You are on page 1of 74

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I


***********

BÙI THỊ HƯƠNG

ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG


CỦA CÁC CẤP HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

Thái Bình, tháng 8/2014


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG, 5
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN VIỆT NAM
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí 5
Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ
nữ và công tác vận động phụ nữ.
2. Sự cần thiết phải đổi mới nội dung phương thức hoạt động 11
của Hội LHPN.
3. Chỉ đạo của TW hội LHPN Việt Nam về đổi mới nội dung 13
và phương thức hoạt động của hội.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT 21
ĐỘNG CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY
1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế, văn hoá, 21
xã hội của tỉnh Thái Bình.
2. Thực trạng nội dung và phương thức hoạt động của hội 2
LHPN tỉnh Thái Bình.
3. Đánh giá chung về những thành tựu đạt được, những hạn chế 41
và nguyên nhân.
4. Bài học kinh nghiệm. 44
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG 46
THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI
GIAN TỚI
1. Mục tiêu công tác hội và phong trào phụ nữ 46
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới nội dung và phương 48
thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong thời gian tới:
3. Kiến nghị 59
PHẦN KẾT LUẬN 62
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

ii
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Khi sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá phụ nữ Việt Nam, qua
bức thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ
8/3/1952: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ, trẻ cũng như già, ra sức
dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".
Gần 40 năm đất nước độc lập, thống nhất, phụ nữ Việt Nam đang hòa
mình cùng dân tộc vững vàng trên con đường hội nhập. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, các tầng lớp phụ nữ trên khắp mọi miền đất nước
đã và đang đoàn kết phấn đấu, năng động, sáng tạo, tự tin phát huy sức mạnh
nội lực, giá trị truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, hoàn
thành trọn vẹn thiên chức người phụ nữ, viết tiếp những trang sử vàng của đất
nước, của dân tộc đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước.
Phụ nữ Việt Nam ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Trình độ học
vấn, kỹ năng nghề nghiệp, địa vị của phụ nữ trong gia đình và xã hội được
nâng lên. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng được thực hiện đầy đủ hơn. Đời
sống vật chất, tinh thần và sức khoẻ của đại bộ phận chị em được cải thiện.
Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt
trong phong trào phụ nữ, phát huy vai trò đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng cho phụ nữ. Các cấp Hội đã không ngừng đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành
những chính sách, luật pháp có ý nghĩa chiến lược về công tác phụ nữ, cán bộ
nữ và bình đẳng giới. Với phương châm hướng về cơ sở, tập trung cho các
vùng trọng điểm, vùng dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều
khó khăn, các cấp Hội đã xây dựng được nhiều mô hình mới, tổ chức nhiều
hoạt động thiết thực chăm lo, bảo vệ phụ nữ, phù hợp với nhu cầu, tình cảm,
nguyện vọng của đông đảo hội viên.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN
Việt Nam còn không ít những khó khăn, thách thức:
Phong trào phụ nữ phát triển chưa đồng đều ở các vùng miền. Trình độ
của phụ nữ còn thấp; cơ hội có việc làm còn hạn chế. Đời sống và sức khoẻ
của một bộ phận phụ nữ còn nhiều khó khăn. Tình trạng nghèo đói, bất bình
đẳng giới và bạo lực gia đình đối với phụ nữ còn diễn ra ở nhiều nơi. Phẩm
chất đạo đức và một số giá trị truyền thống tốt đẹp có phần bị mai một. Tỉ lệ
nữ tham gia lãnh đạo, quản lý, tham gia các cơ quan dân cử còn thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng và lực lượng lao động nữ.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, vận động, hướng dẫn phụ nữ xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc còn hạn chế. Chất lượng
tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, công tác giám sát việc thực hiện chế
độ, chính sách liên quan đến phụ nữ-trẻ em gặp nhiều khó khăn về cơ chế
phối hợp. Hiệu quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình "No ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" chưa đạt được mong muốn. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuẩn hoá cán bộ Hội theo chức danh còn hạn chế.
Những khó khăn, hạn chế nêu trên có rất nhiều nguyên nhân và một
trong những nguyên nhân của những hạn chế trên đó là: Việc đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động của Hội chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết
hiệu quả một số vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức
xúc liên quan tới phụ nữ. Chỉ đạo của Hội ở một số nơi chưa chú trọng
đúng mức việc lựa chọn vấn đề ưu tiên, còn thiếu các giải pháp cụ thể phù
hợp với đặc thù đối tượng, vùng miền. Trình độ, năng lực, tư duy của một
bộ phận cán bộ Hội chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công tác vận động
phụ nữ trong tình hình mới.
Hội LHPN tỉnh Thái Bình cũng có những thành tựu và còn những hạn
chế như trên. Ngoài ra với đặc thù là một tỉnh nông nghiệp, công tác hội phụ
nữ tỉnh Thái Bình còn có những hạn chế như: Công tác tuyên truyền giáo dục
mới quan tâm đến bề rộng, thiếu chiều sâu, hình thức tuyên truyền chưa đa
dạng; nội dung sinh hoạt chi, tổ phụ nữ chưa thiết thực; các hoạt động đem lại
quyền lợi thiết thực cho phụ nữ chưa đáp ứng được mong muốn của đông đảo
hội viên; tác phong, lề lối làm việc của một bộ phận cán bộ đặc biệt cán bộ
hội cơ sở chưa thực hiện nghiêm túc; việc chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm và
nhân diện còn hạn chế... Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên là do cấp
hội chưa mạnh dạn, chưa chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
để đáp ứng với nguyện vọng của hội viên, phụ nữ.
Bởi vậy việc nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện
nay là hết sức quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động hội theo hướng
vận động phát triển phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã
hội của địa phương trên tinh thần cụ thể hoá nghị quyết Đại hội Đảng, nghị
quyết Đại hội phụ nữ các cấp đề ra.
Với tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với công tác hội phụ nữ, cùng
với kiến thức được học và sự tích luỹ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của
bản thân, tôi chọn đề tài “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
các cấp hội phụ nữ Thái Bình trong giai đoạn hiện nay ” làm luận văn tốt
nghiệp chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính khóa 6 (2012-2014).
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục tiêu của đề tài:
Trên cơ sở lý luận của vấn đề đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của Hội LHPN trong tình hình hiện nay, đề tài sẽ phân tích, đánh giá
thực trạng về nội dung và phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái
Bình, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới nội dung và phương

3
thức hoạt động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ
công tác phụ nữ trong giai đoạn mới.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN.
- Đánh giá thực trạng nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN
tỉnh Thái Bình.
- Đề ra một số giải pháp cơ bản đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Giới hạn của đề tài:
Do hạn chế về mặt thời gian và khả năng nên tôi chỉ chọn:
- Phạm vi về địa bàn: Tỉnh Thái Bình.
- Nội dung: vấn đề đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Thái Bình.
- Thời gian: năm 2007 đến nay (trọng tâm 2011 – 2013).
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Về phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và
phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với việc
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
về vai trò, vị trí công tác phụ nữ.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Đề tài này sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê, phân tích tài liệu, điều tra khảo sát,
phân tích tổng hợp, thống kê so sánh... để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được kết cấu làm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Chương II: Thực trạng nội dung, phương thức hoạt động của Hội
LHPN tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2013.
- Chương III: Một số giải pháp đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn tới.

4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI
NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LHPN VIỆT NAM

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ nữ và công
tác vận động phụ nữ.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phụ nữ và giải phóng
phụ nữ.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Trong xã hội loài người, người phụ nữ
là cái nôi nối tiếp cho sự sống muôn đời, là người thầy đầu tiên của con người, là
một trong những nguồn lực chính để thúc đẩy phát triển mỗi quốc gia, dân tộc
cũng như toàn xã hội. Đánh giá về vị trí, vai trò của phụ nữ, lịch sử đã đúc kết
rằng: Sẽ không có nhân loại, không có hạnh phúc nếu không có phụ nữ.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã đặc biệt quan tâm đến vai trò, vị thế của phụ
nữ và vấn đề giải phóng phụ nữ trong xã hội. Với tư tưởng tiến bộ biện chứng
và hết sức nhân văn khi nghiên cứu luận giải chỉ ra nguồn gốc tình cảnh người
phụ nữ bị áp bức bóc lột, nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ, Các Mác
đã đánh giá cao vai trò của phụ nữ và cho rằng: “Mức độ giải phóng phụ nữ
là một trong những thước đo đánh giá trình độ văn minh của xã hội” 1 . Khi
chỉ ra điều kiện, biện pháp để giải phóng phụ nữ, nhằm động viên lực lượng
lao động nữ tham gia vào sự nghiệp cách mạng, Ăng ghen viết: “ Sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đều không thể có được
chừng nào mà phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất xã hội và còn
phải bị bó hẹp trong việc riêng tư gia đình.” 2. “ Điều kiện tiên quyết để giải
phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội” 3.

1,2
2
Các Mác, - Ăng ghen tuyển tập, tập 6-NXB sự thật HN 1984, Tr248
3
Các Mác và Ăng ghen (2006) tuyển tập, tập 6-NXB chính trị quốc gia Hà Nội, Tr115

5
Làm thế nào để giải phóng được người phụ nữ cả trong gia đình lẫn
ngoài xã hội? Theo Mác và Ăng ghen, chẳng có con đường nào khác ngoài việc
xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thủ tiêu sự lệ thuộc kinh tế
của người phụ nữ đối với nam giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
Mác và Ăng ghen chỉ ra là phải “Kéo người đàn bà thoát khỏi vai trò hiện nay
của họ là: vai trò một công cụ sản xuất giản đơn” và “Với sự xóa bỏ chế độ
sản xuất hiện đại ( tức là chế độ tư bản) thì dĩ nhiên chế độ cộng thê do chế độ
sản xuất ấy đẻ ra ... sẽ biến mất”. Bên cạnh đó, phải làm cho toàn bộ nữ giới
trở lại tham gia nền sản xuất xã hội, không cột chặt họ vào công việc gia đình nữa.
Lênin - Nhà lãnh đạo tiêu biểu của Cách mạng Xã hội chủ nghĩa
( XHCN) đã phát triển quan điểm giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình
đẳng trong thời đại mới. Lênin đã chỉ ra “ ... dưới chế độ tư bản thì phụ nữ,
tức một nửa nhân loại, phải chịu hai tầng áp bức. Nữ công nhân và nữ nông
dân đều bị tư bản áp bức và ngoài ra, họ còn ... bị giam hãm trong cảnh “nô
lệ gia đình” 4.
“ Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được quyền tự do tham gia
đời sống chính trị nói chung mà cũng chưa được quyền gánh vác một công
việc thường xuyên và chung cho cả mọi người, thì chừng ấy chưa thể nói đến
chủ nghĩa xã hội được mà cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ
toàn vẹn và bền vững được”5. “ Không thể nào đảm bảo được tự do thực sự,
không thể nào xây dựng được ngay cả chế độ dân chủ – chứ đừng nói chủ
nghĩa xã hội , - nếu phụ nữ không tham gia công tác xã hội, đội dân cảnh,
sinh hoạt chính trị, nếu không giải thoát phụ nữ khỏi tình cảnh làm cho người
ta mụ mẫm đi, tức là công việc nội trợ và bếp núc”. Lênin đã kêu gọi phụ nữ

4
Vấn đề giải phóng phụ nữ: Mác - Ăng ghen – Lênin – Xtalin, NXB Sự thật, Hà nội 1967, tr.38-39.
5
Lênin toàn tập, tập 24-NXB sự thật Matxơcơva-1976, Tr73, 74

6
đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tự giải
phóng mình.
Bằng thực tiễn và hành động cách mạng xã hội các nhà sáng lập ra Chủ
nghĩa xã hội (CNXH) khoa học, sáng lập và phát triển Chủ nghĩa Mác- Lênin
chân chính đều quan tâm tìm kiếm, phân tích, lý giải và chỉ ra những biện
pháp, con đường tiến tới giải phóng phụ nữ. Các ông đã gặp nhau ở một điểm
cơ bản, cho rằng phụ nữ muốn khẳng định được mình, muốn bình đẳng với
nam giới họ cần phải trở thành lực lượng lao động xã hội để có được vị thế
kinh tế, từ đó họ mới có điều kiện để cải thiện địa vị của mình trong gia đình
và ngoài xã hội. Bên cạnh đó còn phải có những điều kiện tiên quyết là xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, giảm bớt các gánh nặng công
việc gia đình cho họ, có như vậy công cuộc giải phóng phụ nữ mới có khả
năng trở thành hiện thực.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ và giải phóng phụ nữ.
Với quan điểm cách mạng và tư tưởng nhân văn sâu sắc, Hồ Chí Minh
đã sớm nhận thấy vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và ngoài
xã hội. Người đã từng nói: “ Xem trong lịch sử cách mạng chẳng có lần nào
là chẳng có đàn bà con gái tham gia” 6. Vì vậy theo Người, đối với Việt Nam
“ Cách mạng cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”7
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã viết rất
nhiều, nói rất nhiều đến phụ nữ và đề ra những cách thức hữu hiệu để giải
phóng người phụ nữ Việt Nam. Người khẳng định: “Phụ nữ Việt Nam là một
lực lượng xã hội to lớn, chiếm phần nửa xã hội”; “Trong cuộc kháng chiến to
lớn của dân tộc ta, phụ nữ gánh vác một phần quan trọng ...”; “ ... Non sông
gấm vóc Việt Nam do phụ nữ trẻ cũng như già ra sức thêu dệt mà thêm tốt

6,5
HCM toàn tập, tập 2-NXB sự thật HN-1984, Tr217,219
7

7
đẹp, rực rỡ”8. Người nói " Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam chí Bắc, từ trẻ
đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật anh hùng". Vậy nên trong đường lối lãnh
đạo của mình, Người luôn quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ, bởi theo
Người: " Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ là
chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa"9
Khi cách mạng thành công, với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, trong Hiến pháp năm 1946 do Người soạn thảo đã ghi rõ: “Phụ
nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông, được hưởng chung mọi
quyền tự do của một công dân”10
Sắc lệnh 02/LSL do Hồ Chí Minh ký ngày 13/01/1960 công bố Luật hôn
nhân gia đình cũng khẳng định: Luật lấy vợ, lấy chồng là nhằm giải phóng phần
nửa xã hội và xác định “Đây là cuộc cách mạng, một bộ phận không thể của
XHCN” và là “cuộc cách mạng to lớn” nhưng “ dù to và khó nhất định phải
thành công”. Phương thức cơ bản để giúp phụ nữ phát triển, theo Người là động
viên, tạo điều kiện cho chị em nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật và
tay nghề chuyên môn, quan tâm đến công tác phát triển Đảng trong quần chúng
phụ nữ, bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt phụ nữ vào các chức vụ lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, xã hội Việt Nam đã có những bước tiến
dài nhưng tư tưởng rất khoa học và cũng rất nhân văn của Người mãi mãi là
bó đuốc sáng ấm áp, soi đường sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Hồ Chí Minh
coi cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ nằm trong cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và khẳng định vai trò, sức
mạnh to lớn của phụ nữ, Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần Đảng, Chính phủ
phải quan tâm tạo điều kiện để phụ nữ được bình đẳng, bình quyền với nam
giới góp sức vào công cuộc xây dựng nước nhà nhưng điều căn bản nhất, cốt
lõi nhất là phụ nữ phải luôn phấn đấu, không ngừng vươn lên tự khẳng định
8,7
9
HCM toàn tập, tập 6-NXB Chính trị Quốc gia-1995, Tr97,431
10
HCM toàn tập, tập 4-NXB Chính trị Quốc gia-1995, Tr440

8
vai trò, vị thế của mình và đấu tranh không ngừng để tự giải phóng mình. Là
chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là người đầu tiên đặt nền
móng cho việc giải phóng phụ nữ Việt Nam thành hiện thực.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai trò của phụ nữ,
công tác vận động phụ nữ và đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
Đảng ta luôn xác định sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Vì vậy ngay từ
khi ra đời Đảng đã quan tâm chỉ đạo thành lập tổ chức hội LHPN Việt Nam.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng xây dựng đất nước, Đảng luôn quan
tâm chăm lo đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, chăm lo đào tạo phát triển cán
bộ nữ, cán bộ hội, chăm lo đến công tác kiện toàn xây dựng củng cố các cấp
hội, điều đó được thể hiện rất nhiều trên các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, hiến
pháp, các văn kiện đại hội Đảng thông qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng.
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 đều khẳng định rằng: phụ nữ được hưởng mọi quyền bình
đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội... Trong từng thời kỳ cách mạng, các quan điểm đó được thể chế
thành các văn bản, hệ thống pháp luật và các cơ chế, chính sách, tăng tỷ lệ nữ
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Đó là điều kiện quan trọng để phụ
nữ phấn đấu vươn lên phát huy vai trò vị trí của mình trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước và là điều kiện để thực hiện tốt quyền bình đẳng,
dân chủ của phụ nữ. Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua năm 1994 đã
dành riêng một chương quy định các chế độ chính sách về lao động nữ. Trong
từng giai đoạn và các nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng đều có các chỉ
thị, nghị quyết về công tác phụ vận như: Chỉ thị 44-CT/TW ngày 07/6/1984
của Bộ chính trị về “ Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị

9
quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ chính trị về "Đổi mới và tăng
cường vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị 37-CT/TW ngày
16/5/1994 của Bộ chính trị về “ Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình
hình mới” và gần đây nhất là Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nghị quyết đưa ra 4 quan điểm về công tác phụ nữ và đề ra mục
tiêu, 5 nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác phụ nữ.
Ngày 29/11/2006 Quốc hội đã ban hành Luật Bình đẳng giới nhằm tiếp
tục thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đồng thời
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ,
xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng như thu hẹp khoảng cách giới
trên thực tế. Sự ra đời của luật bình đẳng giới còn thể hiện quyết tâm của
Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện cam kết quốc tế mà Việt Nam là
thành viên trong đó có công ước CEDAW, cương lĩnh hành động toàn cầu vì
sự tiến bộ của phụ nữ và các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam khoá XII thông qua ngày 21/11/2007 với một trong những
quan điểm là bảo đảm quyền con người, nhất là đối tượng yếu thế như phụ
nữ, trẻ em và để đảm bảo thực hiện cam kết quốc tế nhất là công ước về
chống mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - công ước CEDAW.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2003/NĐ-CP quy định trách
nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các
cấp hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước...
Trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến phát huy dân
chủ trong xã hội, đó chính là điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền bình đẳng
nam - nữ, đồng thời tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, pháp luật,

10
chính sách có liên quan đến phụ nữ ... có tác dụng thực hiện mục tiêu vì sự
bình đẳng và phát triển của phụ nữ.
2. Sự cần thiết phải đổi mới nội dung phương thức hoạt động của
Hội LHPN.
2.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Hội LHPN Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức
phụ nữ ASEAN (Hiệp Hội các nước Đông Nam á). Hội tham gia tích cực
trong các hoạt động vì hoà bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ
xã hội trên toàn thế giới.
Mục đích của Hội là hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ
nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến Hội LHPN Việt Nam ngày nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết các tầng lớp phụ
nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang, tài năng, trí tuệ góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội LHPN Việt Nam có chức năng: Đại diện cho quyền bình đẳng,
dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà
nước, tham gia xây dựng Đảng; Đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ thực
hiện đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội LHPN Việt Nam có nhiệm vụ:
+ Tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về công tác vận động phụ
nữ, cán bộ nữ; tham gia xây dựng và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách
liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ nhằm thực hiện
quyền bình đẳng và phát triển.

11
+ Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức cho phụ nữ; vận động, tạo
điều kiện để phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt, tích
cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng,
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
+ Xây dựng Hội vững mạnh về tổ chức, phát triển và nâng cao chất
lượng cán bộ, hội viên, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
2.2. Yêu cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của hội LHPN.
- Xuất phát từ đường lối đổi mới của Đảng và sự chỉ đạo của Đảng.
Từ nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI ( năm 1986) đến nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng đã không ngừng đề ra các chủ trương
đổi mới. Trong nghị quyết số 04/NQ-TW năm 1993 của Bộ chính trị về đổi mới
và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, một trong sáu công
tác lớn của công tác vận động phụ nữ được Đảng xác định là " Đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam". Trong nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhấn mạnh " …Các cấp hội LHPN Việt Nam
cần đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động….".
- Xuất phát từ Chính phủ đã tiến hành đổi mới quản lý Nhà nước,
quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, tăng cường vai trò tham gia quản lý
Nhà nước của các tổ chức chính trị xã hội.(Chính phủ đã ban hành Nghị định
19/2003/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp trong việc bảo đảm cho các cấp hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý
Nhà nước.)
- Từ yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế đòi hỏi nguồn nhân lực mới có trình độ chuyên môn, tay nghề
cao, có trình độ quản lý kinh tế giỏi, quản lý gia đình tốt… đang là thách thức
quyết liệt mà mọi người dân trong đó có phụ nữ phải đối mặt.

12
2.3. Yêu cầu chủ quan của tổ chức Hội đòi hỏi phải đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Hội LHPN.
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức Chính trị xã hội trong hệ thống
chính trị, vì vậy hội phải đổi mới để làm tốt chức năng, nhiệm vụ đoàn kết,
vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; tham gia quản lý Nhà nước; tham gia xây dựng, kiểm tra
giám sát việc thực hiện chính sách, tham gia xây dựng Đảng.
Xu thế hội nhập quốc tế, hội nhập của phong trào phụ nữ trên thế giới
ngày càng tác động vào các tầng lớp phụ nữ, hoạt động của hội cũng phải kịp
thời đổi mới để hoà với xu thế phát triển chung.
Xã hội phát triển, điều kiện khách quan của kinh tế xã hội thay đổi, đặc
biệt nền kinh tế hàng hoá, với cơ chế thị trường đã tạo nên sự phát triển đa dạng.
Đối tượng phụ nữ ngày càng đa dạng về ngành nghề, tầng lớp xã hội, về
trình độ, năng lực. Phụ nữ năng động hơn trong cách làm ăn, phụ nữ quan tâm
hơn đến thu nhập, lợi ích kinh tế. Nhu cầu và lợi ích của phụ nữ vì thế cũng
đa dạng và yêu cầu cao hơn so với trước. Quần chúng phụ nữ không chấp
nhận những hoạt động mang tính hình thức, kém hiệu quả. Vì vậy muốn tập
hợp, thu hút được đông đảo phụ nữ tham gia phong trào cách mạng thì tổ
chức hội phải liên tục đổi mới, liên tục tìm ra những nội dung phương thức
hoạt động phù hợp, hấp dẫn và phải đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của phụ nữ, đem lại lợi ích thiết thực cho phụ nữ.
Thực tế từ 1987 đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã không ngừng đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động và trở thành tổ chức chính trị xã hội đóng
góp tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước.
3. Chỉ đạo của TW hội LHPN Việt Nam về đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của hội.
3.1. Những căn cứ để Hội LHPN Việt Nam tiến hành đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của hội.
- Trước hết phải khẳng định đổi mới nội dung phương thức của hội phải
dựa trên quan điểm của Đảng về xây dựng đất nước và đổi mới tổ chức, hoạt
động của Mặt trận và các tổ chức quần chúng trong đó có hội phụ nữ:

13
Đổi mới của hội phải phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam “
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị- xã hội ổn
định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng
lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”(Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI)
Đổi mới của hội phải bám sát các bài học kinh nghiệm từ quá trình đổi
mới của Đảng và Nhà nước trong hai mươi lăm năm qua:
" Một là, trongbất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội...
Hai là, coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng, hoàn thiện
quan hệ sản xuất...
Ba là, coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội...
Bốn là, chăm lo, củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức...Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đọa, chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết,
sáng tạo, bám sát thực tiến đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với
tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuậncao, phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.(Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI).
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhận định: " Việc tuyên
truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ

14
quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở,"
và yêu cầu " Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ
chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành
chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ
sở chính trị của chính quền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ
chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại".
Nghị định số 8B-NĐ/HNTWƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI về đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân khẳng định: " Đổi mới nội dung hoạt động của các tổ chức quần
chúng vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên, cùng nhau chăm lo lợi ích thiết
thực của mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Từ việc đáp ứng lợi ích thiết thực về vất chất
và tinh thần, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của quần chúng mà tạo nên
sự gắn bó trong tổ chức, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và
trình độ mọi mặt của đoàn viên, hội viên, động viên mọi người làm tròn nghĩa
vụ đối với đất nước".
Về công tác tổ chức và hoạt động: " Thực hiện nguyên tắc tự quản, tự
lựa chọn cán bộ cho mình", " Hoạt động đúng hướng, đúng pháp luật và có
hiệu quả cao". Yêu cầu " cán bộ của Đoàn thể phải được lựa chọn từ phong
trào, có năng lực và có uy tín với quần chúng. Cần tích cực tinh giản bộ máy
chuyên trách của đoàn thể, coi trọng sử dụng cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ đoàn thể ở các cấp cần dành nhiều thời gian đi sát cơ sở, thực hiện
chế độ luân phiên làm việc ở cơ sở dài ngày. Khuyến khích cán bộ chuyên
trách công tác hẳn ở cơ sở. Chăm lo đời sống và đảm bảo điều kiện hoạt
động của cán bộ đoàn thể. Cấp trên cần hết sức chú ý giúp đỡ cơ sở, chú ý
đào tạo, bồi dưỡng chăm sóc cán bộ cơ sở của các đoàn thể".

15
- Yêu cầu đổi mới của Hội cũng phải: Đổi mới toàn diện, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách thức phù hợp. Phải vì lợi ích của các tầng lớp phụ
nữ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của phụ nữ, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới. Phải biết phát huy cao độ năng lực cán bộ, hội viên phụ nữ,
đồng thời biết khai thác sự hỗ trợ của cá nhân, các ban, ngành, đoàn thể trong
nước cũng như ngoài nước để tạo nên sức mạnh trong điều kiện mới nhất.
3.2. Đổi mới nội dung hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Đổi mới hoạt động trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá-
xã hội.
Nội dung hoạt động của Hội LHPN các cấp luôn đổi mới, sáng tạo, vừa
thực hiện được nhiệm vụ chính trị đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, vừa đáp ứng nhu cầu, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng phụ nữ.
+ Đổi mới hoạt động chính trị:
Hoạt động mang tính chính trị của hội LHPN Việt Nam nhằm bồi
dưỡng kiến thức về đường lối, luật pháp, chính sách; nâng cao ý thức, phẩm
chất chính trị của cán bộ, hội viên, phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ thực hiện quyền lợi
và nghĩa vụ chính trị. Những hoạt động cần thiết phải đổi mới:
Giúp nâng cao nhận thức chính trị: Chủ động tổ chức cho hội viên học
tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tuyên truyền vận động bầu cử phụ nữ vào các cơ quan dân cử. Vận động phụ
nữ thực hiện quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan dân cử.
Hỗ trợ để phụ nữ thực hiện quyền chính trị: Tổ chức tập huấn nâng cao
kiến thức, kỹ năng về bầu cử cho nữ ứng cử viên đại biểu quốc hội, nữ ứng cử
viên đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia xây dựng, kiểm tra giám
sát việc thực hiện luật pháp, chính sách, bình đẳng giới, thực hiện vai trò phản
biện xã hội; tổ chức các đợt vận động phụ nữ tham gia thực hiện quyền quản
lý nhà nước: bầu cử, ứng cử vào cơ quan dân cử; tăng cường bồi dưỡng kiến
thức, phẩm chất chính trị của cán bộ, hội viên; giới thiệu phụ nữ ưu tú để phát
triển Đảng viên; tham mưu quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ.

16
+ Đổi mới hoạt động kinh tế:
Hoạt động kinh tế của hội LHPN Việt Nam cũng luôn đổi mới nhằm
thiết thực đem lại lợi ích kinh tế, chăm lo đời sống vật chất cho phụ nữ, từ đó
thu hút hội viên để tiếp tục tuyên truyền giáo dục. Hoạt động kinh tế đang là
hoạt động đổi mới mạnh, hiệu quả của hội LHPN Việt Nam hiện nay.
Cần tổ chức tốt các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế như: Hỗ
trợ vốn, hướng dẫn sử dụng quay vòng vốn hiệu quả; dạy nghề, tạo việc làm ;
chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và cực nhỏ do phụ nữ làm chủ; phối hợp các ngành hỗ trợ phụ nữ xoá đói,
giảm nghèo; thực hiện các phong trào, các cuộc vận động giúp phụ nữ nghèo
thoát nghèo.
+ Đổi mới hoạt động văn hoá- xã hội:
Hoạt động văn hóa xã hội nhằm tập hợp phụ nữ đáp ứng nhu cầu đa
dạng theo sở thích, lứa tuổi của hội viên, phụ nữ. Nội dung hoạt động văn hóa
bao gồm các hoạt động góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
tham gia tuyên truyền, quảng bá văn hóa dân tộc.
Các cấp hội cần thực hiện tốt các hoạt động: Vận động phụ nữ tích cực
học tập nâng cao kiến thức về mọi mặt; vận động phụ nữ tham gia các hoạt
động: giữ gìn, bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp; xây dựng gia đình văn
hóa, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; phòng chống các dịch bệnh; phòng chống
tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực trong gia đình; phòng chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em; tham gia xây dựng các nơi vui chơi giải trí công
cộng, trạm xá, trường học...; thực hiện kế hoạch hóa gia đình; tham gia hòa
giải, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính
đáng cho phụ nữ; tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện.
Hình thức hoạt động theo các mô hình: Sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt
chuyên đề, giao lưu văn hoá, hội diễn, hội thi, tham quan, du lịch; thể dục thể
thao. Sử dụng đa dạng các phương tiện thông tin đại chúng: đài, tivi, sách, báo...

17
- Đổi mới nội dung công tác chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của phụ nữ:
Công tác chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ
phải thiết thực cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ trên cơ sở đi
sâu đi sát nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, đời sống, việc làm, thu nhập, sức
khoẻ phụ nữ … làm căn cứ đề ra nội dung và kế hoạch hoạt động.
Cần chủ động nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng các
văn bản pháp luật có liên quan đến bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ,
đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật đó. Vận động các tầng lớp phụ nữ và toàn xã hội, thực hiện xã hội hoá
công tác chăm lo quyền lợi, đời sống cho phụ nữ; đặc biệt chú trọng đến nội
dung chăm lo cho quyền bình đẳng, quyền dân chủ của phụ nữ thông qua
chức năng phản biện xã hội của tổ chức chính trị xã hội; chức năng đại diện
tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách của
Nhà nước, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
- Đổi mới nội dung công tác tuyên truyền giáo dục, vận động phụ nữ:
Chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức về mọi
mặt cho phụ nữ; giữ gìn phẩm chất đạo đức, truyền thống phụ nữ Việt Nam,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam
" có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống
văn hoá, có lòng nhân hậu".
Nội dung tuyên truyền giáo dục phong phú, đa dạng, phù hợp với các
đối tượng. Giáo dục nâng cao kiến thức về: Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; Kiến thức về kinh tế-xã hội, khoa học kỹ
thuật công nghệ mới...
Thực hiện xã hội hóa công tác tuyên truyền giáo dục vận động phụ nữ.
Vận động các ngành, các cấp tham gia các hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ
và bình đẳng giới.

