You are on page 1of 96

LUẬN VĂN:

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh


đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ
1986 đến 2001
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài


Nói đến vai trò của cán bộ, V.I.Lênin đã từng nói: Hãy cho tôi một đội ngũ
những người Bôn sê vích, tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga. Đảng NDCM Lào luôn luôn
khẳng định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ
của Đảng và Chính phủ nước CHDCND Lào trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ là một lực lượng xã hội rộng lớn, đóng vai trò quan
trọng trong mọi lĩnh vực xã hội, trong thực tế không có một công việc quan trọng nào của
đất nước lại không có sự tham gia của phụ nữ. Trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi
và khó khăn, thách thức; trước yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mới nặng nề, khó khăn và
phức tạp, công tác cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào đòi hỏi phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, Đảng NDCM Lào đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện có nguyên tắc, Đảng đề ra chủ trương đường lối, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cho từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. vấn đề quan trọng nhất có tính chất quyết
định sự thành công hay thất bại của đường lối đó là công tác cán bộ. ở Lào hiện nay, các
cấp, các ngành đều có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và
cán bộ chuyên môn. Để thực hiện thành công những chủ trương, đường lối của Đảng và
phát huy vị trí, vai trò của cán bộ nữ, phải xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp, các
ngành để phụ nữ chủ động thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình. Đại hội IV của Đảng
NDCM Lào đã nêu rõ tình trạng cán bộ nữ:
Hiện nay tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số còn tương đối thấp
trong các cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành. Vì vậy, chúng ta vừa phải tích
cực bồi dưỡng, đào tạo, vừa phải vận dụng tiêu chuẩn cho phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể trong việc bố trí cán bộ nữ và cán bộ các bộ tộc. Mặt khác, cán bộ
nữ, cán bộ các bộ tộc phải phấn đấu vươn lên làm tròn nhiệm vụ được giao [2,
tr.147].
Việc nghiên cứu quá trình Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng trong những năm đổi mới là rất cần thiết,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần tổng kết rút kinh nghiệm thiết thực để xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ 1986 đến 2001"làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề cán bộ, cán bộ phụ nữ và công tác cán bộ
trong điều kiện mới, cho tới nay việc nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng nói chung và đội ngũ cán bộ nữ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều hình
thức khác nhau. ở Việt Nam, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, tổng kết về
công tác cán bộ dưới nhiều hình thức in sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đăng tạp
chí, chẳng hạn như: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Nguyễn Phú Trọng
và Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Bùi Thị Hồng
Tiến: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp cơ sở 1975-1993, luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội 1994...
Ngoài ra trong những năm qua đã có một số luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng
của học viên Lào viết về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ: Đệt Ta Kon Phi La Phăn Đệt,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Hà Nội, 2004; Khăm Phăn Phôm Ma Thặt, Công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý
ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Hà Nội, 2004.
Về vai trò của cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ cũng được nhiều người quan tâm
nghiên cứu như: Ngô Thị Ngọc Anh, Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1975-1995 trong
việc thực hiện chính sách cán bộ nữ, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 1995; Ních Khăm,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, cũng có nhiều luận văn thạc sĩ như: Nguyễn Thị
Mão, Xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ trong công cuộc đổi mới hiện nay, Hà Nội,
1996; Nguyễn Thị Kim Dung: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo quá trình xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ trong công cuộc đổi mới (1986-1996), Hà Nội, 2000... Ngoài ra, cũng có
nhiều người đề cập trong nhiều bài đăng trên các Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng,
Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Tạp chí Thông tin lý luận...
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới ở Lào đến nay hầu như mọi Nghị quyết Đại hội
Đảng, các Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đều đề cập đến công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Đặc biệt là Nghị quyết 7 (khóa V)
1994 của BCHTW về phát triển nguồn lực, Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất
về công tác cán bộ của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tháng 8 năm 1995 đã đề ra phương
hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của công tác cán bộ đến năm 2000. Tuy nhiên, ở Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ mới được đề cập chủ yếu trong các
văn kiện Đại hội Đảng, nhất là trong các văn kiện Đại hội IV, V,VI,VII và trong bài phát
biểu của các lãnh tụ Đảng, Nhà nước và trong nội dung của các Hội nghị công tác tổ chức
cán bộ đều có tổng kết, đánh giá và có chủ trương ở mức độ này hay mức độ khác về công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Trong thực tế, vấn đề này vẫn
rất mới mẻ, chưa được nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và rất ít công trình lý luận
nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng.
Đối với chuyên ngành Lịch sử Đảng, chưa có một luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
nào viết về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào từ năm 1986 đến năm 2001. Lý do trên đã khuyến khích tác
giả đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Hy vọng qua luận văn sẽ đóng góp được một số vấn đề
cả về đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào những năm tiếp theo.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001. Từ
đó rút ra một số kinh nghiệm bước đầu để tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng
ngày càng tốt hơn nữa yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
- Trình bày tương đối có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về việc xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng và quá trình lãnh đạo của Đảng
về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001.
- Phân tích thực trạng của đội ngũ cán bộ nữ trước đổi mới và đặc biệt là trong
thời kỳ đổi mới.
- Rút ra những kinh nghiệm bước đầu từ thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ nữ.
- Phân tích những vấn đề đặt ra, nhiệm vụ và yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ
nữ ở CHDCND Lào trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ đặt ra trên đây, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề
tài là đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đối với công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001, tức từ thời điểm mở đầu đổi mới đến
Đại hội VII của Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Căn cứ vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng dựa trên quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng.
- Luận văn tham khảo kết quả nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu khoa học của
tập thể và cá nhân các nhà khoa học trong những năm qua.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc, đồng thời có
kết hợp phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê tổng hợp nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
đặt ra trong luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày tương đối có hệ thống quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ nữ nói riêng.
- Góp phần vào việc tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001.
- Rút ra những kinh nghiệm bước đầu có ý nghĩa thực tiễn về việc xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ ở nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào nhằm nâng cao chất lượng của công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
đội ngũ cán bộ nữ
ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trước năm 1986

1.1. Khái quát đặc điểm lịch sử, văn hóa và tình hình kinh tế - xã hội Lào
Cho đến nay, việc xác định cụ thể thời kỳ tiền sử của Lào vẫn chưa được làm rõ,
tài liệu về thời kỳ này còn quá ít. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một số nhà khảo cổ
học đã tìm thấy một số hiện vật của người cổ ở Tham Hang, Tham Phạ Lơi (tỉnh Sầm
Nưa) và một số nơi khác cho thấy Lào cũng là một nơi mà con người đã có mặt từ hàng
vạn năm trước đây.
Do hoàn cảnh địa lý là một miền đất có địa hình phức tạp, núi cao, rừng rậm,
sông ngòi nhiều thác và chảy xiết làm cho việc thông thương đi lại gặp nhiều khó khăn,
những bộ lạc đã từng sống lâu đời, cũng như các bộ tộc từ nơi khác đến, thường sống ở
các thung lũng, trên các cao nguyên, hay dọc các ven sông, suối, lập thành các bản,
mường. Do đó, việc tập hợp các bộ lạc, bộ tộc lại với nhau tạo thành một quốc gia có
phần muộn hơn so với các nước láng giềng như Việt Nam, Campuchia và Thái Lan.
Phải đến thế kỷ XIV, Chậu Phạ Ngưm mới thống nhất đất nước lập nên Vương
quốc Lạn Xạng (1353-1357). Đây là một quốc gia phong kiến thống nhất đầu tiên. Từ đó
đến nay, con người ở đây đã lao động sáng tạo và phát triển không ngừng, đấu tranh với
thiên nhiên và mọi trở ngại khác trong xã hội để xây dựng nước Lào. Mặc dù Lào ra đời
và phát triển muộn hơn so với các quốc gia phong kiến khác ở khu vực cũng như trên thế
giới, nhưng đó là những chặng đường lịch sử đấu tranh sinh tồn, phát triển đầy quyết liệt
và hy sinh gian khổ. Sau triều đại Chậu Phạ Ngưm là triều đại Su Li Nha Vông Sa Thăm
My Ka Lạt (1633-1690). Sau khi triều đại Su Li Nha Vông Sa bị suy yếu và tan rã (1690),
Vương quốc Lạn Xạng rơi vào tình trạng loạn lạc, chia cắt, mất chủ quyền, bị các thế lực
phong kiến Ava (Myanma) và Xiêm đô hộ cho tới năm 1893. Sau đó, nước Lào bị thực
dân Pháp xâm lược hơn 60 năm (1893-1954) và hơn 20 năm (1954-1975) sống dưới chế
độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của
Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc Lào nói chung và phụ nữ Lào nói riêng đã đấu
tranh chống lại hai kẻ thù lớn của dân tộc và cuối cùng đã giành được thắng lợi một cách
hòa bình và khai sinh ra nước CHDCND Lào vào ngày 2-12-1975. Từ đây trở đi, cách
mạng Lào đã bước sang giai đoạn mới là giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước, hoàn
thiện chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở vững chắc để từng bước tiến lên CNXH.
Lào là một nước nằm ở phía Tây và Tây Bắc của bán đảo Đông Dương, nằm lọt
trong lục địa Đông Nam á giữa vĩ độ 24 đến 23 độ bắc và kinh độ 100 - 108 độ đông.
Diện tích là 236.800 km2. Lào có biên giới chung với các nước: phía Bắc giáp Trung
Quốc (416 km); Tây Bắc giáp Mianma (230 km); phía Tây giáp Vương quốc Thái Lan
1835 km; phía Nam giáp Vương quốc Campuchia (492 km); phía Đông giáp CHXHCN
Việt Nam (1957 km). Viêng Chăn là thủ đô của CHDCND Lào, có cầu Hữu Nghị qua
sông Mê Kông và sự khơi thông đường sắt đi qua các cầu này sẽ nối Lào với hệ thống
đường sắt của Thái Lan ở phía Tây và hành lang Đông Tây trong kế hoạch nối Thái Lan
qua Nam Trung Lào và Việt Nam ra các cảng nước sâu của Việt Nam ở phía Đông, sẽ là
những điều kiện để phát triển quan hệ kinh tế giữa Lào với Thái Lan và Việt Nam cũng
như các nước trong khu vực và quốc tế. Do vị trí địa lý đặc biệt của mình, CHDCND Lào
được coi như một "địa bàn trung chuyển" của Đông Nam á lục địa từ Tây sang Đông, từ
Bắc xuống Nam và ngược lại. Với vị trí này đã thúc đẩy ASEAN đẩy mạnh hợp tác với
CHDCND Lào và là điều kiện thuận lợi để CHDCND Lào đẩy nhanh quá trình hội nhập
với các nước trong khu vực và quốc tế.
Địa hình của nước Lào phần lớn là núi cao và rừng rậm chiếm khoảng 85% diện
tích lãnh thổ, độ cao trung bình là 200m đến 2.820m. Đặc tính núi đã tạo ra đặc điểm địa
hình đa dạng và khá hiểm trở. Căn cứ vào địa hình, đất đai và khí hậu được phân chia
thành hai mùa là mùa khô và mùa mưa; căn cứ vào địa hình nước Lào được chia làm 3
vùng lớn: Vùng đồi núi phía Bắc; vùng đồng bằng và đồi núi phía Tây; vùng cao nguyên
ở Trung và Nam Lào.
Lào chưa có đường giao thông nối liền từ Bắc đến Nam nên việc giao lưu hàng
hóa và đi lại giữa các vùng, miền, các nơi rất khó khăn, sản phẩm ở những nơi thừa rất
khó chuyển đến nơi thiếu. Hơn nữa, Lào không có biển do đó việc trao đổi buôn bán với
các nước cũng gặp nhiều khó khăn. Điều đó đã cản trở nhiều loại hàng nông nghiệp xuất
khẩu, nhất là những loại có giá trị thấp. Mặc dù vậy, đối với CHDCND Lào, sông Mê
Kông chạy dọc từ Bắc đến Nam với độ dài 1898 km, không chỉ là đường giao thông
huyết mạch từ Bắc tới Nam mà còn là tiềm năng phát triển thủy lợi rất lớn. Đây là một
thế mạnh trong tiềm năng phát triển kinh tế và hợp tác với khu vực.
Lào nằm giữa các nước có nền kinh tế khá phát triển và có chế độ chính trị khác
nhau như: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc... Do đó, ảnh hưởng về mặt chính trị và kinh
tế cũng gây ra không ít khó khăn đối với việc hoạt động của công tác đảng, công tác cán
bộ.
Dân số nước CHDCND Lào ngày nay là 5.609.900, trong đó nữ là 2.813.589
(theo con số điều tra tháng 3 năm 2005). Mật độ dân số trung bình là 24 người/km2, bao
gồm 49 bộ tộc cùng chung sống xen kẽ nhau có những phong tục tập quán, ngôn ngữ và
trang phục khác nhau, trong đó người Lào Lùm chiếm đa số. Các bộ tộc đó sống rải rác ở
18 tỉnh thành, 140 huyện, 10.486 bản, 965.468 hộ gia đình, phân bố không đều: 85%
sống ở nông thôn, dân thành thị có khoảng 15%.
ở Lào, "nông nghiệp chiếm hơn 85% dân số và tổng sản phẩm nông nghiệp
chiếm 60% của GDP" [21, tr.25], sức lao động chưa được khai thác và đưa vào sử dụng
một cách thích đáng vào sản xuất.
Tổng số lao động cả nước Lào trong năm 1998 có khoảng 2,183 triệu người và
đến năm 2000 có khoảng 2,27 triệu người chiếm khoảng 48,0% dân số, trong đó lao động
nữ là 1.231.230 người, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là 1.852.686 người, chiếm
85,5%, trong đó lao động nông nghiệp nữ là 1.003.620 người, chiếm 54,17%; lao động
trong lĩnh vực thương mại có 55.930 người, trong đó nữ có 22.801 người, trong lĩnh vực
dịch vụ có 85.713 người, nữ 48.814 người... [23, tr.23].
Trong những năm gần đây, tuy số người lao động trong các ngành đã bắt đầu có
sự thay đổi lớn, nhưng về mặt chất lượng, trình độ văn hóa, kỹ thuật, tay nghề còn nhiều
hạn chế. Công tác giáo dục, đào tạo chưa thành chiến lược và quan tâm đúng mức từ phía
Nhà nước, năng lực quản lý kinh doanh còn non yếu. Tất cả những cái đó, là một trong
những nguyên nhân cản trở việc mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp
thu khoa học kỹ thuật hiện đại.
Nhìn lại lịch sử hàng ngàn năm, Lào là một miền đất chịu ảnh hưởng của hai nền
văn minh lớn là ấn Độ và Trung Hoa. Người Lào đã hấp thụ những phong tục và tín
ngưỡng của hai nền văn minh này, từ đó đã xây dựng một nền văn hóa đặc sắc của
riêng mình. Đó là một nền văn hóa mang sắc thái và hòa đồng giữa ba loại nguồn gốc:
Thay Lào, nguồn gốc Inđônêxia và nguồn gốc văn hóa Trung Quốc, trong đó nền văn
hóa từ gốc Thay Lào có ảnh hưởng mạnh nhất: "Cả ba loại văn hóa của dân tộc Thay
Lào, gốc Inđônêxia, gốc Trung Quốc đều có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và bổ
sung cho nhau, trong đó sự ảnh hưởng của nền văn hóa của dân tộc Thay Lào là sâu rộng
nhất nó đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của nền văn hóa thống nhất
quốc gia Lào" [59, tr.33].
Nhân dân các bộ tộc Lào có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.
Trong suốt thời kỳ đó, cơ sở tâm lý xã hội phổ biến là dựa trên đạo Phật đã phát triển, tồn
tại và được nhân dân Lào tôn kính trong suốt gần 700 năm. Trong suốt thời gian đó, Phật
giáo đã thấm sâu vào tư tưởng tình cảm và ý thức của nhân dân Lào để tạo nên một nền
văn hóa dân tộc Lào thống nhất, vừa thấm đượm tính nhân từ của đạo Phật, vừa mang sắc
thái bình yên của người Lào. Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống của người
Lào, từ nếp sống trong gia đình đến sự ứng xử xã hội và hoạt động kinh tế. Triết lý Đạo
phật khuyên con người nên sống giản dị, không nên tham lam, phải cần cù, biết tự lập,
dựa vào bản thân mình và tạo cho đời sau tốt hơn. Đức tính vốn có đó của người dân Lào
rất phù hợp với chính sách tiết kiệm cho phát triển và làm nghĩa vụ với đất nước. Nếu có
chính sách thích hợp, phát huy được truyền thống tốt đẹp này, nó sẽ trở thành động lực
vô cùng quý báu trong công cuộc đổi mới, trong xây dựng và phát triển đất nước nói
chung cũng như trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.
CHDCND Lào là một nước có nền kinh tế tự nhiên đã tồn tại qua nhiều thế kỷ,
nhưng trong suốt mấy chục năm gần đây đã xuất hiện kinh tế nửa tự nhiên và một phần ở
vùng đồng bằng dọc theo sông Mê Kông, vùng biên giới của đất nước đang phát triển
theo cơ chế thị trường. Song, kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên là phổ biến. Đây cũng là
một trở ngại cho công cuộc đổi mới ở Lào.
Trong quá trình phát triển, CHDCND Lào gặp phải rất nhiều khó khăn và trở lực.
Trong đó có sự trì trệ của cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp và tình trạng cơ sở
hạ tầng nghèo nàn, thị trường nhỏ hẹp, nằm sâu trong nội địa và chưa thống nhất, nhân
lực và vốn vật chất thiếu nghiêm trọng, khả năng chuyển đổi của nền kinh tế chậm chạp,
tâm lý lối sống và tập quán của nhân dân các bộ tộc Lào gắn bó với thiên nhiên, trong khi
đó các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu uy hiếp và gây mất ổn định.
CHDCND vẫn là một trong những nước nghèo nàn và kém phát triển nhất trên
thế giới. Sự nghèo nàn và kém phát triển của Lào biểu hiện trên các mặt lực lượng sản
xuất, năng suất lao động, trình độ dân trí, mức sống thấp và đặc trưng nổi bật là nền kinh
tế còn mang đậm tính chất tự nhiên và nửa tự nhiên. Việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường còn rất khó khăn. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tư duy và hành động
của nhân dân và ĐNCB công chức của Đảng và Nhà nước.
Đại hội IV (1986) của Đảng NDCM Lào đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện
và sâu sắc, bắt đầu từ đổi mới tư duy trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Nội dung cơ
bản của đường lối đổi mới là: chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chuyển nền kinh tế tự nhiên
tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho các
thành phần kinh tế tham gia vào phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại.
Qua việc thực hiện công cuộc cải tạo và đổi mới gần 20 năm, với sự quyết tâm
cao của toàn Đảng, toàn dân, CHDCND Lào đã đạt được những thành tựu trong lĩnh vực
kinh tế. Thành tựu nổi bật là nền kinh tế quốc dân liên tục phát triển lành mạnh trong
những năm 1986-1990, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trung bình 4,8%/năm và
những năm 1991 - 1995 tăng 6,4%/năm [22, tr.3], năm 1998 tăng 4% [68, tr.73], và năm
2000 kinh tế phát triển 6,2%/năm [47, tr.11]. Cùng với sự tăng trưởng của xã hội thì các
ngành kinh tế cũng đã có những phát triển tích cực. Tổng sản phẩm nông nghiệp năm
1997 tăng 4,9% và năm 1998 tăng 5,1%; tổng sản phẩm công nghiệp, năm 1997 tăng 12,3%
và năm 1998 tăng 8,9%; tổng sản phẩm dịch vụ cũng đã tăng lên năm 1997 tăng 9,8% và năm
1998 tăng 10,6% [51, tr.1], [52, tr.2]. Giá trị sản lượng quy ra thóc năm 1985 là 1.396.000 tấn
năm 1990 là 1.482.000 tấn, năm 1995 là 1.418.000 tấn và đến năm 1998 đạt được 1.675.000
tấn [69, tr.30].
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp và dịch vụ.
"Tỷ trọng nông, lâm nghiệp trong GDP từ 61,2% năm 1990 giảm xuống 51,3% năm 2000,
công nghiệp và xây dựng từ 14,5% tăng lên 22,6; dịch vụ từ 24,3% tăng 26,1%" [23,
tr.16]. "Năm 2003 - 2004 tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 6,5%, trong đó nông
nghiệp 3,5%; công nghiệp 11,4%; dịch vụ 7,4%; GDP/người USD bằng 403" [65, tr.2].
Qua thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng NDCM Lào, tuy đất nước
vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với sự cố gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
các bộ tộc Lào, nền kinh tế của cả nước đã từng bước vượt qua những thách thức gay gắt
và đạt được những thành tựu lớn, có ý nghĩa quan trọng.
Trong lĩnh vực giáo dục đã có tiến triển khá về số lượng và chất lượng. Trẻ em
được vào trường mẫu giáo từ 8% trong năm 2000 lên 10% năm 2005; vào trường tiểu học
tăng từ 77,3% lên 86%; vào trường phổ thông cơ sở: 54,3% và trường phổ thông trung
học: 32,4%. Khoảng 85% số bản trong cả nước đã xây dựng được trường học. Hệ thống
trường đại học quốc gia được mở rộng thêm ở hai trung tâm: tỉnh Chăm Pa Sắc và tỉnh
Luông Pha Bang, cải cách nội dung giáo trình, phương pháp dạy và học, các trường dân
lập ra đời và hoạt động có hiệu quả.
Y tế cũng đã có bước phát triển: công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm,
đầu tư nâng cấp và trang bị kỹ thuật y tế trong cả nước được 8 trung tâm y tế, chăm sóc
sức khỏe, từng bước phát triển mạng lưới y tế cơ sở theo hướng đa dạng hóa loại hình,
tăng cường đội ngũ cán bộ y tế cho các huyện vùng sâu vùng xa. Nhà nước có chính sách
khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực này, đến nay trong cả nước có phòng khám chữa bệnh
của tư nhân tới 230 chỗ. Tất cả đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng hiệu
quả của việc chăm sóc sức khỏe của cộng đồng, tỷ lệ tử vong của phụ nữ và trẻ sơ sinh đã
giảm đi rõ rệt.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục phát triển, vừa tạo phong
trào rèn luyện thân thể trong các tầng lớp nhân dân, vừa bồi dưỡng đào tạo đội ngũ vận
động viên nâng cao thành tích thi đấu ở trong nước và quốc tế. Có đầu tư trong việc bảo
tồn tôn tạo các khu di tích văn hóa nổi tiếng của quốc gia, địa phương, kết hợp việc phát
triển kinh tế, khoa học công nghệ với việc bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và an
ninh quốc phòng.
Việc xóa đói giảm nghèo trong 5 năm (2001 - 2005) đã giao đất, giao rừng cho
nhân dân quản lý và sử dụng được 322.000 ha cho nhân dân 310 bản, phá khoảng 19.000
ha diện tích trồng thuốc phiện, thay đổi cơ cấu cây trồng được 30.000 ha, có 135.000 hộ
gia đình thoát khỏi cảnh nghèo đói.

1.2. quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
nhân dân cách mạng Lào về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ nữ
1.2.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ là một danh từ được dùng rộng rãi trong hoạt động tổ chức và lãnh đạo
của các Đảng Cộng sản cũng như trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày ở các nước xã
hội chủ nghĩa, kể cả ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay.
Theo sự dẫn giải của tập thể tác giả cuốn: "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" (do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, năm 2001) thì từ này xuất hiện trước tiên ở các nước phương Tây, sau
đó được du nhập vào các nước khác, trong đó có các nước châu á như Trung Quốc, Nhật
Bản, Việt Nam... Nhất là ở Việt Nam, từ cán bộ được xuất hiện mấy chục năm gần đây và
được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Theo các tác giả trên, nghĩa
gốc của từ này là chỉ những người làm việc trong bộ máy chính quyền, có vai trò như là
"bộ khung", là "nòng cốt" trong xã hội hay những người chỉ huy trong quân đội trong một
tổ chức [19, tr.18].
Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1999, cán bộ có hai nghĩa:
- Là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan nhà nước,
Đảng và đoàn thể.
- Là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với những người bình thường không có chức vụ.
Trong nghĩa thứ nhất, cán bộ được xem như là người làm hành chính công trong
các cơ quan nhà nước, bao gồm cả những người có chức vụ hành chính cao nhất đến
những người không có chức vụ hành chính nào, tất cả đều nằm trong bộ máy, có nghĩa vụ,
trách nhiệm trong bộ máy nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo
ngạch lương nhất định do Nhà nước quy định. Trong trường hợp này cán bộ được đồng
nhất với công chức.
Theo nghĩa thứ hai, cán bộ được coi như là người có chức vụ và trách nhiệm cao
hơn trong bộ máy tổ chức. Điều này phản ánh nghĩa gốc của từ cán bộ, bởi vì chính
những người có chức vụ, trách nhiệm cao mới có vai trò là "nòng cốt", là "người chỉ huy"
và đây chính là một góc độ trong cách hiểu thông thường.
Nhưng trên thực tế cả hai nghĩa đó luôn quyện vào nhau và từ cán bộ không chỉ
là đối tượng là các công chức nhà nước mà là toàn bộ những người làm việc trong hệ
thống chính trị.
Trước đây, trong chiến tranh, "cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc
trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội" [19, tr.18]. Hiện nay, mặc dù hoàn
cảnh thực tế khác đi và trong nhận thức của con người cũng có nhiều đổi thay, nhưng
trong cách hiểu thông thường nhất, từ "cán bộ", trước hết vẫn để phân biệt những người
làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị nằm trong
biên chế, của Nhà nước và hưởng lương từ ngân sách.
Trong Pháp lệnh cán bộ, công chức Việt Nam năm 1998 đã xác định đối tượng là
cán bộ, công chức bao gồm những người "trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước"; những người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên... trong các cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội nhân dân và công an
nhân dân [17, tr.5-6].
ở CHDCND Lào, theo Từ điển tiếng Lào xuất bản năm 1996, cán bộ cũng đồng
nghĩa với công chức, nhà nước [67, tr.356]. Còn quan niệm về công chức thì được thể
hiện rõ trong đối tượng của Nghị định 171 (1993), nay là Nghị định 82 (2003) của Thủ
tướng Chính phủ về Quy chế công chức CHDCND Lào. Theo đó, tất cả những người làm
việc trong biên chế của các tổ chức nhà nước, Đảng, quần chúng đều được gọi là công
chức [37, tr.1].
Từ những điều nói trên cho phép chúng ta khẳng định rằng: cán bộ là một khái
niệm dùng để chỉ những người công tác ở các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể chính trị, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả những người giữ chức vụ
lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ không giữ chức vụ.
1.2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò phụ nữ
Chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao vai trò, vị trí và khả năng của phụ nữ và cán
bộ nữ. Theo các nhà kinh điển thì trong lịch sử nhân loại không có một phong trào nào
của những người bị áp bức mà lại không có phụ nữ tham gia, bởi vì phụ nữ lao động là
những người bị cùng khổ nhất trong tất cả những người bị áp bức, nên không bao giờ họ
đứng ngoài và không thể đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng
chính bản thân họ. Trong thời kỳ công xã, thời nô lệ hay trong chế độ phong kiến, chế độ
TBCN, phụ nữ sát cánh cùng nam giới chiến đấu để đánh đổ giai cấp bóc lột. Từ thực
tiễn lao động đó Lênin đã khái quát:
Không còn nghi ngờ gì nữa, ở nước ta, những tổ chức đó đã trở nên ngày
càng nhiều hơn và bắt đầu thay đổi tính chất. Không còn nghi ngờ gì nữa,
trong giới phụ nữ công nông, số người tổ chức có tài, tức là những người biết
tổ chức công việc một cách thực tiễn làm cho một số lớn người lao động và
một số lớn hơn nữa những người tiêu dùng tham gia vào đó, mà không phải
tốn nhiều lời, không bận rộn túi bụi, không tranh cãi, không ba hoa về kế
hoạch, về hệ thống... tức là những mắc phải những bệnh mà những "nhà trí
thức" tự phụ một cách lố lăng, hoặc những "người cộng sản" non nớt vẫn
thường mắc phải, số người như thế đã có nhiều hơn con số mà chúng ta đã
biết, nhưng chúng ta chưa chăm sóc đúng mức những mầm mống đó của cái
mới [6, tr.28- 29].
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết cách mạng và khoa học, đứng trên
quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mới tìm ra nguyên
nhân đích thực của sự bất bình đẳng nam nữ, thấy được lực lượng và điều kiện cụ thể cùng
với những biện pháp hiệu quả để giải phóng phụ nữ. Mỗi bước chuyển của lịch sử xây dựng,
mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in đậm công lao của phụ nữ, cuộc đấu tranh cho sự
bình đẳng của xã hội, vì sự phát triển của nhân loại. C.Mác lấy mức độ giải phóng phụ nữ để
làm một trong những tiêu chuẩn để đánh giá trình độ văn minh của nhân loại, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dẫn trong bài Phụ nữ quốc tế: "xem tư tưởng và việc làm của đàn bà, con
gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào" [13, tr.288].
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học cũng đã chỉ ra điều kiện, biện
pháp để giải phóng phụ nữ. Xuất phát từ tình trạng bất bình đẳng quyền lợi về kinh tế,
Ăngghen đã khẳng định: "Sự nghiệp giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam và nữ
đều không thể có được và mãi mãi không thể có được, chừng nào mà phụ nữ vẫn bị gạt ra
ngoài lao động sản xuất xã hội và còn phải bị bó hẹp trong công việc riêng tư của gia
đình" [8, tr.506].
Lênin, người học trò xuất sắc của Mác - Ăngghen, đã kế tục và phát triển những
quan điểm cách mạng của Mác - Ăngghen về vai trò của phụ nữ trong điều kiện giai cấp
vô sản đã có chính quyền. Người đã viết nhiều, nói nhiều về phụ nữ và đã thực hành giải
phóng phụ nữ ngay trên đất nước Nga Xô viết. Lênin đã vạch ra bản chất của chủ nghĩa
tư bản trong giai đoạn tột cùng của nó là đã chứa đựng biết bao hiện tượng nghèo nàn, bị
bóc lột và bị áp bức. Chế độ tư bản giống các chế độ nông nô là ở chỗ đều là kẻ bóc lột,
mặc dầu hình thức bóc lột có khác nhau. Trong tất cả các nước văn minh, ngay cả những
nước tiên tiến nhất, phụ nữ vẫn ở vào địa vị mà người ta gọi đúng là nô lệ gia đình.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917), chính quyền Xô viết được
thành lập, Lênin đã chỉ rõ nhiệm vụ của chính quyền Xô viết là phải xóa bỏ sự hạn chế
quyền lợi của người phụ nữ, thu hút lực lượng phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội,
tham gia công việc quản lý nhà nước. Đây là cuộc cách mạng phải trải qua quá trình đấu
tranh lâu dài và khó khăn, không thể dễ dàng và ảo tưởng. Lãnh tụ Lênin vạch rõ:
Mặc dù có mọi luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ vẫn còn là nô lệ trong
gia đình vì những công việc nội trợ còn đè nặng lên lưng họ, làm cho họ nghẹt
thở, mụ mẫm, nhọc nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào con cái, lãng phí sức
khỏe của họ vào công việc cực kỳ không cần thiết, làm cho họ đần độn, bị gò
bó. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể cứu giúp phụ nữ thoát ra khỏi tình
trạng đó. Chỉ chừng nào chúng ta chuyển từ nền kinh tế nhỏ lên nền kinh tế
công cộng và chế độ canh tác chung, thì phụ nữ mới có thể hoàn toàn giải
thoát và giải phóng triệt để được [3, tr.26].
Lực lượng phụ nữ là một trong những nhân tố quyết định thành công của cách
mạng. Coi giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, đó là một
trong những điểm để phân biệt cuộc cách mạng vô sản với các cuộc cách mạng xã hội
khác. Lênin cho rằng:
Chừng nào mà phụ nữ không những chưa được tự do tham gia đời sống
chính trị nói chung mà cũng chưa được quyền gánh vác một công việc thường
xuyên và chung cho cả mọi người, thì chừng ấy không những chưa nói đến
chủ nghĩa xã hội được, mà cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ
toàn vẹn và bền vững được [3, tr.73-74].
Lênin đã phát triển một cách sáng tạo quan điểm của Mác - Ăngghen về giải
phóng phụ nữ trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, phụ nữ được
bình đẳng với nam giới trong việc tham gia lãnh đạo nhà nước và quản lý xã hội. Khi
điều kiện cho phép, Lênin đã đề ra và thực hành nhiều biện pháp hữu hiệu để đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ cho phụ nữ có đủ khả năng tham gia quản lý nhà nước.
Lênin cho rằng ngày nay đã có chính quyền công nông thì việc giáo dục chính trị cho phụ
nữ lao động có một tầm quan trọng hàng đầu. Nhiệm vụ của chúng ta là làm sao ngày
càng có nhiều công nhân tham gia vào việc quản lý nhà nước. Trong khi tham gia quản lý
phụ nữ sẽ học tập nhanh chóng và đuổi kịp nam giới.
Học thuyết Mác - Lênin là học thuyết khoa học và cách mạng đã chỉ ra nguyên
nhân kinh tế của bất bình đẳng nam nữ mà biểu hiện đầu tiên là sự phân biệt đối xử giữa
đàn ông với đàn bà; từ đó lên án, phê phán quan điểm phong kiến và tư sản đối với phụ
nữ. Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự nghiệp giải phóng phụ nữ là một
quá trình gắn liền với thắng lợi của CNXH và CNCS. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin chỉ ra những điều kiện để giải phóng phụ nữ:
Một là, sự phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại cùng với sự nghiệp cách
mạng giải phóng giai cấp công nhân.
Hai là, đưa phụ nữ tham gia lao động sản xuất, có khả năng độc lập về kinh tế, có
đóng góp về kinh tế chung trong gia đình và xã hội.
Ba là, phụ nữ biết làm việc nước, tham gia các hoạt động xã hội và trực tiếp tham
gia quản lý nhà nước.

