You are on page 1of 28

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT
------ *** ------

PHẠM THU HƢƠNG

VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM


THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ
CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN

Chuyên ngành : LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT


Mã số : 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS. BÙI XUÂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2009
2

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một bộ phận trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong việc
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Vai trò quan trọng này đã được
xác định trong nhiều văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, như văn kiện các Đại
hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng; Nghị quyết 07 (khoá IX) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Thể chế hoá các quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã quy định khá đầy
đủ về trách nhiệm và quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, trong những năm
qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều hoạt động phong phú đa dạng, hiệu quả
góp phần quan trọng vào việc tham gia xây dựng chính quyền; xứng đáng là chỗ dựa
tin cậy, vững chắc của Nhà nước, cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy tinh thần yêu nước, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao
động, chiến đấu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới của đất nước, đặc biệt là từ khi Nhà nước ban
hành Hiến pháp năm 1992 đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã từng bước củng
cố, mở rộng về tổ chức, tích cực đổi mới phương thức hoạt động của mình; tăng
cường mối quan hệ với cơ quan nhà nước; phối hợp và thống nhất hành động với
các tổ chức thành viên ở từng cấp; góp phần quan trọng vào quá trình tập hợp, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các
phong trào thi đua yêu nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả, hiệu lực; tiếp tục làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính
3

quyền nhân dân, xứng đáng là cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước.
Tuy nhiên, trên phương diện lý luận và thực tiễn, công tác Mặt trận tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền đến nay chưa được nghiên cứu, tổng kết một
cách toàn diện, hệ thống; mặt khác còn có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau,
thậm chí chưa thật đầy đủ, thiếu thống nhất về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tham gia công tác này, từ đó làm hạn chế phần nào kết quả trong việc
thực hiện quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian
qua.
Từ thực tiễn của lịch sử và trước yêu cầu đổi mới của toàn bộ hệ thống chính
trị, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm
đáp ứng yêu cầu phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc tìm hiểu và nghiên cứu về vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác này là thực sự cần thiết, có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu, tìm hiểu để thấy được những
đóng góp to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời tìm ra những nguyên
nhân của sự hạn chế, đề xuất các biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài "Vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân" để làm đề
tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể như
bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, hoặc ở lĩnh vực
giám sát ... đã trở thành đối tượng nghiên cứu của một số công trình khoa học riêng
biệt hoặc trong phạm vi tổng thể chung của một số công trình. Về giám sát thì có
khá nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc
sỹ đã nghiên cứu, như: công trình Đổi mới tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt
Nam và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay do Thang Văn Phúc và
4

Nguyễn Minh Phương chủ biên, HN. 2007; Đề tài khoa học cấp bộ "Những căn cứ
lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" do Giáo sư Lưu Văn
Đạt làm chủ nhiệm đề tài, HN. 7/2009 "Chuyên đề: Phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội góp phần xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh do Nguyễn Văn Pha là chủ nhiệm,
HN. 8/2009.
Đối với vai trò tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cần thiết được nghiên cứu một cách tổng thể, trực tiếp
riêng biệt và chuyên sâu. Đặc biệt, trước yêu cầu của việc đổi mới hệ thống chính
trị trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
yêu cầu của thực tiễn đời sống chính trị xã hội đặt ra; thì việc tìm hiểu, nghiên cứu
một cách có hệ thống về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân là hết sức cần thiết; có giá trị về lý luận và thực
tiễn cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; đánh giá tổng
quan về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác này; trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới. Trên cơ sở mục đích khoa học đó, luận văn góp
phần vào việc tuyên truyền, giải thích những kết quả đã đạt được của Mặt trận
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền; nhằm khẳng định vị trí, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn phải thực
hiện các nhiệm vụ sau: Nêu lên khái niệm, đặc trưng, vai trò, lịch sử về vai trò và
nội dung cơ bản công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phân tích, đánh giá thực trạng về những kết quả đạt
được và hạn chế trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân
trong thời gian vừa qua, rút ra những nguyên nhân của hạn chế. Đề xuất các giải
5

pháp, kiến nghị thiết thực để phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về vai trò một số nội dung, lĩnh vực chính của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay (tức là trong giai đoạn đổi mới), đặc biệt là từ khi có Hiến
pháp năm 1992 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và về chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với luận
văn, việc nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so
sánh. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu
qua thực tiễn công tác để hoàn chỉnh luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu một cách tương đối hệ
thống, chuyên sâu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân.
6.2. Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật, đồng thời chứng
minh sứ mệnh lịch sử to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
6.3. Luận văn đưa ra một số kiến nghị về phương hướng, giải pháp chủ yếu
về cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
6

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Chương 2: Thực trạng về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân
Chương 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở nƣớc ta hiện nay.
7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN

1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và công tác xây dựng, củng cố chính
quyền nhân dân
1.1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
Ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh – hình thức tổ chức đầu tiên của
Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng nhân dân làm cách mạng giải phóng
dân tộc. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam suốt chặng đường gần 80
năm không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, với những hình thức tổ chức và tên gọi khác
nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đã có những
đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một hình thức
tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay.
Về vị trí, Cương lĩnh Đảng năm 1991 ghi “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa
là người lãnh đạo Mặt trận”. Năm 1999, Nhà nước thể chế hoá Nghị quyết Đại hội
Đảng VIII và qua tổng kết 10 năm đổi mới đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, trong đó xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính
trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo”. Khái niệm hệ thống chính trị được Đảng sử dụng từ hội nghị TW6 (khoá VI),
hệ thống đó bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị-xã hội. Như vậy, từ đó đến nay, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
được xác định rõ trong xã hội và hệ thống chính trị. Luận văn sẽ chủ yếu, tập trung đi
sâu vào mối quan hệ với Nhà nước để thấy được vai trò tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
8

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Nhà nước đều là bộ phận của hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động của Mặt trận và Nhà nước có khác nhau nhưng đều là công cụ để nhân
dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối
hợp để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Sự phối hợp này là một tất yếu và xuất phát từ nhu cầu tự thân của Mặt trận lẫn Nhà
nước. Bởi lẽ, củng cố và tăng cường đoàn kết phải trên cơ sở chính sách pháp luật. Nhà
nước có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và công tác quản lý, tạo điều kiện để
nhân dân được làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhà nước ban hành cơ chế để
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Mặt trận phải chăm lo xây dựng, bảo vệ và giám sát Nhà nước. Phối hợp với Nhà nước
thì Mặt trận mới có khả năng và điều kiện thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của
mình.
Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhân dân là người trực tiếp
thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà nước cần tôn trọng và tạo điều kiện
để Mặt trận và các đoàn thể động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ và sức mạnh
có tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, giám sát và bảo vệ Nhà nước.
Trong quá trình ban hành các văn bản về quản lý và điều hành, cơ quan Nhà nước các
cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước căn cứ quy
chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt
trận. Nhà nước cần thể chế hoá quyền hạn và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham
gia quản lý kinh tế - xã hội. Nhà nước cùng với Mặt trận chăm lo, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân, vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào để
thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội. Mặt trận giới thiệu những người
có đủ tiêu chuẩn và điều kiện để nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp; tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước. Cải cách bộ máy Nhà nước trong giai đoạn hiện
nay còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Để Mặt trận làm
9

tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, cùng với nhà nước chăm
lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, do đó đòi hỏi sự phối hợp giữa
Mặt trận với Nhà nước ngày một chặt chẽ hơn. Trong bài phát biểu với Mặt trận, đồng
chí Trường Chinh đã từng nói:
... Chúng ta không nên tưởng rằng có bộ máy nhà nước trong tay, có pháp
luật thì chỉ cần ra lệnh cho quần chúng tuân theo là mọi việc xong suôi cả.
Tưởng như thế là quan liêu, mệnh lệnh. Bất cứ chủ trương, chính sách gì,
kể cả Hiến pháp và pháp luật, quy chế và điều lệ, nếu không đem tuyên
truyền phổ biến trong quần chúng nhân dân, kiên nhẫn giải thích, thuyết
phục và giáo dục cho quần chúng hiểu và tự nguyện thi hành thì những cái
đó cũng chỉ nằm trên giấy tờ. Chính quyền cách mạng của nhân dân có thể
dùng hai biện pháp: thuyết phục và bắt buộc, kết hợp thuyết phục với bắt
buộc, dựa trên cơ sở thuyết phục mà thực hiện bắt buộc, nói chung thuyết
phục vẫn là chính. Làm thế nào để thuyết phục quần chúng thi hành những
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đảng đã nắm chính quyền thì
những chủ trương, chính sách quan hệ đến quyền lợi thiết thân của toàn
dân cần được biến thành quy định của Nhà nước để toàn dân thi hành.
Đảng lãnh đạo chính quyền, chứ không bao biện thay chính quyền. Song để
tránh quan liêu, mệnh lệnh, chính quyền cần dựa vào Mặt trận và các thành
viên của Mặt trận; sử dụng những tổ chức đó vào việc tuyên truyền, giáo
dục, thuyết phục quần chúng để quần chúng thấu suốt và hăng hái thi hành
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. [ 28, tr.56-57].
Trở lại mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước, Điều 9 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thể chế hoá quan điểm của Đảng về vị trí,
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như sau:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
10

