You are on page 1of 45

CÁC DỊCH VỤ GSM CƠ BẢN VÀ

CÁC DỊCH VỤ NÂNG CAO


Tài liệu:
 Được dịch từ chương 7 và 8 của Ebook GSM Architecture, Protocols
and Services.
 Người dịch: Sinh viên Quy Nhơn.

Sai sót là rất nhiều, mong sự góp ý chân thành !!!


tungben9x@yahoo.com
A.CÁC DỊCH VỤ GSM
I. Các dịch vụ GSM truyền thống
1. Các dịch vụ viễn thông
Thoại (Voice)
Dịch vụ thoại được nhà điều hành mạng thiết lập đầu tiên từ năm 1991 (giai
đoạn 1). Có hai dịch vụ thoại là: Dịch vụ thoại thông thường và dịch vụ khẩn cấp. Với
các tín hiệu thoại được mã hóa số, thì cả hai dịch vụ sử dụng kết nối điểm điểm, song
công, đồng bộ. Điểm khác nhau cơ bản giữa hai dịch vụ này là dịch vụ thông thường
yêu cầu một IWF quốc tế, trong khi dịch vụ khẩn cấp đặt trong biên giới của một
mạng quốc gia.
Truyền dẫn fax
Một dịch vụ viễn thông thiết lập tiếp theo (giai đoạn 2), sự lắp đặt dịch vụ fax
trong sáng cho nhóm fax 3 thì đã được định ra. Dịch vụ fax được gọi là dịch vụ trong
sáng bởi vì nó sử dịch vụ mang trong sáng cho dữ liệu fax. Việc mã hóa và truyền dẫn
của dữ liệu fax sử dụng giao thức theo khuyến cáo ITU-T 30. Nhà hoạt động mạng
cũng có sự lựa chọn để thiết lập Fax trên một dịch vụ mang không trong sáng để cải
tiến các chất lượng truyền dẫn. Dịch vụ fax trong sáng được truyền đi trên một kênh
dung lượng mà được dùng cho thoại hoặc fax. Các tùy chọn khác được xác định như
một chuyển tiếp fax với sự tiếp nhận cuộc gọi tự động. Dịch vụ này có thể được đưa
ra bởi nhà điều hành mạng khi mà đa đánh số được dùng như một giải pháp liên kết
mạng. Trong trường hợp đa đánh số, khách hàng được được gán một vài số MSISDN,
và một sự chia sẻ tiểu sử liên kết mạng đã được lưu cho mỗi số. Với cách này, dịch vụ
viễn thông có thể được kết hợp với mỗi MSISDN, dịch vụ fax cũng là một trong số đó.
Nếu một thuê bao được gọi trên số fax GSM, thì các nguồn được yêu cầu trong IWF
của MSC cũng giống như là trong MS có thể được kích hoạt. Trong trường hợp của
dịch vụ fax trong sáng, các cuộc gọi fax nhận một số giống như số cuộc gọi thoại và
được chuyển mạch tới bên nhận fax một cách bình thường.
II. Các dịch vụ GSM phổ biến: SMS và MMS
SMS
Là một dịch vụ quan trọng trong hệ thống GSM ngày nay, một dạng dịch vụ
phổ biến tại bên người dùng và tạo ra doanh thu cho bên nhà cung cấp, có khả năng
để nhận và gửi bản tin ngắn tại MS: SMS, TS21 và TS22. Các dịch vụ này được xem
như là giai đoạn thứ 3 và được đưa ra vào cuối năm 1996 trên toàn bộ các mạng GSM.
TS21 là một phiên bản điểm điểm của SMS, còn TS22 được xác định như là một tùy
chọn thiết lập dung lượng để gửi tin nhắn ngắn tới một MS. Sự kết hợp SMS với các
dịch vụ bổ xung khác, các hệ thống hộp thư với sự thông báo tự động của các bản tin
được nhận mới nhất hoặc chi phí cho việc truyền dẫn bản tin ngắn, thể hiện ý nghĩa
vượt trội rõ ràng cách mà dịch vụ được đưa ra bởi mạng GSM so với các dịch vụ
được cung cấp bởi mạng cố định.
Với SMS, nhà điều hành mạng thiết lập một trung tâm dịch vụ, khi đó tiếp
nhận các tin nhắn từ mạng cố định và xử lý chúng theo chế độ lưu và chuyển tiếp.
Giao diện thì không có được sự xác định riêng biệt và có thể dùng đến báo hiệu
DTMF, yêu cầu đặc biệt, email, fax. Sự phân phát tin nhắn có thể tuy biến thời gian
và không phụ thuộc vào vị trí hiện hành của MS. Một trung tâm dịch vụ có chấp nhận
các bản tin ngắn từ MS, khi đó, cũng có thể chuyển tiếp tới thuê bao trong mạng cố
định. Sự truyền dẫn bản tin ngắn sự dụng giao thức kết nối vô hướng, bảo vệ và
chuyển mạch gói. Bên nhận của bản tin phải có báo nhận bằng MS hoặc trung tâm
dịch vụ; trong trường hợp lỗi, việc truyền lại sẽ diễn ra. TS21 và TS22 chỉ là các dịch
vụ viễn thông nếu như được sử dụng với các dịch vụ viễn thông khác, bản tin ngắn có
thể được truyền và phát trong quá trình một cuộc gọi đang diễn ra.
Một biến thể của SMS là dịch vụ quảng bá cell TS23, SMSCB. Các bản tin
SMSCB thì được quảng bá trên một vùng giới hạn của mạng. Chúng có thể được nhận
bởi các MS trong chế độ rảnh rỗi và bên nhận sẽ không báo nhận. Bản thân một MS
thì không gửi các bản tin SMSBC. Với dịch vụ này, các bản tin bao gồm một sự chỉ
định hạng mục, nên MS có thể chọn một hạng mục quan tâm mà chúng muốn nhận và
lưu trữ. Chiều dài tối đa của SMSBC là 93 kí tự, nhưng sử dụng bộ phân kết hợp thì
mạng có thể phát các bản tin dài hơn, lên tới 15 chuỗi bản tin SMSBC.
Bảng 7.1 SMS, EMS và MMS

Dịch vụ Năm ra đời Kích cỡ Nội dung


SMS 1995 160 byte Văn bản
EMS 2000 160 byte Văn bản, hình ảnh, hoạt ảnh
MMS 2001 100 kbyte Văn bản, hình ảnh, video
EMS
EMS là sự mở rộng của SMS. SMS bị giới hạn chỉ có thể văn bản, để giải
quyết sự hạn chế này, EMS đã được ra. EMS được phát triển bởi các nhà sản xuất
GSM như một chuẩn 3GPP mở. Nó cho phép gửi các ảnh không màu 16x16 hoặc
32x32 pixel, và các ảnh được điều chỉnh trong thiết bị cầm tay. Chuổi ảnh có thể bao
gồm sáu ảnh. Phong cữ có thể được định dạng trong EMS và bao gồm các âm sắc của
ba bát độ. Các dải của âm sắc có thể là 150, 225, 300, 450 ms và có thể lên tới 80 nốt.
Tuy nhiên trước khi EMS trở nên phổ biến thì chuẩn MMS ra đời và EMS đã bị bỏ
qua.
MMS
MMS tương tự như SMS và EMS, tuy nhiên nó có khả năng cao hơn trong
kích thước và độ linh hoạt. Chuẩn MMS được phát triển bởi tập đoàn công nghiệp và
trở thành chuẩn 3GPP. Ngoài khả năng văn bản, MMS có khả năng để truyền hình
ảnh, giai điệu, các chuỗi đa phương tiện. MMS có thể truyền tới 100 kbyte dữ liệu và
có thể điều khiển thoại mã AMR, ảnh, âm nhạc và cả video. Đứng ở góc độ mạng lưới,
một trung tâm MMS, gọi là MMS-C được yêu cầu đến, trung tâm này có trách nhiệm
cho việc lưu trữ, chuyển đổi và chuyển tiếp dữ liệu MMS. MMS-C cũng lưu trữ thông
tin về khác hàng, như là khả năng của thiết bị đầu cuối, điều này cho phép tránh
truyền dẫn các bản tin MMS truyền tới MS trong những định dạng mà thiết bị đầu
cuối không thể điều khiển. Sự so sánh giữa SMS, EMS, và MMS được thể hiện trong
7.1.
Kiến trúc MMS
Kiến trúc mạng dịch vụ bản tin đa phương tiện (MMSNA) bao gồm toàn bộ
các thành phần để cung cấp một MMS hoàn chỉnh tới một người dùng. Điều này cũng
gồm các sự liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ. Môi trường dịch vụ bản tin đa
phương tiện MMSE là một tập hợp của các thành phần mạng MMS riêng biệt, mà
được điều khiển bởi một sự quản lý đơn lẻ. Trong trường hợp chuyển vùng, mạng
được viếng thăm có một phần MMSE của người dùng trong câu hỏi, khi các thuê bao
của một nhà nhà cung cấp dịch vụ khác có phần trong MMSE khác. Một nguyên tắc
quan trong được đưa ra bởi máy chủ/Chuyển tiếp MMS, khi đó có trách nhiệm cho
việc lưu trữ và điều khiển các bản tin đến và đi. Nó cũng có sự tính cước các bản tin
giữa các hệ thống khác nhau. Máy chủ/chuyển tiếp MMS có thể là một thành phần
logic đơn lẻ hoặc là có thể chia sẻ hai thành phần đơn lẻ, một máy chủ chuyển tiếp
MMS và một máy chủ MMS. Máy chủ/Chuyển tiếp MMS cũng cho phép để tạo ra sự
tính cước dữ liệu, khi nhận các bản tin đa phương tiện (MM) từ một thành phần hoặc
phân phối MM tới một thành phần của kiến trúc. Dữ liệu người dùng MMS gồm
thông tin có liên quan tới người dùng, cấu hình và dung lượng dữ liệu. Dữ liệu người
dùng có thể là một thực thể đơn lẻ hoặc nó có thể được phân phối. “Đại lý” người
dùng MMS là một ứng dụng lớp chức năng, cung cấp người dùng khả năng để xem,
viết và điều khiển MM. “Đại lý” MMS được đặt ở thiết bị di động. Cuối cùng, các
ứng dụng dịch vụ giá trị VAS gia tăng đưa ra các dịch vụ giá trị gia tăng tới người
dùng. Một vài ứng dụng VAS có thể được kết nối tới một MMSE.

Hình 7.1 Kiến trúc mạng dịch vụ bản tin đa phương tiện.
III. Tổng quan về các dịch vụ GSM trong giai đoạn 2+
Các chuẩn GSM luôn luôn được nâng cấp: Giai đoạn 1 của sự thiết lập bao
gồm các dịch vụ viễn thông cơ bản - trước tiên là thoại và một vài dịch vụ bổ xung
khác, khi đó được đưa ra bởi các nhà điều hành vào năm 1991, lúc này GSM đã giới
thiệu ra thì trường. Sự chuẩn hóa giai đoạn hai hoàn thành trong năm 1991 và tung ra
thị trường vào năm 1996. Thực chất thì ETSI thêm khá nhiều các dịch vụ bổ xung, khi
mà khái GSM bắt đầu hình thành và được chập nhận từ ISDN cố định. Các dịch vụ
mới này được tạo ra và cần thiết để gia công lại các phần lớn của chuẩn GSM. Mạng
lưới mà hoạt động theo các chuẩn được sửa lại được gọi là GSM giai đoạn 2. Tùy
nhiên, các mạng và thiết bị đầu cuối của giai đoạn hai duy trì sự tương thích với các
thiết bị đầu cuối và thiết bị mạng của giai đoạn 1, sự phát triển chuẩn mới có khả năng
tương thích chính xác với thế hệ trước đó.
GSM giai đoạn 2+ đưa ra nhiều mong đợi từ truyền dẫn vô tuyến tới truyền tin
và xử lý cuộc gọi. Tuy nhiên, không có sự duyệt xét hoàn chỉnh cho chuẩn GSM;
chính xác là các vùng đối tượng đơn lẻ thì được xử lý như là các đơn vị chuẩn hóa
riêng biệt, với mục đích đó, cho phép chúng được thiết lập và giới thiệu một cách độc
lập.
Do đó, hệ thống GSM có thể phát triển theo từng giai đoạn và sự chuẩn hóa có
thể theo cách linh hoạt trong môi trường cần đến. Tuy nhiên với cách tiếp cận này, sự
xác nhận duy nhất của một hệ thống GSM là không thể cho phép. Kí hiệu GSM 2+ để
chỉ ra sự mở đầu (Mouly và Pautet 1995), chỉ ra một quá trình phát triển không có
mốc thời gian kết thúc hoặc thời điểm ra đời của các dịch vụ mới. Các chuẩn GSM thì
được đưa ra trong cách gọi là phiên bản (phiên bản 97, 98, 99 và 2000).
Một danh sách lớn câu hỏi kĩ thuật đã được giải quyết, và chỉ có một vài cái
còn lại được thể hiện trong phần sau. Hình 7.2 thể hiện sự phát triển của GSM, từ
khởi phát là các dịch vụ thoại số tới thế hệ thứ 3 của truyền dẫn di động (UMITS/IMT
2000). Nó thể hiện các dịch vụ của giai đoạn 2+. Phần lớn các dịch vụ đó được đưa ra
bởi các nhà cung cấp mạng ngày nay và có thể được sử dụng với thiết bị di động cải
tiến.

Hình 7.2 Sự phát triển của GSM


VI. Dịch vụ mang và dịch vụ viễn thông của GSM giai đoạn 2+.
1.Trường cuộc gọi thoại cải tiến
Các hệ thống GSM giai đoạn 2+ đưa ra các đặc điểm không phù hợp cho
truyền dẫn nhóm. Ví dụ, các dịch vụ cuộc gọi nhóm hoặc dịch vụ “nhấn để gọi”
(“push to talk”) đã được biết từ hệ thống vô tuyến cá nhân hoặc hệ thống vô tuyến số
trung kế với sự thiết lập kết nối nhanh thì đã không được đưa ra. Tuy nhiên, các dịch
vụ này thì cần thiết cho các nhóm người dùng gần gũi nhau. Về khía cạnh riêng, các
nhà hoạt động xe lửa có một yêu cầu to lớn cho đặc điểm này. Vào năm 1992, một tổ
chức quốc tế, Union Internationale des Chemins De Broglie Fer (UIC), đã chọn hệ
thống GSM (Mouly và Pautet 1995)như chuẩn của họ. Hệ thống GSM này dựa trên hệ
thống truyền dẫn đường ray quốc tế thay thế cho một tập hợp của các hệ thống vô
tuyến không tương thích.
Trong phần này, chúng ta sẽ đề cập đến các dịch vụ viễn thông thoại đã chuẩn
hóa mà đưa ra cho truyền dẫn nhóm : Dịch vụ thoại quảng bá (VBS) và Cuộc gọi
thoại nhóm (VGCS). Ngoài ra, quyền ưu tiên đa mức cải tiến (Enhanced
Multilevel Precedence) và Dịch vụ quyền ưu tiên trước (Pre-emption Service) thì
được dùng để gán và điều khiển các quyền ưu tiên tới người dùng và cuộc gọi của họ.
Toàn bộ các dịch vụ được chỉ ra trên được xem như là Trường cuộc gọi thoại cải tiến
ASCI.
 Dịch vụ thoại quảng bá VBS
VBS cho phép người dùng để quảng bá một bản tin thoại tới một vài
người dùng khác trong một vùng địa lý xác định trước. Người khởi tạo cuộc gọi có
thể chỉ gửi (người nói) còn một vài người khác có thể chỉ nge (người nghe).
Hình 7.3 đưa ra một mô hình minh họa của một quá trình VBS. Người
dùng di động là những người có những lợi ích riêng trong nhóm thuê bao VBS xác
định trước và sẽ nhận các cuộc gọi quảng bá của nhóm đó. Quyền hạn đặc biệt thì cần
thiết cho việc gửi chính xác các cuộc gọi quảng bá và cho việc nhận các cuộc gọi đó.
Thuê bao nhóm VBS được lưu trữ trong thẻ SIM của người dùng, và nếu như thuê
bao không muốn nhận cuộc gọi VBS thì họ có thể tắt thẻ SIM đó. Ngoài ra đối với
các thuê bao di động GSM, một nhóm được xác định trước của kết nối điện thoại cố
định có cũng có thể tham gia trong dịch vụ VBS.