1.2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán
bộ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế thừa và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề phụ nữ và cán bộ nữ. Người đã đánh giá đúng vai trò và khả
năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ là những người vợ, người mẹ,
người thầy đầu tiên trong gia đình và nuôi dậy những mầm non của đất nước. Ngoài ra,
phụ nữ còn có khả năng và trên thực tế đã trực tiếp đóng góp nhiều công sức xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Địa vị kinh tế, chính trị, xã hội quy định quyền bình đẳng của phụ nữ. Vì vậy,
điều căn bản có ý nghĩa quyết định cho sự bình đẳng của phụ nữ là phải giải phóng sức
lao động của phụ nữ, tạo điều kiện để chị em tham gia lao động sản xuất, quản lý kinh tế,
tham gia công tác xã hội cùng với nam giới. Người nghiêm khắc phê bình thái độ thành
kiến, hẹp hòi của cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng
cán bộ nữ. Tại Hội nghị cán bộ cao cấp Trung ương năm 1966, Người căn dặn: "Đặc biệt
phải chú ý cất nhắc cán bộ phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động
thích hợp với phụ nữ" [12, tr.21]. Người cho rằng phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý
cũng làm tốt không thua kém gì nam giới. Cán bộ nữ hoàn toàn có đầy đủ tinh thần và
khả năng tham gia các hoạt động xã hội, đóng góp với phong trào chung. Đặc biệt cán bộ
nữ có tác dụng trực tiếp rất mạnh đối với việc phát triển và thúc đẩy phong trào phụ nữ.
Muốn có phong trào phụ nữ thì phải có cán bộ nữ. Ngược lại, phong trào phụ nữ phát
triển nhanh hay chậm, thành quả đến mức độ nào là do cán bộ đóng vai trò quyết định.
Cán bộ nữ là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng phụ nữ là những người tiên phong của
phong trào phụ nữ, người thiết tha nhất với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Muốn giáo dục
động viên phụ nữ phải có đội ngũ cán bộ nữ tốt và giỏi.
Đối với cán bộ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình cảm đặc biệt, sự bao dung,
độ lượng và chăm chút thương yêu. Người không dừng lại ở sự cảm thông, thương xót số
phận của người phụ nữ, mà đã tìm ra căn nguyên của sự bất bình đẳng đối với người phụ
nữ, chỉ ra biện pháp để giải phóng người phụ nữ. Theo Người, giải phóng phụ nữ phải được
thực hiện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng đem lại những quyền
lợi vật chất, tinh thần đồng thời mở ra tương lai phát triển tốt đẹp cho chị em phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn các cấp ủy đảng các ngành khi giao
công việc cho phụ nữ phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức giúp đỡ họ.
Người cho rằng việc chị em phụ nữ tham gia vào các cơ quan lãnh đạo các cấp, các
ngành là nhiệm vụ Đảng phải quan tâm thường xuyên và đó cũng là biểu hiện cụ thể của
ý thức, trình độ và năng lực thực hiện nam nữ bình đẳng về chính trị và xã hội.
Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò và khả năng của phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Chính Người đã mạnh dạn cất nhắc đề bạt cán bộ nữ vào sử dụng đúng sở trường và khả
năng cán bộ nữ. Theo Người, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì ngoài việc
mang đến cho họ những quyền lợi và sự bình đẳng với nam giới cần phải đào tạo và bồi
dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi có ích cho đất nước. Vì vậy, phải mạnh dạn cất
nhắc, đề bạt cán bộ nữ. Nếu có cất nhắc phụ nữ nhưng chưa mạnh dạn tức là còn phần
nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ. Quan điểm của Người là tăng cường cán
bộ nữ và đưa phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, không phải là bênh vực chị em mà là xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn lịch sử của cách mạng và từ chính khả năng, năng lực của cán
bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào khả năng to lớn của phụ nữ, mạnh dạn cất
nhắc và đề bạt cán bộ nữ, bởi vì Người nhận thấy cán bộ nữ có nhiều ưu điểm là "ít mắc
bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí, không hay chè chén như một số cán bộ nam" [11,
tr.165], đồng thời Người cũng chỉ ra những khuyết điểm của chị em cần khắc phục đó là
hay có thái độ tự ti, ỷ lại, ngại đấu tranh phê và tự phê bình. Người khuyên chị em phải tự
lực tự cường vươn lên, bản thân chị em phải cố gắng tranh thủ thời gian để học tập chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, cần kiệm xây dựng gia đình và làm tốt các công việc
được giao. Chỉ có như vậy Đảng và Chính phủ mới sẵn sàng cất nhắc và giao cho những
nhiệm vụ quan trọng.
Đây là quan điểm đúng trong việc sử dụng bố trí cán bộ nữ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Người coi trọng việc phát huy ưu điểm của cán bộ nữ, những ưu điểm đó xuất phát
từ đặc điểm tâm lý, bản chất tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm trong tiêu
dùng và có quan điểm quần chúng, gần gũi và hòa mình với phong trào quần chúng... Bố
trí cán bộ nữ vào những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng thì chị em phụ nữ có điều
kiện để phát huy và phát triển hết năng lực của mình.
Người luôn luôn gắn liền đội ngũ cán bộ nữ với phong trào phụ nữ. Người sớm
xác định giải phóng phụ nữ, giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một mục tiêu của cách
mạng. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng là phải động viên thu hút được toàn bộ lực lượng và tất cả các tầng
lớp nhân dân trong xã hội cùng tham gia góp sức thì cách mạng mới thắng lợi được. Bởi
vì, cách mạng XHCN là cuộc cách mạng hoàn toàn mới, khác hẳn về chất so với các cuộc
cách mạng trước nó. Mục đích là xóa bỏ hoàn toàn và triệt để mọi áp bức bóc lột, do đó
càng phải thu hút lực lượng phụ nữ. Đây là tư tưởng vừa thể hiện sự kế thừa, vừa phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
XHCN. Đồng thời, còn thể hiện quan điểm nhân đạo và quan điểm kinh tế - xã hội đối
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ tinh thần nhân đạo
cộng sản chủ nghĩa mà còn xuất phát từ một niềm tin vững chắc vào tinh thần yêu nước
và khả năng lao động sáng tạo và những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ. Theo quan điểm
của Người, nguyên nhân gây ra nỗi khổ cực của phụ nữ Việt Nam cũng như phụ nữ trên
thế giới là do ách áp bức giai cấp và nô dịch dân tộc. Từ đó Người đã vạch ra con đường
giải phóng phụ nữ, đó là con đường tham gia cách mạng để đánh đổ ách áp bức bóc lột.
Khi đất nước đã giành được độc lập dân tộc, phụ nữ đã thoát khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa thực dân, cách mạng phải bắt tay ngay vào xây dựng cuộc sống mới, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra những điều kiện chủ yếu để giải phóng phụ nữ. Điều kiện đó
không chỉ là phát triển của văn hóa, giáo dục mà phải thu hút phụ nữ, giúp đỡ họ tham
gia vào các tổ chức kinh tế, lao động sản xuất có ích. Phụ nữ phải được giải phóng khỏi
lao động bếp núc gia đình, phụ nữ phải trở thành lực lượng lao động của toàn xã hội.
Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà còn
là một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà chính trị kiệt xuất đã tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng phụ nữ và xây dựng, sử dụng đội ngũ cán bộ nữ. Người đã thu phục, động viên
được cả phong trào phụ nữ to lớn và thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH
ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện một cách nhất
quán vị trí, vai trò của phụ nữ và đội ngũ cán bộ nữ trong các giai đoạn lịch sử của Đảng,
đặc biệt là giai đoạn Đảng cầm quyền. Đảng với tư cách là lãnh tụ chính trị và là đội tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, trước hết phải đề ra được chủ trương, nghị quyết,
đường lối chính trị đúng đắn. Để làm được việc đó, Đảng phải có những đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí thức và kinh nghiệm, có đạo đức cách mạng, nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện lịch sử cụ thể.

1.2.2. Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ
Trải qua mấy chục năm xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng
NDCM Lào đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp
với điều kiện cụ thể của đất nước Lào trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từ 1986
đến năm 2001. Đảng đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học về
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng là bài học rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của việc hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào trong quá trình của cách mạng, đồng thời
nó luôn luôn mang tính thời sự nóng hổi về cả phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó,
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nữ là một nội dung không thể tách rời trong công tác
cán bộ của Đảng và yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, cũng như phát triển phong
trào phụ nữ. Đại hội IV của Đảng NDCM Lào là Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đất
nước đã khẳng định:
Cùng với sự chuyển biến của cách mạng từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến sang xây dựng một chế độ xã hội mới, phụ nữ nước ta đã được giải
phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Nhưng vì tàn dư của xã hội cũ, như phong tục,
tập quán lạc hậu còn rất nặng nề trong đời sống xã hội ta, nên việc giải phóng
phụ nữ một cách triệt để, thực hiện nam nữ bình đẳng còn là vấn đề cần được
tiếp tục giải quyết, trong đó Hội Phụ nữ đóng vai trò quan trọng, có nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, vận động, tổ chức, tập hợp các tầng
lớp phụ nữ phát huy những truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Lào, khắc phục tư
tưởng tự ty, ỷ lại, tính thụ động trong phấn đấu vươn lên của phụ nữ, làm cho
họ tích cực tham gia vào các phong trào thi đua từ việc xây dựng gia đình văn
hóa mới đến việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội [2, tr.142].
Những quan điểm chủ đạo mang tính bao trùm đã thể hiện tính cấp bách và là
vấn đề sống còn của công tác cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Tính cấp bách
của cán bộ và công tác cán bộ không chỉ xuất phát từ bản chất lý luận mà còn xuất phát
từ đòi hỏi thực tiễn lịch sử của cách mạng Lào hiện nay, từ ngay bản thân công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ thời gian qua với những đặc điểm vốn có của nó.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ nữ, ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng NDCM Lào luôn coi công tác cán
bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là một trong những vấn đề có tầm quan
trọng chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình. Đảng đã từng bước xây
dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực phẩm chất thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong từng giai đoạn cách mạng. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, đội ngũ cán
bộ của Đảng nói chung và cán bộ nữ nói riêng đã có những cống hiến to lớn vào quá trình
thắng lợi viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc và bản thân phụ nữ cũng đã tạo ra
phẩm chất có tính đặc trưng của mình. Từ khi có Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, phẩm chất
có tính đặc trưng đó của phụ nữ Lào dần dần được phát huy được khơi dậy với những
điều kiện hoàn toàn mới.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài đòi
hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, do đó công tác cán bộ của Đảng, đặc biệt
là việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng bố trí đội ngũ cán bộ nữ càng đòi hỏi phải phù hợp và
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Nhất là trong quá trình chuyển đổi
nhiệm vụ cách mạng từ giải phóng dân tộc sang xây dựng đất nước, đặc biệt là trong thời
kỳ đổi mới trong điều kiện nền kinh tế còn yếu kém, sản xuất chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường càng làm cho vấn đề cán bộ trở
nên hết sức quan trọng và cấp bách.
Một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và đảm nhận được những nhiệm vụ lớn trong
tình hình mới, có đủ bản lĩnh, phẩm chất đạo đức trước những thách thức của tình hình
mới đang là một công việc lớn của toàn Đảng, đó là phải đổi mới toàn diện. Hiện nay,
vấn đề quan trọng nhất là phải đổi mới công tác cán bộ và phong cách lãnh đạo để đưa sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân tiếp tục tiến lên. Tức là phải đổi mới về công
tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn và năng lực lãnh đạo.
Trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp cách mạng hiện nay, nếu chúng ta không kịp
đổi mới công tác cán bộ thì không thể đáp ứng được yêu cầu đó. Đại hội IV của Đảng
NDCM Lào đã chỉ ra rằng: "chúng ta phải đổi mới công tác cán bộ một cách căn bản, từ
quan điểm đến cơ chế lựa chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, trước hết phải đổi mới quan
điểm của những người làm công tác tổ chức cán bộ" [2, tr.144].
Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ thực sự là yêu cầu vừa cơ bản vừa
bức xúc, chẳng những đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước hôm nay
mà còn chuẩn bị những thế hệ cách mạng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng trong
tương lai, đảm bảo đưa đất nước tiến bước sang thời kỳ mới. Đảng NDCM Lào, qua học
tập và đúc kết kinh nghiệm lãnh đạo từ nhiều năm nay Đảng coi công tác cán bộ nói
chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ sau Đại hội
IV và V của Đảng NDCM Lào đã có sự thay đổi về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ,
nhất là từ sau Nghị quyết 5 (khóa IV) và Nghị quyết 7 (khóa V).
Trong Hội nghị Tổ chức cán bộ toàn quốc lần thứ 7 (17/12/1991), Chủ tịch Cay
sỏn Phôm Vi Hản đã nói:
Cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại của đường lối. Để đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của cách mạng nó đòi hỏi phải
xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ chính trị, vừa vững chắc và
đồng bộ, có tính kế tục và đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng. Phải
nhanh chóng lập quy hoạch đào tạo cán bộ từ yêu cầu thực tiễn của các lĩnh
vực, bắt đầu từ trình độ nhận thức khả năng của từng loại cán bộ. Chú trọng
bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở vùng sâu, vùng xa, cán bộ dân tộc thiểu số và
cán bộ nữ [33, tr.112,116,117,118].
Trong giai đoạn hiện nay của công cuộc đổi mới toàn diện, một vấn đề đặt ra là
phải thực hiện hàng loạt biện pháp, giải pháp lớn, gắn với việc đổi mới một bước về tổ
chức, gắn quá trình đổi mới về kinh tế với đổi mới về tổ chức và phân công lao động,
chỉnh đốn và đổi mới công tác tổ chức cán bộ cần phải có đội ngũ cán bộ vững vàng về
chính trị, có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn giỏi, có đủ năng lực trí tuệ và thực tiễn,
biết khai thác tiềm năng thế mạnh của đất nước cũng như những phẩm chất năng lực và
truyền thống tốt đẹp của phụ nữ, biết khơi dậy và phát triển nguồn lực nội sinh, quán triệt
các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vận dụng vào
điều kiện cụ thể của đất nước một cách chủ động sáng tạo, đề ra chủ trương sát hợp, tổ
chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, xây dựng
đoàn thể quần chúng nhân dân, đưa các chủ trương, chính sách, các nghị quyết của Đảng
và Nhà nước vào hiện thực cuộc sống. Đây là một công việc cần phải quan tâm hàng đầu,
để xây dựng được đội ngũ cán bộ có đầy đủ những tiêu chuẩn đã nêu trên.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng NDCM Lào luôn luôn nhấn mạnh:
trong vấn đề tài nguyên, con người cũng có nhiều mặt, nhưng cái trọng tâm nhất là vấn
đề cán bộ, cần phải đổi mới và củng cố nhiều hơn về cách suy nghĩ, phương thức làm
việc cũng cần phải thay đổi, năng lực, đạo đức cũng cần phải được củng cố và nâng cao.
Nếu không nhận thức đầy đủ vấn đề này thì không thể theo kịp tình hình đổi mới được.
Trong tình hình chung của thế giới hiện nay, vấn đề con người và phát triển nguồn lực
con người đang được đặc biệt coi trọng để phát triển đất nước. Đây đồng thời cũng là vấn
đề Đảng và Nhà nước CHDCND Lào rất quan tâm và thực tế đang là vấn đề bức xúc để
thực hiện thành công những đường lối và chủ trương, những chiến lược, những mục tiêu
để đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đến thành công.
Quan điểm của Đảng NDCM Lào đối với cán bộ và công tác cán bộ lúc nào cũng
rõ ràng và nhất quán. Đảng coi công tác cán bộ và cán bộ là vấn đề có tính chiến lược, là
khâu quan trọng trong mỗi giai đoạn cách mạng cũng như trong từng lĩnh vực, từng mặt
trận chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội... bởi vì nó có liên quan trực tiếp đến việc
đào tạo, bố trí lực lượng, gắn liền với việc củng cố bộ máy tổ chức. Đường lối về công
tác tổ chức cán bộ không chỉ phục vụ đường lối chính trị mà còn là nhân tố quyết định sự
thành công của đường lối chính trị, quyết định việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối
chính sách của Đảng.
Vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, nhìn chung, luôn gắn liền trực tiếp với việc củng
cố năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Nếu có cán bộ giỏi và tốt thì sẽ nâng cao uy tín,
vai trò lãnh đạo của Đảng, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, ngăn chặn các
hiện tượng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác. Có cán bộ tốt
mới có tổ chức vững mạnh, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và hòa thuận đoàn
kết giữa các tầng lớp người và các bộ tộc, phát huy năng lực của toàn dân trong thực hiện
đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong Hội nghị Công tác cán bộ
toàn quốc Lào (ngày 7/8/1995) Chủ tịch Khăm Tày - Xỉ Phăn Đon nói:
Về công tác cán bộ trước mắt, phải tập trung xây dựng lực lượng của
Đảng cho vững mạnh, nhất là phải xây dựng được cán bộ chủ chốt, lãnh đạo
trong các tổ chức đảng - Nhà nước trong các ngành và các địa phương, đào tạo
cho được cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và cán bộ cấp cơ sở. Công tác cán bộ
của chúng ta phải đảm bảo cho việc củng cố tổ chức của Đảng, của Nhà nước
và các tổ chức quần chúng... [54, tr.16-17].
Đảng NDCM Lào luôn khẳng định rằng cán bộ có vai trò quyết định sự thành bại
của đường lối. Do đó, ngay từ đầu Đảng coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ:
Trong những năm trước mắt chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng
và khả năng của cán bộ theo kịp đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
mới, vừa đủ về số lượng đáp ứng yêu cầu của cấp cơ sở. Vì vậy, chúng ta phải
nhanh chóng lập quy hoạch đào tạo cán bộ dài hạn và ngắn hạn. Quan điểm của
Đảng ta về bồi dưỡng và đào tạo cán bộ là kết hợp nhuần nhuyễn giữa bồi dưỡng
nâng cao trình độ với việc đào tạo; giữa giáo dục quan điểm lập trường giai cấp
và đạo đức cách mạng với việc trang bị kiến thức mới về mặt chuyên môn và
kiến thức chung; kết hợp giữa người cũ và người mới; với nhiều độ tuổi khác
nhau, đảm bảo tính kế thừa liên tục; tiến hành bồi dưỡng và đào tạo các loại cán
bộ một cách đồng bộ như cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế - xã hội, cán bộ làm công tác ngoại giao, nhà chuyên gia về các mặt và cán bộ
kinh doanh, coi trọng một cách thích hợp cán bộ từ cơ sở, cán bộ dân tộc thiểu số
và cán bộ nữ gắn liền với yêu cầu của từng chức danh [46, tr.61-62].
Đảng NDCM Lào nhấn mạnh: Hội Liên hiệp phụ nữ "có nhiệm vụ giáo dục nâng
cao trình độ và tăng cường khả năng phát triển về mọi mặt cho phụ nữ, để phát huy vai
trò của phụ nữ trong xã hội và chủ động thực hiện quyền bình đẳng nam nữ; đồng thời
cũng ra sức phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em"
[46, tr.54].
Trong việc đào tạo - bồi dưỡng cán bộ phải coi trọng đào tạo, bồi dưỡng về chính
trị - tư tưởng, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, lý tưởng cách mạng, tinh thần yêu nước,
tinh thần tự lực cánh sinh, truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân các bộ tộc Lào
trong các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử gắn liền với truyền thống đấu tranh thắng lợi và
sự chỉ đạo lãnh đạo toàn dân của Đảng là khâu quan trọng nhất. Việc giáo dục đó phải
làm liên tục, có hệ thống làm thường xuyên và phải gắn liền với việc giải quyết vấn đề
thực tiễn đặt ra trong công tác cán bộ.
Việc đào tạo cán bộ là quá trình lâu dài. Vì vậy, phải nhìn nhận một cách có hệ
thống, có quá trình, trong đó phải chú trọng khâu tìm nguồn để đào tạo cán bộ, chú ý tìm
nguồn từ ngay trong trường để có phương hướng đào tạo phù hợp với điều kiện hiện nay
- phải quan tâm đặc biệt đào tạo cán bộ trong tầng lớp những người lao động và con cháu
của cán bộ cách mạng.
Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phải đảm bảo và gắn liền với nhiệm vụ chính trị
của Đảng, gắn liền với việc củng cố bộ máy tổ chức có nghĩa là đào tạo cán bộ phải gắn liền
với mục tiêu của việc phát triển kinh tế - xã hội, tránh đào tạo cán bộ một cách tràn lan
không có kế hoạch, không bắt nguồn từ yêu cầu cụ thể. Chúng ta phải cố gắng giải quyết tình
trạng cán bộ vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đảm bảo chất lượng để điều hành công việc như
thời gian vừa qua.
Việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ phải đảm bảo tính giai cấp của Đảng, chú
trọng bồi dưỡng đào tạo cả ba lớp và ba loại cán bộ như: cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và cán bộ chuyên môn, coi trọng việc đào tạo cán bộ cho địa phương,
nhất là cán bộ cấp huyện và cơ sở, cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ nữ, tập trung
bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ đã có bằng nhiều biện pháp thích hợp trong
đó phải chú trọng hình thức học tại chỗ và tập trung đào tạo cán bộ một số
chuyên ngành đang thiếu chẳng hạn: cán bộ nông nghiệp, cán bộ luật pháp, cán
bộ biết làm kinh tế thị trường, ngoại ngữ... [54, tr.18-19].
Như vậy, những vấn đề lý luận và quan điểm về cán bộ và công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể quần chúng như đã trình bày ở trên đã giải quyết những vấn đề cơ bản, được coi là cơ
sở khoa học đối với vấn đề cán bộ, nhất là đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán
bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng ở Lào hiện nay.
1.2.3. Vị trí, vai trò và đặc điểm của cán bộ
1.2.3.1. Vị trí, vai trò
Như đã nói ở trên, nghĩa gốc của từ cán bộ là chỉ những "người nòng cốt",
"người chỉ huy" và những người được coi là "bộ khung" của một hệ thống chính trị - xã
hội. Chính những từ này đã nói lên một cách khái quát nhất về vị trí, vai trò của cán bộ.
Lịch sử dựng nước và giữ nước, nhất là sự nghiệp đổi mới toàn diện hiện nay của
Đảng NDCM Lào đều đã chứng minh vị trí, vai trò và khả năng to lớn của đội ngũ cán bộ
của Đảng nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Thắng lợi bước đầu của cuộc cách mạng và sự
nghiệp đổi mới là ở sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn, huy
động được mọi nguồn lực vật chất, tinh thần của toàn dân, toàn xã hội, giải phóng lực lượng
sản xuất, phát huy vai trò con người là trung tâm là nhân tố cơ bản nhất quyết định toàn bộ
hoạt động sản xuất vật chất, tinh thần và là động lực cách mạng của toàn xã hội.
Khi nhân tố con người đã được nhìn nhận một cách đúng đắn, vị trí, vai trò của
nó được khẳng định thì công tác cán bộ - một trong những yếu tố liên quan đến con
người cũng phải được nhìn nhận và chú trọng như một khâu then chốt có tính quyết định
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Cán bộ là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng.
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đưa ra quan điểm khoa học về vai trò
của cán bộ. Hai ông đã chỉ ra rằng, nếu không có những hoạt động thực tiễn có mục đích
thì những tư tưởng tốt đẹp bao nhiêu cũng chẳng đem lại kết quả mong muốn nào cả. Mác và
Ăngghen viết: "Muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có con người vận dụng một lực
lượng thực tiễn" [9, tr.154] và cũng chính từ trong hoạt động thực tiễn của mình, hai ông đã
thể hiện và thực hiện nhiều quan điểm và nguyên tắc về cán bộ.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng lúc đó, hai ông luôn nhất quán một
nguyên tắc: phát hiện, lựa chọn, đào tạo, rèn luyện các nhà cách mạng (cán bộ lãnh đạo)
chủ yếu là qua phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. Đồng thời luôn coi vấn
đề nắm vững lý luận là một tiêu chuẩn rất quan trọng trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Hai ông sớm chỉ rõ: người cán bộ lãnh đạo trước hết là người tiêu chuẩn có lý tưởng và lẽ
sống. Trí thức lý luận, trí thức thực tiễn chỉ có thể biến thành hành động cách mạng, đưa
cách mạng phát triển đúng hướng, khi gắn liền với lẽ sống, lòng trung thực, tính kiên
nghị, tự nguyện tham gia vào hàng ngũ những người chiến sĩ cách mạng được thử thách
trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Cán bộ là khâu then chốt và là một trong những yếu tố cơ bản trong một thời kỳ
cách mạng của giai cấp vô sản. Lịch sử đã chứng minh rằng giai cấp nào muốn trở thành giai
cấp thống trị xã hội cũng phải tạo ra những lãnh tụ chính trị đủ sức lãnh đạo phong trào quần
chúng theo ý chí của giai cấp mình.
Lênin là người kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen về đảng cách
mạng của giai cấp công nhân trong điều kiện đảng cầm quyền. Lênin đã chỉ rõ: "Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ
khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [5, tr.473]. Bởi vậy, ngay từ những ngày đầu
thành lập Đảng, Lênin đã rất coi trọng công tác cán bộ.
Qua thực tiễn lãnh đạo Đảng và xây dựng đất nước, Lênin tiến hành đánh giá, sắp
xếp lại cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ theo yêu cầu và đòi hỏi của nhiệm
vụ mới. Lênin khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện
nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ
giấy lộn" [7, tr.449].
Như vậy, Mác - Ăngghen và Lênin đã thống nhất trong cách nhìn nhận và đánh
giá vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt trong sự
nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và các Đảng Cộng sản, đó là lực lượng biến "tư
tưởng", "mệnh lệnh", các "quyết định" của Đảng thành hiện thực.
Trong hơn nửa thế kỷ lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế càng khẳng định rõ ràng rằng, vấn đề cán bộ luôn giữ vai trò quyết định sự thành
bại của cách mạng. Sự kiện sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 của thế
kỷ trước cũng có nguyên nhân rất cơ bản là vấn đề cán bộ. Ngày nay các Đảng Cộng sản
đang cầm quyền càng có điều kiện để nhận thức và khẳng định vai trò quan trọng của cán
bộ và công tác cán bộ. Đặc biệt trong thời kỳ các nước đang tiến hành sự nghiệp đổi mới
và phát triển đất nước, thực tế cách mạng và tình hình quốc tế làm cho chúng ta càng
nhận rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, nhà văn hóa lớn của nhân
loại khi nói về vấn đề cán bộ, nhất là khi nói về vị trí, vai trò, Hồ Chí Minh luôn khẳng
định: "cán bộ là gốc của mọi công việc" [14, tr.269], "công việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém" [14, tr.273].
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét vai trò của cán bộ là người lãnh đạo, họ nhân
danh Đảng, nhân danh tổ chức làm đầu tàu dẫn dắt mọi phong trào cách mạng của quần
chúng, làm gương cho quần chúng và trong mọi công việc "đảng viên đi trước, làng nước
theo sau"; là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, họ "đem chính sách của Đảng, Chính
phủ giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành", đồng thời "đem tình hình của quần
chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ đề đặt chính sách cho đúng" [14, tr.269] và
với vị trí đó làm cho cán bộ trở thành cầu nối và giữ mối liên hệ qua lại chặt chẽ giữa
Đảng và quần chúng nhân dân; là người đầy tớ của nhân dân, phụng sự nhân dân, bảo vệ
lợi ích và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng NDCM Lào luôn coi đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐ, QL là động lực thúc
đẩy cho sự phát triển và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng trong mọi thời kỳ. Trong
cách mạng dân tộc dân chủ, nếu như con đường phát triển đặc trưng của cách mạng Lào
là "vừa đánh vừa đàm", "vừa mở rộng vừa giữ vững vùng giải phóng, vừa thực hiện "hòa
hợp dân tộc", thì cán bộ lãnh đạo yếu tố bảo đảm cho con đường phát triển đó. Khi tổng
kết kinh nghiệm của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản
viết: "Trong mỗi lần lực lượng của chúng ta vào hòa hợp dân tộc là mỗi lần chính nghĩa
của cách mạng được tỏa sáng thêm, là mỗi lần làn sóng của quần chúng ủng hộ cách
mạng và phản đối chính sách phản động của kẻ thù dấy lên mạnh mẽ hơn... cái quan
trọng nhất là vì cách mạng có được lực lượng thực tế đủ mạnh và được triển khai sẵn
sàng ở mọi mặt trận" [42, tr.174].
ở đây cho thấy vai trò của cán bộ đảng, cán bộ cách mạng và nổi bật vai trò và
khả năng của cán bộ nữ trong công tác vận động quần chúng, các tầng lớp nhân dân, phụ
nữ các bộ tộc Lào, khơi dậy lòng căm thù của họ đối với đế quốc xâm lược và bọn phản
động tay sai góp phần to lớn vào việc lật đổ chính quyền cũ, thiết lập chính quyền mới và
chế độ CHDCND Lào vào ngày 2 tháng 12 năm 1975.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới bảo vệ và xây dựng đất nước, Đảng coi đội
ngũ cán bộ của Đảng nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng là tài sản quý giá của đất
nước và của sự nghiệp cách mạng, "con người là vốn quý giá nhất, chỉ chúng ta biết sử
dụng, bồi dưỡng họ và nâng cao trình độ từng bước, đừng vội vàng muốn cho con người
hiểu biết toàn diện một lúc, họ sẽ trưởng thành cùng với cách mạng và cùng với phong
trào quần chúng từ cơ sở trở lên" [34, tr.186]. Đặc biệt, khi bước vào thời kỳ đổi mới, vai
trò của đội ngũ cán bộ, trước hết là CBLĐ, QL đã được khẳng định là: "yếu tố quyết định
sự thành bại của đường lối đổi mới" [29, tr.53].
Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng và qua đúc kết những kinh nghiệm quý báu.
Hiểu rõ tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, Đảng NDCM Lào, ngay từ khi
mới ra đời luôn coi công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu có tầm chiến lược vì phụ nữ Lào chiếm hơn nửa dân số của cả
nước. Đảng đánh giá cao vị trí và vai trò rất quan trọng của lực lượng phụ nữ trong sự
nghiệp cách mạng của mình. Vì cán bộ nữ là đội ngũ tiên phong của phong trào phụ nữ
và của lực lượng phụ nữ rộng lớn. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị của
mình trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Chính phủ tăng cường đội ngũ cán bộ nữ
để lãnh đạo phong trào phụ nữ rộng lớn thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Đảng đánh giá đúng vai trò của cán bộ và nhận định rằng:
Vấn đề then chốt của nhiệm vụ cách mạng mà Đảng đang gánh vác trong
tình hình hiện nay là phải chú trọng đào tạo, giáo dục cán bộ đảng viên ở các
cấp các ngành về mặt chính trị tư tưởng, trình độ kiến thức, khả năng và phong
cách làm việc. Kinh nghiệm và thực tiễn lịch sử của chúng ta khẳng định một
cách rõ ràng rằng mặc dù đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đúng
đắn, phù hợp đến mấy, nếu cán bộ đảng viên thiếu kiến thức, thiếu khả năng
về các mặt để lãnh đạo và tổ chức thực hiện thì đường lối chính sách đó cũng
chỉ là tài liệu nằm yên mà thôi..." [34, tr.359].
Muốn thực hiện được đường lối chủ trương của Đảng phải có lực lượng
cán bộ hùng mạnh. Cán bộ là vốn quý giá nhất của Đảng, là người lãnh đạo
nhân dân, là người phục vụ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng,
sau khi Đảng có đường lối chủ trương đúng đắn rồi, mọi công việc của cách
mạng tốt hay kém, thắng hoặc bại cũng đều do cán bộ của Đảng quyết định.
Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một công việc rất quan trọng. Việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tiến hành theo nhiệm vụ chính trị của Đảng,
phải chú trọng bồi dưỡng lập trường tư tưởng, lý tưởng chiến đấu, rèn luyện
đạo đức chính trị và đạo đức cách mạng. Đồng thời không ngừng tăng cường
bồi dưỡng khả năng. Chỉ có làm như vậy thì mới có khả năng tăng cường đội
ngũ cán bộ cả về chất lượng và số lượng, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng [33, tr.68-69].
Phụ nữ có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội như việc củng cố
và phát triển sản xuất, trong việc giáo dục và phát huy văn hóa dân tộc. Đặc biệt là phụ
nữ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng gia đình, nuôi dạy con cháu thành lớp người
mới XHCN. Đồng thời phụ nữ cũng là một lực lượng cơ bản của đất nước chiếm hơn nửa
dân số.
Không có công việc lớn quan trọng nào của đất nước thực hiện được, nếu
không có sự tham gia của phụ nữ; và hơn thế nữa có nhiều lĩnh vực công việc
mà nam giới không làm được, hoặc không làm tốt được như chị em. Đặc biệt
là chị em có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn tổ ấm và sự bền vững của gia
đình,... tượng trưng cho sự bảo tồn phong tục tập quán của dân tộc và là chỗ
dựa đáng tin cậy của chồng con [66, tr.54-55].
Thực tế lịch sử ở Lào đã chứng minh: "phụ nữ có vị trí quan trọng đặc biệt trong
gia đình, có tác dụng quyết định sự nghiệp của chồng con (tục ngữ Lào có câu: "Xem voi
hãy xem đuôi", "Chọn con gái hãy xem mẹ"; "nhẫn đẹp do mặt nhẫn", "chồng tốt là nhờ
vợ khéo léo)" [31, tr.24].

