You are on page 1of 246

OSHO

Lâm Tế:
Thầy của
điều phi lí

Bài nói về thiền


HÀ NỘI 10/2003
OSHO

Rinzai:
Master of the
Irrational

Talks on Zen
Mục lục

1. Thầy của tiếng hét..............................................................1


2. Trái tim rỗng, tâm trí rỗng................................................33
3. Hoặc kinh nghiệm hoặc về nhà.........................................75
4. Thô lỗ làm sao................................................................105
5. Thảnh thơi và biến mất...................................................129
6. Mọi điều có thể làm là bỏ tâm trí.....................................151
7. Không có đích cuối.........................................................175
8. Ngày nghỉ không dành cho thánh nhân...........................201
Về Osho..............................................................................225

i
ii
Giới thiệu

Tôi đã nghe nói về một người chết đi - thế rồi


người đó nhận ra rằng "Lạy Trời, mình đã
sống!" Nhưng bây giờ thì quá trễ rồi.

Đúng là tình huống mà con người đáng thương


chúng ta đang lâm vào! Phần lớn chúng ta thậm chí
không biết rằng mình sống. Chúng ta không có khái
niệm về những tiềm năng được vùi kín bên trong mình.
Làm sao chúng ta có thể khám phá ra tất cả mọi cội
nguồn của niềm vui và sự an bình mà chúng ta đã quên
mất?

Thiền là cách duy nhất làm cho bạn nhận biết.


Và một khi bạn tràn đầy nhận biết, mọi thứ
xung quanh là đại dương của sự sùng kính.
Chính cuộc sống này, chính tâm thức này là
thiêng liêng.

Cuộc sống của bạn là thiêng liêng hay trần tục?


Chúng ta hiếm khi tự hỏi mình ngay cả những câu hỏi cơ
bản nhất này. Chúng ta sợ đối diện nhìn thẳng vào mình.

iii
Bạn vừa là chu vi và trung tâm. Bạn sống ở
chu vi... Khi tâm thức của bạn trở nên sâu
hơn, khi việc đi vào trung tâm trở thành điều
dễ dàng - cũng như bạn đi vào và đi ra nhà
mình - bạn trở thành phật. Thế thì dần dần
trung tâm của bạn bắt đầu thay đổi chu vi của
bạn. Thế thì bạn không thể bạo hành được,
thế thì bạn không thể mang tính phá huỷ
được. Thế thì bạn là tình yêu.

Trong cuốn sách này Thầy chứng ngộ đương đại,


Osho Rajneesh, nói về một trong những người sáng lập
của Thiền... những giai thoại kì ảo, bí ẩn được làm lộ ra
một cách kì lạ, qua những chuyện đùa, những câu
chuyện, những bài cú tinh tế, và việc thiền sống. Điều đó
thực là vui sướng.
Đọc cuốn sách này với trái tim và tâm trí cởi mở,
gạt sang bên mọi định kiến - bạn có thể đồng ý hay
không đồng ý, điều đó không thành vấn đề - bạn có thể
đi tới nếm trải cái không biết.

Sống cùng với Lâm Tế... đó là thời kì tuyệt


diệu. Làm cho ông ấy thành người đương đại
chúng ta, chỉ vài khoảnh khắc, là nước cam lồ
thuần khiết.

Ma Shivam Suvarna, B.Sc


Poona, 1988

iv
v
Lưu ý cho độc giả

Phần cuối mỗi bài nói trong loạt này tuân theo một
cách in nào đó mà có thể gây khó hiểu với độc giả còn
chưa hiện diện tại chính sự kiện.
Đầu tiên là thời gian của Sardar Gurudayal Singh.
“Sardarji” là một đệ tử lâu năm có tiếng cười nồng nhiệt
và tiêm nhiễm đã làm nẩy sinh việc mang tên anh ấy cho
lúc kể chuyện cười.
Chuyện cười được tiếp sau bởi việc thiền bao gồm
bốn phần. Mỗi giai đoạn của thiền đều được báo trước
bởi một tín hiệu từ Osho cho người đánh trống,
Nivedano. Nhịp trống này được biểu diễn trong văn bản
là như sau:

(tiếng trống)

Giai đoạn thứ nhất của thiền là nói lảm nhảm, mà


Osho đã mô tả là “lau sạch tâm trí bạn khỏi mọi loại bụi
bặm... nói bất kì ngôn ngữ nào mà bạn không biết... ném
tất cả sự mất trí của bạn ra.”
Trong vài khoảnh khắc căn phòng tràn đầy sự điên
khùng, khi hàng nghìn người hô, hét, lảm nhảm điều vô
nghĩa và vung vẩy tay chân mình khắp xung quanh.
Tiếng lắp bắp được biểu thị trong văn bản như sau:

vi
(nói lắp bắp)

Giai đoạn thứ hai là thời kì ngồi im lặng, tập trung


tâm thức vào trung tâm, điểm chứng kiến.

Giai đoạn thứ ba là “buông bỏ” - mỗi người ngã vô


nỗ lực xuống đất, cho phép các biên giới vốn vẫn giữ họ
phân tách nay tan biến đi.
Và nhịp trống cuối cùng báo cho toàn thể hội chúng
trở lại tư thế ngồi, như họ được hướng dẫn trong việc
làm cho kinh nghiệm thiền của mình ngày càng là một
phần của cuộc sống thường ngày. Những người tham dự
được hướng dẫn qua từng giai đoạn của thiền theo lời
của Thầy, và toàn bộ văn bản của từng buổi thiền tối
được tái tạo lại ở đây.

vii
1. Thầy của tiếng hét

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Lâm Tế trở nên nổi tiếng là thầy của tiếng hét.
Một lần, một sư hỏi, "Nguyên lí chính của
Phật pháp là gì?"
Lâm Tế hét - Sư cúi lạy.
"Ông nói đó là tiếng hét tốt sao?" Lâm Tế hỏi.
Sư bình luận: "Tên cướp trong đồng cỏ đã
gặp thất bại hoàn toàn."
"Bực mình của ta là gì?" Lâm Tế hỏi.
Sư đáp, "Điều đó sẽ không được tha thứ lần
thứ hai."
Lâm Tế lại hét.

Maneesha, buổi tối im lặng và đẹp đẽ này chúng ta


sẽ bắt đầu một chuỗi thiền mới về lời kinh của Lâm Tế 1.
Lâm Tế là một trong những thầy đáng yêu nhất trong
truyền thống Thiền.

1
Rinzai: Lâm Tế Nghĩa Huyền (zh. línjì yìxuán/ lin-chi i-hsüan 臨濟義玄,
ja. rinzai gigen), ?-866/867, là một vị Thiền sư Trung Quốc, là Tổ khai
dòng thiền Lâm Tế

1
Việc truyền trao ngọn đèn thứ nhất đã xảy ra giữa
Phật Gautam2 và Ma ha ca diếp3. Việc truyền trao lớn thứ
hai đã xảy ra giữa Bồ đề đạt ma và người kế tục của ông
ấy. Bồ đề đạt ma đem kinh nghiệm tối thượng của tâm
thức từ Ấn Độ sang Trung Quốc; Lâm Tế đã giới thiệu
cùng tâm thức, cùng con đường của việc đi vào bản thân
người ta, từ Trung Quốc sang Nhật Bản.
Ba cái tên này - Ma ha ca diếp, Bồ đề đạt ma và
Lâm Tế - đứng như những đỉnh núi lớn của Himalayas.
Một trong những điều khó khăn nhất là chuyển từ
kinh nghiệm thành giải thích, và từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác điều đó trở thành nhiệm vụ gần như
không thể được. Nhưng Bồ đề đạt ma đã làm được điều
đó, và Lâm Tế cũng làm được điều đó. Việc truyền trao
ngọn đèn này phải được hiểu một cách sâu sắc; chỉ thế
thì bạn mới có khả năng hiểu lời kinh sau đây.
Không ngôn ngữ nào có khả năng dịch được kinh
nghiệm bên trong, kinh nghiệm chủ thể, bởi một lẽ đơn
giản là ngôn ngữ đó được tạo ra cho thế giới đối thể, về
mọi thứ, về mọi người. Không ngôn ngữ nào đã được tạo
ra về trung tâm bên trong nhất của bản thể bạn, bởi lẽ
đơn giản là khi hai người có cùng kinh nghiệm gặp nhau
thì không cần phải nói gì cả. Chính sự hiện diện của họ,
chính im lặng của họ, chiều sâu của đôi mắt họ và duyên
dáng của cử chỉ họ là đủ.
Chỉ có ba tình huống có thể có. Hoặc hai người
chứng ngộ gặp nhau, thế thì ngôn ngữ là không cần thiết;
họ cả hai gặp nhau bên ngoài ngôn ngữ, việc gặp gỡ của
họ là việc gặp gỡ của vô trí.

2
Phật Gautam: Phật Thích ca
3
Mahakashyapa: Ma ha ca diếp

2
Tình huống thứ hai là nếu hai người chưa chứng
ngộ gặp nhau: họ sẽ nói nhiều, họ sẽ dùng những từ lớn
lao, nhiều triết lí, nhiều siêu hình, nhưng nó tất cả đều vô
nghĩa. Nó sẽ không được hỗ trợ bởi kinh nghiệm của họ.
Họ chỉ là vẹt, lặp lại lời của người khác. Hiển nhiên họ
không thể tạo ra ngôn ngữ cho chư phật. Họ không có ý
tưởng gì về cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn.
Khả năng thứ ba là gặp gỡ giữa người chứng ngộ
và người chưa chứng ngộ. Người chứng ngộ biết, người
chưa chứng ngộ không biết. Nhưng mặc dầu người
chứng ngộ biết, vẫn chưa đủ để truyền đạt lại điều đó.
Biết là một việc; chuyển nó vào ngôn ngữ là việc khác.
Bạn biết yêu là gì - bạn có thể hát bài ca, bạn có thể
nhảy múa, nhưng bạn không thể nói một lời về yêu là gì.
Bạn có thể có nó, bạn có thể được tràn ngập bởi nó, bạn
có thể biết kinh nghiệm tuyệt đối về yêu, nhưng dầu vậy
bạn vẫn không thể đem, cho dù một mảnh của nó, vào
lời. Lời không có nghĩa cho nó. Việc chuyển nó từ ngôn
ngữ này sang ngôn ngữ khác là điều gần như không thể
được.
Ngay cả Phật cũng không nói với Ma ha ca diếp.
Ma ha ca diếp đơn giản sống cùng Phật trong nhiều năm,
ngồi im lặng dưới gốc cây. Ông ấy chưa bao giờ hỏi một
câu hỏi nào, ông ấy đơn giản chờ đợi và chờ đợi và chờ
đợi. Ông ấy càng chờ đợi lâu, ông ấy càng trở nên im
lặng. Kiên nhẫn của ông ấy càng dài và lâu, tin cậy của
ông ấy và tình yêu của ông ấy và lòng biết ơn của ông ấy
càng lớn. Chỉ bằng việc chờ đợi ông ấy đã trải qua biến
đổi. Ông ấy đã đổi thành con người mới. Không ai biết
điều đó nếu ngẫu nhiên sự việc này không xảy ra.
Một triết gia lớn của thời đó, Maulingaputta, tới
Phật. Ở Ấn Độ vào những ngày đó đã có truyền thống rất
thông thường là các thầy giáo sẽ đi tới các thầy giáo

3
khác để thảo luận về các vấn đề. Với kính trọng lớn lao
họ sẽ tranh luận kịch liệt, và bất kì ai thất bại sẽ trở thành
đệ tử của người chiến thắng.
Maulingaputta đã đánh bại hàng trăm thầy giáo và
bây giờ ông ấy tới Phật Gautam với năm trăm người đi
theo để thách thức Phật. Thách thức này không phải là
đối kháng; thách thức này tuyệt đối trong việc đi tìm
chân lí.
Maulingaputta nói với sự kính trọng sâu sắc, "Tôi
muốn thách ông tranh luận cùng tôi."
Phật nói, "Không có vấn đề gì... nhưng điều đó sẽ
không quyết định được gì cả. Ông đã thảo luận với hàng
trăm thầy giáo và ông đã thắng, không phải bởi vì ông có
chân lí mà bởi vì ông logic hơn, giỏi biện luận hơn, tinh
xảo hơn những người khác. Điều đó không có nghĩa là
ông có chân lí; điều đó đơn giản nghĩa là ông được giáo
dục tốt hơn - ông đã làm sẵn bài tập về nhà tốt hơn người
khác, ông khôn ranh, thông minh hơn và có khả năng
logic sắc bén. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông có
chân lí.
"Ông muốn truy tìm về chân lí hay chỉ tranh luận? -
bởi vì với hàng trăm cuộc tranh luận này, điều gì đã xảy
ra? Ông đã tụ tập được hàng trăm người đi theo và tự
ông không có chân lí. Bây giờ ông đã nhận trách nhiệm
với hàng trăm người đi theo. Ông có hiểu ông đang làm
gì không?"
Những ngày đó còn mang tính chân thành vô cùng.
Maulingaputta nói, "Ông phải đấy. Tôi không biết chân
lí là gì qua kinh nghiệm, nhưng tôi có thể biện luận về
bất kì cái gì. Tôi đã được huấn luyện về biện luận." Ông
ấy là nhà nguỵ biện. Các nhà nguỵ biện có thể biện luận
hoặc ủng hộ hoặc chống lại, không thành vấn đề gì cả.

4
Ở Hi Lạp, trước Socrates, không có triết học, mà
chỉ có nguỵ biện. Các thầy giáo đi lang thang để dạy cho
mọi người việc biện luận. Không quan trọng nó là vấn đề
gì, và việc bạn phải hay trái cũng không liên quan. Điều
liên quan là liệu bạn có cách biện luận nặng kí hơn kẻ
khác không.
Socrates đã thay đổi toàn bộ lịch sử của triết học ở
phương Tây. Ông ấy nói rằng điều này là tuyệt đối ngu
xuẩn. Chỉ thành thạo hơn về mặt logic không có nghĩa là
bạn có chân lí. Ai đó có thể có chân lí... và điều có khả
năng hơn là người có chân lí thậm chí có thể không có
khả năng nói ra điều đó. Vấn đề về việc biện luận về nó,
vì nó, không nảy sinh. Người đó thậm chí có thể không
tìm được ra từ để truyền đạt nó.
Phật nói với Maulingaputta, "Nếu ông thực sự là
người tìm kiếm chân lí, thế thì ngồi xuống cạnh ta trong
hai năm đi, cứ dường như là ông không có đó - không
câu hỏi, không trao đổi - và sau hai năm ta sẽ nhắc ông
rằng ngày đó đã tới; bây giờ ông có thể thách thức ta."
Vào lúc này Ma ha ca diếp, người đã ở đó trong ba
mươi năm cùng Phật, đột nhiên bật ra tiếng cười ha hả.
Toàn thể hội chúng mười nghìn sư không thể tin được
vào điều đó: người này chưa từng nói ra một lời với bất
kì ai, thậm chí cả với Phật. Ông ấy thậm chí chưa hề tới
chạm chân Phật hay nói lời chào. Ông ấy vẫn cứ ngồi xa
xa dưới gốc cây của mình. Ông ấy độc chiếm cây này và
không ai khác có thể ngồi đó. Điều gì đã xảy ra mà bỗng
nhiên ông ấy lại bắt đầu cười to thế? Maulingaputta nói,
"Có chuyện gì vậy?"
Phật nói, "Ông có thể tự mình hỏi ông ấy."
Ma ha ca diếp nói, "Vấn đề đơn giản thôi. Người
này, Phật Gautam, đang lừa ông ông đấy. Ông ấy đã lừa

5
tôi; ông ấy cũng bảo tôi im lặng trong hai năm. Bây giờ
ba mươi năm đã qua, và câu hỏi không nảy sinh. Im lặng
của tôi đã sâu sắc. Bây giờ tôi biết tôi là ai. Tôi biết
chính đỉnh cao của tâm thức tôi. Không phải là tôi đã tìm
thấy câu trả lời nào - không có câu hỏi và không có câu
trả lời, chỉ im lặng sáng tỏ thuần khiết.
"Cho nên nếu ông muốn hỏi ông ấy, tất cả chúng
tôi đều được hưởng. Ông có thể hỏi, nhưng đây là lúc để
hỏi. Đừng đợi hai năm nữa. Đó là lí do tại sao tôi đã
cười: lần nữa ông ấy lại quay về với cái mẹo của mình.
Có nhiều người ở đây họ tới với cùng ham muốn đó" -
Sariputra4 và Moggalayan và các triết gia lớn khác của
thời đó đã tới với cùng ham muốn thảo luận - "nhưng rào
chắn của hai năm im lặng này là rất nguy hiểm. Nếu ông
muốn hỏi cái gì bây giờ, thì ngay bây giờ là lúc đấy. Đó
là lí do tại sao tôi lại cười."
Maulingaputta đã đem tới một đoá sen đẹp làm quà
tặng cho Phật Gautam. Phật gọi Ma ha ca diếp và trao
đoá hoa sen cho ông ấy. Điều này được gọi trong truyền
thống Thiền là "việc truyền trao thứ nhất." Không cái gì
đã được nói, nhưng mọi thứ đã được nghe. Im lặng của
Ma ha ca diếp và tiếng cười như trẻ con của ông ấy là đủ
chứng tỏ ông ấy đã tìm thấy nó. Việc trao đoá sen cho
Ma ha ca diếp là sự xác nhận.
Theo cách này Ma ha ca diếp đã trở thành tổ thứ
nhất của truyền thống Thiền. Sau ông ấy đã có sáu người
khác. Cứ tiếp nối từ thầy sang đệ tử ngọn lửa này đã
được truyền trao trong im lặng. Người thứ sáu là đàn bà,
và Bồ đề đạt ma là đệ tử của bà ấy. Đó là những ngày
vàng - khi đàn bà, đặc biệt ở phương Đông, không bị coi
là kém hơn đàn ông. Bà ấy có thể trở thành thầy. Bà ấy
đã truyền trao hiểu biết của mình cho Bồ đề đạt ma bảo
4
Sariputra: Xá lợi phất

6
ông ấy, "Công việc của ông là vượt qua Himalayas và đi
tới Trung Quốc."
Đó là một nhiệm vụ khó khăn, trước hết, đi bộ vượt
qua Himalayas. Phải mất ba năm để Bồ đề đạt ma đáng
thương tới được Trung Quốc. Và thế rồi rào chắn lớn
nhất là ở chỗ ông ấy không biết tiếng Trung Quốc - mà
cho dù bạn có biết tiếng Trung Quốc thì điều đó cũng
khó - nhưng ông ấy đã làm được. Ông ấy dần dần được
bao quanh bởi những người thực sự khao khát.
Tất cả mọi điều xảy ra là ông ấy ngồi im lặng đối
diện với bức tường. Ông ấy đã ngồi chín năm liên tục, và
những người muốn ngồi sẽ tới và ngồi quanh ông ấy. Chỉ
ngồi quanh ông ấy không ngôn ngữ, không trao đổi,
năng lượng nào đó bắt đầu chuyển động. Cái gì đó bắt
đầu xảy ra cho mọi người. Cách sống của họ thay đổi,
cuộc sống của họ trở thành duyên dáng và cái đẹp.
Sau mười bốn năm Bồ đề đạt ma rời khỏi Trung
Quốc để biến mất trong Himalayas. Bây giờ ông ấy quá
già rồi. Bạn không thể tìm được một nơi nào tốt hơn
Himalayas để biến mất - im lặng hoàn toàn, tuyết vĩnh
cửu không bao giờ tan, hàng nghìn nơi mà chưa ai đã
bao giờ đạt tới.
Trước khi ra đi ông ấy gọi bốn đệ tử của mình tới
và bảo họ, "Ta sắp sửa ra đi đây, thời điểm của ta đã tới.
Thân thể này không thể chứa đựng được ta thêm nữa.
Chẳng mấy chốc tâm thức ta sẽ giang đôi cánh và sẽ ra
đi. Trước khi điều đó xảy ra, ta muốn tới Himalayas. Ta
đã gọi cả bốn ông lại, một trong các ông sẽ là người kế
tục của ta. Cho nên đây là phép thử lớn lao. Ta sẽ hỏi
cùng một câu hỏi cho cả bốn ông. Ai là người kế tục của
ta sẽ tuỳ thuộc vào câu trả lời của các ông."

7
Bồ đề đạt ma hỏi, "Điều bản chất của việc ta từ Ấn
Độ tới Trung Quốc là gì?"
Người thứ nhất nói, "Thầy đã tới để truyền bá kinh
nghiệm vĩ đại của Phật Gautam."
Bồ đề đạt ma nói, "Ông đúng đấy, nhưng vừa đủ
thôi. Ông chỉ là bộ da của ta. Ngồi xuống đi."
Ông ấy nhìn sang đệ tử tiếp, người này nói, "Việc
thầy tới Trung Quốc nghĩa là đem chính cuộc cách mạng
trong bản thể bên trong nhất từ vô thức tới tâm thức."
Bồ đề đạt ma nói, "Có tốt hơn chút ít, nhưng vẫn
chưa thoả đáng. Ngồi xuống đi."
Ông ấy nhìn vào đệ tử thứ ba, và đệ tử thứ ba này
nói, "Thầy đã tới để truyền bá điều không thể được nói
ra."
Bồ đề đạt ma nói, "Ông có tốt hơn nhiều so với hai
người kia. Nhưng ngay cả việc nói điều này cũng là
nhiều rồi, rằng không gì có thể được nói ra về nó. Ngồi
xuống đây. Người thứ nhất được da ta, người thứ hai
được xương ta, ông được thịt ta."
Ông ấy nhìn vào người thứ tư, người này chỉ có
nước mắt của lòng biết ơn và niềm vui sụp lạy dưới chân
Bồ đề đạt ma mà không nói lời nào.
Bồ đề đạt ma bảo người đó, "Ông được chính tuỷ
ta, ông là đệ tử được chọn của ta. Điều người khác không
thể nói được bằng lời ông đã nói bằng nước mắt của
mình. Điều người khác không thể nói được bằng những
câu có ý nghĩa, ông đã phát biểu bằng lòng biết ơn của
mình."
Lâm Tế tới sau vài tổ nữa. Và cũng như Bồ đề đạt
ma đã được thầy mình phái đi, thầy của Lâm Tế đã phái
ông ấy sang Nhật Bản. Đó lại là cùng khó khăn đó,

8
nhưng cũng như Ma ha ca diếp đã thành công và Bồ đề
đạt ma đã thành công, Lâm Tế cũng đã thành công trong
việc tạo ra im lặng, trong việc quay mọi người vào bên
trong.
Thông điệp này không mang tính ngôn ngữ.
Thông điệp này mang tính tồn tại.
Thầy chỉ có thể tạo ra tình huống nào đó, phương
sách nào đó mà, nếu bạn cho phép, nếu bạn cảm nhận,
bạn có thể được biến đổi. Biến đổi này gần như là chết
và phục sinh. Nhân cách cũ của bạn sẽ phai nhoà đi; mặt
nguyên thuỷ của bạn sẽ hiện ra.
Mặt bạn đang mang ngay bây giờ là do xã hội trao
cho bạn, do văn hoá, do giáo dục, do cha mẹ trao cho
bạn. Nhân cách của bạn không phải là cái nguyên thuỷ
của bạn; cái nguyên thuỷ của bạn đã bị che đậy bằng đủ
mọi loại dối trá, qui ước của xã hội và những nguyền lợi
được đầu tư.
Sống cùng thầy nhân cách của bạn sẽ bị mấ đi như
lá khô rụng xuống. Bạn sẽ trần trụi hoàn toàn, như bạn
đã được sinh ra. Mọi tri thức bạn đã vay mượn sẽ biến
mất. Bạn sẽ hồn nhiên như trẻ thơ. Trong hồn nhiên này
không cần nói gì cả.
Đó là điều đã xảy ra cho Maulingaputta. Sau hai
năm ông ấy đã hoàn toàn quên bẵng về thời gian. Hai
năm đó là của im lặng thế.... Trong vài ngày ông ấy còn
đếm, thế rồi ông ấy vứt bỏ ý tưởng đếm. Trong vài ngày
ý nghĩ thoáng qua tâm trí ông ấy, nhưng chúng có thể
thoáng qua được bao lâu...? Nếu bạn không quan tâm tới
chúng, nếu bạn chỉ là gương, chúng tới như mây và đi
mất, không để lại dấu vết gì đằng sau. Sau hai năm ông
ấy hồn nhiên thuần khiết thế - không câu hỏi, không câu
trả lời, không tranh luận, không thách thức. Tất cả những

9
cái đã là bộ phận của nhân cách đã tan chảy ra trong hai
năm này sống trong trường năng lượng của phật.
Bản thân Phật cũng bảo Maulingaputta, "Ông quên
rồi sao? Hôm nay là tròn hai năm rồi đó. Bây giờ nếu
ông muốn thách thức ta, nếu ông muốn hỏi bất kì câu hỏi
nào và thảo luận bất kì cái gì, ta sẵn sàng đây."
Maulingaputta chạm chân Phật và nói, "Ma ha ca
diếp phải đấy. Tôi không còn nữa; ai có đó để mà thách
thức thầy? Tôi không còn nữa; ai sẽ hỏi câu hỏi và ai sẽ
nghe câu trả lời? Hai năm này đã trôi qua nhanh thế. Cứ
dường như hôm nọ tôi mới tới đây. Thầy đã làm phép
màu."
Phật nói, "Ta không làm gì cả. Chỉ sống trong sự
hiện diện của ta, dần dần trái tim ông bắt đầu trong sự
đồng bộ nào đó với trái tim thầy. Từng bước một ông tan
ra trong hơi ấm và tình yêu của thầy. Đây đã là kinh
nghiệm của ta - rằng ít nhất hai năm là thời gian cần thiết
để hoàn thành quá trình này. Thứ lỗi cho ta khi giữ ông
phải chờ đợi trong hai năm, nhưng không có cách nào
khác để đạt tới trái tim từ trái tim, từ bản thể tới bản thể."
Lâm Tế đã làm cùng phép màu đó ở Nhật Bản, và
uy tín của ông ấy cực lớn bởi vì ở Nhật Bản Thiền đã đạt
tới đỉnh cao nhất. Hạt mầm được sinh ra ở Ấn Độ, trong
Phật Gautam. Nó đã được Ma ha ca diếp mang như đoá
hoa cho sáu thế hệ. Bồ đề đạt ma, người mang nó như
đoá hoa nở hết sang Trung Quốc, là người thứ bảy. Ngay
cả hoàng đế cũng tới đón Bồ đề đạt ma; danh tiếng của
ông ấy đã vang vọng tới đó từ trước khi ông ấy tới.
Nhưng hoàng đế không thể hiểu được cách thức của
Thiền.

10
Thiền có cách thức nào đó, cách tiếp cận nào đó
không sẵn có cho bất kì tín ngưỡng tôn giáo nào khác.
Nó là duy nhất, mình nó một loại.
Hoàng đế Vũ đã tới từ nơi xa xôi, từ tận kinh đô ra
biên ải Trung Quốc để đón Bồ đề đạt ma. Ông ấy bị sốc
với điều mình nhìn thấy, vì Bồ đề đạt ma đang đội một
chiếc giầy trên đầu còn một chiếc thì ở dưới chân.
Lúc này, hoàng đế là người rất tinh tế; ông ấy có
triều đình lớn gồm những người rất có văn hoá. Cái loại
hành vi này... nhưng chỉ bởi vì sự tinh tế và văn hoá mà
ông ấy không thể nói được điều gì về việc đó cả. Thậm
chí ông ấy còn chưa được giới thiệu. Ông ấy đã tránh
việc nhìn chiếc giầy nằm trên đầu của Bồ đề đạt ma.
Hoàng đế hỏi - bởi vì ông ấy là người đã làm hàng
nghìn tượng Phật ở Trung Quốc, đã đem hàng nghìn học
sĩ từ Ấn Độ tới để cùng các học sĩ Trung Quốc dịch mọi
kinh sách Phật giáo sang tiếng Trung Quốc. Ông ấy đã
làm nhiều và đã cải đạo cả đất nước thành mảnh đất của
Phật. Hiển nhiên các sư hay nói với ông ấy, "Bệ hạ đã
tích luỹ quá nhiều công đức. Tất cả những hành động
đức hạnh này... vô vàn điều sẽ là phần thưởng cho bệ hạ
ở thế giới bên kia." Cho nên ông ấy đã hỏi Bồ đề đạt ma,
"Trẫm đã làm tất cả những điều này; phần thưởng của
trẫm sẽ là gì?"
Bồ đề đạt ma nói, "Ông ngốc thì có! Ông sẽ xuống
thẳng địa ngục. Ông còn đòi thưởng sao? Chính ý tưởng
về phần thưởng là tham. Chính ý tưởng thành đạt cái gì
đó không phải là phản ánh trí huệ của ông."
Hoàng đế choáng, triều đình ông ấy choáng - nhưng
bây giờ làm sao tránh đi được? Con người này không
phải là người đúng để đưa vào đất nước. Dầu vậy ông ấy
lại hỏi câu hỏi khác, không để ý tới ngôn ngữ xấc xược

11
mà Bồ đề đạt ma đã dùng. Ông ấy nói, "Thưa Trưởng
lão..." và ông ấy không thể nói hết câu của mình.
Bồ đề đạt ma nói, "Không có gì linh thiêng, không
có gì không linh thiêng. Tất cả đều là trống rỗng, chỉ cái
không thuần khiết. Những sự phân chia này của tâm trí,
thiêng liêng và báng bổ, linh thiêng và không linh thiêng,
thánh nhân và tội nhân, đều không tồn tại khi ông đi sâu
hơn vào thiền. Mọi phân chia biến mất. Cho nên đừng
gọi ta là 'Thưa Trưởng lão'; ta đã bỏ lại sau cái ngôn ngữ
trẻ con ấy của việc là linh thiêng, của việc là không linh
thiêng. trung thực."
Nhà vua nói, "Tâm trí tôi liên tục bị các ý nghĩ
quấy rối. Tôi đã đọc kinh Phật, và tất cả kinh đều nói
rằng chừng nào người ta chưa vô ý nghĩ và chưa hoàn
toàn nhận biết thì người ta sẽ không tìm thấy chân lí."
Bồ đề đạt ma đã nói một cách bất ngờ - ông ấy là
con người bất ngờ, bạn không thể dự kiến được hành vi
của ông ấy - ông ấy nói, "Nếu đó là vấn đề, thì sáng sớm
tới ta. Ta không vào Trung Quốc, ta sẽ sống bên ngoài
trong ngôi chùa nhỏ này. Ông có thể tới vào sáng sớm,
vào lúc ba giờ. Nhưng phải tới một mình - không triều
thần, không vệ sĩ, không vũ khí. Chỉ tới một mình, và ta
sẽ gạt mọi ý nghĩ khỏi tâm trí ông. Ta sẽ đem im lặng tới
cho tâm trí ông."
Hoàng đế rất sợ. Con người này dường như gần
điên. Cả đêm hoàng đế không thể ngủ được, cứ nghiêng
ngả giữa đi hay không đi, một mình "... Và con người đó
điên thế, để một chiếc giầy trên đầu, còn gọi mình là
'ngốc' nữa, và ông ta có chiếc thiền trượng lớn mà lại bảo
mình không đem vũ khí gì. Ông ta có thể làm mọi thứ:
ông ta có thể đánh mình, ông ta có thể ném đá" - hoàng
đế nghĩ đủ mọi thứ.

