Professional Documents
Culture Documents
Hình 7.1 Kiến trúc mạng dịch vụ bản tin đa phương tiện.
III. Tổng quan về các dịch vụ GSM trong giai đoạn 2+
Các chuẩn GSM luôn luôn được nâng cấp: Giai đoạn 1 của sự thiết lập bao
gồm các dịch vụ viễn thông cơ bản - trước tiên là thoại và một vài dịch vụ bổ xung
khác, khi đó được đưa ra bởi các nhà điều hành vào năm 1991, lúc này GSM đã giới
thiệu ra thì trường. Sự chuẩn hóa giai đoạn hai hoàn thành trong năm 1991 và tung ra
thị trường vào năm 1996. Thực chất thì ETSI thêm khá nhiều các dịch vụ bổ xung, khi
mà khái GSM bắt đầu hình thành và được chập nhận từ ISDN cố định. Các dịch vụ
mới này được tạo ra và cần thiết để gia công lại các phần lớn của chuẩn GSM. Mạng
lưới mà hoạt động theo các chuẩn được sửa lại được gọi là GSM giai đoạn 2. Tùy
nhiên, các mạng và thiết bị đầu cuối của giai đoạn hai duy trì sự tương thích với các
thiết bị đầu cuối và thiết bị mạng của giai đoạn 1, sự phát triển chuẩn mới có khả năng
tương thích chính xác với thế hệ trước đó.
GSM giai đoạn 2+ đưa ra nhiều mong đợi từ truyền dẫn vô tuyến tới truyền tin
và xử lý cuộc gọi. Tuy nhiên, không có sự duyệt xét hoàn chỉnh cho chuẩn GSM;
chính xác là các vùng đối tượng đơn lẻ thì được xử lý như là các đơn vị chuẩn hóa
riêng biệt, với mục đích đó, cho phép chúng được thiết lập và giới thiệu một cách độc
lập.
Do đó, hệ thống GSM có thể phát triển theo từng giai đoạn và sự chuẩn hóa có
thể theo cách linh hoạt trong môi trường cần đến. Tuy nhiên với cách tiếp cận này, sự
xác nhận duy nhất của một hệ thống GSM là không thể cho phép. Kí hiệu GSM 2+ để
chỉ ra sự mở đầu (Mouly và Pautet 1995), chỉ ra một quá trình phát triển không có
mốc thời gian kết thúc hoặc thời điểm ra đời của các dịch vụ mới. Các chuẩn GSM thì
được đưa ra trong cách gọi là phiên bản (phiên bản 97, 98, 99 và 2000).
Một danh sách lớn câu hỏi kĩ thuật đã được giải quyết, và chỉ có một vài cái
còn lại được thể hiện trong phần sau. Hình 7.2 thể hiện sự phát triển của GSM, từ
khởi phát là các dịch vụ thoại số tới thế hệ thứ 3 của truyền dẫn di động (UMITS/IMT
2000). Nó thể hiện các dịch vụ của giai đoạn 2+. Phần lớn các dịch vụ đó được đưa ra
bởi các nhà cung cấp mạng ngày nay và có thể được sử dụng với thiết bị di động cải
tiến.
Hình 7.8
Hình 7.9 Tạo ra tài liệu WML và HTML
2. Kiến trúc giao thức
Hình 8.2 kiến trúc hệ thống GPRS, giao diện và định tuyến
Qua giao diện Gf, SGSN có thể hỏi và kiểm tra IMEI của một MS đang cố
gắng để đăng kí với mạng.
Giao diện Gi kết nối PLMN với mạng dữ liệu công cộng bên ngoài. Trong
chuẩn GPRS, giao diện tới mạng IP và X.25 cũng được hỗ trợ.
GPRS cũng bổ xung một vào điểm nhập tới các bộ đăng kí GSM. Với MM
(Mobility Management), điểm vào của người dùng trong HLR được mở rộng với một
liên kết tới SGSN hiện hành của nó. Hơn nữa, tiểu sử GPRS riêng biệt và PDP hiện
hành cũng được lưu trữ, Giao diện Gr được dùng để chuyển đổi thông tin đó giữa
HLR và SGSN. Một MS đăng kí với một SGSN mới, HLR sẽ gửi tiểu sử người dùng
tới SGSN mới đó. Trong một phương thức đơn giản, tuyến báo hiệu giữa GGSN và
HLR có thể được dùng bởi GGSN để hỏi về vị trí và tiểu sử của người dùng, người
chưa biết trong GGSN.
Ngoài ra, MSC/VLR có thể được mở rộng với các đầu vào chức năng và đăng
kí khi đó cho phép sự kết hợp hiệu quả giữa chuyển mạch gói và các dịch vụ chuyển
mạch kênh thông thường. Ví dụ, sự kết hợp giữa cập nhật GPRS và GSM, và các
phương thước đấu nối. Hơn nữa, yêu cầu paging của chuyển mạch cuộc gọi GSM
chuyển mạch kênh có thể được thực hiện thông qua SGSN. Với mục đích này, giao
diện Gs kết nối SGSN và MSC/VLR.
Cuối cùng, GPRS cho phép truyền dẫn SMS. Giao diện Gd kết nối SMS-
GMSC với SGSN.