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân,
tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát
hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà
nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên
hoạt động có hiệu quả.[17, tr. 14]
Cũng trong Hiến pháp, tại điều 87 quy định về quyền trình dự án Luật ra
trước Quốc hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận. Tại Điều 111 quy định: “Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và người đứng đầu các
đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ khi bàn các
vấn đề liên quan”. Tại Điều 112 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ
có nhiệm vụ: “Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức
đó hoạt động có hiệu quả” và tại Điều 125 quy định:
Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng
đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự hội nghị Uỷ
ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của
địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý
kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân động viên nhân dân cùng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh ở địa phương. [17, tr. 67 ]
Như vậy, Hiến pháp có 5 điều quy định những nội dung cơ bản về quyền
và trách nhiệm của Mặt trận; về trách nhiệm của Nhà nước, của Quốc hội, Chính
11

phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đối với Mặt trận và mối quan hệ giữa
Mặt trận với Nhà nước. Đây là những quy định có tính Hiến định quy định mối
quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước. Sở dĩ cơ quan nhà nước phải phối hợp với
Mặt trận vì bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước có chức năng quản lý, Mặt trận Tổ quốc
là tổ chức liên minh chính trị, là nhân dân có tổ chức do nhân dân lập ra. Để
thực hiện tốt chức năng quản lý, Nhà nước phải dựa vào Mặt trận, phối hợp với
Mặt trận. Quan hệ phối hợp ở đây được hiểu là sự bình đẳng, tạo điều kiện hỗ
trợ lẫn nhau trên cơ sở các quy định thống nhất giữa hai bên để thực hiện một
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc Chương trình hành động của
Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận có trách nhiệm phối hợp với Nhà nước để thực hiện
tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, bảo đảm thực hiện có hiệu
quả các quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật, trong đó có
trách nhiệm tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Phương thức phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước được thực hiện thông
qua các quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
cơ quan nhà nước cùng cấp ban hành ngày càng thiết thực và có hiệu quả. Từ khi
có Luật Mặt trận Tổ quốc (năm 1999) đến nay, thực hiện điều 5 về quan hệ giữa
Mặt trận với Nhà nước, ở trung ương đã xây dựng và ban hành được 21 văn bản
liên tịch, trong đó có 5 quy chế phối hợp công tác, 8 nghị quyết liên tịch, 8 thông
tư liên tịch với cơ quan nhà nước ở trung ương, trong số đó phần lớn là văn bản
liên tịch với Chính phủ, các bộ. Ở địa phương, tất cả các tỉnh đã xây dựng và ban
hành quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân,
giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ở cấp huyện có
98% số huyện, ở cấp xã có 95% số xã đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp
giữa Mặt trận với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Hàng năm, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc đều phối hợp với cơ quan nhà nước, chính quyền cùng cấp
liên quan tổ chức hội nghị liên tịch giữa hai bên để kiểm điểm việc thực hiện quy
chế và thống nhất chương trình, nội dung phối hợp công tác của năm tới; sửa đổi,
bổ sung quy chế phối hợp công tác.
12

1.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân và
thực tiễn hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, gần tám thập kỷ
qua cho thấy Đảng ta luôn coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
và củng cố chính quyền, đề cao vai trò giám sát và tham gia góp ý kiến của các tổ
chức này. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập và rèn luyện Đảng ta khi nói về
chính sách đại đoàn kết dân tộc như sau: "Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân, trong thế giới, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân", "làm việc gì cũng phải có quần chúng, không có quần chúng, không thể thực
hiện được". Vì thế, Nhà nước và Mặt trận đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo và đều là
bộ phận của hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn có khác nhau
nhưng đều là công cụ để quần chúng nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ
của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng viết: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần được đổi mới về tổ chức và hoạt
động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ
lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các công việc quản lý Nhà nước; giữ
vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân
dân…" [8, tr.364-365].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII viết: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nước ta bao gồm rộng
rãi các giai cấp, các tầng lớp, tạo thành cơ sở chính trị, chỗ dựa vững chắc của
Nhà nước...” [8, tr.378].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam viết: "Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động
tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các
13

đoàn thể. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
hoạt động có hiệu quả" [8, tr. 367].
Nghị quyết Đại hội X Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp,
vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân”. Quan điểm nêu trên của Đảng ta về vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là phù hợp với nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam và không chồng chéo, mâu
thuẫn với vai trò, chức năng của Nhà nước là đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân. Bởi lẽ, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân” mà Đảng
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và Nhà nước là người tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng thông qua việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật
và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật đó thì đương nhiên mọi hoạt động của
Nhà nước cũng đều phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của các
tầng lớp nhân dân. Nhà nước có quyền và trách nhiệm trọng đại là quản lý và điều
hành đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải bằng pháp
luật và pháp luật đó phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân
dân. Để đạt được mục đích đó thì quá trình xây dựng chính sách, pháp luật cần lấy
và tiếp thu ý kiến của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân và ở mức độ cao hơn là “phản biện xã hội”. Mặt khác, khi chính sách
pháp luật của nhà nước được ban hành, thì chính nhà nước phải có trách nhiệm tổ
chức, thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của chính sách, pháp luật đó, nhất là
những chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thực tiễn những năm qua, có những chính sách, pháp luật chưa thực sự đi vào
cuộc sống, trong những lý do chủ yếu đó là còn có những vi phạm từ phía cơ quan
nhà nước, công chức nhà nước, do vậy, rất cần có sự giám sát của nhân dân. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm động viên nhân dân thực hiện quyền giám
sát và nhân dân thực hiện giám sát qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân. Tức là nhân dân có tổ chức mới tạo ra sức mạnh, cá nhân mỗi người dân
14