1.2.3.2. Đặc điểm của phụ nữ - cán bộ nữ ở Lào


- Đặc điểm của phụ nữ Lào.
Lào là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên.
Đời sống nhân dân còn tự túc, tự cấp và rất vất vả, nghèo khổ. Hơn nữa đã trải qua thời
kỳ đấu tranh chống thực dân, phong kiến và đế quốc lâu dài. Trong suốt thời kỳ lịch sử
đó, nhân dân, nhất là phụ nữ các bộ tộc Lào đã bị áp bức, bóc lột rất nặng nề của chế độ
thực dân, phong kiến. Trong chế độ phong kiến sự bất bình đẳng giữa nam - nữ đã xuất
hiện ngay trong gia đình cũng như trong xã hội. Đặc biệt họ coi phụ nữ là người thấp hèn,
là nô lệ, là đồ chơi. Phụ nữ chỉ là người hầu hạ trong gia đình. Ăngghen viết: "Đối với
người đàn ông thành Aten, thì ngoài cái việc đẻ con ra, người vợ chỉ là một đầy tớ chính.
Người chồng có những hoạt động thể dục, những công việc xã hội của mình mà người vợ
không được tham dự. Ngoài ra, đàn ông lại thường có nhiều vợ là nô lệ" [9, tr.104].
Dưới chế độ phong kiến, là chế độ gia trưởng, phụ quyền với hệ tư tưởng "trọng
nam, khinh nữ", sự bất bình đẳng nam - nữ được cụ thể hóa trong nhiều điều luật, quy tắc
nghiệt ngã với người phụ nữ, phụ nữ bị coi là nô lệ trong gia đình.
Chế độ tư bản thay thế chế độ phong kiến là một bước phát triển mới của xã hội
loài người, đã xác nhận bằng pháp luật sự bình đẳng của mọi người, trong đó có sự bình
đẳng nam nữ. Nhưng thực chất CNTB không những không giải phóng cho phụ nữ, không
đem lại quyền bình đẳng cho phụ nữ mà còn sử dụng phụ nữ vào sản xuất như một nguồn
tạo thêm lợi nhuận. Phụ nữ dưới chế độ tư bản là những nạn nhân bị bóc lột cả sức lao
động, cả về thân thể một cách thậm tệ.
Dưới chế độ phong kiến và nửa phong kiến, phụ nữ các bộ tộc Lào không chỉ
không có sự bình đẳng trong hoạt động xã hội, kinh tế, chính trị mà còn bị đè nén nặng nề
bởi các phong tục tập quán lạc hậu của xã hội cũ và gia đình. Đúng như Tổng Bí thư Cay
Sỏn Phôm Vi Hản đã nêu trong Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I là: "Đối với phong
kiến và tư bản coi phụ nữ là người thấp hèn, là đồ chơi, là bà nấu bếp. Về mặt pháp luật,
họ cũng không nhận thức được quyền bình đẳng nam nữ. Có câu nói: đàn bà lánh xa
chính trị, thày chùa lánh xa thứ vui chơi" [31, tr.23]. Sự bất bình đẳng về mặt xã hội cũng
đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong sự định tội. Sự định tội lỗi được phân loại theo
tư cách xã hội của người có lỗi và người phạm tội. Thực chất sự phạm sai lầm cùng loại
gây ra bởi những người có tư cách khác nhau trong xã hội nhất là đối với phụ nữ cũng sẽ
bị kết tội khác nhau, bởi vì họ coi phụ nữ là người thấp hèn và là loại yếu kém nhất nên
bao giờ cũng bị thiệt thòi và không được bảo vệ.
Trước những tình cảnh đó, phụ nữ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng đã kiên quyết
đấu tranh vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc. Họ đã có cống hiến lớn lao trong công
cuộc xây dựng những trang sử sáng ngời của dân tộc và họ cũng đã tạo ra những nét đặc
trưng truyền thống của mình. Đó là:
- Phụ nữ Lào là những con người siêng năng, cần cù trong lao động. Ngày ngày
họ lao động vất vả trên những cánh đồng, họ "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", quay
sợi dệt vải. Trong chi tiêu, họ luôn phải tính toán chi li để dành dụm của cải cho con cái.
- Họ có lòng bao dung, thương yêu đùm bọc, thủy chung, thương chồng yêu con,
chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả vì hạnh phúc gia đình.
- Có lòng yêu nước thương nòi, yêu quê hương, xứ sở, có tính cách dịu dàng, có
ý thức giữ gìn di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Trong từng giai đoạn cách mạng, những nét đặc trưng truyền thống ấy của phụ
nữ Lào đã dần được phát huy với chất lượng mới. Trong cuộc đấu tranh cách mạng của
nhân dân Lào chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng dân tộc. Những nét đặc
trưng truyền thống của phụ nữ Lào đã dần dần được phát huy, chất lượng mới bao gồm
nhiều yếu tố mới. Cuộc cách mạng ở Lào đã trải qua con đường rất gay go, ác liệt nhưng
cuối cùng đã giành được thắng lợi "sen không nát, nước không đục, bắt được cá cả ao"
[44, tr.23]. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của quá trình đấu tranh cách mạng, phụ nữ đã tham
gia sôi nổi, kiên cường, trung thành với Đảng.
+ Đặc điểm của đội ngũ cán bộ nữ Lào.
Như chúng ta đã biết, phụ nữ Lào có truyền thống lịch sử vẻ vang, họ chẳng những
là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người mà còn cùng với nam giới đóng góp to lớn
cho sự sinh tồn và phát triển của đất nước. Trải qua các giai đoạn cách mạng, phụ nữ Lào
luôn luôn thể hiện tinh thần yêu nước, cần cù, chịu thương, chịu khó vượt qua mọi khó khăn
thử thách góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Năm 1975 tuy đã khai sinh ra nước CHDCND Lào, nhưng vấn đề kinh tế - xã hội
vẫn còn khó khăn và phức tạp về nhiều mặt. Phụ nữ Lào vẫn còn phải gánh vác nhiệm vụ
nặng nề trong đời sống hàng ngày. Mặc dù một số biện pháp đã được công nhận để giảm bớt
gánh nặng cho phụ nữ để họ có điều kiện tiếp thu nền giáo dục.
Nhưng sự đề cao vai trò của phụ nữ trong xã hội Lào vẫn còn chuyển
biến chậm, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán lạc hậu và do nền giáo dục
quá thấp của phụ nữ Lào so với nam giới. Số phụ nữ còn mù chữ chiếm tỷ lệ
cao hơn nam giới từ 10% đến 15%. Việc tuyên truyền giáo dục để nam giới
thay đổi quan điểm tư tưởng coi thường phụ nữ chưa được tiến hành một cách
kiên quyết [36, tr.82].
Khi xem xét về đặc điểm mang tính nổi bật của đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND
Lào cần lưu ý một số mặt sau đây:
- Về nguồn gốc và quá trình hình thành. Đây là một đội ngũ mà tuyệt đại đa số
trực tiếp hoặc gián tiếp có nguồn gốc sinh thành từ nông dân và nông thôn, tham gia hoạt
động công tác trong các cơ quan, lĩnh vực các cấp, các ngành, được đào tạo thử thách và
từng bước trưởng thành.
- Về cơ cấu thành phần, trước hết đội ngũ cán bộ ở Lào hiện nay nói chung và
đội ngũ cán bộ nữ nói riêng là một đội ngũ bao gồm nhiều thành phần bộ tộc. Đây là một
trong những nét đáng lưu ý nhất và nó xuất phát từ thực tế Lào là một nước thống nhất có
nhiều bộ tộc cùng sinh sống, có sự đoàn kết hiệp lực trong toàn bộ lịch sử hình thành và
tồn tại của quốc gia. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất
nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng NDCM Lào đã tập hợp tất cả các bộ tộc tham
gia vào sự nghiệp chung, tạo điều kiện cho mọi người không phân biệt thành phần bộ tộc,
giới, nỗ lực để vươn lên công tác và học tập. Vì vậy, rất nhiều cán bộ nữ thuộc các bộ tộc
khác nhau trở thành CBLĐ, QL của Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp, các ngành.
Điều này đã, đang góp phần củng cố, tăng cường khối đoàn kết thống nhất giữa các bộ
tộc, đồng thời ít nhiều làm động lực thúc đẩy cho cán bộ nữ các bộ tộc tiếp tục nỗ lực
vươn lên trong sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, khi những đòi hỏi trong tiêu chuẩn cán bộ ngày càng cao, nhất là
trong cơ chế thị trường thì người cán bộ nữ, đặc biệt cán bộ nữ là dân tộc thiểu số ở các
địa phương được đào tạo đến nơi đến chốn ngày càng ít đi, đã làm cho tỷ lệ cán bộ nữ
dân tộc thiểu số trong cơ cấu CBLĐ, QL những năm gần đây còn thấp, đồng thời qua đây
cũng nói lên sự phát triển không liên tục của bản thân cán bộ nữ từ các lĩnh vực chuyên
môn hoặc từ các chức danh lãnh đạo khác nhau.
- Về mặt giáo dục, văn hóa đối với phụ nữ và cán bộ nữ: khi mới vào học trường
phổ thông cấp I, số lượng nữ học sinh tương đương với số lượng nam học sinh nhưng khi
lên cấp II, III thì số học sinh nữ đã giảm đi khá nhiều. Không chỉ số lượng học sinh nữ đã
giảm đi mà số cán bộ nữ khi được đi bồi dưỡng nâng cao trình độ như trình độ đại học
chẳng hạn cũng giảm đi rất nhiều, chỉ bằng khoảng 50% so với nam giới. Số học viên là
cán bộ phụ nữ được cử đi học tập và đào tạo ở nước ngoài lại càng thấp, thậm chí một số
ngành hầu như không có cán bộ nữ nào được đi đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ. Nguyên
nhân, một mặt do sự phấn đấu vươn lên của phụ nữ Lào còn thấp, một số chị em chưa có
quyết tâm cao, còn mang nặng tính tự ty. Mặt khác, do lãnh đạo các cấp, các địa phương
nhất là ở các vùng xa xôi, hẻo lánh chưa thật sự quan tâm và tạo điều kiện cho chị em
phụ nữ vươn lên thực hiện địa vị và vai trò nhiệm vụ của mình. Vì vậy, việc đào tạo cán
bộ chủ chốt nữ ở Lào rất khó khăn. Có thể rút ra một số nguyên nhân chủ quan như:
Một là, một số cán bộ nữ từ vùng giải phóng đã trải qua quá trình thử thách trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng đến những năm 80 trở đi, sau khi đất nước
tiến hành đổi mới thì họ không đáp ứng được những yêu cầu và những đòi hỏi mới nhất
là trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội, cho nên đã xin
thôi việc và nghỉ hưu. Có một số chị em chưa đến tuổi về hưu nhưng xin thôi việc về làm
kinh tế gia đình.
Hai là, một số cán bộ nữ khi chưa lập gia đình thì tích cực hăng hái trong công
tác, nhưng sau khi kết hôn do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, hoặc do phong tục
tập quán của từng bộ tộc, thậm chí còn do người chồng yêu cầu người vợ về phục vụ gia
đình, chồng con...
Ba là, một số chị em cán bộ nữ sau khi kết hôn, sinh con đẻ cái rồi họ tự bằng
lòng với cuộc sống gia đình, nên không thiết tha với công tác, không tích cực phấn đấu
vươn lên trong công tác, khắc phục khó khăn trong công việc nên cuối cùng đã xin thôi
việc hoặc làm việc mà không còn ý chí phấn đấu vươn lên nữa.
Sau những năm 80, đất nước Lào bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Chính phủ
Lào đã có chủ trương đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng nói
chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng. Trong đó đã lập dự án và quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực cả về dài hạn và ngắn hạn với các hình thức tăng cường đào tạo trong
nước và cử đi đào tạo ở nước ngoài. Đối với cán bộ nữ Đảng đã chú ý xây dựng một đội
ngũ cán bộ chủ chốt là nữ. Hiện nay, số lượng phụ nữ Lào chiếm 51% dân số cả nước,
trong đó số cán bộ công chức nữ chiếm 38,89%.
Những đặc điểm chủ yếu nói trên chính là một trong những vấn đề cần quan tâm
khi xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí công tác đối
với đội ngũ cán bộ nữ, nhất là trong khi xác định nội dung, chương trình cụ thể để đáp
ứng với đòi hỏi của từng đối tượng cán bộ.