2. Các dịch vụ
Dịch vụ mang và dịch vụ bổ xung
Các dịch vụ mang của GPRS đưa ra sự truyền dẫn dữ liệu chuyển mạch gói
đầu cuối tới đầu cuối tới thuê bao di động. Hiện nay, dịch vụ điểm điểm đã được xác
định, lúc này có hai biến thể: chế độ kết nối vô hướng và chế độ kết nối định hướng.
Nó cho phép sử dụng các giao thức định tuyến IP đa điểm trên GPRS. Các gói
được đánh địa chỉ tới một nhóm IP đa điểm sau đó sẽ được định tuyến tới toàn bộ
thành viên trong nhóm. Hơn nữa, các bản tin SMS có thể được gửi và nhận trên GPRS.
Dựa trên các dịch vụ được chuẩn hóa, nhà cung cấp dịch vụ GPRS có thể đưa
ra các dịch vụ bổ xung không chuẩn hóa. Ví dụ là các truy cập tới cơ sở dữ liệu, các
dịch vụ tin nhắn, và các dịch vụ chuyển đổi. Quy trình quan trọng là truy cập không
dây tới WWW và liên kết tới intranet như sự truyền dẫn email.
Chất lượng dịch vụ
Yêu cầu QoS cho các ứng dụng đa dạng dữ liệu di động là rất khác nhau, trong
GPRS được dùng như một kĩ thuật truyền dẫn. Hỗ trợ các QoS khác nhau là một đặc
trưng quan trọng để hỗ trợ sự đa dạng của các ứng dụng, nhưng vẫn phải giữ các
nguồn vô tuyến và mạng trong những cách thức sử dụng hiệu quả. Hơn nữa các lớp
QoS cho phép nhà cung cấp đưa ra các tùy chọn đơn giá khác nhau. Đơn giá có thể
dựa trên số lượng dữ liệu được truyền, kiểu dịch vụ và mẫu QoS. Ở thời điểm tài liệu
được đưa ra, có bốn chỉ số QoS được xác định trong GPRS là: Quyền ưu tiên dịch vụ,
khả năng tin cậy, trễ, thông lượng. Sử dụng các chỉ số trên, các mẫu QoS có thể được
thỏa thuận giữa người dùng di động và mạng cho mỗi phiên làm việc, phụ thuộc vào
yêu cầu QoS và các nguồn khả dụng hiện hành.
Ưu tiên dịch vụ là quyền ưu tiên của một dịch vụ. Tồn tại 3 mức ưu tiên: cao,
bình thường và thấp. Trong trường hợp lưu lượng tải lớn, thì các gói có ưu tiên thấp
sẽ bị phá hủy trước.
Khả năng tin cậy chỉ ra các đặc tính truyền dẫn được yêu cầu bởi một ứng
dụng. Có 3 lớp khả năng tin cậy thể hiện trong bảng 8.1, khi đó, chỉ ra giá trị lớn nhất
của xác suất mất gói, nhân bản gói, nhỡ chuỗi, hư hỏng gói.
Chỉ số trễ xác định giá trị lớn nhất cho trễ, xem bảng 8.2. Cuối cùng là giá trị
trễ lớn nhất đảm bảo 95% cho tất cả sự truyền dẫn. Trễ được xác định như thời gian
truyền dẫn đầu cuối tới đầu cuối giữa các MS hoặc giữa một MS và giao diện Gi tới
một mạng bên ngoài. Ở đây bao gồm toàn bộ trễ trong mạng GPRS, như trễ yêu cầu,
gán kênh nguồn vô tuyến, truyền dẫn trên giao diện không gian và trong mạng xương
sống. Trễ bên ngoài mạng GPRS không được tính toán. Bảng 8.2 có bốn danh sách
được xác định cho các lớp trễ.
Thông lượng xác định tốc độ bit lớn nhất/ đỉnh và tốc độ bit ý nghĩa.
Sự dụng đồng thời các dịch vụ chuyển mạch gói và chuyển mạch kênh
Trong mạng GSM/GPRS, các dịch vụ chuyển mạch kênh thông thường và các
dịch vụ GPRS có thể được dùng song song. Chuẩn GPRS xác định ba lớp của MS là:
MS lớp A hỗ trợ hoạt động đồng thời các dịch vụ GPRS và GSM, MS lớp B cho phép
để đang kí với mạng cho các dịch vụ GSM và GPRS cùng lúc và lắng nghe các kiểu
của bảng tin báo hiệu của hai kiểu, nhưng tại một thời điểm chỉ sử dụng được một
kiểu dịch vụ, cuối cùng là lớp C, MS có thể kết nối các dịch vụ hoặc GPRS hoặc
GSM tại một thời điểm. Đăng kí và sử dụng đồng thời thi không cho phép, khi đó, các
bản tin có thể gửi và nhận tại bất kì thời điểm.
3.Quản lí phiên làm việc, di động và định tuyến
Thủ thuật đấu nối và tách
Trước khi một MS có thể sử dụng dịch vụ GPRS, nó phải được kết nối tới
mạng. Bản tin đấu nối của MS được gửi SGSN. Mạng kiểm tra quyền người dùng,
nếu chính xác, nó copy tiểu sử người dùng từ HLR tới SGSN, và gán một gói nhận
dạng thuê bao di động tạm thời (P-TMSI) tới người dùng. Phương thức này gọi là đấu
nối GPRS. Với các thuê bao dùng cả chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói, nó cũng
cho phép thực hiện đấu nối kết hợp GPRS/IMSI. Sự hủy kết nối từ mạng GPRS được
gọi là tách GPRS và có thể được khởi tạo bởi mạng hoặc MS.