Hình 7.3 Quy trình VBS


Khái niệm hệ thống và đăng kí cuộc gọi nhóm
Diện tích trong một cuộc gọi thoại quảng bá được gọi là diện tích cuộc
gọi nhóm. Như thể hiện trong hình 7.4, nhìn chung vùng diện tích này bao gồm một
vài cell. Diện tích cuộc gọi nhóm có thể bao gồm một vài cell của một vài MSC và
của một vài PLMN. Một MSC chịu trách nhiệm cho một điều khiển VBS. Nó được
gọi là MSC neo (anchor MSC). Nếu một thoại quảng bá cũng được phát trong các cell
mà không nằm trong vùng dịch vụ của MSC đó, thì các MSC của các cell kia cũng
được yêu cầu đến. Chúng được xem như là sự chuyển tiếp MSC.
Hình 7.4 Ví dụ về diện tích cuộc gọi nhóm.
Dữ liệu VBS được được lưu trong một Bộ cuộc gọi nhóm GCR. Hình
7.5 thể hiện kiến trúc GSM được mở rộng. GCR bao gồm cuộc gọi quảng bá phân bổ
cho mỗi nhóm VBS, khi đó, cần đến chuyển tiếp cuộc gọi và xác nhận. Một vài ví dụ
sau.

Hình 7.5 Sự mở rộng kiến trúc GSM với GCR


 Khi nào các cell thuộc về diện tích nhóm cuộc gọi ?
 Khi nào MSC thì chịu trách nhiệm MSC neo ?
 Trong đó, các cell nào là thành viên nhóm đang phân bổ, cell nào là
bản tin thoại để quảng bá ?
 Các MSC khác là bản tin thoại để được chuyển tiếp tới các thành
viên nhóm, những người mà hiện đang nằm trong vùng cuộc gọi
nhóm.
 Khi nào các kết nối điện thoại cố định bên ngoài là bản tin quảng
bá được đánh địa chỉ ?
 Khi nào các kết nối điện thoại cố định được cho phép hoạt động
như người nghe ?
Thiết lập cuộc gọi và các kênh logic
Một MS có ý định để khởi tạo một cuộc gọi thoại quảng bá thì nó gửi một yêu
cầu tới BSS. Yêu cầu bao gồm nhóm ID của nhóm VBS được gọi. Sau đó, MSC có
trách nhiệm hỏi tiểu sử người dùng từ VLR và kiểm tra để xem người dùng được cho
phép như người người nge cho cuộc gọi nhóm hay không. Tiếp theo, một vài phân bổ
VBS riêng biệt được yêu cầu từ GCR. Nếu cuộc gọi quảng bá có thể sẽ được phát đi
trên các cell mà không thuộc MSC hiện hành, thì một MSC neo được xác định. MSC
neo chuyển tiếp các phân bổ VBS tới toàn bộ các MSC chuyển tiếp, sau đó, thì tác
động đến toàn bộ các BTS để phân bổ một kênh lưu lượng trong các cell tương ứng và
sau đó để gửi một bản tin thông báo trên NCH ( kênh này được dùng để thông báo
cho MS về các cuộc gọi nhóm và quảng bá). Khi một MS nhận một bản tin và cũng có
sự thuê bao tới nhóm VBS tương ứng thì nó thay đổi kênh dung lượng và lắng nge
quảng bá thoại trong đường xuống. Người nghe được thông báo về sự thiết lập kết nối
thành công và có thể bắt đầu nói. Bản tin thông báo thì được lặp lại theo chu kỳ trên
NCH đến khi người nghe kết thúc cuộc gọi.
Trái ngược với thủ thuật paging trong các cuộc gọi GSM thông thường, các
thuê bao di động riêng rẻ và MS của họ thì không được địa chỉ hóa bằng TMSI hoặc
IMSI, mà với VBS thì dùng đến nhóm ID. Hơn nữa, MS không báo nhận sự nhận của
các cuộc gọi VBS tới mạng lưới. Để thực hiện các dịch vụ, các kênh dung lượng
không được phân bổ tới các thuê bao riêng rẻ, nhưng tín hiệu thoại của người nghe thì
được quảng bá tới tất cả bên nghe trong một cell trên một nhóm kênh. Do đó, trong
một cell riêng, chỉ một kênh đầy đủ tốc độ được chiếm giữ.
Dịch vụ cuộc gọi thoại nhóm VGCS
Một dịch vụ truyền dẫn nhóm khác là VGCS. VGCS xác định một dịch vụ
truyền dẫn nhóm người dùng gần gũi, trong đó, việc nói có thể được truyền đi trong
một một nhóm trong suốt quá trình gọi và được thực hiện bởi bộ phận “nhấn để nói”
giống như vô tuyến di động. Nguyên tắc này thể hiện ở hình 7.6: Người dùng một
khởi tạo một cuộc gọi nhóm và nói, trong khi những người khác thì nghe. Tiếp theo,
người dùng 1 giải phóng kênh và thay đổi sang chế độ nghe. Bây giờ, mỗi thuê bao có
thể áp dụng để thành người nghe. Ví dụ người dùng 4 yêu cầu kênh và mạng gán một
kênh cho nó. Họ nói, giải phóng kênh và chuyển sang chế độ nghe. Cuối cùng, cuộc
gọi nhóm được kết thúc bằng bộ khởi tạo. Luồng thông tin trong VBS là đơn công,
còn trong VGCS là bán song công.
Các khái niệm cơ bản trong VBS như diện tích cuộc gọi nhóm, nhóm ID, GCR
MSC neo/chuyển tiếp thì cũng được dùng trong VGCS.
Hình 7.6 Tiến trình cuộc gọi nhóm
Kênh logic
Một kênh lưu lượng thì được phân bổ trong mỗi cell của diện tích nhóm cuộc
gọi. Toàn bộ thành viên nhóm nge trong kênh đó ở đường xuống, và chỉ có người nói
mới sử dụng đường lên. Do đó, mạng phải điều khiển nguồn vô tuyến lên. Mạng chỉ
ra đường xuống tới tất cả các MS còn đường lên thì được sử dụng hoặc không. Nếu
như kênh truyền rỗi, thì các thành viên nhóm có thể gửi các AB (Acess Burst). Sự va
chậm xảy ra cũng được giải quyết, và mạng chọn một người dùng và anh ta có thể nói.
Bảng 7.2 Phân loại ưu tiên trong eMLPP

Quyền ưu tiên đa mức nâng cao và quyền chọn trước


Dịch vụ ưu tiên cho phép mạng xử lý các cuộc gọi với một sự phân loại ưu
tiên. Nếu lượng tải mạng thì lớn, thì các cuộc gọi với ưu tiên cao có thể được xử lý
trong phương thức và các nguồn dàng cho các các cuộc gọi có ưu tiên thấp. Nghĩa là,
một cuộc gọi với ưu tiên thấp có thể bị ngưng lại bởi vì một cuộc gọi với ưu tiên cao
đi tới.
Các thuộc tính trong GSM thì được điều khiển bởi eMLPP. Nó là dịch vụ bổ
xung cho các dịch vụ thoại điểm điểm cũng như là VBS và VGCS. Nguyên tắc của
eMLPP dưa trên phương pháp quyển ưu tiên đa mức và quyền chọn trước MLPP
(Khuyến nghị ITU-T Q.735, 2008) được dùng trong báo hiệu SS7. MLPP được nâng
cấp với các chức năng cho điều khiển quyền ưu tiên tại giao diện không gian, Bảng
7.2 thể hiện toàn bộ các mức ưu tiên của eMLPP. Ngoài năm mức ưu tiên được dùng
trong MLPP, và hai mức ưu tiên cao hơn được xác định. Bảng còn thể hiện một cuộc
gọi với ưu tiên cao hơn có thể có thể kết thúc một cuộc gọi có ưu tiên thấp hơn. Điều
này là một chú ý quan trọng, chỉ có nhà điều hành mới có thể sử dụng các cuộc gọi
lớp ưu tiên A và B, ví dụ như một cuộc gọi khẩn cấp trên VBS hoặc VGCS có thể
được khởi tạo trong các trường hợp thảm họa. Các cuộc gọi sử dụng trong lớp ưu tiên
này có thể chỉ dùng trong vùng dịch vụ của một MSC. Năm lớp ưu tiên còn lại có thể
được dùng trong toàn bộ PLMN và cũng được dùng trong sự kết hợp PLMN của
ISDN. Cuộc gọi ưu tiên cao nhất mà một thuê bao được cho phép sử dụng thì được
lưu trong SIM và trong HLR.
2. Các dịch vụ dữ liệu mới và tốc độ dữ liệu cao: HSCSD, GPRS, và
EDGE.
Trong thảo luận ở phần B, ta sẽ thấy tốc độ tối đa 9.6 kbit/s trong mạng GSM
thông thường là thấp hơn so với mạng cố định. Mong muốn tốc độ dữ liệu cao hơn
trong mạng GSM là động cơ thúc đẩy để đưa ra các tốc độ dữ liệu cao hơn và các dịch
vụ linh hoạt hơn. Từ đó, một trong các nhóm chuẩn hóa GSM xác định dịch vụ
HSCSD, sau đó, là dịch vụ dữ liệu gói, GPRS, đã được chuẩn hóa và đưa ra bởi nhiều
nhà điều hành mạng. Đây là dịch vụ mang chuyển mạch gói tuyệt vời tại giao diện
không gian. Như với HSCSD, khả năng đa khe thời gian MS thì được yêu cầu (ví dụ,
bốn cho đường xuống và hai cho đường đường lên). GPRS sẽ được bàn đến trong
phần B, giới thiệu chi tiết hơn về kiến trúc hệ thống, giao thức, giao diện không gian,
đa truy cập và kết hợp với internet.
Để tăng tốc độ dữ liệu và hiệu quả phổ trên một khe thời gian, EDEG được
phát triển, cũng được miêu tae trong phần B. Nó sử dụng các mô hình điều chế yêu
cầu cao hơn, và một chuỗi các mô hình mã hóa khác nhau. Việc kết hợp EDGE với
GPRS và HSCSD chúng ta có EGPRS và ECSD, ngày nay sự kết hợp này đưa ra tốc
đô cao hơn là HSCSD và GPRS.
V. Các dịch vụ bổ xung trong GSM giai đoạn 2+.
1. Các dịch vụ bổ xung cho thoại
Phần lớn các đặc điểm dịch vụ bổ xung được biết từ ISDN đã được thiết lập
trong GSM. Tính di động của người dùng tạo ra sự cần thiết cho các dịch vụ bổ xung
mới. Ví dụ như các dịch vụ bổ xung được được biết từ ISDN hoặc mới hơn đươc xác
định là sự tìm kiếm truy cập di động, chuyển tiếp bản tin ngắn, tiểu sử đa người dùng,
chuyển tiếp cuộc gọi hoặc sự bổ xung cho các cuộc gọi tới thuê bao bận (CCBS).
Ví dụ của dịch vụ CCBS thể hiện vai trò của HLR được thay đổi từ chức năng
gốc là một cơ sở dũ liệu tới một chức năng như là thành phần điều khiển dịch vụ,
giống như điểm điều khiển dịch vụ SCP của mạng thông minh IN. Dịch vụ CCBS
được dựa trên cơ cở “gọi lại sau nếu bận”. Nếu một thuê bao được gọi thì không chấp
nhận một cuộc gọi vì một kết nối khác đang tiến hành, thì thuê bao đang gọi có thể
kích hoạt dịch vụ CCSB, trong trường hợp này, mạng sẽ tự động thiết lập kết nối với
bên được gọi tại thời điểm người đó kết thúc kết nối kia. Tính di động thêm sự phức
tạp để thiết lập các dịch vụ này. Trong mạng cố định, sự thiết lập sẽ yêu cầu thiết lập
hàng đợi cho các yêu cầu gọi lại sau trong trung tâm chuyển mạch của thuê bao gọi và
thuê bao được gọi. Trong một mạng di động, yêu cầu thêm các chuyển mạch bổ xung,
bởi vì sau khi kích hoạt dịch vụ CCBS, thuê bao gọi có thể chuyển vùng tới các trung
tâm chuyển mạch khác. Nếu sự thiết lập dịch vụ chỉ trong MSC, thì sẽ có một giải
pháp tập trung hoặc các danh sách hàng đợi sẽ được đưa ra để được chuyển tiếp tới
MSC mới. Giải pháp chính là tập trung trong HLR, khi đó, giải pháp này lưu trữ các
hàng đợi gọi lại trong MSC hiện hành. Nếu MS chuyển đổi MSC, thì hàng đợi gọi lại
sẽ được chuyển tới MSC mới. Trong trường hợp này, HLR như là một máy chủ và
điều khiển cuộc gọi vượt quá chức năng là cơ sở dữ liệu.
2. Dịch vụ vị trí
GSM phiên bản 99 đưa ra một dịch vụ vị trí, tạo ra khả năng để xác định vị trí
thuê bao chính xác tới vài mét. Một động cơ cho dịch vụ này là một đạo luật của Mỹ
yêu cầu vị trí của thuê bao phải được xác định trong trường hợp các cuộc gọi khẩn cấp.
Từ sự quản lý di động GSM, mạng biết được cell hiện hành của người dùng,
Tuy nhiên, độ chính xác vị trí ở đây thì không có ý nghĩa trong nhiều trường hợp, và
do đó, sự nghiên cứu đã được bắt đầu để tìm ra một giải pháp hiệu quả hơn. Phương
pháp được gọi là “thời gian tới” TOA, mạng lắng nghe các chuyển giao AB của MS
và sau đó, cho phép để định vị nó. Ngược lại với phương pháp này là phương pháp
“quan sát thời gian khác nhau cải tiến” E-TOD, MS đo đạc thời gian khác nhau của
các khối tín hiệu được nhận từ các trạm cơ sở khác nhau. Cả hai phương pháp đều chỉ
làm việc nếu như một MS có sự liên hệ với ít nhất là ba trạm cơ sở. Sự chính xác của
E-ODT nằm khoảng từ 50 tới 125m, và của TOA thì tệ hơn. Mô hình E-OTD yêu cầu
một phần mềm cập nhật đặt trên các thiết bị di động giống như sự điều chỉnh trong
mạng, đối với phương pháp TOA, nó có ý nghĩa chính để điều chỉnh các thành phần
mạng. Tuy nhiên, chức năng của TOA được cung cấp bởi sự đồng bộ của mạng tế bào.
Khả năng này được không được cung cấp trong các mạng bất đồng bộ. Có cách chính
xác nhất để tìm ra vị trí của một MS là tích hợp một bộ nhận GPS trong thiết bị di
động. MS nhận một định vị từ vệ tinh GPS. Nhưng một sự bất tiện của cách tiếp cận
này là MS không thể luôn luôn ngắm tới vệ tinh.
Ngoài sự thiết lập kĩ thuật, hai nút mạng mới được xác định là: Trung tâm
cỗng vị trí di động GMLC và trung tâm phục vụ vị trí di động SMLC. GMLC hoạt
động như một giao diện tới các ứng dụng mà sử dụng thông tin định vị của người
dùng trong cách riêng nào đó-nên được gọi là vị trí gốc hoặc dịch vụ nhận biết vị trí.
Ví dụ các dịch vụ điều hướng (Nhà ga gần nhất ở đâu ? hoặc Toà nhà nào nằm bên
trái của tôi ?) Nhà cung cấp dịch vụ lưu trữ các vị trí của nhà ga, các vị trí du lịch
trong cơ sở dữ liệu và thêm vào các thông tin hữu ích khác. Khi một người dùng yêu
cầu, nhà cung cấp có thể biết trước vị trí của thuê bao và gửi các thông tin được yêu
cầu. Các ứng dụng khác bao gồm theo dõi xe, tin tức địa phương, thời tiết và thông tin
giao thông, tính cước.
VI. Các nền tảng dịch vụ
Các phương thức phát triển của các chuẩn GSM yêu cầu sự kết hợp khăn khít
giữa nhà sản xuất và nhà hoạt động mạng. Sự chuẩn hóa quốc tế các dịch vụ và giao
diện dẫn tới một bộ đặc tính chung hiệu quả trong các mạng GSM, nổi bật nhất là khả
năng chuyển vùng quốc tế. Nhiều chỉ số hiệu suất đã được chuẩn hóa, giá cả thấp hơn,
bởi vì nhà sản xuất và nhà điều hành cộng tác để thỏa thuận về giá. Nói một cách khác,
các nhà điều hành mạng đưa ra các dịch vụ khác nhau để cho phép sự cạnh tranh
thuận lợi. Sự chuẩn hóa dịch vụ và chỉ số hiệu suất dịch vụ giảm sự khác biệt cho các
nhà cạnh tranh. Hơn thế, thời gian trên thị trường thì được kéo dài bởi vì quá trình
chuẩn quá được kéo dài ra.
Với các lý do đó, khái niệm nền tảng dịch vụ được đưa ra trong GSM cả ở
phía mạng và thiêt bị đầu cuối. Các nền tảng này được đưa ra như các bộ phận, chức
năng, giao thức được xác định và điều khiển các dịch vụ và các ứng dụng. Các dịch
vụ/ứng dụng có thể có nhà điều hành riêng biệt, nên một quá trình chuẩn hóa quốc tế
thì không cần đến. Các chức năng chung được yêu cầu có thể khả dụng trong mỗi MS
và nút mạng, và chúng có thể được dùng và kết hợp trong một cách linh hoạt cho sự
cài đặt dịch vụ.
Các dịch vụ bổ xung được chú ý như là một dạng đơn giản nhất của nền tảng
dịch vụ. Một khái niệm mở rộng thì cũng được gọi là nút dịch vụ, như máy chủ mail
thoại và SMS-C. Tuy nhiên, cả hai khái niệm có sự không thuận lợi; các dịch vụ bổ
xung là các đối tượng để chuẩn hóa quốc tế, nói theo cách khác, các dịch vụ thì không
khả dụng để người dùng chuyển vùng sang mạng nước ngoài, vì các nhà cung cấp
mạng bị bắt buộc để thiết lập toàn bộ các dịch vụ bổ xung. Tình trạng này giống như
các nút dịch vụ, khi đó, thông thường chỉ có khả năng truy cập trong mạng chủ.
Chúng ta có thể kết luận rằng hai kiểu nền tảng này cho phép xác định các dịch nhà
điều hành riêng biệt/dọc trong cách được giới hạn, và sử dụng chúng trong mạng
ngoài thì không khả dụng hoặc phức tạp hơn.
Sự mở rộng của khái niệm nền tảng, khi đó được đưa ra bởi chuẩn ETSI giai
đoạn 2+, cố gắng để giải quyết tình trạng khó xử này. Thay vì các dịch vụ xác định
hoặc các dịch vụ bổ xung được chuẩn hóa một các trực tiếp hoặc được bổ xung, chỉ có
những bộ phận đã được chuẩn hóa mới cho phép đưa ra các dịch vụ mới. Với các tiếp
cận này, cho phép giới hạn sự thiết lập của một dịch vụ tới một vài chuyển mạch
trong mạng chủ của thuê bao, trong khi đó, các chuyển mạch nội hạt (được viếng
thăm) cung cấp chỉ một bộ cố định chức năng cơ bản và khả năng để giao tiếp với
chuyển mạch mạng chủ gồm dịch vụ logic.
Nhóm của các tiêu chuẩn GSM trong giai đoạn 2+ được biết đến với tên là sự
hỗ trợ của các dịch vụ nhà điều hành riêng biệt (SOSS), hoặc là các ứng dụng tùy
chọn cho mạng di động logic cải tiến (CAMEL). Còn ở phía thiết bị đầu cuối đó là
công cụ ứng dụng SIM (SAT) và môi trường thi hành trạm di động (MexE). Chúng ta
sẽ tìm hiểu các phần này ở phần tiếp theo.
1. CAMEL: GSM và IN
CAMEL thể hiện sự tập hợp của hai kỹ thuật là GSM và IN. Khái niệm cơ bản
của IN là để cho phép sự thiết lập linh hoạt, giới thiệu và điều khiển các dịch vụ trong
mạng công cộng và để sử dụng việc phân chia các chức năng chuyển mạch trong các
chức năng cơ bản phía các điểm chuyển mạch dịch vụ SSP, và chức năng điều khiển
dịch vụ tập trung trong các điểm điều khiển dịch vụ SCP. Các thành phần mạng giao
tiếp với các thành phần khác trên mạng báo hiệu sử dụng giao thức SS7 mở rộng được
gọi là phần ứng dụng mạng thông minh INAP. Sự tiếp cận này cho phép sự tập trung,
linh hoạt và giới thiệu nhanh chóng của các dịch vụ mới.
Ở đây có một vài đặc trưng trong GSM tương đồng với IN. Mặc dùng chuẩn
GSM sử dùng hoặc thuật ngữ IN hoặc là giao thức IN, nhưng kiến trúc mạng GSM
dựa theo quan điểm của IN. Trong kiến trúc GSM, sự chia nhỏ thành các đơn vị chức
năng như là HLR, MSC, sử dụng báo hiệu SS7 và sự mở rộng MAP của nó thì tương
đồng với kiến trúc IN, trong kiến trúc IN, có sự chia nhỏ thành SSP và SCP và giao
tiếp sử dụng INAP.
Quan điểm của CAMEL là tiếp tục sự thiết lập của các dịch vụ GSM trong
một cách tương tự như trong IN. Điều này được phản ánh trong việc chia nhỏ một bộ
các chức năng xử lý cuộc gọi trong MSC hoặc GMSC từ các chức năng điều khiển
dịch vụ thông minh trong mạng chủ của thuê bao. HLR trong GSM có chức năng
tương tự như SCP. Hơn nữa, CAMEL cung cấp các SCP được dành riêng cho nó. Hãy
tưởng tượng rằng các SCP đặc biệt dành cho sự chuyển đổi các số ngắn gọn trong
mạng riêng ảo hoặc cho sự mở rộng SMS trong tương lai. Với cấu hình đó, sự thiết
dịch vụ với các dịch vụ logic của nó được cần thiết chỉ một lần duy nhất. Nhà điều
hành mạng đưa ra dịch vụ có vai trò dựa trên các đặc trưng và hiệu suất của dịch vụ.
Các dải đầy đủ của các chức năng chung được cung cấp tại SSP, các dịch vụ mới có
thể được cung cấp ngay lập tức trong mỗi mạng, và khả năng không ngắt quảng dịch
vụ được đảm bảo cho việc chuyển vùng thuê bao. Cơ sở chịu trách nhiệm và điều
khiển cho việc giới thiệu dịch vụ mới nằm trong SOSS/CAMEL với nhà điều hành
mạng, hợp đồng đối tác của thuê bao. Điều này tăng khả năng tương thích giữa cho
các nhà điều hành mạng. Các dịch vụ nhà điều hành riêng biệt có thể được giới thiệu
một cách nhanh chóng mà không cần tới quá trình chuẩn hóa, và do đó chúng có khả
năng phổ biến toàn cầu.
Hình 7.7 thể hiện kiến trúc CAMEL. Các thông số kĩ thuật CAMEL yêu cầu
một phiên bản GSM riêng biệt cho IN. Tương tự với IN, GSM xác định một chức
năng xử lý cuộc gọi cơ sở như chức năng chuyển mạch dịch GSM (gsmSSF) và một
chức năng dịch vụ logic là chức năng điều khiển dịch vụ GSM (gmsSCF).Ngoài ra,
giao diện báo hiệu MAP vẫn tồn tại trong giai đoạn 1 và 2 cho truyền dẫn giữa mạng
chủ và mạng viếng thăm, giao diện báo hiệu mới cũng cần thiết cho truyền dẫn giữa
chuyển mạch cơ bản và chuyển mạch logic trong mạng chủ và mạng logic. Với báo
hiệu, một phần ứng dụng mới của SS7 được xác định là CAP, nó có chức năng tương
tự với INAP. Các chức năng và giao thức này biểu hiện cấu trúc cơ bản cho việc thực
hiện các dịch vụ thông minh và đưa ra các dịch vụ một cách linh hoạt.
Điều kiện trước quyết cho CAMEL là xác định một mô hình cuộc gọi mở rộng
được chuẩn hóa với các điểm kích thích tương ứng và thông số kĩ thuật của dải dịch
vụ phải khi đó được cung cấp bởi SSP. Một cách chính xác là mô hình dịch vụ mở
rộng mới cũng phải bao gồm một mô hình của trạng thái khách hàng, bởi vì ngoài quá
trình xử lý cuộc gọi mong đợi, nó cũng bao gồm các sự kiện như là sự cập nhật vị trí.
Với mỗi thuê bao, mô hình trạng thái được lưu trữ trong HLR và được cung cấp từ
mạng chủ tới mạng viếng thăm. Theo cách này, SSP/MSC có một bộ các điểm kích
hoạt với địa chỉ SCP tương ứng cho mỗi thuê bao chuyển vùng trong vùng diện tích
của nó. Khi một điều kiện kích hoạt được thỏa mãn, xử lý chuyển tiếp và cuộc gọi
trong SSP/MSC bị ngắt và SCP được được kết nối. SCP bây giờ có thể phân tích ngữ
cảnh theo sự thiết lập cuộc gọi, đưa ra các chỉ dẫn tới SSP để thực hiện các chức năng
riêng biệt. Chức năng đặc trưng của SSP là để thiết lập chuyển tiếp cuộc gọi, kết thúc
cuộc gọi hoặc các tác động khác đến thuê bao. Trên cơ sở mô hình trạng thái này và
giao thức điều khiển tương ứng giữa SSP và SCP, chúng ta hi vọng sẽ thấy được một
sự biến đổi lớn của các dịch vụ nhà điều hành riêng biệt trong tương lai.