18
- Đổi mới công tác tổ chức cán bộ:
Các cấp hội cần chủ động tham mưu cấp uỷ về công tác cán bộ: Xây
dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, cán bộ hội; tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ nữ, cán bộ hội theo quy hoạch; tích cực tham
mưu quy hoạch cán bộ nữ và phát triển đảng viên nữ với cấp uỷ.
Hệ thống hội cần tăng cường mở rộng tính liên hiệp, phát triển hội viên,
củng cố cơ sở hội vững mạnh; rà soát, sắp xếp đảm bảo bộ máy tổ chức tinh
gọn, hiệu quả.
3.3. Đổi mới phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam.
- Hoạt động chỉ đạo trong hệ thống Hội LHPN Việt Nam :
Mọi hoạt động của tổ chức Hội LHPN Việt Nam được chỉ đạo nhịp
nhàng, đảm bảo thông tin hai chiều từ Trung ương xuống cơ sở và ngược lại
từ cơ sở lên Trung ương.
Trung ương Hội LHPN Việt Nam có nhiệm vụ: Định hướng chủ trương,
lãnh đạo, chỉ đạo phong trào phụ nữ và công tác hội của các cấp hội; nhận thông
tin phản hồi, kiểm tra, giám sát từ hội phụ nữ cấp dưới; nghiên cứu tổng kết rút
kinh nghiệm, tiếp tục định hướng chỉ đạo phong trào phụ nữ và công tác hội.
Hội phụ nữ cơ sở có nhiệm vụ: Nghiên cứu định hướng Hội cấp trên và
nhu cầu phụ nữ ở địa phương để đề ra kế hoạch hoạt động phù hợp; tổ chức
thực hiện các hoạt động hội; tổng hợp, báo cáo cách làm, kết quả, bài học
kinh nghiệm với hội phụ nữ cấp trên.
- Phối hợp với các lực lượng xã hội:
Thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác vận động phụ nữ của đảng,
công tác vận động phụ nữ là trách nhiệm của toàn xã hội.
Hội phụ nữ cần phối hợp chặt chẽ chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể để xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục, chăm lo,
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của phụ nữ.
Cần hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan chức năng để lựa
chọn nội dung, biện pháp phối hợp hiệu quả; trong hoạt động phối hợp có sự

19
phân công trách nhiệm, kiểm tra, giám sát, sơ, tổng kết, đánh giá cụ thể, kịp
thời; hội phụ nữ cần chủ động hợp tác và hợp tác có hiệu quả.
- Chỉ đạo hoạt động theo các mô hình lồng ghép:
Mô hình lồng ghép là kết quả tổng kết các kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt
động phong trào. Đây là phương thức đang hoạt động rất hiệu quả ở các cấp
hội, đặc biệt ở cấp cơ sở.
Trong hoạt động theo mô hình lồng ghép cần phải lựa chọn các nội
dung hoạt động ở các chương trình có liên quan mật thiết, hỗ trợ tác động lẫn
nhau để lồng ghép với nhau. Cần xây dựng kế hoạch cụ thể khi thực hiện các
hoạt động lồng ghép, đặc biệt là phân công cán bộ có năng lực kiêm nhiệm,
có trách nhiệm cao, có khả năng tổng hợp phụ trách hoạt động lồng ghép. Cần
kiểm tra, giám sát, sơ tổng kết, đánh giá kịp thời để điều chỉnh và hỗ trợ các
hoạt động lồng ghép.
- Chỉ đạo theo các chương trình, nhiệm vụ, phong trào:
Phong trào thi đua và 6 nhiệm vụ trọng tâm do Đại hội phụ nữ các cấp
đề ra. Các tổ chức hội, căn cứ vào đặc thù địa phương và tùy từng thời điểm
để lựa chọn thực hiện nhiệm vụ cần ưu tiên cho phù hợp.
Trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác hội cần lập kế hoạch
hoạt động cụ thể, chỉ đạo sâu sát, đầu tư nguồn lực cần thiết thực hiện và sơ,
tổng kết, đánh giá theo chỉ đạo của hội cấp trên.
- Phương thức chỉ đạo điểm:
Chỉ đạo điểm là hoạt động cần thiết để các cấp hội rút kinh nghiệm
nhân ra diện.
Trong chỉ đạo điểm cần: Phân công cán bộ phụ trách điểm; theo dõi
kiểm tra, giám sát việc thực hiện điểm; kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hỗ trợ
cho việc chỉ đạo điểm; sơ, tổng kết, đánh giá, rút bài học từ chỉ đạo điểm và
triển khai ra diện rộng.

20
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH
GIAI ĐOẠN 2007 ĐẾN NAY
1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế, văn hoá, xã
hội của tỉnh Thái Bình.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuộc châu thổ sông Hồng, có diện
tích là 1.546 km2, với ba mặt giáp sông ( sông Hồng, sông Luộc, sông Hóa)
và một mặt giáp biển. Bờ biển Thái Bình chạy dài trên 50 km là môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế biển và du lịch. Đất đai Thái Bình phì nhiêu,
tươi tốt, hệ sinh thái đa dạng, phong phú, trong lòng đất lại có nhiều tiềm
năng về dầu mỏ, khí đốt. Thái Bình là mảnh đất giàu truyền thống văn hiến,
khoa bảng, có truyền thống lao động sản xuất giỏi và truyền thống chống giặc
ngoại xâm. Nơi đây không phải chỉ là chiếc nôi của làn điệu Chèo, múa rối
nước... mà còn là đất của những anh hùng, hào kiệt làm rạng danh quê hương
đất Việt: từ Lý Bí đuổi giặc Lương, dựng lên nước Vạn Xuân, đến Trần Thủ
Độ cùng các vua đầu triều sáng lập ra triều Trần, hay chiến sỹ cộng sản trung
kiên Nguyễn Đức Cảnh. Là mảnh đất có tới 130 người con đỗ tiến sỹ đại khoa
trong hơn tám trăm năm khoa cử thời phong kiến, với nhà bác học Lê Quý
Đôn mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc.
Năm 1966, Thái Bình đã nổi tiếng với phong trào thâm canh, là tỉnh đầu
tiên đạt 5 tấn thóc/ha, trở thành quê hương Năm tấn anh hùng trong những
năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là nơi đi tiên phong trong
phong trào diệt “ giặc đói” diệt “ giặc dốt” của cả nước.
Thái Bình ngày nay với trên 1,9 triệu dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương, nhân dân đồng lòng ra sức
thi đua, nỗ lực phấn đấu, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

21
đất nước. Thái Bình được chọn làm điểm của cả nước về xây dựng nông thôn
mới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm(2005-2010) là 12,02%. Sản
xuất, nông, lâm, ngư nghiệp phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi và
thuỷ hải sản theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả, từng bước chuyển sang sản
xuất hàng hoá. Năng suất lúa đạt 130 tạ/ha/năm; diện tích vụ đông chiếm 45%
diện tích canh tác.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng có bước phát triển nhanh, đã hình
thành một số khu, cụm công nghiệp và mở rộng nghề, làng nghề làm thay đổi
diện mạo công nghiệp của tỉnh. Toàn tỉnh đã có 219 làng nghề được công
nhận đạt tiêu chuẩn, 100% số xã trong tỉnh có nghề giải quyết việc làm cho
175 nghìn lao động.
Dịch vụ có bước phát triển, từng bước nâng cao chất lượng, đáp ứng
yêu cầu sản xuất và đời sống nhân dân.
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, tình hình chính trị ổn định, quốc
phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, hoạt
động văn hoá xã hội có tiến bộ. Ngành giáo dục đã góp phần quan trọng đưa
tỉnh Thái Bình hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở và là tỉnh có hệ
thống trung tâm học tập cộng đồng điển hình cả nước. Ngành giáo dục cùng
các ngành khác triển khai thực hiện nhiều chương trình đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho người lao động. Ngành y tế đã đảm bảo tốt công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe toàn dân. 100% thôn, tổ dân phố có nhân viên y tế,
208(72,7%) cơ sở đạt chuẩn quốc gia về Y tế xã, phường, thị trấn . 90%
dân cư đô thị sử dụng nước máy, 80% dân cư nông thôn sử dụng nước hợp vệ
sinh. Các hoạt động văn hóa thể thao được tổ chức thường xuyên góp phần
giáo dục, phát huy truyền thống một vùng quê lúa hơn 2000 năm lịch sử.
Tuy nhiên bên cạnh những truyền thống tốt đẹp và những điều kiện
thuận lợi cũng như những thành tựu mà đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã đạt

22
được thì Thái Bình vẫn còn có những khó khăn và những tồn tại: Là tỉnh nông
nghiệp nên việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước còn gặp rất
nhiều khó khăn; kinh tế phát triển chưa vững chắc, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp; sản xuất nông nghiệp bước đầu đã chuyển sang sản xuất hàng
hóa nhưng chưa mạnh, chưa tạo được các vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập
trung; người lao động thiếu việc làm còn nhiều, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ cận
nghèo còn cao; tội phạm, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; các hoạt
động văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế cũng còn những hạn chế cần khắc phục…
2. Thực trạng nội dung và phương thức hoạt động của hội LHPN
tỉnh Thái Bình.
2.1. Phong trào phụ nữ và thực trạng cơ cấu tổ chức hội phụ nữ các
cấp tỉnh Thái Bình.
a. Phong trào phụ nữ Thái Bình:
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước cũng như trong thời kỳ
xây dựng CNXH và thực hiện công cuộc đổi mới, phụ nữ Thái Bình đã thể
hiện những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: Yêu nước, lao
động cần cù, quả cảm, sáng tạo và giàu lòng nhân hậu. Ở thời kỳ nào cũng có
những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong chiến đấu, công tác, học tập, lao
động sản xuất. Hình ảnh nữ tướng Bát Nạn tướng quân Vũ Thị Thục Nương
đứng lên chiêu binh hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, hình ảnh “
cô gái Thái Bình, cô gái Việt Nam” , “ Chị Hai 5 tấn quê ở Thái Bình” đã đi
vào lịch sử và sống mãi với thời gian.
Chiếm 53% dân số, 65% lao động của tỉnh, ngày nay trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là công nghiệp hóa hiện đại
nông nghiệp, nông thôn, vai trò phụ nữ lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng
đối với việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu văn hóa, xã hội.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế
Trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: phụ nữ là lực lượng quan trọng
góp phần nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp của

23
tỉnh. Chị em đã tích cực học tập, chủ động tiếp thu, ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật mới, mạnh dạn đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại
hiệu quả kinh tế cao từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá đã góp
phần quan trọng cùng địa phương thực hiện tốt Nghị quyết TW 7 khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn và qui hoạch xây dựng nông thôn mới cùng
địa phương giữ vững ổn định xã hội, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ:
lực lượng lao động nữ ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình, đóng
góp to lớn cho sự phát triển nhanh của các ngành, trên nhiều lĩnh vực như chế
biến, tiêu thụ nông sản, thực phẩm, trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp; tham gia khôi phục các nghề thủ công truyền thống, mở rộng và phát
triển nghề, làng nghề của địa phương; góp phần tăng giá trị sản xuất dịch vụ,
tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động và thực hiện mục tiêu xoá đói
giảm nghèo của tỉnh.
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội
Trong giáo dục- đào tạo: phụ nữ Thái Bình những năm qua đã tích cực
tham gia học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, góp phần cùng địa phương xây
dựng mô hình xã hội học tập; tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân đưa trẻ
đến trường, khắc phục khó khăn tạo điều kiện cho con em đi học, hạn chế học
sinh bỏ học. Công tác xã hội hoá giáo dục có sự chuyển biến tích cực, tạo
điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận với giáo dục, đào tạo ngày càng cao.
Trong công tác chăm sóc sức khoẻ: phụ nữ tham gia ngày càng tích
cực và có hiệu quả trong công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thực hiện tốt
pháp lệnh Dân số và chiến lược về chăm sóc SKSS, chủ động phòng chống
dịch bệnh; góp phần củng cố mạng lưới y tế các cấp; góp phần tăng tỷ lệ phụ
nữ được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, giảm
tỉ lệ sinh, chất lượng dân số được cải thiện.

24
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường: được các tầng lớp
phụ nữ tham gia tích cực: xây dựng, nâng cấp các công trình vệ sinh; xây
dựng bảo vệ nguồn nước sạch, thu gom, xử lý rác thải, góp phần bảo vệ môi
trường; xây dựng nông thôn mới.
Lĩnh vực văn hoá - thông tin: cùng với nhân dân, các tầng lớp phụ nữ
đã tích cực tham gia hưởng ứng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” gắn với thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập,
lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; góp phần xây dựng thôn,
làng, khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong xây dựng gia đình phụ nữ luôn là người mẹ, người thầy đầu tiên
có vai trò quan trọng trong nuôi dạy thế hệ trẻ thành người có sức khoẻ, có
đạo đức và trí tuệ; tổ chức cuộc sống gia đình, cùng các thành viên trong gia
đình xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn mực “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc”. Vai trò của phụ nữ trong xây dựng tổ ấm gia đình đã trở thành giá trị
truyền thống tốt đẹp, được xã hội công nhận và tôn vinh.
Trong lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị, bảo đảm quốc
phòng, an ninh
Các tầng lớp phụ nữ tích cực học tập, thực hiện các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; xây dựng và thực hiện
quy ước, hương ước thôn, làng văn hoá; tích cực chủ động tham gia các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; tích cực động viên chồng,
con, em thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự, làm tốt công tác hậu phương
quân đội, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang, xây dựng lực lượng quân sự địa phương, thực hiện phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
các hoạt động phòng chống tội phạm, TNXH, đấu tranh chống âm mưu "diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

25
b. Cơ cấu tổ chức hội phụ nữ các cấp tỉnh Thái Bình:
- Hội LHPN tỉnh Thái Bình gồm có 3 cấp hội: Cấp tỉnh, cấp huyện,
thành phố và cấp cơ sở. Hội LHPN tỉnh có 5 ban và tương đương với 22 cán
bộ biên chế và 6 cán bộ hợp đồng; Hội LHPN huyện, thành phố: mỗi huyện,
thành phố có 5 cán bộ biên chế; Hội LHPN cấp cơ sở có tổ chức bộ máy theo
mô hình: Ban chấp hành hội LHPN cơ sở -> Chi hội phụ nữ -> Tổ phụ nữ và
ngoài ra còn thành lập và hoạt động theo các câu lạc bộ phụ nữ, tổ, nhóm phụ
nữ theo chuyên đề…. Toàn tỉnh có 286 xã, phường, thị trấn, 100% xã,
phường, thị trấn trong tỉnh đều có tổ chức hội phụ nữ. Hội phụ nữ cấp cơ sở
hoạt động theo mô hình Ban chấp hành hội phụ nữ xã, phường, thị trấn -> Chi
hội phụ nữ -> tổ phụ nữ. Đến nay toàn tỉnh có 286 Ban chấp hành hội phụ nữ
xã, phường, thị trấn, 2.076 chi hội, tổ phụ nữ.
BCH Hội phụ nữ cơ sở có từ 9-17 uỷ viên, BTV có từ 3-5 uỷ viên, có 1
đồng chí chủ tịch và 1 đồng chí phó chủ tịch, ở chi hội nhiệm kỳ 2006-2011 có
BCH chi hội và 1 chi trưởng, 1-2 chi phó; ở tổ phụ nữ có tổ trưởng và tổ phó.
Hệ thống tổ chức Hội như trên có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức các
hoạt động hội và quản lý hội viên, tuy nhiên còn có nhiều khó khăn như cán
bộ biên chế ít không đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ công tác hội và địa bàn
hoạt động rộng.
Đội ngũ cán bộ hội từ tỉnh tới cơ sở phần lớn đều có phẩm chất đạo đức
chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, nhiệt tình, có tinh
thần trách nhiệm cao với công việc, tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi
mặt, có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong công việc. Chị em sâu
sát, gần gũi cơ sở, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của hội phụ nữ các cấp. Không xảy ra
tình trạng tham ô, lãng phí, vi phạm pháp luật. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý
luôn gương mẫu, đoàn kết, quy tụ cán bộ, phát huy được sức mạnh tập thể.
Phần lớn cán bộ hội các cấp đều có trình độ, năng lực đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ. Chị em được đào tạo về chuyên môn, chính trị, nghiệp vụ đảm
bảo nâng cao trình độ về mọi mặt và thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ.