12
Nhưng đến lúc phải đi thì ông ấy cảm thấy một sức
hút lớn lao: "Bất kì điều gì ông ấy nói, mọi cách ông ấy
cư xử, ông ấy đều có sự hiện diện vô cùng và lực hút lớn
lao. Mình phải liều với việc này."
Ông ta đi tới ngôi chùa, còn Bồ đề đạt ma đang đợi
ông ấy. Bồ đề đạt ma nói, "Đó là vấn đề rất đơn giản.
Ông ngồi đây và ta ngồi ngay trước ông. Ông thấy cây
thiền trượng của ta rồi đó - nếu ta cảm thấy ý nghĩ nào
đó còn ngoan cố và không chịu rời khỏi ông, ta sẽ đánh
vào đầu ông. Công việc của ông chỉ là quan sát các ý
nghĩ của mình mà không có phán xét gì. Chỉ là một nhân
chứng."
Hoàng đế nghĩ, "Có lẽ mình đã lấy bước đi sai rồi.
Người này có thể đánh vào bất kì lúc nào, bởi vì tâm trí
mình đầy những ý nghĩ. Nhưng thôi thì ta cứ thử xem
sao, bởi vì mình đã tới. Chạy trốn bây giờ thực là hèn
nhát." Thế là ông ta ngồi trước Bồ đề đạt ma, chỉ quan
sát ý nghĩ của mình.
Việc quan sát ý nghĩ bao hàm không phán xét,
không ca ngợi, không đồng nhất. Chỉ quan sát như bạn
quan sát đám đông đi qua đường, hay bạn quan sát mây
bay trên trời - không phán xét. Tâm trí bạn chỉ là màn
ảnh. Vài đám mây lang thang; bạn đơn giản quan sát.
Bạn là người quan sát, và mọi thứ khác trên thế giới là
cái được quan sát.
Khi mặt trời buổi sáng mọc, toàn thể hào quang của
hoàng đế đã thay đổi. Chỉ trong hai giờ không ý nghĩ nào
còn lại. Việc chứng kiến là ngọn lửa, ngọn lửa duy nhất
có thể đem bạn tới chân lí của mình, ngọn lửa có thể
thiêu đốt đi mọi cái giả dối của bạn, mọi đồ dỏm của
bạn. Bồ đề đạt ma đã thấy khuôn mặt thay đổi, duyên
dáng mới phát sinh. Ông ấy lay hoàng đế và hỏi, "Còn ý
nghĩ nào nữa không?"

13
Hoàng đế cúi lạy dưới chân ông ấy và nói với ông
ấy, "Ông chắc chắn đã làm điều đó! Ta cầu xin ông,
đừng bỏ Trung Quốc đi. Tất cả những học giả và tu sĩ kia
đơn giản chỉ là lũ vẹt. Họ cứ nói mãi về chứng kiến và
quan sát, nhưng ông đã cho ta kinh nghiệm đó. Không
dạy ta về việc chứng kiến ông đơn giản đã làm ta thành
nhân chứng. Ta không cần cái gì nữa."
Khoảnh khắc bạn thấy nhân chứng của mình, thì
bạn đã tìm ra bản thể vĩnh hằng tối thượng của mình. Đó
là tâm thức thuần khiết nhất của bạn. Điều đó làm bạn
trở thành phật, và đó là tiềm năng của mọi người.
Lâm Tế đã tìm được cách biến đổi toàn thể kết cấu
của tâm thức Nhật Bản. Ông ấy đã làm nhiều hơn bất kì
ai khác. Ông ấy đã mang những chiều hướng mới vào
trong thiền. Điều đó không thể nào tin được nhưng ông
ấy đã tìm được cách biến đổi mọi thứ thành thiền. Chẳng
hạn cung thuật... Bây giờ, không ai có thể nghĩ rằng cung
thuật lại có thể là hành động thiền; nhưng Lâm Tế đã
duy trì mọi hành động đó trở thành thiền, nếu bạn làm nó
với nhận biết tràn đầy, chỉ như nhân chứng, không phải
là người làm.
Một chút ít lưu ý về Lâm Tế, thầy của điều phi lí.

Lâm Tế, cũng còn được biết với cái tên là Lin-
chi, được sinh ra vào đầu thế kỉ thứ chín và đã
trở thành người sáng lập ra một trong những
dòng thiền quan trọng nhất. Sáng dạ từ còn
nhỏ, về sau, khi Lâm Tế trở thành sư, ông ấy
đã học các kinh và kinh sách. Nhận thấy câu
trả lời không nằm trong kinh sách, ông ấy đã
đi hành hương, tới thăm Obaku5 và Daigu6,
5
Obaku: Hoàng Bá
6
Daigu: Đại Ngu

14
hai thầy lớn. Sau chứng ngộ của mình ông ấy
trở thành sư tại một ngôi chùa nhỏ bên bờ
sông Hu-t'o.

Maneesha đã hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Lâm Tế trở nên nổi tiếng là thầy của tiếng hét.
Điểm đặc thù của ông ấy bao gồm... ông ấy đã dùng
tiếng hét như phương pháp làm im lặng bạn - tiếng hét
bất thần.
Bạn đang hỏi về Thượng đế, bạn đang hỏi về thiên
đường, bạn đang hỏi về các vấn đề triết lí hay thần học
lớn lao và thầy lập tức hét lên. Tâm trí bạn bị sốc, gần
như cú sốc điện. Trong một khoảnh khắc bạn không có
đó, chỉ tiếng hét có đó. Trong một khoảnh khắc tâm trí
dừng lại, thời gian dừng lại - và đó là toàn bộ bí mật của
thiền.
Nhiều nhà huyền môn khắp trên thế giới đã dùng
âm thanh, nhưng theo cách rất hời hợt. Lâm Tế đã dùng
tiếng hét theo một cách cực kì sâu sắc. Tiếng hét của ông
ấy sẽ trở thành giống như lưỡi kiếm đi vào trong bạn,
xuyên vào chính trung tâm.
Bạn có thể hiểu... khi bạn hét Yaa-Hoo! tâm trí bạn
biến mất. Yaa-Hoo! không có nghĩa gì, nhưng hét nó bạn
bỗng nhiên bị ném về trung tâm riêng của mình, và một
khi bạn đã chạm vào trung tâm riêng của mình, cho dù

15
chỉ một thoáng nhìn đơn giản, thì cuộc sống của bạn đã
bắt đầu thay đổi.
Lâm Tế sẽ hét với đệ tử để cho họ kinh nghiệm đầu
tiên về việc định tâm của họ. Bạn vừa là chu vi vừa là
trung tâm. Bạn sống ở chu vi; tiếng hét đơn giản đẩy bạn
vào trung tâm. Một khi bạn kinh nghiệm việc ở trung
tâm, bỗng nhiên bạn thấy toàn thế giới thay đổi. Đôi mắt
bạn không còn như cũ nữa; sự sáng tỏ và trong suốt của
bạn là tuyệt đối. Bạn thấy cùng lá xanh đó lại xanh hơn,
cùng hoa hồng đó lại hồng hơn, cùng cuộc sống đó như
cuộc liên hoan, như lễ hội. Bạn sẽ thích nhảy múa.
Và thế rồi đệ tử, một khi họ đã biết rằng tiếng hét
có thể giúp cho họ đạt tới chính trung tâm mình... Đó là
cảnh tượng kì lạ khi Lâm Tế bắt đầu chấp nhận đệ tử ở
gần sông. Các đệ tử sẽ hét ở khắp thung lũng, và thung
lũng vang vọng những tiếng hét đó. Từ xa nhiều dặm
đường bạn vẫn có thể biết được rằng mình đang ở đâu đó
gần Lâm Tế. Đấy không phải chỉ là ông ấy hét, việc hét
đó là phương pháp để ném bạn từ chu vi về trung tâm.
Có nhiều cách để ném bạn về trung tâm. Mọi cách
đều hợp lệ nếu bạn đạt tới trung tâm của mình, bởi vì
trung tâm của bạn là phần bất tử duy nhất trong bạn. Mọi
thứ khác đều sẽ chết.
Hôm nay giáo sư Barks ở đây. Ông ấy đã làm một
việc lớn lao lắm trong việc dịch Rumi. Ông ấy đã tới gần
nhất có thể được, nhưng tôi cho rằng ông ấy không biết
toàn thể nỗ lực của Rumi thông qua việc xoay tít là để
tìm ra trung tâm. Nếu việc xoay tít của bạn kéo dài hàng
giờ, bạn dần dần sẽ thấy rằng cái gì đó ở chính trung tâm
lại không chuyển động chút nào, và cái đó là bạn. Thân
thể bạn xoay tít, nhưng tâm thức bạn là cây cột ánh sáng.

16
Rumi đạt tới chứng ngộ đầu tiên của ông ấy qua
việc xoay tít trong ba mươi sáu giờ liên tục. Mọi người
nghĩ ông ấy điên. Thậm chí ngày nay một nhóm nhỏ
những người đi theo ông ấy vẫn còn tiếp tục. Họ được
gọi là các thầy tu xoay tít. Nhưng vấn đề là một: khi
xoay tít, toàn bộ thân thể bạn trở thành cơn lốc, và bản
thân việc chứng kiến của bạn trở thành trung tâm. Mọi
thứ đều quay xung quanh bạn, nhưng trung tâm vẫn còn
bất động. Việc biết tới trung tâm bất động này là biết tới
chính chìa khoá chủ của mọi bí ẩn của cuộc sống.
Lâm Tế không có ý tưởng gì về Rumi, mà Rumi
cũng không có ý tưởng nào về Lâm Tế, nhưng cả hai đều
làm việc theo cùng một phương lược - bằng cách nào đó
buộc bạn về trung tâm. Khi tâm thức bạn trở thành sâu
sắc hơn, khi việc đi về trung tâm trở thành điều dễ dàng
cũng giống như bạn đi vào và đi ra nhà mình, bạn đã trở
thành phật.
Thế rồi chậm rãi, từ từ trung tâm của bạn bắt đầu
thay đổi chu vi của bạn. Thế thì bạn không thể bạo hành
được, thế thì bạn không thể mang tính phá huỷ được; thế
thì bạn là tình yêu. Thế thì bạn im lặng, thế thì bạn là
chân lí, ngay cả cái cũ bạn có, nay đã biến mất. Cái đó là
chu vi của bạn, cái đó là cơn lốc đã qua. Bây giờ, chỉ
trung tâm là còn lại.
Phương pháp của Lâm Tế đơn giản hơn phương
pháp của Rumi nhiều. Rất ít người có khả năng xoay tít
hàng giờ, nhưng hét là phương pháp đơn giản hơn. Bất kì
ai cũng đều có thể hét và hét hết lòng, và điều đó có thể
rất mạnh mẽ và khẩn thiết. Việc xoay tít sẽ làm bạn mất
hàng giờ để tìm ra trung tâm; việc hét, chỉ một phần giây
thôi và bạn ở ngay trung tâm.

17
Giai thoại này...

Lâm Tế trở nên nổi tiếng là thầy của tiếng hét.


Một lần, một sư hỏi, "Nguyên lí chính của
Phật pháp là gì?"

Bây giờ, ông ấy đang hỏi điều gì đó quan trọng.


Nguyên lí chính của tôn giáo của Phật là gì?

Lâm Tế hét - Sư cúi lạy.


"Ông nói đó là tiếng hét tốt sao?" Lâm Tế hỏi.
Sư bình luận: "Tên cướp trong đồng cỏ đã
gặp thất bại hoàn toàn."
"Bực mình của ta là gì?" Lâm Tế hỏi.
Sư đáp, "Điều đó sẽ không được tha thứ lần
thứ hai."
Lâm Tế lại hét.

Tiếng hét thứ nhất của Lâm Tế là hoàn toàn tốt. Sư


này cúi lạy bởi vì ông ta cảm thấy nhẹ nhõm lớn lao qua
việc đi từ chu vi vàp trung tâm. Nhưng Lâm Tế vẫn còn
chút ít hoài nghi. Bởi vì mọi thứ trên thế giới này đều trở
thành truyền thống, nên ngay cả việc Lâm Tế hét và bạn
phải cúi lạy để chứng tỏ rằng bạn đã hiểu điều đó, rằng
điều đó đã đạt tới trung tâm bạn, cũng bắt đầu trở thành
truyền thống. Điều đó đã thành truyền thống.
Điều này là rất không may. Mọi thứ đều trở thành
thói quen, nghi lễ, truyền thống, và mất đi mọi ý nghĩa.
Bây giờ, việc cúi lạy của ông ấy có thể đúng hay có thể
chỉ là kiểu cách. Đó là lí do tại sao Lâm Tế lại hỏi, "Ông
nói đó là tiếng hét tốt sao?"

18
Sư bình luận: "Tên cướp trong đồng cỏ đã
gặp thất bại hoàn toàn."

Ông ấy ngụ ý gì bởi điều này? Sư này đang nói,


"Ông đã không thành công rồi. Việc hét của ông đã lỡ."

Sư bình luận: "Tên cướp trong đồng cỏ đã


gặp thất bại hoàn toàn."
"Bực mình của ta là gì?" Lâm Tế hỏi.
Sư đáp, "Điều đó sẽ không được tha thứ lần
thứ hai."

Sư này đang nói, "Việc hét của ông lỡ rồi." Ông ấy


không nó rằng việc hét vào ông ấy lần thứ hai sẽ không
được tha thứ; ông ấy đang nói, "Thất bại của ông sẽ
không được tha thứ - Điều đó sẽ không được tha thứ lần
thứ hai. Lần thứ nhất tôi tha cho ông; ông lỡ, ông đã
không đạt tới trung tâm của tôi. Tôi cúi lạy bởi vì ông đã
cố gắng, ông đã cố gắng vất vả. Nhưng lần thứ hai điều
đó sẽ không được tha thứ."
Bất kì ai đọc điều đó sẽ nghĩ rằng ông ấy đang nói,
"Nếu ông hét lần thứ hai thì điều đó sẽ không được tha
thứ." Đấy không phải là trường hợp ở đây. Ông ấy đang
nói, "Thất bại của ông sẽ không được tha thứ lần thứ
hai."
Lâm Tế lại hét - và giai thoại này đột nhiên chấm
dứt. Sau tiếng hét này có im lặng. Tiếng hét thứ hai đã
thành công. Bây giờ sư này im lặng, Lâm Tế im lặng.
Đã có quá trình dài để đạt tới bản thân bạn, cũng
như yoga. Nhưng phương cách giống như của Lâm Tế
rất đơn giản, không đòi hỏi bất kì kỉ luật nào là điều tiên
quyết. Bất kì ai... không cần có tính cách nào đó, tốt hay

19
xấu, tội nhân hay thánh nhân, điều đó không thành vấn
đề. Điều thành vấn đề là đạt tới trung tâm, bởi vì tại
trung tâm bạn không là tội nhân cũng chẳng thánh nhân.
Việc bạn là tội nhân hay thánh nhân tất cả chỉ ở ngoại vi.
Toàn thể xã hội sống ở ngoại vi; tất cả mọi sự phân chia
của chúng ta đều rất bề ngoài.

Tôi nhớ tới một người đi theo lớn của Phật,


Nagarjuna7. Ông ấy sống trần. Có lẽ Nagarjuna là nhà
logic vĩ đại nhất đã bước đi trên trái đất này. Aristotle
không so sánh được với ông ấy, mà cả Shankara cũng
không so được; cách biện luận của Nagarjuna là tế nhị
nhất. Nhưng ông ấy quen sống trần - một con người
tuyệt vời - và thậm chí cả vua và hoàng hậu cũng là đệ tử
của ông ấy. Trong một kinh đô nào đó hoàng hậu đã là
đệ tử của ông ấy. Bà ta hỏi ông ấy, "Ông sẽ phải cho tôi
một ân huệ. Tôi muốn lấy đi bình bát ăn xin của ông."
Ông ấy nói, "Không có vấn đề gì. Bà có thể lấy
nó."
Bà ấy nói, "Đấy mới chỉ là một nửa của điều đó
thôi. Tôi đã chuẩn bị một bình bát xin ăn cho ông. Bình
bát này ông cho tôi; nó sẽ là món quà tặng, quí giá nhất
đối với tôi trên toàn thế giới. Và tôi đã làm một bình bát
mà ông không thể chối từ được, ông phải chấp nhận nó. "
Ông ấy nói, "Tôi chưa từng thấy nó."
Bà ấy nói, "Thấy hay không thấy không phải là vấn
đề. Trước hết, ông hứa với tôi rằng ông sẽ không chối từ
nó."
Thế là ông ấy nói, "Thôi được, tôi sẽ không chối từ
nó."
7
Nagarjuna: Long Thụ

20
Bà ấy đem ra chiếc bình bát, nó được làm bằng
vàng thỏi, nạm kim cương. Nagarjuna nói, "Bà không
hiểu tình huống. Dù tôi có chối từ nó hay không, tôi sẽ
không có khả năng giữ nó cho dù vài giờ. Một người trần
trụi mang bình bát làm bằng vàng thỏi, có nạm kim
cương lớn - bà cho rằng tôi có khả năng giữ được nó
sao? Nhưng tôi đã hứa rồi, cho nên tôi sẽ nhận nó."
Một tên trộm quan sát toàn bộ việc trao đổi này. Nó
đi theo Nagarjuna. Nó biết rằng ông này sống ngoài
thành phố trong một ngôi chùa hư nát, và mọi buổi trưa
sau khi ông ta đã kiếm được thức ăn, ông ta sẽ đi ngủ.
Đây là lúc rất tốt để lấy bình bát ăn xin này. Dẫu sao đi
chăng nữa, ai đó cũng sẽ lấy nó đi mà thôi...
Thế là nó tới và ẩn đằng sau tường bên cạnh cửa sổ
theo dõi để ai đó khác không vào bên trong. Nagarjuna
dọn chỗ ngủ và ông ấy hoàn toàn nhận biết rằng ai đó đã
theo mình.
"Sao phải giữ cho anh ta chờ đợi không cần thiết
thế? Đằng nào thì mình cũng sắp ngủ và anh ta sẽ lấy
bình bát ăn xin đi. Tốt hơn cả là đem bình bát cho anh ta.
Sao lại làm cho anh ta thành kẻ trộm?" Thế là ông ấy
ném bình bát ra ngoài cửa sổ nơi trên trộm đang ngồi.
Tên trộm không thể nào tin được vào điều đó. Đây
thực là một người kì lạ. Một ham muốn kì lạ dâng lên
trong tên trộm rằng chắc sẽ tốt lành nếu có chút thời gian
ngồi dưới chân con người này, thế là anh ta từ ngoài cửa
sổ hỏi vào, "Tôi có thể vào được không?"
Nagarjuna nói, "Ông cho rằng ta đã ném bình bát
ăn xin để làm gì? - để đem ông vào đấy. Vào đi. Đấy chỉ
là lời mời." Tên trộm không thể nào hiểu nổi, nhưng rất
bị ấn tượng bởi người này.

21
Nagarjuna nói, "Ta đã không muốn làm ông thành
tên trộm, đó là lí do tại sao ta đã ném chiếc bình bát ăn
xin này. Bây giờ ông có thể lấy nó."
Tên trộm nói, "Nó quí giá thế; ông là con người có
quyền làm chủ lớn lao với bản thân mình. Tôi cũng hi
vọng một ngày nào đó tôi sẽ không là kẻ trộm mà là thầy
giống như ông."
Nagarjuna nói, "Sao trì hoãn điều đó? Đó là bí mật
rất đơn giản. Ông có thể trở thành thầy."
Ông ta nói, "Ông không hiểu. Tôi là tên trộm. Tôi
không thể cưỡng lại cám dỗ."
Nagarjuna nói, "Điều đó không thành vấn đề chút
nào. Ông có thể vẫn còn là tên trộm. Ta sẽ cho ông việc
thiền nhỏ: bất kì điều gì ông làm, cho dù ông có đi ăn
trộm trong cung điện, là nhân chứng cho điều ông đang
làm. Ta không muốn ông không là tên trộm; làm bất kì
điều gì ông muốn làm, nhưng làm nó với nhận biết tràn
đầy. Chỉ là nhân chứng."
Ông ta nói, "Điều này dường như đơn giản. Tôi đã
tới nhiều thánh nhân. Họ nói, 'Trước hết ông vứt bỏ việc
ăn trộm, bằng không thì ông không thể mang tính tôn
giáo được.' Ông là người đầu tiên không yêu cầu tôi vứt
bỏ việc ăn trộm."
Nagarjuna nói, "Những thánh nhân đó mà ông đã
gặp không phải là thánh nhân. Không vị thánh nào sẽ
yêu cầu ông vứt bỏ việc ăn trộm. Tại sao? Làm điều đó
thật hoàn hảo đi. Chỉ vẫn còn là nhân chứng."
Tên trộm không thể nào hiểu nổi phương cách này.
Sau ba hay bốn ngày ông ta quay lại với Nagarjuna và
nói, "Ông rất khôn. Trong bốn ngày này đã có biết bao
nhiêu cơ hội để ăn trộm, nhưng khi tôi đi ăn trộm, lấy cái

22
gì đó, thì ngay lập tức tay tôi lại buông lỏng ra. Khoảnh
khắc tôi chứng kiến bản thân mình thì việc ăn trộm
dường như ngượng nghịu tới mức tôi phải rụt tay lại.
Trong bốn ngày tôi đã không có khả năng ăn trộm cái gì
cả."
Nagarjuna nói, "Bây giờ đấy là vấn đề của ông; ta
không liên quan gì tới điều đó cả. Ông có thể chọn lựa.
Ông có thể chọn việc chứng kiến, hay ông có thể chọn
việc ăn trộm."
Người này nói, "Chỉ trong bốn ngày này tôi đã có
khả năng cảm thấy chân giá trị riêng của mình. Tôi
không thể bỏ được việc chứng kiến. Tôi tới với ông."
Điều việc chứng kiến làm là ném bạn trở lại trung
tâm của mình. Ở trung tâm bạn là phật. Ở ngoại vi, bạn
là ai không thành vấn đề. Một khi bạn bắt đầu sống tại
trung tâm, dần dần chu vi của bạn sẽ biến đổi mầu sắc
của nó. Nó sẽ trở thành thuần khiết như bạn tại trung
tâm. Nó sẽ trở thành từ bi như bạn ở tại trung tâm. Nó sẽ
đem mọi hương thơm của trung tâm vào mọi hoạt động
của bạn.
Tôn giáo đích thực không thuyết giảng về đạo đức.
Đạo đức tới theo cách riêng của nó. Tôn giáo đích thực
dạy bạn được định tâm vào bản thân bạn. Thế thì mọi thứ
tốt sẽ theo đó, và cái xấu đơn giản không phát sinh. Đấy
không phải là vấn đề chọn lựa; một cách vô chọn lựa thì
bạn là tốt. Không phải là bạn đang là người tốt; bạn
không thể khác được.
Đây là phép màu của Thiền.
Thiền đơn giản nghĩa là chứng kiến.
Những tiếng hét này ném bạn về trung tâm, và một
khi bạn đã học được cách ở trung tâm, bạn sẽ biết rằng ở

23
ngoại vi bạn bao giờ cũng là kẻ ăn xin, tại trung tâm bạn
bao giờ cũng là hoàng đế. Và ai muốn là kẻ ăn xin? Tôn
giáo là giả kim thuật của việc biến đổi kẻ ăn xin thành
hoàng đế.
Một nhà thơ Thiền lớn, Ikkyu8, đã viết:

Người điên kì quái,


Thổi lên cơn gió kì quái,
Vẩn vơ đây đó,
Giữa những tiệm thổ và tiệm rượu.
Sư chứng ngộ nào
Có thể sánh được với ta
cho dù chỉ một lời?
Ta vẽ phương nam; ta vẽ phương bắc;
Ta đang vẽ phương tây và phương đông.

Ông ấy đang nói "Mọi người coi ta là điên..."


Người điên kì quái, thổi lên cơn gió kì quái, vẩn vơ đây
đó, giữa những tiệm thổ và tiệm rượu.
Phật đích thực không sợ nhà thổ và tiệm rượu. Các
thánh nhân sợ hãi mới thực là những người bị kìm nén;
họ không phải là những người được biến đổi.
Sư chứng ngộ nào có thể sánh được với ta?
Phật có thể đi với tự do tuyệt đối nơi bãi chợ.
Những người từ bỏ thế giới là những kẻ hèn nhát, kẻ trốn
chạy, và họ đã phá huỷ mọi tôn giáo trên thế giới. Mọi
tôn giáo đều trong tay của những kẻ hèn nhát.
Người tôn giáo đích thực là sư tử, và người đó định
tâm trong bản thân mình tới mức người đó không lo nghĩ
về việc ở bất kì đâu. Người đó chắc chắn về sự thuần
khiết của mình, về vĩnh hằng của mình, về tính thiêng
8
Ikkyu: Nhất Hưu Tông Thuần

24
liêng của mình mà người đó biết rằng nếu kẻ trộm có tới
mình, chính kẻ trộm sẽ phải thay đổi; nếu gái mãi dâm
có tới mình, chính gái mãi dâm sẽ phải thay đổi.
Cái gọi là các thánh nhân của chúng ta sao mà sợ
hãi nhiều thế. Nỗi sợ của họ chỉ ra sự kìm nén của họ.
Người kìm nén không phải là người tôn giáo; người đó
đơn giản ốm yếu, người đó cần trị liệu tâm thần.

Maneesha đã hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Tình yêu của chúng tôi với âm nhạc, thơ ca,
điệu vũ, tình yêu của chúng tôi vì bản thân
tình yêu - điều đó chẳng gợi ý về sự thôi thúc
trong chúng tôi để biến mất sao? Nếu điều đó
là như vậy, thì sao thiền, nghệ thuật làm biến
mất, lại không tới với chúng tôi một cách tự
nhiên hơn?

Maneesha, âm nhạc, thơ ca, điệu vũ, tình yêu chỉ là


nửa đường thôi. Bạn biến mất trong một khoảnh khắc,
thế rồi bạn trở lại. Và khoảnh khắc này nhỏ bé thế...
Cũng như một vũ công vĩ đại, Nijinsky, đã nói,
"Khi điệu vũ của tôi đi tới cao trào của nó, tôi không còn
nữa. Chỉ điệu vũ còn đó." Nhưng điều đó xảy ra chỉ cho
những khoảnh thời gian nhỏ bé; thế rồi bạn trở lại.
Theo tôi, tất cả những điều này - thơ ca, âm nhạc,
điệu vũ, tình yêu - là thứ thay thế nghèo nàn cho thiền.

25
Chúng là tốt, đẹp, nhưng chúng không phải là thiền. Và
thiền không tới một cách tự nhiên cho bạn đâu, bởi vì
trong thiền bạn sẽ phải biến mất mãi mãi. Không có việc
quay trở lại. Điều đó tạo ra nỗi sợ.
Thiền là cái chết - cái chết của tất cả những cái bạn
đang là bây giờ. Tất nhiên sẽ có tái sinh, nhưng đó sẽ là
con người nguyên thuỷ tươi tắn, hoàn toàn mới mà bạn
thậm chí còn không nhận biết đang ẩn kín bên trong bạn.
Điều xảy ra trong thơ ca, trong âm nhạc, trong điệu
vũ chỉ trong một khoảnh khắc nhỏ mà bạn trượt ra khỏi
nhân cách của mình và chạm vào cá nhân của mình.
Nhưng chỉ bởi vì nó xảy ra cho một khoảnh khắc nhỏ,
nên bạn không sợ; bạn bao giờ cũng quay lại.
Trong thiền, một khi bạn đi vào, bạn đi vào hẳn.
Thế thì, cho dù khi bạn phục sinh bạn cũng là con người
hoàn toàn khác. Nhân cách cũ không còn tìm thấy được
ở đâu nữa. Bạn phải bắt đầu cuộc sống của mình lại từ
ABC. Bạn phải học mọi điều với đôi mắt tươi tắn, với
trái tim hoàn toàn mới. Đó là lí do tại sao thiền tạo ra nỗi
sợ.

Upanishads nói rằng thầy là cái chết. Đó là một


phát biểu không đầy đủ. Thầy là cái chết nhưng cũng là
tái sinh, phục sinh. Thầy không là gì khác hơn việc thiền.
Thầy đơn giản cho bạn việc thiền; thầy không thể làm gì
khác được. Thầy cho bạn việc thiền để chết đi và được
tái sinh.
Thiền nhân có thể chơi nhạc và điều đó sẽ có ý
nghĩa hoàn toàn khác. Thiền nhân có thể làm thơ, nhưng
thế thì thơ ca sẽ không chỉ là việc soạn lời. Nó sẽ diễn
đạt cái gì đó không thể diễn đạt nổi. Thiền nhân không

26
thể làm gì, nhưng thầy sẽ mang cho nó duyên dáng mới,
cái đẹp mới, ý nghĩa mới.
Âm nhạc, thơ ca, điệu vũ hay tình yêu có thể trở
thành cản trở cho thiền nếu bạn dừng lại ở chúng. Trước
hết tới thiền, và thế rồi bạn có thể tạo ra thơ ca lớn và âm
nhạc lớn. Nhưng bạn sẽ không là người sáng tạo; bạn sẽ
chỉ là chiếc sáo tre hổng. Vũ trụ sẽ hát bài ca qua bạn, sẽ
nhảy múa điệu vũ qua bạn. Bạn sẽ chỉ là một địa chỉ - tại
chỗ bạn. Sự tồn tại sẽ tự diễn đạt bản thân nó, còn bạn sẽ
chỉ là cây tre hổng.
Thiền làm bạn thành cây tre hổng; thế thì bất kì cái
gì xảy ra qua tính hổng đó, trái tim trống rỗng đó thuộc
vào bản thân sự tồn tại. Thế thì sự tồn tại hát lên các bài
ca. Có vài bài ca mà sự tồn tại...
Chẳng hạn, trong Kinh Thánh, kinh Cựu Ước, Bài
ca về Solomon là mang tính tồn tại. Điều rất kì lạ là
người Do Thái thậm chí không muốn nhắc tới Bài ca về
Solomon. Họ rất lo âu nếu ai đó phát hiện ra bài ca này.
Nó hay thế, đích thực thế và đúng nữa, nhưng trong thế
giới của cái giả này, cái nguỵ tạo này, cái giả dối này, thì
bất kì cái gì đích thực cũng đều bị hoài nghi.
Upanishads, Sách về Đạo hay Sách về Mirdad, rất
ít tác phẩm điêu khắc... một số bản nhạc cổ điển - một
vài mẩu đã giáng xuống từ bản thân sự tồn tại và nhạc sĩ
đã chỉ là một nhạc cụ, người đó đã cho phép nó thành
hình, lấy hình dạng qua người đó. Khi có liên quan tới
tôi, thơ ca và âm nhạc và tình yêu và điệu vũ là những
hoạt động mang tính tôn giáo nhiều hơn cái gọi là những
nghi lễ tôn giáo, bởi vì ít nhất chúng cũng cho bạn một
thoáng nhìn nho nhỏ. Nếu bạn đi theo thoáng nhìn đó thì
bạn sẽ đi vào trong thiền.

27
Thiền không trực tiếp và tự nhiên hấp dẫn bạn bởi
vì nỗi sợ lớn về cái chết. Bạn không biết sau cái chết liệu
sẽ có phục sinh hay không. Đó là nơi mà thầy được cần
tới để cho bạn lời hứa hẹn, niềm tin cậy: "Đừng lo. Cái
mà chết đi không phải là bạn, còn cái đang nảy sinh là
bản thể nguyên thuỷ của bạn."
Nhưng bạn có thể có thầy chỉ nếu bạn có thể tin cậy
vào ai đó. Đó là việc đi vào những con đường rất nguy
hiểm. Thiền là điều nguy hiểm nhất. Bạn cần ai đó đã đi
trên con đường này rồi, người đã bước đi trên con đường
đó, đi tới và lui. Bạn cần ai đó có thể tạo ra dũng cảm,
động viên và tin cậy trong bạn để bạn có thể lấy bước
nhảy lượng tử.
Bây giờ là lúc của Sardar Gurudayal Singh.

Một sáng Nancy Reagan đang phân loại đồ giặt giũ


thì bắt gặp một chiếc áo sơ mi trắng của Ronald. Dường
như là bút bi của Ronnie bị vỡ, và nó làm loang mầu đỏ
bẩn với một tâm điểm đen trên túi ngực áo sơ mi.
Khi Nancy đưa chiếc áo này cho thợ giặt Trung
Quốc, Wank, anh ta giơ nó lên, và nhìn vào vết nhơ vài
phút. Thế rồi gật gật đầu chấp thuận, Wank nói với
Nancy, "Cú bắn khá đấy!"