Hình 7.7 Kiến trúc chức năng cho CAMEL


2. Nền tảng dịch vụ bên phía thiết bị đầu cuối
Bộ dụng cụ ứng dụng SIM (SAT)
SAT là một bước tiến dài phía nhà cung cấp các dịch vụ riêng biệt đứng. Thẻ
SIM GSM được cung cấp đầy đủ bởi nhà điều hành mạng, bởi vì nó bao gồm các
chức năng bảo mật. Từ thực tế, hình thức này được đưa ra để thiết lập SIM với các
chức năng bổ xung và các chức năng nhà điều hành riêng biệt. Không cần một giao
diện chuẩn tới thiết bị di động, nhưng điều này chỉ khả dụng trong một phương thức
giới hạn và chỉ trong sự liên hệ khăn khít với các nhà sản xuất thiết bị. SAT xóa bỏ
các giới hạn này bằng việc xác định một giao diện được chuẩn hóa giữa thiết bị di
động và thẻ SIM. Với cách này, các ứng dụng nhà điều hành riêng biệt có thể chạy
trên thẻ SIM và có thể điều khiển các chức năng xác định và được chọn lựa của thiết
bị đầu cuối. Các ứng dụng tương ứng có thể được mang trong PLMN hoặc bên ngoài
PLMN trên các máy chủ dành riêng, điều này tạo ra khả năng thiết lập đầy đủ các
dịch vụ mới. Truyền dẫn giữa ứng dụng thẻ SIM và các phần tương tác của nó trong
mạng thì được thiết lập trên SMS, nhưng trong tương lai gần các dịch vụ mang khác
có thể khả dụng. Các chức năng được xác định trong khung SAT có thể được phân
loại thành dữ liệu tải SIM và SIM chủ động. Giao diện chức năng giữa thẻ SIM và
thiết bị đầu cuối thì thông qua các bộ phận chủ động SIM. Chúng bao gồm:
 Hiển thị văn bản
 Truyền dẫn các bản tin SMS
 Thiết lập kết nối được kích thích bởi thẻ SIM
 Chạy âm thanh trong thiết bị động
 Đọc các thông tin từ thiết bị vào thẻ SIM
Với các bộ phận đó, sẽ có nhiều đặc điểm mới được đưa ra, như tải dữ liệu tới
SIM. Điều này bao gồm tải các lệnh cũ hoặc mới và các ứng dụng để cài đặt. Với bộ
công cụ, thẻ SIM có thể cho phép hiển thị các tùy chọn mạng mới và của nhà điều
hành tới người dùng, và đọc sự kích hoạt người dùng từ thiết bị di động. Quan trọng
hơn là các chức năng cho việc điều khiển cuộc gọi, mỗi kiểu số có thể được phân tích
bằng thẻ SIM. Điều này cho phép nhà điều hành riêng biệt xử lý các số điện thoại,
quy chiếu số hoặc các chức năng ngăn chặn. Hơn nữa, các chức SAT được nâng cấp
với các phần bảo mật và mã hóa.
Môi trường thực thi ứng dụng di động
Được viết ngắn gọn là MExE, được dùng khi thiết lập một nền tảng ứng dụng
chung trong thiết bị đầu cuối. Thành phần quan trọng nhất là máy ảo cho thực hiện mã
Java và WAP. Cả hai kĩ thuật mở ra của sổ của các dịch vụ mới và ứng dụng mới. Với
một máy ảo chạy trên thiết bị di động, các ứng dụng có thể được tải lên và thực thi.
Điều này yêu cầu một tác quá trình tính toán nhanh trong MS. WAP sẽ được thảo luận
trong phần sau.
VII. Giao thức ứng dụng không giây -WAP
WAP là một bước phát triển chính trong việc xây dựng internet không dây, khi
đó, mọi người di chuyển có thể truy cập internet thông qua thiết bị không dây để lấy
thông tin như email, báo, báo cáo cơ quan, định hướng và tỉ số thể thao khi họ cần và
ở nởi mà họ muốn.
WAP được chú ý như một bước quan trọng trong việc phát triển mạng lưới
GSM ngày nay theo hướng “internet di động”. Trong một vài năm gần đây, WAP đã
được phát triển và chuẩn hóa bởi diễn đàn 199a;199b. Một vài liên doanh công nghệ
đã được bắt đầu bởi Nokia, Ericsson, Phone.com và Motorola trong tháng 10 năm
1997 và ngày nay có vài trăm thành viên.
Quan điểm của WAP là để truyền đẫn nội dung Internet và các dịch vụ tương
tác khác tới MS, tạo ra khả năng truy cập tới người dùng di động. Với mục đích này,
WAP xác định một kiến trúc, hệ thống giao thức và một môi trường ứng dụng cho
truyền dẫn và hiện thị WWW giống như các trang cho thiết bị di động.
Động lực thúc đẩy cho sự phát triển của WAP là sự giới hạn bởi thiết bị và các
mạng tế bào được so sánh với máy tính và mạng cố định. Sự giới hạn về hiển thị và
đầu vào (màn hình nhỏ và bàn phím số, không có chuột) cũng như là sự giới hạn về
bộ nhớ và xử lý công suất. Hơn nữa, mức tiêu thụ năng lượng của MS càng thấp càng
tốt. Về phía mạng, truyền dẫn không dây có băng thông thấp, xác suất lỗi bit cao hơn
độ bền vững kết nối thấp hơn so với kết nối có dây.
Giao thức và các môi trường ứng dụng xác định cho WAP được xem là có sự
giới hạn. Giao thức của kiến trúc WAP thì dựa trên sự điều chỉnh, tối ưu hóa và nâng
cấp ngăn xếp IP được dùng trong WWW. WAP tập trung vào các ứng dụng được điều
chỉnh theo khả năng của điện thoại di động và theo sự cần thiết của người dùng.
Ngôn ngữ đánh dấu không dây - WML
Với những yêu cầu đã đề cập, WML đã được phát triển. Nó thể hiện một phần
phụ bên ngoài của ngôn ngữ HTML được dùng trong WWW. WML được xác định
như môt kiểu tài liệu của ngôn ngữ đánh dấu cho phép mở rộng (XML). Nó bao gồm
một vài thẻ điện thoại riêng biệt và chỉ yêu cầu một bàn phiếm điện thoại cho đầu vào.
Việc hiển thị được xác định bởi định dạng đồ họa đơn sắc Wireless Bitmap.
Một trình duyệt siêu nhỏ chạy trên mỗi thiết bị đầu cuối WAP, dịch các tài
liệu WML được nhận và hiển thị nội dung của chúng tới người dùng. Một trình duyệt
siêu nhỏ cũng được xem như là trình duyệt WML và nó là phần nhỏ của trình duyệt
Wed được dùng trong PC.
Để thực hiện được điều này, sự hiển thị của các tài liệu WML không bị giới
hạn bởi các điện thoại di động cổ điển, song vẫn tồn tại các trình duyệt WML cho các
thiết bị khác nhau. Các thiết bị có thể liên kết với các thiết bị khác thông qua hồng
ngoại hoặc Bluetooth, hoặc chúng có riêng một giao diện vô tuyến GSM/GPRS.
Các tài liệu WML được tổ chức trong các thẻ và các lớp (Xem hình 7.8). Khi
một người dùng chọn một dịch vụ, một lớp của các thẻ được tải tới MS. Người dùng
có thể xem các thẻ đó với trình duyệt WML, tạo ra đầu vào và sự di chuyển giữa các
thẻ. Mỗi thẻ được thiết kế cho sự tương tác một người dùng.
Hình 7.9 thể hiện sự tạo ra tài liệu WML và HTML một cách tự động và đồng
thời. W3C xác định XSL. Sử dụng các tầng kiểu XSL, các tài liệu WML và HLTM có
thể được tạo từ XML.