Quản lý phiên làm việc và thuộc tính PDP
Để chuyển đổi các gói dữ liệu với các PDN sau khi đấu nối GPRS thành công,
MS phải áp dụng các địa chỉ được dùng trong PDN. Nhìn chung, địa chỉ này được gọi
là một đia chỉ PDP. Trong trường hợp PDN là một mạng IP, thì địa chỉ sẽ là địa chỉ IP.
Với mỗi phiên làm việc, một thuộc tính được gọi là PDP thì được tạo ra, khi
đó miêu tả các đặc tính của phiên làm việc. Nó bao gồm kiểu PDP, địa chỉ PDP được
gán tới MS, lớp QoS được yêu cầu và địa chỉ của một GGSN mà phục vụ như một
điểm truy cập tới mạng bên ngoài. Thuộc tính đó được lưu trữ trong MS, SGSN và
GGSN. Đầu tiên, MS kích hoạt thuộc tính PDP, nó “cho phép” mạng bên ngoài và có
thể gửi và nhận các gói dữ liệu. Ánh xạ giữa hai địa chỉ tạo ra sự truyền dẫn dữ liệu
gói giữa MS và GGSN.
Hình 8.3
Sự cấp phát địa chỉ PDP có thể là tĩnh hoặc động. Trong trường hợp đầu tiên,
MS sở hữu cố định một địa chỉ PDP được gán bởi nhà hoạt động mạng. Với trường
hợp thứ hai, một địa chỉ PDP được gán sau khi kích hoạt thuộc tính PDP, mỗi thời
điểm MS đấu nối tới mạng, nó sẽ có một địa chỉ PDP mới, sau đó, khi nó tách GPRS
thì địa chỉ PDP sẽ dành cho một MS khác. Địa chỉ PDP có thể được gán bởi nhà điều
hành PLMN chủ của thuê bao hoặc nhà điều hành của mạng được viếng thăm. GGSN
chịu trách nhiệm cho việc phân bổ và hủy kích hoạt các địa chỉ.
Hình 8.3 thể hiện thủ thục kích hoạt thuộc tính PDP bằng MS. Sử dụng bản tin
yêu cầu kích hoạt PDP, MS thông báo SGSN về yêu cầu thuộc tính PDP được yêu cầu.
Nếu một địa chỉ tỉnh được yêu cầu, chỉ số địa chỉ PDP sẽ được làm trống. Sau đó,
chức năng bảo mật GSM thông thường được thực hiện. Nếu việc truy cập được chấp
nhận, SGSN gửi một yêu cầu tạo thuộc tính PDP tới GGSN. GGSN tạo một điểm vào
mới trong bảng thuộc tính PDP của nó, khi đó cho phép GGSN để định tuyến các gói
dữ liệu giữa SGSN và PDN bên ngoài. GGSN thông báo điều này tới SGSN bằng bản
tin đáp trả việc tạo thuộc tính PDP, có thể bao gồm địa chỉ động nếu cần thiết. Cuối
cùng SGSN cập nhật bản định tuyến PDP và thông báo sự kích hoạt thuộc tính PDP
mới tới MS.
Chuẩn GPRS hỗ trợ sự kích thuộc tính PDP không tên, điều này thì hiệu quả
cho các ứng dụng như các dịch vụ trả trước. Trong một phiên làm việc, người dùng sử
dụng thuộc tính PDP không nhận biết. Các chức năng bảo mật như trong hình 8.3 thì
được bỏ qua. Chỉ có sự phân bổ địa chỉ tĩnh thì cho phép trong trường hợp này.
Định tuyến
Hình 8.2 thể hiện cách mà các gói được định tuyến trong GPRS. Chúng ta giả
sử rằng mạng dữ liệu gói là một mạng IP.
Một MS GPRS được đặt trong PLMN1 gửi các gói IP tới một máy chủ Web
được kết nối internet. SGSN nơi MS được đăng kí, đóng gói các gói IP đến từ MS,
kiểm tra thuộc tính và định tuyến chúng qua mạng xương sống tới GGSN xác định.
GGSN giải đóng gói các gói IP và gửi chúng tới mạng IP, nơi đó, các bộ phận định
tuyến IP chuyển các gói IP tới bộ định tuyến truy cập của mạng đích. Cuối cùng các
gói IP được phân phối tới host.
Hãy giả sử rằng PLMN chủ của MS là PLMN2 và các địa chỉ IP được gán từ
không gian PLMN2- hoặc là địa chỉ động hoặc địa chỉ tĩnh. Máy chủ đánh địa chỉ các
gói IP tới MS, chúng được định tuyến tới GGSN của mạng PLMN2, bởi vì địa chỉ IP
của MS có cùng tiền tố mạng như địa chỉ IP của GGSN chủ. GGSN yêu cầu HLR và
các thông tin biết trước mà MS đặt trong PLMN1. Sau đó, nó giải nén các gói IP đến
và chuyển chúng qua mạng xương sống liên PLMN GPRS tới SGSN trong PLMN1.