Ronald Reagan bị đem ra toà vì bị buộc tội quấy


nhiễu con vượn cái tại vườn bách thú Washington. Ông
ta bị kết tội nhanh chóng theo một quyết định nhất trí.
Sau đó, quan toà già Grump nhìn vào Reagan và
nói, "Thưa ngài tổng thống, ngài còn điều gì để nói cho
toà trước khi tôi đọc lời phán quyết cho ngài không?"

28
"Thưa quí toà," ông tổng thống lão suy nói, "chỉ
một điều thôi: Nếu tôi mà biết sẽ có sự nhặng sị về tất cả
những điều này, thì tôi đã cưới con mụ đó rồi!"

Cha Dingle đi tới Jerusalem vào ngày nghỉ để xem


tất cả thánh tích linh thiêng. Do tò mò, ông ấy tới thăm
bệ thờ Do Thái nổi tiếng, bức tường Wailing. Khi ông ấy
tới đó, ông ấy quan sát hết sức kinh ngạc khi tất cả mọi
người Do Thái cầu nguyện như điên, vung tay và tóc mai
cuốn theo gió thoảng.
Bỗng nhiên, ông ấy để ý tới một người đứng hoàn
toàn bình thản, nói năng nhỏ nhẹ với bức tường, không
có bất kì cử chỉ điên dại nào. Điều đó là kì lạ bởi vì
người Do Thái không thể nói mà không vung tay. Cha
Dingle đi tới người đó và tự giới thiệu mình.
"Xin chào ông! tên tôi là Cha Dingle," ông linh
mục nói, "và tôi không thể đừng mà để ý rằng phương
pháp cầu nguyện của ông có khác với mọi người khác
quanh đây."
"Cầu nguyện sao?" Moishe, ông già Do Thái nói.
"Ai cầu nguyện? Tôi đang nói với Thượng đế đấy chứ!
Tôi đang xin lời khuyên của ngài."
"Ô!" Cha Dingle nói với vẻ ngạc nhiên. "Thôi
được, tôi không muốn chõ mũi vào nhưng loại lời
khuyên gì vậy?"
"Đủ mọi kiểu lời khuyên," Moishe đáp. "Như thế
này: Con có nên để con trai mình đi tới Pune không?
Con có nên để con gái mình cưới Herno-good, cậu bạn
trai người Mĩ không? Làm sao thuyết phục vợ con
Ruthie phiêu lưu nhiều hơn trên giường? - những thứ đại
loại như vậy đấy."

29
"Tôi hiểu," Cha Dingle nói. "Thế Thượng đế nói gì
với ông?"
"Ha!" Moishe nói. "Nói với tôi á? Tôi đã đứng ở
đây ba mươi năm rồi và ông ấy không bảo gì tôi cả!
Giống như nói với tường gạch vậy!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại... cảm thấy thân thể bạn


hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong, thu
lấy toàn bộ tâm thức bạn với sự khẩn thiết dường như
đây sắp là khoảnh khắc cuối cùng của bạn. thấm sâu vào
trung tâm của bản thể bạn.
Khoảnh khắc bạn đạt tới trung tâm này, bạn là phật.
Bỗng nhiên, hàng nghìn hoa bắt đầu mưa rào lên bạn.
Toàn thể vũ trụ bắt đầu hân hoan.
Tại khoảnh khắc này chỉ tâm thức là có đó. Mọi sự
phân chia biến mất... chỉ việc chứng kiến... và dần dần,
chậm rãi, thính phòng Phật trở thành cái hồ tâm thức.
Không có mười nghìn chư phật, mà chỉ một phật tính -
giống như chiếc hồ không gợn sóng nào. Đây là khuôn
mặt nguyên thuỷ của bạn. Toàn bộ cuộc cách mạng tôn
giáo là để mang phật từ trung tâm ra chu vi. Khoảnh
khắc phúc lạc và an bình làm sao đã tới!
Buổi tối nay đẹp trong chính nó nhưng sự hiện diện
của mười nghìn chư phật đã làm cho nó thành huy hoàng

30
oai nghiêm. Để làm cho việc chứng kiến được rõ ràng
hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi. Chỉ quan sát. Thân thể không phải là


bạn, tâm trí không phải là bạn, bạn chỉ là việc chứng
kiến. Kinh nghiệm này về việc chứng kiến là chân lí tối
thượng của bản thể bạn. Đây là điều Upanishads đã gọi
là satyam, shivam, sunderam - chân lí, cái thiện, cái đẹp.
Tại chỗ này bạn là vĩnh hằng. Bạn chưa bao giờ
biết tới việc sinh nào, bạn chưa bao giờ biết tới cái chết
nào. Mọi điều xảy ra ở chu vi. Tại trung tâm không có
cái chết, không có việc sinh... chỉ bầu trời thuần khiết.
Bạn có phúc lành ở đây trong khoảnh khắc vô cùng có
giá trị này. Thu lấy thật nhiều hoa và hương thơm...
thuyết phục phật đi cùng bạn. Chẳng mấy chốc Nivedano
sẽ gọi các bạn lại. Trước điều đó, chứng kiến con đường
bạn đã đi qua. Bạn sẽ quay lại qua cùng con đường đó.
Việc quen thuộc này với con đường dẫn từ chu vi tới
trung tâm là quan trọng nhất, bởi vì bạn sẽ phải đi lại
nhiều lần nữa cho tới khi chu vi và trung tâm trở thành
một.
Khi Nivedano gọi bạn quay trở lại, nhớ rằng bạn là
phật. Quay lại với cùng sự duyên dáng và cái đẹp và
niềm vui và niềm phúc lạc.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại như phật, im lặng, an


bình, với duyên dáng lớn lao. Ngồi vài khoảnh khắc, chỉ

31
để hồi tưởng và nhớ lại nơi bạn đã ở, con đường nào bạn
đã theo. Điều bạn đã kinh nghiệm phải trở thành một
phần cuộc sống hàng ngày của bạn. Bạn phải diễn đạt
phật của mình trong hành động của bạn, trong cử chỉ của
bạn, trong lời của bạn, trong im lặng của bạn. Dần dần,
dần dần người cũ biến mất đi và người mới được sinh ra.
Con người mới này là niềm hi vọng duy nhất cho toàn
thế giới. Chúng ta phải truyền bá thông điệp này cho mọi
người trên trái đất, Bạn là phật; bạn chỉ quên mất điều
đó.
Nhớ lấy, đó không phải là cái gì cần đạt tới, mà chỉ
cần được ghi nhớ. Do đó điều đó là rất dễ dàng và rất
hiển nhiên.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

32
2. Trái tim rỗng,
tâm trí rỗng

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một lần Lâm Tế nói, "Bất kì ai tới ta, ta không
sai về người đó: ta biết đích xác nơi người đó
tới. Nếu người đó tới theo cách đặc biệt,
người đó sẽ dường như đã đánh mất mình.
Nếu người đó không tới theo cách đặc biệt,
người đó đã tự trói mình không dây.
Đừng bao giờ đồn đoán lung tung. Hiểu và
không hiểu cả hai đều sai. Ta nói thẳng điều
này. Bất kì ai trên thế giới đều tự do phản đối
ta như người đó muốn."
Thầy còn nói thêm, "Từng phát biểu đều phải
bao gồm Cánh cổng của Ba Bí ẩn, và cánh
cổng của từng Bí ẩn phải bao gồm Ba điều
Bản chất. Có những thủ đoạn tạm thời, và có
việc vận hành. Làm sao tất cả các ông hiểu
được điều này?"
Rồi thầy bước xuống.

33
Maneesha, Lâm Tế phải đấy. Cách bạn bước, cách
bạn nói, cách bạn nhìn - tất cả mọi cử chỉ của bạn đều
chỉ ra thực tại bên trong của bạn. Nó không thể khác
được, bởi vì bất kì cái gì được biểu lộ ra ở chu vi đều
phải tới từ trung tâm.
Lâm Tế đang nói, "Ta có thể thấy một người trong
tính toàn thể của người đó, và liệu người đó có chứng
ngộ hay không, chỉ bằng cách người đó đi hay cách
người đó nói." Phát biểu này là có ý nghĩa theo nghĩa
chứng ngộ không phải là hiện tượng trí tuệ; nó mang tính
tồn tại. Nó biến đổi toàn bộ con người bạn.
Cho nên bất kì điều gì bạn làm, không thành vấn đề
nó là gì - cho dù bạn không làm gì mà đơn giản ngồi
xuống một cách im lặng - bạn không thể lừa được người
của chứng ngộ. Người đó sẽ có khả năng thấy thấu suốt,
thẳng vào bản thể bạn. Bạn im lặng hay nói không thành
vấn đề. Ngay cả lúc bạn ngủ... người chứng ngộ ngủ theo
một cách khác hơn người chưa chứng ngộ. Điều đó đơn
giản chỉ ra rằng tất cả mọi hành động của chúng ta, mọi
cử chỉ, lời nói, im lặng, đều phát sinh qua bản thể chúng
ta. Tất cả những con sóng này đều tới từ chính trung tâm.
Người chưa chứng ngộ tạo ra một hào quang khác
quanh mình. Người đó không có sự hiện diện; người đó
gần như vắng mặt. Người đó là kẻ mộng du, dường như
bước trong khi ngủ, loạng choạng trong bóng tối.
Người chứng ngộ đơn giản là người có bản thể bên
trong tràn đầy ánh sáng. Người đó không loạng choạng,
người đó không dò dẫm.
Người đó không có gì để chọn cả.
Điều này tôi phải nhấn mạnh: người chứng ngộ là
vô chọn lựa. Người đó phải không chọn cái gì tốt và cái
gì xấu. Bất kì cái gì tới từ sự tự phát của người đó đều

34
nhất định là tốt, đều nhất định là đẹp, đều nhất định là
duyên dáng vô cùng. Mọi hành động hay vô hành động
của người đó đều không chỉ là phúc lành cho người đó -
người đó có nhiều phúc lành đến mức người đó có thể
ban phúc lành cho toàn thế giới.
Người chứng ngộ đã trở thành phần dư thừa của
thực tại vũ trụ. Người đó không còn là kẻ keo kiệt, hòn
đảo nhỏ. Người đó đã trở thành lục địa bao la. Người đó
không còn là cá nhân nữa... Trước hết người đó vứt bỏ
nhân cách của mình và đạt tới cá nhân; thế rồi người đó
vứt bỏ cá nhân của mình để đạt tới thực tại vũ trụ. Tại
điểm đó, người đó là ở mọi nơi và không đâu cả. Mọi thứ
quanh người đó đều thay đổi.
Cho nên nếu bạn thấy một người như vậy và nếu
cái nhìn của bạn là rõ ràng, không cần người đó phải nói
với bạn rằng người đó đã chứng ngộ.
Có một sự vụ nhỏ:
Một trong các đệ tử của Phật Gautam, Manjushree 9,
đã trở nên chứng ngộ. Ông ấy đã thiền trong gần hai
mươi năm, và những người đã trở nên chứng ngộ lập tức
nhận ra ông ấy. Sariputra bảo ông ấy, "Sao ông không đi
và nói với thầy?"
Manjushree cười to. Ông ấy nói, "Tôi phải đi tới
thầy để được thừa nhận sao? Tôi biết rằng bất kì khi nào
thầy bắt gặp tôi, thầy sẽ thấy điều đó. Tôi không phải nói
về điều đó." Và đó là cách mọi sự đã xảy ra.
Sáng hôm sau, khi Phật Gautam đi dạo buổi sáng,
ông ấy tới cạnh cây nơi Manjushree thường thiền. Ông
ấy dừng lại, ông ấy nhìn quanh, và ông ấy nói,
"Manjushree, ông phải tới và công bố việc chứng ngộ
của mình. Ông cho rằng ông có thể giấu được ngọn lửa
9
Manjushree : Văn Thù

35
sao? Khắp xung quanh ông đều có lửa công bố sự chứng
ngộ của ông. Khắp xung quanh ông hoa đã nở, điều có
thể không thấy được với kẻ dốt nát, nhưng bất kì ai đã
chứng ngộ đều sẽ nhận ra dù ông có nói điều đó hay
không."
Manjushree chạm chân Phật Gautam và ông ấy nói,
"Đây là lí do mà tôi đã không đến thầy. Nếu nó là đích
thực, nếu tôi không trong ảo giác, nếu tôi không tưởng
tượng rằng tôi đã trở nên chứng ngộ, thế thì tốt hơn cả là
bản thân Phật Gautam nhận ra điều đó, thay vì việc tôi đi
tới thầy. Thầy biết hàng trăm người đã trở nên chứng
ngộ dưới thầy. Nếu thầy đi qua tôi mà không nhận ra
điều đó, điều đó đơn giản có nghĩa là thời gian còn chưa
tới, tôi đơn giản đang tưởng tượng."
Và điều đó không chỉ là một sự vụ - bởi vì dưới
Phật Gautam nhiều người đã trở nên chứng ngộ hơn dưới
bất kì người nào khác trong lịch sử. Mười nghìn sư đã
liên tục theo ông ấy, và tất cả mọi điều họ làm cả ngày
đơn giản là thiền, chỉ chứng kiến tâm trí họ. Đúng thời,
đúng vụ, đúng khí hậu, đúng khoảnh khắc... từng người
một họ bắt đầu bùng nổ.
Kinh nghiệm của tôi là ở chỗ đó là một quá trình
làm lẩy cò rất nhiều. Nếu một người trở nên chứng ngộ
và bạn đang ngồi gần người đó, thì cái gì đó có thể lẩy
cò trong bạn. Chỉ năng lượng đã thay đổi của người đó
có thể tạo ra sức đẩy cho năng lượng riêng của bạn.
Chứng ngộ của chúng ta không là cái gì đó phải
được đạt tới; nó đã có đấy rồi, nó là chính bản tính của
chúng ta. Nó là điều đơn giản nhất trên thế giới, và điều
đó lại làm cho nó thành khó nhất.
Đi vào bên trong bản thân mình chỉ cần một lực
đẩy nhỏ, và lực đẩy đó không cần mang tính vật lí. Nó

36
không phải là vật lí; nó là cái gì đó giống nhiều với năng
lượng từ, hay cái gì đó giống nhiều với điện hơn. Bạn
không thấy nó, nhưng nó có thể đi từ người này sang
người khác, nếu người khác đủ sẵn sàng. Người đó sẽ bị
ngạc nhiên bởi sự bùng nổ.
Phật Gautam đã cho phép mười nghìn người bao
giờ cũng sống cùng mình đơn giản để tạo ra trường năng
lượng. Ai đó đi trước bạn một bước, ai đó đi trước bạn
hai bước, ai đó ở rất gần sự bùng nổ. Nếu người đó nổ,
người đó có thể tạo ra phản ứng dây chuyền và những
người ở ngay sau người đó có thể bắt lửa. Do đó trong
Thiền điều đó được gọi là việc truyền trao ngọn đèn, hay
việc truyền trao ánh sáng.
Nhưng không ai có thể hành động như người đã
chứng ngộ; điều đó là không thể được, bởi vì chứng ngộ
không có hình dạng đặc biệt. Từng người chứng ngộ là
duy nhất tới mức bạn không thể bắt chước được. Và việc
bắt chước đem bạn đi xa khỏi bản thân mình. Bạn càng
bắt chước, càng ít khả năng cho việc bạn trở nên chứng
ngộ.
Cho nên người ta phải học cách sống cùng với
người đã chứng ngộ. Đấy không phải là cái gì đó để
được học; đấy không phải là cái gì đó giống như việc
dạy hay như một kỉ luật. Đấy là cách cảm nhận, cởi mở,
cho phép thầy đi vào trong bạn.
Chúng ta thường rất sợ hãi. Chúng ta giữ khoảng
cách lẫn nhau, và chúng ta giữ việc phòng thủ của mình.
Chúng ta sợ rằng ai đó có thể xúc phạm tới mình. Phòng
thủ là cần thiết. Ai đó có thể làm nhục chúng ta, ai đó có
thể làm tổn thương chúng ta, cho nên chúng ta liên tục
tạo ra các biện pháp phòng thủ quanh con người mình,
và chúng ta bao giờ cũng giữ một khoảng cách tí chút
với những người chúng ta yêu mến.

37
Adolf Hitler chưa bao giờ xây dựng gia đình bởi
một lẽ đơn giản là ông ta không thể cho phép bất kì ai
vào phòng mình trong khi ông ta ngủ, bởi vì ai mà biết
được, mọi người đều là người lạ... Ông ta đã lấy vợ chỉ
ba giờ trước cái chết của mình, khi đối phương đang ném
bom Berlin và đã trở thành tuyệt đối chắc chắn rằng bây
giờ không còn khả năng nào ngoại trừ thất trận. Vấn đề
chỉ còn là vài giờ.
Vào giữa đêm ông ta cho gọi một linh mục vào
boong ke của mình và lấy vợ. Bạn ông ta nói với ông ta,
"Bây giờ thì phỏng có ích gì mà ông chuẩn bị thuốc
độc?"
Ông ta nói, "Bây giờ không có nguy hiểm; ta sẽ
chết mà đã lấy vợ. Người đàn bà này bao giờ cũng khao
khát được lấy chồng, và ta đã trì hoãn điều đó." Bây giờ
không còn vấn đề phòng thủ nữa. Ông ta đã lấy vợ và
điều tiếp sau họ làm là cả hai uống thuốc độc và đi tiếp
vào tuần trăng mật tâm linh.
Nhưng nỗi sợ về việc giữ mọi người ở một khoảng
cách bao giờ cũng có đó. Người ta phải trở nên nhận biết
về việc sống với thầy. Bạn phải vứt bỏ sự phòng thủ của
mình, có thế thôi. Bạn đơn giản phải cởi mở và sẵn có.
để cánh cửa của mình mở ra. Vào đúng khoảnh khắc
thầy sẽ bước vào - không phải về mặt vật lí, mà chỉ năng
lượng tâm linh của thầy sẽ cho một điệu vũ mới cho bản
thể bạn.
Phát biểu của Lâm Tế là có ý nghĩa.

Một lần Lâm Tế nói, "Bất kì ai tới ta, ta không


sai về người đó: ta biết đích xác nơi người đó
tới."

38
Ông ấy không ngụ ý chỗ người đó tới, mà là không
gian từ đó người đó tới, người đó ở không gian nào,
trong trạng thái nào của tâm thức.

Nếu người đó tới theo cách đặc biệt, người đó


sẽ dường như đã đánh mất mình.

Người đó sẽ tới một cách dò dẫm, lần mò. Người


đó sẽ nhìn... trong mắt người đó bạn sẽ thấy rằng người
đó đơn giản bị lạc. Người đó không biết nơi mình đi hay
tại sao mình đi. Gần như đích xác đó là tình huống cho
đại đa số nhân loại. Không ai có cảm giác về hướng đi;
họ tất cả đều dò dẫm.
Lâm Tế đang nói, "Ta chưa bao giờ sai về bất kì ai.
Ta đơn giản nhìn thẳng vào nơi người này tới, vào không
gian người đó đang ở. Ta thấy liệu người đó có ngần
ngại, hoài nghi, không chắc chắn, đang tìm sự hướng
dẫn, hay đầy hiểu biết vay mượn, và có bản ngã to cứ
dường như người đó biết."

Nếu người đó không tới theo cách đặc biệt,


người đó đã tự trói mình không dây.

Mọi người đều trông có vẻ như họ tự do; không ai


bị cùm tay, không ai bị trói bằng dây thừng. Nhưng nhìn
kĩ hơn một chút: bạn đang bị trói bằng quá nhiều dây,
các dây này kéo bạn đi theo những hướng nào đó, và có
lẽ theo các hướng mâu thuẫn nhau. Điều đó tạo ra nhân
cách chia chẻ, điều đó tạo ra nhân cách phân mảnh.
Bạn có thể gọi những chiếc dây này là tình yêu, bạn
có thể gọi những chiếc dây này là hoài bão, ham muốn,
ghen tị, giận dữ - không thành vấn đề bạn gọi chúng là
gì, chúng tất cả đều là dây buộc. Nhưng nếu tâm trí bạn

39
có bất kì nội dung nào trong nó, thì nội dung đó trở thành
chiếc dây của bạn. Chỉ tâm trí vô dây mới biết tự do là
gì.
Từ bên ngoài mọi người đều trông có vẻ tự do,
nhưng Lâm Tế đang nói về những chiếc dây vô hình. Và
bạn có thể hiểu, bạn có thể thấy những chiếc dây riêng
của mình - việc dính chặt của bạn với mẹ, với bố, với vợ,
với chồng, với con cái, với bạn bè bạn, với kẻ thù của
bạn.
Chuyện đã xảy ra khi Mahatma Gandhi bị bắn vào
năm 1948. Jinnah là người đã tranh đấu với Gandhi cả
đời mình để tách đất nước ra làm hai phần - một quốc gia
tách biệt và có chủ quyền cho người Hồi giáo. Ông ấy
đang ngồi trong vườn đọc báo thì thư kí của ông ấy chạy
tới và bảo ông ấy rằng Gandhi đã bị bắn, ông ấy đã chết.
Viên thư kí không thể tin được rằng Jinnah đã ứa nước
mắt. Ông ấy không nói gì, ông ấy đơn giản trở lại phòng
mình. Trong thực tế, vào cùng khoảnh khắc đó Jinnah đã
chết. Ông ấy trở nên ốm yếu và ông ấy không bao giờ
bước ra khỏi phòng mình.
Nhiều lần ông ấy được hỏi, "Sao ông lại phải bận
tâm nhiều thế? Ông hoàn toàn mạnh khoẻ. Tin này về
Gandhi..."
Jinnah nói, "Bây giờ tôi có thể thấy rằng ngay cả
với kẻ thù cũng có mối quan hệ nào đó. Không có
Gandhi tôi cũng không còn nữa. Và nếu Gandhi có thể bị
một người Hindu bắn, thì tôi cũng có thể bị một người
Hồi giáo bắn vào bất kì lúc nào." Ông ấy không hề có
lính gác quanh nhà trước khi Gandhi bị bắn. Ông ấy đã
từ chối, nói rằng "Ngay cả quan niệm rằng người Hồi
giáo nào sẽ gây hại cho cuộc sống tôi cũng là điều ngớ
ngẩn. Tôi đã tranh đấu cho họ, tôi đã trao cho họ đất

40
nước của họ." Nhưng cái ngày Gandhi chết, ông ấy lập
tức ra lệnh rằng phải bố trí lính gác quanh nhà ông ấy.
Không ai có thể hiểu được điều đó là cú sốc đến thế
cho ông ấy. Bản thân ông ấy cũng không thể hiểu được
điều đó: "Tôi đáng ra phải sung sướng là Gandhi chết
rồi, nhưng mắt tôi lại đầy nước mắt. Không có Gandhi
tôi đánh mất luôn mình. Tranh đấu với ông ấy đã là cả
đời tôi. Một nửa đời tôi đã kết thúc. Bây giờ tôi phải
sống cuộc sống què quặt" - và ông ấy không bao giờ trở
nên mạnh khoẻ nữa, ông ấy đã chết chỉ vài tháng sau đó.
Nếu bạn nhìn quanh mình bạn sẽ thấy nhiều dây dợ
- gần như cái lưới. Và nếu chỉ có một dây thôi, thì đã dễ
mà cắt nó ra để được tự do. Có biết bao nhiêu là dây...
toàn thể nhân cách của bạn chỉ gồm toàn dây dợ thôi.
Thậm chí những dây đó làm bạn thành tù nhân - chúng
không cho bạn cái gì ngoài khổ và rắc rối, chúng không
cho phép bạn có chân giá trị của mình và quyền làm chủ
của mình - bằng cách nào đó chúng là sự quen thuộc thời
gian dài và việc vứt bỏ chúng đi có cảm giác giống như
bạn đang cắt bỏ cái gì đó của chính con người riêng của
bạn. Chúng đã trở thành bản tính thứ hai của bạn.
Chuyện xảy ra trong thời Cách mạng Pháp rằng các
nhà cách mạng đã mở cửa của một nhà tù lớn, cứ đinh
ninh rằng họ đã làm điều gì đó lớn lao. Nhà tù đó được
dự định để dành cho những người bị tù chung thân,
những kẻ tội phạm rất nguy hiểm, cho nên các còng tay
đều không có khoá, bởi vì cũng không cần, họ không bao
giờ được tự do. Cho nên sau khi còng tay được đặt vào
và xiềng xích được buộc vào chân họ, thì khoá bị ném
xuống giếng ở chính giữa nhà tù.
Các nhà cách mạng đã cố gắng chặt còng tay và
xích chân, và họ không thể tin được rằng các tù nhân
chống lại đến thế. Ai đó đã sống bốn mươi năm, ai đó

41
năm mươi năm - thậm chí có người đã ở đó bẩy mươi
năm, và người đó nói, "Bây giờ ngay cả mắt cũng không
chịu nổi khi bước ra ánh sáng. Chúng tôi đã sống trong
xà lim tối tăm, và sau bẩy mươi năm thế giới phải đã
thay đổi quá nhiều. Ngay cả bạn bè và vợ con riêng của
chúng tôi, phần lớn họ đã chết rồi. Ngay cả con cái
chúng tôi cũng không nhận chúng tôi.
"Ở đây ấm cùng và thoải mái thế - không phải làm
việc, thức ăn thì được chu cấp. Nó mục nát, nhưng ít
nhất thì nó cũng được cho vào mọi ngày, ông không phải
làm việc vì nó; ông không phải đi tìm việc. Và chúng tôi
đã trở nên quen với cái xà lim chật hẹp tăm tối này đến
mức chúng tôi không thể quan niệm nổi bây giờ về một
loại cuộc sống khác." Nhưng các nhà cách mạng là nhà
cách mạng; họ là những người bướng bỉnh. Họ cứ ép
buộc các tù nhân. Họ chặt xích và còng tay và buộc các
tù nhân ra khỏi nhà tù. Nhưng họ ngạc nhiên là đến tối
tất cả họ đều quay lại.
Điều đó là cái gì đó quan trọng thế, điều đó còn
quan trọng hơn cả bản thân cuộc cách mạng Pháp. Các tù
nhân cầu xin họ, "Xin đừng ép buộc chúng tôi. Bên
ngoài không tồn tại cho chúng tôi. Lỗ hổng quá lớn - bẩy
mươi năm - và chúng tôi đang sống rất hạnh phúc." Vài
người trong họ nói, "Chúng tôi không thể ngủ được nếu
thiếu xiềng xích." Chúng đã trở thành con gấu nhồi
bông.
Cùng điều đó là tình huống cho hầu hết mọi người:
xiềng xích của bạn đã trở thành con gấu nhồi bông. Dù
bẩn đến mấy, bốc mùi đến mấy, dính mỡ và mùi Italia,
nhưng trên mọi sân bay, trên mọi ga tầu hoả bạn sẽ thấy
những đứa trẻ lôi sềnh sệch con gấu nhồi bông của
chúng. Chúng sẽ không bỏ những con gấu này vì chúng
không thể ngủ được nếu thiếu chúng. Với những con gấu

42
đó chúng cảm thấy ấm áp và chúng đã bạn bè với nhau
thế, không cãi cọ gì. Chúng ta tất cả đều quen thuộc với
nhiều dây dợ.
Lâm Tế đang nói, "Nếu người đó không tới theo
cách đặc biệt, người đó đã tự trói mình không dây."
Chỉ nếu người đó tới như sư tử gầm, một mình,
không phải là một phần của đám đông, không còn phụ
thuộc vào đám đông, không còn là người Ki tô giáo,
không còn là người Hindu giáo, không còn là Phật tử -
nếu người đó đã vứt đi mọi kinh sách và mọi huấn luyện,
người đó sẽ tới trong niềm vinh quang trọn vẹn, con
người trong toàn bộ chân giá trị của mình.
Chân giá trị này không phải là thứ so sánh được.
Nó không liên quan gì tới bất kì ai khác; nó không tương
đối. Nó là bản tính riêng của người đó đi tới việc nở hoa
hoàn toàn. Người đó đã vứt đi mọi cản trở.
Nếu bạn bắt gặp một người không có dây dợ,
không xiềng xích, không huấn luyện, bạn lập tức sẽ thấy
khác biệt giữa bản thân mình và người đó. Tự do của
người đó sẽ gần như thấy được và bạn sẽ thấy tính nô lệ
của mình một cách rõ ràng trong so sánh với người đó.
Bạn là nô lệ của biết bao nhiêu thứ! Tính nô lệ của bạn là
đa chiều. Nhưng bạn cứ sống bởi vì mọi người khác
cũng sống theo cùng cách. Bạn nghĩ có lẽ đây là cách
sống duy nhất.
Đây không phải là cách sống duy nhất. Trong thực
tế, nó không phải là cách sống chút nào. Nó là cách bỏ lỡ
cuộc sống. Không có việc nở hoa trong tiềm năng đầy đủ
của bạn, bạn đã kéo lê bản thân mình từ cái nôi tới nấm
mồ, nhưng bạn đã không sống.

43
Tôi nghe nói về một người sắp chết, thế rồi người
đó mới nhận ra rằng "Trời, mình đã sống!" - nhưng bây
giờ thì quá trễ rồi.
Phần lớn mọi người sẽ nhận ra chỉ khi cái chết
điểm, "Mình đã sống mà không có việc sống. Mình đã
không nhảy múa, mình đã không nở hoa, mình đã không
biết tới bản thân mình, và chết đã tới." Và chết nghĩa là
tất cả mọi cánh cửa đều đóng lại. Bây giờ người ta không
biết gì về điều sắp xảy ra. Không còn tương lai nữa. Bạn
không thể lập kế hoạch cho ngày mai được, và tất cả
những ngày hôm qua đều đã qua rồi - những cơ hội lớn
để trở nên thức tỉnh, những cơ hội lớn để trở thành phật.
Bạn đã bỏ lỡ.

Lâm Tế tiếp tục, "Đừng bao giờ đồn đoán


lung tung. Hiểu và không hiểu cả hai đều sai."

Đây là phát biểu cực kì quan trọng: Hiểu và không


hiểu cả hai đều sai. Thông thường bạn sẽ nói, "Hiểu là
đúng còn không hiểu là sai." Nhưng tôi sẽ ủng hộ Lâm
Tế. Ông ấy là phải. Vấn đề không phải là hiểu hay không
hiểu, vấn đề là nhận ra.
Chẳng hạn, người mù có thể hiểu ánh sáng là gì
một cách trí tuệ, nhưng hiểu biết đó là gì? Người mù có
thể viết một luận giải về ánh sáng, về màu sắc, và có thể
rất đúng về mặt logic. Nhưng hiểu biết đó là gì? Người
đó chưa bao giờ thấy màu sắc... Và đây là tình huống.
Mọi người đang viết về Thượng đế, mô tả chi tiết
cứ dường như họ đã thấy Thượng đế, cãi lộn với người
khác bởi vì họ có quan niệm khác về Thượng đế. Trong
hàng nghìn năm mọi người đã tranh đấu về Thượng đế,
về thiên đường và địa ngục, và không ai dường như nhận
ra sự kiện tất cả đây toàn là giả tưởng. Không ai đã từng

44
thấy Thượng đế. Cho nên nếu ai đó nói, "Tôi hiểu về
Thượng đế," thì điều đó cũng vô tích sự như không hiểu
về Thượng đế.
Vấn đề là việc biết - trực tiếp, thẳng thắn. Vấn đề là
thành một với chân lí, không phải biết chân lí từ chỗ xa
xăm, từ kinh nghiệm của người khác, từ kinh sách. Bạn
không thể vay mượn chân lí được; nó không phải là món
hàng. Bạn phải trở thành chân lí.
Cho dù một người nói, "Tôi đã thấy chân lí," điều
đó là sai, bởi vì bạn không thể thấy chân lí được - chân lí
không phải là cái gì đó vật chất - bạn không thể thấy
được Thượng đế. Nếu bạn thấy, đó là ảo giác.
Đó là lí do tại sao Phật đã nói với các đệ tử của
mình, "Nếu ta gặp các ông trên đường, chớ có ngần ngại,
chặt ngay đầu ta và ném ta ra khỏi đường. Đi qua ta mà
không nhìn lại" - bởi vì trong thiền bao giờ cũng có khả
năng rào chắn cuối cùng sẽ là thầy. Đó là tình yêu cuối
cùng của bạn, chuyện tình lớn của bạn. Bạn có thể bỏ
qua tất cả những vấn đề nhỏ khác, những dính líu tâm lí,
nhưng bạn sẽ làm gì với chiếc dây cuối cùng?
Chuyện xảy ra trong cuộc đời của Ramakrishna:
Ramakrishna là một người sùng kính lớn, và con
đường của sùng kính đầy những tưởng tượng. Tâm trí có
khả năng tự thôi miên mình và có thể thấy đối thể của
tưởng tượng đang đứng ngay trước nó.
Bạn nên chú ý tới sự kiện là không người Hồi giáo
hay Ki tô giáo nào đã kinh nghiệm Krishna, không người
Hindu nào đã từng kinh nghiệm Jesus. Họ tất cả đều thấy
điều họ tưởng tượng, điều họ tin vào, điều là giả tưởng
của họ. Nếu bạn tiếp tục nhấn mạnh vào khái niệm giả
thiết nào đó về Thượng đế, một ngày nào đó bạn sẽ thấy
giả thiết đó trở thành thực tại.