26
Cán bộ hội các cấp phần lớn được quy hoạch đảm bảo tính kế thừa, cán
bộ nguồn được đào tạo, bồi dưỡng.
Bên cạnh những ưu điểm, đội ngũ cán bộ hội phụ nữ các cấp còn có
một số tồn tại và khó khăn:
- Trình độ một số cán bộ hội cấp cơ sở còn hạn chế, đặc biệt cán bộ chi,
tổ phụ nữ.
- Tác phong, lề lối làm việc của một số cán bộ hội cơ sở chậm đổi mới.
- Một số cơ sở quy hoạch cán bộ hội còn yếu. Độ tuổi của cán bộ nguồn
kế cận các chức danh chủ chốt ở một số địa phương là cao.
2.2. Thực trạng nội dung và phương thức hoạt động của Hội LHPN
tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011-2013.
Thực hiện sự chỉ đạo của TW hội LHPN Việt Nam, sự lãnh đạo của cấp
uỷ Đảng, hội LHPN tỉnh Thái Bình đã không ngừng đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của hội và đã đạt được những kết quả nhất định.
Những kết quả đó được thể hiện ở việc thực hiện phong trào thi đua "Phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" cuộc vận
động “ Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch“,
và 6 nhiệm vụ công tác trọng tâm của hội.
* Phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo,
xây dựng gia đình hạnh phúc", cuộc vận động “ Xây dựng gia đình 5
không 3 sạch “; Phong trào xây dựng nông thôn mới.
Hưởng ứng phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" do Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X đề
ra, Hội phụ nữ các cấp từ tỉnh tới cơ sở đã xây dựng điểm chỉ đạo, tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Từ phong trào do Đại hội phát động, nhiều cơ sở hội,
đơn vị trực thuộc đã căn cứ vào đặc điểm tình hình địa phương lồng ghép
triển khai, tổ chức thực hiện các phong trào như: phong trào" Sản xuất kinh
doanh giỏi", phong trào “ Giỏi việc nước, đảm việc nhà", .. gắn với việc thực
hiện phong trào“ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư”. Phong trào đã đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ,

27
thu hút được sự hưởng ứng và tham gia tích cực của chị em, thực sự là động
lực khơi dậy niềm tin tưởng vào chủ trương, đường lối của đảng, nhà nước
trong công cuộc đổi mới đất nước cũng như khẳng định những đóng góp tích
cực của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hàng năm 100%
cơ sở hội và các đơn vị trực thuộc đã tổ chức cho trên 90% hội viên, phụ nữ
về học và đăng ký thực hiện phong trào. Kết quả bình xét hàng năm có trên
70% hội viên đạt 3 tiêu chuẩn phong trào thi đua.Tổng kết 3 năm thực hiện
phong trào đã có 256.879 chị(= 75% tổng số hội viên) đạt 3 tiêu chuẩn 3
năm; 32.965 chị được cấp giấy chứng nhận danh hiệu “Phụ nữ xuất sắc 5
năm”; 29.808 nữ CNVC&LĐ đạt danh hiệu "Hai giỏi". .
* Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ
trương, luật pháp, chính sách, rèn luyện phẩm chất đạo đức của các cấp
hội trong tỉnh được tăng cường, đã góp phần nâng cao kiến thức, năng
lực và trình độ mọi mặt cho phụ nữ
Trong nhiệm kỳ qua, công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng, giáo dục
truyền thống, nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ được các cấp hội quan
tâm chỉ đạo, tập trung nâng cao nhận thức, giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống cho phụ nữ và trẻ em gái. Các cấp hội
đã bám sát nhiệm vụ chính trị của cấp uỷ, chính quyền địa phương, kế hoạch
chỉ đạo của hội cấp trên, vận dụng sáng tạo để tổ chức các hoạt động của hội;
chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của các tầng lớp phụ nữ; phối hợp với
các ban ngành, đoàn thể tổ chức các hoạt động tuyên truyền chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp, Nghị quyết 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước;
tuyên truyền Đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2010-2015; cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016;
tuyên truyền chính sách pháp luật của nhà nước, đặc biệt luật pháp, chính
sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em như Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng
chống bạo lực trong gia đình, Luật Hôn nhân & gia đình; tuyên truyền, vận
động và tổ chức cho cán bộ, hội viên tham gia giờ học toàn tỉnh với các

28
chuyên đề khác nhau. Hội LHPN tỉnh đã xây dựng và triển khai kế hoạch thực
hiện Đề án“Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” giai đoạn 2010-2015.
Các cấp Hội đã phát động và tổ chức cho cán bộ, hội viên phụ nữ tích
cực thực hiện cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh" gắn với phong trào “Dân vận khéo”. Trên 85% cán bộ, hội viên
được học tập các chuyên đề về tấm gương đạo đức của Bác. Tổ chức các hội
thi kể chuyện; xây dựng chương trình hành động thực hiện cuộc vận động; chỉ
đạo thực hiện cuộc vận động bằng những việc làm cụ thể, thiết thực: Vận
động chị em đẩy mạnh các hình thức thực hành tiết kiệm làm theo tấm gương
của Bác như xây dựng các tổ nhóm phụ nữ tiết kiệm giúp nhau phát triển kinh
tế, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm trong chi tiêu, sinh hoạt; xây dựng đạo đức,
chuẩn mực của người cán bộ hội, nâng cao chất lượng hoạt động của BCH hội
các cấp. Hội LHPN tỉnh, Hội LHPN 8 huyện, thành phố và 286/286 xã,
phường, thị trấn đều xây dựng các mô hình “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức của Bác” và mô hình “Dân vận khéo" trên các lĩnh vực.
Hội LHPN cơ sở tăng cường các hoạt động giáo dục truyền thống, gặp
mặt các thế hệ cán bộ Hội, cán bộ nữ; tổ chức tham quan, du lịch, học tập trao
đổi kinh nghiệm…nhân các ngày lễ lớn của dân tộc, của Đảng, của Hội. Tổ
chức các hội thi, hội thảo, sinh hoạt CLB với nhiều chủ đề khác nhau; phát
động cán bộ, hội viên hưởng ứng cuộc vận động “Phụ nữ cả nước thực hiện
VSATTP vì sức khỏe gia đình và cộng đồng", “Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam”; tổ chức mít tinh, ra quân hưởng ứng các chiến dịch…Hội
LHPN các cấp đã chú trọng xây dựng, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên của Hội LHPN từ tỉnh đến cơ sở; thực hiện
công tác quản lý và khai thác thông tin, trao đổi thông tin hoạt động của hội
trên các trang thông tin điện tử của TW, của tỉnh. Nâng cao chất lượng
chương trình công tác; phối hợp với các cấp, các ngành khai thác nguồn lực
trên các lĩnh vực hỗ trợ cho các hoạt động.

29
Bảng 1: Kết quả công tác tuyên truyền, giáo dục

STT Danh mục Năm 2011 Năm 2013


1 Học tập chủ trương, đường lối của Đảng, chính 339.163 357.080
sách, pháp luật của Nhà nước (số lượt CB, HV)
2 Học tập Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp 300.800 156.892
(số lượt CB, HV)
3 Giáo dục truyền thống của Đảng, của Dân tộc, 432.747 251.161
của Hội. Giáo dục phẩm chất PNVN thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước (số lượt CB, HV )
4 Học tập kiến thức KHKT trong sản xuất, kinh 406.760 258.340
doanh (số lượt CB, HV)
5 Học tập kiến thức về gia đình, giới, phòng 264.843 239.27
chống bạo lực gia đình (số lượt CB, HV)
6 Học tập kiến thức về CSSKSS, DS - KHHGĐ, 322.004 204.481
Phòng chống nhiễm HIV/AIDS, phòng chống
Tội phạm, TNXH, PC buôn bán phụ nữ và trẻ
em (số lượt CB, HV)
7 Học tập kiến thức về Nước sạch -VSMT, VS 113.125 169.329
ATTP (số lượt CB, HV)
8 Tỷ lệ % hội viên được hưởng các hoạt động 90,0 92,5%
tuyên truyền.

* Các cấp hội từng bước nâng cao chất lượng tham gia phản biện
xã hội, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới
Phát huy vai trò trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
cho phụ nữ; trong những năm qua, các cấp hội đã chủ động tham mưu với cấp
uỷ Đảng, chính quyền trong việc tham gia đóng góp, xây dựng các văn bản
pháp luật có liên quan như: Dự thảo Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống
bạo lực trong gia đình; triển khai Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ chính trị và
chương trình hành động của Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết 11/NQ-TW về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tham mưu thực hiện
Nghị định 19/2003/NĐ-CP qui định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà
nước các cấp trong việc đảm bảo cho các cấp hội LHPN Việt Nam tham gia

30
quản lý nhà nước; tuyên truyền, vận động phụ nữ thực hiện pháp lệnh và qui
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị; tổ chức cho cán bộ, hội
viên tham gia đóng góp ý kiến vào các chương trình phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương.
Hội LHPN tỉnh, huyện, thành phố phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ của
phụ nữ sơ kết đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch hành động Vì sự tiến bộ
của phụ nữ năm 2011 - 2013; tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược quốc gia
VSTBCPN của Chính phủ; đồng thời tham gia giám sát việc thực hiện Kế
hoạch hành động VSTBCPN các cấp, các ngành trong tỉnh.
Hội LHPN tỉnh triển khai thực hiện đề tài khoa học "Nghiên cứu, khảo
sát, đánh giá thực trạng và xây dựng một số giải pháp nâng cao bình đẳng
giới, phòng chống bạo lực gia đình cho phụ nữ nông thôn" ; đã góp phần
cùng các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Luật Bình đẳng giới và
Luật Phòng chống bạo lực trong gia đình.
Hội LHPN các cấp đã chủ động tham mưu cho cấp ủy Đảng chọn cử
cán bộ nữ đi học các lớp Trung cấp, Cao đẳng, Đại học theo Đề án 26 của
Tỉnh uỷ Thái Bình. Tổ chức các cuộc hội thảo về cán bộ nữ, phối hợp giới
thiệu cán bộ, hội viên phụ nữ ưu tú để Đảng bồi dưỡng, xét kết nạp. Nhiệm kỳ
2006 - 2011 đã có 103 xã, phường, thị trấn tỷ lệ nữ cấp uỷ cơ sở đạt trên 15%,
một số cơ sở tỷ lệ cấp uỷ đạt trên 30%; các cấp hội đã phối hợp với các ngành
tham mưu với cấp uỷ trong việc bồi dưỡng, giới thiệu xét kết nạp đảng viên
nữ. Sự phát triển của đội ngũ cán bộ, đảng viên nữ đã góp phần quan trọng tạo
nguồn cán bộ nữ chủ chốt cho Đảng, các ngành, đoàn thể các cấp.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho phụ nữ tiếp tục
được triển khai thực hiện. Các cấp hội phối hợp chặt chẽ với ngành Tư pháp
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho phụ nữ; mở hàng ngàn lớp chuyên đề
nâng cao kiến thức pháp luật đặc biệt là những luật pháp, chính sách liên quan
đến phụ nữ, trẻ em. Duy trì hiệu quả hoạt động của Văn phòng trợ giúp pháp
lý cho phụ nữ của Hội LHPN tỉnh; tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ
chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên các cấp Hội; tổ chức tuyên
truyền pháp luật tại 200 xã cho hàng trăm ngàn lượt chị em các kiến thức về

31
luật pháp, chính sách của Nhà nước, đồng thời tư vấn trực tiếp trên 2.000 vụ
việc có liên quan đến quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Hội LHPN cơ sở phối hợp
với các ngành chức năng, chính quyền, các đoàn thể tham gia tích cực trong
việc giải quyết đơn thư, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ. 3 năm
qua, Hội LHPN các cấp đã tham mưu, đề xuất, kiến nghị các ngành chức năng
giải quyết 458 đơn thư thuộc các lĩnh vực; phối hợp với tổ hoà giải ở cơ sở
hoà giải thành 6.157 vụ mâu thuẫn gia đình, làng xóm…

Bảng 2: Kết quả công tác tham gia phản biện xã hội, giám sát việc
thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới

Năm Năm
STT Danh mục
2011 2013
Tổ chức, quán triệt nội dung, hướng dẫn giám sát, phản biện
1 xã hội; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (Số lớp/Số 5.694/5 6.925/969
lượt người) 97.854 .548
Tập huấn kỹ năng tư vấn pháp luật, TGPL, giải quyết đơn
2 305 632
thư (người)
Xây dựng mạng lưới tư vấn viên pháp luật, TGPL (đơn
3 01/23 01/25
vị/người)
Số vụ vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trả em
4 được Hội phát hiện và báo cáo với cơ quan chức năng 28/31
- Số vụ giải quyết/ Số vụ vi phạm:
5 Công tác giải quyết đơn thư, hoà giải tại cơ sở( 3 năm):
- Số đơn thư được kiến nghị giải quyết có kết quả/ Tổng số
458/529
đơn thư

- Hoà giải thành( vụ) 6.157

6 Tham gia ý kiến xây dựng các văn bản pháp luật( 3 năm)
-Luật Bình đẳng giới; Luật phòng chống bạo lực gia đình; Luật chữ thập đỏ; Luật
BHYT; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GD, Luật ATTP, Luật khám
chữa bệnh; Luật phòng chống mua bán người; Luật tố tụng hình sự, tố tụng hành
chính; Luật Lao động sửa đổi; Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; Luật Lưu trữ, Luật Đo
lường...

32
-Tham mưu với Tỉnh uỷ xây dựng CTHĐ thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ chính trị;
-Chính sách đào tạo, bổ nhiệm cán bộ nữ.-Chế độ khám sức khoẻ và thực hiện
KHHGĐ...
-Các đề án, chương trình phát triển kinh tế gia trại, trang trại; chuyển dịch cơ cấu
cây trồng, con vật nuôi;
Đề tài nghiên cứu khoa học( 3 năm)
- Xây dựng mô hình chuyển giao KHKT về chăn nuôi lợn cho phụ nữ nông thôn.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và xây dựng một số giải pháp nâng cao bình
đẳng giới, phòng chống BLGĐ cho phụ nữ Thái Bình
7 - Áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao BĐG, phòng chống BLGĐ cho phụ nữ
nông thôn.
- Thực trạng và giải pháp nâng cao kiến thức NS-VSMT cho phụ nữ ở một số xã
vùng nông thôn tỉnh Thái Bình.
- Các giải pháp thu hút phụ nữ cao tuổi tham gia tổ chức hội.
* Các hoạt động vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm
nghèo bền vững, bảo vệ môi trường.
Các cấp hội đã phát động phong trào thi đua lao động, sản xuất, vận
động hội viên phát huy sáng kiến, kinh nghiệm, mạnh dạn áp dụng tiến bộ
KHKT, tiếp thu các giống cây, con mới có giá trị kinh tế cao; thực hiện
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, mở rộng các mô hình phát triển
chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại. Hàng năm các cấp hội phối hợp với
ngành Nông nghiệp, các HTX dịch vụ Nông nghiệp mở hàng ngàn lớp tập
huấn chuyển giao tiến bộ KHKT trong trồng trọt, chăn nuôi cho hàng trăm
ngàn lượt phụ nữ. Tín chấp cho hội viên mua vật tư phục vụ sản xuất theo
hình thức trả chậm giúp chị em có điều kiện phát triển sản xuất. Xây dựng các
mô hình phát triển kinh tế có hiệu quả nhân ra diện rộng như: mô hình “Nuôi
trồng thuỷ sản”, mô hình "Chăn nuôi an toàn sinh học”, mô hình “ Tổ liên
kết giúp phụ nữ có việc làm sau hoc nghề ‘...Các cấp hội phối hợp với ngành
Ngân hàng khai thác các nguồn vốn hỗ trợ phụ nữ vay phát triển kinh tế; đồng
thời tạo nguồn kinh phí cho hoạt động của hội. Số dư đến năm 2013 đạt trên
900 tỷ đồng cho trên 56.000 ngàn hộ vay phát triển sản xuất. Công tác kiểm

33
tra giám sát được tiến hành thường xuyên, kịp thời và chặt chẽ, đã có trên
90% chị em sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả, trong đó nhiều chị
em vươn lên thoát nghèo, kinh tế khá giả, tỷ lệ hoàn trả vốn trên 99% . Hội
LHPN cơ sở duy trì, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động nhóm phụ nữ
tín dụng tiết kiệm. Toàn tỉnh có 1.893 tổ nhóm phụ nữ vay vốn tiết kiệm với
56.238 hội viên tham gia. Các cấp hội phụ nữ, ban nữ công, các đơn vị trực
thuộc tăng cường hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế dưới nhiều hình
thức cho nhau vay không lấy lãi bằng tiền, thóc, con giống, vật tư sản xuất,
giúp nhau bằng ngày công trị giá hàng tỷ đồng mỗi năm.
Triển khai thực hiện chương trình “Quỹ quay vòng vốn cho cấp nước và
vệ sinh hộ gia đình” tại 33 xã với số vốn trên 30 tỷ đồng cho trên 5.000 hộ;
trên 90% số hộ vay vốn xây dựng công trình vệ sinh đảm bảo tiêu chí đã góp
phần thực hiện các chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới.
Hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ được các cấp hội quan
tâm chỉ đạo, đổi mới về hình thức, mở rộng qui mô và đảm bảo chất lượng
đào tạo, đáp ứng nhu cầu của các đối tượng phụ nữ, trong đó chú trọng đến
phụ nữ nghèo, phụ nữ tàn tật, phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trung
tâm dạy nghề Hội LHPN tỉnh đã dạy nghề cho trên 10.000 lao động may công
nghiệp, may dân dụng, tin học, nấu ăn theo chương trình mục tiêu của tỉnh;
phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm cho hàng
ngàn phụ nữ nông dân tại cơ sở. 100% Hội LHPN xã, phường, thị trấn đã chủ
động phối hợp với doanh nghiệp, các ngành tổ chức dạy nghề thủ công mỹ
nghệ, nghề may, đã giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng chục ngàn phụ nữ có
thu nhập ổn định. Hội LHPN tỉnh đã xây dựng, triển khai thực hiện Đề án “Hỗ
trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015”; tổ chức các hoạt
động hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp do nữ làm chủ. 3 năm qua Hội LHPN
tỉnh phối hợp tổ chức các khóa tập huấn cho trên 700 nữ chủ doanh nghiệp nhỏ