SGSN giải đóng gói các gói và phân phát tới MS.
Quản lý vị trí
Hình 8.8 luồng dữ liệu và phân đoạn giữa các lớp giao thức trong MS.
Hình 8.8 thể hiện luồng dữ liệu giữa các lớp giao thức trong MS. Các gói của
lớp mạng được chuyển xuống lớp SNDCP, nơi đây chúng được phân đoạn thành các
khung LLC. Sau khi thêm các thông tin đầu đoạn và chuỗi kiểm tra khung FCS cho
việc bảo vệ, các khung này được phân đoạn trong một hoặc một vài khối dữ liệu RLC.
Sau đó, các khung này được chuyển xuống lớp MAC. Một khối RLC/MAC bao gồm
một MAC và một đầu đoạn (header) RLC, tải RLC (các bit thông tin) và một chuỗi
kiểm tra khối tại phân cuối. Mã hóa kênh của các khối RLC/MAC và ánh xạ tới một
khối trong lớp vật lý thì được thảo luận trong phần sau.
Giao diện BSS-SGSN. Tại giao diện Gb, giao thức ứng dụng BSS GPRS
(BSSGP) được xác định trên lớp 3. Nó được lấy ra từ BSSMAP (đọc thêm phần 5.3.1).
BSSGP định tuyến và phân phối QoS giữa BSS và SGSN. Giao thức dịch vụ mạng
(NS) phía dưới dựa trên giao thức chuyển tiếp khung.
Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ:
Bây giờ chúng ta sẽ bàn luận chi tiết hơn về phần định tuyến đã đề cập
ở phần I. Hình 8.9 thể hiện sự truyền dẫn của một gói IP đến. Nó được nhận tại
GGSN, sau đó, được định tuyến qua mạng xương sống GPRS tới SGSN có trách
nhiệm và cuối cùng là tới MS. Sử dụng thuộc tính PDP, GGSN xác định từ địa chỉ
đích một TID và địa chỉ IP cho SGSN. Giữa GGSN và SGSN, GTP được dùng đến.
SGSN lấy TTLI từ TID và cuối cùng chuyển các gói IP tới MS. NSAPI được gọi là
một phần của TID. Nó ánh xạ một địa chỉ IP tới thuộc tính PDP tương ứng. Một cặp
NSAPI/TLLI là duy nhất trong một RA.
Hình 8.9 Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ: gói IP đến (truyền dẫn dữ liệu kết thưc di
động)
Hình 8.10 Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ: Gói IP đi (Truyền dẫn dữ liệu được khởi
phát di động)
5. Mô hình báo hiệu
Kiến trúc báo hiệu của mô hình báo hiệu bao gồm các giao thức cho việc điều
khiển và hỗ trợ các chức năng cuả mô hình truyền dẫn để thực hiện đấu nối GPRS và
tách GPRS, kích hoạt thuộc tính PDP, điều khiển đường định tuyến, phân bổ các
nguồn vô tuyến.
Giữa MS và SGSN, giao quản lý di động GPRS và quản lý phiên làm việc có
trách nhiệm cho sự quản lý di động và phiên làm việc.
Hình 8.11 Mô hình báo hiệu MS-SGSN
Kênh logic
Bảng 8.3 thể hiện các kênh logic được xác định trong GPRS. Với một kênh
logic trong GSM thông thường, chúng có thể được chia ra thành hai loại: các kênh lưu
lượng và các kênh báo hiệu. Các kênh báo hiệu có thể còn được chia thành: kênh điều
khiển quảng bá gói, kênh điều khiển gói chung và kênh điều khiển gói riêng.
Kênh lưu lượng dữ liệu gói (PDTCH) được dùng cho truyền dẫn dữ liệu người
dùng. Nó được gán tới một MS, Một MS có thể có vài PDTCH cùng lúc.
Kênh điều khiển quảng bá gói (PBCCH) là một kênh báo hiệu điểm đa điểm
một hướng từ BSS tới các MS. Nó được dùng bởi BSS để quảng bá thông tin về sự tổ
chức của mạng vô tuyến GPRS tới toàn bộ các MS GPRS của một cell. Ngoài ra,
PBCCH cũng sẽ quảng bá thông tin quan trọng hệ thống về các dịch vụ chuyển mạch
kênh nên MS GSM/GPRS không cần lắng nghe BCCH
Kênh điều khiển gói chung PCCCH vận chuyển thông tin cho các chức năng
của sự quản lý truy cập mạng, cho sự phân bổ các kênh vô tuyến, điều khiển truy cập
phương tiện và paging. Có bốn kênh con là:
Kênh truy cập gói ngẫu nhiên PRACH được dùng bởi MS để yêu cầu
một hoặc nhiều PDTCH
Kênh chập thuận truy cập gói PAGCH được dùng để phân bổ một hoặc
nhiều PDTCH tới một MS.
Kênh paging gói PPCH được dùng bởi BSS để tìm ra vị trí của MS
trong quá trình truyền xuống.
Kênh liên kết gói PNCH được dùng để thông báo MS về các bản tin tới
PTM.