45
Ramakrishna là một người sùng kính về Nữ thần
Mẹ của Calcutta. Một người chứng ngộ, Totapuri, vừa
lúc đi qua đó. Ông ta nhìn vào Ramakrishna và ông ta
cảm thấy từ bi lớn lao cho anh chàng đáng thương này.
Ông ta bảo Ramakrishna, "Ông nghĩ rằng ông đã rải
nghiệm Nữ thần Mẹ."
Ramakrishna nói, "Thấy chứ, tôi đã nói với bà ấy,
và không chỉ một ngày đâu, hàng ngày đấy." Ông ấy là
người trung thực, và điều ông ấy đang nói là tuyệt đối
đúng.
Totapuri cười lớn và ông ấy nói, "Nghe đây, Nữ
thần Mẹ đó không là gì ngoài tưởng tượng thuần khiết.
Chừng nào ông chưa vứt bỏ cái đó, ông sẽ không bao giờ
trở nên chứng ngộ được. Cho nên ngồi xuống đây. Tôi sẽ
còn ở đây trong ba hay bốn ngày, chỉ vì ông thôi. Tôi
phải giúp ông bằng cách nào đó vứt bỏ Nữ thần Mẹ đi."
Bây giờ đó là việc rất khó. Ramakrishna yêu Nữ
thần Mẹ cả đời mình, đã nhảy múa trước bà ấy. Và ông
ấy không phải là người truyền thống; ông ấy rất phi
truyền thống, rất đáng yêu, rất hồn nhiên - nhiều tới mức
hai lần người trông coi ngôi đền mà ông ấy hay tới tôn
thờ, nơi ông ấy đã là tu sĩ, phải gọi ông ấy bằng việc nói,
"Đây là điều kì lạ mà ông đang làm đấy..."
Trước hết ông ấy sẽ nếm thức ăn được cúng dường
cho nữ thần, và thế rồi ông ấy sẽ cúng dường nó. Bây giờ
điều này là tuyệt đối sai nếu theo truyền thống Hindu.
Trước hết bạn phải cúng dường nó cho thần rồi bạn mới
có thể phân phát nó, bạn có thể ăn nó.
Nhưng Ramakrishna nói, "Mẹ tôi bao giờ cũng
quen nếm nó trước và rồi bà ấy sẽ đưa nó cho tôi. Tôi
không bận tâm tới bất kì ai, tôi biết lí do là gì. Lí do là
liệu điều đó có xứng đáng cho không. Hương vị có phải

46
không? Có ngọt không hay quá nhiều hay quá ít? Tôi
không thể cúng dường nó mà không nếm nó trước."
Ông ta hay tranh chấp với Nữ thần Mẹ. Không ai
có thể hiểu được điều gì đã xảy ra. Ông ấy sẽ khoá ngôi
đền lại trong ba hay bốn ngày và sẽ nói với Nữ thần Mẹ,
"Ở trong đền nhé, bởi vì ngài không làm gì cho người
sùng kính cả. Biết bao nhiêu người tới và họ hỏi ngài và
lời cầu nguyện của họ không được trả lời. Tôi là tu sĩ ở
đây; bổn phận của tôi là chăm nom. Bây giờ cứ bị khoá
lại ở trong nhé. Sau ba hay bốn ngày nữa tôi sẽ thăm lại
ngài."
Người coi đền nói, "Ông ở đây như một tu sĩ ăn
lương. Công việc của ông là tôn thờ mọi ngày."
Ông ấy nói, "Đấy không phải là vấn đề. Vấn đề là ở
chỗ Nữ thần Mẹ phải nghe tôi. Khi bà ấy nghe thì tôi
chuẩn bị những thức ăn ngon cho bà ấy và đem biết bao
nhiêu hoa hồng và biết bao nhiêu hoa tới. Khi bà ấy thực
sự nghe lời cầu nguyện thì tôi nhảy múa cả ngày. Nhưng
khi bà ấy không nghe, trở thành cứng rắn, thì tôi cũng là
con người có chân giá trị nào đó..."
Totapuri nói với Ramakrishna, "Ông ngồi im lặng.
Ông không có bất kì dây buộc nào mà tôi có thể thấy, chỉ
mỗi chiếc dây này thôi. Cho nên khi ông thấy Nữ thần
Mẹ phát sinh trong trí tưởng tượng của ông, lấy lưỡi
kiếm và chém mẹ thành hai mảnh. Chúng sẽ sụp đổ, và
với chúng rào chắn cuối cùng sẽ sụp đổ."
Ramakrishna nói, "Tôi sẽ kiếm lưỡi kiếm từ đâu
được?"
Totapuri nói, "Từ đâu ông đã có được Nữ thần Mẹ
này? - từ cùng chỗ đó đấy. Nó là tưởng tượng của ông.
Đó cũng là tưởng tượng của ông; chỉ tưởng tượng là cần
để chặt nó."

47
Phải mất ba ngày, bởi vì ông ấy sẽ đi vào thiền và
Nữ thần Mẹ sẽ đứng đó, và ông ấy lại quên mất tất cả về
Totapuri. Ông ấy sẽ quên tất cả về kiếm, và nước mắt lại
bắt đầu chảy ra từ mắt ông ấy, còn Totapuri sẽ lay ông
ấy mà nói, "Ông đang làm gì thế?"
Ramakrishna nói, "Làm gì á? - bởi vì một khi tôi
thấy bà ấy, bà ấy đẹp thế… Đừng buộc tôi phải chém bà
ấy."
Totapuri nói, "Nghe đây, tôi có thể thấy ngay cả từ
bên ngoài: khuôn mặt ông lập tức thay đổi khi ông thấy
mẹ. Tôi đã đem một mẩu kính, và khoảnh khắc tôi thấy
rằng ông đang thấy mẹ - bởi vì nước mắt ông bắt đầu
chảy, khuôn mặt ông trở nên đẹp thế - tôi sẽ rạch một
nhát vào con mắt thứ ba của ông bằng miếng kính này.
Tôi phải làm điều này bởi vì ngày mai tôi đi rồi. Tôi
không thể phí thời gian thêm nữa. Đây là cơ hội cuối
cùng: hoặc ông làm điều đó hoặc tôi bị kết thúc cùng
ông."
Và Totapuri nói, "Khi tôi rạch vào trán ông và máu
bắt đầu chảy ra, đừng ngần ngại, lấy lưỡi kiếm và chém
mẹ đi."
Ramakrishna chém mẹ và ông ấy vẫn còn im lặng
trong sáu ngày. Totapuri ở lại trong sáu ngày, và khi
Ramakrishna mở mắt ra ông ấy cám ơn Totapuri và nói,
"Nếu ông mà không tới, thì tôi đã sống cả đời mình với
ảo giác. Rào chắn cuối cùng của tôi đã sụp đổ rồi."
Ramakrishna trở nên chứng ngộ sau khi ông ấy đã
chém rào chắn cuối cùng. Nhưng ngay cả những người
đi theo Ramakrishna cũng không nhắc nhở gì tới sự vụ
này, bởi vì sự vụ này làm cho toàn bộ nỗ lực tôn thờ trở
thành vô tích sự. Nếu cuối cùng bạn phải chém nó đi, thì
sao lại bắt đầu nó ở ngay lúc đầu tiên?

48
Cả việc hiểu cũng là không cần - bởi vì việc hiểu là
trí tuệ - việc không hiểu cũng không cần, vì điều đó nữa
cũng là trí tuệ. Bạn có thể là kẻ hữu thần, bạn có thể là
kẻ vô thần, điều đó không thành vấn đề; cả hai đều là
những quan điểm trí tuệ. Bạn phải vứt bỏ cả hai và bạn
phải thấy mà không có định kiến nào, không có giả thiết
nào, không có bất kì hệ thống niềm tin nào. Chỉ thế thì...
thế thì bạn mới không thấy chân lí, bạn trở thành chân lí.
Và chừng nào bạn còn chưa trở thành chân lí thì bạn còn
chưa chứng ngộ.
Cho nên thấy khác biệt này: vấn đề không phải là
thấy Thượng đế, vấn đề không phải là thấy Phật. Vấn đề
là thành phật. Không có ba, người thấy, người được thấy,
và quá trình thấy; chỉ có một. Bạn là nó. Đây là hiểu biết
vĩ đại nhất mà Phật Gautam đã đem vào thế giới này.
Lâm Tế đang nói,

Ta nói thẳng điều này. Bất kì ai trên thế giới


đều tự do phản đối ta như người đó muốn."
Thầy còn nói thêm, "Từng phát biểu đều phải
bao gồm Cánh cổng của Ba Bí ẩn, và cánh
cổng của từng Bí ẩn phải bao gồm Ba điều
Bản chất. Có những thủ đoạn tạm thời, và có
việc vận hành. Làm sao tất cả các ông hiểu
được điều này?"
Rồi thầy bước xuống.

Ba Bí ẩn là gì? Mọi kinh nghiệm của chúng ta đều


được chia thành ba: người quan sát, cái được quan sát và
quá trình quan sát. Bạn có thể xét nó theo chiều hướng
khác - người biết, tri thức, và quá trình biết. Chừng nào
ba bí ẩn này còn chưa trở thành một, khi người quan sát
cũng là vật được quan sát...

49
Khi bạn là thượng đế, tất cả mọi bí ẩn đều biến mất,
thế thì toàn thể sự tồn tại là rõ ràng sẵn có cho bạn. Tất
cả mọi cánh cửa đều mở, không cái gì bị che giấu. Toàn
thể sự huy hoàng của sự tồn tại là sẵn có, nhưng nó là
sẵn có cho tâm thức đã đi tới đỉnh nơi không có chủ thể
và không có đối thể và không có gì đặt quan hệ với
chúng, nơi ba đã trở thành một. Cái một này là Phật tính,
là bản tính Phật của bạn.
Trong cái một này bạn trở thành một phần của toàn
thể vũ trụ - và không chỉ một phần. Nó là kinh nghiệm kì
lạ nhất: khi giọt sương biến mất trong đại dương, bạn có
thể nói rằng giọt sương đã trở thành một phần của đại
dương, nhưng thực tế là ở chỗ giọt sương đã trở thành
đại dương. Không có vấn đề là một phần. Một phần vẫn
là tách rời, có khoảng cách. Chỉ cái một thuần khiết...
William James đã cho kinh nghiệm này một từ
đúng: kinh nghiệm đại dương. Bạn đã trở thành toàn thể
đại dương.
Lâm Tế đang nói rằng ông ấy sẽ bị phản đối - bị
phản đối bởi tất cả mọi người sùng kính, bị phản đối bởi
tất cả những người vẫn giữ một khoảng cách giữa bạn và
Thượng đế. Ông ấy sẽ bị phản đối bởi tất cả những người
không thể quan niệm được rằng bạn trong thực tại bản
chất của mình không là gì ngoài lực thiêng liêng, và toàn
thể sự tồn tại là điệu vũ thiêng liêng. "Nhưng," ông ấy
nói, "không thành vấn đề gì nếu ta bị phản đối. Ta phải
nói chân lí."
Thiền là cách duy nhất để thấy chân lí mà không có
đức tin nào. Nếu bạn đã có đức tin, thì đức tin của bạn sẽ
trở thành rào chắn. Người ta phải hoàn toàn phi đức tin.
Tôi không nói rằng bạn phải là người không tin, đó lại là
một đức tin. Tin hay không tin, cả hai đều là hệ thống
đức tin. Hữu thần và vô thần cả hai đều là cực đoan của

50
cùng một khái niệm, của cùng một giả tưởng. Một người
nói có, người kia nói không, nhưng cả hai trong họ đều
tuyệt đối không nhận biết về chân lí.
Chân lí đó không thể bị phủ nhận, và không thể đưa
ra được bằng chứng hay chứng minh nào cả. Người ta
phải sống nó; chỉ cuộc sống mới là bằng chứng. Khi ai
đó đã đạt tới điểm mình là chân lí, hiển nhiên tất cả mọi
hành động của người đó đều nhất định thay đổi. Tất cả
mọi hình mẫu cuộc sống của người đó sẽ khác đi.
Lâm Tế là phải rằng ông ấy có thể thấy khoảnh
khắc ai đó đi vào trong ngồi chùa của mình thì người đó
đang trong không gian nào, dây buộc của người đó là gì:
Người đó có chiều hướng nào trong cuộc sống hay người
đó chỉ đi một cách ngẫu nhiên như khúc gỗ mục nổi trên
sông? Người đó có ý thức là từng khoảnh khắc người đó
đang bỏ lỡ ý nghĩa và nghĩa của cuộc sống hay người đó
chỉ ngủ, giữ cho bản thân mình bận bịu đến mức câu hỏi,
câu hỏi tối thượng không nảy sinh?
Ikkyu, một nhà thơ Thiền, viết:

Rừng và đồng cỏ,


đá và bãi cỏ
đều là đồng hành của ta.
"Đường sai" của "mây khùng" này
sẽ không thay đổi.
Người thường gọi ta là ngu
Nhưng ta không bận tâm.
Vì ta đã được dán nhãn
"Dị giáo" và "quỉ,"
Không có trừng phạt mới
để lại cho kiếp sau của ta!

51
Con người của chân lí nhất định bị kết án, bởi vì
toàn bộ các kiếp sống của chúng ta được sống trên an ủi,
toàn là dối trá. Chúng ta tất cả đều chịu ảnh hưởng của
thuốc phiện mà các tôn giáo đã cung cấp cho. Khoảnh
khắc một người bước ra ngoài trạng thái ngủ này, toàn
thể đám đông sẽ chống lại người đó, bởi vì hành vi của
người đó sẽ thay đổi toàn bộ thế so với hành vi của đám
đông.
Đám đông không thể dung thứ cho bất kì ai cư xử
khác đi. Lí do là nỗi sợ lớn rằng có lẽ người này có thể
đúng. Và người đó có vẻ đúng thật: cái đẹp của người đó
được thay đổi, duyên dáng của người đó đã thay đổi, lời
nói của người đó có thẩm quyền mà chúng chưa bao giờ
có trước đây. Im lặng của người đó là sâu sắc. Người đó
được bao quanh bởi hào quang của năng lượng mới.
Điều này làm cho mọi người rất sợ - sợ rằng "người
này có thể đúng; thế thì chúng ta đã bỏ lỡ toàn bộ cuộc
sống của mình. Người này bằng cách nào đó phải bị tiêu
diệt." Không phải là không có lí do mà Socrates và
Anagoras đã bị đầu độc và al-Hillaj Mansoor bị đóng
đinh. Sarmad và Jesus... Và có hàng trăm người khác đã
bị ném đá đến chết hay bị thiêu sống, và tội lỗi duy nhất
của họ là ở chỗ họ đã đạt tới chân lí.
Bây giờ điều này làm tôi nhớ tới rằng ở Nam Mĩ
vào đầu thế kỉ này người ta đã phát hiện ra một bộ lạc
nhỏ sống trong rừng sâu - chỉ ba trăm người, nhưng tất
cả đều mù. Họ không có ý tưởng rằng họ bị mù bởi vì họ
chưa bao giờ thấy bất kì ai có mắt - và không có vấn đề
về việc thấy bởi vì họ không có mắt.
Một nhà nghiên cứu khoa học nghe nói về bộ lạc
này, cho nên anh ta đi vào rừng, sống cùng với bộ lạc đó
để hiểu họ, không xúc phạm họ bằng việc nói rằng họ bị
mù, cứ giả vờ rằng anh ta cũng giống như họ. Anh ta

52
thấy rằng lí do tại sao họ tất cả đều bị mù là do con ruồi
nào đó. Khi đứa trẻ còn chưa đầy sáu tháng, nếu con ruồi
đó đốt đứa trẻ, nó sẽ trở nên bị mù.
Cho nên đã có những đứa trẻ có mắt, nhưng ruồi
này là ruồi phổ biến trong mọi nhà ở mọi nơi, cho nên
không có khả năng nào cho bất kì đứa trẻ nào thoát. Và
không ai có thể nhớ được quá khứ trước bốn tuổi hay ba
tuổi là nhiều nhất; không ai có thể nhớ điều đã xảy ra khi
họ mới sáu tháng tuổi.
Cho nên cả bộ lạc đã sống và họ sống hoàn toàn
thoải mái. Họ xoay xở làm ruộng thế nào đó, họ xoay xở
đem gỗ về cho mùa đông. Họ xoay xở đem nước từ
giếng lên. Họ trở nên thích nghi với cuộc sống của người
mù. Và bởi vì toàn bộ xã hội đều mù, mỗi nhà nghiên
cứu trẻ này mới có thể tìm thấy ruồi. Nếu sau khi bạn đã
sáu tháng tuổi mà con ruồi này đốt bạn, thì bạn sẽ không
bị mù, cho nên chỉ trong sáu tháng đứa trẻ phải được bảo
vệ. Nhưng không có vấn đề bảo vệ trong bộ lạc này; họ
không có ý tưởng điều gì đang xảy ra. Đứa trẻ sáu tháng
tuổi không thể nói, "Xin bảo vệ con khỏi ruồi."
Anh ta ở lại lâu ở đó đến mức anh ta yêu một người
đàn bà. Anh ta muốn cưới cô ấy, nhưng dần dần bộ lạc
trở nên nghi ngờ người này. Mặc dầu họ mù, họ bắt đầu
thấy rằng người này bước đi theo cách khác, nói theo
cách khác, biết những điều mà họ không biết. Anh ta nói,
"Bây giờ mặt trời lên"; anh ta nói, "Bây giờ cả bầu trời
đầy sao" - và những con mắt mù loà đó không thể thấy vì
sao nào.
Dần dần, họ thấy rằng người này có cách thức nào
đó khác với họ. Họ ép buộc anh ta, nói, "Anh phải thành
thật với chúng tôi. Cái gì là khác biệt giữa chúng tôi và
anh? - bởi vì chúng tôi không thấy mặt trời nào, còn anh
thì nói về hoa và mầu sắc, và anh nói về các vì sao.

53
Những thứ này ở đâu? Phải có khác biệt gì đó giữa
chúng tôi và anh."
Anh ta phải thành thật với những người mù đáng
thương đó. Anh ta nói, "Tôi có mắt còn các bác không có
mắt. Mặc dầu các bác sinh ra đều có mắt, con ruồi thông
thường ở đây đã phá huỷ đôi mắt trước khi đứa trẻ vượt
qua giới hạn sáu tháng tuổi. Tôi có thể giúp được nhiều;
tôi có thể đem thuốc tới giúp để giết chết những con ruồi
này và có lẽ bằng cách nào đó chữa được cho các bác
nữa, để cho các bác có thể nhìn được."
Nhưng họ từ chối. Họ nói, "Chúng tôi đang hạnh
phúc như chúng tôi đang vậy, chúng tôi không muốn bất
kì rối loạn nào. Còn liên quan tới đám cưới của anh -
điều kiện là ở chỗ chúng tôi sẽ phải phá huỷ đôi mắt của
anh đi; bằng không chúng tôi không thể tin được một
người có mắt... Anh có thể làm bất kì điều hại nào cho
chúng tôi và chúng tôi sẽ tuyệt đối dễ bị tổn thương."
Thế là họ cho anh thời gian: "Anh có thể nghĩ trong
mười hai giờ. Nếu anh muốn cưới người đàn bà này,
chúng tôi sẽ phá huỷ đôi mắt của anh. Chúng tôi sẽ tìm
thấy chúng. Còn nếu anh muốn giữ đôi mắt của mình,
thế thì anh không thể sống cùng chúng tôi được và anh
không thể cưới người đàn bà đó."
Đêm đó anh ta nghĩ nhiều lần, "Làm gì đây? Những
kẻ ngốc này không muốn được giúp đỡ. Họ hoàn toàn
hạnh phúc trong mù của họ." Người ta có thể hiểu rằng
sẽ có rắc rối nếu ba trăm người mù bỗng nhiên có
mắt...Bạn nhìn vợ mình và bạn nói, "Lạy Trời! Con trâu
này mà là vợ mình sao?!" Và bạn thấy khuôn mặt riêng
của mình trong gương và bạn không thể tin được rằng
đây là bạn, bởi vì bạn chưa bao giờ thấy khuôn mặt
mình. Mọi thứ đều sẽ bị rối loạn.

54
Nhà nghiên cứu đó trốn đi trong đêm, vứt bỏ toàn
bộ ý tưởng về việc giúp đỡ họ, vứt luôn ý tưởng cưới
người đàn bà đó. Ý định ban đầu của anh ta đã là anh sẽ
cưới vợ rồi đem người đàn bà đó về thế giới văn minh
nơi cô ấy có thể được điều trị, và nếu anh ta thành công
trong việc trị liệu cho cô ấy, thì anh ta có thể đem một tổ
y tế tới điều trị cho cả ba trăm người đó.
Cũng điều đó là tình huống với mọi phật. Ông ấy
đem ánh sáng mới tới, cuộc sống mới, con mắt mới.
Nhưng bạn bắt đầu ném đá vào những người như vậy
đấy. Tội duy nhất của Socrates là ở chỗ ông ấy muốn dạy
cho mọi người cách tìm ra chân lí. Tội duy nhất của al-
Hillaj Mansoor là ở chỗ ông ấy đã tuyên bố, "Ana'l haq!
Bản thân ta là Thượng đế" - nhưng ông ấy đã không
tuyên bố điều đó như một phần của trò bản ngã, bởi vì
ông ấy đã nói, "Các ngài cũng là Thượng đế, các ngài chỉ
đơn giản không biết điều đó. Tôi biết điều đó."
Trường hợp của Al-Hillaj Mansoor là rất đặc biệt.
Thầy của ông ấy là Junnaid, và Junnaid nói, "Mansoor,
ta cũng biết ta là Thượng đế, nhưng ta cũng biết đám
đông sẽ không dung tha cho một tuyên bố như vậy đâu.
Ông giữ điều đó bên trong mình đi; ông giúp mọi người
nhận ra rằng họ là thượng đế, nhưng đừng bắt đầu tuyên
bố rằng ông là Thượng đế. Ông sẽ không được dung tha
đâu."
Nhưng Mansoor còn trẻ. Junnaid già rồi và ông ấy
đã thấy loại người nào tất cả đang bao quanh. Mansoor
đã không nghe lời ông ấy và bắt đầu tuyên bố, "Ta là
Thượng đế, và các ngài cũng là Thượng đế; sự khác biệt
chỉ là ở chỗ các ngài không nhận biết còn ta nhận biết."
Ông ấy đã bị băm vằm ra, điều đó không thể được gọi là
đóng đinh. Việc đóng đinh của Jesus là đơn giản.

55
Mansoor bị chặt ra thành từng miếng, chân, bàn chân,
tay, mắt, lưỡi, đầu - ông ấy bị phá huỷ từng miếng một.
Tại sao điều đó lại xảy ra? Những người này trở
thành mối nguy cho sự an ủi của chúng ta. Họ bắt đầu
tuyên bố những điều mà chúng ta sợ biết tới. Chúng ta
không muốn biết chúng ta là ai, bởi vì điều đó có thể làm
rối loạn mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta
đã định cư ở chu vi; nếu chúng ta biết trung tâm, chúng
ta sẽ phải thay đổi mọi thứ ở chu vi. Điều đó là hiểm
nguy. Và chúng ta đang sống trong khổ của mình và
trong đau khổ của mình, nhưng nó đã trở thành cách
sống quen thuộc thế. Mọi người đều sống theo cùng cách
- sao chúng ta phải nhận hiểm nguy?
Nhưng sự hiện diện của người như al-Hillaj
Mansoor kích thích bạn thay đổi cuộc sống của bạn.
Điều đó chọc giận mọi người, nó làm phiền nhiễu tới
mọi người rằng ai đó còn biết nhiều hơn họ biết. Họ
không thể dung thứ một người như vậy. Nghĩ trong thế
giới này là hành động tội phạm nhất; biết trong thế giới
này là chuẩn bị cho việc đóng đinh riêng của bạn.

Giáo sư Coleman Barks đã hỏi một câu hỏi:

Tôi cảm thấy rất biết ơn vì chứng ngộ của


thầy, trí huệ của thầy, thực nghiệm táo bạo
của thầy, cuộc sống của thầy. Xin cám ơn!
Rumi đã nói, "Tôi muốn bùng cháy, bùng
cháy...." Việc bùng cháy đó là gì vậy? Shams
đã nói, "Tôi là đám cháy." Thầy có lời nào về

56
Shams không? Từ Shams? Việc bùng cháy và
đám cháy đó có liên quan gì tới chứng ngộ
riêng của tôi không?

Coleman, bạn đã hỏi một câu hỏi rất nguy hiểm! -


bởi vì bùng cháy không liên quan gì tới chứng ngộ của
bạn cả. Trên con đường của chứng ngộ không có vấn đề
về việc bùng cháy.
Nhưng bởi vì bạn đang trong yêu với Mevlana
Jalaluddin Rumi... Tôi cũng yêu con người này. Nhưng
bạn phải hiểu rằng Sufi giáo vẫn còn phụ thuộc vào
Thượng đế giả tưởng. Nó không tự do với giả tưởng về
Thượng đế. Và đặc biệt Sufi giáo có khái niệm về
Thượng đế là đàn bà. Yêu là phương pháp của họ - yêu
Thượng đế toàn bộ nhất có thể được. Bây giờ bạn đang
yêu một giả tưởng không thể được, và tính toàn bộ được
đòi hỏi. Bạn sẽ cảm thấy cùng một loại bùng cháy, theo
một cách mãnh liệt hơn, như những người yêu cảm thấy
trên qui mô nhỏ hơn.
Những người yêu cảm thấy sự bùng cháy nào đó
trong trái tim họ. Niềm khao khát và ham muốn sâu sắc
gặp người mình yêu tạo ra sự bùng cháy đó. Yêu Thượng
đế nhất định tạo ra đám cháy rất lớn trong bạn. Bạn sẽ ở
trên ngọn lửa đó bởi vì bạn đã chọn đối tượng yêu của
mình là cái gì đó không thể được; đối tượng yêu của bạn
là giả tưởng. Bạn sẽ phải kêu và khóc, và bạn sẽ phải cầu
nguyện, và bạn sẽ phải nhịn ăn, và tâm trí bạn phải liên
tục lặp lại và nhớ tới người yêu.
Tâm trí có khả năng tưởng tượng bất kì cái gì và
cũng có khả năng tự thôi miên nó. Sau việc lặp lại lâu
dài bạn thậm chí có thể trông thấy Thượng đế, giống như

57
cách bạn đã tưởng tượng. Đó là một sản phẩm phụ của
tâm trí bạn. Nó sẽ làm cho bạn rất hạnh phúc, bạn sẽ
nhảy múa với niềm vui.
Tôi đã ở cùng người Sufis và tôi đã yêu những
người đó. Nhưng họ vẫn còn ở một bước xa với việc là
phật. Cho dù thơ ca của họ có hay - nó phải hay, bởi vì
nó tới từ tình yêu của bạn - kinh nghiệm của họ là ảo
giác do tâm trí riêng của họ tạo ra. Trong Sufi giáo, tâm
trí được căng ra tới điểm bạn trở thành gần điên vì người
yêu. Những ngày của sự chia cách với người yêu đã tạo
ra cảm giác bùng cháy.
Trên con đường của Thiền, không có việc bùng
cháy chút nào bởi vì không có giả tưởng, không có
Thượng đế. Và vấn đề không phải là yêu. Con người của
Thiền rất đáng yêu, nhưng người đó không thực hành
yêu; nó tới như sản phẩm phụ của việc nhận biết của
người đó. Người đó đơn giản nhận ra phật tính riêng của
mình. Không có vấn đề về người khác, một Thượng đế ở
đâu đó khác trên trời. Người đó đơn giản đạt tới trung
tâm riêng của cuộc sống của mình, và ở đó người đó
bùng nổ thành tình yêu, thành từ bi. Tình yêu của người
đó tới sau chứng ngộ, nó không phải là phương pháp cho
chứng ngộ.
Nhưng với người Sufis, yêu là phương pháp. Bởi vì
yêu là phương pháp, nên nó còn là một phần của tâm trí.
Nỗ lực trên con đường của dhyan, của Thiền là để
vượt ra ngoài tâm trí, đạt tới vô trí, để hoàn toàn trống
rỗng tất cả mọi ý nghĩ, kể cả yêu. Thiền là con đường
của trống rỗng - không Thượng đế, không yêu, không cái
gì được phép cả; chỉ cái không thuần khiết mà trong đó
bạn cũng biến mất. Ai có đó để mà cảm thấy bùng cháy?
Ai có đó để cảm thấy đám cháy?

58
Cho nên mặc dầu tôi yêu người Sufis... tôi không
muốn, Coleman này, làm tổn thương tới tình cảm của
bạn, nhưng tôi chắc chắn sẽ nói rằng bạn sẽ có một ngày
nào đó để đổi từ Sufis sang Thiền. Sufis vẫn còn sống
trong tưởng tượng; họ còn chưa biết tới trạng thái của vô
trí. Và bởi vì họ đã không biết tới trạng thái của vô trí,
thì dù các nhân cách của họ có thể trở nên đẹp đến đâu,
họ vẫn chỉ ở gần với chứng ngộ mà không chứng ngộ.
Nhớ lấy lấy, cho dù là ở rất gần thì cũng vẫn không phải
là được chứng ngộ.
Và lí do là rõ ràng: Sufi giáo là một nhánh, một bộ
phận của Hồi giáo. Nó mang gần như tất cả những cái tốt
trong Hồi giáo. Nhưng Hồi giáo là loại tôn giáo thấp
nhất. Hồi giáo, Do Thái giáo, Ki tô giáo - tất cả đều là
giả tưởng.
Chỉ có hai tôn giáo không giả tưởng, Phật giáo và
Đạo giáo. Thiền là con lai của hai tôn giáo này, và con
lai thì bao giờ cũng tốt hơn cả hai bố mẹ. Đó là sự gặp
gỡ của Phật và Lão Tử; từ sự gặp gỡ này mà Thiền được
sinh ra. Nó không phải là Phật giáo, nó không phải là
Đạo giáo; nó có tính cá nhân riêng của nó. Nó mang mọi
thứ đẹp tới từ Phật và mọi thứ vĩ đại tới từ Lão Tử. Nó là
đỉnh cao nhất mà con người đã từng đạt tới.
Hindu giáo là một đống lộn xộn: ba mươi ba triệu
thần! - bạn trông đợi cái gì? Hindu giáo vẫn còn là một
tôn giáo triết lí, tranh luận, giả tưởng. Nó đã không có
khả năng đạt tới những tầm cao của Phật. Phật được sinh
ra là người Hindu nhưng đã nổi dậy chống lại đống lộn
xộn này, một mình tìm kiếm chứ không tin. Đó là một
trong những điều quan trọng nhất cần ghi nhớ. Bất kì tôn
giáo nào bắt đầu bằng niềm tin đều sẽ cho bạn kinh
nghiệm tự thôi miên.