1.3. đội ngũ cán bộ nữ ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trước năm 1986
Phụ nữ Lào chiếm hơn một nửa dân số trong cả nước, là lực lượng to lớn trong
mọi lĩnh vực công tác, nhưng lại là lực lượng đặc biệt để tái sản xuất lực lượng lao động,
nghĩa là phụ nữ có vai trò sinh ra thế hệ mới. Đồng thời phụ nữ có vị trí quan trọng trong
gia đình, đó là có ảnh hưởng khá lớn đến sự nghiệp của người chồng, người con của mình.
Đảng đã đánh giá đúng vai trò và khả năng của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội. Phụ nữ là những người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên trong gia đình, trong hoạt
động xã hội và trong sản xuất kinh tế, phụ nữ còn có khả năng hoạt động trực tiếp đóng
góp nhiều công sức xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Tổng Bí thư Cay Sỏn Phôm
Vi Hản đã khẳng định: "Về kinh tế phụ nữ Lào đã trở thành một lực lượng to lớn và có
vai trò quan trọng nhất trong sự phục hồi và phát triển sản xuất xây dựng cơ sở kinh tế
mới" [31, tr.9].
Người phụ nữ Lào trong khó khăn gian khổ đã chứng tỏ bản chất cách mạng yêu
nước, yêu chế độ xã hội mới, lao động cần cù sáng tạo chịu đựng gian khổ vượt qua mọi
khó khăn. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cộng với sự cố gắng của bản thân,
nhiều chị em đã khắc phục khó khăn, đông đảo cán bộ nữ đã có trình độ văn hóa cấp 3 và
đại học. Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng trưởng thành và đóng góp quan trọng vào việc tiến
hành ba cuộc cách mạng. Ngày nay "phụ nữ đã trở thành cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật, kỹ sư, bác sĩ, giảng viên, nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ,
có một số làm tiến sĩ, thạc sĩ... (trong giai đoạn cách mạng trước 1945, phụ nữ Lào học
cao nhất cũng chỉ đến cấp 3, nhưng rất ít, chỉ có 2-3 người" [31, tr.11].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Lào - kể cả trong thời kỳ bí mật, trong
thời kỳ đấu tranh giải phóng hay trong điều kiện hòa bình xây dựng, Đảng luôn luôn quan
tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Đảng gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, coi sự nghiệp giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Nói phụ nữ là nói phần
nửa của xã hội - Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng nửa loài người" [15,
tr.523]. Tổng Bí thư Cay Sỏn Phôm Vi Hản đã chỉ ra: "Muốn giải phóng phụ nữ phải dựa
trên cơ sở giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Muốn giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp phải phát động phụ nữ tham gia thành một phong trào rộng lớn, sôi nổi và
phải thực sự giải phóng phụ nữ" [31, tr.26].
Trong mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng NDCM Lào điều có chủ trương, chính sách,
hình thức tổ chức cụ thể để phát động năng lực và trình độ của cán bộ nữ, xây dựng đội
ngũ cán bộ nữ cốt cán làm nòng cốt cho lực lượng phụ nữ. Như vậy, nhìn lại lịch sử của
dân tộc, phụ nữ Lào rất tự hào về dân tộc mình là một dân tộc đã có truyền thống đoàn
kết đấu tranh kiên cường, dứt khoát không nhượng bộ trước sự can thiệp và xâm lược của
bọn thực dân đế quốc để bảo vệ nơi chôn rau cắt rốn của mình, trong đó phụ nữ Lào đã
cống hiến lớn lao cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc mình.
Trong khi tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, việc đào tạo, bố trí, sử
dụng cán bộ nhất là cán bộ nữ trở thành chủ trương lớn của Đảng.
Năm 1945, đông đảo phụ nữ đã tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từ
tay thực dân Pháp và phát xít Nhật đã công bố độc lập đầu tiên của Lào trước thế giới
(12-10-1945).
Từ năm 1946, thực dân Pháp trở lại xâm lược Lào lần thứ hai, lực lượng cách
mạng đã chuyển sang nông thôn rộng lớn, phong trào phụ nữ đã nhanh chóng lan rộng
khắp cả nước. Cùng với sự thành lập của Mặt trận Lào It xa lạ, tổ chức Hội mẹ chiến sĩ
"chăm nom nuôi dưỡng đội quân Itxalạ, bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ hoạt động bí mật,
tham gia du kích điều tra tin tức, liên lạc và tham gia đánh giặc, vận chuyển, tiếp tế, tổ
chức phong trào tăng gia sản xuất, học chữ, làm y tế... Những đóng góp trên nhiều
lĩnh vực bền bỉ và vẻ vang của phụ nữ Lào đã góp phần to lớn vào thắng lợi chung của
nhân dân cả nước. Kết hợp với chiến thắng nổi tiếng của nhân dân Việt Nam và
Campuchia anh em, bắt buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về
Đông Dương, trong đó chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Lào.
Đến ngày 22-3-1955, Đảng nhân dân Lào tức Đảng NDCM Lào sau này, người kế tục
Đảng Cộng sản Đông Dương, đã được thành lập, Đảng đã đề ra chính sách cơ bản và cương lĩnh
hoạt động trước mắt của mình gồm 12 điều. Trong đó Điều thứ 7 có nói là: "Thực hiện nam nữ
bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, xóa bỏ tàn dư chế độ cũ..." và trong Điều 11 cũng nói
rằng: "chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ công nhân, nông dân và dân tộc thiểu số"
[55, tr.98-99]. Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã quan tâm tới bình đẳng nam nữ cũng như
công tác cán bộ và đã chú trọng đào tạo cán bộ qua các giai đoạn lịch sử.
Đảng Nhân dân Lào vừa mới ra đời phải đương đầu với những thách thức, thiếu
thốn về rất nhiều thứ, trong những thiếu thốn đó thì thiếu cán bộ là thiếu thốn lớn nhất
của cách mạng Lào. Trong chế độ phong kiến cũng như chế độ thuộc địa, vấn đề phụ nữ
tham gia quản lý điều hành xã hội chưa bao giờ được đặt ra. Cho nên khi Đảng Nhân dân
Lào ra đời với những quan điểm và tư tưởng mới - Với quan điểm mới về lực lượng cách
mạng - "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Sự nghiệp giải phóng là sự nghiệp của
toàn thể nhân dân các bộ tộc Lào. Cách mạng muốn thắng lợi, đảng phải tập hợp được
lực lượng bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Từ đó mặt trận và các tổ chức
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đã lần lượt được ra đời.
Ngày 20 tháng 7 năm 1955 tại tỉnh Hủa Phăn, Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị
thành lập Hội Phụ nữ Lào yêu nước. Đây là nơi tập hợp các lực lượng phụ nữ yêu nước.
Lúc đầu Hội đã đề ra điều lệ và dự án tiến hành công việc của mình nhằm tập hợp phụ nữ
các bộ tộc và các tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước và bè lũ tay
sai. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi của lực lượng yêu nước và tiến bộ ở hai tỉnh tập kết
và các tỉnh khác trong cả nước đã bắt buộc phía đối phương phải ký Hiệp ước Viêng
Chăn, thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc trong năm 1957.
Do ảnh hưởng to lớn của Đảng Nhân dân Lào dưới danh nghĩa của Mặt trận Lào
yêu nước, tháng 3 năm 1957, Quốc hội Vương quốc Lào thông qua đạo luật bầu cử mới,
quy định quyền bầu cử cho các công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ. Đây
là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ các bộ tộc Lào có quyền bình đẳng nam nữ
trong bầu cử, ứng cử. Trong đó có một đại biểu nữ của lực lượng yêu nước được trúng cử
vào Quốc hội.
Đế quốc Mỹ thay thế thực dân Pháp, cùng bè lũ tay sai của chúng phá hoại
chương trình hòa hợp dân tộc, gây chiến tranh ác liệt. Chúng đàn áp, chiếm giết nhân dân
hết sức dã man. Cuộc kháng chiến lan rộng ra toàn quốc, một số đồng chí lãnh tụ của lực
lượng yêu nước bị bắt, bị giam giữ trong tù, nhân dân ở khắp nơi từ thành thị cho tới
nông thôn đều lâm vào tình trạng lầm than nặng nề. Một lần nữa các chị em nữ cùng với
nam giới phải đứng lên cầm súng tiếp tục cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước và tay sai.
Tuy nhiên, cán bộ nữ trong thời kỳ này vẫn còn ít.
Tại Hội nghị Tổ chức toàn quốc (26-10-1967) Đảng đã khẳng định:
Trong giai đoạn này đội ngũ cán bộ có sự phát triển cả về số lượng và
chất lượng, nhưng vẫn có nhiều điểm yếu, nhất là về mặt chất lượng, một số
cán bộ còn lạc hậu, cán bộ trẻ, cán bộ nữ còn rất ít, cán bộ cơ sở và cán bộ chủ
chốt ở các cấp, các ngành còn yếu, cán bộ nghiệp vụ về kinh tế, văn hóa cũng
vừa yếu vừa thiếu, yếu về mặt chính trị và nghiệp vụ... [38, tr.5].
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và để làm cho cuộc đấu tranh chống Mỹ
cứu nước của nhân dân Lào tiến lên giành thắng lợi mới có tính chất quyết định. Ngày 3
tháng 2 năm 1972 họp Đại hội lần thứ II của Đảng. Tham dự Đại hội có 125 đại biểu đại
diện cho hơn 20 vạn đảng viên trong cả nước. Đồng chí Tổng Bí thư Cay Sỏn Phôm Vi
Hản đã thông qua Cương lĩnh chính trị của Đảng. Cương lĩnh Chính trị đã quy định
nhiệm vụ chính và phương hướng chính trị trước mắt của cách mạng Lào. Đồng thời Đại
hội đã đổi tên Đảng Nhân dân Lào thành Đảng NDCM Lào.
Trong cuộc đấu tranh đó, nhân dân các bộ tộc Lào nói chung, phụ nữ Lào nói
riêng đã thể hiện những tấm gương trong sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nhiều
tấm gương điển hình đã xuất hiện trong phong trào phụ nữ cả nước, được Đảng, Chính
phủ công nhận và tặng các danh hiệu anh hùng, chiến sĩ thi đua và các hình thức khen
thưởng khác nhau. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của HLHPN Lào, Tổng Bí
thư Cay Sỏn Phôm Vi Hản đã khẳng định rõ:
Trong chiến tuyến an ninh quốc phòng, phụ nữ Lào đóng vai trò và có phần
bổ sung quan trọng nhất là nhận thức rõ nghĩa vụ và quyền lợi của bản thân, phụ
nữ đã giác ngộ tham gia lực lượng vũ trang, tiếp tục động viên thanh niên và
chồng con yêu thương của mình làm nghĩa vụ quân sự, ra nhập các lực lượng
chính quy, bộ đội địa phương, dân quân du kích và lực lượng tự vệ. Đồng thời, họ
cũng đã tích cực thực hiện chính sách hậu phương quân đội... [31, tr.8].
Sự cống hiến to lớn của phụ nữ Lào trong thời kỳ này đã góp phần làm cho lực
lượng cách mạng ngày càng rộng lớn và đi đến giành được chính quyền trong cả nước,
khai sinh ra nước CHDCND Lào vào ngày 2/12/1975...
Những thành tích to lớn của phụ nữ Lào nói riêng và cán bộ chiến sĩ Lào yêu
nước đã góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng luôn luôn ghi nhớ,
học tập và thực hiện theo những tấm gương tốt đẹp và coi đó là tài sản quý báu để giữ gìn
và đào tạo các thế hệ sau.
Sau năm 1975, đất nước được hoàn toàn giải phóng, phụ nữ các bộ tộc Lào cũng
đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến, thực dân. Phụ nữ Lào
đã có quyền bình đẳng nam - nữ, chất lượng cuộc sống của người phụ nữ và trẻ em đã
được chăm sóc tốt hơn. Nhưng do ảnh hưởng của chế độ cũ, phong tục tập quán lạc hậu
và sự nghèo nàn nên phụ nữ Lào gặp phải trở ngại trong quá trình giải phóng bản thân
mình, để phát triển bản thân mình và để hoàn thành mục tiêu sự bình đẳng giữa nam và
nữ như nêu cao chức năng vai trò của phụ nữ Lào. Đây là vấn đề cần được tiếp tục giải
quyết cả trước mắt và lâu dài. Đảng NDCM Lào luôn luôn chỉ ra:
Nói đến sự giải phóng phụ nữ, thực chất là sự giải phóng lực lượng sản xuất,
là thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, là sự củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất, là nội dung quan trọng nhất của cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực
tư tưởng và văn hóa. Do đó sự giải phóng phụ nữ đã trở thành một vấn đề lớn có
tính chiến lược trong tất cả công tác phụ vận quần chúng của Đảng [31, tr.28-29].
Lênin đã xác định quá trình đi tới thắng lợi của CNXH gắn liền với quá trình giải
phóng phụ nữ từng bước và thắng lợi của CNXH là cơ sở đảm bảo cho thắng lợi của sự
nghiệp giải phóng phụ nữ. Đó là hai sự nghiệp gắn bó và tác động lẫn nhau trong tiến
trình cách mạng. Do đó, chừng nào mà phụ nữ chưa được tự do tham gia vào đời sống
chính trị nói chung, chưa được quyền gánh vác một công việc thường xuyên và chung
cho cả mọi người, thì chừng ấy không những chưa có thể nói đến CNXH được, mà cũng
chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ toàn vẹn và bền vững được. Do đó, Đảng có
nhiệm vụ tổ chức lãnh đạo phụ nữ tham gia cách mạng.
Đảng NDCM Lào đã phát triển một cách sáng tạo quan điểm của Lênin và Chủ
tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được
chính quyền. Phụ nữ đã được bình đẳng với nam giới trong công việc, cùng với nam giới
tham gia vào công việc lãnh đạo Nhà nước và quản lý xã hội.
Đảng đã đề ra và thực hiện nhiều biện pháp để đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục nâng
cao trình độ cho phụ nữ có khả năng tham gia QLNN. Việc đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy vai trò của cán bộ, đảng viên nữ là nòng cốt cho sự thúc đẩy phong trào phụ nữ.
Đảng đã nhấn mạnh: cán bộ nữ là đội ngũ tiên phong của lực lượng phụ nữ rộng lớn.
Phong trào phụ nữ phát triển bao nhiêu thì đội ngũ cán bộ nữ càng có điều kiện phát triển
mạnh mẽ. Trái lại sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác dụng to lớn đối với sự
nghiệp giải phóng phụ nữ và là đội ngũ đứng trước phong trào phụ nữ trong việc thực
hiện đường lối chính sách vận động phụ nữ của Đảng. Do đó, vấn đề cán bộ nữ nói riêng
và sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phong trào phụ nữ nói chung phải được quan tâm giải
quyết một cách đồng bộ và kiên quyết.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, các cấp ủy đảng
và chính quyền các cấp đã quan tâm bồi dưỡng - đào tạo cán bộ nữ ở các cấp các ngành
làm cho đội ngũ cán bộ nữ phát triển liên tục.
Sau giải phóng đất nước năm 1975, "tổng số cán bộ hơn 24.000 người và sau một
thời gian quan tâm đào tạo, bồi dưỡng số cán bộ tăng lên 50.000 người trong đó cán bộ
nữ chiếm 36%; đại bộ phận cán bộ nữ đã có trình độ văn hóa cấp 3 và đại học" [63, tr.27-
28]. Trên nhiều lĩnh vực đội ngũ cán bộ nữ đã tỏ ra có năng lực thực sự.
Đa số CBLĐ, QL nữ ở các cấp, các ngành đã rèn luyện thử thách trong quá trình
đấu tranh gian khổ trong những năm tháng ác liệt nhất, phần đông cán bộ nữ vững vàng,
năng động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tinh thần phấn đấu cao.
Tính đến năm 1982, tổng hợp đội ngũ cán bộ chủ chốt trong BCHTW, cán bộ nữ
chiếm 7,27%. Đây là một tỷ lệ còn thấp so với tiềm năng của phụ nữ Lào, ở nhiều xí
nghiệp, cơ quan và nhiều ngành kinh tế xã hội của đất nước, tỷ lệ nữ rất đông có những
đơn vị 90% là nữ nhưng người lãnh đạo chủ chốt là nam giới. Điều đó dẫn tới nhiều khi
những vấn đề về quyền lợi phụ nữ không được xem xét đầy đủ khi ra quyết định và thực
thi quyết định.
Thời gian qua, "Đảng và Chính phủ đã quan tâm bồi dưỡng và đào tạo cán bộ
được tương đối nhiều, nhưng chưa có quy hoạch và kế hoạch cụ thể, việc đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ chưa phản ánh đầy đủ đường lối của Đảng và chưa gắn với thực tiễn của
đất nước; do đó, hiệu quả của công tác này còn thấp" [29, tr.425]. Nội dung cơ cấu của
chiến lược cán bộ nữ nói chung, những biện pháp cụ thể, công tác đào tạo, bồi dưỡng bố
trí sử dụng cán bộ nữ chưa đồng bộ, kiến thức về nhiều mặt của cán bộ đảng viên còn bị
hạn chế. Hiện nay, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số còn tương đối thấp trong
các cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành. Do vậy, đã ảnh hưởng tới chất lượng của đội
ngũ cán bộ nữ cũng như phong trào phụ nữ.
Tại Đại hội lần thứ I (1984) của HLHPN cũng đã chỉ ra: "Do phong tục tập quán
lạc hậu từ bao đời nay làm hạn chế trình độ về đường lối chính trị của Đảng. Từ đó chậm
nhận thức về sự chuyển đổi của cách mạng, ý thức kỷ luật chưa nghiêm, vừa lòng với
thành tích..." [20, tr.114].
Những khuyết điểm đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do
công tác vận động phụ nữ chưa được thấu suốt trong các cấp, các ngành, tư tưởng phong
kiến coi thường phụ nữ còn nặng, một bộ phận cán bộ nữ có tư tưởng tự ti, thiếu cố gắng
vươn lên... Vì vậy, "chúng ta vừa phải tích cực bồi dưỡng đào tạo, vừa phải vận dụng tiêu
chuẩn cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể trong việc bố trí cán bộ nữ và cán bộ các dân tộc.
Mặt khác, cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc phải phấn đấu vươn lên làm tròn nhiệm vụ được
giao" [2, tr.147].
Từ đó, Đảng NDCM Lào đặt ra yêu cầu phải khắc phục thiếu sót, phát huy ưu
điểm đối với công tác vận động phụ nữ, tạo ra sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực để
phụ nữ có điều kiện đóng góp sức lực và khả năng của mình trong sự nghiệp xây dựng
đất nước.
Đảng NDCM Lào xác định vấn đền then chốt và quan trọng trong công tác cán
bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng là: có quan điểm đúng, có quyết tâm cao
trong việc mạnh dạn lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ.
Với sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, công tác cán bộ nữ đã có kết quả
hết sức khả quan. Số đảng viên nữ được kết nạp trong những năm 1984-1986 là 3.005
đảng viên, chiếm 8,58%. Sức khoẻ của đội ngũ cán bộ nữ được quan tâm, có chế độ thai
sản thích hợp, rất nhiều chị đã được đưa vào cương vị lãnh đạo. Đội ngũ cán bộ làm khoa
học kỹ thuật, văn học nghệ thuật cũng được đặc biệt quan tâm, chị em tham gia lãnh đạo ở các
cấp và ở các lĩnh vực khác nhau ngày càng tăng theo nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Trên thực tế, đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp ở CHDCND Lào đang làm công tác lãnh
đạo và quản lý đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng nếu so với trước đây. Nhiều chị đã
đảm nhận và làm tốt cương vị lãnh đạo trong tổ chức HPN các cấp của mình cũng như các tổ
chức quần chúng và tổ chức xã hội khác...
Những kết quả đạt được khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng NDCM Lào, đồng
thời cũng khẳng định khả năng và sự nỗ lực của bản thân phụ nữ Lào.
Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói
riêng cũng còn những hạn chế cần được khắc phục. Đội ngũ cán bộ nữ có phát triển
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, công tác đề bạt cán bộ
nữ vẫn còn có tư tưởng phong kiến, hẹp hòi. Biểu hiện bằng việc đánh giá cán bộ nữ còn
phiến diện, vận dụng tiêu chuẩn đức tài với cán bộ nữ còn thiên lệch; tuy đã đề bạt cán bộ
nữ rồi nhưng không tin tưởng vào khả năng của chị em nên không dám giao việc hoặc chỉ
giao làm cấp phó để giúp việc cho cấp trưởng là nam giới. Ngoài ra còn có tư tưởng kèn
cựa, địa vị không phục tùng lãnh đạo nữ. Trong thời kỳ này đội ngũ cán bộ nữ còn có đặc
điểm là các chị đã qua thử thách, đảm đương nhiều cương vị lãnh đạo chủ chốt, có nhiều
kinh nghiệm, song phần nhiều đã lớn tuổi và lực lượng kế cận rất ít. Điều này dẫn đến sự
hẫng hụt cán bộ nữ trong giai đoạn tiếp sau.
Những khuyết điểm, hạn chế nói trên do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách
quan là do đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, nhiều vấn đề cấp
bách cần phải giải quyết. Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan có thể thấy là do các ngành,
các cấp cũng chưa thấy hết được vị trí, vai trò to lớn của phụ nữ. Tuy nhiên, việc khắc
phục những khuyết điểm và thực hiện chính sách đối với cán bộ nữ nhằm khơi dậy mọi
tiềm năng của chị em là một việc làm không đơn giản. Đây phải là một quá trình lâu dài
và cần có sự đầu tư cả vật chất lẫn tinh thần, bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ, coi thường
khả năng làm việc cũng như năng lực trí tuệ của phụ nữ đã có hàng ngàn năm, không thể
dùng mệnh lệnh mà thay đổi ngay được. Song, những thành quả đạt được của Đảng
NDCM Lào về công tác cán bộ nữ trong giai đoạn này sẽ là cầu nối để Đảng thực hiện tốt
vai trò lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong thời kỳ mới.
Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng NDCM Lào về cán bộ nữ, đồng thời tìm hiểu đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm
cán bộ nữ Lào và thực trạng công tác cán bộ nữ của Đảng NDCM Lào trước năm 1986 sẽ
góp phần quan trọng trong quá trình nghiên cứu những quan điểm đổi mới của Đảng
NDCM Lào về công tác cán bộ nữ. Từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có đủ phẩm chất và năng lực, khẳng định được trên thực tế
quyền bình đẳng nam nữ không phải là khẩu hiệu để động viên mà người phụ nữ hoàn toàn
có thể thực hiện được bằng chính nghị lực trí tuệ và tài năng của mình.
Chương 2
Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ từ năm 1986 đến 2001. một số
kinh nghiệm