Hình 8.14 Phân bổ kênh lên (Truyền dẫn gói khởi phát di động)
Hình 8.14 thể hiện nguyên tắc phân bổ kênh lên (Truyền dẫn gói khởi phát di
động). Một MS yêu cầu một kênh bằng việc gửi một gói yêu cầu kênh trên PRACH
hoặc RACH. BSS trả lời trên PAGCH hoặc AGCH. Một gói yêu cầu kênh thành công
thì một bộ luồng tạm thời (TBF) được thiết lập. Và, các nguồn được phân bổ cho MS,
và truyền dẫn dữ liệu có thể bắt đầu. Trong suốt quá trình truyền, USF trong đầu đoạn
của các khối xuống chỉ ra các MS rằng các đường lên PDTCH được dùng đến. Bên
phía nhận, một bộ nhận dạng luồng tạm thời TFI hỗ trợ để tái ghép gói. Một khi toàn
bộ dữ liệu được truyền đi hết, TBF và các nguồn được giải phóng. Hình 8.15 thể hiện
thủ tục paging cho một trạm di động.
Hình 8.15 Paging (truyền dẫn gói kết thúc di động)
Kênh điều khiển gói riêng là một kênh báo hiệu điểm điểm đa hướng. Nó bao
gồm các kênh sau:
Kênh điều khiển gói kết hợp luôn luôn được phân bổ trong sự kết với
một hoặc nhiều PDTCH. Nó vận chuyển thông tin báo hiệu liên quan
tới một MS riêng biệt.
Kênh điều khiển định thời gói cải tiến được dùng cho đồng bộ khung
thích nghi. MS gửi trên đường lên phần PTCCH, PTCCH/U, Abs tới
BTS. Từ sự trễ của các khối tín hiệu, giá trị chính xác của TA (Time
Avandce) được lấy ra (xem thêm phần 4.3.2). Giá trị này sau đó được
truyền trên đường xuống, PTCCH/U để thông báo tới MS.
Sự kết hợp giữa các kênh logic chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói thì
cũng cho phép. Nếu PCCCH không khả dụng trong cell, một MS GPRS có thể dùng
CCCH của GSM chuyển mạch kênh để khởi tạo truyền dẫn gói. Hơn thế, nếu PBCCH
không khả dụng, nó có thể biết các thông tin cần thiết thông qua BCCH.
Như với GSM chuyển mạch kênh, các kênh logic GPRS có thể chỉ được dùng
trong sự kết hợp đã biết. Điều này cho phép sự kết hợp của việc ghép các kênh logic
trong các kênh vật lý thể hiện ở bảng 8.5. Hơn thế, bảng 8.6 thể hiện cấu hình kênh
mà MS có thể sử dụng. Sự kết hợp M9 thể hiện một MS trong trạng thái IDLE chờ
các gói tới. Sự kết hợp M10 là một MS truyền với khả năng đa khe. Vài PDTCH thì
được gán tới một MS đơn lẻ, ở đây, n thể hiện số PDTCH cho phép truyền dẫn hai
chiều và m thể hiện số PDTCH cho phép truyền dẫn một chiều. Chúng ta có: n=1, ….,
8, m=0, …, 8 và n+m=1, …, 8.
Sự ánh xạ các kênh logic dữ liệu gói trên các kênh vật lý
Việc ánh xạ các kênh GSM logic trên các kênh vật lý có hai phần: ánh xạ
trong tần số và ánh xạ trong thời gian. Ánh xạ trong tần số dựa trên số lượng khung
TDMA và các tần số được phân bổ tới BTS và MS. Ánh xạ trong thời gian dựa trên
sự xác định của cấu trúc đa khung trên cùng của các khung TDMA.
Cấu trúc đa khung của PDCH bao gồm 52 khung TDMA (mỗi khung có tám
khe thời gian) thể hiện trong hình 8.6. Các khe thời gian của một PDCH tương ứng
của bốn khung TDMA liên tiếp và tạo thành một khối vô tuyến (B0-B11). Hai khung
TDMA được dành riêng cho truyền dẫn PTCCH, và hai khung cho các khung IDLE.
Một đa khung có thời gian xấp xỉ khoảng 240ms (52 x 4.615ms). Một khối vô truyền
gồm 456 bit.
Ánh xạ các kênh logic có thể trên các khối B0-B11 của đa khung có thể thay
đổi từ khối tới khối và được điều khiển bởi các chỉ số khi đó được quảng bá trên
PBCCH. Các khuyến nghị GPRS xác định các khe thời gian có thể được dùng bởi các
kênh logic.
Ngoài ra trong cấu trúc đa khung 52, có thể được dùng bởi toàn bộ các kênh
logic GPRS, một cấu trúc đa khung 51 cũng được xác định. Nó được dùng cho PDCH
chỉ để mang các kênh logic PCCCH và PBCCH. Trong đường xuống, nó bao gồm 10
khối, mỗi khối gồm 4 khung và 10 khung IDLE. Trong đường lên, nó có 51 khung
truy cập ngẫu nhiên, và trong khoảng 235.4 ms.
Hình 8.17 Mã hóa, xen kẽ và định dạng cách khối (Tiếp theo hình 8.8)
Hình 8.17 thể hiện các mà các khối của lớp RLC/MAC được mã hóa và ánh xạ
trong bốn khối tín hiệu. Mã hóa kênh được dùng đển bảo vệ các gói được truyền dẫn
chống lại lỗi và thực hiện việc sử lỗi. Kĩ thuật mã hóa kênh trong GPRS có công cụ
tương tự như được dùng trong GSM. Một mã khối ngoài, một mã chập bên trong và
mô hình xen kẽ thì được dùng đến.