Hình 7.8
Hình 7.9 Tạo ra tài liệu WML và HTML
2. Kiến trúc giao thức

Hình 7.10 Kiến trúc WAP


Kiến trúc WAP được thể hiện ở hình 7.10. Như đã đề cập ở trước, WAP dựa
trên ngăn giao thức WWW và dùng các giao thức đó để yêu cầu truyền dẫn không dây
và các thiết bị di động nhỏ.
Với các ứng dụng, một môi trường trình duyệt nhất quán được xác định: Môi
trường ứng dụng không dây WAE. Nó bao gồm các chức năng và định dạng sau:
 WML
 Một ngôn ngữ kịch bản đơn giản WMLS, dựa trên JavaScript
 Giao diện chương trình cho điều khiển các dịch vụ di động WTA
 Các định dạng dữ liệu cho ảnh, thẻ điện tử và đầu vào cho danh mục
điện thoại và lịch.
Giao diện WTA cho phép các trình duyệt siêu nhỏ tương tác với các chức
năng điện thoại. Ví dụ, nó xác định cách mà các cuộc gọi được khởi tạo từ trình duyệt
siêu nhỏ hoặc cách mà các điểm vào từ danh bạ điện thoại sau đó được gửi đi.
Nhiệm vụ chính của giao thức phiên không dây WSP là thiết lập và kết thúc
một phiên làm việc giữa MS và cỗng WAP. Hỗ trợ cả kết nối đinh hướng và kết nối
vô hướng. Trong trường hợp kết nối vô tuyến bị bẻ gãy, phiên làm việc có thể dừng
lại trong một chu kỳ thời gian xác định trước và khởi động lại sau.
Hình 7.11 kiến trúc hệ thống WAP và chuyển đổi YÊU CẦU/ĐÁP TRẢ
Giao thức chuyển đổi không dây WTP là một giao thức chuyển tiếp hạng nhẹ
định hướng. Nhiệm vụ của nó là đảm bảo chuyển đổi an toàn các yêu cầu của MS và
các bản tin đáp trả của cỗng WAP (xem hình 7.11). Do đó, nó tạo nên cơ sở cho sự
tương tác trình duyệt. WTP bao gồm các chức năng cho sự báo nhận các bản tin,
truyền lại cho các bản tin lỗi hoặc bị mất và xóa các bản tin sao chép. Ngoài ra, dịch
vụ khối dữ liệu có nhận và không báo nhận được xác định cho các dịch vụ quảng bá
(push), khi đó, máy chủ có thể gửi một nội dung tới MS mà không cần tới yêu cầu
khởi tạo từ MS. Ví dụ, máy chủ có thể gửi một cảnh báo nguy hiểm.
Giao thức bảo mật lớp vận chuyển không dây WTLS có thể được dùng. Nó
dựa trên giao thức bảo mật lớp vận chuyển TLS, khi đó được dùng trong internet và
được biết tới như socket an toàn SSL. WTLS đưa ra các chức năng bảo mật cơ bản,
như tích hợp dữ liệu, mã hóa, nhận dạng người dùng và xác thực giữa máy chủ mà
MS. Hơn nữa, từ chối bảo vệ dịch vụ tấn công cũng được cung cấp. Chức năng của
WTLS có thể tạo ảnh hưởng (hoặc không) tới các ứng dụng và bảo mật của người
dùng mạng. Ví dụ, nếu một ứng dụng sử dụng kĩ thuật bảo mật chính xác, thì các chức
năng của WTLS sẽ không được dùng cần đến. WTLS cũng có thể sử dụng cho truyền
dữ liệu an toàn giữa hai MS.
Giao thức truyền dẫn dữ liệu được biết đến là giao thức dữ liệu không dây
WDP. Ví dụ như, nó được dùng thay UDP cho các dịch vụ mang mà không dựa trên
cơ sở IP. Các dịch vụ mang GSM cho WAP có thể là các dịch vụ chuyển mạch kênh
hoặc GPRS, đưa ra sự chuyển tiếp dữ liệu nhanh chóng và khối hóa đơn.
Hình 7.10 chỉ ra các giao thức không phải WAP cũng có thể truy cập các lớp
riêng của ngăn xếp WAP. Hơn thế, các giao thức không phải WAP cũng phải luôn
được sử dụng. Các ứng dụng biết trước có thể chỉ yêu cầu các dịch vụ của WTP và
các lớp bên dưới. Hình 7.12 đưa ra một ví dụ, WAP hoạt động trên GPRS như một vật
mang.
3. Kiến trúc hệ thống
Hình 7.11 thể hiện kiến trúc hệ thống WAP điển hình. Nguyên tắc là nội dung
được lưu trong một đường phân phối trong mạng và cuối cùng đưa tới người dùng,
tương tự như nguyên tắc của WWW. Máy chủ lưu trữ nội dung một cách trực tiếp như
một tài liệu WML hoặc nội dung được tạo ra với các kịch bản. MS tải nội dung này từ
máy chủ tới trình duyệt. Theo lý thuyết, nội dung có thể được lưu trong dạng HTML
và sau đó được chuyển đổi sang WML, tuy nhiên trong thực tế thì ứng dụng và nội
dụng được lưu trong dạng WML là hiệu quả nhất.
Như thể hiện trong hình 7.11, một cỗng WAP hoạt động như một giao diện
diện giữa máy chủ bên ngoài và MS. Nhiệm vụ chính của nó gồm:
 Chuyển đổi yêu cầu từ ngăn giao thức WAP tới ngăn giao thức WWW
và ngược lại.
 Mã hóa và giải mã tài liệu WML trong dạng nhị phân.
Cỗng WAP cũng thể hiện một máy chủ proxy và hoạt động như một cache cho
nội dụng được yêu cầu thường xuyên.
Ví dụ tiếp sau thể hiện giao thức giữa một người dùng di động, cỗng WAP, và
máy chủ ngoài: Một thuê bao có ý định để xem một tài liệu được lưu trong máy chủ.
Trình duyệt gửi một yêu cầu WSP tới địa chỉ máy chủ. Yêu cầu đó được chuyển tiếp
tới cỗng WAP, sau đó được chuyển đổi thành yêu cầu HTTP và kết nối tới máy chủ.
Tiếp theo, máy chủ phát nội dung được yêu cầu trong dạng WML tới cỗng WAP,
cỗng WAP viết nội dung vào cache của nó và gửi dạng mã hóa nhị phân tới MS. Cuối
cùng là sự biểu hiện thẻ đầu tiên của lớp trên trình duyệt tới người dùng. Nếu máy chủ
truyền dẫn tài liệu dưới dạng HTML, thì cỗng sẽ chuyển sang dạng WML.
B. CÁC DỊCH VỤ DỮ LIỆU CẢI TIẾN TRONG GSM: GPRS, HSCSD VÀ
EDGE
I. GPRS
Truyền dẫn dữ liệu gói đã được chuẩn hóa trong GSM giai đoạn 2, khi đó, đưa
ra sự truy cập tới mạng dữ liệu chuyển mạch gói công cộng. Tuy nhiên trên giao diện
không gian sự truy cập chiếm một kênh lưu lượng chuyển mạch kênh đầy đủ cho một
chu kỳ cuộc gọi. Trong trường hợp lưu lượng khối, sự truy cập dẫn tới một sự sử dụng
nguồn không hiệu quả. Một giải pháp được đưa ra ở đây, các dịch vụ mang chuyển
mạch gói được đưa ra và là các sự sử dụng hiệu quả các kênh lưu lượng. Lý do là, một
kênh gói sẽ chỉ được phân bổ khi cần thiết và và sẽ được giải phóng sau khi truyền
dẫn gói. Với nguyên tắc này, nhiều người dùng có thể chia sẻ một kênh vật lý.
Để giải quyết vấn đề sử dụng không hiệu quả, GPRS được phát triển trong
GSM giai đoạn 2+. Nó đưa ra một dịch vụ mang chuyển mạch gói tuyệt vời cho GSM
tại giao diện không gian. GPRS là sử cải tiến to lớn và là sự đơn giản hóa của sự truy
cập không dây tới các mạng dữ liệu gói. Các mạng dựa trên IP và X.25, sự điều chỉnh
và nâng cấp phải được tạo ra trong cơ sở hạ tầng mạng cũng như trong MS.
Người dùng của GPRS đạt lợi nhuận từ tốc độ dữ liệu cao và thời gian truy
cập ngắn. Trong GSM thông thường, thiết lập kết nối mất một vài giây và tốc độ
truyền dữ liệu thì bị hạn chế tới 9.6 kbit/s. Trong thực tế, GPRS đưa ra tốc độ giống
như ISDN lên tới 40-50 kbit/s và thời gian thiết lập phiên làm việc dưới một giây.
Hơn thế, GPRS hỗ trợ hóa đơn thân thiện người dùng hơn là đưa ra từ các dịch vụ
chuyển mạch kênh. Trong các dịch vụ chuyển mạch kênh, hóa đơn dựa trên thời gian
kết nối. Điều này là không thuận tiện cho các ứng dụng với dung lượng khối, vì người
dùng phải trả tiền cho nhứng khoảng thời gian mà các gói không được gửi. Với
chuyển mạch gói, hóa đơn dựa trên số lượng dữ liệu được truyền đi và chất lượng
dịch vụ QoS. Thuận lợi cho người dùng là họ có thể trực tuyến trong thời gian dài hơn
mà sẽ trả tiền theo phần dữ liệu được truyền đi. Nhà hoạt động mạng có thể sử dụng
các nguồn vô tuyến trong nhiều cách hiệu quả và đơn giản việc truy cập tới các mạng
dữ liệu bên ngoài.
1. Kiến trúc hệ thống của GPRS
Để tích hợp GPRS vào kiến trúc GSM, một lớp các nút mạng mới được đưa ra,
được gọi là các nút hỗ trợ GPRS (GSN). GSN có trách nhiệm cho việc phân phối và
định tuyến các gói dữ liệu giữa MS và mạng dữ liệu gói bên ngoài PDN. Hình 8.1 thể
hiện kiến trúc hệ thống đó.

Hình 8.1 Kiến trúc hệ thống và giao diện


Một nút hỗ trợ phục vụ GPRS (SGSN) phân phối các gói từ đến và đi từ MS
trong vùng dịch vụ nó phục vụ. Nhiệm vụ vủa nó bao gồm định tuyến và vận chuyển,
các chức năng cho đấu nối/tách của MS và xác nhận, quản lý liên kết logic. Bộ vị trí
của SGSN lưu trữ thông tin vị trí và tiểu sử người dùng của toàn bộ người dùng GPRS
đã đăng kí với SGSN.
Nút hỗ trợ cỗng GPRS hoạt động như một giao diện tới các mạng dự liệu bên
ngoài. Nó chuyển đổi các gói GPRS đến từ SGSN thành dạng giao thức dữ liệu gói
PDP và gửi chúng tới các mạng tương ứng. Một hướng khác, địa chỉ PDP của các gói
dữ liệu liệu đến thì được chuyển thành dạng địa chỉ GSM cho người dùng đích. Các
gói được đánh địa chỉ lại thì được gửi tới SGSN. Với mục đích này, GGSN lưu trữ
các địa chỉ SGSN hiện hành và tiểu sử của nguồi dùng đã đăng kí trong bộ vị trí của
nó.
Nhìn chung, có nhiều mối quan hệ giưac SGSN và GGSN: Một GGSN là giao
diện tới một mạng bên ngoài của một vài SGSN; một SGSN có thể đinh tuyến các gói
của nó tới các GGSN khác nhau.
Hình 8.1 thể hiện các giao diện giữa các nút hỗ trợ GPRS và mạng GSM. Giao
diện Gb kết nối BSC với SGSN. Thông qua giao diện Gn và Gp, dữ liệu người dùng
và báo hiệu được truyền giữa các GSN. Giao diện Gn được dùng nếu SGSN và GGSN
được đặt trong cùng PLMN, còn Gp được dùng khi chúng đặt trong các PLMN khác
nhau.
Toàn bộ các GSN được kết nối thông qua mạng sương sống GPRS dựa trên IP.
Trong xương sống này, GSN đóng gói các gói PDN và truyền chúng đi sử dụng giao
thức được gọi là giao thức ống GPRS. Trong nguyên tắc này, chúng ta có thể phân
biệt hai kiểu xương sống GPRS là:
 Xương sống cùng PLMN là mạng dựa trên IP được nắm giữ bởi nhà
cung cấp mạng GPRS kết nối các GSN của mạng GPRS.
 Mạng lưới xương sống liên PLMN kết nối các GSN khác mạng GPRS.
Chúng được thiết lập nếu như có thỏa thuận giữa các nhà cung cấp
mạng GPRS.
Hình 8.2 thể hai mạng lưới xương sống của hai PLMN khác nhau. Các cỗng
giữa các PLMN và xương sống liên PLMN được gọi là cỗng biên giới (BG). Nhiệm
vụ chính của cỗng này là thực hiện chức năng bảo mật để bảo vệ các xương sống cùng
PLMN chống lại sự tấn công và người dùng không có quyền hạn. Ví dụ định tuyến
được trình bày trong phần sau.
Giao diện Gn và Gp được xác định giữa hai SGSN. Điều này cho phép SGSN
chuyển đổi tiểu sử ngừoi dùng khi một MS di chuyển từ một SGSN này tới một
SGSN khác.