2.1. Quá trình Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ từ năm 1986 đến 2001
2.1.1. Những chủ trương, chính sách của Đảng nhân dân cách mạng Lào
Trước những thăng trầm của lịch sử và những diễn biến phức tạp của tình hình
đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (11-1986) đã mở ra thời kỳ mới cho cả
dân tộc: Đổi mới đồng bộ, toàn diện để xây dựng đất nước Lào độc lập, hòa bình, dân
chủ, thống nhất, phồn vinh. Phân tích tình hình kinh tế xã hội, Đảng NDCM Lào cho
rằng những sai lầm trong lãnh đạo kinh tế xã hội bắt đầu từ những khuyết điểm trong
hoạt động tư tưởng tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Trong công tác tổ chức,
khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn và bố
trí cán bộ theo kiểu hình thức qua loa, phiến diện, chỉ thích những người thân quen,
người cùng địa phương, người cùng bộ tộc, chỉ chú trọng vào thành phần xuất thân,
chỉ chú ý đến cá tính hoặc chỉ coi trọng bằng cấp, học vấn, bố trí cán bộ theo kiểu
khép kín trong từng bộ phận, từng địa phương không muốn tiếp nhận cán bộ từ nơi
khác, bộ tộc khác đến... Những việc làm đó đã dẫn đến những hậu quả tiêu cực, cản
trở việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, gây mất đoàn kết trong nội bộ
Đảng và trong nhân dân. "Vấn đề đổi mới trong công tác cán bộ là phải tích cực chống
lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng bộ tộc hẹp hòi, tư tưởng cục bộ địa phương... Nếu chúng ta không kịp đổi mới
công tác cán bộ thì không thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện
nay" [2, tr.144-145].
Từ sự đánh giá như vậy, Đảng NDCM Lào cho rằng "Nói đến đổi mới công tác
cán bộ, điều quan trọng là phải đổi mới quan điểm đánh giá, lựa chọn và bố trí cán bộ, để
trên cơ sở đó mà đánh giá lại cán bộ một cách có hệ thống, lựa chọn cán bộ một cách
công minh, bố trí cán bộ một cách đúng đắn, hợp lý" [2, tr.144].
Sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như giáo dục, văn hóa... giữ vai trò quyết định
đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, vì vậy việc đổi mới và tăng cường đội ngũ cán bộ
nữ ở các cấp, các ngành ở CHDCND Lào gắn liền với sự nghiệp đổi mới toàn diện về
các lĩnh vực trong cả nước. Do đó, sự nghiệp giải phóng phụ nữ là sự nghiệp cách mạng
to lớn nên phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân Lào. Muốn phát huy được vị trí, vai
trò của phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng, điều quan trọng và quyết định là sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác cán bộ nữ. Đó chính là Đảng ủy các cấp, các ngành trong
cả nước phải quan tâm hơn nữa để tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia hoạt động
trong mọi lĩnh vực công tác của Đảng và Nhà nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất
nước hiện nay.
Công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới có sự chuyển biến tích cực. Cùng với việc
sắp xếp lại cho gọn nhẹ, tinh giản bớt đầu mối trung gian, chúng ta đã thay đổi bố trí lại
hàng loạt cán bộ để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý mới trong điều kiện của kinh tế thị
trường. Sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường là một thử
thách lớn đối với công tác cán bộ của Đảng nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng.
Nền kinh tế thị trường với những quy luật khắc nghiệt của nó đòi hỏi người lãnh
đạo phải có năng lực toàn diện hơn không chỉ chuyên sâu mà phải hiểu rộng. Nhiệt tình
tận tụy chưa đủ mà phải còn nhạy bén, quyết đoán, đôi khi phải dám mạo hiểm, nên
không ít chị em chưa đáp ứng được. Trong hoàn cảnh đó, người cán bộ nữ gặp nhiều khó
khăn về gia đình, con cái, sức khỏe, dễ nản chí, thiếu quyết tâm vươn lên phấn đấu học
tập, nâng cao trình độ năng lực. Thời kỳ này càng đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên của
các cấp lãnh đạo, tạo ra những điều kiện để đội ngũ cán bộ nữ có thể phát triển đóng góp
sức mình vào công cuộc đổi mới đất nước.
Để thúc đẩy phong trào phụ nữ và phát huy vai trò của phụ nữ ngày càng tốt hơn
và để đáp ứng nhu cầu của quá trình đổi mới cơ chế QLKT, chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, Tổng Bí thư Cay
Sỏn Phôm Vi Hản đã nêu trong Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ II: "Vấn đề có tính chất
quyết định là phải có đội ngũ cán bộ có tư duy mới, có phẩm chất đạo đức và năng lực
phù hợp với giai đoạn mới. Hiện nay người cán bộ phải nhiệt tình cách mạng, thấm
nhuần đường lối đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải có trình độ
nhận thức nhất định, có sự nhạy bén để nắm bắt cái mới... [32, tr.57]. Vì "vấn đề chìa
khóa cốt lõi có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương
của Đảng một cách thành công là Đảng phải ra sức bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ
vững mạnh về mọi mặt" [27, tr.379].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa V) của Đảng NDCM Lào đã đề
ra mục đích của việc phát triển xã hội là "tất cả vì sự ấm no hạnh phúc của con người".
Đó vừa là mục tiêu phấn đấu cao cả của sự nghiệp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chế độ
dân chủ nhân dân. Để hoàn thành mục đích trên, trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước đã quy định phương hướng về việc phát triển nguồn lực:
Nâng cao trình độ khả năng và mức sống về vật chất và văn hóa của nhân
dân các bộ tộc, tạo điều kiện cho con cháu của chúng ta được học tập có chất
lượng, trở thành người có trình độ, có trí tuệ và có khả năng, vừa có đạo đức,
tạo cho nhân dân các bộ tộc có cán bộ chủ chốt và trí thức của mình... [41,
tr.1-2].
Mục tiêu chung của cách mạng đến năm 2020 là: phấn đấu cho đất nước chúng ta
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; kinh tế - xã hội phát triển và có sự chuyển đổi
mới với trình độ khác với tình trạng hiện nay như: Việc sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phát triển và có mặt hiện đại, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân được cải
thiện; công dân được học hành và dịch vụ y tế đồng đều, văn hóa tốt đẹp của dân tộc
được phát huy, bảo hiểm xã hội về cơ bản được đảm bảo; có nhân lực và sức lao động có
khả năng đáp ứng yêu cầu cơ bản của sự phát triển đất nước; xã hội có trật tự, hệ thống
chính trị dân chủ nhân dân có Đảng làm hạt nhân vững mạnh, đất nước chúng ta có quan
hệ rộng rãi với quốc tế và có khả năng phát triển hòa nhập vào xu thế chung của thời đại.
Chỉ làm được như vậy, chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta mới vững mạnh, vừa tạo cơ
sở vững chắc cho việc xây dựng nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và phồn
vinh.
Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, Đảng NDCM Lào đã có đông đảo đội
ngũ cán bộ đã được đào tạo và thử thách rèn luyện trong cách mạng dân tộc dân chủ.
Nhưng ngày nay, trước yêu cầu to lớn, toàn diện và nhanh chóng của nhiệm vụ bảo vệ và
xây dựng đất nước nó đòi hỏi Đảng phải có đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, đủ về số
lượng và đại diện cho đường lối chính trị của Đảng trong giai đoạn mới và có khả năng
đảm bảo cho việc củng cố bộ máy của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo thực hiện các nhiệm
vụ lớn trước mắt, không chỉ thế mà phải chuẩn bị lực lượng cán bộ cho bước phát triển
tiếp theo của cách mạng, nhất là đội ngũ cán bộ kế cận trong các cấp, các ngành.
Đất nước Lào đang trên đà chuyển biến về mọi mặt trong việc thực hiện cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phụ nữ đang từng bước được giải phóng, không
khí dân chủ, bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội đã có bước tiến mới.
Chủ tịch Khăm Tày Xỉ Phăn Đon đã nêu trong Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III: "Với
tư cách là một tổ chức đại diện cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ các bộ tộc, Hội Liên
hiệp phụ nữ Trung ương nên kết hợp với tổ chức đảng các ngành nghề của Nhà nước có
liên quan để nghiên cứu đề ra quy chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để đáp ứng nhu
cầu của công việc trong giai đoạn mới..." [53, tr.59].
Ngày 10 tháng 2 năm 1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào ra Nghị
quyết 05/NQ-BCTTWĐ về công tác quần chúng của Đảng trong giai đoạn mới. Nghị
quyết đã xác định rõ: Công tác quần chúng là trách nhiệm của toàn xã hội, của tổ chức
đảng và Nhà nước cũng như tổ chức quần chúng và các tầng lớp nhân dân. "Đổi mới và
tăng cường công tác vận động phong trào quần chúng trong tình hình mới". Đây là một
văn kiện quan trọng đối với phong trào quần chúng nói chung và phong trào phụ nữ nói
riêng. Nghị quyết đã phân tích tình hình phong trào quần chúng cũng như công tác quần
chúng.
Đảng NDCM Lào cho rằng, trong những năm qua các tầng lớp phụ nữ cả nước
đã phát huy được truyền thống vốn có của mình. Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước,
phụ nữ đã đoàn kết lao động sáng tạo đặt nhiều thành tích trên tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, làm đẹp những phẩm chất cao quý của phụ nữ Lào. Tuy nhiên trong khó
khăn chung của đất nước, phụ nữ là người phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất. Hiện nay
một bộ phận phụ nữ không có hoặc không đủ việc làm, thu nhập thấp, nhiều chị em phải
làm việc trong các môi trường ô nhiễm, độc hại; nhiều phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ miền
núi, các vùng sâu vùng xa còn bị mù chữ, tái mù hoặc văn hóa rất thấp. Các sinh hoạt về
đời sống tinh thần hầu như không có. Tình hình khó khăn của CHDCND Lào theo thống
kê năm 1993 là 45%, năm 1998 là 38,6%, năm 2003 là 32% hoặc khoảng 2 triệu người.
Nghiên cứu chiến lược trong việc giải quyết khó khăn thì có chiến lược về mặt giáo dục.
Phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số trong cả nước "nhưng tỷ lệ mù chữ của phụ nữ rất
cao, khác hẳn với nam giới, tỷ lệ vào học và bồi dưỡng của phụ nữ dân tộc còn thấp,
thiếu cơ hội tiếp nhận nền giáo dục. Nguyên nhân là do nghèo đói, bố mẹ có nhiều
đứa con, bố mẹ cần sức lao động của người con gái..." [26, tr.1-2]. Sự phát triển của
nền kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực còn nảy sinh nhiều tiêu cực như nghiện
hút, cờ bạc, mê tín dị đoan mà phụ nữ phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất.
Đảng đã xác định rõ mục đích tăng cường cán bộ nữ không chỉ để làm công tác
vận động phụ nữ mà chính là để phát huy khả năng, trí tuệ của chị em, đóng góp vào sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng và công việc quản lý của Nhà nước. Vì vậy, Đảng yêu cầu:
"Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đảm bảo tính giai cấp đúng đắn của Đảng, chú ý
đào tạo bồi dưỡng cả ba thế hệ và ba loại cán bộ như: cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và
cán bộ nghiệp vụ; coi trọng sự đào tạo cán bộ cho địa phương, chẳng hạn là cán bộ ở cấp
huyện và cơ sở, cán bộ dân tộc và cán bộ nữ..." [63, tr.19].
Về công tác cán bộ nữ, Đảng chỉ rõ: Từ sau Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III
(1993), HLHPN đã từng bước đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động. Với
phong trào "ba tốt: công dân tốt, phát triển tốt, xây dựng gia đình văn hóa tốt" do Trung
ương Hội phát động đã có tác dụng tốt đến đời sống và hạnh phúc của các gia đình, góp
phần ổn định xã hội.
Đảng cho rằng, tổ chức quần chúng là động lực quan trọng của công cuộc đổi
mới đất nước và phát triển kinh tế - xã hội. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của quần
chúng, các cơ quan tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức quần chúng phải kết hợp chặt
chẽ với nhau trong việc thực hiện vai trò nhiệm vụ của mình. Trước mắt phải giải quyết
quan điểm cho rằng công tác quần chúng là nhiệm vụ và trách nhiệm của riêng tổ chức
quần chúng. Đảng nhấn mạnh rằng: "Công tác quần chúng là trách nihệm của Đảng, Nhà
nước, của tổ chức quần chúng và của toàn xã hội"; cho nên "phải có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo của tổ chức quần chúng ở các cấp bằng cách tuyển chọn những
người tiên tiến từ phong trào thực tiễn...", "tổ chức đảng ở các cấp phải coi việc chăm lo
quyền lợi của nhân dân và công tác quần chúng là nội dung cơ bản trong hoạt động của
mình..." [40, tr.4, 5, 6].
Như vậy, Đảng và Nhà nước Lào đã đánh giá đúng vai trò của phụ nữ Lào kể từ
khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc đi đến quá trình xây dựng đất nước hiện nay.
Đảng đã phê phán những quan điểm nhận thức hẹp hòi, sai trái, sửa chữa những thiếu sót
trong việc tổ chức thực hiện, tiếp tục đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn để đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ nhằm phát huy khả năng và lực lượng của phụ nữ trong
công cuộc đổi mới hiện nay.
Ngay từ đầu, Đảng và Chính phủ nước CHDCND Lào đã có chính sách trong
việc phát huy quyền bình đẳng nam nữ và đã được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp
luật, luật hôn nhân gia đình, luật lao động. Năm 1980, Chính phủ đã ký nghị định về việc
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt phụ nữ, đến năm 2003 thì Chính phủ đã quyết định thành
lập ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Và đến ngày 22-10-2004 luật về: phát triển
và bảo vệ quyền lợi phụ nữ cũng được thông qua tại Hội nghị lần thứ 6 của Quốc hội
khóa V.
Trên cơ sở đó, Đảng đã quan tâm thường xuyên trong suốt thời kỳ cách mạng về
các biện pháp để giải phóng phụ nữ và giúp đỡ phụ nữ tiến bộ, làm cho phụ nữ có vai trò
đúng đắn và thích hợp trong gia đình và ngoài xã hội, vừa giúp đỡ phát huy mọi khả năng
của phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Đảng đã quy định
nguyên tắc một cách rõ ràng về việc thực hiện bình đẳng nam nữ về các mặt như: chính
trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, chống tư tưởng khinh bỉ và bóc lột phụ nữ, chẳng hạn phụ
nữ các bộ tộc, đồng thời cũng chống tư tưởng tự ti của bản thân phụ nữ. Với mục đích
trên thời gian qua, Đảng đã tạo mọi điều kiện cần thiết cho phụ nữ Lào có cơ hội tham
gia mọi hoạt động vào đời sống xã hội, nhất là quan tâm giúp đỡ phụ nữ có điều kiện học
tập, nâng cao trình độ khả năng về mọi mặt.
Do sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, cùng với sự cố gắng của bản thân, trong thời
gian qua, phụ nữ cũng như cán bộ nữ nhiều người đã trưởng thành và trở thành nhân vật
tiên tiến trong phong trào phụ nữ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, quyền và lợi ích của bà mẹ và trẻ em
trong điều kiện chiến tranh trước đây cũng như ngày nay đã được quan tâm và thực hiện
từng bước, Đảng đã có chính sách riêng đối với phụ nữ có thai, lúc con còn nhỏ và phụ
nữ có nhiều đứa con, giảm bớt công việc để có thời gian chăm sóc con cái nhưng vẫn
được hưởng lương thường xuyên.
Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của cán bộ nữ và đảng viên nữ chủ chốt
để thúc đẩy phong trào phụ nữ. Vì cán bộ nữ là đội ngũ tiên phong của lực lượng phụ nữ
rộng lớn, phong trào phụ nữ càng phát triển bao nhiêu thì đội ngũ cán bộ nữ càng có điều
kiện phát triển bấy nhiêu. Ngược lại sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác dụng to
lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và là đội ngũ đi trước trong phong trào phụ nữ
trong việc thực hiện đường lối chính sách vận động phụ nữ của Đảng. Do vậy, vấn đề cán
bộ nữ là một vấn đề gắn liền với yêu cầu sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phong trào phụ
nữ và phải được quan tâm giải quyết một cách tích cực nhất.
Các cấp, các ngành của Đảng và Nhà nước phải hiểu rõ vị trí vai trò rất
quan trọng của lực lượng phụ nữ cũng như phải hiểu rõ vị trí và vai trò của đội
ngũ cán bộ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung và trong sự
nghiệp giải phóng phụ nữ nói riêng, đã phát huy ưu điểm trong công tác vận
động phụ nữ và trong công tác cán bộ nữ, kiểm điểm điểm yếu của mình về
công tác này để làm cho phong trào phụ nữ tiến lên và thúc đẩy đội ngũ cán bộ
tiến nhanh hơn nữa. Đảng ta phải có kế hoạch, có biện pháp và chính sách cụ
thể trong việc bồi dưỡng, sử dụng và phát huy tác dụng của đội ngũ cán bộ nữ
đã có bao gồm chị em phụ nữ tiên tiến trong các bộ tộc đã trưởng thành trong
phong trào cách mạng dân tộc dân chủ, chị em có trình độ văn hóa, khoa học kỹ
thuật, quản lý đã được đào tạo thành hệ thống trong trường học và đông đảo chị
em là chủ chốt hoạt động ở cơ sở, đây là vốn quý báu trong đội ngũ cán bộ của
Đảng và trong phong trào phụ nữ [31, tr.39-40].
Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội:
Chúng ta phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ
nữ trong lĩnh vực hoạt động khác, trong việc đào tạo chuyên ngành và trong việc
tuyển chọn học sinh để đi đào tạo ở nước ngoài cũng phải quy định tỷ lệ nữ và
các nghề nghiệp để phát huy sử dụng phụ nữ, phải quan tâm đến biện pháp, chế
độ và điều quy định để tạo điều kiện cho việc giải quyết khó khăn cho phụ nữ...
[31, tr.40-41].
Phương hướng về công tác cán bộ nữ và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thời kỳ đổi
mới vào lãnh đạo được thể hiện rất rõ trong việc cơ cấu thành phần cán bộ nữ một cách thích
đáng trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, cũng như trong các ngành kinh tế quốc dân.
Đồng thời trong các Nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Hiến pháp, pháp
luật... đều quy định rõ bình đẳng nam nữ về mọi mặt, đã nói lên sự quan tâm tạo điều kiện
cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào công việc trong các lĩnh vực của Đảng và Nhà
nước.
Vì vậy, muốn phát huy sự tiến bộ của phụ nữ và tham gia vào các cấp lãnh đạo
phải chú trọng quan tâm một số vấn đề sau:
- Phải tăng cường đào tạo, phát triển phụ nữ về mọi mặt để nâng cao
trình độ khả năng của phụ nữ.
- Phải quan tâm tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội tham gia ngày càng
nhiều hơn nữa vào phong trào và công việc thực tiễn để nâng cao vai trò của phụ
nữ trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội và quản lý nhà nước [48, tr.2].
Mặt khác muốn có được bình đẳng với nam giới, bản thân phụ nữ phải cố gắng
vươn lên, đồng thời xã hội, gia đình và nam giới cũng phải tạo điều kiện cho phụ nữ. Tại
Đại hội toàn quốc lần thứ III của phụ nữ ngày 27/12/1993, Chủ tịch Khăm Tày Xỉ Phăn
Đon đã nhắc lại nội dung của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về công tác quần chúng:
trong đó có khẳng định trách nhiệm của xã hội cũng như trách nhiệm của tất cả các ngành,
các cấp đối với phong trào phụ nữ là:
Toàn xã hội có trách nhiệm trong việc giúp đỡ xây dựng phong trào phụ
nữ và phải coi phong trào của phụ nữ là điều không thể thiếu được của phong
trào cách mạng của đất nước ta. Đảng bộ, chính quyền phải tôn trọng sự chủ
động, sáng tạo của Hội Liên hiệp phụ nữ, tránh sự lãnh đạo và quản lý hành
chính theo kiểu không phát huy được quyền làm chủ của tổ chức phụ nữ các
cấp; phải bỏ quan điểm tư tưởng khinh bỉ phụ nữ và phải phê bình quan điểm
hẹp hòi trong việc đánh giá, sử dụng cán bộ nữ, quan tâm tìm thấy, đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ nữ, tạo điều kiện cho chị em được rèn luyện tiến bộ
không ngừng [53, tr.60].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào (2001)
không những khẳng định: "Tăng cường đoàn kết dân tộc, tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi
mới, hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà còn xác
định rõ những mục tiêu phấn đấu cho các giai đoạn cụ thể là 2001-2005; 2006-2010 và
cho đến 2020, trong đó nhấn mạnh đến năm 2020 là phấn đấu đưa đất nước "thoát khỏi
tình trạng kém phát triển" [47, tr.23-24]. Việc triển khai thực hiện các mục tiêu đó đã
được thể hiện rõ trong các chương trình phát triển cấp quốc gia đối với các ngành kinh tế
- xã hội, nằm trong "chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào đối với năm 2020" [48, tr.33]. Đây chính là nhiệm vụ chính trị trung tâm được
đặt ra đối với toàn Đảng, toàn dân và đối với mỗi cán bộ đảng viên.
Những đòi hỏi mới về chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đổi mới đã được
nêu lên trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1991) của Đảng, trong đó
đã chỉ ra rằng, người cán bộ trong thời kỳ mới phải "trung thành với Đảng, thống nhất với
đường lối, chủ trương và quan điểm của Đảng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả
năng lãnh đạo và triển khai có hiệu quả các chủ trương của Đảng, các quyết định của Nhà
nước"; "có ý thức kỷ luật cao", biết vận động, tập hợp và phát huy trí tuệ của quần
chúng", "có phong cách làm việc sát thực tế và cơ sở, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
ham học hỏi..." [45, tr.50,51,53].
Trong nội dung văn bản của Hội nghị Công tác tổ chức toàn quốc lần thứ 7 tháng
12 năm 1991 đã xuất phát từ nội dung chính đã nêu trong nghị quyết Đại hội V của Đảng
mà đưa ra những yêu cầu cụ thể từng mặt về chất lượng ĐNCB.
Tất cả cái đó là cơ sở trực tiếp cho các quyết định và quy định của Bộ Chính trị
về tiêu chuẩn cán bộ, trong đó Quyết định số 37 (1995) và Quy định số 04 (2003).
Những dẫn chứng được nêu ra ở trên nhằm khẳng định rằng: Đảng và Chính phủ
Lào luôn nhất quán trong chính sách phát triển, chính sách vì sự tiến bộ, bảo vệ quyền và
lợi ích thiết thực của phụ nữ bằng cách:
Tạo mọi điều kiện cho phụ nữ có sức khỏe, có kiến thức, khả năng, đạo
đức cách mạng, có công ăn việc làm và có quyền bình đẳng với nam giới
không phân biệt địa vị chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Xã hội
phải tham gia vào việc thực hiện chính sách của Đảng đối với phụ nữ theo quy
định của pháp luật [57, tr.2].
Những quan điểm, chủ trương, chính sách đó đã tạo điều kiện để phụ nữ tham gia
ngày càng nhiều vào quá trình tổ chức thực hiện công tác ở các cấp, các ngành, đó cũng
là điều kiện đưa đến sự bình đẳng thực sự cho người phụ nữ. Ngoài ra việc tham gia của
chị em vào các cơ quan lãnh đạo chính quyền và cơ quan dân cử cũng như hoạt động tích
cực của họ trong các tổ chức kinh tế - văn hóa xã hội có liên quan trực tiếp đến việc nâng
cao mức sống của phụ nữ và con em họ. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thể hiện
thông qua các chỉ thị, nghị quyết sẽ tiếp thêm sức mạnh cho đội ngũ cán bộ nữ, giúp họ
phấn khởi và thêm tự tin hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2.1.2. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1986) mở ra thời kỳ mới cho cả dân tộc. Đổi
mới đồng bộ, toàn diện để xây dựng thành công nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ,
thống nhất và phồn vinh. Qua việc thực hiện công cuộc cải tạo và đổi mới đất nước từ
năm 1986 đến năm 2001, với sự quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, CHDCND Lào
đã đạt được những thành tựu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là
thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quan trọng để làm cơ sở vững chắc cho các bước tiếp theo.
Trong những thắng lợi đó, công tác cán bộ của Đảng cũng từng bước củng cố, hoàn thiện
để tương xứng với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Đảng đã đưa những cán bộ,
đảng viên ưu tú vào QLNN, điều hành các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, thông tin,
tuyên truyền... đội ngũ cán bộ nữ đã trưởng thành, phát triển cùng với sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đại hội IV, V, VI, VII của Đảng
NDCM Lào, các phương hướng, nhiệm vụ mới của Đại hội HLHPN toàn quốc lần thứ I,
II, III, IV, các cấp ủy đảng cũng như tổ chức Hội Phụ nữ các cấp đã tập hợp, đoàn kết
phụ nữ các bộ tộc, các tầng lớp nhất là phụ nữ lao động, để giáo dục và tổ chức chị em
tham gia phong trào hoạt động phát huy chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, tham
gia phong trào "ba tốt" đào tạo phụ nữ Lào có đẩy đủ cả đạo đức cách mạng, có trình độ
kiến thức và khả năng làm tròn nhiệm vụ với Tổ quốc.
Năm 1986, nhất là từ sau Nghị quyết 5 khóa IV và sau đó là Nghị quyết 7 (khóa
V) về: phát triển nguồn lực ở CHDCND Lào, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói
chung và cán bộ nữ nói riêng được đặc biệt quan tâm, thể hiện tinh thần trách nhiệm của
Đảng đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.
Sau nhiều năm thực hiện các quyết định, phương hướng, nhiệm vụ mới của Đại
hội phụ nữ toàn quốc lần thứ I, II, III và IV, các Nghị quyết: Nghị quyết 05/BCTTW
Đảng về công tác quần chúng trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 27 và Nghị quyết
97/BCTTW Đảng ngày 5/9/1997 về tổ chức và hoạt động của cơ quan Trung ương
HLHPN Lào và kể từ Đại hội IV của Đảng NDCM Lào, Đảng đã có chính sách về cải
cách bộ máy, tổ chức theo hướng gọn nhẹ nhưng phải có hiệu quả và khẳng định vai trò
của HLHPN Lào đại diện quyền làm chủ của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, sự phối
hợp giữa các cấp chính quyền với các cấp hội phụ nữ thành những quy định cụ thể. Tạo
điều kiện để HLHPN cùng các cơ quan nhà nước xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của từng địa phương, bàn bạc giải quyết các vấn đề về chính sách, pháp luật có
liên quan đến phụ nữ, thực hiện có hiệu quả hơn chức năng đại diện bảo vệ quyền lợi phụ
nữ, trẻ em. Có thể coi đây là điều kiện quan trọng để phát huy tài năng trí tuệ và nâng cao
địa vị của người phụ nữ.
Thông qua quá trình thực hiện các Nghị quyết, các cấp chính quyền từ Trung
ương đến địa phương đều thấy rõ vai trò của phụ nữ. Kết hợp giữa chính quyền và Hội
phụ nữ, các đại biểu phụ nữ tham dự các kỳ họp định kỳ của Hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân, nghe thông báo việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội; bàn biện pháp thực
hiện các công tác lớn của đất nước, địa phương, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
bản thân phụ nữ thấy được trách nhiệm công dân của mình và trách nhiệm đối với quyền
lợi và sự phát triển của phong trào phụ nữ và của đất nước nói chung. Thông qua việc
tham gia xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, các chủ trương chính sách và tham gia một số tổ
chức với tư cách là thành viên chính thức của Hội đồng như: Hội đồng kỷ luật, khen
thưởng, Hội đồng lương... Phụ nữ đã có tiếng nói trong việc ra quyết định. Quan điểm,
cách nhìn của phụ nữ, lợi ích của phụ nữ không bị bỏ qua, nguyện vọng lợi ích của phụ
nữ được tôn trọng.
Việc thực hiện Nghị quyết 05/BCTTW, Nghị quyết 27 và Nghị quyết
97/BCTTW Đảng có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện dân chủ hóa, phù hợp với
yêu cầu đổi mới trong quản lý kinh tế của các cấp chính quyền. Các cấp chính quyền xác
định rõ trách nhiệm của mình trong việc tạo điều kiện trên một số mặt công tác để
HLHPN tham gia quản lý Nhà nước ở địa phương và đơn vị đạt kết quả tốt. Về phía HPN
càng thấy rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức mình cùng với chính quyền, tăng
cường công tác quản lý nhà nước, từng bước đổi mới trong tư duy và hành động, đổi mới
phương thức làm việc, mạnh dạn đề xuất và trực tiếp cùng chính quyền giải quyết nhiều
vấn đề thuộc quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Trong giai đoạn hiện nay, giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một mục
tiêu của cách mạng Lào, có ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài đến sự phát triển của đất nước.
Vì vậy, bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt
của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ. Đồng
thời, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ là một yêu cầu
quan trọng của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và phát triển toàn diện người phụ nữ.
- Về cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào:
Những đặc điểm phức tạp của nền kinh tế thị trường cũng như những thay đổi
nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, những khó khăn trong nước hàng ngày
hàng giờ tác động đến đội ngũ cán bộ. Song tuyệt đại bộ phận cán bộ nói chung và cán bộ
nữ nói riêng vẫn giữ được bản chất chính trị vững vàng, có quyết tâm thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Đại đa số cán bộ, nhất là CBLĐ, CBQL ở các cấp đã rèn luyện thử thách trong
quá trình đấu tranh gian khổ, đã chịu đựng gian khổ trong những năm tháng ác liệt nhất,
phần đông cán bộ nữ vững vàng, năng động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có
tinh thần phấn đấu cao.
Trong những năm qua, cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ (CBLĐ, CBQL) ở CHDCND
Lào đã từng bước hoàn thiện, phát triển hợp lý. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ nữ ở Lào
đang làm công tác lãnh đạo và quản lý đã lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Nhiều
chị đã đảm nhận và làm tốt cương vị lãnh đạo trong tổ chức Hội Phụ nữ các cấp của mình
cũng như ở các tổ chức quần chúng và tổ chức xã hội khác. Hiện nay trên toàn quốc ở
CHDCND Lào số cán bộ công chức nữ chiếm 38,89% trong tổng số cán bộ. Do có sự
quan tâm đặc biệt của Đảng và Chính phủ Lào, cộng với sự chủ động phấn đấu vươn lên
của cán bộ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay, đồng thời do sự chú ý của đảng ủy, chính quyền các cấp trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ và do có sự cố gắng phấn đấu của bản thân
chị em phụ nữ đã góp phần to lớn trong hoạt động của phong trào, trong tổ chức xã hội
khác và trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của Đảng NDCM Lào. Như vậy, Đảng, Chính
phủ nước CHDCND Lào luôn luôn có chủ trương chính sách đúng đắn để khuyến khích
sự tiến bộ và phát triển phụ nữ về mọi mặt, đồng thời do có trách nhiệm với nhiệm vụ
chính trị của mình, cán bộ phụ nữ Lào đã được tham gia trong cương vị lãnh đạo của Nhà
nước (xem phụ lục số 1).
Có thể thấy rằng, cán bộ nữ không chỉ góp phần tham gia lãnh đạo trong cương
vị lãnh đạo Nhà nước mà còn được tham gia lãnh đạo trong các cấp ủy Đảng thể hiện qua
các nhiệm kỳ Đại hội các cấp như sau:
- BCHTW khóa 1972-1982 tỷ lệ cán bộ nữ thấp (3,9%) so với khóa 1982-1986
(7,3%).
- Tỷ lệ cán bộ nữ trong khóa 1986-1991 lại cao hơn 1,5% so với khóa 1991-1996
(6,8%). Nhưng đến khóa 1996-2001 tỷ lệ cán bộ nữ lại giảm hơn 8,2% (xem phụ lục số 2).
Trong lĩnh vực y tế, cán bộ nữ cũng luôn phấn đấu vươn lên để có trình độ
chuyên môn giỏi, cùng tập thể lãnh đạo của đơn vị mình làm tốt nhiệm vụ đào tạo bồi
dưỡng cho thế hệ trẻ và chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ nữ trong ngành
giáo dục được tham gia quản lý ở tất cả các ngành học, cấp học, thi đua nhau trở thành cô
giáo dạy giỏi, gương mẫu... Qua thực tiễn chứng minh các chị hoàn toàn có khả năng
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Chị em trong lực lượng vũ trang cũng đã kề vai sát cánh cùng với nam giới cống
hiến cả trí tuệ và sức lực để bảo vệ Tổ quốc, nhiều chị em đã được Đảng và ban chỉ huy
tặng danh hiệu là nữ anh hùng và danh hiệu chiến sĩ thi đua xuất sắc.
Trong quản lý sản xuất kinh doanh, số giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp
nhà nước là nữ cũng đã được trưởng thành và đã phát huy tốt tác dụng của mình: trước
những khó khăn gay gắt của nền kinh tế chị em đã chủ động tìm tòi, đầu tư sáng tạo để
hoạt động có hiệu quả cao. Nhiều chị em lãnh đạo ở các cơ sở sản xuất kinh doanh đã
nhanh chóng thay đổi cách làm việc thích ứng với cơ chế thị trường, đảm bảo được sản
xuất phát triển và đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của cả nước.
Cùng với đội ngũ cán bộ nữ trong các doanh nghiệp nhà nước, chị em chủ nhiệm,
phó chủ nhiệm các hợp tác xã thủ công nghiệp, giám đốc, phó giám đốc các doanh
nghiệp sản xuất tư nhân, công ty cổ phần đã mạnh dạn tìm mặt hàng mới thay đổi mẫu
mã, tìm thị trường tiêu thụ mới, đã sản xuất và tiêu thụ nhiều sản phẩm có chất lượng cao,
góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đội ngũ cán bộ nữ trong khối thương nghiệp dịch vụ cũng đã trải qua thử thách
lớn khi chuyển từ người lao động thụ động sang hoạt động kinh doanh hàng ngày, hàng
giờ có mặt trên thị trường tiếp xúc với người tiêu dùng, tự học cách làm ăn, tự trao đổi
bản lĩnh kinh doanh luôn sáng tạo, linh hoạt đưa lĩnh vực này trở nên sôi động trong nền
kinh tế - xã hội.
Trong khoa học kỹ thuật nữ trí thức của đất nước chiếm 31% chị em tham gia
hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước đội ngũ nữ trí thức Lào đã phát huy tiềm năng sáng tạo trong các hoạt động
khoa học và công nghệ trong việc triển khai các đề tài nghiên cứu, thực nghiệm khoa học,
cải tiến kỹ thuật trong việc ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống.
Trong văn hóa nghệ thuật nhiều chị em đã có cống hiến xuất sắc thể hiện phong cách lao
động sáng tạo.
Công tác phát triển đảng viên nữ cũng được các cấp ủy đảng quan tâm, tỷ lệ đảng
viên nữ được kết nạp ở các cơ quan từ Trung ương đến địa phương ngày càng tăng.
Nhiệm kỳ 1986-1991 là 8,3%; nhiệm kỳ 1991-1996 là 9,6%; nhiệm kỳ 1991-2001 là
12,6% và từ giai đoạn năm 2001-2004 là 13,6%. Đây là nguồn quan trọng để quy hoạch
và phát triển đội ngũ cán bộ nữ (xem phụ lục số 3).
- Cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ dân tộc:
Trong những năm qua, Đảng NDCM Lào đã quan tâm củng cố bộ máy tổ chức
đảng, Nhà nước và tổ chức quần chúng từ Trung ương đến cơ sở phù hợp với cơ chế mới
trong QLKT-XH vì đó là yêu cầu khách quan. Đi đôi với sự củng cố bộ máy tổ chức đó
đã bố trí lại những cán bộ đặc biệt là CBLĐCC từ cấp bộ trưởng, cấp vụ trưởng, cấp sở,
cơ cấu BCH đảng ủy các cấp; trong đó có cả đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ
thiểu số là phụ nữ. Hiện nay, trong BCHTW Đảng NDCM Lào khóa VII - 2001 có 53
đồng chí, trong đó có 3 đồng chí là nữ (1 người là người dân tộc H'mông). ở cấp tỉnh,
nhìn chung cơ cấu bộ máy lãnh đạo cũng có cán bộ nữ dân tộc thiểu số tham gia. Nhưng
nếu so với cán bộ nữ người Lào Lùm thì tỷ lệ còn rất thấp. Một số tỉnh ủy, huyện ủy cũng
như ở một số cơ quan nhà nước, các ban, ngành QLKT, QLXH không có cán bộ nữ dân
tộc thiểu số tham gia.
Cơ cấu đội ngũ CBLĐ là dân tộc thiểu số ở CHDCND Lào hiện nay nhất là cán
bộ nữ vẫn còn thiếu đồng bộ và mất cân đối, thể hiện rõ nhất là ở cơ cấu độ tuổi và cơ
cấu chuyên môn. Chẳng hạn, trong số CBLĐ thuộc các cơ quan Trung ương (từ trưởng,
phó ban, vụ, cục trở lên) rất ít cán bộ nữ là người dân tộc tham gia. ở cấp tỉnh ủy, huyện
ủy cũng có nhưng rất ít cán bộ nữ dân tộc thiểu số tham gia. Nghị quyết BCHTW Đảng
NDCM Lào về công tác dân tộc trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: "Trong những năm qua
chúng ta đã đào tạo được nhiều cán bộ các dân tộc có trình độ nhận thức về mọi mặt,
nhưng họ lại chưa được bồi dưỡng, động viên và chưa được hưởng chính sách phù hợp
để đi làm công tác ở địa phương vùng dân tộc của mình" [39, tr.3].
Để dễ theo dõi có thể chia theo ba dân tộc lớn để so sánh sau đây:
Trong tổng số cán bộ công chức là 91.953 thì cán bộ nữ chiếm 38,89%, trong đó
dân tộc Lào Lùm với tổng số là 81.427 thì nữ chiếm 39,14%; dân tộc Lào Thưng có
6.638 thì nữ chiếm 42,9%; dân tộc Lào Xủng có 3.888 thì số cán bộ nữ chiếm 26,7%
(xem phụ lục số 4).
Chúng ta có thể thấy tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc ở CHDCND Lào,
nhất là cơ cấu cán bộ dân tộc là nữ, tuy Đảng và Chính phủ đã có chính sách đối với cán
bộ dân tộc thiểu số, nhưng trong thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ dân tộc thì
rất ít và rất khó. Bởi vì các chị em các dân tộc thiểu số có trình độ văn hóa hết cấp II, cấp
III và trình độ chuyên môn trung cấp và đại học. Chính vì vậy, việc bố trí cán bộ nữ các
dân tộc thiểu số vào trong cơ cấu lãnh đạo ở các cấp ủy đảng còn gặp nhiều khó khăn.
- Cơ cấu lứa tuổi của đội ngũ cán bộ nữ.
Đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào từ Trung ương đến địa phương, nhất là
CBLĐ tuổi bình quân là 40 và cao nhất là 50 tuổi. Chính là những cán bộ đã trải qua quá
trình đấu tranh thử thách trong phong trào đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước ở các
cơ quan cục, bộ và tỉnh, thành.
Nhìn chung, về đội ngũ CBLĐ ở các cấp của HPN Lào đã có bước chuyển biến,
nhưng còn một số nhược điểm:
+ Cơ cấu giữa ba độ tuổi chưa cân đối, tỷ lệ cán bộ trẻ còn quá ít: ở cấp tỉnh, cấp
huyện độ tuổi từ 45 đến hơn 50 là rất cao.
+ Tỷ lệ cán bộ chủ chốt là nữ được tham gia ở cấp tỉnh, huyện ủy còn quá thấp.
+ Việc xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến
địa phương còn quá ít, tuổi lại cao, phần lớn từ 42 đến 45 trở lên.
- Về trình độ học vấn:
Đổi mới cơ cấu tổ chức cán bộ của Đảng nói chung và cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ
ở CHDCND Lào là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì thời đại ngày nay
là thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ, thời đại bùng nổ thông tin, đứng
trước yêu cầu đó đội ngũ cán bộ nói chung, trước hết là đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND
Lào nhất thiết phải có trí thức, có trình độ, học vấn, có năng lực để tổ chức lãnh đạo, thực
hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Nếu không thì không thể lãnh đạo tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hiệu quả.
Cán bộ nữ có trình độ văn hóa thấp nhất là cấp hai, cao nhất là trình độ đại học.
Về trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ nữ gồm: tiến sĩ hoặc tương đương 10,1%; thạc sĩ
hoặc tương đương 20%; cử nhân chuyên sâu là 26,5%; cử nhân hoặc tương đương 32,8%;
cao đẳng 30,7%; trung cấp là 42,1%; sơ cấp 43,1%; không có chuyên môn chiếm 30,4%
(xem phụ lục số 5).
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ được các bộ, ngành, các cấp chính quyền
và đảng ủy các cấp quan tâm hơn và đã chú trọng kết hợp giữa xây dựng quy hoạch với
công tác đào tạo, bồi dưỡng... Các hình thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ được mở
rộng và ngày càng được phát triển hơn. Ngoài đào tạo, bồi dưỡng về trình độ văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ còn chú ý đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị và ngoại
ngữ... Nhiều trường chính trị và ngoại ngữ được mở tại nhiều tỉnh của Lào, tạo điều
kiện thuận lợi cho cán bộ nữ tham gia. Theo thống kê của Vụ Đào tạo cán bộ thuộc
Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Vụ Đào tạo cán bộ của HLHPN Trung ương tháng
5 năm 2005. Từ năm 1995 đến năm 2004 có 152 chị được cử đi học trường hành chính
(10 tháng), 72 chị được cử đi nâng cao trình độ ngắn hạn về đường lối chính sách của
Đảng; 52 chị được cử đi bồi dưỡng về QLKT, 474 chị được cử đi bồi dưỡng trình độ
ngắn hạn về ngoại ngữ, 1900 chị được cử đi bồi dưỡng lý luận ở Trung ương và các
tỉnh, thành khác trong cả nước.
Đội ngũ cán bộ nữ cũng có nhiều ưu điểm mang tính truyền thống, như trung
thành với Đảng, với giai cấp công nhân, gắn bó với CNXH và sự nghiệp cách mạng của
dân tộc, có ý thức tổ chức, kỷ luật, đoàn kết, dũng cảm trong đấu tranh vì sự bình đẳng
nam nữ, đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đồng thời đã dũng cảm trong đấu
tranh chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong trào "ba tốt" của HLHPN Lào
đã bước sang mô hình tổ chức, phương thức hoạt động mới.
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ nữ còn rất nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Điểm yếu rõ nhất là còn có một số cán bộ nữ
không đủ bản lĩnh và năng lực đại diện cho quần chúng nói chung và của phụ nữ các bộ
tộc, các tầng lớp nói riêng, đồng thời chưa bênh vực quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
Mặt khác, do còn lệ thuộc vào chính quyền các cấp nên phần đông cán bộ nữ thiếu trình
độ chuyên môn về khoa học, kỹ thuật và công nghệ, thiếu hiểu biết về quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế và quản lý xã hội theo cơ chế thị trường. Một bộ phận cán bộ nữ ở cấp cơ
sở còn sa sút về ý chí phấn đấu, nhận thức chậm đổi mới. Do nhiều nguyên nhân như đã
nêu trên, một số cán bộ nữ ở các cấp, các ngành, nhất là các ngành ở cấp cơ sở không
thiết tha với công việc, với nhiệm vụ chính trị của mình. Vì khó khăn trong cuộc sống
nên một số cán bộ nữ muốn nghỉ công tác để làm kinh tế gia đình. Đây là hiện tượng khá
phổ biến ở CHDCND Lào hiện nay, nên các cấp ủy đảng cần quan tâm và chú ý hơn nữa.
Qua điều tra một số bộ, ngành tỷ lệ cán bộ chủ chốt là nữ được tham gia lãnh đạo
trong các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước so với năm 1975 rất cao (xem phụ lục số 6).
Qua tìm hiểu, tỷ lệ cán bộ nữ khóa V cao hơn 14,09% so với khóa 1975-1989,
cao hơn 16,15% so với khóa 1989-1992 và hơn 13,14% so với khóa 1992-1997; hơn
1,6% so với khóa 1997-2001. Mặc dù tỷ lệ cán bộ nữ được tham gia khá cao so với khóa
I, nhưng cũng chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong công cuộc đổi mới hiện
nay. Bởi vì tỷ lệ cán bộ nữ làm đại diện cho quần chúng nhân dân các bộ tộc, các tầng lớp
ở CHDCND Lào nói chung và quần chúng phụ nữ Lào các bộ tộc nói riêng còn quá ít.
Nếu so với các nước khác trong khu vực ASEAN thì tỷ lệ cán bộ nữ tham gia trong Quốc
hội cũng tương đối cao, nhưng so với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới
thì vẫn thấp (xem phụ lục số 7).
Nhìn chung, tuy tỷ lệ cán bộ nữ là đại biểu Quốc hội còn ít và cơ cấu chưa hợp lý
nhưng họ là những người đã trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân các bộ tộc, đồng
thời họ là người đã tham gia giải quyết những vấn đề thắc mắc của quần chúng nhân dân,
phụ nữ các bộ tộc của Lào tại các cấp các địa phương.
Về số lượng đội ngũ cán bộ nữ, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương
Đảng NDCM Lào về công tác tổ chức và cán bộ của Đảng nói chung và công tác cán bộ
nữ nói riêng, Đảng ủy các cấp ở CHDCND Lào đã quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí và sử dụng cán bộ nữ. Đến năm 1986, khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới thì
HLHPN vai trò là một thành viên trong hệ thống chính trị, đồng thời là cơ quan đại diện
cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em đã kết hợp với các cấp ủy đảng đã đề ra
chương trình hành động và đẩy mạnh công tác cán bộ nữ. Các ban, ngành, cơ quan Trung
ương và các cấp ủy đảng có kế hoạch rà soát nắm CBLĐ, QL nữ và cán bộ nữ tại đơn vị
có đông lao động nữ như trong ngành y tế, giáo dục và lĩnh vực kinh tế...
Số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào tuy đã có tỷ lệ
cao nhưng vẫn chưa đồng bộ nhất là việc bố trí và sử dụng cán bộ nữ có trình độ và nghề
nghiệp cao cũng chưa hợp lý. Nhìn chung, phần lớn cán bộ nữ được tập trung ở Trung
ương, còn ở cấp tỉnh, huyện vẫn còn tình trạng thiếu; nhất là CBLĐ, QL là nữ. Đặc biệt
là ở cấp huyện thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thì việc bố trí cán bộ lãnh đạo là nữ
còn rất khó, ngay cả làm hội trưởng Hội phụ nữ cũng không đơn giản, đây cũng là một
vấn đề mà các cấp ủy đảng cần phải quan tâm, chú ý.
Qua nhiều năm củng cố, đào tạo, hiện nay có thể đánh giá được đội ngũ cán bộ
nữ đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý
và cán bộ chuyên môn. Nhìn chung đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp, các ngành đã dần dần
được nâng cao vai trò của mình, đã cố gắng học hỏi, rút kinh nghiệm thực tiễn trong công
tác nên đã thể hiện là họ biết vận dụng khả năng nhận thức trong lãnh đạo, chỉ đạo và
trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng vào trong công tác xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Tuy vậy, bước sang thời kỳ mới trước những yêu cầu mới của tình hình chính trị,
kinh tế - xã hội ở Lào, đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp cũng bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế,
chưa ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ mới. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, giải
phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một mục tiêu của cách mạng Lào, có ảnh hưởng
trực tiếp, lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Vì vậy, bồi dưỡng lực lượng phụ nữ,
phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường
xuyên, rất quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ. Đồng thời, đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ là một yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội và phát triển toàn diện người phụ nữ.
Qua việc triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng NDCM Lào về
công tác tổ chức và cán bộ cũng như của HLHPN Lào đã có những quan điểm, chủ
trương và biện pháp chỉ đạo nghiêm túc, đúng mức đã tạo được sự chuyển biến trong
nhận thức tư tưởng của các cấp ủy Đảng, các ngành về đổi mới và tăng cường công tác
phụ nữ trong tình hình mới. Công tác cán bộ nữ đã đạt được những kết quả nhất định,
phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ cán bộ nữ trên các lĩnh vực trong cả nước.
Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thì cấp ủy các cấp cử cán bộ đi học có
sự theo dõi và yêu cầu cán bộ phải báo kết quả học tập, rèn luyện thực hiện đúng chủ
trương của Đảng và cung cấp kinh phí cho cán bộ đi học. Điều đó đã khuyến khích cán
bộ thi đua học tập nâng cao trình độ học vấn, nhất là những năm gần đây Lào đã tập trung
lớn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ nữ. Nhờ
vậy, đã tạo ra được bước chuyển biến tích cực trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của cấp ủy đảng.