Bốn mô hình mã hóa đã xác định với các tốc độ bit khác nhau. Các chỉ số của
chúng được thể hiện trong bảng 8.7. Với mỗi mô hình, mối khối 456 bit được thể hiện
ra sau khi mã hóa. Hình 8.18 thể hiện quá trình mã hóa, và được mô tả ngắn gọn ở
phần sau.
Mã hóa
Chức năng mã hóa được thực hiện trong lớp LLC giữa MS và SGSN
(hình 8.7 và 8.11). Do đó, phạm vị mã hóa sẽ tác động tới tất cả con đường từ MS tới
SGSN và ngược lại. Trong khi, GSM chỉ là ở giữa MS và BTS/BSC. Trong GSM,
thuật toán A8 tạo ra khóa mã hóa Kc từ Ki và RAND. Kc thì được dùng bởi thuật toán
mã hóa GPRS (GEA) cho sự mã hóa dữ liệu (thuật toán A5). Chú ý rằng Kc được
điều khiển bởi SGSN thì không phụ thuộc vào Kc được điều khiển bởi MSC trong
GSM. MS có thể có nhiều hơn một Kc.
MS và SGSN bắt đầu mã hóa sau bản tin đáp trả mã hóa và xác thực
được gửi đi hoặc được nhận. Sau đó, dữ liệu người dùng và báo hiệu trong suốt quá
trình truyền dẫn dữ liệu được truyền trong một phương thức được mã hóa.
Khả năng bảo mật nhận dạng người dùng
Trong GSM, nhận dạng thuê bao thì bảo mật. Điều này được thực hiện
sử dụng các nhận dạng tạm thời trên kênh vô tuyến. IMSI của người dùng không được
truyền đi không được mã hóa, thay vì thế một P-TMSI được gán tới mỗi người dùng
bởi SGSN. Địa chỉ này là tạm thời, chỉ khả dụng và duy nhất trong vùng dịch vụ của
SGSN đó, Từ P-TMSI, một TLLI được lấy ra. Việc ánh xạ giữa các nhận dạng tạm
thời và IMSI được lưu trong MS và trong SGSN.
II. HSCSD
Đúng như tên của nó, dịch vụ dữ liệu chuyển mạch tốc độ cao là một dịch vụ
chuyển mạch kênh. Điểu này đưa ra cho người dùng một tốc độ dữ liệu cố định khả
dụng trong suốt quá trình kết nối dự liệu. Điều này không phụ thuộc vào số lượng của
dữ liệu được truyền, người dùng sẽ trả tiền cho kết nối ngay cả khi dữ liệu không
được truyền. HSCSD hữu ích cho cho các ứng dụng yêu cầu tốc độ dữ liệu cố định.
Thuận lợi của dịch vụ này là tốc độ dữ liệu được bảo đảm trong suốt thời gian kết nối,
trong trường hợp dịch vụ mang trong sáng. Một khía cạnh khác là QoS được bảo đảm
nếu như dịch vụ mang không trong sáng được áp dụng. HSCSD hỗ trợ hai trường hợp
này.
Như trong GPRS, HSCSD cho phép sử dụng một vài kênh dung lượng (n) để
cung cấp tốc độ dữ liệu cao. Hình 8.21 thể hiện một ví dụ với n=2, trong đó, các khe
thời gian TS1 và TS2 được dùng cho kết nối HSCSD (đường lên và đường xuống).
Nguyên tắc giới hạn số n được đưa ra bằng thỏa thuận rằng chúng phải nằm trên cùng
một kênh tần số giống nhau. Do đó, tiêu chuẩn cho phép n=8 hoặc các kênh thì được
gán tới một người dùng. Điều này đưa ra tốc độ dữ liệu lớn nhất có thể đạt tới: sử
dụng tám kênh tại một thời điểm, mỗi kênh mang một tốc độ lưu lượng kênh đầy đủ
TCH/F9.6, tốc độ tổng là 76.8kbit/s sẽ đạt được. Tuy nhiên, cần phải nói lại rằng,
thông qua việc GSM áp dụng FDD, các khe thời gian lên và xuống của cùng một
TCH có một offset, giống như là thiết bị đầu cuối di động có thể thực hiện truyền dẫn
và nhận cùng một lúc. Điều này dẫn tới các thiết bị đầu cuối với khả năng thực hiện
truyền dẫn và nhận song song sẽ dẫn đến sự phức tạp của các thiết bị đầu cuối khác,
nên giá thành chúng sẽ đắt hơn. Do đó, phiên bản ra đời sớm của HSCSD chỉ cho
phép n=4 để dùng tại một thiết bị. Điều này đưa ra tốc độ 38.4 kbit/s, khi đó, bốn
kênh TCH/F9.6 được dùng đến. Trong thực tế, bằng việc áp dụng các mô hình mã hóa
khác nhau, tốc độ dữ liệu tối đa có thể đạt tới 57.6 kbit/s với n=4. Hình 8.21 thể hiện
ví dụ với n=2, các hoạt động được yêu cầu trong thiết bị di động vẫn có thể được thực
hiện đồng thời, giống như là ý định trong GSM truyền thống: Thiết bị di động thực
hiện nhận dữ liệu trong các khe thời gian TS1 và TS2 của đường xuống. Bằng việc
điều khiển offset thời gian của ba khe thời gian giữa đường lên và đường xuống, thiết
bị đầu cuối có thể hoàn thành việc nhận, khi đó, nó bắt đầu truyền trên đường lên sử
dụng TS1 và TS2 nhưng bây giờ là để phát. Sau khi hoàn thành phát lên và trước khi
nhận dữ liệu lại trên TS1 và TS2, vẫn đủ thời gian để điều khiển sóng mang BCCH
của các cell lân cận, điều này là quan trong cho hoạt động chuyển giao.