59
Chỉ Đạo giáo và Phật giáo không bắt đầu bằng
niềm tin. Toàn thể nỗ lực của họ là ở chỗ bạn phải đi vào
bản thân mình mà không có khái niệm gì về điều bạn
đang đi tìm ở đó. Chỉ cởi mở, sẵn có, không định kiến
nào, không triết lí và kinh sách - chỉ đi vào trong, cởi
mở, và khi bạn đạt tới điểm mà tâm trí im lặng, không
một ý nghĩ thoáng qua...
Theo Đạo và Phật, ngay cả Thượng đế cũng là một
ý nghĩ. Khi không có ý nghĩ, bạn đạt tới đỉnh Everest cao
nhất của tâm thức. Tại điểm đó bạn biết rằng mọi sinh
linh sống đều có tiềm năng là thượng đế.
Phật tương truyền đã nói, "Khoảnh khắc ta trở nên
chứng ngộ, ta đã ngạc nhiên: toàn thể sự tồn tại này đều
chứng ngộ, chỉ mỗi con người là không hiểu. Họ đang
mang chứng ngộ của mình bên trong mình và họ không
nhìn vào nó."
Phật đã thuật lại kinh nghiệm về kiếp sống quá khứ
của mình. Khi ông ấy còn là người chưa chứng ngộ mà
chỉ là người tìm kiếm, ông ấy nghe nói về một người đã
trở nên chứng ngộ, cho nên ông ấy tới gặp người đó.
Ông ấy không có ý tưởng chứng ngộ là gì, và ông ấy
không đến với bất kì định kiến ủng hộ hay chống đối.
Nhưng khi ông ấy tới gần con người này, ngày tự thấy
mình cúi lạy và chạm chân người đó. Ông ấy đã ngạc
nhiên! Ông ấy đã không quyết định làm việc đó - mặc
cho bản thân mình ông ấy vẫn cứ chạm chân người này.
Đó là một điều ngạc nhiên. Và khi ông ấy đứng dậy, điều
ngạc nhiên thứ hai thậm chí lại còn lớn hơn: người đã
chứng ngộ chạm chân ông ấy. Ông ấy nói, "Thầy đang
làm gì vậy? Thầy đã chứng ngộ, điều hoàn toàn phải với
tôi là chạm chân thầy. Nhưng sao thầy lại chạm chân
tôi?"

60
Và người đó cười phá lên. Người đó nói, "Thời
gian trước đây ta cũng không chứng ngộ. Bây giờ ta
chứng ngộ. Ông bây giờ chưa chứng ngộ. Một ngày nào
đó ông sẽ trở nên chứng ngộ. Cho nên vấn đề chỉ là thời
gian thôi. Khi có liên quan tới ta, ông có thể không biết
nhưng ta có thể thấy kho báu ẩn kín của ông."
Cho nên mọi người đều là phật, dù có nhận biết về
điều đó hay không nhận biết về điều đó. Không giả
tưởng nào tới trên con đường của Thiền.
Điều Rumi đang nói - "Tôi muốn bùng cháy, bùng
cháy..." - là tâm trí đang hội tụ vào người yêu giả tưởng,
và ham muốn bùng cháy để gặp ngài, để tan chảy trong
ngài. Nhưng đó là một thượng đế đối thể - điều đó có thể
là đàn bà hay đàn ông, điều đó không thành vấn đề.
Ở Bengal, ở India, có một giáo phái nhỏ tin rằng
chỉ mỗi Krishna là nam còn mọi người đều là nữ. Bởi vì
mọi người đều là nữ và có sự bùng cháy lớn để gặp
người yêu, thượng đế, nên họ ngủ cùng tượng của
Krishna trong giường.
Nhưng đây tất cả đều là trò chơi tâm trí. Ngoại trừ
Phật Gautam và Lão Tử, và những người đã trở nên
chứng ngộ theo dòng truyền thừa của họ, toàn thể nhân
loại đang sống trong giả tưởng. Tôi ca ngợi tính thơ ca
của Rumi, tôi ca ngợi cái đẹp của nhiều nhà huyền môn
Sufi, nhưng tôi không thể nói rằng họ đã chứng ngộ. Họ
vẫn đang dò dẫm, và việc dò dẫm của họ sẽ chấm dứt chỉ
khi họ vứt bỏ giả tưởng này về Thượng đế.
Việc tìm kiếm phải đi vào trong, không đi ra ngoài.
Bất kì việc tìm kiếm nào đi ra ngoài đều sẽ thay đổi nhân
cách bạn. Nó có thể làm cho nhân cách đẹp hơn, đáng
yêu hơn, nhưng nó chỉ là tưởng tượng.

61
Chuyện xảy ra là một thầy Sufi được nhiều người
yêu mến... đệ tử của ông ấy hay tới tôi và nói, "Khi thầy
chúng tôi tới, chúng tôi muốn cả hai thầy gặp gỡ."
Tôi nói, "Với một điều kiện: thầy của các bạn phải
là khách của tôi trong ba ngày, và các bạn phải không tới
trong ba ngày."
Thế là vị thầy đó tới, vì ông ấy thường tới chỗ đó
mọi năm trong một hay tháng. Ông ấy là người đáng
yêu, rất thơm ngát, rất rạng rỡ, rất vui đùa. Ông ấy hay
nhảy múa và ca hát và chơi nhạc cụ. Khi ông ấy tới nhà
tôi, tôi đóng cửa lại và bảo với các đệ tử, "Bây giờ các
bạn biến đi, và trong ba ngày để ông ấy ở với tôi."
Vị thầy này hỏi, "Ông muốn gì?"
Tôi nói, "Ông cất nhạc cụ đi, và trong ba ngày đừng
nghĩ về Thượng đế yêu mến của ông."
Ông ấy nói, "Mục đích của việc này là gì?"
Tôi nói, "Mục đích sẽ được biết tới sau ba ngày.
Chỉ trong ba ngày sẽ bình thường. Ông đang bất bình
thường."
Ông ấy nói, "Ông thật là người kì lạ! Tôi mà bất
bình thường sao?"
Tôi nói, "Vứt cái ý tưởng này về Thượng đế giả
tưởng đi. Ông đã trông thấy Thượng đế chưa?"
Ông ấy nói, "Tôi thấy Thượng đế ở mọi nơi."
Tôi nói, "Điều đó bắt đầu xảy ra từ bao giờ?"
Ông ấy nói, "Phải mất hai mươi năm cho tôi thấy
Thượng đế trong mọi người. Cuối cùng, tôi đã bắt đầu
thấy."

62
Tôi nói, "Đó là lí do tại sao tôi lại nói trong ba
ngày, ông đừng làm điều gì ông đã từng làm. Trong ba
ngày này coi như là ngày nghỉ khỏi việc công phu nhìn
Thượng đế trong mọi người."
Chỉ một ngày điều đó đã chấm dứt! Ngày hôm sau
ông ấy giận tôi lắm. Ông ấy nói, "Để tôi đi. Ông đã phá
huỷ nỗ lực hai mươi năm trời của tôi. Chỉ có một đêm tôi
theo ý tưởng của ông, và bây giờ vào buổi sáng tôi
không thấy Thượng đế nào ở đâu nữa."
Tôi nói, "Một Thượng đế mà ông đã thấy trong hai
mươi năm lại biến mất trong một đêm - thì có giá trị gì?
Ông không thể thấy rằng đó là một giả tưởng mà ông đã
áp đặt đó sao? Và hai mươi năm không cần thiết cho việc
lập trình như vậy - việc lập trình có thể được làm trong
vài giờ."
Một người có thể bị thôi miên chỉ trong bảy ngày
liên tục và được bảo như lời gợi ý sau thôi miên rằng
người đó sẽ thấy Thượng đế ở mọi nơi, trong mọi người,
và người đó sẽ rất vui vẻ, rất đáng yêu. Trong vòng bẩy
ngày người đó có thể được lập trình giống như máy tính,
và người đó sẽ bắt đầu thấy Thượng đế. Nhưng đây
không phải là con đường của chân lí.
Coleman, điều đó là hoàn toàn tốt: tận hưởng
những bài thơ hay của Rumi, tận hưởng những câu
chuyện Sufi hay. Nhưng tôi cảnh báo bạn, đừng bị lạc
vào chúng. Chúng chỉ là trò chơi của tâm trí, một
phương thức của việc tự thôi miên.
Tôi đã nói rằng bạn đã hỏi một câu hỏi nguy hiểm.
Tôi không muốn làm tổn thương tình cảm của bạn và
tình yêu của bạn, nhưng tôi phải nói chân lí cho dù nó
gây đau đớn. Một ngày nào đó bạn sẽ biết ơn tôi.

63
Sufi giáo không là gì cả. Bạn có thể tìm thấy bài
thơ hay ở mọi nơi. Và nếu bạn muốn, đem bất kì người
Sufi nào tới tôi và tôi sẽ lấy đi mọi kinh nghiệm của
người đó trong vòng một giờ. Đây là những người bất
bình thường, tự thôi miên mình.
Việc thực tế là đi tới điểm bạn tự giải thôi miên cho
mình, bởi vì mọi xã hội đều đã thôi miên bạn. Người
Hindu coi Krishna là thượng đế, và không bao giờ bận
tâm rằng Krishna đã đánh cắp mười sáu nghìn đàn bà từ
những người khác. Ông ấy đã cưới chỉ mỗi một người
đàn bà. Nhưng mười sáu nghìn đàn bà kia - toàn là đàn
bà đẹp, và lính của ông ấy sẽ bắt giữ cô ấy; ông ấy chỉ
làm một dấu hiệu là họ bắt cô ấy đưa vào cung điện.
Krishna cư xử với đàn bà như họ là súc vật, và ông
ấy chưa bao giờ nghĩ rằng họ có con, họ có chồng, họ có
bố mẹ già riêng của mình, hay bố mẹ chồng, và ông ấy
đang phá huỷ toàn bộ cuộc sống gia đình của họ. Và ông
ấy định làm gì với mười sáu nghìn đàn bà kia? Ông ấy
không phải là con bò đực. Ngay cả bò đực cũng phải mệt
mỏi. Mười sáu nghìn - đó là một kỉ lục. Dầu vậy, không
người Hindu nào hỏi điểm này.
Rama là Thượng đế của người Hindu, và không ai
đặt câu hỏi rằng ông ấy đã giết một tiện dân nghèo, một
thanh niên, chỉ bởi vì anh ta nghe ai đó trích đọc kinh
Vedas. Xã hội Hindu đã duy trì hệ thống đẳng cấp trong
năm nghìn năm, và tiện dân, sudra, đẳng cấp cuối, không
được phép đọc bất kì kinh sách tôn giáo nào. Người đó
không được phép có giáo dục nữa. Tiện dân không được
phép sống trong thành phố; họ phải sống bên ngoài thành
phố. Họ làm mọi công việc bẩn thỉu của thành phố và họ
sống cuộc sống nghèo nàn nhất trên thế giới. Toàn bộ
nhân phẩm và tính người của họ đã bị lấy đi.

64
Và anh thanh niên này đã không đọc gì, anh ta đơn
giản nghe một brahmin nào đó trích đọc Rig Veda. Chỉ
trốn đằng sau cây cối vì tò mò, anh ta đã bị bắt, và khi
anh ta bị đem tới Rama vì anh ta đã phạm tội lớn lao này,
Rama bảo mọi người, "Đun chảy chì ra và đổ vào tai nó,
bởi vì nó đã nghe Veda, điều bị cấm."
Người này chắc chắn chết. Khi bạn đổ chì lỏng vào
tai, bạn không thể trông mong gì người này còn sống
được. Anh ta ngã chết tại chỗ đó. Và không người Hindu
nào hỏi về điều đó. Ngay cả người như Mahatma Gandhi
cũng cứ lặp lại cái tên của Rama; ông ấy là thượng đế.
Và đây là tình huống trên khắp thế giới, với mọi
tôn giáo. Tôi đã nhìn vào mọi góc và xó xỉnh, và ngoại
trừ Thiền tôi không tìm thấy hiện tượng tôn giáo nào
tuyệt đối thuần khiết và đã không phạm phải một tội lỗi
chống lại nhân loại. Nó chỉ đóng góp nhiều cái đẹp hơn
và nhiều duyên dáng hơn và nhiều tình yêu hơn và nhiều
tính thiền hơn.
Cho nên điều đó là hoàn toàn tốt, Coleman; tận
hưởng bài thơ, nhưng đừng nghĩ rằng những bài thơ này
tới từ chứng ngộ. Họ thậm chí đã không biết tới từ chứng
ngộ. Không từ nào có trong tiếng Persian, tiếng Urdu,
tiếng Arabic, tương đương với chứng ngộ. Họ có "nhận
ra Thượng đế," nhận ra người yêu - nhưng người yêu là
tách biệt với bạn.
Toàn bộ vấn đề là ở chỗ cho dù bạn có tìm ra
thượng đế tách rời với bạn, thì hàng triệu người khác
phải đã tìm ra ngài từ trước rồi. Bạn sẽ trong đám đông.
Và bạn định làm gì khi bạn gặp Thượng đế? - nói, "Xin
chào, khoẻ chứ?" Không có gì nhiều trong cuộc gặp gỡ
này - bạn sẽ có vẻ lúng túng và Thượng đế sẽ có vẻ lúng
túng: Bây giờ phải làm gì với Giáo sư Coleman này?"

65
Điều đó là rất tốt... bạn đang làm việc phiên dịch tốt,
nhưng sao bạn tới đây?"
Bây giờ đừng làm điều gì như vậy, tạo ra sự lúng
túng cho Thượng đế. Thượng đế không tồn tại. Cái tồn
tại là tính thượng đế, và tính thượng đế đó bao quanh
bạn. Chúng ta tất cả đều trong cùng một đại dương.
Một câu chuyện cổ là: một con cá trẻ, có đầu óc rất
hay triết lí hỏi một con cá khác, "Chúng ta đã nghe nói
nhiều về đại dương; nó ở đâu vậy? Tôi muốn gặp đại
dương."
Mọi người đều nhún vai; họ nói, "Chúng ta cũng đã
nghe nói về đại dương, nhưng chúng ta không biết nó ở
đâu cả."
Một con cá già lôi con cá trẻ sang bên và bảo nó,
"Không có đại dương khác ở đâu cả. Chúng ta đang
trong nó. Chúng ta được sinh ra trong nó, chúng ta sống
trong nó, chúng ta chết trong nó. Đây là đại dương."
Và tôi nói với bạn, cùng điều đó là đúng với chúng
ta. Chúng ta được sinh ra trong tính thượng đế, chúng ta
sống trong tính thượng đế, chúng ta chết trong tính
thượng đế. Chỉ một điều phải được ghi nhớ: hoặc bạn có
thể đi qua kinh nghiệm vô cùng này của cuộc sống trong
khi ngủ, hoặc hoàn toàn thức tỉnh.
Thiền là cách duy nhất làm cho bạn nhận biết. Và
một khi bạn tràn đầy nhận biết, thì tất cả bao quanh đều
là đại dương của tính thượng đế. Chính cuộc sống này,
chính tâm thức này là điều thiêng liêng. Nó diễn đạt
trong tất cả các hình dạng - trong hoa hồng và trong hoa
sen và trong chim chóc và trong cây cối. Bất kì nơi đâu
có cuộc sống, nó không là gì ngoài tính thượng đế.
Chúng ta đang sống trong đại dương của tính thượng đế.

66
Cho nên đừng tìm kiếm ở đâu cả. Nhìn vào bên trong đi,
bởi vì đó là điểm gần nhất bạn có thể tìm thấy.
Sufi giáo là đẹp nhưng nó không phải là câu trả lời
tối thượng, và bạn không nên dừng lại tại Sufi giáo. Nó
là huấn luyện tốt để bắt đầu. Kết thúc với Thiền đi.
Và chính điều vĩ đại, đáng ngạc nhiên là từ những
đỉnh cao của Thiền bạn sẽ có khả năng hiểu Sufi giáo
nhiều hơn bạn có thể hiểu bằng việc sống trong giới Sufi.
Một khoảng cách nào đó là cần thiết, và Thiền cho bạn
khoảng cách đó. Từ khoảng cách đó bạn có thể chứng
kiến mọi tôn giáo. Họ đang làm gì? - chơi trò chơi, trò
chơi hay, nhưng trò chơi sau rốt vẫn cứ là trò chơi mà
thôi.
Bạn đang hỏi, "Việc bùng cháy và đám cháy đó có
liên quan gì tới chứng ngộ riêng của tôi không?" Không
liên quan gì cả. Bạn đã chứng ngộ trong chính khoảnh
khắc này; chỉ im lặng đi vào trong bản thể riêng của
mình. Tìm ra trung tâm của bản thể bạn và bạn đã tìm
thấy trung tâm của toàn thể vũ trụ. Chúng ta tách rời ở
ngoại vi nhưng chúng ta là một ở trung tâm. Tôi gọi điều
này là kinh nghiệm phật.
Chừng nào bạn còn chưa trở thành phật - và nhớ,
chính cái nghèo nàn của ngôn ngữ mà tôi phải nói
"Chừng nào bạn còn chưa trở thành...." Bạn đã chứng
ngộ rồi. Cho nên tôi phải nói, chừng nào bạn còn chưa
nhận ra, chừng nào bạn còn chưa nhớ điều bạn đã quên
mất...
Mọi đứa trẻ trong sự hồn nhiên của nó đều biết, và
mọi đứa trẻ đều đi lạc lối bởi vì biết bao nhiêu tri thức đã
được rót vào từ bố mẹ, từ tu sĩ, từ thầy giáo. Chẳng mấy
chốc hồn nhiên của đứa trẻ hoàn toàn bị bao phủ bằng đủ
mọi loại chuyện nhảm nhí.

67
Toàn thể nỗ lực của thiền là để cắt bỏ đi mọi bụi
bặm mà xã hội đã rót vào bạn và chỉ để tìm ra bản tính
phật nhỏ bé đó mà bạn đã được sinh ra cùng. Cái ngày
bạn tìm thấy bản tính phật mà bạn được sinh ra cùng,
vòng tròn là hoàn chỉnh. Bạn lại đã trở thành hồn nhiên.
Socrates trong ngày cuối của mình đã nói, "Khi tôi
còn trẻ tôi cho là tôi biết nhiều. Khi tôi trở nên già hơn
tôi bắt đầu nghĩ tôi biết mọi thứ. Nhưng khi tôi trở nên
già hơn nữa và tâm thức tôi trở nên sắc bén hơn, tôi đột
nhiên nhận ra tôi không biết gì cả."
Một câu chuyện hay nói rằng ở Hi Lạp có - đã có,
bây giờ nó chỉ còn là tàn tích - ngôi đền Delphi. Và nhà
tiên tri của ngôi đền Delphi đã tuyên bố rằng Socrates là
người trí huệ nhất trên toàn thế giới. Những người đã
biết Socrates chạy xô về bảo ông ấy, "Nhà tiên tri đã
tuyên bố ông là người trí huệ nhất trên thế giới!"
Socrates nói, "Nhà tiên tri này nhầm lần đầu tiên
đấy. Tôi không biết gì cả."
Mọi người rất phân vân. Họ quay lại Delphi và bảo
nhà tiên tri, "Ông nói ông ấy là người trí huệ nhất còn
ông ấy lại nói ông ấy không biết gì."
Nhà tiên tri nói, "Đó là lí do tại sao ông ấy là người
trí huệ nhất trên thế giới. Ông ấy lại đã trở thành đứa trẻ.
Ông ấy đã về nhà."

Maneesha cũng đã hỏi một câu hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,

68
Thầy đã nói về trái tim trống rỗng của Thiền.
Đêm qua chúng tôi đã dành cả tối để nghe
cách diễn đạt của Rumi về trái tim Sufi.
Thầy có thể nói về khác biệt giữa hai trái tim
này không?

Thực tế là ở chỗ điều người Sufis gọi là trái tim thì


lại chỉ là một phần của tâm trí họ. Tâm trí có nhiều khả
năng: suy nghĩ, cảm động, tưởng tượng, mơ mộng, tự
thôi miên - đây tất cả là những phẩm chất của tâm trí.
Trong thực tế không có trái tim như vậy; mọi thứ đều
được làm bởi tâm trí.
Chúng ta đã sống với sự phân chia truyền thống
này, rằng tưởng tượng và cảm động và tình cảm là của
trái tim. Nhưng trái tim bạn chỉ là hệ thống bơm thôi.
Mọi thứ bạn nghĩ hay tưởng tượng hay cảm động đều
được chứa trong tâm trí. Tâm trí bạn có bẩy trăm trung
tâm và chúng kiểm soát mọi thứ.
Khi Thiền nói trái tim rỗng nó đơn giản ngụ ý tâm
trí rỗng. Với Thiền, trái tim hay tâm trí là đồng nghĩa.
Nhấn mạnh là vào trống rỗng. Tâm trí rỗng trở thành
cánh cửa tới điều thiêng liêng đang bao quanh tất cả -
nhưng trước hết phải là trống rỗng.
Sufi giáo là việc tưởng tượng đẹp. Thiền không liên
quan gì tới tưởng tượng cả. Mọi thứ đều phải được làm
trống rỗng hết. Tên Rumi là hay theo nghĩa: không trong
tiếng Persian mà trong tiếng Anh, `roomy' nghĩa là trống
rỗng. Căn phòng hoặc có thể đầy đồ đạc hoặc nó có thể
không có đồ đạc nào, đơn giản là căn phòng. Căn phòng
trống rỗng đó chứa toàn thể không gian, toàn thể sự tồn
tại.

69
Sardar Gurudayal Singh phải đợi. Coleman đã hỏi
một câu hỏi rất nghiêm chỉnh, còn Sardar Gurudayal
Singh đang nghĩ, chuyện gì xảy ra cho thời gian của anh
ấy?

Betty Cheese, vợ của Chester, và cô Goodbody, cô


giáo chưa chồng, đi nghỉ cùng nhau ở Jamaica. Họ nằm
trên bãi biển, tận hưởng vui thú, thì cô Goodbody nói,
"Tôi nghĩ tôi sẽ gửi một bưu thiếp cho bạn trai của tôi,
Herbert."
"Ý hay đấy," Betty nói. "Tôi sẽ gửi một bưu thiếp
cho Chester." Thế là hai cô gái chạy đi và mua hai cái
bưu thiếp.
Cô Goodbody viết cho bạn mình, "Herbert yêu mến
nhất, Chỗ này thật đẹp, ước là có bạn ở đây."
Betty Cheese viết, "Chester yêu mến nhất, Chỗ là
đây, ước bạn thật đẹp!"

Ronald Reagan và Mikhail Gorbachev đang cau có


nhìn nhau qua bàn hội thảo tại Geneva. Họ đang ngồi
trên bờ miệng cuộc chiến hạt nhân, trong tranh cãi ai có
quyền kiểm soát một quốc gia sản xuất dầu hoả nhỏ, Abu
Dhabi.
"Trông đây, Reagan," ông Gorbachev nói. "Tại sao
chúng ta lại phải phá huỷ cả thế giới chỉ bởi một mẩu bất
động sản nhỏ?"
"Ông phải đấy," Reagan đáp. "Nhưng làm sao
chúng ta có thể giải quyết cuộc tranh cãi này mà không
bằng chiến tranh?"

70
"Đơn giản," Gorbachev nói. "Ông và tôi có thể có
cuộc thi dũng cảm ngay bây giờ - người với người."
"Được đấy!" vị tổng thống lão suy của Mĩ nói.
"Chúng ta sẽ làm gì?"
"Thế này, ở Nga," Gorbachev nói, "chúng tôi giải
quyết mọi sự như thế này: chúng tôi đứng đối diện nhau,
và mỗi một trong chúng tôi nhận một cú đá đích đáng
của người kia, ngay vào giữa hai chân. Bất kì ai có thể
đứng dậy nhanh nhất sau đó là người thắng cuộc."
"Ý hay đấy!" Reagan nói. "Ta bắt đầu đi."
Hai người đứng dậy, và Gorbachev đi trước. Ông ta
lên gân và tung ra một cú đá mạnh ghim thẳng vào đầu
Ronald. Reagan la lên, ngã sập xuống, lăn lộn trên đất
với đôi mắt lồi ra. Sau năm phút lăn lộn, ông ta xoay xở
kéo lê thân mình đứng dậy trên hai chân. "Được rồi,"
Ronnie nói hổn hển, "bây giờ đến lượt tôi."
"Ô!" Gorbachev nói. "Đừng bận tâm - ông có thể
có Abu Dhabi!"

Herbert Hoop đã tới tuổi chín mươi hai và quyết


định lấy ra tiền bảo hiểm nhân thọ. Ông ấy tới hãng bảo
hiểm Ripoff Insurance Agency và được chỉ vào văn
phòng của bác sĩ để kiểm tra sức khoẻ toàn diện. Sau khi
thử kĩ càng, bác sĩ bảo Herbert cởi quần áo ra.
"Mọi phép thử đều có kết quả tốt," bác sĩ Bandaid
nói. "Nhưng nếu ông không phiền hà tôi sẽ làm việc bình
phẩm cá nhân, ông có chim bé nhất mà tôi đã từng thấy.
Ông có vấn đề gì với nó không?"
"Thế này," Herbert nói, "Tôi đã lấy vợ từ mười năm
nay và chúng tôi có hai đứa con đáng yêu và cuộc sống

71
tình dục tốt. Vấn đề duy nhất tôi có với chim của tôi là ở
chỗ tôi khó tìm thấy nó vào ban ngày."
"Thật thế à?" Bandaid nói. "Thế đêm thì sao?"
"Đêm thì không có vấn đề gì," Herbert đáp. "Thế
thì có hai chúng tôi đi tìm nó."
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng... Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn


hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong với
toàn thể tâm thức của bạn và với sự khẩn thiết lớn lao
dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống
của bạn. Xuyên thẳng vào trung tâm như mũi giáo. Nó
không xa xăm gì, chỉ một bước thôi.
Khoảnh khắc bạn đạt tới trung tâm của mình bạn sẽ
thấy im lặng vô cùng, thanh thản lớn lao và niềm vui mà
bạn chưa từng biết tới trước đây. Hoa sẽ bắt đầu mưa rào
lên bạn, bởi vì sự tồn tại vui mừng nhiều lắm. Mọi tiến
hoá của tâm thức - khi mười nghìn chư phật đều ở tại
trung tâm, đó là biến cố trọng đại nhất. Khoảnh khắc này
bạn là phật. Bạn không phải trở thành, bạn bao giờ cũng
vậy rồi. Công việc của bạn bao gồm việc đem phật này
từ trung tâm ẩn kín của bạn tới ngoại vi của cuộc sống
của bạn, tới các hoạt động của bạn tới mối quan hệ của
bạn. Dần dần, dần dần đem phật từ trung tâm ra chu vi...
và bạn đã trải qua cuộc cách mạng lớn nhất có thể được

72
Tôi không biết cuộc cách mạng nào đích thực hơn cuộc
cách mạng này. Chứng kiến cẩn thận. Phật không ở trước
bạn, bạn là phật. cẩn thận về điều đó. Nếu bạn thấy phật
bên ngoài, chặt đầu phật ngay lập tức. Việc chứng kiến
của bạn là phật. Chính hiện hữu của bạn, chính cuộc
sống bạn, chính bản thể bạn là phật. Để làm điều đó rõ
ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Bây giờ chứng kiến. Bạn không là thân thể, bạn


không là tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng, nhân chứng về
cái trống rỗng, nhân chứng về cái không, và bỗng nhiên
từ chính trung tâm của bản thể bạn nảy sinh niềm lạc
lớn, cực lạc lớn. Vào khoảnh khắc này thính phòng Phật
đã trở thành cái hồ tâm thức im lặng. Các bạn đã tan
chẩy vào lẫn nhau. Các bạn chỉ là một phần của đại
dương. Đừng hỏi đại dương ở đâu. Cái này, như thế này
là đại dương. Ở đây bây giờ là đại dương, và tâm thức
đại dương là tự do tối thượng. Trước khi Nivedano gọi
các bạn lại, thu lấy thật nhiều kinh nghiệm và hoa và
hương thơm và thuyết phục phật đi cùng bạn.
Ông ấy tới... ông ấy là bản tính cố hữu của bạn.
Như ông ấy có thể ở trung tâm, ông ấy có thể ở chu vi.
Ngày may mắn đó chắc chắn tới một ngày nào đó mà
toàn thể cuộc sống của bạn trở thành được rót đầy. Tất cả
mọi hoạt động của bạn, tất cả mọi cử chỉ của bạn trở
thành duyên dáng thế, thiêng liêng thế. Chính im lặng
của bạn trở thành bài ca thế. Trung tâm bất động của bạn
trở thành điệu vũ thế. Và người biết tới trung tâm của
mình, cũng biết cái vĩnh hằng của mình, cái bất tử của
mình. Chư phật không chết, họ không sinh. Họ đơn giản

73
xuất hiện và biến mất vào trong cùng đại dương giống
như sóng.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng như chư phật, an bình, im lặng,


duyên dáng. Ngồi vài phút để thu thập không gian bạn đã
từng ở, con đường bạn đã từng bước đi. Bạn phải đi ngày
một sâu hơn, bạn phải mang phật ra chu vi cuộc sống của
bạn ngày một nhiều.Điều đó xảy ra, chắc chắn - tôi nói
điều đó với thẩm quyền tuyệt đối bởi vì điều đó đã xảy ra
cho tôi. Sao điều đó không thể xảy ra cho bạn được? Đó
là quyền tập ấm của chúng ta, bạn chỉ phải đòi lấy nó.

Được chứ, Maneesha?


Vâng, thưa Thầy kính yêu.

74
3. Hoặc kinh nghiệm
hoặc về nhà

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một lần Lâm Tế nói, "Những người đi theo
đạo, các ông chộp lấy lời từ miệng thầy cũ và
coi chúng là đạo đúng, cứ nói, 'Những thầy
giỏi này là phi thường, còn mình, một kẻ yếu
đuối, không dám vượt qua các danh nhân cổ
như thế.'"
"Đồ ngốc mù quáng!" Lâm Tế bình luận. "Các
ông đi qua toàn bộ cuộc sống ôm giữ cái nhìn
như vậy, phản bội lại hai mắt riêng của mình.
Chính chỉ những thầy lớn mới dám chê bai
chư phật và các tổ. Từ ngày xưa những vị tiền
bối của chúng ta chưa bao giờ có người nào ở
bất kì đâu mà tin vào họ. Chỉ khi họ đã bị
đuổi đi thì giá trị của họ mới trở nên được
thừa nhận. Nếu như họ đã được chấp nhận
toàn bộ bởi mọi người ở mọi nơi, thì họ còn
tốt cho cái gì nữa? Do đó người ta nói, 'Tiếng
gầm của sư tử làm vỡ sọ chó rừng.'"