tự đứng ra để thực hiện quyền giám sát của mình thì không thể tạo ra sức mạnh và
hiệu quả sẽ thấp.
1.2. Lịch sử về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh như một tất yếu lịch sử của dân tộc. Trải
qua các giai đoạn lịch sử, Mặt trận có nhiều tên gọi khác nhau phù hợp với yêu
cầu của cách mạng. Tiền thân là Hội phản đế đồng minh được thành lập ngày
18/11/1930, Phản đế Liên minh (tháng 3/1935), Mặt trận thống nhất nhân dân
phản đế (tháng 10/1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (tháng 6/1938), Mặt
trận thống nhất Dân tộc phản đế Đông Dương (tháng 11/1939), Việt Nam độc
lập đồng minh hội gọi tắt là Mặt trận Việt Minh (19/5/1941), Hội Liên hiệp
Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt (29/5/1946), thống nhất Việt Minh-Liên
Việt thành Mặt trận Liên Việt (3/3/1951), đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(tháng 9/1955), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (20/12/1960), Liên minh
các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam (20/4/1968). Đại hội thống
nhất các tổ chức Mặt trận ở hai miền thành một Mặt trận dân tộc thống nhất duy
nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (4/2//1977).
Lịch sử cho thấy, khi chưa có chính quyền, Mặt trận vận động nhân dân làm
cách mạng giành chính quyền, khi chính quyền về tay nhân dân, Mặt trận vận động
nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, vì đó là chính quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mối quan hệ giữa Mặt trận với chính quyền
và Mặt trận mang yếu tố lịch sử và cách mạng suốt gần 80 năm qua, đó là mối
quan hệ tất yếu, khách quan trong công cuộc giành, giữ, bảo vệ chính quyền và xây
dựng, phát triển đất nước.
1.2.1. Vai trò của Mặt trận thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (1930-1975)
Tính tất yếu của Mặt trận dân tộc thống nhất trong Cách mạng nước ta được lịch
sử chứng minh: Cách mạng càng tiến lên, Mặt trận Dân tộc thống nhất không bị co hẹp
lại, mà ngày càng được củng cố và phát triển rộng rãi.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, với chính sách cai trị phản động, hà
khắc; đời sống nhân dân ta, nhất là giai cấp nông dân phải chịu kiếp sống lầm than,
15

cơ cực và bần cùng hoá sâu sắc. Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ra đời có sứ
mệnh tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia chống thực dân Pháp và địa
chủ phong kiến, giành độc lập, tự do cho đất nước. Nếu như Hội phản đế đồng minh
có nhiệm vụ là “hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp
trên hay ở vào lớp giữa cũng vậy và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán
ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và
cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp ...” [12, tr.61]. Đến thời kỳ Mặt
trận Việt Minh, hoạt động lại tập trung vào việc: “liên hiệp hết thảy các tầng lớp
nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào,
đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở ...” [6,
tr.431].
Lịch sử đã ghi nhận Mặt trận Việt Minh là một trong những đỉnh cao của các
hình thức tổ chức Mặt trận do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh
đạo. Đây là thời kỳ mà tính tổ chức và tính phong trào, tính hiệu quả, thiết thực với
tính tượng trưng, tiêu biểu trong hoạt động Mặt trận được phát triển và hoàn thiện
nhất. Mặt trận Việt Minh đã thu hút được các giới đồng bào yêu nước, từ công
nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú ông, địa chủ yêu nước
... đưa phong trào đấu tranh cách mạng ở nước ta phát triển mạnh mẽ, nhất là qua
cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941 – 1945 và
đặc biệt là thông qua cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong năm 1945.
Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định vào thành công của Cách mạng tháng
Tám, mang lại tự do, độc lập cho dân tộc; thực sự đóng vai trò của chính quyền
nhân dân, quản lý mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Đánh giá khái quát về
vai trò, ý nghĩa và nguyên nhân thành công của Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực và
hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết thực mà
đầy đủ của Mặt trận gồm 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể:
Có mười chính sách bày ra,
Một là lợi ích quốc gia, hai là lợi dân ...
16