1. Kiến trúc
Đứng ở góc độ kiến trúc thì HSCSD không có yêu cầu thay đổi nhiều so với
kiến trúc của dịch vụ dữ liệu GSM thông thường. Kiến trúc GSM cho HSCSD được
thể hiện trong hình 8.22. Giao diện Um giữa MS và BTS n=8 được dùng. Tiếp đó
được chuyển tiếp qua giao diện Abis từ BTS tới BSC. Ở đây, dữ liệu từ các kênh song
song được ghép lại trên một kết tối 64 kbit/s và được truyền trên giao diện A tới
MSC. Các kênh đầy đủ tốc độ n được xem xét độc lập với các kênh khác và được xử
lý một cách riêng rẻ cho các mục đích điều khiển lỗi giao diện không gian. Tuy nhiên,
một cách logic chúng thuộc về cấu hình HSCSD giống nhau và được điều khiển như
một liên kết vô tuyến bởi mạng cho mục đích của các hoạt động tế bào, như là chuyển
vùng.
Sự khác biệt chính với các dịch vụ dữ liệu GSM là trong sự kết hợp và chia
nhỏ mà điều này được yêu cầu từ MS và MSC trong HSCSD. Nhiều chuỗi dữ liệu
được truyền giữa các thực thể. Chức năng này được cung cấp bởi chức năng chọn
thiết bị đầu cuối TAF tại MS và trong IWF tại MSC.
Hình 8.22 kiến trúc GSM cho HSCSD
Giao diện không gian
Như đã thảo luận, một kết nối HSCSD bao gồm n kênh lưu lượng (TCH).
Toàn bộ các kênh lưu lượng dùng cùng cùng bước nhảy nếu bước nhảy tần số được áp
dụng. Chuỗi hướng dẫn cũng được gán cho tất cả các kênh lưu lượng n. Tuy nhiên,
mỗi kênh lưu lượng được gán một kênh báo hiệu SACCH riêng, cho phép mức tín
hiệu độc lập và đáp ứng báo hiệu trên một khe thời gian và điều khiển công suất riêng
rẻ trên một khe thời gian. Điều này được thực hiện, vì mức nhiễu có thể khác nhau
trên mỗi khe thời gian mà các mức công suất khác nhau có thể được yêu cầu để đảm
bảo chất lượng tín hiệu trên tất cả các khe thời gian. Kết nối HSCSD có một kênh
điều khiển FACCH được gán cho các mục đích quản lý. Với tất cả các kênh HSCSD,
mã kênh giống nhau thì được áp dụng cho các dịch vụ trong sáng, các mã hóa kênh
khác nhau được dùng cho đường lên và đường xuống. Với mỗi kênh HSCSD, có thể
đối xứng hoặc là không và các kênh có thể được được đặt trên các khe thời gian liên
tiếp hoặc không của cùng một sóng mang, sự giới hạn lớp đa khe của MS cũng được
xem xét đến.
Các kết nối đối xứng bao gồm một FACCH đa hướng được đặt cùng với các
kênh TCH và SACCH. Ngược lại, các kết nối không đối xứng có thể có thể có các
kênh SACCH và TCH/f đa hướng hoặc/và đơn hướng. Các kênh đơn hướng trong
HSCSD luôn luôn là các kênh xuống. Cả các kênh HSCSD đối xứng hoặc là không
đều có một kênh chính đa hướng, khi đó mang FACCH.
2. Phân bổ nguồn HSCSD và các vấn đề dung lượng
Khi khởi tạo một kết nối HSCSD, người dùng chỉ ra số lượng lớn nhất của các
kênh dung lượng trong quá trình thiết lập, lớp đa khe của thiết bị, các mã kênh có thể
cấp nhận và một tốc độ người dùng mạng cố định mong muốn. Trong trường hợp của
các kết nối không trong sáng, tốc độ giao diện người dung mạng cố định thì cũng
được chỉ ra. Các yêu cầu kết nối có thể là đối xứng hoặc là không đối xứng. Các chỉ
số đó được dùng bởi mạng để phân bổ các nguồn vô tuyến riêng biệt và để thiết lập
kết nối HSCSD được yêu cầu. Yêu cầu kênh nhỏ nhất là một TCH/F. Các kết nối
trong sáng hay không trong sáng có thể được thiết lập với bất kì số TCH/F nào từ một
tới một số tối đa xác định. Khi tốc độ người dùng yêu cầu không được đáp ứng, mạng
sẽ đưa ra ưu tiên để thực hiện yêu cầu người dùng giao diện không gian vô tuyến
trong hướng xuống, có thể cho phép sử dụng một cấu hình không đối xứng. Mạng có
thể phân bổ nguồn vô tuyến linh động cho các kết nối HSCSD không trong sáng,cũng
như các cấu hình kênh được phân bổ luôn luôn trong dải với các giá trị giới hạn được
xác định bởi MS và với các lớp đa khe của thiết bị đầu cuối. Trong trường hợp các kết
nối HSCSD trong sáng, việc phân bố các nguồn linh động chỉ cho phép nếu tốc độ
người dùng được giữ ở một hằng số. Mạng thực hiện việc chuyển đổi các cấu hình
phân bổ kênh trong quá trình kết nối HSCSD, bằng các phương thức nâng câp và thu
gọn nguồn. Nếu được chỉ ra bởi MS trong quá trình thiết lập cuộc gọi, MS có thể giải
quyết nâng cấp hoặc thu gọn mức dịch vụ tại bất kì thời điểm nào trong quá trình kết
nối HSCSD.