75
Maneesha, có vài điều tinh tuý làm cho Thiền tuyệt
đối khác với bất kì tôn giáo nào, bất kì giáo phái nào, bất
kì loại kỉ luật, giáo huấn nào. Điều quan trọng nhất của
những tinh tuý này là ở chỗ Thiền là cuộc cách mạng.
Tất cả các tôn giáo khác đều là kẻ hầu cho những quyền
lợi được đầu tư.
Người giầu và người có quyền, các chính khách, đã
chi phối tất cả các tôn giáo. Các tu sĩ đã không là gì
ngoài kẻ hầu cho những tội phạm này. Đó là âm mưu cỡ
thế giới mà không ai nhận ra nó. Nó hiển nhiên và đơn
giản tới mức chúng từ ngay ban đầu, từ ngay thời thơ ấu
của mình, đã bị lập trình.
Việc lập trình này được thực hiện bằng tất cả mọi ý
định tốt trên thế giới. Bố mẹ yêu bạn, nhưng tình yêu của
họ cũng vô ý thức như họ vậy. Bố mẹ muốn bạn theo
cùng con đường như họ và ông bà họ đã theo. Họ không
đi tới biết về chân lí và cả ông bà họ cũng không biết. Họ
chỉ liên tục thuyết giảng những lời cũ cho trẻ nhỏ, những
người tuyệt đối trong hoàn cảnh bất lực.
Trẻ con không thể ngăn cản được họ. Thứ nhất,
chúng phụ thuộc vào bố mẹ về thức ăn, về quần áo - toàn
bộ việc sinh sống của chúng. Và thứ hai, chúng không
biết cái gì đang được làm cho chúng. Đưa chúng tới đền
chùa, tới tu viện, tới nhà thờ, tới giáo đường... chúng
cảm thấy hạnh phúc. Chúng không biết rằng chúng đang
bị nô lệ hoá theo cách rất tinh tế. Chúng hân hoan bởi vì
tất cả bố mẹ chúng, hàng xóm chúng, xã hội chúng đều
hân hoan. Chúng thậm chí không hỏi cái gì đang được
nhét vào tâm trí chúng. Chúng đã tới với một tấm bảng
sạch, nhưng mọi khoảnh khắc cái gì đó lại được viết lên
tấm bảng sạch đó.

76
Các đại học cũng là nô lệ, các trường cao dẳng
cũng là nô lệ - bởi vì sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào
tiền của chính phủ. Cho nên các chính khách chi phối...
Ngay bây giờ, bởi vì Ronald Reagan chống lại
thuyết tiến hoá của Charles Darwin... Là một người Ki tô
giáo chính thống, phát xít, ông ta chỉ có thể thấy rằng thế
giới này đã được tạo ra - tức là theo quan điểm của Ki tô
giáo - rằng thế giới này đã được tạo ra trong tính toàn thể
của nó, không có vấn đề tiến hoá. Nhưng việc truy tìm
vô biên của Charles Darwin lại chỉ ra rằng có tiến hoá;
thế giới này không được tạo ra đầy đủ, nó bao giờ cũng
không đầy đủ và tiến hoá. Việc ngăn cản các ý tưởng
mới được đặt trước các sinh viên không phải là việc của
bất kì chính phủ nào.
Bây giờ Ronald Reagan đang cố gắng cấm Charles
Darwin tại Mĩ. Cuốn sách của ông ấy về tiến hoá đã bị
cấm không cho để trong thư viện, trong đại học. Bây giờ
thậm chí việc dùng tên ông ấy cũng là tội.
Galileo lần đầu tiên đã viết trong cuốn sách của
mình rằng ý tưởng cũ về mặt trời quay quanh trái đất chỉ
là giả định; điều đó không phải là chân lí, điều đó chỉ có
vẻ là như vậy. Chân lí là chính điều ngược lại: trái đất
quay quanh mặt trời.
Bây giờ, điều đó là đi ngược lại với Kinh Thánh, và
Kinh Thánh là lời của Thượng đế, và Thượng đế thì
không bao giờ có thể phạm phải sai lầm. Nói gì đến
Thượng đế - ngay cả giáo hoàng cũng không thể sai lầm
được, và ông ấy thì có họ hàng xa xôi với Thượng đế;
ông ấy không phạm, không thể phạm sai lầm được. Và
đặc biệt khi bản thân Thượng đế đã làm ra thế giới này -
ngài biết còn rõ hơn Galileo liệu mặt trời quay quanh trái
đất hay trái đất quay quanh mặt trời.

77
Galileo già rồi, gần trên giường chết. Ông ấy bị lôi
tới toà án của giáo hoàng và ông ấy bị buộc phải thay đổi
lời phát biểu. Ông ấy đã cố gắng thuyết phục toà án, nói
rằng, "Tôi cũng là người Ki tô giáo đây; tôi không phải
là kẻ vô thần. Tôi tin vào Thượng đế, tôi tin vào Jesus -
nhưng đây là sự kiện khoa học và một sự kiện nhỏ thì
không liên quan gì tới tôn giáo cả."
Giáo hoàng nói, "Điều đó liên quan nhiều tới tôn
giáo lắm. Nếu một điều là sai trong Kinh Thánh, thì mọi
người có thể bắt đầu nghĩ, 'Ai mà biết được, những điều
khác cũng có thể sai chứ.' Chúng ta không thể cho phép
điều gì bị sai trong Kinh Thánh. Nó là chính chân lí. Ông
phải thay đổi điều đó; bằng không đối diện với cái chết."
Galileo nói, "Chết thì đằng nào tôi cũng đối diện
với nó rồi, nhưng chỉ để làm vui lòng ông tôi sẽ thay đổi
lời phát biểu. Nhưng nhớ, tôi sẽ phải làm lời chú thích..."
Giáo hoàng đã không hỏi lời chú thích gì; ông ta
nói, "Ông chỉ việc thay đổi lời phát biểu còn bất kì chú
thích gì ông muốn viết thì cứ viết ra."
Galileo đã làm một việc lớn. Ông ấy đã thay đổi lời
phát biểu, và ở dưới phần chú thích ông ấy nói, "Dù tôi
có nói điều gì, điều đó cũng không có nghĩa gì cả. Trái
đất vẫn cứ quay quanh mặt trời. Tôi là ai mà quyết định
được?"
Bây giờ, nỗi sợ của đủ mọi loại tâm trí nguyên thuỷ
- các thượng đế của họ, tham của họ về thiên đường, sợ
địa ngục của họ - đang được áp đặt liên tục lên đứa trẻ.
Điều đó được tiếp tục trong hệ thống giáo dục. Không hệ
thống giáo dục nào tồn tại trên thế giới này vào lúc này
mà có thể được gọi là tạo ra người nổi dậy, không tạo ra
nô lệ. Thế giới này đầy những kẻ nô lệ.

78
Bạn sẽ có thể hiểu được Thiền và Lâm Tế, nỗ lực
vô biên của họ để đem người nổi dậy vào thế giới này,
để tạo ra tôn giáo cũng là nổi dậy. Tất nhiên, mọi sự nổi
dậy đều phải chống lại quá khứ.
Quần chúng thông thường nghĩ rằng kinh sách càng
cổ đại, thì càng đúng. Họ tranh biện, các học giả của họ
liên tục biện minh rằng "kinh sách của chúng ta là cổ đại
hơn," và họ không hiểu một điều đơn giản: rằng kinh
sách càng cổ đại, thì nó càng nguyên thuỷ hơn, càng dễ
sai hơn, và càng ngu xuẩn hơn, bởi vì tâm thức con
người đã liên tục trưởng thành - theo đối thể trong khoa
học, theo chủ thể trong các trường năng lượng như
Thiền.
Phát biểu này sẽ gây sốc cho các tu sĩ và cái gọi là
những người tôn giáo, nhưng điều đó tuyệt đối đúng.
Lâm Tế một lần nói, "Những người đi theo đạo, các
ông chộp lấy lời từ miệng thầy cũ và coi chúng là đạo
đúng, cứ nói, 'Những thầy giỏi này là phi thường, còn
mình, một kẻ yếu đuối, không dám vượt qua các danh
nhân cổ như thế.'"
Người ta liên tục nghĩ rằng tất cả những cái cổ đều
là vàng. Điều này không phải bao giờ cũng đúng. Nó có
thể chỉ là mạ vàng thôi, đơn giản được đánh bóng để
trông như vàng.
Chân lí không liên quan gì với việc cũ hay mới.
Trong thực tế nó bao giờ cũng mới, bởi vì tâm thức
trưởng thành liên tục và ngày một tìm ra nhiều không
gian và bí ẩn mới.
Cùng thái độ này đã tồn tại với các nhà khoa học
trong những ngày đầu của sự phát triển khoa học, ba
trăm năm trước đây, khi nó bắt đầu phát triển như một
thế giới tách rời với tôn giáo. Họ đã có một tâm trí cuồng

79
tín và họ bắt đầu dùng cùng tâm trí đó cho chân lí khoa
học - rằng những chân lí này là vĩnh viễn.
Chỉ trong thế kỉ này, với Albert Einstein, sự việc
mới trở nên rõ ràng rằng thậm chí chân lí khoa học cũng
không vĩnh viễn. Những chân lí đó chỉ nêu ra giới hạn
của chúng ta. Nếu chúng ta có con mắt tốt hơn và công
cụ tốt hơn chúng ta sẽ thấy nhiều hơn, điều sẽ phá huỷ đi
các nguyên lí.
Bây giờ tình huống là ở chỗ khoa học đang phát
triển với sự bao la, với tốc độ đến mức bạn không thể
viết ra một cuốn sách lớn nghiên cứu khoa học, bởi vì
vào lúc cuốn sách lớn của bạn hoàn thành thì nó đã lạc
hậu rồi. Cho nên bây giờ khoa học phải phụ thuộc vào
bài báo, tạp chí thường kì. Khoảnh khắc bạn tìm thấy cái
gì đó bạn phải lập tức công bố nó trong các tạp chí khoa
học hay bài báo, bởi vì tháng sau không ai biết được - ai
đó có thể tìm ra cái gì đó khác và làm cho bạn thành lạc
hậu.
Lâm Tế đang nói, "Mọi người coi bất kì cái gì bắt
nguồn từ mồm các thầy cũ..." Ngay chỗ đầu tiên bạn
không thể quyết định được ai là thầy chừng nào bạn còn
chưa gặp người đó. Các thầy cũ có thể chỉ là hư cấu, chỉ
là một ý tưởng đã được ghi khắc vào bạn và đã đi sâu
vào tâm thức của bạn tới mức bạn không hỏi về nó.
Hàng triệu người đang tôn thờ những thứ mê tín
như vậy, và họ không hỏi câu hỏi nào. Nếu bạn đưa ra
một câu hỏi, bạn sẽ bị lôi ra toà án: bạn đã làm tổn
thương tới tình cảm tôn giáo của ai đó. Chân lí không
quan trọng, nhưng tình cảm tôn giáo của kẻ ngốc nào đó
mới quan trọng. Kẻ ngốc đó không thể mang tính tôn
giáo được ngay chỗ đầu tiên; làm sao kẻ đó có thể có
tình cảm tôn giáo được?

80
Nhưng quần chúng liên tục mang người chết. Bây
giờ không có cách nào để chứng minh nó, không có bằng
chứng nào rằng những người này đã chứng ngộ, rằng
điều họ nói là đúng. Họ có thể chỉ là nhà thơ, họ có thể
chỉ là nhà văn giỏi, họ có thể là triết gia tài, láu lỉnh và
bẻm mép. Nhưng bởi vì người đó không hiện diện, nên
rất khó để thấy hào quang của người đó, rất khó để cảm
thấy sự hiện diện của người đó.
Rất khó, nếu thầy đã mất, để tìm ra trong lời của
người đó cái gì sống. Lời mang tính sống khi chúng vừa
mới tới tươi tắn từ trái tim trống rỗng của thầy, và cuộc
sống của chúng lại rất ngắn ngủi. Chỉ một khoảnh khắc,
nếu bạn nhạy cảm, chúng có thể đi vào trong bản thể
bạn. Nếu bạn bắt đầu nghĩ về chúng, vào lúc đó chúng sẽ
chết. Nó là việc truyền trao lập tức.
Cho nên những thầy cũ... chỉ bởi vì họ cũ và được
nhiều người tôn thờ trong nhiều thế kỉ, cũng không tạo ra
ý nghĩa gì.
Lâm Tế đang nói cho những người đi theo mình,
"Những người đi theo đạo, các ông chộp lấy lời từ miệng
thầy cũ và coi chúng là đạo đúng, cứ nói, 'Những thầy
giỏi này là phi thường, còn tôi, một kẻ yếu đuối, không
dám vượt qua các danh nhân cổ như thế.'"
Làm sao tôi có thể hỏi được? Làm sao tôi có thể so
được? Tôi là người bình thường còn đây là những người
phi thường. Một số người đã công bố rằng họ là nhà tiên
tri của Thượng đế, một số đã công bố họ là đấng cứu thế
của Thượng đế, một số đã công bố rằng, giống như
Jesus, họ là đứa con duy nhất của Thượng đế. Họ là
những người rất hiếm hoi; làm sao bạn có thể hỏi họ?
Bạn là người bình thường.

81
Nhưng sự thực là, tất cả mọi nhà tiên tri và đấng
cứu thế của ai đó không tồn tại đều đang lợi dụng mọi
người. Điều họ nói chỉ là lời, nhưng họ che giấu đằng
sau những mặt nạ của việc là nhà tiên tri.
Những người lên tiếng công bố mình là nhà tiên tri
đều ốm yếu về tâm lí. Chỉ là con người, hoàn toàn thông
minh và thuần khiết, với trái tim rỗng để kinh nghiệm thế
giới, là đủ. Bạn không phải là nhà tiên tri làm gì, bạn
không phải là sứ giả làm gì, một paigambara, một vị cứu
thế làm gì.
Nhưng phương thức này của việc là nhà tiên tri, là
đấng cứu thế, là sứ giả, chỉ để làm cho các phát biểu
riêng của họ thành có thẩm quyền. Họ đang nói nhân
danh Thượng đế, và không may Thượng đế lại không tồn
tại.
Tôi không đồng ý với Friedrich Nietzsche, người
đã nói rằng Thượng đế chết rồi. Ông ấy đã thực sự nói
một điều lớn lao, nhưng tôi không đồng ý bởi vì Thượng
đế chưa bao giờ được sinh ra, vậy làm sao ngài có thể
chết được? Thượng đế chỉ là nỗi sợ được tích luỹ của
nhân loại.
Con người cảm thấy bất an thế, bị bao quanh bởi
cái chết, bị bao quanh bởi đủ mọi loại lo âu và phiền não
của thế giới, con người cần một người bảo vệ về mặt tâm
lí, ai đó có đó mà con người có thể cầu nguyện vào
những lúc khó khăn, người mà con người có thể dựa dẫm
vào, người có thể công bằng và từ bi và nhân từ. Con
người đã phóng chiếu mọi ý tưởng này lên một giả tưởng
về Thượng đế.
Có những người bản ngã có thể công bố, "Ta là nhà
tiên tri. Ta đã được Thượng đế đặc biệt phái xuống để
chuyển giao thông điệp." Nhưng thông điệp lại cũ rích

82
đến mức nó chứng tỏ nó thậm chí không được một nhà
văn sạch nước cản viết ra.
Bạn nhìn vào các chuyện cổ tích Ấn Độ mà xem:
chúng sao mà thô tục thế, khiêu dâm thế. Nhưng không
người Hindu nào đã từng điều tra, "Thượng đế mà viết
chuyện khiêu dâm sao?" Chúng toàn chuyện khiêu dâm.
Koran hay Kinh Thánh hay chuyện cổ tích Hindu, chúng
có vẻ trẻ con thế. Chúng không có cái vẻ được trau
chuốt, được làm tinh tế của một nhà văn lớn như Leo
Tolstoy hay Fyodor Dostoevsky. Chúng được viết ra bởi
những người vô giáo dục.
Mohammed không thể viết được, ông ấy tuyệt đối
vô giáo dục, cho nên bất kì điều gì ông ấy đã nói đều đã
được những người đi theo ông ấy ghi lại. Jesus là người
vô giáo dục, con của thợ mộc, người nghèo nhất trong
những người nghèo. Ông ấy không thể đọc hay viết
được, nhưng ông ấy đã đến các cuộc họp của các giáo sĩ,
nghe các giáo sĩ trong giáo đường. Bản thân ông ấy phải
đã là người hoang tưởng, tự tuyên bố mình là đứa con
duy nhất của Thượng đế. Không một phát biểu nào chỉ ra
bất kì cái bình thường nào. Nó đơn giản là sự lặp lại của
cái cũ.
Nhưng mọi người cứ tin vào họ, không hỏi giấy uỷ
nhiệm của họ, cũng không bận tâm rằng các công bố của
họ chỉ ra cái ốm yếu tâm lí nào đó của họ, rằng họ muốn
được biết tới như đấng tối cao với con người khi hành
động của họ lại chỉ ra họ thậm chí không là con người.
Mohammed đã lấy chín đàn bà. Bây giờ điều đó sẽ
tạo ra hỗn độn trên thế giới, và ông ấy đã đưa vào kinh
Koran rằng quyền tập ấm của mọi người Hồi giáo là lấy
ít nhất bốn đàn bà. Bây giờ, trong tự nhiên tỉ lệ đàn ông
và đàn bà là bằng nhau; tự nhiên biết cách giữ cân bằng.

83
Các nhà tâm lí trở nên nhận biết sau chiến tranh thế
giới thứ nhất, và còn nhận biết hơn sau chiến tranh thế
giới thứ hai, rằng tự nhiên không phải là không thông
minh; có thông minh lớn lao vận hành đằng sau nó. Bởi
vì trong chiến tranh nhiều đàn ông chết đi, nên tỉ lệ, sự
cân bằng bị rối loạn; đã có nhiều đàn bà hơn đàn ông.
Sau cả hai cuộc chiến tranh nhiều con trai được sinh ra
hơn trước đó.
Thông thường, nếu một trăm con gái được sinh ra,
thì một trăm mười bốn con trai được sinh ra, bởi vì con
trai không khoẻ hơn con gái, như bạn vẫn nghĩ. Chúng
mong manh hơn, chúng dễ bị ốm hơn, cho nên đến lúc
chúng lấy vợ, mười bốn con trai đã chết và sự cân bằng
thành như nhau - một trăm con gái, một trăm con trai.
Nhưng sau chiến tranh thế giới, bỗng nhiên - điều
đó cho chỉ dẫn rằng tự nhiên muốn giữ cân bằng - các
thế kỉ cũ tỉ lệ một trăm con gái, một trăm mười bốn con
trai đơn giản thay đổi. Sau chiến tranh nó trở thành một
trăm bốn mươi, một trăm năm mươi con trai với một
trăm con gái, bởi vì tỉ lệ cũ phải được khôi phục lại.
Nếu mọi đàn ông đều bắt đầu lấy bốn đàn bà, thì
giải quyết ra sao với ba đàn ông bị bỏ lại không có đàn
bà? Bạn cho rằng họ chỉ ngồi im lặng không làm gì và để
cho cỏ tự nó mọc lên sao? Họ sẽ làm biến chất toàn xã
hội. Với họ bạn sẽ phải quản lí mãi dâm. Họ sẽ tạo ra đủ
mọi loại đồi bại dục và bạn sẽ phải quá bảo vệ vợ bạn
nữa, bởi vì nỗi sợ sẽ có đó rằng có ba người xung quanh
chưa có gia đình.
Thế rồi có mọi nguy hiểm rằng bạn không thể nào
yêu bốn vợ một cách bình đẳng; bạn phải có một vợ bạn
yêu hơn. Bốn vợ sẽ không đẹp ngang nhau. Sẽ có âm
mưu thường xuyên và ghen tuông thường xuyên và đánh
lộn thường xuyên giữa bốn vợ để sở hữu chồng, cho nên

84
toàn bộ cuộc sống sẽ là cuộc tranh đấu liên tục - và bên
ngoài bạn đã để ba người trong việc tìm kiếm đàn bà.
Bây giờ, Thượng đế sẽ gửi loại thông điệp nào đây?
Và nếu bạn nói với người Hồi giáo rằng điều này là
tuyệt đối ngu xuẩn, Thượng đế không thể phạm phải sai
lầm như vậy... Bản thân ngài đã tạo ra một đàn ông, một
đàn bà, và đó là bằng chứng chắc chắn ngài muốn giữ
cân bằng. Ngài đã tạo ra Adam và Eve, ngài đã không
tạo ra bốn Eve. Một là đủ để phá vỡ an bình của Adam.
Một là đủ để lôi anh ta ra khỏi thiên đường.
Trong một trường nhỏ, thầy giáo trường đang hỏi
các cậu bé, "Các con có thể kể lại câu chuyện về Thượng
đế trở nên giận dữ bởi vì việc không vâng lời của Adam
và Eve không?"
Một cậu bé đứng dậy và nói, "Mọi thứ đều rõ ràng.
Chỉ một điều con không biết làm sao ngài xoay xở được,
bởi vì trong sách không viết gì về nó cả. Sách nói
Thượng đế lái họ ra khỏi thiên đường..." Đứa bé này
đang hỏi trong loại xe nào. Nó phải là xe Ford - nhưng
có xe trong những ngày đó không, trong vườn Eden?
Ngài đã lái họ ra, và việc lái chắc chắn ngụ ý rằng có xe
cộ nào đó. Cậu bé này đang hỏi về loại xe gì.
Nhưng ngài đã tạo ra chỉ một đàn bà và một đàn
ông; điều đó là đủ bằng chứng rằng sự tồn tại cần sự cân
bằng nào đó. Ý tưởng này của Mohammed chỉ là một
trường hợp khẩn cấp. Nó không phải là chỉ thị từ
Thượng đế và nó không phải đúng mãi mãi. Đó chỉ là
trong tình huống đặc biệt ở Saudi Arabia nơi có nhiều
đàn bà và ít đàn ông, bởi vì đàn ông liên tục đánh nhau,
cho nên tỉ lệ đã đi tới tình huống là chừng nào một đàn
ông không lấy bốn đàn bà, thì ba đàn bà sẽ còn không có
gia đình, và điều đó sẽ tạo ra rắc rối. Cho nên nó đơn

85
giản là vấn đề của tình huống nào đó; nó không thể được
làm thành nguyên tắc cho vĩnh viễn.
Nhưng ngay cả bây giờ, xa hẳn với Arabia, ở Ấn
Độ, ngay cả hiến pháp Ấn Độ cũng chấp nhận rằng một
người Hồi giáo có thể lấy bốn đàn bà. Bây giờ, người
Hồi giáo không thể tìm được bốn đàn bà cho họ, cho nên
họ phải bắt cóc vợ, con gái người khác. Và bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng cho dù họ có được quốc gia tách biệt
bằng cách nói rằng họ không thể sống với người Hindus,
thì dầu vậy ở Ấn Độ họ vẫn muốn một mảnh đất tách rời
của riêng họ. Bây giờ quốc gia nguyên gốc đã bị chia
thành ba quốc gia, Bangladesh, Pakistan, Hindustan, và
vẫn Ấn Độ có dân số Hồi giáo đông nhất trên toàn thế
giới. Không nước nào có dân số Hồi giáo đông thế này.
Điều đó tới từ đâu?
Nếu một người lấy bốn đàn bà, một cách tự nhiên
người đó có thể tạo ra bốn đứa con trong một năm. Nếu
bốn đàn bà lấy một đàn ông, điều đó sẽ không có tác
dụng...
Tôi muốn nói, nếu bốn đàn ông lấy một đàn bà, vẫn
sẽ chỉ có một đứa trẻ. Điều đối lập sẽ không có tác dụng.
Tôi phạm phải sai lầm! Tôi không phải là người không
sai, bạn nên nhớ điều đó. Tôi không là nhà tiên tri, không
là đấng cứu thế; tôi không chấp nhận thượng đế nào. Tôi
chỉ là bản thân mình - sao tôi lại phải là nhà tiên tri hay
đấng cứu thế trong việc phục vụ cho một thượng đế giả
tưởng nào đó? Tôi không phải là người đưa thư. Tất cả
các nhà tiên tri đều nhà người đưa thư thôi, nhưng họ
nghĩ họ rất vĩ đại.
Lâm Tế đang nói rằng cái ý tưởng mê tín này phải
bị vứt bỏ. Ông ấy rất rõ ràng.

86
Ông ấy nói, "Đồ ngốc mù quáng!" Lâm Tế
bình luận. "Các ông đi qua toàn bộ cuộc sống
ôm giữ cái nhìn như vậy, phản bội lại hai mắt
riêng của mình. Chính chỉ những thầy lớn mới
dám chê bai chư phật và các tổ. Từ ngày xưa
những vị tiền bối của chúng ta chưa bao giờ
có người nào ở bất kì đâu mà tin vào họ. Chỉ
khi họ đã bị đuổi đi thì giá trị của họ mới trở
nên được thừa nhận. Nếu như họ đã được
chấp nhận toàn bộ bởi mọi người ở mọi nơi,
thì họ còn tốt cho cái gì nữa? Do đó người ta
nói, 'Tiếng gầm của sư tử làm vỡ sọ chó
rừng.'"

Một phát biểu rất có ý nghĩa, rất độc đáo. Ông ấy


đang nói rằng nếu bạn được mọi người chấp nhận, điều
đó đơn giản nghĩa là bạn thuộc vào đám đông xoàng
xoàng - bạn là một Mahatma Gandhi, bạn không phải là
một Socrates.
Con người của chân lí nhất định bị thiêu sống hay
bị ném đá hay bị đầu độc hay bị đóng đinh, bởi vì người
đó đứng lên chống lại đám đông và sự an ủi của họ.
Người đó sẽ nói những điều không có trong kinh sách
của họ. Người đó thậm chí còn phủ nhận kinh sách của
họ.
Bạn có thể thấy, như một ví dụ mang tính tồn tại...
Tôi đã không làm hại bất kì ai trong đời mình nhưng tôi
bị kết án trên khắp thế giới bởi sự kiện đơn giản là tôi sẽ
không chấp nhận bất kì dối trá nào như sự an ủi. An ủi
chỉ dành cho những kẻ hèn nhát. Nó là tốt cho người tầm
thường.
Con người của chân lí nhất định phủ nhận nhiều
điều mê tín đã treo quanh bạn trong nhiều thế kỉ, và khi

87
thời gian đã trôi qua họ đã trở thành quí giá hơn. Con
người của chân lí, con người của kinh nghiệm, của
chứng ngộ, nhất định phủ nhận nhiều trong những cái
gọi là nhà lãnh đạo tôn giáo của bạn.
Lâm Tế đang nói, "Nếu bất kì điều gì Phật nói" -
ngay cả Phật, và ông ấy là người theo Phật - "cho dù
Phật nói điều gì đó không khớp với kinh nghiệm của tôi,
tôi sẽ phủ nhận ông ấy."
Đây đã là truyền thống của Thiền, một truyền thống
rất sống. Họ sẽ tôn thờ Phật, họ sẽ cúng dường bài ca và
hoa cho tượng Phật, nhưng khi có liên quan tới kinh
nghiệm của họ, nếu Phật đi ngược lại nó, thế thì họ
không quan tâm. Họ tin cậy vào tâm thức riêng của họ,
và nếu sự việc đi tới điểm này, họ sẽ phải phủ nhận ngay
cả Phật Gautam.
Điều này, người thường không thể hiểu nổi. Họ
nghĩ rằng hoặc bạn tôn thờ Phật, hoặc bạn không. Nhưng
Lâm Tế đang nói rằng bạn có thể yêu cho dù bạn có thể
không đồng ý.
Phật là một nhân cách thực sự đáng yêu. Không
người nào khác với sự vĩ đại như vậy đã từng bước đi
trên trái đất - nhưng điều đó không có nghĩa là ông ấy
không thể sai được. Ông ấy đã phạm phải nhiều sai lầm,
và con người của kinh nghiệm sẽ vạch trần ông ấy mặc
dầu người đó theo ông ấy và yêu ông ấy, kính trọng ông
ấy, có lòng biết ơn vô cùng. Điều đó không có nghĩa là
cái gì không phải cũng nên được bỏ qua.
Lâm Tế đang nói, "Chính chỉ những thầy lớn mới
dám chê bai chư phật và các tổ. Từ ngày xưa những vị
tiền bối của chúng ta chưa bao giờ có người nào ở bất kì
đâu mà tin vào họ."

88
Thiền không muốn bất kì ai là người tin cả. Hoặc là
kinh nghiệm hoặc đi về nhà. Ngoại trừ kinh nghiệm,
không niềm tin nào sẽ có ích.
Cho nên những người đã theo các Thiền sư không
phải là người theo, họ là những bạn lữ hành. Họ hân
hoan trong chứng ngộ của thầy. Họ say sưa với trí huệ
của thầy, và họ tìm thấy con đường để cho họ cũng có
thể kinh nghiệm cùng kinh nghiệm tia chớp làm tan biến
mọi câu hỏi, mọi câu trả lời, và để bạn đơn giản hồn
nhiên, định tâm - vĩnh hằng trong tay bạn. Nhưng họ
không phải là người theo, và điều này là rất khó hiểu cho
đám đông bình thường.
Một sư Hindu đã du hành cùng tôi trong tàu hoả ba
mươi năm trước đây và ông ấy rất nổi tiếng ở Bắc Ấn
Độ. Ông ấy hỏi tôi, "Ông đã có được bao nhiêu người đi
theo?"
Tôi nói, "Không, tôi không có người đi theo."
Ôn ấy nói, "Ông không có người đi theo nào sao?
Thế thì mọi người nghĩ rằng ông là thầy theo cách nào?"
Tôi nói, "Tính thầy không liên quan gì tới người đi
theo cả; bằng không thì ông càng có nhiều người đi theo
ông sẽ càng là thầy vĩ đại hơn. Thế thì không ai có thể
cạnh tranh với giáo hoàng được. Ông ấy có sáu trăm
triệu người Cơ đốc giáo: ông ấy là thầy lớn nhất."
Tôi bảo ông ấy, "Tôi có bạn đồng hành. Tôi có
bạn… Tình bạn trao sự kính trọng cho con người, trao
chân giá trị cho con người. Đi theo làm nhục con người."
Đừng bao giờ là người đi theo, bởi vì điều đó có
nghĩa là bạn chỉ là cái bóng, chỉ đi theo dấu chân của ai
đó khác, không thử tìm ra con đường riêng của mình và
bản thể riêng của mình. Người đi theo là kẻ yếu đuối.

89
Con người của dũng cảm tìm con đường riêng của
mình. Người đó có thể hân hoan trong chứng ngộ của ai
đó. Người đó có thể yêu ai đó tới mức mà người đó có
thể gọi người này là thầy mình, nhưng thầy không bao
giờ có thể gọi người đó là người đi theo, chỉ là người bạn
đi sau chút ít - thêm vài bước nữa và người đó cũng sẽ
trở thành phật. Thu người đó về người đi theo là điều rất
sỉ nhục và bẽ bàng. Nhưng tất cả các tôn giáo đều đã làm
điều đó; họ đã thu toàn thể nhân loại thành nô lệ.
"Từ ngày xưa," Lâm Tế nói, "những vị tiền bối của
chúng ta chưa bao giờ có người nào ở bất kì đâu mà tin
vào họ."
Họ đã làm nản lòng mọi người bởi việc tin vào họ;
họ động viên mọi người tin cậy vào chính mình. Và đó là
nơi con đường của mọi tôn giáo trở nên tách biệt với
Thiền. Họ tất cả đều cố gắng tụ tập nhiều người chuyển
đạo, nhiều người Hindu giáo, nhiều người Cơ đốc giáo,
nhiều người Hồi giáo. Đó là trò chơi chính trị; nó không
phải là tôn giáo.
Bạn có thấy khi giáo hoàng tới Ấn Độ không? -
tổng thống và thủ tướng Ấn Độ đều có mặt để nghêng
đón ông ấy. Họ không tới nghênh đón bất kì
Shankaracharya nào, họ không tới nghênh đón bất kì
Acharya Tulsi nào, họ không tới nghênh đón bất kì Sufi
Hồi giáo nào. Cái gì đặc biệt ở giáo hoàng vậy? Ông ấy
có sáu trăm triệu người đằng sau mình; ông ấy có quyền
lực chính trị cực lớn.
Nhưng Thiền không quan tâm tới quyền lực chính
trị. Nó có một loại quyền lực hoàn toàn khác - quyền lực
của tình yêu. Điều đó không thu bạn thành nô lệ, thành
cái bóng, mà nâng bạn lên cùng trạng thái của người là
thầy.