2.2. Những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm rút ra trong quá trình 15
năm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (1986 -
2001)
2.2.1. Những thành tựu đạt được
Trong 15 năm (1986-2001) công cuộc đổi mới của Đảng đã thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, tạo sự
chuyển biến tích cực về xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng an ninh được
củng cố, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Phong trào phụ nữ và
công tác cán bộ nữ cũng thu được những thành tựu quan trọng.
Việc phát triển nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng có tính quyết định đối
với sự sinh tồn và tiếp tục phát triển của đất nước. Vì vậy, Đảng NDCM Lào đã khẳng
định mục tiêu của việc đào tạo, bồi dưỡng con người mới như sau:
Đào tạo người thành công dân tốt có tinh thần yêu nước, yêu chế độ
dân chủ nhân dân có nội quy và tôn trọng pháp luật, biết thừa nhận và biết
kết hợp 3 quyền lợi một cách nhuần nhuyễn, biết thực hiện nghĩa vụ, có
trách nihệm đối với công việc; đào tạo người thành người có kiến thức, có
chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng, cần cù sáng tạo và biết tiết kiệm; có sức
khỏe và có tính nhân đạo, tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau [61, tr.5].
1. Những đóng góp của đội ngũ cán bộ nữ
Đánh giá công tác cán bộ nữ sau 15 năm đổi mới, tại Đại hội phụ nữ toàn quốc
lần thứ IV (năm 2001) đồng chí Thong Xỉng Thăm Ma Vông thường trực Bộ Chính trị đã
khẳng định vai trò và sự đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước như
sau:
Hội Liên hiệp phụ nữ, cũng như tổ chức của phụ nữ các cấp đã cố gắng
nhiều trong việc giáo dục chị em cùng nhau giữ gìn bảo tồn văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, chống lại hiện tượng tiêu cực, lối sống trái với phong tục tập quán
tốt đẹp của dân tộc Lào. Đồng thời các đồng chí cũng cố gắng chuyển công việc
của mình xuống cơ sở, đưa nhiều công trình xuống tổ chức thực hiện tốt ở các
bản làng, cơ sở sản xuất cả ở nông thôn và thành thị, đó cũng là sự đóng góp phát
triển phụ nữ cũng như dân làng ở nhiều cơ sở, địa phương, vừa đào tạo được một
số chị em phụ nữ trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp... Đảng và Chính
phủ đánh giá cao thành tích và sự đóng góp trên và coi đây là sự đóng góp quan
trọng không thể thiếu được trong thành tích chung của sự nghiệp cách mạng của
đất nước ta [66, tr.51-52].
Sự đánh giá như vậy đã khẳng định sự tin cậy của Đảng và Chính phủ đối với
HLHPN, đồng thời còn là niềm tự hào và nguồn động viên rất lớn đối với đội ngũ cán bộ
nữ ở tất cả các lĩnh vực hoạt động trên phạm vi cả nước.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng NDCM Lào, các cấp HPN đã động
viên các tầng lớp phụ nữ phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Lào, khắc phục mọi
khó khăn, kiên định vững vàng, vươn lên trên các lĩnh vực, góp phần xứng đáng vào việc
hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thông qua phong trào thi đua "ba tốt", đã đem lại quyền lợi thiết thực cho phụ nữ
cũng như cho đất nước. Việc thực hiện quyền bình đẳng nam - nữ là yếu tố rất quan trọng
không chỉ làm thay đổi về quan niệm và nhận thức về sử dụng cán bộ nữ, mà trên thực tế
đã chứng minh sự đóng góp của phụ nữ nói chung, của cán bộ nữ nói riêng vào việc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ và xây dựng đất nước cũng như sự nghiệp đổi mới
của đất nước là rất to lớn.
Trong thời gian qua, HLHPN đã ra sức phát triển phụ nữ về nhiều mặt mà đối
tượng trọng tâm là phụ nữ ở nông thôn. Việc thực hiện chương trình phát triển đó:
Không chỉ giải quyết về lợi ích hoặc vấn đề của riêng phụ nữ mà là phát
triển cả bản làng, vừa thể hiện rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc phát
triển nông thôn toàn diện nữa. Ngoài ra, phụ nữ Lào cũng quyết tâm vượt qua
mọi trở ngại khó khăn để học tập nâng cao trình độ về mặt chính trị, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật và các chuyên ngành có liên quan, ở nhiều cơ quan, bộ,
ngành cũng như ở tỉnh, huyện trong cả nước, chị em phụ nữ đã làm tròn nhiệm
vụ một cách có hiệu quả, nâng cao trách nhiệm, tư duy, sáng tạo trong công
tác của mình [62, tr.13-14].
Phụ nữ các bộ tộc Lào không chỉ bảo tồn truyền thống người mẹ tốt mà còn phát
huy vai trò quan trọng trong gia đình đã cống hiến cả sức lực, trí tuệ, tinh thần vào việc
nuôi dạy con cái, làm nội trợ gia đình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chồng, con tích
cực tham gia vào sự nghiêp chung của đất nước nhằm xây dựng gia đình văn hóa mới.
Điều đó chứng tỏ một lần nữa phụ nữ Lào vẫn giữ được vai trò quan trọng trong xã hội
Lào với tục ngữ quen thuộc: "chồng làm quan nhờ vợ khéo léo", "nhẫn đẹp vì mặt, chồng
tốt vì vợ". Nhìn chung phụ nữ vẫn là yếu tố quan trọng trong việc giữ gìn phong tục tập
quán, văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Tất cả điều đó chứng tỏ rằng, phụ nữ Lào nói chung, đội ngũ cán bộ nữ Lào nói
riêng đã tin theo Đảng liên tục phát huy ý chí cách mạng, kiên quyết phấn đấu để tự
khẳng định mình, cố gắng vươn lên thực hiện đườnglối chính sách của Đảng để thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ và không ngừng phát triển phong trào phụ nữ ngày càng vững
mạnh hơn.
Trong nhiệm kỳ Đại hội phụ nữ lần thứ IV (2001) có 698.138 chị đạt danh hiệu
"ba tốt" [24, tr.16]. Và riêng trong năm 2002-2003 thì cả nước có 113.036 chị em đạt
danh hiệu "ba tốt", hàng chục chị em được cấp bằng lao động sáng tạo" [48, tr.61]. Đặc
biệt qua thử thách đã xuất hiện nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi có phẩm chất đạo đức,
năng động, sáng tạo, vững vàng, dám nghĩ, dám làm cùng đơn vị phát triển đi lên trong
cơ chế mới.
Chị em trên mặt trận kinh tế đã vượt qua khó khăn thử thách khắc nghiệt của
thiên tai, ra sức phát huy tiềm năng sức lao động cần cù, chịu khó tích cực áp dụng những
tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra nhiều sản xuất có giá trị kinh tế cao
phục vụ cho tiêu dùng, tăng thu nhập cho gia đình, tăng sản phẩm cho xã hội góp phần
xây dựng đất nước. Từ thực tiễn phong phú đã xuất hiện nhiều phụ nữ xuất sắc.
Trong công tác giáo dục, phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục nói chung chiếm 50%
tổng số cán bộ giáo dục trong cả nước, tuy có nhiều khó khăn về đời sống sinh hoạt
nhưng chị em cũng đã vượt qua để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.
Trong công tác y tế: phụ nữ trong lĩnh vực y tế chiếm 57,4% của tổng số cán bộ.
Trong những năm qua phong trào cán bộ nữ y tế đã tích cực thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao, cố gắng phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Chị em trí thức mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về đời sống cũng như điều kiện
làm công tác nghiên cứu nhưng đa số chị em đã xác định rõ phải nỗ lực để có trình độ
đáp ứng yêu cầu của thời đại, đáp ứng sự phát triển về khoa học kỹ thuật, từng bước vươn
lên khẳng định vai trò của mình và có những đóng góp cho sự nghiệp đổi mới của đất
nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa xã hội. Nhiều chị em đã
phấn đấu trở thành tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, nhà giáo ưu tú, giáo viên dạy giỏi, thầy thuốc
ưu tú, nhà nghiên cứu khoa học.
Trong ngành văn hóa thông tin, thể dục thể thao các chị đã vươn lên đạt nhiều
thành tích xuất sắc, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng phong trào thể dục thể thao lành mạnh, nhiều chị đạt danh hiệu nghệ sĩ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú...
Chị em trong các lực lượng vũ trang, an ninh và làm công tác bảo vệ pháp luật đã
vượt qua mọi thử thách vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tham gia
nhiệm vụ kề vai sát cánh cùng với nam giới cống hiến trí tuệ, sức lực của mình vào sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhiều chị dũng cảm mưu trí, góp phần vào công
cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Nhiều chị được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua,
làm gương mẫu tốt ở các đơn vị, được giao nhiệm vụ và giữ những trọng trách quan trọng
trong bộ máy nhà nước.
Kết quả từ năm 1986-2001 nhất là sau khi quán triệt các nghị quyết Đại hội IV, V,
VI, VII của Đảng NDCM Lào xác định: trong việc xây dựng Đảng thì công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐ là quan trọng nhất, là then chốt nhất của vấn đề then chốt.
Trên tinh thần ấy, Đảng ủy các cấp đã xây dựng quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch
đào tạo; bồi dưỡng cán bộ của Đảng nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng. Đã tiến
hành quy hoạch cán bộ trong từng giai đoạn. Trong 15 năm (1986-2001) thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị cán bộ toàn quốc (1995) về
"Phương hướng, quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ trong tình hình mới", các cấp ủy đảng đã
bổ sung hoàn chỉnh công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ một cách
đồng bộ và có tính chiến lược thì đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào đã từng bước phát
triển và có bước tiến bộ, có những góp phần đáng kể trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển của đất nước. Một đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, phát huy
được khả năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, trong đó có những chị em đã vượt
qua khó khăn, rèn luyện phấn đấu vươn lên phát huy tốt vai trò lãnh đạo chủ chốt.
2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: từ năm 1986 đến năm 2004 Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia (Thà Ngòn) đã mở nhiều lớp bồi dưỡng cho CBLĐ, QL
các cấp trong đó có CBLĐ, QL là nữ vào học tập như: mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn và
dài hạn với số lượng cán bộ được đào tạo là 2942 người, có nữ 276, chiếm 9,38%, trong
đó lớp ngắn hạn 1690, có 72 nữ, chiếm 4,26%, lớp dài hạn 1252 người, nữ 204 người,
chiếm 16,29%.
Về phía Hội phụ nữ, các cấp Hội đã xác định được quyền lợi và trách nhiệm của
mình trong việc tham gia quản lý nhà nước ở các cấp. Để thực hiện tốt vai trò tham gia
các tổ chức tư vấn với tư cách là thành viên chính thức, các cấp Hội đã thường xuyên
quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội. Hàng năm đã mở các lớp
nghiệp vụ công tác, kiến thức pháp luật, các chính sách mới của Đảng, Nhà nước có liên
quan đến phụ nữ, trẻ em, nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ Hội. Trong những
năm qua (1986-2001) đã mở được trên 105 lớp tập huấn cho gần 15.000 lượt cán bộ chủ
chốt Hội cấp Bộ, cơ quan, tỉnh, huyện; mở trên 180 lớp cho cán bộ hội từ tổ trưởng, tổ
phó phụ nữ đến Ban Chấp hành các huyện, bản. HLHPN ở các cấp từ Trung ương đến địa
phương, cơ sở đã cử 500 lượt cán bộ đi học các lớp tại chức về pháp luật, đại học, trung
cấp chính trị; các lớp quản lý kinh tế, quản lý nhà nước. Thông qua các lớp học trình độ
của cán bộ nữ nâng lên rõ rệt.
Theo số liệu thống kê của Vụ Đào tạo cán bộ của HLHPN Trung ương Lào, ngoài
đào tạo trong nước, do được quan hệ hợp tác và nhận được sự giúp đỡ riêng của HLHPN
Việt Nam đã đào tạo đội ngũ cán bộ nữ, nhất là những chị em làm công tác Hội phụ nữ năm
1986 đến 2004 mở 4 lớp ngắn hạn cho 60 chị.
Ngoài ra các cơ quan, cấp bộ, đảng ủy các cấp của Lào còn tổ chức học tập để
bồi dưỡng trình độ nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ cho cán bộ các cấp, như tổ chức trung
tâm học tiếng Anh ở Noỏng Bòn, sau đó là ở Bộ Ngoại giao và ở Trường Đại học quốc
gia Đồng Độc; trung tâm bồi dưỡng trình độ giáo dục ở km8 (Thà Đưa), mở lớp bồi
dưỡng văn hóa phổ thông cấp II và cấp III ở Trung ương và cấp tỉnh. Hiện nay, nhiều tỉnh
đã phục hồi lại trường Chính trị - Hành chính - lý luận cho cán bộ cốt cán ở cấp địa
phương của mình, trong đó có sự tham gia của cán bộ nữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ được các bộ, ngành, chính quyền và đảng
ủy các cấp quan tâm hơn và đã chú trọng kết hợp giữa xây dựng quy hoạch với công tác
đào tạo, bồi dưỡng. Các hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ được mở rộng và ngày
càng được phát triển hơn.
3. Trong 15 năm (1986-2001), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia BCHTW Đảng không tăng:
nữ BCHTW khóa IV (1986-1991) là 5/60, chiếm 8,3%; đến khóa V (1991-1996) là 4/59
chiếm 6,8%; khóa VI (1996-2001) là 4/49 chiếm 8,2%; khóa VII (2001-2005) là 3/53, chiếm
5,6% nhưng trình độ được nâng lên rõ rệt.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ nữ, nhất là CBLĐ ở các cấp đã lấy hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ chính trị của từng cán bộ nữ làm căn cứ chủ yếu và là thước đo phẩm chất năng
lực cán bộ nữ các cấp. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng làm căn cứ để
tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm. Do đó, việc sử dụng cán bộ ngày càng có hiệu quả hơn,
quần chúng tin tưởng và tín nhiệm cao đối với số cán bộ được sử dụng. Nhất là từ năm
1993 đến nay ở Lào đã hình thành một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ ở các cấp
có tính kế thừa, tính liên tục, chú ý kết cấu các độ tuổi, đặc biệt là HLHPN đã thực hiện
trẻ hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt, độ tuổi từ 35-40 bằng 48%; từ 41-50 là 45% và trên 50
tuổi là 7%. Điều đó chứng tỏ sự vươn lên phấn đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ nữ ở
CHDCND Lào, đồng thời cũng khẳng định sự quan tâm, sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng
NDCM Lào. Ngoài ra cũng đã
Bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và phát huy được sự tiến bộ của
phụ nữ, đã kết hợp với ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và các cơ quan liên
ngành tiếp tục tuyên truyền, triển khai, giáo huấn kiến thức về Hiến pháp, pháp luật,
nghị định về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ, quyền lợi trẻ em, kiến
thức về vai trò nam nữ để làm cho phụ nữ các bộ tộc các tầng lớp nhân dân và xã
hội hiểu biết và thực hiện đúng để cho bình đẳng nam nữ trở thành hiện thực tiến
tới tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều trong việc nghiên cứu, đề ra
chính sách và quyết định vấn đề trong các cấp [49, tr.22].
Theo thống kê của Vụ Quản lý cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Vụ
Đào tạo cán bộ HLHPN hồi tháng 5-2005, trên 17 tỉnh thành và 10 cơ quan cấp bộ trong
cả nước cho ta thấy: đội ngũ cán bộ nữ đã được tôi luyện, trưởng thành trong công việc
thực tiễn và số cán bộ nữ đảm nhiệm chức trách ở các cấp, các ngành ngày càng tăng.
Về chức danh: Bí thư đảng ủy của Đảng bộ - cơ quan ngang bộ là 1 chị chiếm
3,57%; ủy ban Thường vụ tỉnh, thành, khu đặc biệt 4 chị chiếm 4,8%; ủy viên đảng bộ
tỉnh 23 chị chiếm 8,84%; ủy viên đảng bộ của bộ - cơ quan 15 chị, chiếm 14,85%; bí thư
huyện ủy 4 chị, chiếm 2,83%; ủy ban thường vụ huyện 204 chị, bí thư và phó bí thư đảng
ủy cấp bản, làng 4.296 chị.
Về chức danh nhà nước: Bộ trưởng và tương đương 2 chị, chiếm 5,88%; thứ
trưởng và tương đương 4 chị, chiếm 6,55%; Vụ trưởng và tương đương 37 chị, chiếm 9,79%;
huyện trưởng 4 chị, chiếm 2,83%; trưởng, phó phòng cấp huyện 1.091 chị, trưởng, phó bản,
làng 674 chị; giám đốc và phó giám đốc 29 chị...
Qua những con số trên, mặc dù chưa được đầy đủ và cũng chưa toàn diện nhưng
cũng đã thấy được sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào cùng với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cộng với ý thức làm chủ đất nước,
làm chủ bản thân của phụ nữ các bộ tộc đã tích cực tham gia vào việc bảo vệ
và xây dựng đất nước. Điều quan trọng là phụ nữ đã trở thành sức mạnh to
lớn trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong việc chuyển đổi nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa để từng
bước thoát ra khỏi nghèo đói lạc hậu bằng cách bắt đầu từ đơn vị gia đình,
nâng cao trình độ khả năng và lãnh đạo tổ chức thực hiện chương trình phát
triển phụ nữ gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Một điều quan trọng nữa là phụ nữ các bộ tộc Lào đã làm nhiệm vụ quan
trọng và nặng nề là bên cạnh công việc chung còn đảm nhiệm công việc gia
đình, tạo điều kiện thuận lợi cho con được học tập, cho chồng tham gia tích
cực vào công việc xã hội của đất nước. Thành quả trên bắt nguồn từ sự cố
gắng không biết mệt mỏi của phụ nữ các bộ tộc Lào... [60, tr.60].
Sự cống hiến của phụ nữ Lào đã góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước hiện nay. Qua tổng
kết 30 năm cách mạng dân tộc dân chủ và 50 năm trưởng thành - phát triển của HLHPN
Lào (20-7-1955 - 20-7-2005) có một số lớn chị em phụ nữ đã được Đảng, Nhà nước khen
thưởng:
Trong đó có 23 chị được phong tặng danh hiệu nữ anh hùng, chiếm 24,46%
tổng số anh hùng dân tộc như: Nàng Phuong, Nàng Bua Phăn, Nàng Phàn, Nàng
Dông Cai, Nàng Lả Lẻo, Nàng Chăn... và có 11 chị là chiến sĩ thi đua xuất sắc,
chiếm 2,81% và có nhiều đơn vị của phong trào đấu tranh phụ nữ được trao tặng là
đơn vị nữ anh hùng như: Đơn vị hỏa lực 769, Nhà máy dệt 12 tháng Mười... [25,
tr.1-2].
Nhìn lại 15 năm đổi mới (1986-2001), có thể nói đây là một bước chuyển đổi
nhận thức của các cấp chính quyền về vai trò, vị trí của tổ chức Hội phụ nữ trong việc
tham gia xây dựng chính quyền, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho các cấp Hội phụ nữ tham
gia quản lý nhà nước. Hầu hết các cấp chính quyền trong cả nước đã thực hiện tốt việc
phối hợp công tác với các cấp hội phụ nữ theo nội dung nghị quyết 05 của Bộ Chính trị
về tổ chức quần chúng trong tình hình mới, đã tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí, cơ sở
vật chất, phương tiện đi lại giúp cho Hội hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thực
hiện có hiệu quả các chương trình, nội dung công tác Hội. Về phía Hội phụ nữ, các cấp
Hội đã xác định được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc tham gia quản lý nhà
nước ở các cấp.
Với những thành tựu đã đạt được, đội ngũ cán bộ nữ đã trưởng thành gắn liền với
sự lớn mạnh của phong trào phụ nữ và phong trào chung của các cấp ủy đảng, nổi rõ vai
trò của phụ nữ Lào trong công cuộc xây dựng đất nước, nâng được địa vị của người phụ
nữ trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng được tôn trọng hơn, đội ngũ cán bộ nữ hiện
nay đã ngày càng được trưởng thành cả về số lượng và chất lượng.
Điều đó chứng tỏ rằng các cấp ủy đảng đã quán triệt các quan điểm của Đảng
NDCM Lào về công tác cán bộ nữ. Đánh giá rất cao vai trò của phụ nữ, rất quan tâm đến
việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ và đẩy mạnh cuộc cách mạng tư tưởng vì lợi ích
của sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Kết quả đó cũng khẳng định người phụ nữ Lào rất thiết
tha với việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, rất quan tâm tới công việc Nhà
nước. Trước những thách thức của nền kinh tế thị trường họ đã dũng cảm vượt qua để
khẳng định khả năng của mình, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung của Đảng và
của dân tộc.

2.2.2. Những hạn chế


Bên cạnh những thành công, công tác cán bộ nữ cũng còn bộc lộ những hạn chế
nhất định. Trong sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường mở rộng quan hệ quốc tế đòi
hỏi người lãnh đạo phải có năng lực toàn diện hơn, không chỉ chuyên môn mà còn phải
hiểu biết rộng, có kiến thức nhiều mặt. Nhiệt tình, tận tụy chưa đủ mà còn phải nhạy bén,
sáng tạo, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đòi hỏi trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ nữ cũng phải được nâng lên. Nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ nữ ở Lào chưa
chuyển kịp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Về trình độ kiến thức: Nói chung mặt bằng về trình độ học vấn chuyên môn
cũng như lý luận chính trị, quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ nữ hiện nay còn tương
đối thấp so với yêu cầu mới. Theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức Trung ương Đảng
năm 2004, số cán bộ nữ có trình độ tiến sĩ mới đạt 10,1%, trình độ thạc sĩ: 20%, trình độ
cử nhân: 32,8%. Nữ tham gia quản lý cấp trưởng, phó ban ngành ở các cơ quan Đảng,
Chủ tịch, phó Chủ tịch huyện, bản hầu như rất ít. Tuổi bình quân của cán bộ nữ, nhất là
CBLĐ, CBQL rất cao trong khi lực lượng kế cận vừa còn yếu, lại vừa thiếu nghiêm trọng.
Sự hạn chế về trình độ lý luận chính trị cũng như trình độ về mặt chuyên môn và
việc ít quan tâm đến việc tổ chức nghiên cứu tổng kết thực tiễn đã, đang là những biểu
hiện của sự yếu kém trong năng lực tư duy, sự thiếu năng động sáng tạo của các cá nhân
và tập thể ở một số cấp, ngành hiện nay.
- Đội ngũ cán bộ nữ tuy có được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nhưng "thiếu quy hoạch,
thiếu sự đồng bộ và chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn" [41, tr.8] nên đội ngũ cán bộ nữ nhất
là ở cơ sở như tỉnh, huyện, bản còn vừa thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào, nhất là CBLĐ, CBQL chủ chốt rất mỏng
mới chiếm 8,13% trong tổng số cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cả nước. Điều này chứng tỏ
đội ngũ cán bộ nữ chưa tương xứng với lực lượng lao động nữ trong các ngành, các lĩnh
vực.
- Một bộ phận cán bộ nữ còn mặc cảm, tự ty ngại phấn đấu vươn lên, nặng tư
tưởng an phận, lo làm kinh tế thu vén cho gia đình chồng con chưa khẳng định được vai
trò và vị trí của người phụ nữ đối với xã hội.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào đang đòi hỏi phải có sự quan
tâm đặc biệt. Qua 4 kỳ Đại hội của Đảng NDCM Lào lần thứ IV, V, VI, VII, tỷ lệ cán bộ
nữ tham gia BCHTW Đảng không những không tăng mà còn giảm, tỷ lệ nữ là chủ tịch,
phó chủ tịch ủy ban nhân dân ở các cấp, các ngành càng xuống cơ sở càng thấp.
Trong những năm qua tuy có sự chuyển biến hơn, nhưng việc đánh giá cán bộ ở
một số nơi chưa căn cứ vào chất lượng, hiệu quả trong nhiệm vụ công tác thực tiễn. Điều
đó dẫn tới sự đánh giá cán bộ chưa sâu sắc, bố trí và sắp xếp cán bộ nữ chưa phù hợp.
Còn nặng tính chủ quan và phần nào vẫn còn những biểu hiện chưa tin và chưa tôn trọng
vào đội ngũ cán bộ nữ.
- Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào nhìn chung trong
những năm qua chưa quan tâm đúng mức về quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ nữ đặc biệt là cán bộ nữ ở vùng dân tộc, nông thôn, nhiều chị em chưa nắm vững
những quan điểm và chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước.
Từ những thực tiễn lịch sử cho ta thấy cần có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ nữ cho phù hợp với từng đối tượng, từng loại cán bộ. Đồng thời cũng phải có
biện pháp tăng cường đội ngũ cán bộ nữ, nhất là đội ngũ cán bộ ở cơ sở để chị em có điều
kiện khẳng định tài năng và tâm huyết của mình đối với sự nghiệp xây dựng đất nước
trong thời kỳ mới.