34
và chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh trong tỉnh về kiến thức quản lý doanh nghiệp
và tham gia các hội chợ triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ, giao lưu, kết nối
kinh doanh mở rộng thị trường. Tham mưu với cấp uỷ, chính quyền hỗ trợ
nguồn lực, cơ chế, chính sách cho các doanh nghiệp nữ mở rộng cơ sở sản
xuất, tạo việc làm cho phụ nữ tại các địa phương.
Bảng 3: Kết quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
STT Danh mục Năm 2011 Năm 2013
Hoạt động vay vốn
1 Số vốn cho vay (triệu đồng)/Số lượt
287.214,7/60.939 919.211,9/70.527
người được vay:
2 Hoạt động dạy nghề, tạo việc làm
Số xã, phường, thị trấn tố chức dạy
258/286 286/286
nghề/TS
Số người học nghề 19.910 16.031
Số người được giới thiệu và tạo việc
16.451 17.958
làm
3 Hoạt động tiết kiệm
Số tổ, nhóm tiết kiệm 1.081 1.893
Số người tham gia tiết kiệm/Số tiền tiết
kiệm 21.637/1.973,9 56.238/9.569,7
(triệu đồng)
Hoạt động phụ nữ quyên góp giúp đỡ
nhau không hoàn lại:
4
Số lượt người được giúp đỡ/Giúp đỡ 24.477/81.632 85.760/24.435,4
giá trị thành tiền(triệu đồng)
Tỷ lệ gia đình nghèo do phụ nữ làm
5 72 80,5
chủ hộ được Hội giúp đỡ(%)

35
*Các cấp hội đã từng bước đẩy mạnh hoạt động vận động, hỗ trợ
phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Hội LHPN các cấp đã chủ động xây dựng nội dung hoạt động, chỉ
đạo xây dựng các mô hình nhằm hỗ trợ phụ nữ nâng cao kiến thức, kỹ
năng tổ chức cuộc sống gia đình, xây dựng gia đình thời kỳ CNH, HĐH
đất nước. Hàng năm đã gắn việc chỉ đạo, xây dựng gia đình đạt 4 chuẩn
mực "No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” với thực hiện phong trào thi
đua "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc" và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư”. Căn cứ vào tình hình thực tế của mỗi địa phương, đơn vị,
các cấp hội đã cụ thể hoá các tiêu chuẩn, tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn
cho hội viên học tập, đăng ký và thực hiện, tiến hành bình xét, biểu
dương, khen thưởng.
Hội LHPN các cấp tích cực phối hợp với các ngành, đặc biệt ngành
Y tế, tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức xây dựng cuộc sống gia đình,
chăm sóc SKSS cho phụ nữ; phòng chống SDD trẻ em; phối hợp triển
khai thực hiện chiến dịch“Tăng cường dịch vụ chăm sóc SKSS đến vùng
khó khăn”; triển khai chương trình tăng cường thức ăn bổ sung cho trẻ từ
7 đến 24 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng đã góp phần giảm tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng còn 18,9%. Hàng năm đã có trên 90% phụ nữ được
tiếp cận với các hoạt động và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, 80% bà mẹ
được hướng dẫn kỹ năng xây dựng, tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy
con theo khoa học .

36
Bảng 4: Kết quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình
No ấm, bình dẳng, tiến bộ, hạnh phúc
STT Danh mục Năm 2011 Năm 2013
1 Gia đình hội viên đạt 4 chuẩn mực “No ấm, 78,48 80
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc” (tỷ lệ %)
3 8. Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp 79,14 80,73
tránh thai hiện đại.(%)
4 9. Tỷ lệ sinh (%) 1,30 1,19
5 10. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên (%) 11,98 10,77
6 11. Số chi, tổ không sinh con thứ 3 trở lên 634 495
7 12. Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (%) 19,93 16,73
8 13. Các cháu vào nhà trẻ (tỷ lệ %) 57,06 65,85
9 14. Các cháu vào mẫu giáo (tỷ lệ %) 99,67 99,03
10 15. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được khám 367.753 477.785
phụ khoa ( số lượt)
11 16. Phụ nữ bị bệnh phụ khoa được điều trị 103.818 87.782
( số lượt)

Hội LHPN tỉnh đã chỉ đạo triển khai xây dựng mô hình gia đình "5
không 3 sạch" đến các cấp hội trong toàn tỉnh. Xây dựng và triển khai kế
hoạch thực hiện Đề án "Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt ” giai đoạn
2010-2015. Phối hợp với ngành Giáo dục thực hiện phong trào thi đua "Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Phối hợp với ngành Công an
thực hiện tốt NQLT số 01/NQ-TW “Quản lý con em trong gia đình không
phạm tội và tệ nạn xã hội”; tuyên truyền, vận động phụ nữ và gia đình thực
hiện Luật Giao thông đường bộ.
Các cấp hội đã đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, chú trọng xây
dựng các mô hình hiệu quả, thiết thực với hội viên; thường xuyên cung cấp tài

37
liệu tuyên truyền trong các kỳ sinh hoạt hội; các chiến dịch hoạt động mạnh
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động. Xây dựng và duy trì hoạt động của các
CLB Phụ nữ phòng chống tội phạm, TNXH, phòng chống bạo lực gia đình,
phòng chống buôn bán phụ nữ; CLB Phụ nữ với an toàn giao thông, CLB Gia
đình hạnh phúc, mô hình “Tạo sự gắn kết: Xây dựng mối quan hệ tích cực
giữa cha mẹ và con vị thành niên về cuộc sống, tình yêu và sức khoẻ”, thực
hiện chỉ đạo điểm xây dựng mô hình thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ nữ
toàn quốc lần thứ X với nhiệm vụ “ Hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”; tổ chức giao lưu các CLB, tham quan học tập
chia sẻ kinh nghiệm, hội thảo, hội thi...
Thực hiện Nghị quyết 09 của Ban thường vụ Tỉnh ủy và cuộc vận động
xây dựng “Mái ấm tình thương”, Hội LHPN tỉnh đã chỉ đạo các cấp hội vận
động cán bộ, hội viên quyên góp, ủng hộ xây dựng nhà tình nghĩa tặng gia
đình chính sách, nhà tình thương tặng phụ nữ nghèo. 3 năm qua các cấp hội
phụ nữ trong tỉnh vận động cán bộ, hội viên quyên góp, ủng hộ xây dựng 112
ngôi nhà tặng gia đình chính sách, gia đình phụ nữ nghèo với tổng số tiền trên
1tỷ đồng. Ngoài ra còn quyên góp tiền, ngày công cùng với nhân dân và chính
quyền địa phương tham gia xây dựng hàng ngàn nhà tình nghĩa, nhà tình
thương cho các hộ nghèo; vận động giúp đỡ trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, các cháu nhà trẻ, mẫu giáo hàng ngàn chiếc cặp, hàng
ngàn xuất quà trị giá hàng tỷ đồng...Hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, công tác
hậu phương quân đội được cán bộ, hội viên phụ nữ duy trì thực hiện như thăm
hỏi, động viên gia đình chính sách, mẹ Việt Nam anh hùng, tặng quà tân binh
lên đường nhập ngũ trị giá hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
*Nội dung, phương thức hoạt động của các cấp hội tiếp tục được
đổi mới, năng lực tập hợp hội viên và tổ chức của Hội LHPN các cấp
từng bước được nâng cao
Hội LHPN các cấp thường xuyên củng cố, kiện toàn nâng cao chất
lượng hoạt động của bộ máy tổ chức hội. Ban chấp hành hội LHPN các cấp

38
xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế hoạt động, thực hiện chế độ giao
ban với cấp uỷ và hội cấp trên. Các cấp hội đã đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, các hoạt động được triển khai theo phương châm "Hướng về cơ
sở", nâng cao chất lượng hoạt động của chi, tổ phụ nữ; tập trung đầu tư hỗ trợ
các vùng khó khăn, vùng có nhiều hội viên phụ nữ theo đạo công giáo. Phối
hợp các hoạt động chính trị với hoạt động kinh tế, văn hoá, đem lại quyền lợi
thiết thực cho hội viên. Phương pháp, tác phong lề lối làm việc từng bước
được đổi mới. Các hình thức sinh hoạt được đa dạng hoá như: mở các lớp
chuyên đề, sinh hoạt chi, tổ phụ nữ, tọa đàm, hội thảo, hội thi, mít tinh, tham
quan thực tế; đặc biệt là hình thức sinh hoạt CLB. Đến nay 100% xã, phường,
thị trấn có CLB phụ nữ với trên 1.000 CLB xã, phường, thị trấn và chi hội,
sinh hoạt với nhiều chủ đề có ý nghĩa thiết thực. Đây là mô hình sinh hoạt có
hiệu quả và thu hút được sự tham gia đông đảo của cán bộ, hội viên và các
tầng lớp phụ nữ. Các cấp hội đã làm tốt công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện
và khắc phục những khó khăn, tồn tại trong quá trình triển khai, thực hiện
nhiệm vụ; phát hiện, bồi dưỡng những điển hình, những mô hình hay nhân ra
diện rộng, đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Hội. Tổ
chức ký kết các chương trình phối hợp với các ngành, các đơn vị nhằm tăng
cường khai thác nguồn lực cho các hoạt động.
Hội LHPN tỉnh đã chỉ đạo Hội LHPN các cấp thực hiện mô hình "Xây
dựng hội viên nòng cốt”, mô hình “Phát triển hội viên trong các hộ gia đình
có phụ nữ từ 18 tuổi trở lên chưa có hội viên phụ nữ”, mô hình thu hút phụ
nữ Công giáo, nữ thanh niên vào tổ chức Hội. Ban chấp hành hội LHPN các
cấp được kiện toàn kịp thời, đúng Điều lệ Hội. Các cấp hội xây dựng tiêu
chuẩn đánh giá cán bộ hội và bình xét, xếp loại nâng cao chất lượng hoạt
động của đội ngũ Ban chấp hành, cán bộ hội từ tỉnh đến cơ sở. Tổ chức cho
cán bộ Hội phụ nữ cơ sở đăng ký danh hiệu “Cán bộ hội cơ sở giỏi” và hàng
năm bình xét biểu dương, khen thưởng. Tổng kết nhiệm kỳ 2006-2011, đã có
5.281 cán bộ hội cơ sở = 56,9% được cấp giấy chứng nhận "Cán bộ hội cơ sở

39
giỏi" và 966 cán bộ Hội cơ sở = 10,4% được Hội LHPN các cấp tặng Bằng
khen và giấy khen. Ban thường vụ Hội LHPN tỉnh đã chỉ đạo tổ chức hội thi
"Chủ tịch hội phụ nữ cơ sở giỏi" từ huyện đến tỉnh và tham dự giao lưu "Chủ
tịch hội phụ nữ cơ sở giỏi" toàn quốc.
Các cấp hội đã tích cực tham mưu với cấp uỷ Đảng về quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ hội, cán bộ nữ; thực hiện các chế độ
chính sách nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác.
Công tác xây dựng quỹ hội, thu chi hội phí được các cấp hội thực hiện
nghiêm túc theo Điều lệ hội. Bằng nhiều hình thức như đóng góp, lao động
lấy công để xây dựng quỹ hội, đến nay 100% BCH Hội LHPN cơ sở và 100%
chi hội phụ nữ có quỹ hội.
* Hoạt động đối ngoại của hội tiếp tục có những chuyển biến
Nhiệm kỳ qua, hoạt động đối ngoại của các cấp hội phụ nữ Thái Bình
tập trung tuyên truyền chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước;
hoạt động của Hội LHPN Việt Nam trong khu vực và tại các diễn đàn quốc tế
như: Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu, Diễn đàn mạng lưới các nhà lãnh
đạo nữ APEC....Vận động phụ nữ tích cực học tập, nâng cao kiến thức, mở
rộng phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tuyên
truyền, giáo dục phụ nữ nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu diễn biến
hoà bình của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên
giới quốc gia.
Hội phụ nữ các cấp đã mở các lớp chuyên đề nâng cao kiến thức về hội
nhập kinh tế quốc tế, an ninh biển đảo quốc gia. Phối hợp với Bộ chỉ huy Bộ
đội Biên phòng tỉnh thực hiện chương trình 253 về " Vận động phụ nữ tuyến
biên giới, hải đảo" giai đoạn 1991-2011. Phối hợp với các ngành chức năng
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở.
Vận động hội viên quyên góp ủng hộ nhân dân các nước trong khu vực
bị ảnh hưởng bão lũ, động đất; tích cực mở rộng các mối quan hệ hợp tác

40
quốc tế nhằm tranh thủ thu hút đầu tư hỗ trợ cho các chương trình hoạt động
của hội, góp phần tăng cường đoàn kết hợp tác quốc tế.
3. Đánh giá chung về những thành tựu đạt được, những hạn chế và
nguyên nhân.
3.1. Thành tựu:
Ba năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức song dưới sự lãnh
đạo của BCH Đảng bộ tỉnh, sự chỉ đạo của Đoàn chủ tịch TW Hội LHPN Việt
Nam, Ban chấp hành Hội LHPN tỉnh Thái Bình đã vận dụng sáng tạo chủ
trương, nghị quyết của Đảng, xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể cho từng năm
và trong cả nhiệm kỳ, đề ra nhiều giải pháp tập trung chỉ đạo đồng bộ từ tỉnh đến
cơ sở...đã tạo ra được phong trào thi đua sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ.
Các cấp hội đã quán triệt sâu sắc nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp,
không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, kết hợp chỉ đạo cả bề
rộng và chiều sâu, hướng các hoạt động về cơ sở, chú trọng xây dựng các mô
hình điểm, tổng kết, đánh giá nhân ra diện rộng. Nhiều hoạt động phong phú,
thiết thực được tổ chức đã đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu cơ bản của các tầng
lớp phụ nữ, từng bước nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ theo tinh thần Nghị
quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Các cấp hội đã chủ động, tích cực tham mưu đề xuất
với cấp uỷ Đảng về công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ nữ nhằm
thúc đẩy bình đẳng giới. Tham gia xây dựng và giám sát thực hiện luật pháp
chính sách bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ trong lĩnh vực lao động,
việc làm, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật; tăng cường xã hội hoá công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; hỗ
trợ phụ nữ xây dựng gia đình, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam,
tổ chức các hoạt động phòng chống tội phạm, TNXH...Đội ngũ cán bộ hội các
cấp nhiệt tình, trách nhiệm, năng động, sáng tạo trong chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ của hội. Tổ chức Hội LHPN đã giữ vững vai trò lãnh đạo

41
phong trào phụ nữ, thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện chăm lo, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, thu hút, tập hợp đông đảo
các tầng lớp phụ nữ tham gia hưởng ứng, phát huy tiềm năng, trí tuệ và sức
đóng góp của phụ nữ. Hầu hết các chỉ tiêu của Đại hội phụ nữ tỉnh lần thứ XIII
đều đạt và nhiều chỉ tiêu vượt so với Nghị quyết Đại hội đề ra, đã khẳng định vai
trò, vị thế của Hội LHPN trong hệ thống chính trị của Đảng; góp phần thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
3.2. Những hạn chế.
- Công tác hội và phong trào phụ nữ chưa có sự đồng đều giữa các xã,
phường, thị trấn, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của mỗi
địa phương, cơ quan, đơn vị.
- Công tác tuyên truyền giáo dục ở một số cấp hội còn mang tính hình
thức, bề nổi, thiếu chiều sâu. Công tác tập hợp hội viên là nữ thanh niên, phụ
nữ tôn giáo và hội viên cao tuổi ở một số cơ sở chưa đạt hiệu quả. Chỉ tiêu
giúp phụ nữ thoát nghèo đạt tỷ lệ chưa cao. Hoạt động dạy nghề, tạo việc làm
cho phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu tính bền vững; đặc biệt là tại cơ sở.
Chất lượng tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, công tác giám sát việc
thực hiện chế độ, chính sách liên quan đến phụ nữ-trẻ em gặp nhiều khó khăn
về cơ chế phối hợp. Hiệu quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình "No
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" chưa đạt được mong muốn. Tỉ lệ cán bộ
nữ tham gia cấp ủy, HĐND ở một số địa phương chưa đạt chỉ tiêu, chưa
tương xứng với tiềm năng và lực lượng lao động nữ.
- Một số cấp hội thiếu tính chủ động, sáng tạo, chưa tích cực phối hợp
khai thác nguồn lực hỗ trợ từ các ngành, các tổ chức, công tác tham mưu cho
các cấp uỷ Đảng còn nhiều hạn chế. Một số cơ sở chưa chủ động, tích cực và
thiếu các giải pháp cụ thể trong chỉ đạo, thực hiện chương trình công tác hội
đã đề ra; hiệu quả các biện pháp kiểm tra giám sát chưa cao.