Hình 8.2 kiến trúc hệ thống GPRS, giao diện và định tuyến
Qua giao diện Gf, SGSN có thể hỏi và kiểm tra IMEI của một MS đang cố
gắng để đăng kí với mạng.
Giao diện Gi kết nối PLMN với mạng dữ liệu công cộng bên ngoài. Trong
chuẩn GPRS, giao diện tới mạng IP và X.25 cũng được hỗ trợ.
GPRS cũng bổ xung một vào điểm nhập tới các bộ đăng kí GSM. Với MM
(Mobility Management), điểm vào của người dùng trong HLR được mở rộng với một
liên kết tới SGSN hiện hành của nó. Hơn nữa, tiểu sử GPRS riêng biệt và PDP hiện
hành cũng được lưu trữ, Giao diện Gr được dùng để chuyển đổi thông tin đó giữa
HLR và SGSN. Một MS đăng kí với một SGSN mới, HLR sẽ gửi tiểu sử người dùng
tới SGSN mới đó. Trong một phương thức đơn giản, tuyến báo hiệu giữa GGSN và
HLR có thể được dùng bởi GGSN để hỏi về vị trí và tiểu sử của người dùng, người
chưa biết trong GGSN.
Ngoài ra, MSC/VLR có thể được mở rộng với các đầu vào chức năng và đăng
kí khi đó cho phép sự kết hợp hiệu quả giữa chuyển mạch gói và các dịch vụ chuyển
mạch kênh thông thường. Ví dụ, sự kết hợp giữa cập nhật GPRS và GSM, và các
phương thước đấu nối. Hơn nữa, yêu cầu paging của chuyển mạch cuộc gọi GSM
chuyển mạch kênh có thể được thực hiện thông qua SGSN. Với mục đích này, giao
diện Gs kết nối SGSN và MSC/VLR.
Cuối cùng, GPRS cho phép truyền dẫn SMS. Giao diện Gd kết nối SMS-
GMSC với SGSN.
2. Các dịch vụ
Dịch vụ mang và dịch vụ bổ xung
Các dịch vụ mang của GPRS đưa ra sự truyền dẫn dữ liệu chuyển mạch gói
đầu cuối tới đầu cuối tới thuê bao di động. Hiện nay, dịch vụ điểm điểm đã được xác
định, lúc này có hai biến thể: chế độ kết nối vô hướng và chế độ kết nối định hướng.
Nó cho phép sử dụng các giao thức định tuyến IP đa điểm trên GPRS. Các gói
được đánh địa chỉ tới một nhóm IP đa điểm sau đó sẽ được định tuyến tới toàn bộ
thành viên trong nhóm. Hơn nữa, các bản tin SMS có thể được gửi và nhận trên GPRS.
Dựa trên các dịch vụ được chuẩn hóa, nhà cung cấp dịch vụ GPRS có thể đưa
ra các dịch vụ bổ xung không chuẩn hóa. Ví dụ là các truy cập tới cơ sở dữ liệu, các
dịch vụ tin nhắn, và các dịch vụ chuyển đổi. Quy trình quan trọng là truy cập không
dây tới WWW và liên kết tới intranet như sự truyền dẫn email.
Chất lượng dịch vụ
Yêu cầu QoS cho các ứng dụng đa dạng dữ liệu di động là rất khác nhau, trong
GPRS được dùng như một kĩ thuật truyền dẫn. Hỗ trợ các QoS khác nhau là một đặc
trưng quan trọng để hỗ trợ sự đa dạng của các ứng dụng, nhưng vẫn phải giữ các
nguồn vô tuyến và mạng trong những cách thức sử dụng hiệu quả. Hơn nữa các lớp
QoS cho phép nhà cung cấp đưa ra các tùy chọn đơn giá khác nhau. Đơn giá có thể
dựa trên số lượng dữ liệu được truyền, kiểu dịch vụ và mẫu QoS. Ở thời điểm tài liệu
được đưa ra, có bốn chỉ số QoS được xác định trong GPRS là: Quyền ưu tiên dịch vụ,
khả năng tin cậy, trễ, thông lượng. Sử dụng các chỉ số trên, các mẫu QoS có thể được
thỏa thuận giữa người dùng di động và mạng cho mỗi phiên làm việc, phụ thuộc vào
yêu cầu QoS và các nguồn khả dụng hiện hành.
Ưu tiên dịch vụ là quyền ưu tiên của một dịch vụ. Tồn tại 3 mức ưu tiên: cao,
bình thường và thấp. Trong trường hợp lưu lượng tải lớn, thì các gói có ưu tiên thấp
sẽ bị phá hủy trước.
Khả năng tin cậy chỉ ra các đặc tính truyền dẫn được yêu cầu bởi một ứng
dụng. Có 3 lớp khả năng tin cậy thể hiện trong bảng 8.1, khi đó, chỉ ra giá trị lớn nhất
của xác suất mất gói, nhân bản gói, nhỡ chuỗi, hư hỏng gói.
Chỉ số trễ xác định giá trị lớn nhất cho trễ, xem bảng 8.2. Cuối cùng là giá trị
trễ lớn nhất đảm bảo 95% cho tất cả sự truyền dẫn. Trễ được xác định như thời gian
truyền dẫn đầu cuối tới đầu cuối giữa các MS hoặc giữa một MS và giao diện Gi tới
một mạng bên ngoài. Ở đây bao gồm toàn bộ trễ trong mạng GPRS, như trễ yêu cầu,
gán kênh nguồn vô tuyến, truyền dẫn trên giao diện không gian và trong mạng xương
sống. Trễ bên ngoài mạng GPRS không được tính toán. Bảng 8.2 có bốn danh sách
được xác định cho các lớp trễ.
Thông lượng xác định tốc độ bit lớn nhất/ đỉnh và tốc độ bit ý nghĩa.
Sự dụng đồng thời các dịch vụ chuyển mạch gói và chuyển mạch kênh
Trong mạng GSM/GPRS, các dịch vụ chuyển mạch kênh thông thường và các
dịch vụ GPRS có thể được dùng song song. Chuẩn GPRS xác định ba lớp của MS là:
MS lớp A hỗ trợ hoạt động đồng thời các dịch vụ GPRS và GSM, MS lớp B cho phép
để đang kí với mạng cho các dịch vụ GSM và GPRS cùng lúc và lắng nghe các kiểu
của bảng tin báo hiệu của hai kiểu, nhưng tại một thời điểm chỉ sử dụng được một
kiểu dịch vụ, cuối cùng là lớp C, MS có thể kết nối các dịch vụ hoặc GPRS hoặc
GSM tại một thời điểm. Đăng kí và sử dụng đồng thời thi không cho phép, khi đó, các
bản tin có thể gửi và nhận tại bất kì thời điểm.
3.Quản lí phiên làm việc, di động và định tuyến
Thủ thuật đấu nối và tách
Trước khi một MS có thể sử dụng dịch vụ GPRS, nó phải được kết nối tới
mạng. Bản tin đấu nối của MS được gửi SGSN. Mạng kiểm tra quyền người dùng,
nếu chính xác, nó copy tiểu sử người dùng từ HLR tới SGSN, và gán một gói nhận
dạng thuê bao di động tạm thời (P-TMSI) tới người dùng. Phương thức này gọi là đấu
nối GPRS. Với các thuê bao dùng cả chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói, nó cũng
cho phép thực hiện đấu nối kết hợp GPRS/IMSI. Sự hủy kết nối từ mạng GPRS được
gọi là tách GPRS và có thể được khởi tạo bởi mạng hoặc MS.
Quản lý phiên làm việc và thuộc tính PDP
Để chuyển đổi các gói dữ liệu với các PDN sau khi đấu nối GPRS thành công,
MS phải áp dụng các địa chỉ được dùng trong PDN. Nhìn chung, địa chỉ này được gọi
là một đia chỉ PDP. Trong trường hợp PDN là một mạng IP, thì địa chỉ sẽ là địa chỉ IP.
Với mỗi phiên làm việc, một thuộc tính được gọi là PDP thì được tạo ra, khi
đó miêu tả các đặc tính của phiên làm việc. Nó bao gồm kiểu PDP, địa chỉ PDP được
gán tới MS, lớp QoS được yêu cầu và địa chỉ của một GGSN mà phục vụ như một
điểm truy cập tới mạng bên ngoài. Thuộc tính đó được lưu trữ trong MS, SGSN và
GGSN. Đầu tiên, MS kích hoạt thuộc tính PDP, nó “cho phép” mạng bên ngoài và có
thể gửi và nhận các gói dữ liệu. Ánh xạ giữa hai địa chỉ tạo ra sự truyền dẫn dữ liệu
gói giữa MS và GGSN.

Hình 8.3
Sự cấp phát địa chỉ PDP có thể là tĩnh hoặc động. Trong trường hợp đầu tiên,
MS sở hữu cố định một địa chỉ PDP được gán bởi nhà hoạt động mạng. Với trường
hợp thứ hai, một địa chỉ PDP được gán sau khi kích hoạt thuộc tính PDP, mỗi thời
điểm MS đấu nối tới mạng, nó sẽ có một địa chỉ PDP mới, sau đó, khi nó tách GPRS
thì địa chỉ PDP sẽ dành cho một MS khác. Địa chỉ PDP có thể được gán bởi nhà điều
hành PLMN chủ của thuê bao hoặc nhà điều hành của mạng được viếng thăm. GGSN
chịu trách nhiệm cho việc phân bổ và hủy kích hoạt các địa chỉ.
Hình 8.3 thể hiện thủ thục kích hoạt thuộc tính PDP bằng MS. Sử dụng bản tin
yêu cầu kích hoạt PDP, MS thông báo SGSN về yêu cầu thuộc tính PDP được yêu cầu.
Nếu một địa chỉ tỉnh được yêu cầu, chỉ số địa chỉ PDP sẽ được làm trống. Sau đó,
chức năng bảo mật GSM thông thường được thực hiện. Nếu việc truy cập được chấp
nhận, SGSN gửi một yêu cầu tạo thuộc tính PDP tới GGSN. GGSN tạo một điểm vào
mới trong bảng thuộc tính PDP của nó, khi đó cho phép GGSN để định tuyến các gói
dữ liệu giữa SGSN và PDN bên ngoài. GGSN thông báo điều này tới SGSN bằng bản
tin đáp trả việc tạo thuộc tính PDP, có thể bao gồm địa chỉ động nếu cần thiết. Cuối
cùng SGSN cập nhật bản định tuyến PDP và thông báo sự kích hoạt thuộc tính PDP
mới tới MS.
Chuẩn GPRS hỗ trợ sự kích thuộc tính PDP không tên, điều này thì hiệu quả
cho các ứng dụng như các dịch vụ trả trước. Trong một phiên làm việc, người dùng sử
dụng thuộc tính PDP không nhận biết. Các chức năng bảo mật như trong hình 8.3 thì
được bỏ qua. Chỉ có sự phân bổ địa chỉ tĩnh thì cho phép trong trường hợp này.
Định tuyến
Hình 8.2 thể hiện cách mà các gói được định tuyến trong GPRS. Chúng ta giả
sử rằng mạng dữ liệu gói là một mạng IP.
Một MS GPRS được đặt trong PLMN1 gửi các gói IP tới một máy chủ Web
được kết nối internet. SGSN nơi MS được đăng kí, đóng gói các gói IP đến từ MS,
kiểm tra thuộc tính và định tuyến chúng qua mạng xương sống tới GGSN xác định.
GGSN giải đóng gói các gói IP và gửi chúng tới mạng IP, nơi đó, các bộ phận định
tuyến IP chuyển các gói IP tới bộ định tuyến truy cập của mạng đích. Cuối cùng các
gói IP được phân phối tới host.
Hãy giả sử rằng PLMN chủ của MS là PLMN2 và các địa chỉ IP được gán từ
không gian PLMN2- hoặc là địa chỉ động hoặc địa chỉ tĩnh. Máy chủ đánh địa chỉ các
gói IP tới MS, chúng được định tuyến tới GGSN của mạng PLMN2, bởi vì địa chỉ IP
của MS có cùng tiền tố mạng như địa chỉ IP của GGSN chủ. GGSN yêu cầu HLR và
các thông tin biết trước mà MS đặt trong PLMN1. Sau đó, nó giải nén các gói IP đến
và chuyển chúng qua mạng xương sống liên PLMN GPRS tới SGSN trong PLMN1.
SGSN giải đóng gói các gói và phân phát tới MS.
Quản lý vị trí

Hình 8.4 Mô hình trạng thái của một MS GPRS


Trong một GSM chuyển mạch kênh, nhiệm vụ chính của quản lý vị trí là giữ
vị trí hiện hành của MS, nên các gói đến có thể được định tuyến tới MS. Với mục đích
này, MS gửi các bản tin cập nhật vị trí thường xuyên tới SGSN của nó.
Bao lâu một MS gửi một bản tin? Nếu nó ít khi cập nhật vị trí hiện hành của
mình, thì mạng phải thực hiện một quá trình paging để tìm ra MS khi các muốn
chuyển các gói tới. Điều này gây ra trễ phân phát. Nói một cách khác, nếu việc cập
nhật vị trí diễn ra thông thường, vị trí của thì sẽ được biết trong mạng, nhưng băng
thông vô tuyến đường xuống và năng lượng được dùng trong trường hợp quản lý di
động này. Do đó, một sự quản lý vị trí tốt phải được thỏa hiệp giữa các phương pháp
đó.
Với lý do đó, một mô hình trạng thái cho MS GPRS đã được xác định (hình
8.4). Trong trạng thái IDLE (rỗi) MS thì không có thể truy cập. Thực hiện một đấu
nối GPRS, MS trở thành trạng thái READY (sẵn sàng). Với việc tách GPRS nó có thể
hủy đăng kí từ mạng và trở lại trạng thái IDLE và toàn bộ thuộc tính PDP sẽ bị xóa.
Trạng thái STANDBY (chờ) sẽ được truy cập khi một MS không gửi bất kì một một
gói nào trong một chu kì thời gian, và do đó, bộ định thời READY kết thúc, MS trở
về trạng thái IDLE. Tần suất cập nhật vị trí phụ thuộc vào trạng thái MS hiện hành.
Trạng thái IDLE, không có sựu cập nhật vị trí nào được thực hiện, vị trí hiện hành của
MS thì không được biết. Nếu MS ở trạng thái READY, nó sẽ thông báo SGSN của nó
mỗi khi di chuyển tới một cell mới. Với sự quản lý vị trí cho một MS ở trạng thái
STANDBY, Một LA GSM được phân chia thành vùng định tuyến RA. Nhìn chung,
một RA bao gồm một vài cell. SGSN sẽ chỉ được thông báo khi một MS di chuyển tới
một RA mới; sự thay đổi cell sẽ không được đề cập đến.
Để tìm ra cell hiện hành của một MS mà ở trong trạng thái STANDBY,
paging MS trong một vùng định tuyến được thực hiện, với trạng thái READY thì
không cần thiết paging.
Bất cứ một MS di chuyển tới một RA mới, nó gửi một yêu cầu cập nhật vùng
định tuyến để xác định nó trong SGSN. Bản tin này bao gồm Nhận dạng vùng định
tuyến RAI của RA cũ. BSS thêm CI của cell mới, từ đó, SGSN có thể lấy ra RAI mới.
Có hai quy trình khác nhau như sau:
 Cập nhật vùng định tuyến cùng SGSN; hình 8.5
 Cập nhật vùng định tuyến liên SGSN; hình 8.6
Trong trường hợp cùng SGSN, MS di chuyển tới một RA mới nằm trong cùng
SGSN với RA cũ. Trong trường hợp này, SGSN đã lưu trữ tiểu sử người dùng và có
thể ngay lập tức gán một P-TSMI mới. Bởi vì thuộc tính định tuyến không thay đổi,
không cần thông báo tới các thành phần mạng nào khác, như GGSN và HLR.

Hình 8.5 Cập nhật vùng định tuyến cùng SGSN


Trong tường hợp liên SGSN, RA mới được quản lý bởi SGSN. SGSN biết
rằng MS đã vào vùng của nó và yêu cầu SGSN cũ gửi các thuộc tính PDP của người
dùng (yêu cầu thuộc tính SGSN, đáp trả thuộc tính SGSN, báo nhận thuộc tính
SGSN). Sau đó, SGSN thông báo với GGSN về thuộc tính định tuyến của người dùng
mới (yêu cầu cập nhật thuộc tính PDP, đáp trả cập nhật thuộc tính PDP). Ngoài ra,
HLR và MSC/VLR được thông báo về số SGSN mới của người dùng (cập nhật vị trí,
báo nhận cập nhật vị trí, yêu cầu cập nhật vị trí, chấp nhận cập nhật vị trí).
Ngoài ra để cập nhật RA, ở đây tồn tại sự kết hợp cập nhật RA/LA. Được thực
hiện bất cứ khi nào một MS sử dụng GPRS như các dịch vụ GSM thông thường di
chuyển tới một LA mới. MS gửi một yêu cầu cập nhật vùng định tuyến tới SGSN và
sử dụng một kiểu chỉ số cập nhật để chỉ ra rằng LA thì cần thiết. Bản tin này sau đó
được chuyển tiếp từ SGSN tới VLR.
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng sự quản lý di động GPRS giống như sự quản
lý di động GSM gồm 2 mức: Quản lí dị động nắm giữ RA hoặc cell hiện hành của
nười dùng, Quản lý di động nắm giữ SGSN hiện hành cuả người dùng và lưu trữ nó
trong HLR, VLR và SGSN.
Hình 8.6 Cập nhật vị trí định tuyến liên SGSN
3. Kiến trúc giao thức
Sơ đồ truyền dẫn
Hình 8.7 thể hiện kiến trúc giao thức của mô hình truyền dẫn GPRS. Các giao
thức đưa ra sự truyền dẫn dữ liệu người dùng và nó được kết hợp với báo hiệu (điều
khiển luồng, dò và sửa lỗi). Một ứng dụng chạy trên GPRS-MS (như một trình duyệt)
sử dụng IP hoặc X.25 trong lớp mạng.
Xương sống GPRS: SGSN-GGSN:
Như đã đề cập từ trước, các gói IP và X.25 được truyền đi trong mạng xương
sống GPRS. Điều này được thực hiện sử dụng GTP. Các gói GTP mang các gói IP
hoặc X.25 của người dùng. GTP được xác định cả GSN trong cùng mạng và GSN
khác PLMN.
GTP bao gồm các thủ tục trong mô hình truyền dẫn cũng như trong mô hình
báo hiệu. Trong mô hình truyền dẫn, GTP dùng một bộ phận ống để truyền dẫn các
gói dữ liệu người dùng. Trong mô hình báo hiệu, GTP xác định một giao thức điều
khiên và quảng lý ống. Báo hiệu thì được để tạo, điều chỉnh và xóa các ống. Một bộ
nhận dạng ống TID bao gồm các IMSI của người dùng và một bộ nhận dạng điểm
truy cập dịch vụ lớp mạng NSAPI chỉ ra duy nhất một thuộc tính PDP. Phía dưới GTP,
Giao thức điều khiển truyền dẫn TCP hoặc giao thức khối dữ liệu người dùng UDP
được dùng để vận chuyển các GTP trong mạng. TCP sử dụng cho X.25 và UDP dùng
cho truy cập mạng dựa trên IP. Trong lớp mạng, IP được dùng để định tuyến các gói
qua mạng xương sống. Các giao thức dựa trên Ethernet, ISDN hoặc ATM có thể được
dùng bên dưới IP. Tóm lại, trong mạng xương sống GPRS, chúng ta có giao thức
IP/X.25 trên GTP trên UDP/TCP trên IP.