2.2.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế


- Nguyên nhân của thành tựu:
+ Trước hết là do có đường lối chính sách đúng đắn của Đảng NDCM Lào về
xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và thực hiện tốt về chính sách cán bộ
trong từng giai đoạn. Do đó, Đảng đã tập hợp được lực lượng đông đảo phụ nữ nói
chung và lực lượng đội ngũ cán bộ nữ nói riêng để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị trong từng giai đoạn có hiệu quả.
Có thể nói rằng, đường lối đổi mới của Đảng trong đó gồm cả đường lối về công
tác cán bộ vừa xuất phát từ đổi mới nhận thức và tư duy lý luận vừa lấy đó làm một trong
những nội dung cơ bản. Chính điều đó đã đặt ra một đòi hỏi khách quan, đồng thời tạo
động lực cho quá trình đổi mới trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và
cán bộ nữ nói riêng.
Quan điểm chung cũng như các quan điểm cụ thể của Đảng đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ mới nhưng đã trình bày ở trên, chính là nguyên tắc
chung và là các phương châm chủ yếu trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trước
mắt và lâu dài. Không chỉ thế, với chủ trương lấy "đào tạo, bồi dưỡng trong nước gắn với
tình hình thực tế của đất nước là chủ yếu" và việc hợp nhất một số trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt đã xác định trong Nghị quyết về "phát triển nguồn lực
con người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" [41, tr.16, 19].
+ Đội ngũ cán bộ nữ, nhất là CBLĐ các cấp được rèn luyện, thử thách trong quá
trình đấu tranh gian khổ, đa số có bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ được phẩm chất đạo
đức cách mạng, giữ uy tín, danh dự của một người lãnh đạo, xác định đúng đắn nhiệm vụ
chính trị, có lập trường kiên định, không hoang mang dao động kể cả khi tổ chức có
những biến động.
+ Đảng NDCM Lào luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng. Các cấp ủy đảng đã quán
triệt và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, phương hướng của Đảng về công tác cán bộ
trong thời kỳ mới vào xây dựng đội ngũ cán bộ nữ nói chung; đội ngũ CBLĐ, QL nữ nói
riêng ở các cấp, các ngành, từ đó có những bước đi cụ thể, khắc phục khó khăn, thực hiện
tương đối tốt các quy chế về công tác cán bộ, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất
lượng của đội ngũ cán bộ nữ.
+ Sự chỉ đạo cụ thể có hệ thống của Bộ Chính trị đối với các tổ chức tham mưu
về công tác cán bộ nữ: Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Vụ Tổ chức của các cơ quan và
các bộ, ngành, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, huyện ủy về công tác cán bộ của Đảng nói chung và
công tác cán bộ nữ nói riêng. Trên cơ sở đó, các cấp ủy Đảng đã tích cực thực hiện nhiệm
vụ của mình, nhất là đã chủ động nghiên cứu chiến lược về cơ cấu, tổ chức từng giai đoạn
để tiến hành đào tạo, bồi dưỡng và quản lý từng loại cán bộ theo yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị trong từng giai đoạn. Đồng thời, HLHPN cũng phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan tổ chức xã hội với các cơ quan tổ chức phụ nữ của nước bạn bè và các tổ chức quốc
tế đã hợp tác và giúp đỡ nhiều mặt kể cả đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và kinh nghiệm
trong công tác phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào.
Từ đó đội ngũ cán bộ nữ Lào ở các cấp, các ngành đã từng bước được trưởng thành.
Với sự chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp và cụ thể trên đã thúc đẩy công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng trong những năm qua có những
bước chuyển biến trên tất cả các khâu và phục vụ đắc lực hơn cho việc triển khai những
nhiệm vụ chính trị bức thiết, nhất là cho việc kiện toàn bộ máy tổ chức trong hệ thống
chính trị nhằm góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước và phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng.
+ Đa số đảng ủy và chính quyền các cấp đã nhận thức và hiểu về công tác cán bộ
nữ, do đó đã chú ý chỉ đạo trong việc đào tạo bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở
các cấp, các ngành bằng nhiều hình thức và nhiều biện pháp, đồng thời đã quan tâm thực
hiện nguyên tắc quản lý cán bộ đúng theo các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
+ Một trong những nguyên nhân quan trọng nữa đem lại sự thành công trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào là do bản thân phụ nữ cũng đã cố
gắng vươn lên khắc phục khó khăn tìm tòi học hỏi nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt để có
khả năng làm tròn nhiệm vụ được giao.
- Nguyên nhân của mặt hạn chế:
+ Nguyên nhân chung và sâu xa nhất dẫn đến sự hạn chế của công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng là thiếu tính đồng bộ và nhất
quán trong nhận thức, triển khai các quan điểm, chủ trương chung của Đảng về lĩnh vực
này. Trong đó những điều dễ nhận thấy nhất và đã được khẳng định trong các văn bản
chính thức của Đảng và Nhà nước: "Đào tạo cán bộ chưa có định hướng và trọng điểm
nhất định, chưa phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn của nhiệm vụ chính trị của các cơ
quan...", "Quy hoạch đào tạo chưa tốt"... [37, tr.9].
Chính từ đó dẫn đến tình trạng đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu cụ thể
trong hoạt động công tác của cán bộ, chưa thật sự phục vụ quá trình củng cố và kiện toàn
bộ máy tổ chức để tăng cường chất lượng và hiệu lực của bộ máy, mọi hoạt động còn
thiếu tính chủ động và năng động cần thiết.
+ Tinh thần trách nhiệm của một số cấp ủy đảng về công tác Đảng - công tác cán
bộ chưa cao, chưa quan tâm nghiên cứu nắm vững các nghị quyết, chỉ thị, quy định về
công tác cán bộ, chưa có phương hướng, kế hoạch trong từng giai đoạn một cách cụ thể,
đồng bộ, việc giáo dục chính trị tư tưởng chưa sâu rộng, triệt để và thường xuyên. Điều
đó dẫn đến tình trạng dù đã có chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về việc
"quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ và tăng cường đội ngũ cán bộ nữ vào các cơ
quan lãnh đạo các cấp" [34, tr.25] nhưng chưa được triển khai và tổ chức thực hiện một
cách có hệ thống, đồng bộ, có kế hoạch một cách thường xuyên trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.
+ Về nhận thức, hiểu biết của một số cấp ủy đảng và một số ngành đối với đội
ngũ cán bộ nữ và công tác cán bộ còn có biểu hiện cầu toàn, thiếu mạnh dạn chưa tin vào
khả năng lãnh đạo của phụ nữ, chưa thông cảm hết với những khó khăn riêng của phụ nữ
về sức khỏe, về gia đình. "Sự nhận thức hiểu biết của một số người trong xã hội đối với
việc thực hiện bình đẳng nam nữ trong thực tế còn hạn chế, phong tục tập quán lạc hậu
vẫn tiếp tục tồn tại và hạn chế sự tiến bộ của phụ nữ" [49, tr.23-24]. Vì thế khi đề bạt hai
cán bộ có tiêu chuẩn tương đương nhau, cùng năng lực, nhưng nam giới lại có ưu thế hơn,
điều đó làm tăng tính tự ty vốn có và làm giảm ý chí phấn đấu của chị em.
Một số cấp ủy đảng, còn tồn tại tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, chưa
thấy rõ vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, thể hiện trong đánh giá về khả năng, năng lực cán
bộ nữ để quy hoạch, đào tạo, đề bạt, cất nhắc, sử dụng hoặc khi xem xét để kỷ luật, chưa
thông cảm hoàn cảnh khó khăn của chị em, chưa tích cực tạo điều kiện cho chị em phát
huy những ưu thế của mình trong công tác. Mặt khác, một số cấp ủy đảng quán triệt chỉ
thị, nghị quyết quá sơ sài nên còn coi nhẹ công tác vận động phụ nữ, ít quan tâm phát
triển đảng viên nữ. Những sai lầm của một số cấp ủy đảng ở Lào trong chỉ đạo, lãnh đạo
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ảnh
hưởng rất lớn đến công tác vận động quần chúng của Đảng, làm hạn chế tính năng động
sáng tạo của đội ngũ cán bộ các cấp, đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên
chậm đổi mới trong công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói
riêng ở CHDCND Lào.
+ Công tác đào tạo quy hoạch cán bộ của Đảng nói chung và công tác cán bộ nữ
nói riêng còn "chậm trễ chưa đồng bộ, toàn diện, triệt để, còn chắp vá theo yêu cầu trước
mắt chưa có kế hoạch lâu dài thiếu tầm nhìn chiến lược trong công tác quy hoạch đào
tạo" [63, tr.11]. Tỷ lệ cán bộ nữ trong các lớp đào tạo còn quá thấp. Việc bồi dưỡng, đào
tạo cán bộ nữ kế cận, thay thế còn quá ít chủ yếu là ở cấp tỉnh, huyện, cơ sở. Vì vậy, tại
Hội nghị công tác cán bộ toàn quốc lần thứ I năm 1995 đã chỉ ra rằng: "đội ngũ cán bộ
rơi vào tình trạng thừa và thiếu. Thừa và thiếu vì quy hoạch bồi dưỡng đào tạo đội ngũ
cán bộ chậm, chưa thành hệ thống đồng bộ. Do đó không theo kịp yêu cầu đổi mới, là
nguyên nhân làm cho chúng ta rơi vào tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ" [64, tr.70,
72] nhất là tình trạng hẫng hụt về đội ngũ CBLĐ, CBQL là nữ, nên việc lựa chọn cán bộ
để phân công đề bạt gặp nhiều khó khăn.
+ Qua nghiên cứu, tìm hiểu công tác cán bộ của Đảng nói chung và công tác cán
bộ nữ nói riêng từ năm 1986 đến năm 2001 cho thấy hầu như chưa có một nghị quyết hay
chỉ thị nào nói riêng về công tác cán bộ nữ nhất là chỉ tiêu về số lượng đào tạo, bồi dưỡng
để các cấp ủy đảng có phương hướng phấn đấu trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.
Điều đó phản ánh tình trạng mặc dù đã có đường lối chính sách nhưng chưa được cụ thể
hóa và tổ chức triển khai trong hoạt động thực tiễn. Có thể nói, đó cũng là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế công tác cán bộ nữ. Ngoài ra còn phải thấy rằng trong
thời gian qua chưa có hệ thống chính sách thích hợp để khuyến khích tính tích cực sáng
tạo đối với đội ngũ cán bộ nữ.
+ Về phía bản thân cán bộ nữ tuy đã có nhiều cố gắng vươn lên nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một số cán bộ
nữ thiếu sự phấn đấu vươn lên, tự ty, an phận, nặng về gia đình, nên việc nâng cao trình
độ mọi mặt để hoàn thành tốt nhiệm vụ theo tình hình mới gặp nhiều khó khăn.
Tình hình hiện nay do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, nhiều tệ nạn xã hội
nảy sinh khiến cho trách nhiệm của chị em đối với gia đình ngày càng nặng nề. Vì vậy,
phải có sự quan tâm hơn nữa đối với đội ngũ cán bộ nữ để cho chị em chủ động thực hiện
chức năng, vai trò của mình, nếu không được đào tạo, bồi dưỡng kịp thời sẽ bị tụt hậu về
chuyên môn so với các nước trong khu vực và thế giới, không đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
2.2.4. Một số kinh nghiệm
Từ những thành tựu và tồn tại trong công tác cán bộ nữ như đã trình bày ở trên
bước đầu có thể nêu ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là, đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng là yếu tố quyết định thành quả
của công tác tổ chức đảng - công tác cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng. Trong mỗi
giai đoạn lịch sử của cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước có sự đổi thay thì
Đảng NDCM Lào cũng đều quy định đường lối, quan điểm và phương pháp lãnh đạo của
mình trên mọi lĩnh vực một cách đúng đắn, kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn về
kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó đã trở thành chỗ dựa cơ bản của hoạt động công
tác tổ chức đảng - công tác cán bộ trong những năm qua giành được thắng lợi, và vì làm
tốt công tác đảng - công tác cán bộ nên làm cho các lĩnh vực công tác khác thu được kết
quả.
Hai là, phải quán triệt nghiêm chỉnh và đầy đủ những chủ trương, chính sách, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng,
chính quyền và tổ chức đoàn thể.
Điều này có thể thấy rõ từ kinh nghiệm của Đảng. Nhờ đánh giá đúng vai trò của
đội ngũ cán bộ nữ, sớm có chủ trương, chính sách về công tác vận động phụ nữ. Khi có
chủ trương chính sách thì triển khai nhanh và có hiệu quả, vì thế đã hình thành được đội
ngũ cán bộ nữ vững vàng có phẩm chất và năng lực đồng thời tạo ra được những điển
hình tốt.
Đảng ủy các cấp phải gắn đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Việc củng cố vững chắc các tổ chức của Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng là bảo đảm thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước. Do đó, việc củng cố tăng cường đội ngũ cán bộ nữ các cấp phải gắn chặt với
xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
nói chung. Nhưng để có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ nữ, trước hết các cấp ủy đảng
phải nắm quan điểm giai cấp của Đảng trong công tác cán bộ, trong lựa chọn, đào tạo sử
dụng và thực hiện chính sách cán bộ, tạo nguồn cán bộ chủ yếu từ phong trào quần chúng,
từ các hoạt động thực tế cán bộ được thử thách và được phát huy hết khả năng, năng lực
của mình để khẳng định mình và để được quần chúng thừa nhận và suy tôn.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của
tình hình quốc tế, đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào luôn thể hiện bản lĩnh chính trị
vững vàng, tin tưởng vào mục tiêu lý tưởng của Đảng, vượt qua khó khăn đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng rộng và sâu sắc như hiện nay,
đòi hỏi các cấp ủy đảng không chỉ quán triệt nghị quyết của Đảng, không chỉ động viên
phụ nữ hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội mà phải có trách nhiệm chủ động
trong các biện pháp nâng cao chất lượng, nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ nữ.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ phải dựa trên cơ sở quy hoạch chung một cách
đồng bộ, gắn liền với nhiệm vụ chính trị của Đảng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn, phải có chính sách thích hợp trong bồi dưỡng, đào tạo
sử dụng và bố trí cán bộ nữ và cán bộ dân tộc thiểu số. Xác định những ngành, những
lĩnh vực phù hợp phát huy được thế mạnh của phụ nữ. Cần xác định những chức danh
cán bộ lãnh đạo và quản lý có cán bộ nữ từ đó có kế hoạch tạo nguồn bồi dưỡng, đề bạt
và sử dụng.
Khi tiến hành quy hoạch cần phải đảm bảo tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể
theo yêu cầu, đồng thời phải có đủ ba độ tuổi để kế thừa và phát triển. Việc tiến hành quy
hoạch cán bộ là sự vận động không ngừng, thường xuyên điều chỉnh theo một định
hướng nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng của đất nước.
Quy hoạch cán bộ có liên quan chặt chẽ đến tất cả các khâu của công tác xây
dựng Đảng nói chung và công tác cán bộ nói riêng. Quy hoạch gắn chặt với đào tạo bồi
dưỡng nguồn cán bộ. Khi tạo nguồn cán bộ cần nhận thức số cán bộ tốt bao giờ cũng sản
sinh từ phong trào cách mạng của quần chúng, vì vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào, giai
đoạn lịch sử nào của sự nghiệp cách mạng nếu chăm lo xây dựng phong trào phụ nữ, phát
triển tài năng nữ thì sẽ lựa chọn và tạo ra được một đội ngũ cán bộ nữ. Trong quá trình lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, Đảng NDCM Lào bao giờ cũng chú ý tới đội ngũ cán bộ nữ
trẻ, cán bộ của Hội Liên hiệp phụ nữ, các đoàn thể quần chúng đã được rèn luyện trong
phong trào quần chúng. Bên cạnh đó là những chị em nổi lên trong phong trào sản xuất kinh
doanh, nghiên cứu khoa học, văn học, giáo dục...
Đảng ủy các cấp có vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung và công tác cán bộ và
cán bộ nữ nói riêng, là nhân tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định những nghị quyết hay những
chính sách đó có đi vào cuộc sống hay không. Thực tế đã chứng minh rằng: ở cấp nào ngành
nào mà cấp ủy đảng có chuyển biến trong nhận thức và có chủ trương đúng, chính quyền cụ
thể hóa các quan điểm của Đảng thành các chính sách, chế độ kịp thời và phù hợp để tạo
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung và đội ngũ cán bộ nữ cũng như
phong trào phụ nữ thì ở cơ quan đó, nơi đó có đội ngũ cán bộ và cán bộ nữ, phong trào phụ
nữ phát triển. Phong trào phụ nữ phát triển sẽ làm nảy nở những cán bộ nữ có tài có đức. Đó
là nguồn kế cận của đội ngũ cán bộ nữ. Đồng thời, cũng chính phong trào phụ nữ là nơi sàng
lọc cán bộ nữ, thải loại những cán bộ không còn đáp ứng với tiêu chuẩn cán bộ mà cách
mạng yêu cầu.
Đi liền với quy hoạch tạo nguồn là bồi dưỡng đề bạt, sử dụng và bố trí cán bộ.
Đây là những yếu tố gắn liền nhau trong một quy trình xây dựng đội ngũ cán bộ nữ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ phải nằm trong kế hoạch chung của công tác đào
tạo bồi dưỡng cán bộ của Đảng và Chính phủ, có nội dung cụ thể. Điều cần lưu ý là bên
cạnh việc học tập trung, bồi dưỡng ngắn hạn tại các trường, đòi hỏi người cán bộ phải
nâng cao ý thức trách nhiệm tự học về văn hóa, ngoại ngữ, tin học và một số chuyên môn
nghiệp vụ khác phục vụ cho công tác của mình.
Khi đề bạt sử dụng cán bộ nữ cần tránh cả hai khuynh hướng: bố trí cán bộ nữ
cho đủ tỷ lệ theo cơ cấu, không chú ý đến tiêu chuẩn hoặc quá khắt khe cầu toàn khi đề
bạt cán bộ nữ. Khi giao trách nhiệm cho phụ nữ cần phải căn cứ vào trình độ năng lực
chuyên môn và khả năng công tác của từng người, không nên vì cái gọi là ưu tiên cán bộ
nữ, phát triển cán bộ trẻ mà giao việc một cách tùy tiện hình thức, cần thông qua công
việc tạo điều kiện cho phụ nữ học tập nâng cao trình độ nhận thức, trình độ khoa học kỹ
thuật để họ có những cống hiến thực sự vững vàng trên cương vị của mình bằng chính trí
tuệ và sức lao động của bản thân. Điều đó đòi hỏi những người làm công tác cán bộ phải
có thái độ khách quan, công tâm, có cách nhìn biện chứng và phát triển, hay nói khác đi
là phải có "tâm" đối với đội ngũ cán bộ nữ.
Để đội ngũ cán bộ nữ không bị hẫng hụt, một việc làm cần thiết và thường xuyên
của các cấp ủy là phải tăng cường công tác phát triển Đảng trong phụ nữ, tạo ra những
đảng viên nữ trẻ có điều kiện để phát triển.
Bốn là, tăng cường đội ngũ cán bộ nữ là một nội dung quan trọng trong chính
sách cán bộ của Đảng. Vì trong giai đoạn mới của cách mạng, cán bộ nữ ngày càng thể
hiện những phẩm chất nổi trội, có những ưu thế nhất định. Đó là sự tận tụy, có tinh thần
trách nhiệm và tính kỷ luật cao, không ồn ào, khoa trương, mà tỷ mỷ thực hiện, khéo phối
hợp, khéo thuyết phục trong công việc.
Như thế, lý do tăng cường cán bộ nữ, nếu nhìn nhận nghiêm túc và cụ thể thì
không chỉ vì mục tiêu "bình đẳng nam nữ" mà còn vì chất lượng cao trong công tác quản
lý, lãnh đạo ở giai đoạn cách mạng mới của sự nghiệp cách mạng.
Tăng cường cán bộ nữ phải có quyết tâm và phải có mục tiêu cụ thể bằng các chỉ
tiêu số lượng. Một biện pháp có tính nguyên tắc để tăng cường đội ngũ cán bộ nữ làm
lãnh đạo, quản lý có chất lượng cao là phải xác định, giao rõ chỉ tiêu về số lượng và phải
kiên định về việc thực hiện mục tiêu. Vấn đề là ở chỗ, mỗi lĩnh vực, mỗi thời kỳ, lượng
định chỉ tiêu số lượng đó sao cho khả thi, phù hợp.
Tăng cường cán bộ nữ phải làm đồng bộ, song đặc biệt chú ý khâu có tính chất
tạo nền tảng từ phát triển đảng viên nữ. Tiềm năng của phụ nữ đang chỉ đạo, điều hành,
phối hợp lãnh đạo và quản lý xã hội ngày càng rõ. Song để những tiềm năng ấy được
thức tỉnh, bồi dưỡng, rèn luyện và phát huy thì chị em cần phải được hoạt động và rèn
luyện trong tổ chức chính trị tiên tiến của Đảng. Trở thành đảng viên là bước đi tất yếu
đầu tiên rứt khoát phải có, càng sớm càng tốt. Các cấp lãnh đạo phải chủ động và quyết
tâm thực hiện trong việc tạo nguồn cán bộ nữ. Mỗi chị em phải tự vươn khỏi tâm trạng tự
ti khuôn mình vào thiên chức người vợ, người mẹ, vào nghiệp vụ chuyên môn thuần túy
để hướng mình vào sự phát triển của xã hội.
Trong công tác cán bộ nữ phải đặc biệt lưu ý đặc trưng về giới. Thực tiễn lịch sử
cho thấy đào tạo, sử dụng cán bộ nữ nên khai thác hai giai đoạn thuận lợi của chị em: thời
kỳ son trẻ và thời kỳ đã có gia đình ổn định.
Trong lãnh đạo, quản lý với cán bộ nữ, trên nền của sự tôn trọng, nghiêm túc, rất
cần sự ứng xử có tính tâm lý, khích lệ, động viên cán bộ nữ đúng lúc, kịp thời; góp ý, phê
bình chân thành, nghiêm túc. Song có phương pháp tế nhị, thích hợp. Như vậy, để làm tốt
công tác cán bộ nữ cần chú ý cả quan điểm và cách làm, về nhận thức và những kế hoạch
cụ thể của người đứng đầu và các cấp ủy đảng.
Năm là, phải có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho cán bộ nữ và phát triển tài
năng nữ một cách thích đáng.
Khác với cán bộ nam, người cán bộ nữ bên cạnh việc làm tròn chức năng lao
động xã hội còn phải làm tròn chức năng sinh con, nuôi dạy con. Sự tiến bộ và trưởng
thành của người phụ nữ không thể tách rời yếu tố gia đình. Họ phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa trách nhiệm công dân và trách nhiệm người mẹ, người vợ giữa lao động xã
hội và lao động gia đình để xây dựng gia đình trở thành tổ ấm của mọi thành viên. Sự cổ
vũ, ủng hộ của gia đình và xây dựng được một gia đình hạnh phúc hòa thuận sẽ là nền
tảng vững chắc để người cán bộ nữ vươn lên học tập nâng cao trình độ, đồng thời tạo lập
được uy tín đối với phong trào của phụ nữ. Vì vậy cần có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với
cán bộ nữ, đối với những tài năng trẻ là nữ. Các nữ sinh viên có ý chí trong khoa học
muốn được tiếp tục học tập, nghiên cứu làm khoa học cần có chế độ học bổng riêng. Nên
xem đấy không phải là biện pháp vì quyền lợi riêng của phụ nữ mà vì sự phát triển của
đất nước. Đối với những nhà khoa học, các nữ nghệ sĩ, các nhân tài nữ cần có sự quan
tâm đặc biệt, hỗ trợ khuyến khích kịp thời. Đối với những nữ chủ doanh nghiệp cần tạo
điều kiện, hướng dẫn giúp đỡ kinh doanh, tìm kiếm thị trường... Nên thành lập quỹ xã hội,
hỗ trợ tài năng nữ. Nghiên cứu sửa đổi bổ sung một số chính sách giảm bớt khó khăn cho
các bà mẹ có con ở tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.
Đảng và Nhà nước Lào cần tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản có tính chất pháp quy
về chính sách xã hội có liên quan đến phụ nữ và lao động nữ như: chế độ thai sản, chế độ
bảo hộ lao động, chế độ bảo hiểm xã hội. Những chính sách này cần tính đến những đặc
điểm về giới tính, bảo đảm cho phụ nữ hoàn thành tốt cả hai chức năng xã hội và gia đình.
Sáu là, muốn hình thành được đội ngũ cán bộ nữ đòi hỏi trước tiên có tính quyết
định là sự tự vươn lên của phụ nữ.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ trước hết phải được thực hiện bằng chính lực lượng
phụ nữ. Kém tự tin, rụt rè, ít dám phát biểu ý kiến, tự cho mình trình độ còn non kém
đó là một nhược điểm của nhiều chị em. Do ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh
nữ kéo dài trong lịch sử nước Lào, tư tưởng coi thường phụ nữ, cho phụ nữ kém nam
giới về mọi mặt đặc biệt là trí tuệ. Đó là nguyên nhân khiến cho người phụ nữ trở nên
không tin vào chính khả năng của mình. Vì vậy, đòi hỏi chị em không ngừng nâng cao
kiến thức về tất cả các mặt, đồng thời thay đổi tâm lý, nếp tư duy cả về thân phận mình
và cả về tầm nhìn xã hội. Bên cạnh đó đòi hỏi các phương tiện thông tin đại chúng cũng
phải có những tác động tích cực đến cách suy nghĩ của xã hội và của nam giới. Điều này
đã được kiểm chứng bằng thực tiễn tại CHDCND Lào - Hội Liên hiệp phụ nữ Lào đã tiến
hành truyền thông kiến thức về pháp luật, về giới (bình đẳng nam nữ), về văn hóa cho chị
em, kết quả thông qua các đợt học tập chị em tự tin hơn, chủ động hơn trong cuộc sống.