Vì thế mà Việt minh được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh và cũng do cán
bộ rất cố gắng đi sát với dân, cho nên Việt Minh phát triển rất mau và rất mạnh”
[12, tr.342].
Văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) chỉ rõ: "Mặt trận hiện là một trong
những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng
chiến kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp bền vững của
Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng".
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước ta bị tạm thời chia cắt thành hai
miền; miền Bắc được giải phóng, còn miền Nam bị đế quốc Mỹ nhảy vào thay thế
thực dân Pháp với âm mưu chiếm đóng lâu dài và biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới. Cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược, đó
là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Trước tình hình
đó, Đảng ta đã sớm xác định do mỗi miền đất nước có chiến lược cách mạng khác
nhau, do đó cần thiết phải thành lập ở mỗi miền một Mặt trận Dân tộc thống nhất
phù hợp nhằm mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới mục
tiêu chung là giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Mặt trận trong giai đoạn
này phải đảm đương một phần chức năng của chính quyền, nhất là ở vùng căn cứ
địa cách mạng và vùng mới giải phóng (như tổ chức Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam).
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận khẳng định
mà do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thắng lợi huy hoàng của cách
mạng tháng 8 năm 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích
của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị
từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930 – 1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông
Dương (1936 – 1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp
phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận
Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn
cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
17

Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam
đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang; giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò
quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, quá trình hình thành và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam là quá trình không ngừng đấu tranh chống mọi khuynh hướng "tả khuynh" và
"hữu khuynh" nhằm tập hợp lực lượng để xây dựng và củng cố, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc. Điểm then chốt có ý nghĩa quyết định và sáng tạo về
lý luận và thực tiễn trong tư tương Hồ Chí Minh là đã giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mà ở đó mâu thuẫn chủ yếu trong xã
hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược và
bè lũ tay sai.
1.2.2. Vai trò của Mặt trận thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa từ năm
1975 đến nay
Từ sau khi nước nhà thống nhất, Mặt trận đã trải qua hai thời kỳ hoạt động.
Đó là thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) và thời kỳ sau đổi mới. Gắn liền với những
chuyển biến của đất nước qua hai thời kỳ đó, hoạt động của Mặt trận cũng mang
những sắc thái riêng của mỗi thời kỳ; trước khi đổi mới là thời kỳ hoạt động của
Mặt trận mang tính hình thức, hạn hẹp; sau khi đổi mới là thời kỳ không ngừng tìm
tòi, đổi mới hoạt động và tổ chức mặt trận tạo ra những biến đổi liên tục.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại lâu dài các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Với nền kinh tế nhiều thành phần, có
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các
giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế,
xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết, hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều tổ chức xã hội -
nghề nghiệp ra đời, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự giao lưu văn hoá
không ngừng tác động đến lối sống, suy nghĩ của mọi tầng lớp, mọi người trong xã
18

hội. Mặt khác, các thế hệ thù đích đang thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”
với nhiều âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Ở giai đoạn này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục có sứ
mệnh lịch sử là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nhằm đoàn kết rộng rãi
mọi giai tầng trong xã hội, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ, động viên nhân dân
thi đua lao động, sản xuất, tích cực tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng cách mạng to lớn của
cách mạng nước ta”.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
tạo ra xu thế đổi mới chung, trong đó có phương hướng đổi mới Mặt trận và các đoàn
thể. Tuy không có nhiều đột phá, nhưng mở ra các nhiệm vụ mới để Mặt trận có điều
kiện tích cực tham gia đổi mới cơ chế quản lý, chuyển mạnh hoạt động về cơ sở.
Trong thời kỳ đổi mới, với những thành công bước đầu, khi đất nước ta thoát ra
khỏi khủng hoảng, tháng 12-1993, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số
07-NQ/TW về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Nghị
quyết chỉ rõ: "Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yếu tố dân tộc trở thành một đặc điểm
cực kỳ quan trọng". Văn kiện này đã đánh dấu một bước chuyển rất quan trọng trong
chủ trương về vai trò, vị trí vấn đề về dân tộc, và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất, nhằm khắc phục những lệch lạc về giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan niệm về
ta, bạn, thù và xác lập tư duy về đại đoàn kết, hoà hợp dân tộc.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) đã khẳng định: "Động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân".
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với nền dân
chủ ngày càng phát triển thì sứ mệnh của Mặt trận và các đoàn thể ngày càng được
mở rộng. Nghị quyết Đại hội X của Đảng tại mục X về “phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc ...” đã chỉ rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc
tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và
19