Hình 8.7 Kiến trúc giao thức: Mô hình truyền dẫn


Giao diện không gian
Giao thức mạng con phụ thuộc hội tụ- SNDCP. SNDCP được dùng
để truyền dẫn các gói của lớp mạng (IP và X.25) giữa MS và SGSN. Các chức năng
của nó gồm:
 Ghép một vài thuộc tính PDP của lớp mạng vào kết nối logic ảo
của lớp bên dưới LLC.
 Phân đoạn các gói lớp mạng trong một khung xuống lớp bên
dưới và tổ hợp lại ở bên nhận.
Hơn nữa, SNDCP đưa ra sự nén và giải nén dữ liệu người dùng và
thông tin đầu đoạn bổ xung.
Lớp dữ liệu. Được chia thành hai lớp con:
 Lớp LLC (giữa MS và SGSN);
 Lớp điều khiển truy cập phương tiện (MAC)/RLC (giữa MS và
BSS).
Lớp LLC cung cấp một đường dẫn tin cậy giữa một MS và SGSN.
Chức năng của nó dựa trên giao thức LAPDm. LLC bao gồm phân phối, điều khiển
luồng, dò lỗi, truyền lại các gói và các chức năng mã hóa. Nó hỗ trợ các độ dài khung
khác nhau và các lớp QoS khác nhau, và truyền dẫn điểm điểm, điểm đa điểm cũng
được cho phép. Một liên kết logic có một địa chỉ duy nhất với bộ nhận dạng liên kết
vô tuyến tạm thời TLLI. Trong một RA ánh xạ giữa TLLI và IMSI là duy nhất. Tuy
nhiên, sự nhận dạng người dùng vẫn được bảo mật vì TLLI được lấy từ P-TMSI của
người dùng.
Lớp RLC/MAC có hai chức năng. Mục đích của lớp RLC là thiết lập
một liên kết tin cậy giữa MS và BSS. Điều này bao gồm sự phân đoạn và kết hợp các
khung LLC trong các khối dữ liệu RLC và ARQ của các khối không thể chỉnh sửa.
Lớp MAC điều khiển truy cập của MS trên kênh vô tuyến. Nó dựa trên nguyên tắc
slotted-aloha (có thể xem ở phần 4.1 của sách). Lớp MAC dùng các thuật toán cho sự
phân giải mâu thuẫn của sự truy cập, ghép kênh, thống kê, ưu tiên, khi đó, đưa ra QoS
đã được thương lượng. Một khía cạnh khác, giao thức MAC cho phép một MS đơn lẻ
sử dụng đồng thời các kênh vật lý, và nó cũng điều khiển việc ghép kênh, cho phép
một vài MS truy cập cùng một kênh vật lý (khe thời gian giống nhau của khung
TDMA). Điều này sẽ được thảo luận chi tiết trong phần sau.
Lớp vật lý. Có thể phân chia làm hai lớp con: Lớp liên kết vật lý PLL
và lớp vật lý RFL. PLL cung cấp một kênh vật lý giữa MS và BSS. Nhiệm vụ chính
của nó bao gồm mã hóa kênh (dò lỗi truyền dẫn, sữ lỗi, và chỉ ra các từ mã không
được thay đổi), chèn và dò tắc ngẽn liên kết vật lý. RFL hoạt động bên dưới PLL, bao
gồm điều chế và giải điều chế.

Hình 8.8 luồng dữ liệu và phân đoạn giữa các lớp giao thức trong MS.
Hình 8.8 thể hiện luồng dữ liệu giữa các lớp giao thức trong MS. Các gói của
lớp mạng được chuyển xuống lớp SNDCP, nơi đây chúng được phân đoạn thành các
khung LLC. Sau khi thêm các thông tin đầu đoạn và chuỗi kiểm tra khung FCS cho
việc bảo vệ, các khung này được phân đoạn trong một hoặc một vài khối dữ liệu RLC.
Sau đó, các khung này được chuyển xuống lớp MAC. Một khối RLC/MAC bao gồm
một MAC và một đầu đoạn (header) RLC, tải RLC (các bit thông tin) và một chuỗi
kiểm tra khối tại phân cuối. Mã hóa kênh của các khối RLC/MAC và ánh xạ tới một
khối trong lớp vật lý thì được thảo luận trong phần sau.
Giao diện BSS-SGSN. Tại giao diện Gb, giao thức ứng dụng BSS GPRS
(BSSGP) được xác định trên lớp 3. Nó được lấy ra từ BSSMAP (đọc thêm phần 5.3.1).
BSSGP định tuyến và phân phối QoS giữa BSS và SGSN. Giao thức dịch vụ mạng
(NS) phía dưới dựa trên giao thức chuyển tiếp khung.
Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ:
Bây giờ chúng ta sẽ bàn luận chi tiết hơn về phần định tuyến đã đề cập
ở phần I. Hình 8.9 thể hiện sự truyền dẫn của một gói IP đến. Nó được nhận tại
GGSN, sau đó, được định tuyến qua mạng xương sống GPRS tới SGSN có trách
nhiệm và cuối cùng là tới MS. Sử dụng thuộc tính PDP, GGSN xác định từ địa chỉ
đích một TID và địa chỉ IP cho SGSN. Giữa GGSN và SGSN, GTP được dùng đến.
SGSN lấy TTLI từ TID và cuối cùng chuyển các gói IP tới MS. NSAPI được gọi là
một phần của TID. Nó ánh xạ một địa chỉ IP tới thuộc tính PDP tương ứng. Một cặp
NSAPI/TLLI là duy nhất trong một RA.

Hình 8.9 Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ: gói IP đến (truyền dẫn dữ liệu kết thưc di
động)

Hình 8.10 Định tuyến và chuyển đổi địa chỉ: Gói IP đi (Truyền dẫn dữ liệu được khởi
phát di động)
5. Mô hình báo hiệu
Kiến trúc báo hiệu của mô hình báo hiệu bao gồm các giao thức cho việc điều
khiển và hỗ trợ các chức năng cuả mô hình truyền dẫn để thực hiện đấu nối GPRS và
tách GPRS, kích hoạt thuộc tính PDP, điều khiển đường định tuyến, phân bổ các
nguồn vô tuyến.
Giữa MS và SGSN, giao quản lý di động GPRS và quản lý phiên làm việc có
trách nhiệm cho sự quản lý di động và phiên làm việc.
Hình 8.11 Mô hình báo hiệu MS-SGSN

Hình 8.12 Mô hình báo hiệu: SGSN-HLR, SGSN-EIR và SGSN-MSC/VLR.


Nó bao gồm các chức năng cho việc đấu nối/tách GPRS, kích hoạt thuộc tính
PDP, cập nhật vùng định tuyến và các chức năng bảo mật.
Kiến trúc báo hiệu giữa SGSN và HLR, VLR và EIR sử dụng các giao thức đã
biết từ GSM và có sự mở rộng cho các chức năng riêng GPRS. Giữ SGSN và HLR
cũng như giữa SGSN và EIR, MAP cải tiến được dùng đến. Sự chuyển đổi các bản tin
MAP được hoàn thành trên TCAP, SCCP và MAP.
Phần ứng dụng BSS (BSSAP+) bao gồm các chức năng BSSAP của GSM. Nó
được áp dụng để truyền dẫn các thông tin báo hiệu giữa SGSN và VLR (giao diện Gs).
Ở đây cũng bao gồm sự báo hiệu cho sự quản lý di động khi kết hợp các chức năng
GPRS và GSM thông thường (kết hợp cập nhật vị trí GPRS và không phải GPRS, kết
hợp kết nối GPRS/IMSI hoặc paging MS cho một cuộc gọi GSM đến).
Kết hợp với mạng IP

Hình 8.13 kết nối GPRS-Internet


Hình 8.13 đưa ra ví dụ cách kết nối một mạng GPRS với Internet. Nếu xét từ
phía mạng IP thì mạng GPRS giống như là một mạng IP con và GGSN như là một bộ
định tuyến IP thông thường.
Như đã đề cập ơ phần 3, mỗi MS có một địa chỉ IP sau khi kết nối với GPRS
của nó và địa chỉ khả dụng trong suốt phiên làm việc. Nhà cung cấp mạng có một số
lượng địa chỉ IP dành riêng và có thể gán các địa chỉ một cách tự động tới MS kích
hoạt. Để làm được điều này, nhà cung cấp mạng có thế cài đặt một máy chủ giao thức
cấu thức cấu hình host động (DHCP) trong mạng. Máy chủ này quản lý một cách tự
động không gian địa chỉ địa chỉ khả dụng. Sự phân giải địa chỉ giữa địa chỉ IP và địa
chỉ GSM thì được thực hiện bởi GGSN, sử dụng thuộc tính PDP riêng. Định tuyến và
“ống” (tunneling) các gói IP qua mạng xương sống PLMN (sử dụng GTP) đã thảo
luận trong phần 1, 3, 4.
Hơn nữa, một máy chủ tên miền được dùng để ánh xạ giữa các địa chỉ IP và
trên host. Để bảo vệ PLMN khỏi sự truy cập không cho phép, một tường lửa được
thiết lập giữa mạng cá nhân GPRS và mạng IP bên ngoài.
Với cấu hình đó, GPRS có thể xem như là một sự mở rộng không dây của
internet tới một MS. Người dùng di động có thể kết nối trực tiếp tới Internet.
7. Giao diện không gian
Đa truy cập và quản lý nguồn vô tuyến
Trên lớp vật lý, GPRS sử dụng sự kết hợp GSM của FDMA và TDMA với
tám khe thời gian trên khung TDMA. Tuy nhiên, vài phương pháp mới được sử dụng
cho phân bổ kênh và đa truy cập. Chúng có những tác động ý nghĩa trong hiệu suất
của GPRS.
Trong GSM chuyển mạch kênh, một kênh vô tuyến được phân bổ cố định cho
một MS riêng biệt trong suốt quá trình gọi (bất kể là dữ liệu được truyền hay không
truyền).
GPRS cho phép phân bổ các nguồn vô tuyến linh hoạt hơn cho truyền dẫn gói.
Một MS GPRS có thể truyền dẫn trên một vài khe của tám khe thời gian trong cùng
khung TDMA. Số lượng các khe thời gian một MS cho phép để sử dụng được gọi là
lớp đa khe. Ngoài ra, đường lên và đường xuống được phân bổ một cách riêng biệt,
khi đó tiết kiệm được nguồn vô tuyến, đặc biệt là đối với lưu lượng không đối xứng.
Một cell hỗ trợ GPRS phải phân bổ các kênh vật lý cho lưu lượng GPRS. Nói
một cách khác, các nguồn vô tuyến của một cell được chia sẽ bởi các MS đặt trong
cell đó. Việc ánh xạ các kênh vật lý tới các dịch vụ GPRS hoặc GSM chuyển mạch
kênh có thể được thực hiện trong những cách linh hoạt. Một kênh vật lý được phân bổ
cho truyền dẫn GPRS thì được thể hiện như là một kênh dữ liệu gói (PDCH). Số
lượng các kênh PDCH có thể là phù hợp với lưu lượng hiện hành yêu cầu. Ví dụ, các
kênh vật lý không được sử dụng bởi các cuộc gọi GSM có thể được phân bổ cho
GPRS để tăng QoS của GPRS. Khi các nguồn đó được yêu cầu cho GSM, PDCH có
thể bị lấy lại.
Như đã đề cập, các kênh vật lý cho truyền dẫn chuyển mạch gói (PDCH) thì
chỉ được phân bổ cho một MS riêng biệt khi MS đó gửi hoặc nhận các gói dữ liệu, và
chúng được giải phóng sau khi truyền dẫn. Với cách phân bổ kênh linh động này,
Nhiều MS có thể chia sẻ một kênh vật lý, điều này làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn
vô tuyến.
Sự phân bổ kênh thì được điều khiển bởi BSC. Để tránh va chạm, mạng chỉ ra
các kênh khả dụng hiện hành trong đường xuống. Một cờ trạng thái xuống (USF)
trong đầu đoạn của các gói xuống chỉ ra khi nào MS được cho phép sử dụng các kênh
đó trong đường lên. Sự phân bổ PDCH tới một MS cũng phụ thuộc vào lớp đa khe
của nó và QoS của phiên làm việc.

Kênh logic
Bảng 8.3 thể hiện các kênh logic được xác định trong GPRS. Với một kênh
logic trong GSM thông thường, chúng có thể được chia ra thành hai loại: các kênh lưu
lượng và các kênh báo hiệu. Các kênh báo hiệu có thể còn được chia thành: kênh điều
khiển quảng bá gói, kênh điều khiển gói chung và kênh điều khiển gói riêng.
Kênh lưu lượng dữ liệu gói (PDTCH) được dùng cho truyền dẫn dữ liệu người
dùng. Nó được gán tới một MS, Một MS có thể có vài PDTCH cùng lúc.
Kênh điều khiển quảng bá gói (PBCCH) là một kênh báo hiệu điểm đa điểm
một hướng từ BSS tới các MS. Nó được dùng bởi BSS để quảng bá thông tin về sự tổ
chức của mạng vô tuyến GPRS tới toàn bộ các MS GPRS của một cell. Ngoài ra,
PBCCH cũng sẽ quảng bá thông tin quan trọng hệ thống về các dịch vụ chuyển mạch
kênh nên MS GSM/GPRS không cần lắng nghe BCCH
Kênh điều khiển gói chung PCCCH vận chuyển thông tin cho các chức năng
của sự quản lý truy cập mạng, cho sự phân bổ các kênh vô tuyến, điều khiển truy cập
phương tiện và paging. Có bốn kênh con là:
 Kênh truy cập gói ngẫu nhiên PRACH được dùng bởi MS để yêu cầu
một hoặc nhiều PDTCH
 Kênh chập thuận truy cập gói PAGCH được dùng để phân bổ một hoặc
nhiều PDTCH tới một MS.
 Kênh paging gói PPCH được dùng bởi BSS để tìm ra vị trí của MS
trong quá trình truyền xuống.
 Kênh liên kết gói PNCH được dùng để thông báo MS về các bản tin tới
PTM.