HSCSD có thể tăng tốc độ người dữ liệu của một người dùng đơn lẻ. Điều này
được đạt tới bằng việc gán nhiều hơn các nguồn tần số tới một người dùng. Với ý
định này, đứng trên quan điểm nhà cung cấp mạng, các nguồn được chiếm giữ một
cách thường xuyên hơn. Một người dùng HSCSD sử dụng n=4 TCH sẽ chiếm giữ bốn
kết nối thoại. Do đó, khi nhiều người dùng sử dụng HSCSD tại một thời điểm trong
một cell, hiệu suất trong cell đó sẽ kém đi. Điều này sẽ ảnh hưởng tới chính sách quản
lý nguồn, nghĩa là, nhà cung cấp mạng sẽ: Nếu có thể, nhà cung cấp cố gắng gán
nhiều hơn các sóng mang tần số tới cell đó. Cũng như thế, nhà cung cấp có sự lựa
chọn của việc giới hạn số lượng các kết nối HSCSD trong một cell.
Một mong đợi quan trọng khác của sự quản lý nguồn vô tuyến HSCSD là
chuyển giao. Khi một chuyển giao của kết nối HSCSD tới một cell lân cận là cần thiết
thì nó có thể cho phép để tìm n TCH rỗi trên một kênh tần số trong cell đích. Trong
trường hợp này, có hai lựa chọn: hoặc kết nối HSCSD bị hủy hoặc kết nối được tiếp
tục với một số lượng TCH thấp hơn. Với mục đích này, phương thức thu gọn nguồn
được áp dụng. Với phương thức này, xác suất một chuyển giao bị khóa và một kết nối
HSCSD bị rớt có thể được giảm xuống. Cuối cùng, phương thức nâng cấp nguồn có
thể áp dụng nếu một nguồn riêng biệt trở nên khả dụng, và sự phân bổ cấu hình kênh
gốc có thể được tạo lại.
III. EDGE
1. Khái niệm
Một hệ thống GSM truyền thống thì được thiết kế và lập kế hoạch trong một
trường hợp xấu nhất. Việc thiết kế mạng vô tuyến được đưa ra với một xác suất lớn
rằng người dùng trong mạng sẽ có một chất lượng tín hiệu thấp với xác suất lỗi bit,
điều chế và mô hình mã hóa. Trong thực tế, hạn chế lớn nhất của việc thiết kế mạng
vô tuyến là người dùng được đặt tại biên của cell. Nên có thể nói rằng mạng GSM
được thiết kế cho người dùng tại biên cell. Tuy nhiên, người dùng đặt gần trạm cơ sở
có các mức tín hiệu tốt hơn được yêu cầu cho các mô hình mã hóa và điều chế GSM
tiêu chuẩn. Để giải quyết điều này, EDGE đưa ra một vài sự kết hợp bổ xung của các
mô hình mã hóa và điều chế,khi đó cho phép thiết bị cầu cuối điều chỉnh các tốc độ
dữ liệu tới các mức chất lượng tín hiệu riêng. Với mục đích này, một kỹ thuật điều
chỉnh liên kết được giới thiệu với EDGE, tạo ra một sự lựa chọn linh động mô hình
mã hóa và điều chế phù hợp với các điều kiện kênh hiện hành.
Hình 8.24, khối tín hiệu EDGE có một chuỗi 26 kí tự ở giữa, 3 kí tự tail tại
đầu hoặc gần cuối, 8.25 kí tự bảo vệ tại phía cuối. Khối tín hiệu mang 2 x 58 kí tự dữ
liệu.
2. Lớp vật lý, điều chế và mã hóa
Với EDGE, bổ xung vào mô hình điều chế GMSK được dùng trong GSM, một
mô hình khóa chuyển pha 8 được dùng đến, khi đó đạt được tốc độ dữ liệu cao hơn
xấp xỉ ba lần và hiệu quả phổ cao hơn. Sử dụng GMSK, một bit dữ liệu di được ánh
xạ tới một kí tự ai; với 8-PSK, ba bit dữ liệu di được kết hợp trong một kí tự ai và được
truyền đi cùng nhau. Hình 8.23 thể hiện kí tự tập hợp trong mức độ phức tạp và được
kết hợp các chuỗi bit. Đối lập GMSK, 8-MSK không có một sự bao phủ ổn định và do
đó, đặt ra các yêu cầu cao hơn trên các bộ truyền phát mới trong BTS và MS.