lợi ích hợp pháp của nhân dân, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước; các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống
nhân dân, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội. Nhà nước ban hành cơ chế để
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” [5,
tr.124].
Như vậy, là sau khi thống nhất các tổ chức Mặt trận cho đến khi chính thức phát
động công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đảng luôn chú trọng bổ sung, hoàn thiện về
vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận, những đổi mới về kinh tế diễn ra sôi động trong xã hội đã
dần thúc đẩy việc đổi mới hoạt động của Mặt trận.
Nhìn từ lịch sử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trước chính quyền, khi chưa
có chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đảm
nhiệm một số chức năng của chính quyền ở vùng căn cứ địa cách mạng, vùng mới
giải phóng như Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam trước đây. Khi cách mạng thành công, chính quyền ra đời, chính quyền
được xây dựng và củng cố trên cơ sở nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
khẳng định rõ bản chất cơ bản, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một tổ chức luôn trung thành với lợi ích của nhân dân, ra sức
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp tất cả các lực lượng
trong xã hội thành một khối thống nhất, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc để thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng đề ra
trong từng giai đoạn lịch sử. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần
quan trọng trong việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực và củng cố khối liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là cầu nối vững
chắc giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; đã, đang và sẽ thực hiện tốt vai trò đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân như Nghị quyết Đại hội X của
Đảng đã nêu ra, đồng thời là nơi phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ
chức thành viên.
20

1.3. Nội dung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền
1.3.1. Đặc trưng vai trò tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tại Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quy định:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện
vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nơi hiệp thương, phối hợp, thống nhất hành động của các thành viên,
góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. [20, tr.5].
Từ quy định trên, có thể thấy một số đặc trưng cơ bản thể hiện vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền như
sau:
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các
tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Liên minh
chính trị chính là sự liên kết các lực lượng với nhau trong một khối thống nhất để cùng
nhau thực hiện mục tiêu chính trị chung là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Mục tiêu
chung đó ở mỗi giai đoạn khác nhau phù hợp với mục tiêu cách mạng và các lợi ích cơ
bản của các lực lượng tham gia liên minh. Là tổ chức liên minh chính trị, như vậy,
đương nhiên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải là đoàn thể, không có hội viên,
đoàn viên, mà chỉ có các thành viên bao gồm thành viên là tổ chức và thành viên là cá
nhân tiêu biểu. Các tổ chức, cá nhân tự nguyện gia nhập và là thành viên của Mặt trận
21

Tổ quốc Việt Nam, khi tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các thành viên đều có địa
vị bình đẳng trong phối hợp và thống nhất hành động và độc lập về tổ chức. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là tổ chức có cơ sở xã hội rộng rãi nhất so với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, do đặc điểm này mà Mặt trận có những điều kiện để tập hợp,
vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo
thành sức mạnh to lớn, cùng nhau thực hiện chương trình phối hợp và thống nhất hành
động chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng chính
quyền nhân dân.
Hai là: ngoài những phương thức vận động quần chúng nói chung, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam còn có các phương thức hoạt động đặc thù không giống với
phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền. Cương lĩnh Đảng năm 1991 ghi:
“Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động giữa các thành viên theo chương trình hành động chung”. Đặc điểm cơ
bản trong phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là vận động, giáo
dục, thuyết phục, phối hợp và thống nhất hành động. Đó chính là cách thức, phương
pháp tiến hành những công việc để phù hợp với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây chính là lợi thế căn bản của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong việc động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm
chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử và các bộ, công chức nhà nước. Phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam rất phong phú, đa dạng và không ngừng được đổi mới để phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai
đoạn mới, đồng thời phù hợp với tinh thần Nghị quyết VIII, IX của Đảng đã chỉ rõ:
“Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội ... Thực hiện nề nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham
khảo ý kiến Mặt trận về những quyết định, chủ trương lớn”.
Ba là: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận cách mạng
nước ta. Đảng là thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách thành viên lãnh đạo,
thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân dân theo Đảng làm
cách mạng. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một thành viên
22

của Mặt trận, Đảng không thể đứng trên hoặc đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận.
Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, ... chỉ trong đấu tranh và công
tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo. [6,
tr.347].
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính
sách đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; Đảng tiến hành công tác
tuyên truyền vận động, thuyết phục, tổ chức, giám sát, kiểm tra và bằng sự gương mẫu
của đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các
thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng
thời là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành
viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách
nhiệm tham gia sinh hoạt đầy đủ, chủ động trình bày các chủ trương và kiến nghị của
Đảng đối với Mặt trận, đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của các thành
viên, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Trong sự
nghiệp xây dựng đất nước ngày nay, quan điểm của Đảng là phải phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy
dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu mới đặt ra trong giai đoạn
hiện nay, mà Đảng ta xác định đó chính là Nhà nước cần xây dựng và ban hành Quy
chế về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân đối với dự thảo đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của
Đảng, kể cả công tác tổ chức và cán bộ trước khi ban hành.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, là nền tảng để xây dựng nên bộ máy nhà nước. Hệ thống của Mặt trận
được hình thành theo cấp hành chính là: trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Ở
23

