You are on page 1of 4

Mác bê tông

Khi nói đến mác bê tông là nói đến khả năng chịu nén của mẫu bê tông.
Theo tiêu chuẩn xây dựng hiện hành của Việt Nam (TCVN 3105:1993, TCVN
4453:1995), mẫu dùng để đo cường độ là một mẫu bê tông hình lập phương có
kích thước 150 mm × 150 mm × 150 mm, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu
chuẩn quy định trong TCVN 3105:1993, trong thời gian 28 ngày sau khi bê tông
ninh kết. Sau đó được đưa vào máy nén để đo ứng suất nén phá hủy mẫu (qua
đó xác định được cường độ chịu nén của bê tông), đơn vị tính bằng MPa
(N/mm²) hoặc daN/cm² (kg/cm²).

Trong kết cấu xây dựng, bê tông chịu nhiều tác động khác nhau: chịu nén, uốn,
kéo, trượt, trong đó chịu nén là ưu thế lớn nhất của bê tông. Do đó, người ta
thường lấy cường độ chịu nén là chỉ tiêu đặc trưng để đánh giá chất lượng bê
tông, gọi là mác bê tông.

Mác bê tông được phân loại từ 100, 150, 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Khi nói
rằng mác bê tông 200 chính là nói tới ứng suất nén phá hủy của mẫu bê tông
kích thước tiêu chuẩn, được dưỡng hộ trong điều kiện tiêu chuẩn, được nén ở
tuổi 28 ngày, đạt 200 kG/cm². Còn cường độchịu nén tính toán của bê tông mác
200 chỉ là 90 kG/cm² (được lấy để tính toán thiết kế kết cấu bê tông theo trạng
thái giới hạn thứ nhất).

Ngày nay người ta có thể chế tạo bê tông có cường độ rất cao lên đến 1000
kg/cm².

Ở các quốc gia khác nhau quy định kích thước mẫu có thể khác nhau. Theo tiêu
chuẩn Mỹ, mẫu bê tông hình trụ tròn đường kính 150 mm, chiều cao 300 mm (thí
nghiệm nén dọc trục). Để các tiêu chuẩn được tương đương cần có hệ số quy
đổi.

Cách xác định mác bê tông

Để xác định mỗi mác bê tông thực tế, tối thiểu cần phải có một tổ mẫu lấy tại
hiện trường, gồm 3 mẫu bê tông đồng nhất (về vị trí và cách thức lấy mẫu, về
điều kiện dưỡng hộ). Đối với các kết cấu lớn, các tổ mẫu trên cùng một kết cấu
phải ở những vị trí khác nhau và số lượng của chúng đủ lớn để mang tính đại
diện được cho toàn bộ kết cấu đó. Giá trị trung bình của ứng suất nén tại thời
điểm phá hủy (do nén mẫu) của cả 3 mẫu trong tổ mẫu, được lấy để xác định
mác của bê tông (tuổi 28 ngày). Nếu thời điểm nén tổ mẫu không phải là 28 ngày
sau khi bê tôngninh kết (thường là 3 hay 7 ngày sau), thì mác bê tông được xác
định gián tiếp qua biểu đồ phát triển cường độ bê tông chuẩn tương ứng. Các
kết quả nén mẫu ở tuổi 3 hay 7 ngày là các kết quả kiểm tra nhanh, chưa chính
thức. Kết quả nén mẫu ở tuổi 28 ngày mới được coi là mác của bê tông thực tế.
Kết cấu bê tông tại chỗ được coi là đạt yêu cầu về mác thiết kế (quy định trong
thiết kế) khi giá trị trung bình của từng tổ mẫu (mác thực tế) không được nhỏ
hơn mác thiết kế, nhưng đồng thời phải không có mẫu nào trong các tổ mẫu có
kết quả thí nghiệm dưới 85 % mác thiết kế.

Quy định về lấy mẫu bê tông

Theo tiêu chuẩn Việt Nam về thi công và nghiệm thu bê tông và bê tông cốt thép
toàn khối hiện hành, TCVN 4453:1995 thì việc lấy mẫu được quy định như sau:

 Đối với bê tông thương phẩm thì ứng với mỗi mẻ vận chuyển trên xe
(khoảng 6÷10 m³) phải lấy một tổ mẫu, tại hiện trường công trình trước khi đổ
bê tông vào khuôn;
 Trường hợp đổ bê tông kết cấu đơn chiếc, khối lượng ít (<20 m³) thì lấy
một tổ mẫu;
 Đối với kết cấu khung và các loại kết cấu mỏng (cột, dầm, bản, vòm...) thì
cứ 20 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu;
 Đối với bê tông móng máy khối lượng khoang đổ (phân khu bê tông) > 50
m³ thì cứ 50 m³ bê tông lấy một tổ (nếu khối lượng bê tông móng máy ít hơn
50 m³ vẫn phải lấy một tổ);
 Các móng lớn, thì cứ 100 m³ lấy một tổ mẫu, nhưng không ít hơn 1 tổ
mẫu cho mỗi khối móng;
 Đối với bê tông nền, mặt đường (đường ô tô, sân bay,..) thì cứ 200 m³ bê
tông phải lấy một tổ mẫu (nhưng nếu khối lượng < 200 m³ thì vẫn phải lấy
một tổ).
 Đối với bê tông khối lớn:

Khi khối lượng bê tông đổ trong mỗi khoang đổ (phân khu bê tông) ≤ 1000
m³ thì cứ 250 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu
Khi khối lượng bê tông đổ trong mỗi khoang đổ (phân khu bê tông) > 1000
m³ thì cứ 500 m³ bê tông phải lấy một tổ mẫu.
- Theo các TCVN ,cũng là dịch tù Tiêu chuẩn Liên xô cũ,
+ Mác BT tương úng với xác suất P=0,5.
+ Cường độ tiêu chuẩn úng với xác suất P=0.95,
+ Cường độ tính tóan úng với xác suất P=0,9986.
+ Dùng mẫu vuông 15x15x15 cm.
+ Đơn vị đo là KG/cm2.

Nhu vậy kỹ su thiết kế quan tâm đến Mac BT và Cường độ tính tóan.
Nhà Thầu và Tu vấn giám sát quan tâm đến Mác BT.
Nhà khoa học viết Tiêu chuẩn quan tâm đến cả 3 đại lượng nói trên

- Theo các TC của Pháp như BAEL, BPEL, của Mỹ như ACI và AASHTO, AASHTO
LRFD:
+ không có khái niệm mác BT theo cường độ chịu nén
+ dùng fc = cường độ đặc trung BT, ứng với xác suất P=0,95
+ không có khái niệm cường độ tính tóan , nhưng trong công thúc tính duyệt mặt cắt có
dùng 0,85 fc
+ dùng mẫu trụ tròn 15x30 cm ( có thể khác đôi chút tùy nước)
+ đơn vị đo là N/mm2 = MPa

- Bây giờ ở Việt nam có khi kỹ sư thiết kế quy định BT cấp 35 MPa theo Tiêu chuẩn Mỹ,
Nhà thầu và Tư vấn giám sát muốn dùng khuôn mẫu vuông và chọn cấp phối, nghiệm thu
theo kết quả nén mẫu trung bình ( nôm na là xác suất P=0,5), tính theo đơn vị KG/cm2
thì cần chuyển đổi vài lần.
+ đầu tiên là đổi đơn vị, dễ nhất trí rồi, ví dụ gần đúng 35MPa = 350 KG/cm2
+ tiếp theo là đổi xác xuất P=0.95 sang xác xuất P= 0.5. Việc này phải có thí nghiệm và
xử lý thống kê vì phụ thuộc trình độ công nghệ của mỗi Nhà thầu và trình độ chung của
mỗi quốc gia nữa.Tiêu chuẩn ACI của Mỹ cho công thúc tính cường độ nén trung bình
cần có của các mẫu thử (fr) tính suy ra từ trị sô cấp BT (fc) mà Kỹ sư thiết kế yêu cầu.
công thúc này đòi hỏi biết hệ số biến sai mẫu thử (phản ánh trình độ công nghệ). có sách
cho lấy gần đúng một trị số nào đó chấp nhận được
+ rồi đến việc đổi tù kết quả nén mẫu trụ sang mẫu vuông. Cũng lại cần có thí nghiệm tại
dụa án với đúng cấp phối đang xét, xây dựng đường cong quan hệ giữa cường độ vuông
và cường độ lăng trụ. Sau đó mới suy diễn được. lại cũng ci\í sách cho trị số gần đúng để
dùng tạm.

Vậy là tổng hợp lại, nếu gần đúng thì nhân với hệ sô 13 là gần đúng,nếu quyết tâm không
làm thí nghiệm. Ví dụ
- cấp BT 35 MPa (mẫu trụ, xác suất 0.95) có thể đổi gần đúng thành mác BT 450
KG/cm2 (mẫu vuông, xác suất 0,5)

You might also like