90
Phật tương truyền đã nói, "Ta sẽ không được thoả
mãn chừng nào tất cả những người đã cùng sống với ta
còn chưa trở thành phật. Kém hơn thế sẽ không thoả mãn
ta. Nếu các ông muốn ta hân hoan và mở hội, thì đừng
phí thời gian - trở thành phật đi." Đây là cách tiếp cận rất
nhân bản, rất kính trọng. Và điều khác rất quan trọng ông
ấy nói...
Trước khi tôi nói điều đó... đã có một nhà tư tưởng
lớn ở Ấn Độ, Mahatma Bhagwandin. Chỉ hai người nổi
tiếng là Mahatma, Mahatma Gandhi và Mahatma
Bhagwandin. Mahatma Gandhi là chính khách; mọi cử
chỉ của ông ấy đều chỉ để lôi kéo cử tri. Nhưng Mahatma
Bhagwandin là nhà tư tưởng độc lập. Cũng chỉ là ngẫu
nhiên, nhưng thỉnh thoảng tôi lại gặp ông ấy ở hội thảo
nào đó hay ở đâu đó. Ông ấy yêu tôi, và cái ngày ông ấy
chết tôi đã có mặt ở Nagpur. Chỉ là ngẫu nhiên, tôi đã tới
trong chuyến đi giảng bài, từ Chanda và Wardha, tới
Nagpur, và ngay khi tôi vào Đại học Nagpur để nói, thì
ai đó bảo tôi rằng Mahatma Bhagwandin sắp chết rồi.
Thế là tôi bỏ bài giảng và tôi tới gặp ông ấy.
Ông ấy đã trở thành hoàn toàn như một bộ xương.
Ông ấy cầm tay tôi và ông ấy bảo tôi, "Tốt quá anh đã
tới, và bất ngờ thế. Chỉ một điều tôi bao giờ cũng muốn
nói với anh và tôi lại chưa bao giờ nói điều đó. Bây giờ
không còn nhiều thời gian nữa, tôi phải nói điều đó. Anh
sẽ phải sống cuộc sống bị ngược đãi. Anh sẽ bị hàng
triệu người kết án, bởi vì bất kì điều gì anh nói cũng
chống lại tâm trí đám đông. Nhưng," ông ấy nói, "đừng
thay đổi con đường của anh. Bất kì điều gì xảy ra - cho
dù là việc đóng đinh xảy ra thì điều đó cũng không thành
vấn đề gì. Điều thành vấn đề là ở chỗ chân lí phải được
tuyên bố ra."

91
Lâm Tế đang nói rằng chỉ khi những thầy cũ này đã
bị đuổi đi thì giá trị của họ mới được thừa nhận. Khi đám
đông đã ném đá vào họ, tống họ ra khỏi đám đông,
truyền bá đủ mọi loại dối trá và tin đồn về họ, chỉ thế thì
họ mới được thừa nhận.

Nếu như họ đã được chấp nhận toàn bộ bởi


mọi người ở mọi nơi, thì họ còn tốt cho cái gì
nữa?

Lâm Tế đang tạo ra một phát biểu rất hàm súc. Nếu
bạn được chấp nhận ở mọi nơi, được kính trọng ở mọi
nơi, điều đó đơn giản nghĩa là bạn là tốt không vì cái gì
cả. Điều đó đơn giản nghĩa là bạn là một nhà ngoại giao
tinh ranh, nghĩa là bạn cứ nói những điều hấp dẫn mọi
người, nghĩa là bạn chưa bao giờ nói ra điều gì có thể
làm tổn thương tâm trí đám đông, những người chậm
tiến. Bạn không nói từ trái tim mình và kinh nghiệm của
mình, bạn đơn giản nhìn vào mọi người và bạn nói điều
họ muốn nghe.
Đó là điều các tu sĩ và các mahatma của bạn đang
làm. Bất kì điều gì bạn muốn nghe họ đều lặp lại như
con vẹt. Đó là cái vòng rất luẩn quẩn. Bạn muốn nghe
điều đó, họ lặp lại điều đó. Họ trở nên rất kính trọng bạn
bởi vì họ đã xác nhận việc nói dối của bạn là chân lí, họ
đã giúp cho sự an ủi của bạn. Bạn sẽ nâng họ lên thành
các mahatma và thánh nhân vĩ đại. Nhưng thánh nhân
chưa bao giờ mang tính nổi dậy cả.
Tôi phải làm rõ ràng rằng tất cả mọi thánh nhân của
bạn đều là các nhà ngoại giao, tinh khôn và ranh mãnh.
Bất kì điều gì bạn muốn họ đều làm. Họ xác nhận niềm
tin của bạn, dù ngu xuẩn đến đâu, và họ trở thành vĩ đại
trong mắt bạn.

92
Những người vĩ đại thực sự là những người bạn đã
đem đi đóng đinh. Lỗi của họ là ở chỗ họ đã không an ủi
bạn; họ đơn giản phát biểu sự kiện, chân lí. Chân lí đó là
tiếng gầm của sư tử.
Lâm Tế là phải khi ông ấy nói, "Do đó người ta
nói, 'Tiếng gầm của sư tử làm vỡ sọ chó rừng.'"
Nhân loại bình thường, chậm tiến tôi gọi là chậm
tiến bởi vì điều đó đã được tìm ra sau chiến tranh thế
giới thứ nhất... Vào thời đó các nhà tâm lí đã phát hiện ra
cách đo trí thông minh. Cho nên họ đã đo trí thông minh
của lính và họ ngạc nhiên: họ tất cả đều dưới mười bốn
phần trăm. Bạn có thể có một trăm phần trăm thông
minh; mười bốn phần trăm là thông minh rất chậm tiến.
Chủ tịch hạ viện của nghị viện Ấn Độ, Lok Sabha,
bực mình với phát biểu của tôi khi tôi nói rằng tất cả
những chính khách này đều chậm tiến. Ông ấy đã viết
một bức thư cho tôi nói, "Ông đã sỉ nhục nghị viện. Ông
sẽ phải trả lời, bằng không ông sẽ bị đưa ra pháp lí."
Tôi bảo Neelam, thư kí của tôi, viết thư trả lời cho
ông chủ tịch hạ viện, về bất kì câu hỏi nào ông ấy đã hỏi.
Trong những câu trả lời đó, như lời mở đầu, tôi bảo cô
ấy viết rằng tôi đã sẵn sàng đem một nhóm nhà phân tâm
tới nghị viện để kiểm tra trí thông minh của các nghị
viên"... và nếu chứng minh được rằng tỉ lệ dưới mười
bốn phần trăm, thì tất cả các ông phải từ chức. Nếu việc
này chứng tỏ rằng tỉ lệ đó không phải là chân lí, họ có tỉ
số trung bình trên mười bốn phần trăm, thì tôi sẵn sàng
chịu bất kì sự trừng phạt nào về điều đó.
"Một phán quyết pháp lí sẽ không mang tính quyết
định. Cách duy nhất để chứng minh liệu tôi là phải hay
trái là trước hết làm một phép kiểm tra tâm lí cho tất cả
các thành viên Lok Sabha. Hoặc họ tất cả sẽ phải từ

93
chức, kể cả ông, hoặc tôi sẵn sàng chịu bất kì trừng phạt
nào. Không cần phải ra toà; bản thân Lok Sabha có thể
quyết định bất kì sự trừng phạt nào. Tôi hoàn toàn sẵn
sàng cho việc đó."
Ông ấy trở nên im lặng, và tôi đã đợi trong gần hai
năm cho tới giờ. Ông ấyđã thấy ra vấn đề, rằng tôi sẽ tạo
ra rắc rối. Những chính khách đó được đám đông bình
thường chọn ra; họ đại diện cho người bình thường. Họ
không phải là các nhà trí thức lớn, giới trí thức.
Nhưng ông ấy phải đã nhìn vào tình huống này.
Ông ấy biết trong nghị viện này mọi người ném giầy vào
nhau trong tranh cãi, họ đánh người, họ phải bị cảnh sát
lôi ra ngoài nhà nghị viện. Tất cả mọi hành động của họ
đều chứng tỏ rằng họ là những người chậm tiến, nhưng
vẫn đủ tinh ranh để thuyết phục đám đông, bởi vì đám
đông thậm chí còn thấp hơn.
Nhưng im lặng của ông ấy là lớn lao. Im lặng của
ông ấy chứng minh ông ấy đã hiểu ra vấn đề - rằng điều
đó sẽ gây ra sự om sòm toàn thế giới nếu cả nghị viện
được chứng tỏ toàn là bọn chậm tiến. Và có mọi khả
năng... Ông ấy biết điều vẫn xảy ra hàng ngày trong nghị
viện.
Lâm Tế đang nói, "Chỉ khi họ đã bị đuổi đi thì giá
trị của họ mới trở nên được thừa nhận. Nếu như họ đã
được chấp nhận toàn bộ bởi mọi người ở mọi nơi, thì họ
còn tốt cho cái gì nữa? Do đó người ta nói, 'Tiếng gầm
của sư tử làm vỡ sọ chó rừng.'"
Một người của thông minh tối thượng là đủ làm cho
cả nhân loại chống lại người đó. Hai mươi mốt nước đã
cấm tôi vào. Thật kì lạ... tôi có thể làm gì với visa du lịch
ba tuần? Tôi không phải là kẻ khủng bố, tôi không mang
bom; tôi chống lại bất kì loại bạo hành nào. Nhưng cả

94
nghị viện không một người phản đối nào đã quyết định
rằng tôi không chỉ không được vào nước họ mà tôi
không được tiếp dầu cho máy bay của mình tại các sân
bay quốc tế, tôi thậm chí không thể hạ cánh máy bay của
tôi trên sân bay của họ. Họ nói rằng sự hiện diện của tôi
sẽ làm quấy rối cho nền đạo đức của họ. Chỉ trên sân
bay, cách xa thành phố hàng dặm đường, sự hiện diện
của tôi sẽ làm hỏng nền đạo đức, tôn giáo, cách sống của
họ, truyền thống của họ, chính thống của họ. Chỉ đứng ở
sân bay trong máy bay của tôi...
Ở Anh, nơi được coi là một trong những quốc gia
thông minh nhất, tôi đã phải ở lại trong sáu giờ và tôi
muốn chỉ ở phòng đợi sân bay. Tôi có cả hai điều - tôi có
máy bay riêng của mình, phi công riêng của mình, và tôi
đã mua vé hạng nhất, cho nên họ không thể nói rằng
phòng đợi chỉ dành cho người có vé hạng nhất.
Viên chỉ huy sân bay bị ở vào tình thế rất lúng túng.
Ông ta nói, "Tôi có thể làm gì đây? Bộ nội vụ nói qua
điện thoại rằng con người này thậm chí không được phép
vào phòng đợi. Ông ta là người nguy hiểm."
Tôi nói, "Các ông có thể kiểm tra hành lí của tôi.
Tôi không mang bom nào. Bằng cách nào tôi có thể quấy
rối nền đạo đức của nước Anh được? Và nếu tôn giáo và
nền đạo đức của họ có thể bị phá huỷ dễ dàng thế, thì
chúng có đáng giữ lại không?"
Ông ấy gọi điện thoại lại cho Bộ nội vụ và câu trả
lời lại vẫn như cũ - rằng nếu tôi muốn ở lại tôi có thể ở
sáu giờ chỉ trong nhà giam, nhưng không được ở ngoài
nhà giam. Và tôi phải ở sáu giờ trong nhà giam bởi vì
thời gian bay của phi công tôi đã hết. Mọi phi công đều
có thời gian bay - đó là khó khăn - và sẽ là chống lại luật
bay nếu bay quá giờ, cho nên phi công phải nghỉ trong
sáu giờ. Tôi và vài người bạn của mình cùng đi phải nghỉ

95
trong nhà giam. Cùng điều đó đã xảy ra ở nhiều nơi. Bây
giờ gần như là một người chống lại cả thế giới.
Ông tổng giám mục của Nhà thờ Chính thống Hi
Lạp, nhà thờ cổ nhất của Ki tô giáo, đã đe doạ ông thủ
tướng và ông tổng thống rằng nếu họ không đuổi tôi đi
ngay lập tức thì ông ấy sẽ đặt chất nổ vào ngôi nhà mà
tôi và các bạn tôi đang sống. Chúng tôi sống trên một
hòn đảo trong thời hạn của visa bốn tuần; chúng tôi
không định ở lại đó. Tôi đã không bước ra vườn của
chiếc nhà gỗ một tầng mà tôi ở trong đó.
Nhưng ông tổng giám mục nhà thờ Ki tô giáo, nhà
thờ cổ nhất, đã quên mất hoàn toàn về các giáo huấn của
Jesus, rằng bạn phải yêu kẻ thù của mình. Tôi thậm chí
không phải là người bạn... Nhưng đây là thế giới chúng
ta đang sống. Một thế giới đầy những nô lệ với những
thương hiệu khác nhau - người Hindu giáo, người Hồi
giáo, người Ki tô giáo.
Thiền là phát biểu cách mạng về tính tôn giáo.
Một nhà thơ Thiền, Ikkyu, đã viết:

Mưa đã rơi từ chạng vạng tối,


rền rĩ trên sông Hsiang.
Vậy mà lữ khách vô gia cư
vẫn hát bằng toàn bộ linh hồn mình.
Biển xanh và trời xanh này
giữ tinh tuý của nhịp tim tôi.

Thiền là tôn giáo của cái đẹp.


Bạn biết mô tả của Upanishad về thực tại tối
thượng, satyam, shivam, sunderam. Hoặc con người có
thể đạt tới điều tối thượng bằng việc tìm ra chân lí của
bản thể mình, satyam, hoặc người đó có thể đạt tới bằng

96
việc tìm ra tính thiêng liêng của bản thể mình, lòng tốt,
hoặc người đó có thể đạt tới điều tối thượng bằng việc
tìm ra cái đẹp vĩnh hằng của bản thể mình.
Thiền là tôn giáo của cái đẹp. Sự kiện kì lạ là ở chỗ
nếu bạn có thể có được một điều này, thì hai điều kia tự
động theo sau. Nếu bạn đạt tới chân lí, satyam, thì
shivam và sunderam sẽ tự động theo sau. Chúng là một
điều được nhìn từ ba quan điểm.
Bởi vì cái đẹp là nhịp đập của Thiền nên nó có tính
sáng tạo hơn. Nó đã tạo ra thơ ca vĩ đại, hội hoạ vĩ đại.
Nó đã biến đổi điều bình thường như cung thuật hay
kiếm thuật thành thiền. Nó không phải là tôn giáo không
sáng tạo; nó đã tạo ra và đã thêm cái đẹp của sự tồn tại.

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Chỉ người chứng ngộ khác, hay người còn
chưa tới, mới có thể là người đương đại của
một thầy?

Vâng, Maneesha, bởi vì chứng ngộ là bên ngoài


thời gian, cho nên mọi người chứng ngộ đều đương đại.
Khoảng cách theo thời gian giữa họ không thành vấn đề
chút nào tại đỉnh đó, vươn lên vượt ra ngoài thời gian.
Bất kì ai đạt tới... khoảng cách giữa hai người có
thể là hai mươi nhăm thế kỉ hay năm nghìn năm, nhưng
khoảng cách đó là trong thời gian. Khoảng cách đó là

97
cách đo của tâm trí, và chứng ngộ thì vượt cả ra ngoài
thời gian và tâm trí. Do đó, chỉ người chứng ngộ mới có
thể đương đại.
Người chưa chứng ngộ có tiềm năng bùng nổ vào
chứng ngộ, và chính khoảnh khắc này người đó sẽ đi vào
thế giới của chư phật. Chính khoảnh khắc này người đó
sẽ thấy mình đứng bên cạnh Phật Gautam và Lâm Tế.
Tôi nhớ tới một giai thoại nhỏ.
Trong nhà hàng Phật Zorba Rajneesh trên trời, Phật
Gautam, Khổng Tử, và Lão Tử đang ngồi quanh bàn, và
một cô sannyasin trẻ rất đẹp mang một chiếc vò rất đẹp
tới và hỏi, "Các ông có muốn nếm cuộc sống không?"
Khổng Tử lập tức nhắm mắt lại và ông ấy nói,
"Thôi đủ rồi. Ta đã sống cuộc sống và ta không muốn
làm gì với cuộc sống chút nào."
Phật nói, "Ta muốn nhấm nháp trước để xem nó
mang vị gì" - Phật bao giờ cũng trên trung đạo. Cho nên
ông ấy nhấm nháp rồi ông ấy nói, "Đắng quá."
Cô gái định hỏi cùng câu hỏi đó với Lão Tử, nhưng
trước khi cô ấy có thể nói được gì thì ông ấy đã giằng lấy
cả vò và uống hết, rồi ông ấy nói, "Chừng nào các ông
còn chưa uống nó một cách toàn bộ và toàn thể, thì làm
sao các ông biết nó được? Khổng Tử này cư xử y hệt kẻ
ngốc như ông ấy vẫn cư xử trên trái đất - nhắm tịt mắt
lại. Phật cư xử theo cùng cách ông ấy đã quen cư xử trên
trái đất - bao giờ cũng trung đạo. Chừng nào ông còn
chưa biết cái toàn thể, ông vẫn không biết."
Cho nên khi các bạn trở thành chư phật, các bạn sẽ
gặp đủ mọi loại bè bạn, các bạn sẽ đương đại với mọi
chư phật của quá khứ. Nhưng các bạn mang tiềm năng
đó ngay chính khoảnh khắc này.

98
Maneesha đã hỏi một câu hỏi khác nữa:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Thầy không phải là người vĩ đại nhất, người
bài trừ thánh tượng bạo dạn nhất của mọi
thời đại sao?

Không may, Maneesha, tôi là người đó đấy.


Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh.

Baron Fuzz-butt, một quí tộc tại triều đình của Vua
Arthur của Merry England, có danh tiếng là người rất
hoà hoa phong nhã với phụ nữ. "Không có chuyện như
vậy," một hôm ông ta công bố, "là người đàn bà xấu."
Ông ấy nghe lỏm việc nói điều này từ một người
đàn bà có cái mũi tẹt gần như phẳng trên khuôn mặt, và
bà ấy giáp mặt với Fuzz-butt.
"Thú nhận sự thật đi!" bà ấy kêu lên. "Ông bây giờ
đang đối mặt với người đàn bà xấu!"
"Không xấu chút nào đâu, thưa bà," Baron Fuzz-
butt nói một cách hào hoa. "Bà giống như mọi người đàn
bà khác, một thiên thần rơi xuống từ thiên đường. Bà chỉ
không may là bà bị ngã lên mũi mình thôi!"

Gorgeous Gloria bắt đầu hẹn hò với Rock Hunk,


ngôi sao điện ảnh, và chẳng mấy chốc chuyển vào căn hộ
trên tầng mái của anh ta, ở cao trên màn sương khói của
San Francisco.

99
Một buổi tối, Gloria đi mua bán về thấy rằng Rock
không có nhà. Cảm thấy đói, cô ấy nhìn vào tủ lạnh và
thấy rằng nó trống rỗng, thế là cô ấy đi ăn ở nhà hàng.
Tình cờ, cô ấy vào cùng nhà hàng nơi Rock đang
ăn tối dưới ánh nến im lặng cùng Luscious Lucy, một cô
bạn gái khác của anh ta.
Gloria nhìn thấy cảnh tượng này và nhanh chóng đi
tới bàn của họ.
Rock Hunk nhìn lên khi Gloria lao qua nhà hàng
tới, và rồi nhanh chóng nhìn ra xa dường như anh ta
không biết cô ấy.
"Có chuyện gì vậy, cưng?" Gloria cằn nhằn, khi cô
ấy tới bàn. "Anh không nhận ra em khi có quần áo sao?"

Leroy, chàng bảnh da đen, một hôm ngồi trên cây


trong công viên Trung tâm, New York, thích thú ngắm
cảnh. Anh ta lơ mơ ngủ khi một đôi thanh niên da trắng
tới và ngồi trên ghế dài của công viên phía dưới mình.
Đôi này bắt đầu âu yếm vuốt ve và hôn hít, và chẳng lâu
mấy họ đã nằm ra trên ghế, làm tình.
Vừa lúc đó một cảnh sát bước tới và bắt đôi thanh
niên này vì tội loã lồ không hợp phép. Viên cảnh sát thấy
Leroy ngồi trên cây và lôi anh ta xuống làm nhân chứng.
Ngày hôm sau, tại toà án, Leroy đứng ở chỗ nhân
chứng và quan toà nói, "Bây giờ, Leroy, anh nói cho toà
anh đã thấy điều gì?"
"Vâng, thưa quí toà!" Leroy kêu. "Họ đéo nhau!"
"Này trông đây!" quan toà gắt gỏng. "Anh không
được dùng ngôn ngữ kiểu đó, bằng không tôi sẽ giam

100
anh vì tội khinh miệt toà án! Bây giờ, nói lại cho tôi: họ
đã làm gì?"
"Họ đéo nhau!" Leroy kêu lên.
"Được!" quan toà nói. "Tôi tuyên án anh một tháng
giam vì tội khinh miệt."
Một tháng sau Leroy trở lại chỗ làm nhân chứng và
quan toà lại hỏi anh ta đã thấy gì.
"Thưa quí toà!" Leroy kêu. "Họ đéo nhau!"
"Một tháng tù giam vì tội khinh miệt!" quan toàn
kêu lên, và Leroy bị đem đi.
Việc này cứ tiếp diễn, hết tháng nọ tới tháng kia,
mãi vài năm sau. Cuối cùng, khi Leroy quay lại lần thứ
hai trăm, quan toà nói, "Trông đây, Leroy, tôi hoàn toàn
chán ngán với vụ án này rồi. Chúng ta bây giờ tất cả đều
đã già hơn; chắc chắn anh có thể nói cho tôi, trong ngôn
ngữ hợp khuôn phép, điều gì đã xảy ra vào ngày đó ở
công viên!"
"Thôi được, thưa quí toà," Leroy nói, "để tôi nói lại
nó như thế này:
Quần anh ta tụt xuống
Dưới mắt cá chân,
Hòn bi của anh ta đung đưa
Trong gió thoảng.
Cái mà các ngài biết của anh ta,
ở nơi các ngài biết,
và nếu điều đó không phải là đéo nhau,
Thì cho tôi chiếc ghế điện!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

101
Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng, nhắm mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn


hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong bằng
toàn bộ năng lượng sống của bạn, bằng toàn bộ tâm thức
của bạn và bằng sự khẩn thiết lớn lao, dường như khoảnh
khắc này là khoảnh khắc cuối cùng. Thấm sâu vào trung
tâm bản thể bạn như một mũi tên. Tại đó, tại trung tâm
này, bạn là phật và là người đương đại với mọi chư phật.
Chính khoảnh khắc này thời gian đã biến mất... tâm trí
đã bị bỏ lại đằng sau. Bạn đã vượt ra ngoài cả hai. Im
lặng này, phúc lạc này, sự chân thành hoàn toàn này...
Chỉ một điều còn lại, chứng kiến, bởi vì chứng kiến là
cái tên khác của phật. Giữ lấy việc chứng kiến khi
Nivedano sẽ cho bạn tín hiệu thảnh thơi.
Nivedano...
(tiếng trống)

Giữ lấy việc chứng kiến. Bạn không là thân thể,


bạn không là tâm trí, bạn chỉ là tâm thức thuần khiết,
nhận biết. Khi bạn trở nên nhận biết sâu sắc, thực thể cá
nhân của bạn biến mất. Thính phòng Phật này thực sự trở
thành cái hồ phật. Tôi có thể thấy tâm thức bạn tan chẩy
và hội nhập vào cái hồ không gợn sóng.
Tại khoảnh khắc này chỗ này là thiêng liêng nhất,
bởi vì không ở đâu khác trên thế giới mười nghìn người
đang cố gắng đạt tới trung tâm. Trung tâm này phải được
mang dần dần, dần dần tới hoạt động thường ngày của
bạn. Cùng việc chứng kiến, cùng cái im lặng, cùng sự

102
duyên dáng, cùng niềm vui - bất kì điều gì bạn làm cả
ngày, nhớ bạn là phật và bạn phải giữ chân giá trị của
phật, và toàn thể cuộc sống của bạn sẽ được biến đổi.
Bây giờ, thu lấy thật nhiều nhận biết, thật nhiều hoa đã
mưa rào lên bạn... Cái đẹp, chân lí, cái thiện, bạn phải
đem chúng trở lại.
Tối nay thật đẹp theo cách riêng của nó, nhưng
mười nghìn chư phật tan chẩảy vào đại dương làm cho
nó thành khoảnh khắc lịch sử. Đã có những ngày này
trong quá khứ khi mà tại nhiều nơi khoảnh khắc vàng
này đã xảy ra. Bây giờ tất cả những nơi này đã biến mất.
Tôi đang cố gắng làm sống lại ngôn ngữ đã bị lãng quên.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại... nhưng đừng quên rằng bạn là phật. Im


lặng, an bình, mang nhận biết lớn lao cùng bạn, còn
trong nhận biết này hai mươi bốn giờ một ngày. Dần dần
điều đó sẽ trở thành chính nhịp đập của bạn. Bạn sẽ
không phải nhớ nó; nó sẽ có đó như dòng chảy ngầm
trong tất cả mọi hành động, cử chỉ, lời nói, im lặng của
bạn. Thu lấy kinh nghiệm này. Nhớ con đường vàng bạn
đã đi qua, và đã đi ra từ cùng con đường đó.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

103
104
4. Thô lỗ làm sao

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một hôm khi Lâm Tế và Phổ Hoá 10 cả hai
cùng đang dự bữa tối tại nhà người chủ, Lâm
Tế hỏi: "Sợi tóc nuốt hết biển cả, và hạt tiêu
đựng trọn núi Thái sơn. Đây là hoạt động phi
thường của quyền năng siêu nhiên hay bản
chất nguyên thuỷ như nó vẫn thế?"
Phổ Hoá đá chân dưới bàn ăn.
"Thô lỗ làm sao!" thầy kêu lên.
Phổ Hoá vặn vẹo, "Thầy nghĩ đây là chỗ nào -
mà lại nói về thô lỗ và tế nhị!"
Hôm sau Lâm Tế và Phổ Hoá lại dự bữa tối.
Thầy hỏi, "Bữa tiệc hôm nay thế nào so với
bữa hôm qua?"
Phổ Hoá đá chân dưới bàn như trước.
"Đủ tốt đấy," Lâm Tế nói, "nhưng thô lỗ làm
sao!"
Phổ Hoá bình luận, "Lão mù! Phật pháp liên
quan gì tới thô lỗ và tế nhị?"
Lâm Tế thè lưỡi ra.

10
Pu'hua: Phổ Hoá

105
Maneesha, trước khi tôi thảo luận giai thoại nhỏ
nhưng ý nghĩa này về Lâm Tế, tôi phải giới thiệu cho
Bảo tàng các Thần một món quà từ Rafia.
Trong vài tháng đã có căng thẳng rất kì lạ phát sinh
trong giao thông Mĩ, bởi vì nhiều ô tô đi trên đường đến
mức bạn có thể đi bộ về nhà còn nhanh hơn bạn đi xe ô
tô. Trong ba giờ, bốn giờ, năm giờ mọi người đơn giản
bị mắc kẹt lại. Một cách tự nhiên, có giới hạn cho sự
kiên nhẫn, và vài người bắt đầu đem theo súng.
Ở San Francisco và LA sáu người đã bị bắn mà
không có lí do gì cả, nhưng chỉ bởi vì sau khi bóp còi
trong năm giờ mà không thể nhúc nhích được một li, họ
trở nên giận dữ - và giận dữ là ở bên trong mọi người, nó
chỉ cần một thời điểm nào đó để trồi lên bề mặt - đến
mức họ bắn mọi người, những người họ tuyệt đối không
biết gì cả. Những người này không chắn đường, họ
không phải là nguyên nhân; họ cũng bị chắn đường.
Không ai biết liệu luồng giao thông đã bị dừng ở đâu hay
điều gì đã xảy ra - liệu đó là một tai nạn hay xe tải bị lật.
Thấy tình huống này, rằng sáu người đã bị giết
trong vòng một tuần, những người chủ xe khác bắt đầu
mua súng, bởi vì sự việc trở nên rất nguy hiểm; ít nhất để
tự bảo vệ mình, cho dù bạn không định giết ai đó, bạn có
thể giơ súng ra.
Nhưng tình huống này lại đang trở nên tồi tệ hơn
bởi vì ở Mĩ bạn không cần bất kì giấy phép nào về súng
cả. Súng sẵn có tự do ở thị trường. Giấy phép chỉ cần
thiết cho người bán, chủ tiệm, không cho người chủ
súng. Điều tuyệt đối ngu xuẩn là cho mọi người vũ khí
gây nguy hiểm tới cuộc sống, nhưng hiến pháp của Mĩ
lại cho phép điều đó.

106
Điều đó đã được phép vào thời kì đầu, nhưng bây
giờ nó đã trở thành một truyền thống cứng nhắc. Hiến
pháp đã cho phép mọi người dùng súng để giết người da
đỏ. Người da đỏ bị giết như con vật - bị săn bắt, săn
đuổi, đuổi sâu trong rừng hay trên núi. Bây giờ nước Mĩ
thuộc về những người không là người Mĩ, cả nước Mĩ,
và cũng khá kì lạ là hiến pháp Mĩ cứ nói tới tự do, tới tự
do ngôn luận và tính cá nhân, và bản thân họ lại chiếm
giữ đất của ai đó khác.
Dường như là cả thế giới bị mù.
Nước Pháp đã tặng cho nước Mĩ món quà tượng
thần Tự do, và nước Mĩ là mảnh đất nô lệ lớn nhất ngày
nay. Trong thực tế sự nô lệ là ở chỗ không có khả năng
nào cho người da đỏ - cho người sở hữu mảnh đất này -
thậm chí được trở lại nắm quyền. Họ đã bị làm què quặt
hoàn toàn. Phần lớn trong họ đã bị giết chết, và phần còn
lại bị buộc phải sống ở nơi dành riêng, trong rừng sâu,
không được phép sống trong các thành phố, và họ được
cho tiền trợ cấp.
Người ta cho rằng điều này là rất từ bi, nhưng lí do
thực để cho họ tiền trợ cấp - không làm việc - là một
chiến lược rất tâm lí. Họ sẽ làm gì với tiền? Họ sẽ uống
rượu cồn, họ sẽ tới nhà thổ, họ sẽ đánh bạc, và họ sẽ đẻ
ra ngày một nhiều trẻ con hơn, bởi vì mỗi đứa trẻ lại đem
tới thêm tiền trợ cấp. Họ đã hoàn toàn quên mất chính ý
tưởng về tự do, rằng đây là mảnh đất của họ.
Vào thời đó súng đã được phép dùng tự do với mọi
người, và tình huống này vẫn còn tiếp tục. Bạn vẫn có
thể có gần như đủ loại súng, tự động hay bán tự động -
và nếu chính phủ nói rằng chỉ có sáu người bị giết, thì ít
nhất bạn có thể chắc chắn mười tám người phải đã bị
giết. Bao giờ cũng nhớ, bất kì báo cáo nào của chính phủ

107
cũng nhất định là dối trá. Nếu điều đó liên quan tới kẻ
thù, thì thế nữa nó cũng vẫn cứ là dối trá.
Vài tháng trước đây, khi nhà máy hạt nhân của Nga
bị tai nạn, đài phát thanh Mĩ lập tức công bố rằng hai
trăm người đã chết. "Xác chết của họ đã được tìm thấy,
và nhiều người đã bị lửa thiêu hết."
Một nhóm nhà báo từ châu Âu tới tìm hiểu tình
huống này - và chỉ có bốn người chết. Đài phát thanh Mĩ
thậm chí đã không được yêu cầu ngỏ lời xin lỗi gì. Từ
đâu mà họ đã có được ý tưởng về hai trăm người chết và
nhiều người nữa bị lửa thiêu cháy? Cho nên khi có liên
quan tới người khác thì họ nói dối, khi có liên quan tới
chính họ, họ cũng nói dối.
Chức năng chính của chính khách dường như là nói
dối.
Và nhân loại điên khùng này dường như liên tục
bận tâm với chiến tranh. Nhìn xa về trước bạn có thể
thấy, toàn là chiến tranh và chiến tranh và chiến tranh, và
mỗi cuộc chiến tranh đều lấy đi hàng triệu sinh mạng.
Genghis Khan đã giết bốn mươi triệu người,
Tamerlane đã giết ba mươi triệu người - và họ đã không
có những phương tiện tinh xảo. Không có dữ liệu về
nhiều người khác giết người. Alexander Đại đế và
Napoleon và Ivan Khủng khiếp tất cả đều đã giết người...
độ lớn của họ phụ thuộc vào bao nhiêu người họ đã giết.
Adolf Hitler đã giết ba mươi triệu người. Joseph Stalin
đã giết trong nước mình một triệu người Nga.
Dường như là mục đích chính trên trái đất này là để
giết người; và đặc biệt ở Mĩ ngày nay họ đang chất đống
các loại vũ khí, biết hoàn toàn rõ rằng họ đã có đủ vũ khí
để phá huỷ trái đất này nhiều lần. Nhưng điều đó dường
như là chứng điên cuồng, một loại loạn thần kinh.