2.3. Tình hình, nhiệm vụ mới và yêu cầu đặt ra để xây dựng đội ngũ cán bộ
nữ ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Trong những năm qua, tình hình quốc tế đã có nhiều biến động và rất phức tạp.
Sự sụp đổ của Liên Xô và tan rã của hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu đã làm cho
thế cân bằng lực lượng trên thế giới thay đổi sâu sắc và là cơ hội thuận lợi cho các thế lực
thù địch và bọn cơ hội hữu khuynh ra sức hoạt động phá hoại các Đảng Cộng sản. Bọn
chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng
mọi thủ đoạn tinh vi để thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình, đối với các nước theo
định hướng XHCN, xúi bẩy các nước này thực hiện đa nguyên, đa đảng, khuyến khích
gây mất ổn định các quốc gia này với chiêu bài dân chủ và nhân quyền. Chúng tiến hành
chia rẽ khối đoàn kết trong nội bộ các Đảng Cộng sản và sự đoàn kết giữa các dân tộc
trên thế giới. Tình hình đó đã ảnh hưởng khá lớn tới các nước XHCN và các Đảng Cộng
sản cầm quyền.
Đối với Lào, các thế lực phản động và bọn người xấu không ngừng hoạt động ra sức
phá hoại chế độ mới trên mọi mặt. Chúng tìm mọi cách để lợi dụng kẽ hở, chia rẽ nội bộ,
chia rẽ khối đoàn kết giữa các bộ tộc và chia rẽ mối quan hệ hợp tác giữa nước Lào với các
nước anh em, bè bạn quốc tế. Thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", kết hợp với hoạt
động vũ trang, đánh chiếm phá hoại một số vùng chiến lược, tuyên truyền xuyên tạc phá hoại
vai trò và uy tín của Đảng, xuyên tạc đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước
Lào.
Gần hai mươi năm, Đảng NDCM Lào đã lãnh đạo đất nước tiến hành công cuộc
đổi mới toàn diện để tiến theo con đường CNXH. Nhìn chung nước Lào đã đạt được một
số thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực khác nhau như ổn định chính trị, giữ vững an
ninh quốc phòng, kinh tế không ngừng phát triển, văn hóa không ngừng được nâng cao,
đời sống vật chất và tinh thần của số đông nhân dân các bộ tộc Lào đã được cải thiện
đáng kể. Sự đoàn kết và đồng thuận giữa các dân tộc anh em và trong toàn xã hội luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm. Uy tín của nước CHDCND Lào trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Nước Lào đang ở vào thời kỳ tích lũy kinh nghiệm, phương
pháp, nguồn lực để tạo ra những bước phát triển nhanh chóng phù hợp với sự phát triển
chung của nhân loại.
Tuy vậy Lào vẫn là một nước nghèo, với một nền kinh tế sản xuất nhỏ còn mang
nặng tính chất tự nhiên, tự cấp tự túc, trình độ dân trí còn thấp, cơ sở hạ tầng còn ít ỏi và
yếu kém. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, sự phân công lao động xã
hội chưa cao, công cụ lao động còn thô sơ, trình độ khoa học, kỹ thuật và chuyên môn
của người lao động nhìn chung chưa phát triển, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và
công nhân lành nghề quá ít. Vì vậy, năng suất lao động xã hội rất thấp. Đường giao thông
vận tải rất khó khăn, chưa có hệ thống đường ô tô thông suốt từ tỉnh xuống huyện, từ
huyện xuống bản làng, nhiều đoạn đường chỉ có thể đi bộ theo đường rừng. Hệ thống bưu
điện chưa bảo đảm thông tin thông suốt và nhanh chóng, ở nhiều nơi, sách báo chuyển từ
tỉnh đến bản phải mất hàng chục ngày. Giao thông và liên lạc rất lạc hậu như vậy đang là
khó khăn trở ngại lớn đối với mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng.
Vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào tiếp tục
khẳng định mục tiêu phấn đấu để hoàn thành chế độ dân chủ nhân dân từ nay đến năm
2020 là: làm cho đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển thành nước có sự ổn định
về trật tự và an toàn xã hội; kinh tế ổn định và tiếp tục phát triển với nhịp độ tương đối
nhanh, mức sống của nhân dân được nâng cao và tăng gấp ba lần so với hiện nay. Nền
kinh tế quốc dân bền vững bởi cơ cấu nông - lâm nghiệp gắn chặt với công nghiệp và
dịch vụ; kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước đã trở thành một hệ thống và có
yếu tố cơ bản để xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các thành phần kinh tế cũng
phát triển hài hòa và trở thành cấu trúc của sức mạnh kinh tế quốc dân, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác của nhân dân chiếm phần lớn trong nền kinh tế quốc dân;
hệ thống chính trị dân chủ nhân dân mà Đảng NDCM Lào là hạt nhân lãnh đạo ngày càng
vững chắc, tính chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện rõ nét hơn, quyền
công dân được đảm bảo bằng pháp luật. Nhân dân các bộ tộc có sự đoàn kết vững chắc, có
trình độ học vấn phổ cập cấp I, được hưởng dịch vụ y tế một cách đồng đều và có cơ sở tự
phát triển vươn lên tốt hơn; nền văn hóa tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát triển vì lợi
ích chân chính của đất nước. CHDCND Lào có quan hệ hợp tác rộng rãi với các nước và chủ
động tham gia trong các hoạt động quốc tế.
Để thực hiện thành công chỉ tiêu phấn đấu trên, thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2010
phải tạo mọi điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển liên tục, trung bình không kém 7%/năm,
bằng việc xây dựng cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp gắn chặt với công nghiệp và dịch vụ một
cách có trọng điểm, xây dựng cơ cấu kinh tế vùng sao cho ngày càng cân đối và có những
mặt hiện đại. Trên cơ sở sản xuất nông nghiệp vững mạnh và khai thác các ngành mũi nhọn,
trọng điểm có hiệu quả, chấm dứt vĩnh viễn nạn phát rừng làm nương, các hộ gia đình nghèo
cơ bản được giải quyết, có hạ tầng kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ và nhân sự để đáp
ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian tới.
Trong giai đoạn từ năm 2001 - 2005 là phải thực hiện chỉ tiêu phấn đấu như sau:
Bảo đảm cho đất nước tiếp tục có sự an toàn về xã hội và ổn định về chính trị, bảo đảm
cho kinh tế tiếp tục phát triển, trung bình không kém 7%/năm, vừa có sự ổn định và đi
đúng hướng, giải quyết sự đói nghèo của nhân dân giảm hơn một nửa trong tổng số hộ
gia đình nghèo hiện nay; chấm dứt cơ bản nạn phá rừng làm nương trồng lúa và chấm dứt
trồng thuốc phiện, xây dựng một số công trình cơ sở để tạo điều kiện cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa sau này; đào tạo công dân Lào trở thành người có đạo đức, yêu chính nghĩa,
hiểu biết pháp luật và tôn trọng pháp luật, có lòng nhân đạo, có tinh thần tự lực, biết làm ăn,
sản xuất hàng hóa hợp pháp, có sức khỏe và có sức chịu đựng theo yêu cầu của công cuộc
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Đối với cán bộ, phải có bản lĩnh chính trị, tư tưởng
vững vàng, có đạo đức cách mạng, có năng lực trong chuyên môn để bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ có hiệu quả.
Về mặt chính trị, phải giữ gìn và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng,
xây dựng bộ máy nhà nước, quản lý có hiệu lực, tinh giảm hơn nữa, có chế độ làm việc
hiệu quả cao, gắn liền với những thực tế, từng bước xóa bỏ những hiện tượng tiêu cực.
Về lĩnh vực quan hệ đối ngoại, Lào có quan hệ hữu nghị và hợp tác rộng rãi với
bạn bè các nước trên thế giới. Thực hiện chính sách hợp tác đa phương, đa hướng, đa
dạng, từng bước mở rộng cho phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế, lấy quan hệ
chính trị, ngoại giao gắn liền với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Để đưa các chỉ tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2001-2005 thành hiện thực, nhiệm vụ
của chúng ta là tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và toàn dân, phát huy tinh thần
yêu nước, độc lập, tự chủ, khai thác những tiềm năng sẵn có trong nước kết hợp với việc
tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của nước ngoài để bảo vệ và xây dựng đất nước và tiếp tục đổi
mới một cách mạnh mẽ, có các biện pháp đồng bộ để từng bước giải quyết xóa đói giảm
nghèo cho nhân dân.
Toàn Đảng, toàn dân phải đồng tâm hợp lực, dốc mọi sức lực và trí tuệ vào sự
nghiệp phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội
và đào tạo con người Lào phát triển. Ngay từ đầu phải có biện pháp đồng bộ để từng
bước giải quyết đói nghèo cho nhân dân.
Bên cạnh đó, phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong mọi lĩnh vực đi
đôi với việc củng cố bộ máy nhà nước, quản lý có hiệu lực và có hiệu quả, khuyến khích
công tác Mặt trận và các hoạt động của các tổ chức quần chúng, tích cực phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Trước những nhiệm vụ chung đó, thì yêu cầu đối với công tác cán bộ và cán bộ
nữ phải đạt được mấy yêu cầu sau đây:
1) Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng trước hết phải có quan điểm,
lập trường vững vàng, phải có thái độ chính trị rõ ràng và phẩm chất đạo đức tốt. Cán bộ
bao giờ và ở đâu cũng phải giữ vai trò quyết định sự thành bại của công việc. Sự nghiệp
của Đảng muốn đi đến thắng lợi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự trung thành với lý
tưởng của Đảng, nắm vững được đường lối, chính sách của Đảng và có khả năng đưa các
Nghị quyết, các đường lối chính sách đó vào cuộc sống. Đội ngũ cán bộ đó phải đáp ứng
được yêu cầu của công việc và đòi hỏi của cuộc sống. Đội ngũ cán bộ của Đảng nói
chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng nhất định phải có những hạt nhân lãnh đạo và là
những tấm gương trong sáng để quần chúng noi theo.
2) Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng phải được đào tạo, phải được
chuẩn hóa các tiêu chuẩn về học vấn, về trình độ chuyên môn kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và cán bộ nghiệp vụ. Cho nên trong "chiến lược công tác cán bộ giai đoạn 2001-
2020" và nhất là trong Quy định số 04 của Bộ Chính trị "về tiêu chuẩn cán bộ" (2003) đã xác
định cụ thể các tiêu chí về trình độ văn hóa, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý hành
chính và một số lĩnh vực khác đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, chủ chốt cụ thể" [59,
tr.3]. Và tất nhiên các tiêu chí được đặt ra đó phải được thực hiện trong thực tế thông qua
việc tăng cường khả năng và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
3) Đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng phải được đặt trong chiến
lược phát triển chung về kinh tế, văn hóa - xã hội, phải có một cơ cấu hợp lý đồng đều,
vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu, gồm nhiều thế hệ đảm bảo kế thừa có chuyển giao và
có đổi mới. Thực hiện không có vùng cấm cho cán bộ nữ, cán bộ nữ được bình đẳng
tham gia vào tất cả các lĩnh vực các cấp từ Trung ương đến địa phương, từ chính trị đến
kinh tế, văn hóa - xã hội... trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong tất cả
các bộ phận trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào. Cán bộ nữ
phải được đặt trong một tổng thể chung từ lựa chọn đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và
cất nhắc đề bạt. Đồng thời phải chú ý đến các yếu tố đặc thù như thành phố, đô thị, nông
thôn, miền núi và yếu tố bộ tộc.
4) Để xây dựng được một đội ngũ cán bộ nữ thì phải có sự kết hợp giữa sự nỗ lực
phấn đấu vươn lên của cán bộ nữ đồng thời phải có môi trường rèn luyện và đầu tư đào tạo.
Trước hết cán bộ nữ phải xác định rõ vị trí, vai trò của mình trong mọi công việc, khả năng
của mình trong cộng đồng để có quyết tâm phấn đấu vươn lên. Phụ nữ phải triệt để khắc
phục tâm lý tự ty, dễ thỏa hiệp với những quan niệm bất công bằng, không bình đẳng. Phải
biết thể hiện năng lực của mình qua hoạt động thực tiễn, lấy kết quả thực hiện công tác và uy
tín trong quần chúng để đánh giá chính mình. Cán bộ nữ cũng phải hiểu rõ những hạn chế
của mình để khắc phục, nắm vững các ưu thế của mình để phát huy. Trong điều kiện hiện
nay với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, với cách nhìn nhận về cuộc sống
và xã hội đã có nhu cầu đổi mới, phụ nữ hoàn toàn có điều kiện để ứng xử và giải quyết tốt
mối quan hệ nặng nề nhất xưa nay đó là giữa gia đình và xã hội, giữa thiên chức bổn phận và
sự tiến bộ, sự đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước và của dân tộc. Bên cạnh sự nỗ lực
bản thân, phụ nữ rất cần có môi trường để phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Trung ương Hội
phụ nữ Lào và hệ thống của Hội chính là môi trường tốt đẹp đó. Bản thân Hội đã là một trường
học, một môi trường rèn luyện để đào tạo những cán bộ nữ tốt cung
cấp cho các ngành các lĩnh vực khác. Trung ương Hội phụ nữ Lào phải nhận thức được
rằng: Hội vừa là một tổ chức chính trị nằm trong hệ thống chính trị nhưng đồng thời Hội
phụ nữ còn là một trường đào tạo cán bộ cho Đảng và Nhà nước, với ưu thế là rất gắn
liền với thực tiễn và là nơi phụ nữ có thể phát huy được những thế mạnh và khả năng
riêng biệt của mình.
5) Để có một đội ngũ cán bộ nữ đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, thực hiện được mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ
bình đẳng và làm tốt được công tác cán bộ nữ trong điều kiện hiện nay thì một yêu cầu
không kém phần quan trọng là phải có một chính sách cán bộ nữ riêng. Đối với công tác
cán bộ nói chung và cán bộ nữ nói riêng, Đảng, Nhà nước đã từng ban hành như Nghị
quyết 5 (khóa IV), Nghị quyết 7 (khóa V), Nghị quyết 05/NQ-BCTTW; Nghị quyết 27 và
Nghị quyết 97/NQ-BCTTW Đảng về tổ chức và hoạt động của HLHPN; năm 2003 thành
lập ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và đến năm 2004 thì luật về: phát triển và
bảo vệ quyền lợi của phụ nữ cũng được thông qua. Nhưng nhìn chung những chính sách
đó hoặc là nằm chung trong một tổng thể có tính định hướng, đường lối hoặc là kết hợp
trong một giải pháp, chứ chưa có một chính sách đầy đủ, trọn vẹn và đồng bộ về xây
dựng một đội ngũ cán bộ nữ trong tình hình mới. Đương nhiên chính sách đó không thể
độc lập hoặc đối lập với những chủ trương và chính sách về công tác cán bộ đã ban hành,
mà nó phải có kế thừa, có rút kinh nghiệm thực tế, có tiếp thu những kết quả cả về lý luận
và về thực tiễn, đồng thời có hệ thống và phát triển hoàn chỉnh từ nhận thức, đến quan
điểm, giải pháp và chính sách cụ thể. Trong đó phản ánh rõ ràng những tiêu chí chung,
đồng thời có những ưu tiên ưu đãi trong điều kiện, tiêu chuẩn lựa chọn, đào tạo, bố trí và
sử dụng cán bộ cho thích hợp nhằm xây dựng được một đội ngũ cán bộ nữ có đầy đủ các
tiêu chuẩn, các phẩm chất và năng lực cần thiết để phục vụ sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước, chứ không phải là một sự chiếu cố hay châm chước nào.
Kết luận

Giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, tạo điều kiện để cho phụ
nữ tiến bộ, đó chính là biểu hiện của sự tiến bộ và hạnh phúc của toàn xã hội.
Trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, phụ nữ Lào đã dũng
cảm mưu trí cùng toàn dân đấu tranh giành lại độc lập tự do, đưa đất nước tiến lên theo
con đường chủ nghĩa xã hội. Hiện nay dân tộc Lào đang tận dụng những vận hội và thời
cơ đẩy lùi nguy cơ thách thức, khắc phục những khó khăn, tập trung xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ lịch sử đòi hỏi sự đồng tâm nhất trí
của cả dân tộc, đòi hỏi sự đoàn kết cao của phong trào phụ nữ, đòi hỏi phải có nhiều phụ
nữ giỏi, một đội ngũ cán bộ nữ đủ tầm vóc hoàn thành nhiệm vụ.
Sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào chứng minh
sâu sắc chân lý: cán bộ đóng vai trò quyết định trong mọi công việc, cán bộ luôn là khâu
then chốt, là khâu trọng yếu nhất trong toàn bộ hoạt động của Đảng, công tác cán bộ là
công tác đặc biệt quan trọng nhưng cũng rất khó khăn phức tạp, cả thành tựu và cả thiếu
sót trong công tác tổ chức cán bộ, nhất là trong công tác tổ chức cán bộ nữ ở các cấp hiện
nay đều phản ánh chất lượng đội ngũ cán bộ, là đảng cầm quyền trong nền kinh tế thị
trường, cơ chế hòa nhập, hội nhập với tất cả các nước, đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại, trong bối cảnh tình hình quốc tế còn nhiều diễn biến phức tạp. Hơn lúc
nào hết, Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chăm lo công tác cán bộ trong toàn
bộ hệ thống chính trị, cho toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực, chỉ có xây dựng được một
đội ngũ cán bộ vững mạnh thì Đảng mới có điều kiện lãnh đạo và tổ chức toàn dân thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. Đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
nói chung và đội ngũ CBLĐCC ở các cấp các ngành là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách,
đó là nhân tố mấu chốt để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai
đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn đổi mới từ 1986 đến 2001, Đảng NDCM Lào đã xây dựng được
một đội ngũ cán bộ nữ có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng, phần lớn được đào tạo có
chuyên môn nghiệp vụ, nhạy bén năng động, có trách nhiệm cao trong công tác, tinh tế
trong quan hệ ứng xử, trung thực và biết đấu tranh trước những tiêu cực của xã hội. Sự có
mặt của phụ nữ Lào trong các cơ quan dân cử và chính quyền các cấp với tỷ lệ đáng kể
đã thúc đẩy việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, hôn nhân gia đình, sự bình đẳng về giới
cũng được nâng lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
mới cho thấy rằng đội ngũ cán bộ nữ ở CHDCND Lào vừa thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng, đồng thời cơ cấu đội ngũ cán bộ nữ không đồng bộ, vậy muốn thực hiện
thành công những chủ trương, đường lối của Đảng và phát huy vị trí, vai trò của cán bộ
nữ, phải xây dựng đội ngũ cán bộ nữ ở các cấp, các ngành đảm bảo cả số lượng và chất
lượng để phụ nữ chủ động thực hiện vai trò nhiệm vụ của mình. Muốn xây dựng được
một đội ngũ cán bộ nữ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ văn hóa, năng lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Lào trong thời kỳ mới đòi hỏi công
tác cán bộ nữ phải có sự chuyển biến tích cực mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của
đất nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ nữ phải có những giải pháp đồng bộ. Các cấp ủy đảng
phải nâng cao nhận thức về công tác cán bộ, thấy rõ tính then chốt, quyết định của vấn đề
cán bộ, từ đó tiến hành công tác cán bộ theo đúng các quan điểm chỉ đạo của Đảng. Đó là
việc quan trọng hàng đầu trong những năm sắp tới. Thực trạng cán bộ nữ ở Lào đòi hỏi
các cấp ủy đảng phải quan tâm hơn nữa đến việc chỉ đạo công tác cán bộ nữ, qua các
phong trào cách mạng, qua thực tiễn lịch sử để sơ kết, tổng kết, tiếp tục đổi mới có hiệu
quả các khâu trong công tác cán bộ nữ.
Công tác cán bộ nữ phải được quy hoạch trong sự quy hoạch chung công tác cán
bộ của Đảng và Chính phủ. Phải đổi mới quan điểm đánh giá và sử dụng cán bộ nữ, tránh
tư tưởng trọng nam khinh nữ hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ, đồng thời phải có
chính sách đối với cán bộ nữ hợp lý. Ngoài ra, bản thân cán bộ nữ cũng phải nỗ lực phấn
đấu vươn lên để khẳng định vị trí, vai trò của mình.
Khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ nữ theo hướng chú ý tới việc tạo nguồn cán
bộ nữ từ nữ trí thức, nữ công nhân, nữ làm công tác cán bộ khoa học kỹ thuật, trong đội
ngũ cán bộ nữ đương chức ở các cấp các ngành, từ lực lượng vũ trang, an ninh... đồng
thời chú ý tới công tác phát triển đảng viên nữ.
Một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của việc xây dựng đội ngũ cán
bộ nữ chính là sự quan tâm lãnh đạo của đảng ủy các cấp mà trước hết và chủ yếu là của
Ban thường vụ; và điểm quan trọng nhất là xây dựng Đảng bộ, đội ngũ cán bộ chủ chốt
ngang tầm với nhiệm vụ mới.
Với sự quan tâm và sự chuyển biến về nhận thức từ Trung ương, tỉnh ủy, huyện
ủy và sự phối hợp, kết hợp giữa các cấp, các ngành, các đơn vị cơ sở trong việc cụ thể
hóa chủ trương, chính sách của các cấp ủy đảng, CHDCND Lào sẽ phát huy vai trò và
tiềm năng của phụ nữ, xây dựng được đội ngũ cán bộ nữ ở Lào các cấp vững mạnh trong
thời kỳ đổi mới. Trong quá trình phát triển đi lên của đất nước, sự đóng góp của phong
trào phụ nữ là hết sức quan trọng, trong đó đội ngũ cán bộ nữ có vai trò quyết định đến sự
thành công hay thất bại của phong trào phụ nữ. Với những thành tựu đã đạt được nhất
định Đảng NDCM Lào sẽ lãnh đạo xây dựng thành công đội ngũ cán bộ nữ góp phần
thực hiện thắng lợi chiến lược cán bộ của Đảng NDCM Lào, cùng với cả nước thực hiện
thành công các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 và 2006-2010.
Danh mục tài liệu tham khảo

A. Phần tiếng Việt


1. Nguyễn Thị Kim Dung (2000), Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo quá trình
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong công cuộc đổi mới (1986-1996), Luận văn
thạc sĩ khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. V.I.Lênin (1962), Toàn tập, tập 24, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. V.I.Lênin (1970), Với vấn đề về giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
5. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
6. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
7. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
8. C.Mác - Ph.Ăngghen (1962), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. C.Mác - Ph.Ăngghen (1984), Tuyển tập, tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh (1986), Về Đảng cầm quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Ních Khăm (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ
nữ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
17. Pháp lệnh cán bộ công chức và văn bản có liên quan (1998), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Nguyễn Đăng Thành (2004), "Về công tác cán bộ nữ ở Nghệ An", Tạp chí Xây dựng
Đảng, (10), tr.11-12.
19. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

B. Phần tiếng Lào


20. Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ I (1984), Nxb Hội
Liên hiệp phụ nữ.
21. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tại Đại
hội lần thứ V (1991).
22. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tại Đại
hội lần thứ VI (1996).
23. Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn
chiến lược đến năm 2020 của Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào (2000), Nxb
ủy ban kế hoạch nhà nước.
24. Báo cáo Chính trị của Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IV (2001), Nxb
Quốc gia Lào.
25. Báo Pasason ngày 15-7-2005 về: 50 năm trưởng thành và phát triển của Hội Liên
hiệp phụ nữ Lào.
26. Báo Pasason ngày 18-7-2005 về: chiến lược phát triển giáo dục cho phụ nữ.
27. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1979), Một số kinh nghiệm chính và một số vấn đề về
phương hướng mới của cách mạng Lào, Nxb Cộng hòa dân chủ Nhân dân
Lào.
28. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hòa dân chủ Nhân dân
Lào.
29. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1987), Tuyển tập, tập 2, Nxb Cộng hòa dân chủ Nhân dân
Lào.
30. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1997), Tuyển tập, tập 3, Nxb Học viện Chính trị và Hành
chính quốc gia, Viêng Chăn.
31. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1984), Phát biểu tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần
thứ I, Nxb Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ương.
32. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (1988), Phát biểu tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần
thứ II, Nxb Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ương.
33. Cay Sỏn Phôm Vi Hản (2001), Phát biểu tại Hội nghị Tổ chức toàn quốc lần thứ 7
(17-12-1991), Nxb Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
34. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào đến năm
2020 (2000), ủy ban Kế hoạch đầu tư nhà nước.
35. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020 (2002), Nxb Ban Tổ chức
Trung ương Đảng.
36. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1993), Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 171 về
quy chế công chức Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào.
37. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 82 về
quy chế công chức Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào.
38. Đảng Nhân dân Lào (1967), Nghị quyết Hội nghị Tổ chức toàn quốc.
39. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1992), Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
40. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1993), Nghị quyết số 05/NQ Bộ Chính trị về công
tác quần chúng trong giai đoạn mới.
41. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1994), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 7 khóa V về phát triển nguồn lực ở Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Nxb Thanh niên.
42. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2002), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 6 khóa VII.
43. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 113/BCTW
về việc tăng cường công tác tổ chức, công tác Đảng, công tác cán bộ trong
điều kiện mới.
44. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III, Nxb Quốc gia.
45. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V, Nxb Quốc gia.
46. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Quốc gia.
47. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng.
48. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Lào lần thứ 3 khóa IV
(2-4/7/2003).
49. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Lào lần thứ 4 khóa IV
(2-5/8/2004).
50. Hội thảo khoa học về việc phát huy vai trò của phụ nữ trong bộ máy nhà nước lần
thứ II (12/1999), Nxb Hội Liên hiệp phụ nữ.
51. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1997-1998 thông qua tại Hội nghị lần thứ 3
của Quốc hội (khóa III) ngày 28/9 - 30/10/1997.
52. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1998-1999 thông qua tại Hội nghị lần thứ 2 của
Quốc hội (khóa IV) ngày 28/9 - 10/10/1998.
53. Khăm Tày Xỉ Phăn Đon (1993), Phát biểu tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần
thứ III, Nxb Hội Liên hiệp phụ nữ.
54. Khăm Tày Xỉ Phăn Đon (1995), Phát biểu tại Hội nghị công tác cán bộ toàn quốc
(7/1995).
55. Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1997), Nxb Ban chỉ đạo Nghiên cứu lý
luận và thực tiễn Trung ương.
56. Majuly - Ngâu Xa Vắt (1995), Phụ nữ Lào trong quá khứ và hiện tại.
57. Pháp luật về việc phát triển và bảo vệ phụ nữ (11/2004), Nxb Hội Liên hiệp phụ nữ
Trung ương.
58. Phu My Vông Vi Chít (1989), đất nước Lào và cuộc đấu tranh thắng lợi của nhân dân
Lào chống chủ nghĩa thực dân của Mỹ, Nxb Lào yêu nước.
59. Quy định của Bộ Chính trị số 04/BCTW (22/7/2003) về tiêu chuẩn của cán bộ.
60. Sa Man Vi Nha Kệt (2004), Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội
Liên hiệp phụ nữ Lào lần thứ 4 (khóa IV).
61. Sổ tay (2004), Ban chỉ đạo việc phát triển nguồn lực, Nxb Văn phòng Ban Chỉ đạo
việc phát triển nguồn lực Trung ương.
62. Tạp chí A Lun May (1993).
63. Tạp chí Xây dựng Đảng (1995).
64. Tạp chí Tuyên truyền (1995).
65. Thong Lun Xỉ Xu Ly (2004), Báo cáo về việc phát triển kinh tế - xã hội trong năm
2003-2004 tại Hội nghị lần thứ 6 Quốc hội (khóa V).
66. Thong Xỉng Tham Ma Vông (2001), Phát biểu tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn
quốc lần thứ IV.
67. Từ điển tiếng Lào (1996).
68. Tư liệu thống kê sự phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
(1998), Nxb ủy ban Kế hoạch quốc gia.
69. Tư liệu thống kê sự phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
(1999), Nxb ủy ban Kế hoạch quốc gia.
Phụ lục

Phụ lục 1: Cán bộ nữ tham gia cương vị lãnh đạo của Nhà nước
(khóa 1997-2004)

Chức danh Tỷ lệ nữ (%) Tỷ lệ nam (%)


Phó Chủ tịch Quốc hội 33,3 66,7
Trưởng ban Quốc hội 14,3 85,7
Bộ trưởng hoặc tương đương 5,88 94,12
Thứ trưởng hoặc tương đương 6,55 93,45
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền 4,3 95,7
Vụ trưởng hoặc tương đương 9,79 90,21

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương Đảng (Vụ Quản lý cán bộ), tháng 6-2005.

Phụ lục 2: Sự tham gia của phụ nữ trong BCHTW Đảng NDCM Lào

Đại hội Nữ giới Nam giới


Đảng
Tổng số
Thời gian toàn Tỷ lệ Tỷ lệ
BCHTW Số lượng Số lượng
quốc lần (%) (%)
thứ
3/2/1972 II 29 1 3,4 28 96,6
27/4/1982 III 55 4 7,3 51 92,7
23/11/1986 IV 60 5 8,3 55 91,7
27/3/1991 V 59 4 6,8 55 93,2
20/3/1996 VI 49 4 8,2 45 91,8
12/3/2001 VII 53 3 5,6 50 94,3

Nguồn: Trung tâm dữ liệu thông tin về vai trò nam - nữ để phát triển, Trung
ương HLHPN, năm 2003, tr.11.
Phụ lục 3
Tình hình phát triển đảng viên nữ qua các nhiệm kỳ

Các nhiệm kỳ Đại hội Tổng số Nữ Tỷ lệ (%)


Nhiệm kỳ 1986-1991 60.000 5.008 8,3
Nhiệm kỳ 1991-1996 78.000 7.539 9,6
Nhiệm kỳ 1996-2001 107.238 13.578 12,6
Giai đoạn 2001-2004 127.430 17.346 13,6

Nguồn: Theo thống kê của Vụ Tổ chức Đảng thuộc Ban Tổ chức Trung ương
Đảng, 6-2005.

Phụ lục 4
Tổng hợp cán bộ công chức theo 3 dân tộc

Tổng số công Lào Lùm Lào Thưng Lào Xủng


chức
Tổng số Nữ Tổng số Nữ Tổng số Nữ Tổng số Nữ
91.953 35.769 81.427 31.889 6.638 2.848 3.888 1.040

Nguồn: Cục Hành chính và quản lý công chức thuộc Thủ tướng Chính phủ, tháng
6-2005.
Phụ lục 5
Tổng hợp cán bộ công chức theo các cấp chuyên môn

Tiến sĩ Thạc sĩ Cử nhân


Cử nhân Không có
hoặc hoặc hoặc
chuyên Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp chuyên
tương tương tương
sâu môn
đương đương đương
TS N TS N TS N TS N TS N TS N TS N TS N

198 20 986 198 275 73 10.5 3.46 10.2 3.17 37.3 15.7 25.5 11.0 6.68 2.03
40 1 93 0 67 67 82 42 1 7

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Hội nghị tổng kết công tác tổ chức, công
tác Đảng - cán bộ toàn quốc tháng 11-2004, tr.6.

Phụ lục 6
Cán bộ nữ tham gia trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân

Tổng số Nữ giới
Sỗ nữ Tỷ lệ (%)
Đại biểu HĐND khóa I (1975-1989) 45 4 8,9
Đại biểu Quốc hội khóa II (1989-1994) 79 5 6,3
Đại biểu Quốc hội khóa III (1994-1997) 85 8 9,4
Đại biểu Quốc hội khóa IV (1997-2001) 99 21 21,2
Đại biểu Quốc hội khóa V (2002-2005) 109 25 22,9

Nguồn: Quốc hội CHDCND Lào (1975-2002); Tạp chí Phou Then Pasaxon năm
2002, tr.6,8,10,32,33 và trang 11, tháng 6-2005.
Phụ lục 7
Sự tham gia vào Quốc hội của cán bộ nữ ở một số nước ASEAN

Số phụ nữ trong Hạ nghị viện (Quốc hội) Số phụ nữ trong Thượng nghị viện
TT Tên nước
TS Nữ % Nam % TS Nữ % Nam %
1. Lào 109 25 22,9 84 77,1
2. Việt Nam 498 136 27,3 362 72,7
3. Tháiland 500 36 7,2 464 92,8 200 21 10,5 179 89,5
4. Malaysia 219 20 9,2 199 90,8 70 18 25,7 52 74,3
5. Cambodia 123 12 9,8 111 90,2 61 8 13,1 53 86,9
6. Philippines 236 36 15,25 200 84,75 24 4 16,7 20 83,3
7. Indonesia 550 62 11,27 488 88,73
8. Singapore 94 15 15,95 79 84,05

Nguồn: Trung tâm dữ liệu thông tin về vai trò nam nữ để phát triển Trung ương HLHPN Lào, ngày 28/2/2005 - Website.

You might also like