Hình 8.14 Phân bổ kênh lên (Truyền dẫn gói khởi phát di động)
Hình 8.14 thể hiện nguyên tắc phân bổ kênh lên (Truyền dẫn gói khởi phát di
động). Một MS yêu cầu một kênh bằng việc gửi một gói yêu cầu kênh trên PRACH
hoặc RACH. BSS trả lời trên PAGCH hoặc AGCH. Một gói yêu cầu kênh thành công
thì một bộ luồng tạm thời (TBF) được thiết lập. Và, các nguồn được phân bổ cho MS,
và truyền dẫn dữ liệu có thể bắt đầu. Trong suốt quá trình truyền, USF trong đầu đoạn
của các khối xuống chỉ ra các MS rằng các đường lên PDTCH được dùng đến. Bên
phía nhận, một bộ nhận dạng luồng tạm thời TFI hỗ trợ để tái ghép gói. Một khi toàn
bộ dữ liệu được truyền đi hết, TBF và các nguồn được giải phóng. Hình 8.15 thể hiện
thủ tục paging cho một trạm di động.
Hình 8.15 Paging (truyền dẫn gói kết thúc di động)
Kênh điều khiển gói riêng là một kênh báo hiệu điểm điểm đa hướng. Nó bao
gồm các kênh sau:
 Kênh điều khiển gói kết hợp luôn luôn được phân bổ trong sự kết với
một hoặc nhiều PDTCH. Nó vận chuyển thông tin báo hiệu liên quan
tới một MS riêng biệt.
 Kênh điều khiển định thời gói cải tiến được dùng cho đồng bộ khung
thích nghi. MS gửi trên đường lên phần PTCCH, PTCCH/U, Abs tới
BTS. Từ sự trễ của các khối tín hiệu, giá trị chính xác của TA (Time
Avandce) được lấy ra (xem thêm phần 4.3.2). Giá trị này sau đó được
truyền trên đường xuống, PTCCH/U để thông báo tới MS.
Sự kết hợp giữa các kênh logic chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói thì
cũng cho phép. Nếu PCCCH không khả dụng trong cell, một MS GPRS có thể dùng
CCCH của GSM chuyển mạch kênh để khởi tạo truyền dẫn gói. Hơn thế, nếu PBCCH
không khả dụng, nó có thể biết các thông tin cần thiết thông qua BCCH.
Như với GSM chuyển mạch kênh, các kênh logic GPRS có thể chỉ được dùng
trong sự kết hợp đã biết. Điều này cho phép sự kết hợp của việc ghép các kênh logic
trong các kênh vật lý thể hiện ở bảng 8.5. Hơn thế, bảng 8.6 thể hiện cấu hình kênh
mà MS có thể sử dụng. Sự kết hợp M9 thể hiện một MS trong trạng thái IDLE chờ
các gói tới. Sự kết hợp M10 là một MS truyền với khả năng đa khe. Vài PDTCH thì
được gán tới một MS đơn lẻ, ở đây, n thể hiện số PDTCH cho phép truyền dẫn hai
chiều và m thể hiện số PDTCH cho phép truyền dẫn một chiều. Chúng ta có: n=1, ….,
8, m=0, …, 8 và n+m=1, …, 8.
Sự ánh xạ các kênh logic dữ liệu gói trên các kênh vật lý
Việc ánh xạ các kênh GSM logic trên các kênh vật lý có hai phần: ánh xạ
trong tần số và ánh xạ trong thời gian. Ánh xạ trong tần số dựa trên số lượng khung
TDMA và các tần số được phân bổ tới BTS và MS. Ánh xạ trong thời gian dựa trên
sự xác định của cấu trúc đa khung trên cùng của các khung TDMA.
Cấu trúc đa khung của PDCH bao gồm 52 khung TDMA (mỗi khung có tám
khe thời gian) thể hiện trong hình 8.6. Các khe thời gian của một PDCH tương ứng
của bốn khung TDMA liên tiếp và tạo thành một khối vô tuyến (B0-B11). Hai khung
TDMA được dành riêng cho truyền dẫn PTCCH, và hai khung cho các khung IDLE.
Một đa khung có thời gian xấp xỉ khoảng 240ms (52 x 4.615ms). Một khối vô truyền
gồm 456 bit.
Ánh xạ các kênh logic có thể trên các khối B0-B11 của đa khung có thể thay
đổi từ khối tới khối và được điều khiển bởi các chỉ số khi đó được quảng bá trên
PBCCH. Các khuyến nghị GPRS xác định các khe thời gian có thể được dùng bởi các
kênh logic.
Ngoài ra trong cấu trúc đa khung 52, có thể được dùng bởi toàn bộ các kênh
logic GPRS, một cấu trúc đa khung 51 cũng được xác định. Nó được dùng cho PDCH
chỉ để mang các kênh logic PCCCH và PBCCH. Trong đường xuống, nó bao gồm 10
khối, mỗi khối gồm 4 khung và 10 khung IDLE. Trong đường lên, nó có 51 khung
truy cập ngẫu nhiên, và trong khoảng 235.4 ms.

Hình 8.16 Cấu trúc đa khung với 52 khung TDMA


Mã hóa kênh

Hình 8.17 Mã hóa, xen kẽ và định dạng cách khối (Tiếp theo hình 8.8)
Hình 8.17 thể hiện các mà các khối của lớp RLC/MAC được mã hóa và ánh xạ
trong bốn khối tín hiệu. Mã hóa kênh được dùng đển bảo vệ các gói được truyền dẫn
chống lại lỗi và thực hiện việc sử lỗi. Kĩ thuật mã hóa kênh trong GPRS có công cụ
tương tự như được dùng trong GSM. Một mã khối ngoài, một mã chập bên trong và
mô hình xen kẽ thì được dùng đến.
Bốn mô hình mã hóa đã xác định với các tốc độ bit khác nhau. Các chỉ số của
chúng được thể hiện trong bảng 8.7. Với mỗi mô hình, mối khối 456 bit được thể hiện
ra sau khi mã hóa. Hình 8.18 thể hiện quá trình mã hóa, và được mô tả ngắn gọn ở
phần sau.

Hình 8.18 Mã hóa cho các khối dữ liệu GPRS


Chúng ta hãy dùng đến mô hình mã hóa CS-2. Trước tiên, 271 bit thông tin
của một khối RLC/MAC (268 bit cộng với 3 bit USF, xem bảng 8.4) được ánh xạ tới
287 bit sử dụng một bộ mã hóa khối hệ thống, 16 bit được thêm vào. Các bit này được
xem như là một BCS. Mã hóa trước USF ánh xạ 3 bit đầu tiên của khối (ví dụ USF)
thành 6 bit. Sau đó, bốn bit 0 (bit tail) được thêm vào cuối khối. Bit tail là cần thiết
cho việc kết thúc mã hóa chuỗi chập.
Với mã chập, một mô hình tốc độ không đối xứng ½ cới bốn bộ nhớ được
dùng đến, khi đó được xác định bởi đa thức sinh sau:
G0 (d) = 1+ d + d4
G1 (d) = 1+ d + d3 + d4.
Điều này tương tự bộ mã hóa được dùng trong GSM thông thường. Đầu ra của
bộ mã hóa thì một từ mã sẽ có độ dài là 588 bit, Sau đó, 132 bit được bỏ đi (puncture),
còn lại 456 bit. Do đó, tốc độ mã hóa của bộ mã hóa là:
6  268  16  4 2
r 
456 3
Mô hình mã hóa CS-1 tương tự mã hóa SACCH. Một mã fire hệ thống thì
được dùng cho mã khối. Ở đây không có sự mã trước của các bit USF. Mã chập đươc
thực hiện với bộ mã ½ , tuy nhiên, ở đây không có thời gian puncture. Sử dụng CS-4.
ba bit USF được ánh xạ tới 12 bit và mã chập thì không được áp dụng.
Vớ mã hóa cho các kênh dung lượng (PDTCH), một trong 4 mô hình mã hóa
được chọn, phụ thuộc vào chất lượng của tín hiệu.
8. Xác thực và bảo mật
Nguyên tắc bảo mật bên mạng GPRS tương tự như được dùng ở mạng GSM.
Các chức năng bảo mật trong mạng GPRS:
 Bảo vệ chống lại sử các dịch vụ trái phép.
 Cung cấp dữ liệu bảo mật
 Cung khả năng bảo mật nhận dạng người dùng.
Như trong mạng GSM, hai khóa được dùng: Khóa xác nhận thuê bao Ki và
khóa mã hóa Kc. Sự khác biệt chính là SGSN chứ không phải MSC điều khiển xác
nhận. Hơn nữa, một thuật toán mã hóa GPRS đặc biệt A5 được xác định, khi đó đã tối
ưu hóa cho việc mã hóa dữ liệu gói.
Xác nhận người dùng
Hình 8.19 và 8.20 thể hiện quá trình xác nhận GPRS. Các thuật toán
GSM được dùng để tạo ra sự dữ liệu bảo mật. Thuật toán A3 tính toán đáp trả xác
thực (SRES) từ Ki và RAND.
Nếu SGSN không có các bộ xác thực người dùng (Kc, RAND, SRES),
Nó sẽ yêu cầu chúng từ HLR bằng việc gửi bản tin gửi thông tin xác nhận. HLR đáp
trả với bản tin ACK bao gồm các thông dữ liệu bảo mật. Bây giờ, SGSN đưa RAND
tới MS, MS tiến hành tính toán SRES và gửi ngược về SGSN. Nếu SRES của MS
trùng khớp với SRES trong SGSN thì người dùng được xác nhận và cho phép sử dụng
mạng.

Mã hóa
Chức năng mã hóa được thực hiện trong lớp LLC giữa MS và SGSN
(hình 8.7 và 8.11). Do đó, phạm vị mã hóa sẽ tác động tới tất cả con đường từ MS tới
SGSN và ngược lại. Trong khi, GSM chỉ là ở giữa MS và BTS/BSC. Trong GSM,
thuật toán A8 tạo ra khóa mã hóa Kc từ Ki và RAND. Kc thì được dùng bởi thuật toán
mã hóa GPRS (GEA) cho sự mã hóa dữ liệu (thuật toán A5). Chú ý rằng Kc được
điều khiển bởi SGSN thì không phụ thuộc vào Kc được điều khiển bởi MSC trong
GSM. MS có thể có nhiều hơn một Kc.
MS và SGSN bắt đầu mã hóa sau bản tin đáp trả mã hóa và xác thực
được gửi đi hoặc được nhận. Sau đó, dữ liệu người dùng và báo hiệu trong suốt quá
trình truyền dẫn dữ liệu được truyền trong một phương thức được mã hóa.
Khả năng bảo mật nhận dạng người dùng
Trong GSM, nhận dạng thuê bao thì bảo mật. Điều này được thực hiện
sử dụng các nhận dạng tạm thời trên kênh vô tuyến. IMSI của người dùng không được
truyền đi không được mã hóa, thay vì thế một P-TMSI được gán tới mỗi người dùng
bởi SGSN. Địa chỉ này là tạm thời, chỉ khả dụng và duy nhất trong vùng dịch vụ của
SGSN đó, Từ P-TMSI, một TLLI được lấy ra. Việc ánh xạ giữa các nhận dạng tạm
thời và IMSI được lưu trong MS và trong SGSN.
II. HSCSD
Đúng như tên của nó, dịch vụ dữ liệu chuyển mạch tốc độ cao là một dịch vụ
chuyển mạch kênh. Điểu này đưa ra cho người dùng một tốc độ dữ liệu cố định khả
dụng trong suốt quá trình kết nối dự liệu. Điều này không phụ thuộc vào số lượng của
dữ liệu được truyền, người dùng sẽ trả tiền cho kết nối ngay cả khi dữ liệu không
được truyền. HSCSD hữu ích cho cho các ứng dụng yêu cầu tốc độ dữ liệu cố định.
Thuận lợi của dịch vụ này là tốc độ dữ liệu được bảo đảm trong suốt thời gian kết nối,
trong trường hợp dịch vụ mang trong sáng. Một khía cạnh khác là QoS được bảo đảm
nếu như dịch vụ mang không trong sáng được áp dụng. HSCSD hỗ trợ hai trường hợp
này.
Như trong GPRS, HSCSD cho phép sử dụng một vài kênh dung lượng (n) để
cung cấp tốc độ dữ liệu cao. Hình 8.21 thể hiện một ví dụ với n=2, trong đó, các khe
thời gian TS1 và TS2 được dùng cho kết nối HSCSD (đường lên và đường xuống).
Nguyên tắc giới hạn số n được đưa ra bằng thỏa thuận rằng chúng phải nằm trên cùng
một kênh tần số giống nhau. Do đó, tiêu chuẩn cho phép n=8 hoặc các kênh thì được
gán tới một người dùng. Điều này đưa ra tốc độ dữ liệu lớn nhất có thể đạt tới: sử
dụng tám kênh tại một thời điểm, mỗi kênh mang một tốc độ lưu lượng kênh đầy đủ
TCH/F9.6, tốc độ tổng là 76.8kbit/s sẽ đạt được. Tuy nhiên, cần phải nói lại rằng,
thông qua việc GSM áp dụng FDD, các khe thời gian lên và xuống của cùng một
TCH có một offset, giống như là thiết bị đầu cuối di động có thể thực hiện truyền dẫn
và nhận cùng một lúc. Điều này dẫn tới các thiết bị đầu cuối với khả năng thực hiện
truyền dẫn và nhận song song sẽ dẫn đến sự phức tạp của các thiết bị đầu cuối khác,
nên giá thành chúng sẽ đắt hơn. Do đó, phiên bản ra đời sớm của HSCSD chỉ cho
phép n=4 để dùng tại một thiết bị. Điều này đưa ra tốc độ 38.4 kbit/s, khi đó, bốn
kênh TCH/F9.6 được dùng đến. Trong thực tế, bằng việc áp dụng các mô hình mã hóa
khác nhau, tốc độ dữ liệu tối đa có thể đạt tới 57.6 kbit/s với n=4. Hình 8.21 thể hiện
ví dụ với n=2, các hoạt động được yêu cầu trong thiết bị di động vẫn có thể được thực
hiện đồng thời, giống như là ý định trong GSM truyền thống: Thiết bị di động thực
hiện nhận dữ liệu trong các khe thời gian TS1 và TS2 của đường xuống. Bằng việc
điều khiển offset thời gian của ba khe thời gian giữa đường lên và đường xuống, thiết
bị đầu cuối có thể hoàn thành việc nhận, khi đó, nó bắt đầu truyền trên đường lên sử
dụng TS1 và TS2 nhưng bây giờ là để phát. Sau khi hoàn thành phát lên và trước khi
nhận dữ liệu lại trên TS1 và TS2, vẫn đủ thời gian để điều khiển sóng mang BCCH
của các cell lân cận, điều này là quan trong cho hoạt động chuyển giao.

Hình 8.21 Ví dụ HSCSD với n=2


Khi gán các khe thời gian, dịch vụ HSCSD đưa ra lớp đa khe của MS. Một
danh sách của các lớp đa khe được thể hiện trong bảng 8.8. Ví dụ, thiết bị đầu cuối đa
khe lớp 3 có thể dùng tối đa 2 khe thời gian cho việc nhận (đuờng xuống) và tối đa 2
khe thời gian cho việc phát (đường xuống). Tuy nhiên, tổng cách khe thời gian lên và
xuống không bao giờ lớn hơn 3. Khi thiết bị di động của một lớp đa khe biết trước
khởi tạo một kết nối HSCSD, RRM (Radio Resource Management) phải xem xét giới
hạn của lớp khe tương ứng, khi gán các khe thời gian. Cột cuối cùng của bảng thể
hiện kiểu thiết bị: kiểu 1, thiết bị đầu cuối không có khả năng để truyền và nhận dữ
liệu tại một thời điểm. Do đó, RRM phải đảm bảo sự lựa chọn các khe thời gian tương
ứng. Ngược lại, kiểu 2, thiết bị di động có khả năng truyền và nhận song song, khi đó,
RRM có nhiều sự lựa chọn cho việc phân bổ các khe thời gian cho HSCSD.