mỗi cấp hành chính có Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – là cơ quan chấp hành
giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận cùng cấp; đại diện cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ở từng cấp là Ban Thường trực. Dưới cấp xã có Ban công tác Mặt trận ở
cộng đồng dân cư. Với các cấp hành chính như vậy, rất phù hợp với việc tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở từng cấp.
1.3.2. Nội dung tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
Như đã nêu ở trên, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ xây dựng
và củng cố chính quyền có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta suốt chặng đường 45 năm làm cách mạng
(từ 1930) đổ biết bao xương máu để lật đổ chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc
xâm lược giành chính quyền về tay nhân dân (năm 1945), giải phòng miền Bắc
(năm 1954) và đấu tranh thống nhất nước nhà (năm 1975). Trong đấu tranh cách
mạng để giành chính quyền rồi phải xây dựng và củng cố chính quyền vững
mạnh, trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, luôn được đặt ra trong suốt
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, công tác này được hệ thống hoá thành những hoạt động cụ thể của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực chủ yếu như sau:
1.3.2.1. Tham gia xây dựng bộ máy nhà nước
- Vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong bầu cử được
quy định tại Điều 8 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và được cụ thể hoá trong
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các
văn bản pháp luật liên quan. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc
nhất của công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước.
Theo quy định của pháp luật, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia công tác này
với sáu nhiệm vụ cụ thể.
24

Một là, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng với cơ quan
nhà nước thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử và cử đại diện Ban Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp.
Hai là, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức hiệp thương,
lựa chọn giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
Ba là: Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì phối hợp với chính
quyền cùng cấp ở xã, phường, thị trấn tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cư trú, để lấy ý
kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trước khi tổ chức hội nghị hiệp thương lần
thứ ba lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu người ứng cử.
Bốn là, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức các hội
nghị cử tri để ứng cử viên gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền vận động
bầu cử.
Năm là, tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu cử, tự
mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
Sáu là, thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại diện của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức các đoàn giám sát thực hiện các công
việc bầu cử.
Trong sáu nhiệm vụ về bầu cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kể trên, có thể
nói nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Mặt trận là tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới
thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó, tại
các kỳ họp của Quốc hội, đại diện Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thay mặt nhân dân cả nước trình bày trước Quốc hội những ý kiến, kiến
nghị, tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân cả nước để Quốc hội, các cơ
quan Nhà nước nghiên cứu, giải quyết. Các phiên họp của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, đại diện Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
được mời tham dự và phát biểu về các vấn đề liên quan. Ở địa phương, đại diện
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tham dự các kỳ họp thường kỳ của Hội đồng
nhân dân cùng cấp và phát biểu về công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính
quyền; chủ trì các Hội nghị cử tri, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri về các
lĩnh vực thành văn bản kiến nghị tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân cùng cấp,
25

hoặc gửi Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về
những vấn đề thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia vào các Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán Toà án nhân dân, tuyển chọn Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân nhằm lựa
chọn những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để trình cấp có thẩm quyền bổ nhiệm
làm Thẩm phán, bổ nhiệm Kiểm sát viên. Chuẩn bị nhân sự, giới thiệu người đủ tiêu
chuẩn để Hội đồng nhân dân các cấp bầu Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân cùng
cấp.
1.3.2.2. Tham gia xây dựng pháp luật
Theo quy định tại Điều 87 Hiến pháp 1992, và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Mặt trận là một trong những chủ thể có quyền trình dự án luật ra trước Quốc
hội. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã
có một số quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có
quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và về tổ chức bộ máy Nhà
nước; trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, cơ
quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến
phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến... Cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý. Ở địa phương, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh phối hợp với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân cùng cấp tổ chức lấy ý kiến của nhân dân vào dự án luật, pháp lệnh, văn bản
pháp luật của chính quyền địa phương trên các lĩnh vực có liên quan mật thiết đến
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến các tầng lớp xã hội do Mặt trận trực tiếp vận
động.
1.3.2.3. Tham gia quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý nhà nước ngày nay không chỉ bó hẹp trong lãnh thổ quốc
gia, mà đã hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, nhất là về kinh tế. Mọi biến
động của thế giới về kinh tế, ít nhiều đều tác động đến quản lý và điều hành kinh tế
26