42
- Việc xây dựng và duy trì mô hình hoạt động ở một số cấp hội chưa
hiệu quả, một số mô hình mang tính hình thức chưa sơ, tổng kết nên việc
nhân rộng mô hình còn hạn chế.
- Một bộ phận hội viên phụ nữ còn tư tưởng bảo thủ, hiểu biết pháp luật
còn hạn chế, chưa mạnh dạn áp dụng tiến bộ KHKT trong trồng trọt, chăn
nuôi; đặc biệt là việc ứng dụng tiến bộ KHKT vào cấy các giống lúa mới chất
lượng cao và trong sản xuất vụ đông.
3.3. Nguyên nhân thành tựu và hạn chế
3.3.1. Nguyên nhân thành tựu:
- Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương, nghị quyết, cơ chế chính
sách phù hợp, khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ cũng như tiếp tục tạo ra
nhiều cơ hội cho phụ nữ phát triển như: Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Luật Bình đẳng giới,
Luật Phòng chống bạo lực gia đình…Sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện của
cấp uỷ, chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác thiết thực, hiệu quả của các ban
ngành, đoàn thể, các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị đối với hoạt động Hội và
phong trào phụ nữ.
- BCH hội LHPN các cấp luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và sự
lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, đoàn kết, thống nhất, nhiệt tình,
chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch hoạt động toàn khoá và trong
từng năm. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với từng thời
điểm, vận dụng linh hoạt với từng địa bàn, nhóm đối tượng phụ nữ. Thường
xuyên tổng kết kinh nghiệm, nhân rộng những điển hình tiên tiến; khắc phục
những khó khăn, giải quyết kịp thời những vướng mắc ngay tại cơ sở .
- Phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ trong chỉ đạo và tổ chức thực
hiện. Có sự phối hợp đồng bộ trong hệ thống tổ chức Hội từ tỉnh đến các xã,

43
phường, thị trấn, chi, tổ phụ nữ và sự nỗ lực cố gắng của cán bộ, hội viên, các
tầng lớp phụ nữ.
3.3.1. Nguyên nhân hạn chế:
- Công tác chỉ đạo ở một số cấp hội thiếu linh hoạt; chưa tập trung
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
để tập hợp, thu hút các tầng lớp phụ nữ vào sinh hoạt.
- Đội ngũ cán bộ cán bộ hội chưa khắc phục khó khăn để học tập, nâng
cao trình độ mọi mặt; năng lực tổ chức các hoạt động còn hạn chế; chưa sâu
sát cơ sở, chưa nắm bắt tình hình, diễn biến tư tưởng của các tầng lớp phụ nữ
để đề xuất với cấp uỷ Đảng, chính quyền, hội phụ nữ cấp trên có biện pháp
giải quyết kịp thời.
- Một số cấp uỷ chưa thực sự quan tâm, lãnh đạo hoạt động của hội phụ
nữ; sự định hướng chỉ đạo và công tác kiểm tra giám sát của cấp uỷ với các
hoạt động của tổ chức hội còn hạn chế.
- Quá trình hội nhập và đổi mới đất nước làm cho một bộ phận cán bộ,
hội viên đặc biệt là phụ nữ nông thôn chưa kịp thích ứng. Những biến động
của thị trường, giá cả, việc làm, thu nhập… tác động mạnh mẽ đến tư tưởng,
tâm lý của chị em.
- Nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động hội chưa đáp ứng đòi hỏi thực tế;
chế độ phụ cấp cho cán bộ hội ở cơ sở đặc biệt là cán bộ chi, tổ chưa có hoặc
còn quá thấp do đó chưa động viên được cán bộ hội cơ sở nhiệt tình, tâm
huyết với công tác hội.
4. Bài học kinh nghiệm.
Từ thực tiễn chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác Hội và phong trào
phụ nữ trong những năm qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là: Tổ chức Hội phải thực sự mang tính liên hiệp rộng rãi, đoàn kết
các tầng lớp phụ nữ; phát huy nội lực của cán bộ, hội viên. Các hoạt động Hội

44
phải được xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích thiết thực của phụ nữ
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức hội gắn với thực hiện nhiệm vụ
chính trị trọng tâm của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Hai là: Không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Hội, đa dạng hoá các hình thức tập hợp phụ nữ. Các hoạt động phải chủ động
sáng tạo; chỉ đạo theo kế hoạch; có trọng tâm, trọng điểm; xác định nhiệm vụ
ưu tiên; biện pháp chỉ đạo dứt điểm, kịp thời; thực hiện tốt qui chế dân chủ ở
cơ sở. Đội ngũ cán bộ hội các cấp phải đoàn kết, nhiệt tình, tâm huyết và
trách nhiệm với phong trào cũng như vì sự phát triển của tổ chức hội phụ nữ.
Ba là: Coi trọng việc chăm lo củng cố, xây dựng tổ chức hội, quan tâm
công tác quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hội, cán bộ nữ, đặc biệt là cán
bộ hội chủ chốt có đủ năng lực, phẩm chất để chỉ đạo và tổ chức, thực hiện
các hoạt động của Hội.
Bốn là: Bảo đảm sự lãnh đạo thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, sự
chỉ đạo của Hội LHPN cấp trên; sự phối hợp, tạo điều kiện của chính quyền,
các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và sự nỗ lực cố gắng, năng động, sáng
tạo trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của các thế hệ cán bộ hội, cán bộ nữ.
Năm là: Chủ động nghiên cứu xây dựng mô hình điểm, tăng cường chỉ
đạo, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, kiểm tra đánh giá phải được thực
hiện thường xuyên. Công tác thi đua khen thưởng phải kịp thời.

45
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LHPN TỈNH THÁI BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Mục tiêu công tác hội và phong trào phụ nữ:


Trong những năm tiếp theo, hoạt động của tổ chức Hội và phong trào
phụ nữ có những thuận lợi cơ bản: đất nước trong thời kỳ hội nhập toàn
cầu với những thành tựu to lớn đạt được gần 30 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông
tin; tình hình an ninh chính trị ổn định; công cuộc xây dựng nông thôn mới
đã và đang tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên cũng có
nhiều những khó khăn thách thức: khủng hoảng kinh tế toàn cầu chưa có
chiều hướng hồi phục, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục có những diễn biến
phức tạp; các vấn đề về việc làm, an sinh xã hội…đòi hỏi sự quan tâm giải
quyết của nhiều cấp, nhiều ngành.
Phát huy những kết quả đạt được và những kinh nghiệm rút ra từ thực
tiễn 3 năm qua; căn cứ nhu cầu, nguyện vọng và những vấn đề cần ưu tiên của
phụ nữ trong tỉnh; đồng thời trên cơ sở nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVIII đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh là: “Tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
toàn Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; giữ vững ổn định chính trị- xã hội; khai thác
mọi nguồn lực; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; đẩy mạnh phát triển văn
hóa - xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền
tảng để đến năm 2020 Thái Bình trở thành tỉnh nông thôn mới có nền nông
nghiệp và công nghiệp theo hướng hiện đại”.

46
Để góp phần thực hiện được mục tiêu tổng quát trên, Nghị quyết Đại
hội phụ nữ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2011-2016 xác định mục tiêu, nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu của phong trào phụ nữ và công tác hội như sau:
Xây dựng, phát triển tổ chức hội vững mạnh; đoàn kết, phát huy tiềm
năng, nội lực của các tầng lớp phụ nữ; thực hiện tốt chức năng đại diện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng; thiết thực chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần; không ngừng nâng cao vị thế của phụ nữ; xây dựng người phụ
nữ Thái Bình "có sức khỏe, có tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng
tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu", góp phần thực hiện các mục tiêu
về bình đẳng giới và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2016.
Một số chỉ tiêu cơ bản:
- 90% trở lên hội viên, phụ nữ đăng ký thực hiện phong trào thi
đua"Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc" gắn với thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch”;
80% trở lên hội viên, phụ nữ đạt 3 tiêu chuẩn của phong trào và cuộc vận
động xây dựng gia đình “5 không ,3 sạch”.
- Hàng năm 100% cán bộ, 95% trở lên hội viên phụ nữ được tham gia
các hoạt động tuyên truyền, giáo dục của các cấp hội.
- 100% Hội LHPN xã, phường, thị trấn, ban nữ công các cấp, 70% chi
hội phụ nữ có câu lạc bộ phụ nữ.
- 100% các cấp hội tham gia giám sát việc thực hiện luật pháp, chính
sách bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho phụ nữ, trẻ em.
- 100% xã có ít nhất 1 mô hình về xây dựng nông thôn mới.
- 100% xã, phường, thị trấn tổ chức các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nữ,
dạy nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm cho 8.000 - 12.000 lao động mỗi năm.
- 90% gia đình hội viên phụ nữ nghèo được tổ chức hội giúp đỡ, đặc
biệt là hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ.

47
- 90% trở lên các bà mẹ có con dưới 16 tuổi được hướng dẫn kiến thức,
kỹ năng về xây dựng, tổ chức cuộc sống gia đình, nuôi dạy con tốt.
- 100% cán bộ chủ chốt các cấp hội đạt chuẩn chức danh. 100% cán bộ
hội các cấp được bồi dưỡng nâng cao năng lực theo chức danh.
- Phát triển hội viên tăng 2% trở lên so nhiệm kỳ trước. 75% trở lên đơn
vị xếp loại vững mạnh xuất sắc.
Khâu đột phá:
Căn cứ thực tế công tác hội, phong trào phụ nữ và nhu cầu, nguyện
vọng của hội viên, BCH Hội LHPN tỉnh xác định tập trung vào 2 khâu đột
phá nhiệm kỳ 2011-2016 như sau:
Chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động " Xây dựng gia đình 5
không, 3 sạch”. Gia đình 5 không đó là: Không đói nghèo; không vi phạm
pháp luật và tệ nạn xã hội; không có bạo lực gia đình; không sinh con thứ 3
trở lên; không có trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học. Gia đình 3 sạch đó là :
Sạch nhà; sạch ngõ; sạch bếp.
Để thực hiện có hiệu quả những mục tiêu và chỉ tiêu trên đây của hội
LHPN tỉnh Thái Bình trong thời gian tới, tôi mạnh dạn nêu lên một số giải
pháp chủ yếu nhằm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hội
LHPN tỉnh Thái Bình:
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
2.1. Phương châm chỉ đạo:
a. Phương châm chỉ đạo về đổi mới nội dung hoạt động:
Cần đổi mới nhận thức về nội dung hoạt động của các cấp hội, điều đó
sẽ thể hiện được tính nhạy bén, năng động, sáng tạo, thiết thực và hiệu quả
của phong trào phụ nữ và công tác hội trong thời kỳ mới.

48
Nội dung hoạt động của hội phụ nữ phải đa dạng phong phú, phải phù
hợp với mọi đối tượng phụ nữ ( phụ nữ nông thôn, phụ nữ tiểu thương, nữ chủ
doanh nghiệp, phụ nữ thành thị, phụ nữ lao động ở khu công nghiệp, phụ nữ
là nữ công nhân viên chức, phụ nữ công giáo, phụ nữ phật giáo...), phù hợp
với mọi lứa tuổi của phụ nữ( Nữ thanh niên, phụ nữ trung tuổi, phụ nữ cao
tuổi); Nội dung hoạt động phải đem lại lợi ích thiết thực cho phụ nữ, gắn nội
dung hoạt động chính trị với hoạt động kinh tế và văn hóa xã hội.
Hoạt động của hội cần hướng vào việc chăm lo lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho phụ nữ thông qua việc thực hiện tốt nhiệm vụ “ Tham gia xây dựng,
phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp chính sách về bình
đẳng giới”, nhiệm vụ “Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế,giảm nghèo
bền vững, bảo vệ môi trường ” và nhiệm vụ “Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững”.
Đổi mới nội dung hoạt động của hội phải đổi mới công tác tuyên truyền
giáo dục, nâng cao kiến thức về mọi mặt cho phụ nữ thông qua thực hiện
nhiệm vụ “Nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của phụ nữ đáp ứng yêu
cầu tình hình mới; xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, tri thức, kỹ
năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân
hậu” - Đây là nhiệm vụ xuyên suốt các nhiệm vụ còn lại của công tác hội.
Đồng thời phải đổi mới công tác tổ chức và cán bộ làm nền tảng vững
chắc cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác.
b. Phương châm chỉ đạo về đổi mới phương thức hoạt động:
Đổi mới phương thức hoạt động của hội chính là đổi mới cách thức con
đường chuyển tải nội dung hoạt động của hội phụ nữ các cấp tới hội viên, sao cho
cách thức đó phải phù hợp với nội dung hoạt động và hội viên cần tác động.
Để đổi mới phương thức hoạt động của hội cần đổi mới hoạt động chỉ
đạo trong hệ thống hội LHPN các cấp đảm bảo thông tin hai chiều, đảm bảo

49
phát huy được sự năng động, sáng tạo, chủ động của hội phụ nữ cấp dưới,
tránh tình trạng thụ động trông chờ, ỷ lại vào hội cấp trên.
Đổi mới phương thức hoạt động của hội là phải thực hiện tốt công tác
phối hợp với các lực lượng xã hội nhằm thực hiện xã hội hóa công tác vận
động phụ nữ, đem lại lợi ích cho phụ nữ.
Đổi mới phương thức hoạt động của hội cần phải biết chỉ đạo hoạt động
theo các mô hình lồng ghép để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời phải tổ
chức chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm cho chỉ đạo diện và phải biết lựa chọn
nhiệm vụ trọng tâm cho mỗi thời điểm để chỉ đạo cho phù hợp với nhu cầu
hội viên và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2.2. Một số giải pháp.
a. Đổi mới nội dung hoạt động của Hội LHPN tỉnh Thái Bình
Đổi mới nội dung hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình cụ thể là đổi
mới việc thực hiện phong trào thi đua và 6 nhiệm vụ công tác trọng tâm của hội:
* Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả tổ chức thực hiện các
phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động.
- Các cấp hội tiếp tục triển khai thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tao, xây dựng gia đình hạnh phúc”, cuộc vận
động xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch”, xây dựng Mái ấm tình thương,
phong trào xây dựng nông thôn mới và các phong trào thi đua do địa phương,
đơn vị phát động theo chiều sâu, bền vững.
- Đổi mới công tác thi đua khen thưởng đảm bảo tính chính xác, dân
chủ, công khai, kịp thời; việc khen thưởng phải đi đôi với phê và tự phê bình
nhằm đảm bảo sự chuyển biến tích cực của phong trào. Quan tâm khen
thưởng những điển hình cá nhân và các tập thể ở cơ sở. Tăng cường sự phối
hợp giữa các ban ngành, đoàn thể tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phong
trào thi đua yêu nước và công tác thi đua khen thưởng.

50
* Thực hiện các nhiệm vụ công tác trọng tâm
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao kiến thức, năng
lực mọi mặt cho phụ nữ; giữ gìn, phát huy giá trị đạo đức truyền thống,
thực hiện chuẩn mực của phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước
- Các cấp Hội chủ động tham mưu với cấp uỷ Đảng, phối hợp với chính
quyền, các ban, ngành đoàn thể làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước, Nghị
quyết của Hội LHPN các cấp. Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án“Tuyên
truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam” giai đoạn 2010-2015.
- Trên cơ sở nghiên cứu những giá trị văn hoá đạo đức của phụ nữ Việt
Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; kế thừa những giá trị văn hoá
đạo đức truyền thống của phụ nữ; các cấp hội xây dựng các đề tài, các mô hình
điểm phù hợp triển khai thực hiện và nhân rộng trong các cấp hội; xây dựng
người phụ nữ thời kỳ CHN, HĐH "Tự trọng, tự tin, đảm đang, trung hậu".
- Chủ động đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền; xây dựng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên của các cấp hội. Thường xuyên sâu sát cơ sở nắm bắt nhu cầu, nguyện
vọng của từng đối tượng phụ nữ để có giải pháp xây dựng nội dung và hình
thức tuyên truyền phù hợp đáp ứng tâm tư nguyện vọng cũng như trình độ
nhận thức và lứa tuổi.
- Động viên khuyến khích phụ nữ tích cực học tập; đặc biệt là hình thức
tự học tập nâng cao trình độ mọi mặt: trình độ văn hóa, pháp luật, kỹ năng
sống, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức trong tổ chức và xây dựng gia đình.
Cung cấp tài liệu hỗ trợ phụ nữ học tập đạt hiệu quả; phát triển các tủ sách,
báo phụ nữ; tạo thành phong trào đọc sách báo trong các tầng lớp phụ nữ
nhằm khuyến khích khả năng sáng tạo của phụ nữ.