1. Kiến trúc
Đứng ở góc độ kiến trúc thì HSCSD không có yêu cầu thay đổi nhiều so với
kiến trúc của dịch vụ dữ liệu GSM thông thường. Kiến trúc GSM cho HSCSD được
thể hiện trong hình 8.22. Giao diện Um giữa MS và BTS n=8 được dùng. Tiếp đó
được chuyển tiếp qua giao diện Abis từ BTS tới BSC. Ở đây, dữ liệu từ các kênh song
song được ghép lại trên một kết tối 64 kbit/s và được truyền trên giao diện A tới
MSC. Các kênh đầy đủ tốc độ n được xem xét độc lập với các kênh khác và được xử
lý một cách riêng rẻ cho các mục đích điều khiển lỗi giao diện không gian. Tuy nhiên,
một cách logic chúng thuộc về cấu hình HSCSD giống nhau và được điều khiển như
một liên kết vô tuyến bởi mạng cho mục đích của các hoạt động tế bào, như là chuyển
vùng.
Sự khác biệt chính với các dịch vụ dữ liệu GSM là trong sự kết hợp và chia
nhỏ mà điều này được yêu cầu từ MS và MSC trong HSCSD. Nhiều chuỗi dữ liệu
được truyền giữa các thực thể. Chức năng này được cung cấp bởi chức năng chọn
thiết bị đầu cuối TAF tại MS và trong IWF tại MSC.
Hình 8.22 kiến trúc GSM cho HSCSD
Giao diện không gian
Như đã thảo luận, một kết nối HSCSD bao gồm n kênh lưu lượng (TCH).
Toàn bộ các kênh lưu lượng dùng cùng cùng bước nhảy nếu bước nhảy tần số được áp
dụng. Chuỗi hướng dẫn cũng được gán cho tất cả các kênh lưu lượng n. Tuy nhiên,
mỗi kênh lưu lượng được gán một kênh báo hiệu SACCH riêng, cho phép mức tín
hiệu độc lập và đáp ứng báo hiệu trên một khe thời gian và điều khiển công suất riêng
rẻ trên một khe thời gian. Điều này được thực hiện, vì mức nhiễu có thể khác nhau
trên mỗi khe thời gian mà các mức công suất khác nhau có thể được yêu cầu để đảm
bảo chất lượng tín hiệu trên tất cả các khe thời gian. Kết nối HSCSD có một kênh
điều khiển FACCH được gán cho các mục đích quản lý. Với tất cả các kênh HSCSD,
mã kênh giống nhau thì được áp dụng cho các dịch vụ trong sáng, các mã hóa kênh
khác nhau được dùng cho đường lên và đường xuống. Với mỗi kênh HSCSD, có thể
đối xứng hoặc là không và các kênh có thể được được đặt trên các khe thời gian liên
tiếp hoặc không của cùng một sóng mang, sự giới hạn lớp đa khe của MS cũng được
xem xét đến.
Các kết nối đối xứng bao gồm một FACCH đa hướng được đặt cùng với các
kênh TCH và SACCH. Ngược lại, các kết nối không đối xứng có thể có thể có các
kênh SACCH và TCH/f đa hướng hoặc/và đơn hướng. Các kênh đơn hướng trong
HSCSD luôn luôn là các kênh xuống. Cả các kênh HSCSD đối xứng hoặc là không
đều có một kênh chính đa hướng, khi đó mang FACCH.
2. Phân bổ nguồn HSCSD và các vấn đề dung lượng
Khi khởi tạo một kết nối HSCSD, người dùng chỉ ra số lượng lớn nhất của các
kênh dung lượng trong quá trình thiết lập, lớp đa khe của thiết bị, các mã kênh có thể
cấp nhận và một tốc độ người dùng mạng cố định mong muốn. Trong trường hợp của
các kết nối không trong sáng, tốc độ giao diện người dung mạng cố định thì cũng
được chỉ ra. Các yêu cầu kết nối có thể là đối xứng hoặc là không đối xứng. Các chỉ
số đó được dùng bởi mạng để phân bổ các nguồn vô tuyến riêng biệt và để thiết lập
kết nối HSCSD được yêu cầu. Yêu cầu kênh nhỏ nhất là một TCH/F. Các kết nối
trong sáng hay không trong sáng có thể được thiết lập với bất kì số TCH/F nào từ một
tới một số tối đa xác định. Khi tốc độ người dùng yêu cầu không được đáp ứng, mạng
sẽ đưa ra ưu tiên để thực hiện yêu cầu người dùng giao diện không gian vô tuyến
trong hướng xuống, có thể cho phép sử dụng một cấu hình không đối xứng. Mạng có
thể phân bổ nguồn vô tuyến linh động cho các kết nối HSCSD không trong sáng,cũng
như các cấu hình kênh được phân bổ luôn luôn trong dải với các giá trị giới hạn được
xác định bởi MS và với các lớp đa khe của thiết bị đầu cuối. Trong trường hợp các kết
nối HSCSD trong sáng, việc phân bố các nguồn linh động chỉ cho phép nếu tốc độ
người dùng được giữ ở một hằng số. Mạng thực hiện việc chuyển đổi các cấu hình
phân bổ kênh trong quá trình kết nối HSCSD, bằng các phương thức nâng câp và thu
gọn nguồn. Nếu được chỉ ra bởi MS trong quá trình thiết lập cuộc gọi, MS có thể giải
quyết nâng cấp hoặc thu gọn mức dịch vụ tại bất kì thời điểm nào trong quá trình kết
nối HSCSD.
HSCSD có thể tăng tốc độ người dữ liệu của một người dùng đơn lẻ. Điều này
được đạt tới bằng việc gán nhiều hơn các nguồn tần số tới một người dùng. Với ý
định này, đứng trên quan điểm nhà cung cấp mạng, các nguồn được chiếm giữ một
cách thường xuyên hơn. Một người dùng HSCSD sử dụng n=4 TCH sẽ chiếm giữ bốn
kết nối thoại. Do đó, khi nhiều người dùng sử dụng HSCSD tại một thời điểm trong
một cell, hiệu suất trong cell đó sẽ kém đi. Điều này sẽ ảnh hưởng tới chính sách quản
lý nguồn, nghĩa là, nhà cung cấp mạng sẽ: Nếu có thể, nhà cung cấp cố gắng gán
nhiều hơn các sóng mang tần số tới cell đó. Cũng như thế, nhà cung cấp có sự lựa
chọn của việc giới hạn số lượng các kết nối HSCSD trong một cell.
Một mong đợi quan trọng khác của sự quản lý nguồn vô tuyến HSCSD là
chuyển giao. Khi một chuyển giao của kết nối HSCSD tới một cell lân cận là cần thiết
thì nó có thể cho phép để tìm n TCH rỗi trên một kênh tần số trong cell đích. Trong
trường hợp này, có hai lựa chọn: hoặc kết nối HSCSD bị hủy hoặc kết nối được tiếp
tục với một số lượng TCH thấp hơn. Với mục đích này, phương thức thu gọn nguồn
được áp dụng. Với phương thức này, xác suất một chuyển giao bị khóa và một kết nối
HSCSD bị rớt có thể được giảm xuống. Cuối cùng, phương thức nâng cấp nguồn có
thể áp dụng nếu một nguồn riêng biệt trở nên khả dụng, và sự phân bổ cấu hình kênh
gốc có thể được tạo lại.
III. EDGE
1. Khái niệm
Một hệ thống GSM truyền thống thì được thiết kế và lập kế hoạch trong một
trường hợp xấu nhất. Việc thiết kế mạng vô tuyến được đưa ra với một xác suất lớn
rằng người dùng trong mạng sẽ có một chất lượng tín hiệu thấp với xác suất lỗi bit,
điều chế và mô hình mã hóa. Trong thực tế, hạn chế lớn nhất của việc thiết kế mạng
vô tuyến là người dùng được đặt tại biên của cell. Nên có thể nói rằng mạng GSM
được thiết kế cho người dùng tại biên cell. Tuy nhiên, người dùng đặt gần trạm cơ sở
có các mức tín hiệu tốt hơn được yêu cầu cho các mô hình mã hóa và điều chế GSM
tiêu chuẩn. Để giải quyết điều này, EDGE đưa ra một vài sự kết hợp bổ xung của các
mô hình mã hóa và điều chế,khi đó cho phép thiết bị cầu cuối điều chỉnh các tốc độ
dữ liệu tới các mức chất lượng tín hiệu riêng. Với mục đích này, một kỹ thuật điều
chỉnh liên kết được giới thiệu với EDGE, tạo ra một sự lựa chọn linh động mô hình
mã hóa và điều chế phù hợp với các điều kiện kênh hiện hành.

Hình 8.24, khối tín hiệu EDGE có một chuỗi 26 kí tự ở giữa, 3 kí tự tail tại
đầu hoặc gần cuối, 8.25 kí tự bảo vệ tại phía cuối. Khối tín hiệu mang 2 x 58 kí tự dữ
liệu.
2. Lớp vật lý, điều chế và mã hóa
Với EDGE, bổ xung vào mô hình điều chế GMSK được dùng trong GSM, một
mô hình khóa chuyển pha 8 được dùng đến, khi đó đạt được tốc độ dữ liệu cao hơn
xấp xỉ ba lần và hiệu quả phổ cao hơn. Sử dụng GMSK, một bit dữ liệu di được ánh
xạ tới một kí tự ai; với 8-PSK, ba bit dữ liệu di được kết hợp trong một kí tự ai và được
truyền đi cùng nhau. Hình 8.23 thể hiện kí tự tập hợp trong mức độ phức tạp và được
kết hợp các chuỗi bit. Đối lập GMSK, 8-MSK không có một sự bao phủ ổn định và do
đó, đặt ra các yêu cầu cao hơn trên các bộ truyền phát mới trong BTS và MS.

Hình 8.23 Tập hợp kí tự cho GMSK và 8-PSK.


Để đạt được sự tương thích với hệ thống GSM, các chỉ số lớp vật lý EDGE
tương tự trong GSM: sóng mang không gian là 200 kHz và cấu trúc khung TDMA
không thay đổi. Định dạng khối tín hiệu điều chế 8-PSK cho truyền dẫn thì cũng
tương tự với chuẩn GSM: Một khối tín hiệu bao gồm một chuỗi 26 kí tự ở giữa khung,
ba kí tự tail tại điểm bắt đầu và cuối của khung, và 8.25 kí tự bảo vệ tại điểm cuối.
Trước và sau 26 kí tự, khung mang 58 kí tự dữ liệu, mỗi kí tự biểu hiện ba bit phù hợp
với điểu chế 8-PSK.
Một vài mô hình mã hóa khác với các tốc độ mã khác nhau có thể được kết
hợp với hai mô hình điều chế khả dụng khác (bảng 8.9 và 8.10). Để chọn mô hình tối
ưu, EDGE áp dụng một liên kết điều chỉnh dựa trên chất lượng kênh hiện hành.
Bổ xung vào các mô hình mã hóa và điều chế, EDGE đưa ra một kĩ thuật mã
kết hợp được gọi là gia tăng nhân đôi, cũng được biết là yêu cầu lặp tự động hỗn hợp
(HARQ). Trong chế độ gia tăng nhân đôi, khối dữ liệu RLC đầu tiên có thể truyền đi
với một vài hoặc không có sự nhân đôi nào được thêm vào. Nếu một khối dữ liệu
không thể được giải mã một cách chính xác, trong lần truyền dẫn tiếp theo, sự nhân
đôi nhiều hơn được gửi đi, áp dụng một mô hình puncturing khác trên cùng một khối
RLC. Các khối lỗi được lưu lại, chúng có thể được kết hợp với mỗi lần truyền lại
được yêu cầu, cho đến khi RLC được giải mã đúng.
Lớp RLC/MAC đã được cải tiến với các chức năng ánh xạ RLC/burst riêng.
Lớp RLC/MAC được cải tiến cho phép sự tái phân đoạn để tái truyền dẫn với các mô
hình mã hóa khác nhau, cho phép việc mã hóa độc lập của các header RLC/MAC và
làm tăng kích thước cửa sổ ACK/NACK. Với sự phân đoạn, mỗi LLC PDU bị bẻ gãy
trong 20 ms để nối cấu trúc khối TDMA của GSM. Phụ thuộc vào mô hình mã hóa
được chọn bởi liên kết điều chỉnh, số lượng của các bit mà đặt trong một khối dữ liệu
RLC có thể thay đổi. Các header RLC/MAC được nối thêm tới dữ liệu người dùng
trước khi truyền đi. Nội dung của các header RLC/MAC bao gồm một số thứ tự khối
BSN, và một bộ chỉ báo Puncturing và mã hóa CPS, điều này được yêu cầu cho quá
trình mã hóa kết hợp trong phương thức HARQ. Sau đó, các chuỗi kiểm tra cho dữ
liệu người dùng BSC được truyền xuống lớp vật lý. Dữ liệu người dùng và header
được mã hóa một cách riêng biệt và cuối cùng được ánh xạ tới hai hoặc bốn khối tín
hiệu TDMA, phụ thuộc vào mô hình mã hóa. Mô hình điều chế và mã hóa có thể
được thay đổi cho mỗi khối RLC. Tuy nhiên, sự điều chế sẽ dựa trên việc quản lý chất
lượng kênh và sự thay đổi sẽ xảy ra, trong thực tế, thì phụ thuộc vào sự đo đạc kênh
và báo cáo tần số.
3. Ảnh hưởng của EDGE trên kiến trúc hệ thống GSM
Tốc độ dữ liệu được nâng cấp áp đặt mộ yêu cầu mới cho kiến trúc mạng
GSM/GPRS: Vấn đề chính của EDGE trong GSM là giao diện Abis giữa BTS và BSC.
Trong chuẩn GSM, giao diện này hỗ trợ chỉ tốc độ 16 kbit/s trên một kênh lưu lượng.
Tuy nhiên, EDGE có thể hỗ trợ tốc độ 64 kbit/s cho một kênh lưu lượng. Do đó,
EDGE yêu cầu sự phân bổ nhiều khe Abis tới một kênh lưu lượng. Trong kiến trúc
mạng 3G, yêu cầu này được đáp ứng bởi áp dụng giải pháp ATM hoặc IP. Giao diện
A giữa BSC và MSC có thể điều khiển tốc độ 64kbit/s trong chuẩn GSM và do đó
không có vấn đề gì. Một điều khác nữa là, kiến trúc mạng GSM/GPRS thì không bị
tác động bởi việc đưa ra EDGE. Điều này là bởi vì thực thế rằng EDGE là một sự cải
tiến về kĩ thuật không gian. Có hai kiểu thiết bị EDGE khác nhau được xem xét trong
chuẩn là: các thiết bị đầu cuối có khả năng điều chế 8-PSK trên đường xuống và các
thiết bị đầu cuối ó khả năng điều chế 8-PSK trên cả đường lên và đường xuống. Lớp
đầu tiên của thiết bị đầu cuối có lợi nhuận từ các tốc độ dưc liệu cao trên đường
xuống, bởi vì sự phổ biến của các dịch vụ mà có lượng dữ liệu xuống cao như trình
duyệt và tải tệp tin. Lớp thứ hai của các thiết bị đầu cuối có thể hỗ trợ băng thông cao
trên cả đường lên và đường xuống, điều này tạo ra ý nghĩa sử dụng tài nguyên tần số,
đặc biệt đối với các dịch vụ không đối xứng. Sự cần thiết để có dung lượng thông tin
này trong mạng, có một vài sự bổ trợ trên các lớp điều khiển: Sự quản lý điều chế di
động có sự liên quan tới sự đưa ra dung lượng thông tun EGPRS của các thiết bị đầu
cuối. Điều này bao gồm lớp đa khe như các khả năng điều chế EDGE và bổ xung
trong 8-PSK. Một vài sự điều chế cũng được yêu cầu trên lớp RRM cho việc hỗ trợ,
thiết lập, duy trì các luồng khối tạm thời EGPRS. Ngoài ra, báo hiệu để hỗ trợ điều
khiển liên kết, điều khiển chất lượng liên kết và các phương thức đo đạc cũng được
đưa ra. Tuy nhiên, chúng lại không có tác động trong quản lý phiên làm việc.
4. ECSD và EGPRS
EDGE có thể được dùng để cải tiến các dịch GPRS và HSCSD trong hệ thống
GSM. Kết hợp với EDGE, GPRS trở thành EGRPS. Tương tự, HSCSD trở thành
ECSD. Tốc độ dữ liệu có thể đạt được khi tiến hành kết hợp được thể hiện trong bảng
8.9 và 8.10. Tốc độ dữ liệu lớn nhất đạt được trong EGPRS khi mô hình điều chế 8-
PSK được kết hợp với một tốc độ mã. Điều này yêu cầu các điều kiện kênh truyền tốt,
vì tốc độ mã thì không có sự bảo vệ lỗi. Do đó, hiếm khi cho phép áp dụng kĩ thuật
này, trừ phi, ứng dụng cho phép các gói suy hao trong một phạm vi lớn. Tốc độ dữ
liệu mà có thể đạt được với EGPRS và ECSD có được các giá trị trong các bảng khi
một vài khe thời gian được kết hợp với nhau.
Liên kết điều chỉnh cho EGPRS và ECSD yêu cầu báo hiệu riêng biệt, Với
mục đích này, các bộ phận báo hiệu đang tồn tại thì được áp dụng, đặc biệt là phương
thức điều chỉnh chế độ kênh RR, phương thức gán, phương thức chuyển giao liên
cùng cell.

You might also like