của đất nước, ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng, đến đời sống của người dân.
Nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, trước hết Mặt trận có trách nhiệm tham gia góp
ý kiến với Chính phủ về các giải pháp vĩ mô, vận động nhân dân hưởng ứng và tham
gia các giải pháp đó. Như vậy, lúc bình thường, cũng như lúc khó khăn, mối quan hệ
giữa Mặt trận và Nhà nước là sự phối hợp chặt chẽ, cùng mục đích vì sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Nội dung này gồm những hoạt động chủ yếu sau đây:
- Tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật: do có cơ sở xã hội rộng lớn,
nên Mặt trận có vai trò hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho nhân dân; động viên nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp
luật do Nhà nước ban hành. Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều là thành
viên trong hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động
có khác nhau, nhưng đều là công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của mình. Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều có trách nhiệm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Vì vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định tại Hiến pháp và
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Mọi chủ
trương, chính sách, pháp luật cũng như các hoạt động của nhà nước, nếu nhận được
sự ủng hộ, tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng dẫn
đến thành công khi đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
- Tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở: Đảng và Nhà nước ta chỉ ra là: “cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”, coi quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định
thắng lợi của cách mạng. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị số
30/CT-TW về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên,
Đảng ta có một văn bản riêng về vấn đề này nhằm phát huy quyền làm chủ của dân, thu
hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất
dân chủ và nạn tham nhũng đang xảy ra ở nhiều nơi trên đất nước ta. Năm 2007, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội khoá XI ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, trong đó quy định trách nhiệm của Mặt trận là: tuyên truyền trong nhân dân,
làm cho mọi người hiểu và sử dụng đúng các quyền đã được quy định trong quy chế
dân chủ, đồng thời chấp hành đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân; phối hợp
27

với chính quyền trong việc thực hiện và giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở.
- Tham gia tố tụng: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự, dân sự, lao động, hành
chính, kinh tế ... để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức mình, của công
dân, của hội viên, đoàn viên, đồng thời thực hiện quyền giám sát của nhân dân
đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng; cử bào chữa viên nhân dân để
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình; tố
giác và báo tin về tội phạm.
- Tham gia đặc xá: Theo quy định của Luật đặc xá ở trung ương Mặt trận
tham gia Hội đồng tư vấn đặc xá; tham gia ý kiến góp ý vào dự thảo Quyết định
của Chủ tịch nước và văn bản hướng dẫn quy định về các điều kiện, tiêu chuẩn,
trình tự, thủ tục xét đặc xá. Cử chuyên viên tham gia các đoàn liên ngành thẩm
định hồ sơ xét đặc xá tại các trại giam, trại tạm giam do Bộ Công An, Bộ Quốc
phòng quản lý; Mặt trận các cấp ở địa phương tuyên truyền trong nhân dân ý
nghĩa sâu sắc của chủ trương đặc xá; phối hợp với chính quyền và đoàn thể cùng
cấp thực hiện việc quản lý, giúp đỡ, giáo dục người được tha tù trước thời hạn trở
về địa phương mau chóng hoà nhập cộng đồng, tìm kiếm việc làm, phấn đấu trở
thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội; phối hợp với các tổ chức thành
viên cùng cấp giám sát việc thi hành quyết định đặc xá và các văn bản pháp luật
có liên quan góp phần đảm bảo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về đặc xá được thực thi nghiêm chỉnh.
- Tham gia công tác tiếp dân xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân
vừa là quyền và là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà nội dung chủ
yếu là thực hiện công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại tố cáo và giám sát việc
giải quyết khiếu nại tố cáo của chính quyền. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải
được hiểu là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta, trong đó có
vai trò quan trọng của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt
trận các cấp, nhất là cấp cơ sở.
1.3.2.4. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ,
công chức nhà nước; thực hiện hoạt động phản biện xã hội
28

Vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam được quy định trong Hiến pháp, Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 50 văn bản quy phạm pháp luật. Tính chất giám
sát của Mặt trận không mang tính quyền lực mà là giám sát mang tính nhân dân. Là
đại diện cho nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia giám sát với cơ quan nhà
nước hoặc độc lập giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định với cơ
chế là “theo dõi, phát hiện, kiến nghị”. Đối tượng giám sát là hoạt động của cơ quan
nhà nước; cán bộ, công chức nhà nước và đại biểu dân cử. Việc giám sát được thực
hiện từ khâu xây dựng văn bản pháp luật của Nhà nước và các văn bản quy phạm
pháp luật của chính quyền địa phương, giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân.
Lần đầu tiên được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản biện xã
hội là một nhiệm vụ không hoàn toàn mới nhưng là việc khó, nhạy cảm và chưa
có cơ chế cụ thể. Trong thực tiễn, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức
chính trị - xã hội đã có những hoạt động tích cực tham gia góp ý kiến vào các dự
thảo nghị quyết của các cấp uỷ Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nhiều ý
kiến được cơ quan có thẩm quyền tiếp thu góp phần làm cho các chủ trương,
chính sách, pháp luật sát thực tiễn, đáp ứng được nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân. Việc góp ý kiến này ở mức độ nhất định đã thể hiện tính chất phản biện
xã hội của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Các ý kiến đóng góp của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên xuất phát từ
quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc với việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, trên đảm bảo những yêu cầu:
tính khoa học, tính nhân dân, tính khả thi, tính hợp lý; đồng thời đảm bảo mối quan
hệ giữa pháp luật và dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
hoạt động xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật.

You might also like