51
- Mở rộng sự phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, tăng cường
trao đổi thông tin giữa các cấp Hội phụ nữ trong tỉnh, giao lưu học hỏi kinh
nghiệm nhằm tuyên truyền sâu rộng về tổ chức hội, kết quả hoạt động của
hội, Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp. Duy trì và nâng cao chất lượng hoạt
động của mô hình CLB đến các chi hội, tổ phụ nữ. Phát hiện, bồi dưỡng và
tuyên truyền các gương tập thể, cá nhân điển hình trong hoạt động của hội
trên các lĩnh vực cũng như thành tựu của phong trào phụ nữ và tổ chức Hội đã
đạt được trong công cuộc xây dựng đất nước.
Tăng cường chức năng tư vấn, tham gia phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới
- Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật đến đông đảo các đối tượng phụ nữ; tập trung trong lĩnh vực Bình đẳng
giới, Hôn nhân và gia đình. Thực hiện hiệu quả Đề án “Tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ”
trong toàn hệ thống hội.
- Tích cực, chủ động tham gia hiệu quả vào quá trình xây dựng, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách, các chương trình kinh tế,
văn hóa- xã hội có liên quan đến phụ nữ, trẻ em; các quy ước, hương ước của
địa phương. Hỗ trợ phụ nữ thực hiện quyền dân chủ trực tiếp tham gia giám
sát, nâng cao khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị em.
- Phối hợp, duy trì thực hiện có hiệu quả các mô hình tư vấn pháp luật,
trợ giúp pháp lý cho phụ nữ như: Văn phòng TGPL cho phụ nữ của Hội
LHPN tỉnh; phát triển mạng lưới cộng tác viên, tuyên truyền viên tư vấn pháp
luật trong và ngoài hệ thống hội. Phối hợp với các cấp, các ngành giải quyết
các vụ việc vi phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ.
- Tham gia quản lý Nhà nước theo tinh thần Nghị định 19/2003/NĐ-CP
của Chính phủ và Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ chính trị về công tác phụ nữ

52
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chủ động tham mưu kiện toàn và
nâng cao chất lượng hoạt động Ban VSTBCPN các cấp. Đề xuất, xây dựng đề
án đào tạo, bồi dưỡng nguồn cán bộ nữ đảm bảo chất lượng.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ phụ nữ
xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững
- Triển khai sâu rộng cuộc vận động xây dựng gia đình“5 không, 3 sạch”
đến các chi hội, tổ phụ nữ và nhân rộng trong cộng đồng đảm bảo tính hiệu quả
thiết thực không hình thức; gắn nội dung của cuộc vận động “5 không, 3 sạch”
với phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".
- Các cấp hội chủ động xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm triển
khai thực hiện Đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt” giai đoạn
2010-2015 phù hợp với đặc điểm từng địa phương, đơn vị và đảm bảo yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ tại từng thời điểm.
- Tăng cường phối hợp, liên kết với các cơ quan, tổ chức, đơn vị ký kết
chương trình phối hợp hoạt động. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ chăm sóc
sức khoẻ cho phụ nữ, trẻ em, thực hiện DS/KHHGĐ, thành lập các CLB
không có người sinh con thứ 3 trở lên, vận động phụ nữ thực hiện qui mô gia
đình nhỏ chỉ có 1 hoặc 2 con, tổ chức các hoạt động phòng chống SDD trẻ
em, CLB An toàn giao thông, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng
chống bạo lực trong gia đình, phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em,
HIV/AIDS...chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, tăng cường công tác
bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Phối hợp với ngành
Bảo Việt tuyên truyền, vận động hội viên phụ nữ tích cực tham gia BHTT và
BHYT tự nguyện đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ và người thân.
- Thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua do địa
phương, đơn vị phát động; phối hợp tuyên truyền thực hiện bình đẳng giới
trong gia đình và cộng đồng. Đẩy mạnh hoạt động Đền ơn đáp nghĩa, chính

53
sách hậu phương quân đội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện trong các tầng
lớp phụ nữ; quan tâm phụ nữ đơn thân tàn tật, nữ TNXP có hoàn cảnh khó
khăn. Vận động các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm quyên góp xây dựng nhà
đại đoàn kết, mái ấm tình thương tặng phụ nữ nghèo, phụ nữ chính sách, phụ
nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát triển kinh
tế, xã hội; bảo vệ môi trường
- Hội LHPN các cấp chủ động tham mưu với các cấp, các ngành quan
tâm tạo điều kiện trong các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế. Tham
gia hiệu quả vào quá trình xây dựng, triển khai thực hiện các chính sách, đề
án, chương trình mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương như: chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo…góp phần cùng toàn
tỉnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 - BCH TW Đảng
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết số 02 của Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng nông thôn mới.
- Các cấp hội khảo sát, nắm vững hộ nghèo do nữ làm chủ hộ; đẩy mạnh
xã hội hoá việc huy động nguồn lực giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ. Phối hợp với
ngành Ngân hàng hỗ trợ phụ nữ vay vốn đầu tư phát triển sản xuất. Đẩy mạnh
các hình thức giúp nhau xoá đói giảm nghèo trong cộng đồng. Tập trung hỗ trợ
phụ nữ nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo làm chủ hộ, phụ nữ vùng khó khăn.
- Tăng cường các hoạt động chuyển giao tiến bộ KHKT và nâng cao
kiến thức, kỹ năng quản lý, sản xuất kinh doanh cho phụ nữ, nữ chủ doanh
nghiệp. Xây dựng các mô hình phát triển kinh tế gia đình có hiệu quả, mô
hình phát triển trang trại, gia trại, tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ.
Động viên khuyến khích gia đình phụ nữ mạnh dạn đưa cơ giới hoá vào sản
xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa cây trồng, con vật nuôi có
giá trị kinh tế cao vào sản xuất, tập trung phát triển chăn nuôi theo hướng

54
công nghệ cao. Chú trọng sản xuất vụ đông, đưa vụ đông thành vụ sản xuất
chính thứ ba trong Nông nghiệp.
- Triển khai thực hiện Đề án “ Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”
giai đoạn 2010-2015. Xây dựng và phát triển mạng lưới đào tạo nghề và giới
thiệu việc làm trong hệ thống hội phụ nữ các cấp đặc biệt là cấp cơ sở. Xây
dựng điểm chỉ đạo mô hình đào tạo nghề “ 3 trong 1”. Vận động cán bộ, hội
viên duy trì và phát triển mô hình nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng, tổ chức các
hoạt động kinh doanh dịch vụ. Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ khởi sự và phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua đào tạo, tập huấn, hỗ trợ tiếp cận
vốn, thông tin, đề xuất chính sách, phát triển và mở rộng các CLB nữ chủ
doanh nghiệp.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm tuyên truyền nâng cao ý thức
và trách nhiệm của phụ nữ về bảo vệ môi trường; khuyến khích phụ nữ tham
gia quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên đảm bảo cân
bằng sinh thái, phát triển sản xuất, kinh doanh gắn với bảo vệ môi trường.
Xây dựng các mô hình sản xuất thực phẩm an toàn. Động viên phụ nữ tham
gia hoạt động thương mại, dịch vụ, thực hiện kinh doanh lành mạnh, sản xuất
hàng hoá đảm bảo chất lượng, đảm bảo vệ sinh môi trường cộng đồng.
Tiếp tục củng cố tổ chức; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
hội ngày càng vững mạnh thực sự là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích
chính đáng của hội viên, phụ nữ.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức hội phụ nữ các cấp. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của từng cấp hội trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ
và điều kiện cụ thể của từng thời kỳ.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hội các cấp. Xây dựng và thực
hiện Đề án đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp theo chức danh;
nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên sâu đối với cán bộ hội cấp tỉnh. Quan

55
tâm công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ hội các
cấp, đặc biệt cán bộ hội cơ sở. Nâng cao kiến thức, kỹ năng phương pháp hoạt
động cộng đồng, khả năng vận động thuyết phục quần chúng nhất là đối với
cán bộ hội cơ sở.
+ Tham mưu, đề xuất các chính sách hỗ trợ chăm lo đến cán bộ hội các
cấp đặc biệt là cán bộ xã, phường, thị trấn, chi hội, tổ phụ nữ.
- Phát triển hội viên, tăng cường tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các đối
tượng phụ nữ thuộc các tầng lớp, các lứa tuổi, đa dạng hoá loại hình hoạt
động để thu hút hội viên, quan tâm phụ nữ là nữ doanh nhân, nữ thanh niên,
phụ nữ tôn giáo, nữ công nhân lao động trong các khu công nghiệp với nhiều
mô hình tập hợp để thu hút phụ nữ vào tổ chức hội.
- Đổi mới phương thức hoạt động của hội: Coi trọng công tác lập kế
hoạch theo đinh hướng chỉ đạo của hội cấp trên, phát huy tính chủ động, sáng
tạo, linh hoạt trong việc điều hành các hoạt động. Xác định nhiệm vụ ưu tiên
cần tập trung chỉ đạo; xây dựng kế hoạch hoạt động có tính trọng tâm, trọng
điểm. Trong quá trình chỉ đạo cần dứt điểm, có hệ thống.
+ Tiếp tục "Hướng các hoạt động về cơ sở". Nghiên cứu, chỉ đạo điểm,
xây dựng và nhân rộng các mô hình tập hợp phụ nữ. Xây dựng và phát huy vai
trò lực lượng hội viên nòng cốt. Xã hội hóa các hoạt động hỗ trợ, chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho phụ nữ. Tăng cường và thực hiện
có hiệu quả công tác kiểm tra giám sát việc chấp hành Điều lệ Hội LHPN Việt
Nam và việc thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp. Thực hiện tốt công
tác quản lý hội viên và nâng cao chất lượng hoạt động của chi hội, tổ phụ nữ.
+ Phát huy vai trò tham gia hiệu quả trong từng lĩnh vực công tác của
các Ủy viên BCH không là cán bộ chuyên trách Hội thuộc các ngành, các tổ
chức; đội ngũ cộng tác viên nhằm tăng cường sự phối hợp hoạt động của tổ
chức hội.

56
- Ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp nhằm tăng cường trao đổi
thông tin hai chiều kịp thời, chính xác và hiệu quả.
Không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
đối ngoại nhân dân
- Các cấp hội tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an
ninh, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đường lối đối ngoại của Đảng
và nhà nước, các công ước quốc tế, các công ước quốc tế liên quan đến phụ
nữ và trẻ em, về giới và bình đẳng giới. Vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ
nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới và biển đảo, chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực
thù địch. Thường xuyên nắm bắt diễn biến tư tưởng của phụ nữ, tăng cường
công tác quản lý hội viên, góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội.
- Mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển với các tổ chức quốc tế, tranh
thủ vận động tăng cường nguồn lực hỗ trợ cho hoạt động của hội.
b. Đổi mới phương thức hoạt động của hội:
* Chủ động tham mưu đề xuất với Đảng về chủ trương, chính sách
liên quan đến phụ nữ.
Các cấp hội chủ động tham mưu với các cấp uỷ Đảng trong việc triển
khai các Nghị quyết về công tác phụ nữ và hoạt động của hội LHPN, đặc biệt
là nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tham mưu để cấp uỷ tiến hành đánh giá
việc thực hiện nghị quyết hàng năm và sơ kết, tổng kết định kỳ. Phối hợp chặt
chẽ với ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp, các ngành, các đoàn thể để triển
khai các nghị quyết, chính sách, pháp luật có liên quan đến phụ nữ.
* Đổi mới sự chỉ đạo của các cơ quan lãnh đạo các cấp hội phụ nữ.
- Các cấp hội cần mở rộng dân chủ, huy động tiềm năng, sức sáng tạo
của các tầng lớp phụ nữ, cấp tỉnh, cấp huyện, thành phố tiếp tục phương châm
hướng mạnh về cơ sở.

57
- Các cấp hội cần khắc phục tình trạng " Hành chính hoá", phô trương,
hình thức, chạy theo thành tích, đặc biệt là cấp tỉnh, huyện, thành phố. Cần
sâu sát cơ sở, phát hiện kịp thời những vấn đề vướng mắc của cơ sở để đề
xuất các chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn và công tác hội cần tập
trung vào những hoạt động đem lại quyền lợi thiết thực cho hội viên, phụ nữ,
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của hội viên, phụ nữ.
- Xây dựng và thực hiện quy định chế độ công tác cơ sở của cán bộ hội
chuyên trách cấp tỉnh, huyện, thành phố; cải tiến và nâng cao chất lượng đi
công tác cơ sở của cán bộ hội.
- Trong chỉ đạo coi trọng chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm nhân rộng;
xây dựng các mô hình hoạt động phù hợp với hội viên, phụ nữ và tình hình
địa phương.
- Coi trọng việc xây dựng chiến lược và kế hoạch hoạt động của từng
cấp hội để chủ động trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện: Như xây dựng
chương trình hoạt động toàn khóa thực hiện nghị quyết đại hội phụ nữ các cấp
và nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ X, xây dựng kế hoạch hoạt động từng
năm, từng nhiệm vụ công tác hội, từng hoạt động..
- Các cấp hội phải chủ động trong tạo nguồn kinh phí hoạt động để có
thể đứng vững trong cơ chế mới bằng cách tăng cường xây dựng quỹ hội,
phấn đấu trung bình mỗi hội viên có 50.000đ quỹ hội, vận động hội viên đóng
hội phí, vận động các doanh nghiệp, những nhà hảo tâm tài trợ kinh phí...
- Trong công tác hội cần xác định nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi giai
đoạn, lựa chọn vấn đề ưu tiên hợp lý đối với từng địa phương và đầu tư nguồn
lực thực hiện.
- Tăng quyền chủ động và phát huy sự sáng tạo của các cấp hội trong
việc cụ thể hoá thực hiện các hoạt động hội: Mỗi cấp hội, mỗi địa phương xây

58
dựng cho mình kế hoạch hoạt động phù hợp với thực trạng tình hình của
mình, không máy móc, dập khuôn.
- Coi trọng việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để phát huy mặt mạnh,
khắc phục những hạn chế.
- Tiếp tục đổi mới công tác thi đua khen thưởng, công tác kiểm tra trong
hệ thống hội.
- Nâng cao chất lượng công tác tổng hợp, báo cáo, thống kê, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cấp hội. Cấp tỉnh,
huyện, thành phố 100% cán bộ hội chuyên trách biết sử dụng thành thạo các
chương trình máy vi tính. Cấp cơ sở cần có hệ thống sổ sách theo dõi công tác
hội theo hướng dẫn của tỉnh đảm bảo khoa học.
* Tăng cường phối kết hợp với các cấp chính quyền, ban, ngành,
đoàn thể.
- Đẩy mạnh xã hội hoá công tác vận động phụ nữ, xây dựng cơ chế phối
hợp bình đẳng, hiệu quả với các ban, ngành, đoàn thể có liên quan.
- Coi trọng việc xây dựng mạng lưới cộng tác viên về công tác hội như
công tác viên của ngành tư pháp, y tế, nông nghiệp...
- Phối hợp với chính quyền tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị định số
19/2003/NĐ-CP ngày 07/3/2003 của Chính phủ quy định trách nhiệm của cơ
quan hành chính nhà nước các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp hội
LHPNVN tham gia quản lý nhà nước.
3. Kiến nghị:
Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian tới, để
thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái
Bình đảm bảo chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác phụ vận trong
giai đoạn hiện nay, tôi xin kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước, TW hội
LHPN Việt Nam một số vấn đề sau:

59
3.1. Những kiến nghị đối với Đảng
Thường xuyên đưa chương trình công tác hội phụ nữ vào mục tiêu, kế
hoạch và nội dung chỉ đạo của các cấp ủy Đảng trong từng thời gian và nhiệm
kỳ công tác hội.
Đảng ủy các cấp cần có kế hoạch và thực hiện tốt chế độ định kỳ giao
ban với hội phụ nữ cùng cấp để nghe hội phụ nữ báo cáo kết quả hoạt động
trong thời gian qua và kế hoạch hoạt động trong thời gian tới để Đảng có định
hướng chỉ đạo giải quyết những vướng mắc, khó khăn của hội phụ nữ, cũng
như chỉ đạo các nhiệm vụ trong thời gian tới để hội phụ nữ góp phần thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa-xã hội của tỉnh.
Cấp ủy cần quan tâm hơn nữa tới công tác quy hoạch cán bộ nữ, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đề bạt cán bộ nữ sao cho tương xứng với lực lượng
lao động nữ hiện có. Đưa tiêu chí về công tác cán bộ nữ vào đánh giá, xếp
loại thi đua đối với các tổ chức đảng và đối với người đứng đầu tổ chức đảng.
Cần có sự chỉ đạo chặt chẽ và hiệu quả hơn việc thực hiện nghị quyết
11-NQ/TW của Bộ Chính trị về “ công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; chỉ thị 37/BCT về tăng cường công
tác cán bộ nữ trong thời kỳ mới và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng có liên
quan đến phụ nữ.
3.2. Những kiến nghị đối với Chính quyền
Chính quyền các cấp cần phối hợp chặt chẽ với hội phụ nữ để thực hiện
có hiệu quả nghị định số 19/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về trách
nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp tạo điều kiện cho các cấp
hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước.
Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân cần tạo điều kiện về kinh phí hoạt
động cho hội phụ nữ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Có chế độ
phụ cấp thỏa đáng cho cán bộ hội phụ nữ cơ sở đặc biệt là chi trưởng chi hội

60
phụ nữ ( Hiện nay chi trưởng chi hội phụ nữ quản lý từ 100-500 hội viên
nhưng không có chế độ phụ cấp gì).
Ủy ban nhân dân cấp cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho hội phụ nữ tổ chức
các hoạt động kinh tế đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên đồng thời tạo điều
kiện cho hội phụ nữ xây dựng quỹ hội và có kinh phí bồi dưỡng cán bộ hội.
Ủy ban nhân dân cấp cơ sở tạo điều kiện cho hội phụ nữ có phòng làm
việc và các trang thiết bị phục vụ cho công việc. (Hiện nay còn nhiều hội phụ
nữ cơ sở không có phòng làm việc riêng hoặc phải làm việc chung với các
đoàn thể khác).
3.3. Các kiến nghị đối với hội LHPN Việt Nam.
- TW hội LHPN Việt Nam khi xây dựng kế hoạch hoạt động cần phải
mang tính thực tế hơn để việc thực hiện đạt hiệu quả.
- TW hội LHPN Việt Nam cần chọn những hoạt động trực tiếp đem lại
quyền lợi cho phụ nữ, tránh ôm đồm nhiều hoạt động dẫn đến tình trạng
chồng chéo, lấn sân và mang tính hình thức.
- TW hội cần quan tâm hơn nữa đến hội phụ nữ cơ sở, sâu sát, nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ để đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và
các ngành chức năng có các chế độ, chính sách đối với phụ nữ.
- TW hội cần tích cực kiến nghị, đề xuất xây dựng trường cán bộ phụ
nữ Trung ương thành Học viện phụ nữ để tạo điều kiện cho cán bộ hội phụ nữ
các cấp được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học ngành công tác phụ nữ.
- TW hội cần xây dựng các nghị quyết, kế hoạch liên tịch với các
ngành, đoàn thể có liên quan để việc phối hợp hoạt động với các ngành, đoàn
thể từ Trung ương đến cơ sở thuận lợi và thống nhất.
- TW hội có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội phụ nữ
các cấp để có một đội ngũ cán bộ hội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác hội
trong giai đoạn hiện nay.

61
PHẦN KẾT LUẬN

Căn cứ vào vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hội LHPN Việt
Nam, căn cứ vào thực trạng phong trào phụ nữ và công tác hội trong những
năm qua cũng như những yêu cầu đặt ra phải đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của các cấp hội phụ nữ tỉnh Thái Bình; căn cứ vào quan điểm chỉ
đạo của Đảng các cấp và thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
theo 6 nhiệm vụ công tác trọng tâm do Trung ương hội LHPN Việt Nam chỉ
đạo; xuất phát từ nhận thức và trách nhiệm của một cán bộ hội phụ nữ cùng
với những kiến thức tích lũy trong thời gian học lớp cao cấp chính trị và thực
tế công tác để thực hiện sản phẩm đề tài này, tôi đã tiếp cận, nghiên cứu và
giải quyết được những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của việc cần phải đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn tới.
Hai là, điều tra, khảo sát, phân tích, đánh giá về thực trạng nội dung,
phương thức hoạt động của hội LHPN tỉnh Thái Bình giai đoạn 2006-2014,
nêu lên những mặt mạnh, mặt yếu và những nguyên nhân, bài học kinh
nghiệm từ chỉ đạo thực tiễn công tác hội phụ nữ.
Ba là, trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn, đề tài đã đề xuất
một số giải pháp để đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của hội LHPN
tỉnh Thái Bình trong giai đoạn tới. Những giải pháp của đề tài đưa ra là hoàn
toàn có căn cứ khoa học, vừa đảm bảo tính lý luận vừa có tính khả thi trong
áp dụng vào thực tế để đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao
chất lượng công tác hội của hội LHPN tỉnh Thái Bình trong giai đoạn tới.
Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
khẳng định :"Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh
đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Trong thời kỳ đổi
mới, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể
hiện xuyên suốt trong Nghị quyết Đại hội Đảng, các nghị quyết và chỉ thị của
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công tác

62
vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
cụ thể nhằm tạo điệu kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới".
Với góc độ là làm công tác vận động phụ nữ tôi tin tưởng sâu sắc dưới
sự lãnh đạo của Đảng cùng với những thành tựu mà các cấp hội phụ nữ tỉnh
Thái Bình đã đạt được trong thời gian qua, những kinh nghiệm rút ra, với
những giải pháp của đề tài đưa ra được áp dụng đồng bộ và thực hiện đồng bộ
ở các cấp hội phụ nữ trong tỉnh; với sự chỉ đạo sâu sát của hội phụ nữ cấp
trên; sự tạo điều kiện thuận lợi của chính quyền; sự phối hợp chặt chẽ của các
ban, ngành, đoàn thể có liên quan; cùng với sự quyết tâm và nỗ lực phấn đấu
của cán bộ, hội viên, phụ nữ trong toàn tỉnh nhất định trong thời gian tới
phong trào phụ nữ và công tác hội của hội LHPN tỉnh Thái Bình tiếp tục đạt
được nhiều thành tích mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội phụ nữ các
cấp nhiệm kỳ 2011-2016, góp phần thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp
nhiệm kỳ 2010-2015.
Cuối cùng tôi xin được trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hà –
Phó trưởng khoa Chính trị học- Học viện Chính trị- Hành chính khu vực I đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và làm luận văn tốt
nghiệp.
Xin được trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo Học viện Chính trị- Hành
chính khu vực I đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích và thiết thực
trong suốt quá trình học tập sẽ là những kinh nghiệm quý báu giúp chúng tôi
ứng dụng trong thực tế công tác vận động quần chúng.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp là những
cán bộ của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện cho tôi hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này.
Do hạn chế về mặt thời gian nên Luận văn không tránh khỏi những
những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để Luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

63
PHỤ LỤC SỐ LIỆU
BỘ MÁY TỔ CHỨC, HỘI VIÊN VÀ CÁN BỘ
CÁC CẤP HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH
( Đến tháng 12 năm 2013)
Biếu 1: TỔ CHỨC BỘ MÁY CÁC CẤP HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH

Cấp Bộ máy tổ chức


1. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh 4 Ban chuyên môn, 1 trung tâm
2. Hội Liên hiệp phụ nữ cấp 8 huyện, thành phố, 40 cán bộ hội chuyên trách
huyện, thành phố
3. Đơn vị trực thuộc - Ban công tác nữ Công an tỉnh
- Ban công tác nữ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh
- Ban công tác nữ Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng
tỉnh
- Ban nữ công LĐLĐ tỉnh.
4. Hội LHPN cấp cơ sở - 286 xã, phường, thị trấn
- 2.076 chi hội, tổ phụ nữ

64
Biểu 2: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC HỘI VỮNG MẠNH

STT Danh mục Năm 2011 Năm 2013


I. Hội viên
1 Tổng số hội viên/ tỷ lệ thu hút (%) 332.920/76 342.630/78
2 Số hội viên nòng cốt 3.372 55.828
Hội viên là phụ nữ tôn giáo/ tỷ lệ thu 58.326/58 64.622/65
hút(%)
II. Quỹ hội
1. Quỹ hội của BCH hội phụ nữ cơ sở
a Số BCH có quỹ 285 286
b Tỷ lệ % 100 100
2. Quỹ hội của chi, tổ phụ nữ
a Số chi, tổ có quỹ 2.994 3.012
b Tỷ lệ % 99,0 100
III. Xếp loại tổ chức hội cơ sở Năm 2011 Năm 2013
1 Vững mạnh xuất sắc
a Số cơ sở 191 216
b Tỷ lệ % 67 75,52
2 Vững mạnh
a Số cơ sở 91 70
b Tỷ lệ % 32 24,48
3 Trung Bình
a Số cơ sở 3 0
b Tỷ lệ % 1 0

65
Biểu 3: ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ CÁC CẤP TỈNH THÁI BÌNH
GIAI ĐOẠN 2011- 2013
Số cán bộ học Số cán bộ học Số lượt
chính trị chuyên môn cán bộ Số lượt
Số cán được cán bộ
Số cán
Cao Cao bộ học bồi được
bộ học
Chức trung dưỡng tập
văn Sơ Trung cấp Trung đẳng
danh Sơ cấp cấp nghiệp huấn
hoá
cấp cấp Cử cấp Đại phụ vụ các
cấp III
vận công chuyên
nhân học
tác Hội đề
5 tuần
Cán bộ
hội Cấp 0 0 2 4 0 0 1 0 1 230
Tỉnh
Cán bộ
hội Cấp
0 0 6 4 0 0 9 3 4 477
Huyện,
TP
Cán bộ
hội Cấp
113 862 460 2 127 226 268 69 120 53.380
Cơ sở

66
Biểu 4: CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ CÁC CẤP TỈNH THÁI BÌNH
(TÍNH ĐẾN THÁNG 6/2013)
Số cán
Trình độ văn hoá Trình độ chính trị Trình độ chuyên môn Số
bộ là
Tổng cán
Chức Cao ĐB
số cán bộ là
danh Cấp Cấp Cấp Sơ Trung cấp, Sơ Trun CĐ, HĐN
bộ cấp
I II III cấp cấp cử cấp g cấp ĐH D các
uỷ
nhân cấp
I. Cấp
tỉnh
Ban
chấp 28 0 1 27 0 14 13 0 1 26 9 9
hành
Chủ
1 0 0 1 0 0 1 0 0 1 0 1
tịch
Phó chủ
3 0 0 3 0 0 3 0 0 3 1 0
tịch
CB
chuyên 23 0 0 23 0 8 6 0 0 22 1 1
trách
II. Cấp
huyện
Ban
chấp 157 0 4 153 19 113 17 9 65 70 73 88
hành
Chủ
8 0 0 8 0 1 7 0 1 7 8 8
tịch
Phó chủ
12 0 0 12 5 6 1 0 1 11 0 0
tịch
CB
chuyên 38 0 0 38 7 17 8 0 3 35 8 8
trách
III.
Cấp
cơ sở
Ban
chấp 2.710 10 1.533 1.167 557 180 1 236 311 255 507 140
hành
Ban
thường 491 0 160 331 187 73 1 42 133 75 124 33
vụ
Chủ
286 0 13 273 37 232 0 21 154 43 240 244
tịch
Phú chủ
286 0 88 198 138 50 0 46 56 12 89 51
tịch

67
Biểu 5: CÁN BỘ NỮ THAM GIA CẤP UỶ ĐẢNG NHIỆM KỲ 2010 - 2015
VÀ THAM GIA HĐND, UBND CÁC CẤP NHIỆM KỲ 2011- 2016

Cấp tỉnh Cấp huyện, thành phố Cấp cơ sở


Tỷ
Chức danh Tổng Số cán Tổng Số cán Tỷ lệ Số cán Tỷ lệ
lệ Tổng số
số bộ nữ số bộ nữ % bộ nữ %
%
I. CẤP UỶ ĐẢNG
1. Bí thư 1 0 0 8 1 12,5 286 2 0,7
2. Phó bí thư 2 0 0 16 0 0 286 17 5,9
3. UV Ban
13 0 0 97 7 7,2 1.133 35 3,1
thường vụ
4. UV Ban chấp
52 6 11,5 328 44 13,4 4.028 501 12,4
hành
II. HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1. Chủ tịch 1 0 0 8 0 0 286 2 0,69
2. Phó chủ tịch 1 0 0 8 0 0 286 26 9,09
3. Đại biểu
67 18 26,9 349 71 20,3 7.282 1.354 18,6
HĐND
III. UỶ BAN NHÂN DÂN

1. Chủ tịch 1 0 0 8 0 0 286 3 1,04

68
TỈNH ỦY- ỦY BAN NHÂN DÂN
CÁC BỘ, NGÀNH, ĐOÀN THỂ TW VÀ ĐỊA PHƯƠNG TẶNG CÁC CẤP
HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH NHIỆM KỲ 2006-2011
----------------
- Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh năm 2011.
- Chính phủ tặng Cờ thi đua của Chính phủ cho Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh -
đơn vị xuất sắc dẫn đầu khối thi đua năm 2008.
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ cho Hội LHPN tỉnh, 2 tập thể và 5 cá
nhân.
- Huân chương Lao động hạng Ba cho 2 tập thể, 3 cá nhân.
- Hội LHPN tỉnh 5 năm liền nhận Cờ đơn vị xuất sắc của Đoàn chủ tịch TW
Hội LHPN Việt Nam . 159 tập thể và 52 cá nhân được nhận bằng khen của
TW Hội LHPN Việt Nam.
- Các Bộ, ngành, đoàn thể TW tặng bằng khen cho 10 tập thể, 12 cá nhân.
- Tỉnh ủy - UBND tỉnh tặng Cờ đơn vị gương mẫu về mọi mặt cho 4 tập thể.
- UBND tỉnh tặng bằng khen cho 55 tập thể, 46 cá nhân.
- Các sở ngành, đoàn thể tỉnh tặng giấy khen cho 54 tập thể, 80 cá nhân.
- UBND các huyện, thành phố tặng giấy khen cho 291 tập thể, 306 cá nhân.

69
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Các Mác - Ănggen tuyển tập, tập 6 –NXB sự thật Hà Nội – 1984,
Tr248
2. Lênin toàn tập, tập 31 – NXB Macxitcova – 1981, T431
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6– NXBCTQG – 1995, Tr431
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 NXB sự thật, Hà nội 1984, Tr217
5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 NXB sự thật, Hà nội 1984, Tr219
6. Hồ Chí Minh toàn tập – NXBCTQG, Hà nội1995, Tr 97
7. Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ - NXBPN, Hà Nội 1970
8. Công ước CEDAW về loại trừ mọi hình thức phân biệt, đối xử với
phụ nữ.
9. Chỉ thị 37/ CT-TW ngày 16/5/1994 của Bộ Chính trị.
10. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
11. Văn kiện đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI
12. Luật Bình đẳng giới
13. Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Thái Bình lần thứ XIV
14. Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVIII
15. Báo cáo tổng kết phong trào phụ nữ và công tác hội Hội LHPN tỉnh
Thái Bình năm 2011, năm 2013.
16. Lịch sử phụ nữ Thái Bình.
17. Tham khảo một số tài liệu và tạp chí khác( Bộ giáo trình giảng dạy
-Trường cán bộ phụ nữ TW, Thông tin phụ nữ, Tạp chí phụ nữ và tiến bộ- Ủy
ban quốc gia VSTBCPN Việt Nam, Phụ nữ Việt Nam những chặng đường
lịch sử, Lịch sử phong trào phụ nữ Thái Bình...)

70
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
***********

BÙI THỊ HƯƠNG

ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG


CỦA CÁC CẤP HỘI PHỤ NỮ THÁI BÌNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Hà


Phó trưởng Khoa Chính trị học

71
Thái Bình, tháng 8/2014

72

You might also like