giúp
nên một với Thiên Chúa * .............................. 175
Chƣơng 9 Đức tin giúp nên một với Thiên Chúa * ........... 181
Chƣơng 10 Đôi điều cần phân biệt * ................................ 185
Chƣơng 11 Những khoái cảm tâm linh qua giác quan * ... 187
CHƢƠNG 12 Các nhận thức tƣởng tƣợng tự nhiên không thể
giúp nên một với Thiên Chúa * ...................... 197
Chƣơng 13 Những dấu hiệu phải có * ............................. 204
CHƢƠNG 14 Cần có đủ ba dấu hiệu* ............................. 208
CHƢƠNG 15 Khi mới tiếp cận* ....................................... 219
CHƢƠNG 16 Những nhận thức tƣởng tƣợng* ................ 223
CHƢƠNG 17 Mục đích các ơn ban* ................................ 234
CHƢƠNG 18 Những vị linh hƣớng bị lầm lạc* ................ 243
CHƢƠNG 19 Tại sao ta dễ bị gạt* ................................... 249
CHƢƠNG 20 (Vì sao không chắc chắn?*) ....................... 261
CHƢƠNG 21 Sự tò mò không cần thiết* ......................... 267
CHƢƠNG 22 Tại sao không đƣợc phép?* ...................... 278
CHƢƠNG 23 Những nhận thức thuần tâm linh* .............. 294
CHƢƠNG 24 Hai loại thị kiến tâm linh* ........................... 298
524

CHƢƠNG 25 Các mạc khải* ............................................ 306


CHƢƠNG 26 Loại mạc khải thứ nhất* ............................. 308
CHƢƠNG 27 Loại mạc khải thứ hai* ............................... 321
CHƢƠNG 28 Những lời nói nội tâm* ............................... 326
CHƢƠNG 29 Những lời nói “liên tiếp”* ............................ 328
CHƢƠNG 30 Những lời trang trọng* ............................... 337
CHƢƠNG 31 Những lời nói thực thể* .............................. 342
CHƢƠNG 32 Những cảm xúc tâm linh* ........................... 346
QUYỂN 3
CHƢƠNG I Về nội dung quyển này* ................................ 352
CHƢƠNG 2 Giải trừ nhận thức tự nhiên của dạ nhớ* ...... 354
CHƢƠNG 3 Thiệt hại thứ nhất khi không chịu lột bỏ * ..... 364
CHƢƠNG 4 Thiệt hại thứ hai*.......................................... 368
CHƢƠNG 5 Thiệt hại thứ ba * ......................................... 370
CHƢƠNG 6 Những lợi ích khi biết tự buông quên * ......... 372
CHƢƠNG 7 Những nhận thức siêu nhiên * ..................... 375
CHƢƠNG 8 Thiệt hại do nhận thức siêu nhiên * .............. 377
CHƢƠNG 9 Tự hào và tự phụ * ....................................... 380
CHƢƠNG 10 Thiệt hại do nhận thức tƣởng tƣợng * ........ 383
CHƢƠNG 11 Bị cản trở hiệp nhất * ................................. 385
CHƢƠNG 12 Nguy cơ đánh giá thấp về Thiên Chúa *..... 386
CHƢƠNG 13 Đƣợc tự do đến với Chúa * ........................ 389
CHƢƠNG 14 Những nhận thức tâm linh nơi dạ nhớ * ..... 398
CHƢƠNG 15 Qui tắc tổng quát cho dạ nhớ *................... 400
CHƢƠNG 16 Thanh tẩy lòng muốn * ............................... 403
CHƢƠNG 17 Sự vui thỏa * .............................................. 407
CHƢƠNG 18 Những điều tốt trần tục * ............................ 409
CHƢƠNG 19 Của cải trần tục .......................................... 414
CHƢƠNG 20 Của cải trần tục (2)..................................... 422
Mục lục 525

CHƢƠNG 21 Nơi những điều tốt tự nhiên ....................... 427


CHƢƠNG 22 Nơi những điều tốt tự nhiên (2) ................. 430
CHƢƠNG 23 Nơi những điều tốt tự nhiên (3) ................. 436
CHƢƠNG 24 Những điều tốt thuộc cảm tính................... 439
CHƢƠNG 25 Nơi điều tốt khả giác .................................. 444
CHƢƠNG 26 Lợi ích khi biết khƣớc từ ............................ 447
CHƢƠNG 27 Niềm vui từ các nhân đức (1) * .................. 452
CHƢƠNG 28 Nơi những điều tốt về luân lý ..................... 457
CHƢƠNG 29 Nghèo khó tâm linh * ................................. 463
CHƢƠNG 30 Về các đoàn sủng (1) * .............................. 466
CHƢƠNG 31 Về các đoàn sủng (2) * .............................. 470
CHƢƠNG 32 Về các đoàn sủng (3) * .............................. 477
CHƢƠNG 33 Những điều tốt tâm linh * ........................... 480
CHƢƠNG 34 Những điều tốt tâm linh cụ thể * ................ 482
CHƢƠNG 35 Những điều tốt tâm linh cụ thể (2) * ........... 483
CHƢƠNG 36 Về các ảnh tƣợng ...................................... 488
CHƢƠNG 37 Về các ảnh tƣợng(2).................................. 492
CHƢƠNG 38 Các nguyện đƣờng .................................... 495
CHƢƠNG 39 Các nguyện đƣờng và đền thờ .................. 500
CHƢƠNG 40 Tại những nơi cầu nguyện ......................... 503
CHƢƠNG 41 Tại những nơi tôn sùng ............................. 505
CHƢƠNG 42 Tại những nơi tôn sùng (2) ........................ 507
CHƢƠNG 43 Những nghi thức đủ loại ............................ 511
CHƢƠNG 44 Qua các việc tôn sùng ............................... 513
CHƢƠNG 45 Các nhà giảng thuyết ................................. 518
ĐƯỜNG LÊN NÚI CÁT MINH

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc - Tổng biên tập: Quang Thắng
Biên tập nội dung: Lê Đăng Khâm
Sửa bản in: Xuân Quang
Trình bày: Phạm Quốc Anh – Thanh Hiền
Bìa: Chung Thanh Huy
In 1.000 bản, khổ 14x20 cm
tại Công ty TNHH In ấn - DV - TM Siêu Tốc
7/3 Nguyễn Văn Quz, P. Phú Thuận, Q.7, TP. Hồ Chí Minh
Số xác nhận đăng k{ xuất bản: 2491-2017/CXBIPH/27-17/PĐ
Cục Xuất bản, In và Phát hành ký ngày 31 tháng 07 năm 2017
Quyết định xuất bản số: 309/QĐ-NXBPĐ, ngày 29 tháng 09 năm 2017
In xong và nộp lưu chiểu qu{ IV năm 2017
ISBN: 978-604-63-2642-7

You might also like