108
Rafia đã đem tới một món quà nhỏ cho Bảo tàng
các thần, và nó không phải là đồ chơi. Ban đầu nó đã
được làm ra như đồ chơi. Bây giờ cái gọi là người văn
minh và thông minh và chín chắn đang mang nó theo
mình, và các nhà tâm lí thậm chí còn gợi ý rằng điều đó
là có ích. Nếu bạn cảm thấy giận dữ, thì thay vì dùng
súng máy, dùng công cụ nhỏ này. Nếu bạn muốn dùng
các phương pháp cũ, thế thì nút bấm giữa là để ném
bom... (Thầy chĩa hộp nhỏ mầu đen vào phía khán giả và
nhấn nút bấm giữa, tạo ra tiếng bom trong một lúc.)
Nút thứ nhất là cho tia chết...
(Thầy nhấn nút bên trái, tạo ra âm thanh báo động
điện tử.)
Và nút thứ ba là cho vũ khí hạt nhân, tên lửa...
(Thầy nhấn nút bên phải, tạo ra âm thanh như tên
lửa bay đâm xuống đất với tiếng nổ to.)
Các nút đích xác giống như các nút sẽ phá huỷ
nhân loại. Và tại sao mọi người lại bắt đầu đem theo đồ
chơi này? Các nhà tâm lí gợi ý rằng nó giúp làm giảm
nhẹ sự giận dữ của bạn.
Nếu có ai đó bạn muốn giết, thì có sẵn ba cách đấy.
Với kẻ thù ở xa - đây là ma thuật mới nhất - bắn tên lửa
hạt nhân tới...
(Thầy nhấn nút, tạo ra nhiều âm thanh tên lửa.)
Nếu kẻ thù ở rất gần, ném bom tốt hơn...
(Thầy nhấn nút ném bom lần nữa.)
Nếu bạn không muốn phá huỷ mọi thứ, chỉ phá huỷ
mạng sống, thì tia chết là tốt...
(Thầy phát ra vài âm thanh tia chết.)

109
Bây giờ nó được người lớn, những người chín
chắn, mang theo trong túi mình. Dường như là giết người
tự nó đã trở thành thần. Đã có thần chiến tranh, với chức
năng duy nhất là tạo ra chiến tranh; đã có thần huỷ diệt -
chẳng hạn Shiva, trong huyền thoại Ấn Độ, là người sẽ
phá huỷ toàn thể nhân loại. Tôi không nghĩ Ronald
Reagan sẽ có khả năng cạnh tranh với Shiva. Ông ta
đang cố gắng hết sức để là Shiva của huyền thoại Hindu.
Công cụ nhỏ này chỉ ra tâm trí của con người. Tia
chết đơn giản giết chết cuộc sống; chúng không phá huỷ
nhà cửa của bạn, chúng không phá huỷ đồ đạc của bạn,
chúng không phá huỷ cái gì ngoài sự sống. Bạn sẽ bị phá
huỷ, thực vật của bạn, cây cối của bạn sẽ bị phá huỷ, và
tất cả những cái gì chết thì sẽ còn lại. Thử nghĩ tới một
nơi mà mọi thứ sống đều đã bị phá huỷ và chỉ những thứ
chết vẫn còn không bị động chạm tới: điều đó sẽ tạo ra
cơn ác mộng cho tâm trí bạn.
Và công cụ nhỏ bé này đích xác tái tạo lại điều
Gorbachev và Ronald Reagan đang tiến hành với nhau.
Vấn đề chỉ là việc nhấn nút, và ngay lập tức cuộc sống sẽ
biến mất khỏi trái đất. Chưa bao giờ dễ dàng huỷ diệt
đến như vậy.
Mọi tôn giáo đều phủ nhận cuộc sống, và đó là
nguyên nhân của tính huỷ diệt như vậy trong tâm trí con
người. Nếu như họ đã bảo mọi người học im lặng và an
bình và thiền, thế thì những kẻ ngốc như Ronald Reagan
đã không xảy ra. Chính tất cả các tôn giáo đang phá huỷ
tình yêu của con người với cuộc sống, tình yêu của con
người vì niềm vui, tình yêu của con người vì tiếng cười,
vì nhảy múa, vì chơi nhạc, vì ca hát. Mọi thứ đều đã bị
phủ nhận bởi các tôn giáo, và hậu quả chung cuộc là ở
chỗ toàn thể năng lượng sáng tạo này đã biến thành tự
huỷ diệt.

110
Không ai phân tích đích xác tại sao mọi người quan
tâm nhiều đến thế tới việc huỷ diệt. Niềm vui của sáng
tạo đã đi đâu mất rồi? Toàn bộ trách nhiệm nằm ở các
tôn giáo. Các chính khách này đơn giản đang mang
những tư tưởng rằng tôn giáo vẫn đang thuyết giảng. Bất
kì loại tư tưởng nào phủ nhận cuộc sống đều nguy hiểm -
còn nguy hiểm hơn các tia chết, nguy hiểm hơn tên lửa
hạt nhân.
Nếu chúng ta muốn cứu thế giới khỏi bị huỷ diệt
một cách không cần thiết, một thế giới đã tạo ra những
người như Phật và Mahavira và Bồ đề đạt ma... Một trái
đất có khả năng đạt tới những đỉnh cao tâm thức thế thì
đáng được cứu lắm. Toàn thể vũ trụ bao la thế, vậy mà
chúng ta lại không chắc chắn được liệu có nơi nào mà
cuộc sống đạt được đỉnh cao như chúng ta đã tới không.
Người ta ngờ rằng năm trăm hành tinh trong toàn thể vũ
trụ phải có một loại sự sống nào đó, nhưng đấy vẫn chỉ là
phỏng đoán - mặc dầu điều đó được các nhà khoa học
thực hiện cho nên phải có khả năng nào đó.
Không ai có thể nói chắc chắn tuyệt đối rằng ở đâu
đó khác trong vũ trụ bao la này có tâm thức của phật - và
bạn đang phá huỷ trái đất này, nơi là chỗ duy nhất trong
vũ trụ bao la này có một hành tinh nhỏ đã đi tới đỉnh cao
nhất của tâm thức. Điều đó không chỉ là tội ác chống lại
nhân loại, nó còn là tội ác chống lại toàn thể vũ trụ.
Chiến tranh không phải là thần, con người phải
không bị hi sinh cho nó. Nhưng cách duy nhất để cứu
con người khỏi sự huỷ diệt này, sự hủy diệt đang tới
ngày một gần hơn, là lan toả tình yêu nhiều hơn, là lan
toả thiền nhiều hơn, là lan toả tự do nhiều hơn, tính cá
nhân nhiều hơn. Khẳng định cuộc sống nhiều hơn là cách
duy nhất để ngăn chặn trái đất tươi đẹp này cùng những
khả năng vô cùng của nó khỏi bị phá huỷ.

111
Cho dù nhân loại có còn điên khùng, đánh nhau
liên tục, thì vài cá nhân cũng vẫn được tạo ra. Chúng ta
có thể tự hào về Leonardo da Vinci, chúng ta có thể tự
hào về Michelangelo, chúng ta có thể tự hào về Leo
Tolstoy, chúng ta có thể tự hào về Fyodor Dostoevsky,
chúng ta có thể tự hào về Trang Tử, chúng ta có thể tự
hào về Lâm Tế. Hàng nghìn đoá hoa, mặc cho sự điên
khùng của đám đông, vẫn trưởng thành và nở hoa, đã để
lại hương thơm ngào ngạt vẫn còn sống động, chuyển từ
người này sang người khác.
Các chính khách phải bị ngăn cản trong mọi trường
hợp bởi vì điều đó không chỉ là huỷ diệt nhân loại, điều
đó là huỷ diệt chỗ có sự sống trong toàn thể vũ trụ. Trái
đất này đã phải mất bốn triệu năm để đem tới con người,
và mọi con người đều có thể trở thành phật. Có lẽ bốn
triệu năm nữa lại cần có.
Và phật thì đẹp đẽ, duyên dáng, như bông hồng tới
mức việc biến toàn thể trái đất thành nấm mồ sẽ là tội ác
lớn nhất. Nhưng điều đó sẽ không được ghi lại vì sẽ
không có ai để mà ghi lại nó. Nó sẽ tiêu diệt hết mọi
người; không ai là người thắng, không ai là người bại.
Khác biệt duy nhất sẽ là mười phút: nếu Nga bắt đầu
chiến tranh, trong vòng mười phút - chỉ mười phút thôi -
tên lửa của Mĩ sẽ trên đường bay. Nếu Mĩ bắt đầu, trong
vòng mười phút tên lửa của Nga sẽ bay vào Mĩ.
Cho nên chỉ một khoảng thời gian mười phút... và
mọi người sẽ bị tiêu diệt sống trong đám cháy lớn nhất
đã từng xảy ra trên trái đất - hàng triệu cuộc chiến tranh
cùng nhau, không chỉ phá huỷ con người mà cả con vật,
cây cối, mọi thứ có sự sống.
Cho nên đây là món quà rất có ý nghĩa của Rafia...
bởi vì chiến tranh là vị thần không được công bố của
nhân loại điên từ trước tới giờ.

112
Tổng giám đốc, Avirbhava, không có mặt, cô ấy
ốm, cho nên Anando, phó tổng giám đốc của Bảo tàng
các thần, sẽ nhận nó cho bảo tàng của các bạn.
(Anando tiến tới để nhận cái hộp đen nhỏ, và khi cô
ấy ngồi xuống thì tiếng tên lửa bỗng nhiên bật ra. Mọi
người, kể cả thầy, bắt đầu cười.)
Đừng bắt đầu ném bom ở đây!

Maneesha đã đem tới một giai thoại rất nhỏ, nhưng


rất khó hiểu. Nhiều người có thể đã đọc nó mà không
biết nó mang ý nghĩa gì. Nhưng bạn phải hiểu nó rất rõ
ràng; nó có ý nghĩa lớn, nhưng theo cách của Thiền.

Một hôm khi Lâm Tế và Phổ Hoá cả hai cùng


đang dự bữa tối tại nhà người chủ, Lâm Tế
hỏi: "Sợi tóc nuốt hết biển cả, và hạt tiêu
đựng trọn núi Thái sơn. Đây là hoạt động phi
thường của quyền năng siêu nhiên hay bản
chất nguyên thuỷ như nó vẫn thế?"

Điều ông ấy đang nói có ý nghĩa lớn. Bạn đã bao


giờ nghĩ rằng ngay cả một hạt tiêu cũng có thể làm cho
cả trái đất xanh tươi không? Bất kì hạt mầm nào, chỉ một
hạt mầm thôi, cũng đều chứa cái vô hạn. Trước hết nó sẽ
trở thành thực vật, và thực vật đó sẽ đem tới hàng trăm
hạt mầm; rồi mỗi hạt mầm sẽ lại trở thành thực vật, và
điều đó sẽ trở thành một dây chuyền liên tục, không
chấm dứt. Toàn thể trái đất chỉ cần một hạt mầm của bất
kì cái gì, và nó sẽ nhanh chóng thành xanh tươi khắp nơi.
Lâm Tế đang nói rằng sự sống nhỏ bé nhất đều hàm
chứa sự sống vĩnh hằng; cái nhỏ nhất và cái lớn nhất là
không khác nhau.

113
Ông ấy đang làm một phát biểu có ý nghĩa, nhưng

Phổ Hoá đá chân dưới bàn ăn.


"Thô lỗ làm sao!" thầy kêu lên.

Đệ tử này, thay vì nói điều gì để đáp ứng lại nó, thì


lại đá chân dưới bàn ăn. Anh ta định nói gì bằng việc đá
chân qua bàn ăn? Anh ta là một trong những đệ tử thân
thiết của Lâm Tế, và anh ta đang nói, "Đây không phải là
đúng chỗ để nói những điều lớn lao và ý nghĩa vô cùng
như vậy. Người đã bố trí bữa ăn này không thể hiểu được
điều thầy đang nói đâu."
Thầy nói, "Thô lỗ làm sao! Ta không trông đợi rằng
ông lại thô lỗ thế. Ông có thể đã hành động theo cách
tinh tế hơn và bảo ta rằng, 'Đây không phải là đúng chỗ
để đưa ra những phát biểu lớn lao như vậy. Những phát
biểu lớn lao chỉ có thể dành cho những người lớn lao,
những người có trạng thái cởi mở và im lặng của vô trí.
Chỉ họ mới hiểu điều này.'"

Phổ Hoá vặn vẹo, "Thầy nghĩ đây là chỗ nào -


mà lại nói về thô lỗ và tế nhị!"
Hôm sau Lâm Tế và Phổ Hoá lại dự bữa tối.
Thầy hỏi, "Bữa tiệc hôm nay thế nào so với
bữa hôm qua?"
Phổ Hoá đá chân dưới bàn như trước.
"Đủ tốt đấy," Lâm Tế nói, "nhưng thô lỗ làm
sao!"
Phổ Hoá bình luận, "Lão mù! Phật pháp liên
quan gì tới thô lỗ và tế nhị?"
Lâm Tế thè lưỡi ra.

114
Thiền là tôn giáo rất vui đùa. Lâm Tế thè lưỡi ra
với đệ tử mình phải là việc không gì sánh nổi. Không
thầy nào ở bất kì đâu trên thế giới làm việc như vậy.
Nhưng Thiền chấp nhận với chắc chắn tuyệt đối rằng dù
hành động của thầy là bất kì cái gì, nó đều có ý nghĩa.
Ông ấy không chê trách Phổ Hoá, mà chỉ lấy anh ta làm
trò cười.
Ông ấy đang nói, "Dù ở bất kì chỗ nào, dù người ta
có thể hiểu được hay không, ông vẫn có thể đưa ra
những phát biểu lớn lao. Chúng rơi vào mọi người như
những hạt mầm. Có lẽ không hôm nay thì ngày mai hay
ngày kia, khi mưa tới hạt mầm có thể nảy mầm." Bạn có
thể không hiểu hôm nay, bạn có thể bỏ qua nó hôm nay,
nhưng ai mà biết được về ngày mai của bạn? Ngày mai
bạn có thể bất thần trở nên nhận biết về điều hạt mầm
lớn đã được gieo vào tâm trí vô ý thức của bạn.
Cho nên quan điểm của Lâm Tế là ở chỗ không
thành vấn đề gì liệu người đó có khả năng hiểu điều đó
hay không. Nếu bạn có nó, chia sẻ nó. Đừng bận tâm liệu
người đó có xứng đáng với nó hay không.
Mọi người về bản chất đều là phật. Sớm hay muộn
người đó sẽ hiểu điều đó. Điều đó có thể không xảy ra
trong cuộc sống của bạn, bạn có thể chết - nhưng ngày
nào đó người đó sẽ hiểu nó, người đó sẽ cúi lạy dưới đất
với lòng biết ơn sâu sắc, trong cám ơn rằng ngay cả khi
người đó còn chưa được chuẩn bị bạn đã chuyển giao
cho người đó chính chiếc chìa khoá chủ mở ra mọi cánh
cửa của sự tồn tại.
Ông ấy không đồng ý với Phổ Hoá, người có quan
điểm rất bình thường và thực dụng. Phổ Hoá nói, "Phỏng
có ích gì mà nói những điều này cho mọi người, điều
tuyệt đối không liên quan tới tâm trí họ?"

115
Nhưng cho dù rằng điều đó không được hiểu vào
khoảnh khắc này... bạn có thể bỗng nhiên hiểu ra nó vào
giữa đêm. Bỗng nhiên việc nhận ra lớn lao có thể tới khi
bạn thảnh thơi và im lặng, và bạn sẽ thấy điều bạn đã bỏ
lỡ. Nhưng không thành vấn đề liệu bạn bỏ lỡ nó buổi
sáng và hiểu ra nó lúc buổi tối. Bất kì lúc nào bạn hiểu ra
điều đó, nó bao giờ cũng sớm cả. Quan điểm của Lâm Tế
là quan điểm của thầy vĩ đại.
Tôi nhớ tới một câu nói của Jesus - và Phổ Hoá sẽ
đồng ý với câu nói đó - "Đừng ném hạt mầm đi. Chúng
có thể rơi lên đá, chúng có thể rơi xuống đường, chúng
có thể rơi vào mép cánh đồng, nơi mọi người bước qua.
Chúng có thể nảy mầm, nhưng chúng sẽ bị dẫm chết.
ném hạt mầm của bạn vào chỗ đất thật tốt."
Phổ Hoá sẽ tuyệt đối đồng ý với Jesus. Nhưng đó là
phát biểu không bắt nguồn từ dư thừa, không bắt nguồn
từ năng lượng tràn ngập quá nhiều của bạn; đó là quan
điểm của người keo kiệt.
Lâm Tế nói, "Đừng bận tâm! Cho dù là đá thì thỉnh
thoảng cũng trở thành mảnh đất mầu mỡ. Đừng bận tâm,
bởi vì bạn càng cho nhiều, bạn càng có nhiều, cho nên
không thành vấn đề liệu nó rơi vào mảnh đất sai hay
không. Bạn không nên là người chọn lựa; đó là mang
tính phán xét đấy. Bạn là ai mà chọn ai là xứng dáng và
ai là không xứng đáng?"
Ông ấy hoàn toàn phải, và mặc dầu Phổ Hoá dường
như thực dụng hơn, thực tế hơn, dầu vậy ông ấy vẫn có
cái gì đó để đóng góp cho giai thoại này.
Tại cuối ông này nói, "Lão mù! Phật pháp liên
quan gì tới thô lỗ và tế nhị?"

116
Bởi vì Lâm Tế đã đưa ra phát biểu, "Việc đá qua
bàn của ông là rất thô lỗ ," nên ông này nói, "Lão mù!
Phật pháp liên quan gì tới thô lỗ và tế nhị?"
Điều đó đúng, phật-pháp không liên quan gì tới thô
lỗ và tế nhị. Nó phải vượt ra ngoài cả hai. Đó là chỗ Lâm
Tế thè lưỡi ra - chỉ để làm Phổ Hoá thành trò cười,
nhưng không phủ nhận ông ta, hay nói điều ông ta nói là
phải.
Cho nên giai thoại này là rất kì lạ theo nghĩa Phổ
Hoá là phải trên nền tảng rất thực tế, còn Lâm Tế là phải
khi có liên quan tới điều tối thượng. Cả hai đều phải, tính
phải của họ liên quan tới những hoàn cảnh khác nhau.
Nơi Lâm Tế đang hiện hữu, ông ấy đang chia sẻ
bản thân mình từ dư thừa. Ông ấy chỉ là đám mây mưa
đầy nước đến mức không thành vấn đề nó sẽ mưa xuống
đâu; ông ấy phải tự mình làm nhẹ gánh cho mình.
Còn Phổ Hoá cũng phải, nhưng ở mức thấp hơn
nhiều. Ông ấy đang nói, "Thầy nên trao sáng suốt của
thầy chỉ cho những người hiểu." Nhưng nếu chư phật trở
nên keo kiệt thế thì cuộc sống sẽ mất đi nhiều sự bùng nổ
có ý nghĩa trong tâm thức con người, bởi vì đôi khi một
khách thăm tình cờ đột nhiên loé sáng.
Cuộc sống bí ẩn đến mức ai đó có thể tìm kiếm
chân lí trong nhiều năm và sẽ thậm chí đi ngày một xa
hơn bởi việc tìm kiếm của mình - tìm kiếm theo hướng
sai. Và ai đó có thể là khách thăm tình cờ không liên
quan gì tới chân lí cả, người còn chưa bao giờ nghĩ về
nó, nhưng người đó hồn nhiên, người đó không có định
kiến, không ý tưởng. Tới đủ gần một thầy người đó có
thể trở thành ngọn lửa.
Cho nên người ta chẳng bao giờ biết được, người ta
không nên mang tính phán xét. Nếu bạn có nó, chia sẻ nó

117
với tảng đá. Ngay cả tảng đá một ngày nào đó cũng trở
thành chư phật. Chia sẻ với mọi người đi - với người mù,
với người điếc, bởi vì ngày của họ rồi cũng sẽ tới. Vấn
đề chỉ là thời gian. Mọi người đều đang trở thành phật,
mọi người đều đang trên đường. Dù bạn đi lạc xa đến
đâu, bạn cũng sẽ quay lại. Bạn phải nhận ra bản thể mình
và tiềm năng của nó.
Ikkyu đã viết:

Dép rơm,
với đôi chân khẳng khiu và không bạn thân,
chỉ cột trụ đi cùng ta,
đồng hành với bài ca của ta.
Tiếng cúc cu than vãn
bằng máu nó:
đó là mùa xuân trong tim ta.

Ông ấy đang nói, "Ta là kẻ ăn xin nghèo - dép rơm


thôi. Ta chỉ có đôi dép rơm - với đôi chân khẳng khiu và
không bạn thân, chỉ cột trụ đi cùng ta."
Cột trụ này là gì? Trong Thiền họ gọi tâm thức là
cột trụ thực của bạn. Chỉ cột trụ đi cùng ta, đồng hành
với bài ca của ta. Tiếng cúc cu than vãn bằng máu nó;
đó là mùa xuân trong tim ta.
Không thành vấn đề là bạn có tiền bạc hay quyền
lực, không thành vấn đề bạn là hoàng đế. Mọi sự thành
vấn đề là liệu bạn có cây cột trụ tâm thức hay không -
toàn thể bản thể bạn được thắp sáng bên trong, không
bóng tối. Trong chính khoảnh khắc này đó là mùa xuân
cho bạn. Hàng nghìn hoa sẽ bắt đầu nở ra xung quanh
bạn.

118
Chính một trong những đóng góp vĩ đại của Thiền
là bất kì khi nào một người trở nên chứng ngộ thì toàn
thể sự tồn tại đều hân hoan trong việc đó, bởi vì chúng ta
tất cả đều được nối, được nối sâu sắc đến mức cho dù chỉ
một người trở nên chứng ngộ, thì việc chứng ngộ của
người đó là khoảnh khắc vui mừng cho toàn thể sự tồn
tại. Không chỉ con người, mà cây cối cũng sẽ hớn hở,
chim chóc sẽ cất tiếng hót, toàn thể bầu trời sẽ tràn đầy
với tình yêu vô cùng với bạn. Nó bắt đầu mưa rào lên
bạn.
Khi chứng ngộ của bạn xảy ra điều đó rõ ràng tới
mức bạn đã trở thành vị khách đón chào cho tất cả mọi
bí ẩn của sự tồn tại. Thời điểm mùa xuân của bạn đã tới.

Maneesha đã hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Với con đường của Sufi giáo, con đường của
trái tim đằng sau chúng ta, người sùng kính
khớp vào ở đâu?

Maneesha, người sùng kính khớp ở mọi nơi. Tất


nhiên hoàn cảnh trở thành khác.
Trong Sufi giáo, người sùng kính được hiến dâng
cho Thượng đế tới mức al-Hillaj Mansoor bắt đầu kêu
lên, "Ta là Thượng đế!" Người sùng kính biến mất vào
trong Thượng đế. Nhưng Thượng đế là giả tưởng, cho
nên người sùng kính trong Sufi giáo chỉ sống trong ảo
giác rất lớn. Đó là phóng chiếu của tâm trí người đó.

119
Nhưng người sùng kính trong Thiền không có giả
tưởng nào, người đó không bị hiến dâng cho bất kì
Thượng đế hay bất kì điều hư cấu nào. Sùng kính của
người đó là dành cho thầy sống. Điều đó không phải là
hư cấu, điều đó là tiếp xúc thực giữa con người với con
người.
Cho nên đừng nghĩ rằng người sùng kính không có
chỗ trong Thiền. Trong thực tế, trong Thiền người sùng
kính có nghĩa thực và đích thực hơn. Trong Sufi giáo nó
chỉ là tưởng tượng, tưởng tượng lớn. Nó sẽ mang tới
nhiều hoa, sẽ làm cho người ta rất phúc lạc, nhưng nó chỉ
giống như người đang ngất ngây.
Không phải là ngẫu nhiên mà trong Sufi giáo họ có
rượu, và saki - người đàn bà mang rượu - và Thượng đế
đã được quan niệm là đàn bà. Người tham dự sâu sắc
trong trong tưởng tượng Sufi có vẻ gần như điên, nhưng
bạn có thể thấy người đó rất vui vẻ; người đó nhảy múa
và ca hát, toàn thể năng lượng của người đó bây giờ bị
chi phối bởi sự tưởng tượng của người đó.
Nhưng nếu một người, bằng việc uống rượu cồn
hay bằng việc uống marijuana, mà nhảy múa và ca hát,
bạn có cho rằng điều đó có ý nghĩa gì theo nghĩa tối
thượng không? Nó chỉ là hoá chất. Chẳng mấy chốc hoá
chất sẽ ra khỏi thân thể và với việc hoá chất ra khỏi thân
thể, người đó trở lại với đất, tan nát hơn là người đó đã
như vậy trước đó. Tưởng tượng chắc chắn là sự giảm nhẹ
bên trong bạn bởi cái gì đó gây say sưa.
Đó là lí do tại sao tôi nói với Coleman hôm qua,
"Bạn đem một người Sufi tới tôi, và trong vòng một giờ
tôi sẽ đem người đó xuống đất. Bằng không người đó
vẫn đang bay trên trời."

120
Đã có những trường hợp mà mọi người dưới ảnh
hưởng của LSD cứ tưởng mình có thể bay được. Điều đó
rõ ràng cho họ thế, không một hoài nghi nào, rằng họ đã
bay từ toà nhà mười bẩy tầng. Đấy không phải là vấn đề
về lòng dũng cảm, đấy không phải là vấn đề về quyết
định nào; họ chắc chắn dưới tác dụng của LSD đến mức
họ tự thấy tan thành từng mảnh trên đất.
Sufi giáo ở trạng thái thấp lắm, nhưng rất đơn giản
để mà bị ngất ngây. Nhưng người sùng kính trên con
đường của Thiền không biến mất, người đó đơn giản lấy
hoàn cảnh mới. Bây giờ vấn đề là tới gần hơn một thầy
sống. Không phải vấn đề tới gần Thượng đế hơn, điều
chỉ là giả tưởng. Bạn có thể tới gần Thượng đế chỉ trong
tưởng tượng, và bạn không biết quyền năng của tưởng
tượng.
Chuyện xảy ra là Ramakrishna đã thử nhiều con
đường. Ông ấy là người đầu tiên trong lịch sử những
người tìm kiếm đã thử nhiều con đường để xem liệu
chúng có đạt tới cùng một điểm hay không. Cho nên bất
kì cái gì có sẵn quanh ông ấy ở Bengal, ông ấy đều thử.
Có một giáo phái tin rằng chỉ mỗi Krishna mới là đàn
ông còn mọi người đều là đàn bà. Ông ấy đã theo con
đường đó nữa. Điều đó tuyệt đối là tưởng tượng, nhưng
câu chuyện này chỉ ra quyền năng của tưởng tượng.
Trong sáu tháng Ramakrishna đã sống giống như
đàn bà, và các đệ tử của ông ấy bị hoàn toàn sốc khi thấy
rằng ông ấy bắt đầu bước đi như đàn bà. Không chỉ thế,
mà vú ông ấy trở thành giống như đàn bà; không chỉ thế,
mà ông ấy bắt đầu có kinh. Ngay cả bác sĩ cũng không
thể tin được vào điều đó. Giọng nói của ông ấy thay đổi;
và khi ông ấy bắt đầu có kinh đều đặn, các đệ tử của ông
ấy cố gắng che dấu sự kiện này, bởi vì nếu người khác
mà biết thì họ sẽ cười. Họ đã khuyên ông ấy đổi con

121
đường này đi: "Thầy đã đi quá xa!" - và phải mất gần sáu
tháng để ông ấy trở lại thành mình như cũ.
Tưởng tượng không phải là điều nhỏ, nó có quyền
năng vô cùng. Nếu bạn đi theo sự tưởng tượng - và mọi
tôn giáo vẫn đang làm điều đó - bạn sẽ thấy Krishna và
bạn sẽ thấy Christ. Nhưng tất cả những việc thấy đó đều
là phóng chiếu riêng của bạn. Bạn muốn thấy Krishna,
bạn cứ nhất định trong trí tưởng tượng của mình tạo ra
Krishna, và nó sẽ tạo ra. Nhưng bạn đang rơi vào trong
cái bẫy của tâm trí riêng của mình.
Người sùng kính trong bất kì tôn giáo nào khác đều
được hiến dâng cho Thượng đế; chỉ trong Thiền hiến
dâng của người đó mới hướng tới thầy sống. Không có
vấn đề về tưởng tượng. Tưởng tượng phải được tránh
hoàn toàn nếu bạn muốn biết chân lí.

Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh. Anh ấy


đâu rồi? Anando, bắn tên lửa đi!
(Anando bắn âm thanh tia chết theo hướng
Sardarji.)
Không, tôi cho là bom thì tốt hơn!
(Anando bắn bom âm thanh quanh thính phòng.)

Bert Badbreath nghi ngờ vợ mình, Luscious Lucy,


đang lừa dối mình, cho nên anh ta thuê Manfred Sneek,
một thám tử tư, theo dõi cô ấy.
Manfred hăng hái lần theo dấu vết của Lucy, theo
dõi cô ấy trong tiệm rượu, hộp đêm và khách sạn ở khắp
thành phố. Sáng hôm sau, Sneek tới báo cáo cho Bert.

122
"Tôi đã theo cô ấy vào tiệm rượu Crawling Cat,"
Sneek nói, "và thế rồi cô ấy cho tôi cái váy lót. Và rồi tôi
theo cô ấy tới hộp đêm Rotten Jazz, và cô ấy cho tôi cái
váy lót ở đấy nữa."
"Điều này đang thành lố bịch đây," Bert kêu lên.
"Điều gì xảy ra tiếp?"
"Thế này," Sneek nói, "rồi tôi theo dõi cô ấy tới
khách sạn Screwing Sands...."
"Đừng kể cho tôi nữa," Bert ngắt lời. "Cô ấy lại cho
anh cái váy lót ở đấy nữa chứ gì!"
"Đúng đấy," Sneek báo cáo, với cái cười nhăm
nhúm cả mặt, "và cả quần silip của cô ấy nữa!"

Một nhóm công nhân công viên treo một cây thông
lớn, mọc hết cỡ, lủng lẳng trên chiếc xe cẩu. Bỗng nhiên
xe cẩu chồm lên và cái cây đung đưa, đập vào một chiếc
Cadillac mới tinh đang đậu bên cạnh đường.
Betty Cheese nhảy ra khỏi chiếc xe bị đập méo mó
và nhìn vào chỗ bị hỏng. "Các anh sẽ phải đi cùng tôi và
giải thích việc này cho chồng tôi," cô ấy nói với một
trong những người này.
"Đừng lo, thưa bà," công nhân công viên đáp.
"Công ti chúng tôi sẽ đền tiền cho chỗ hỏng."
"Không, các ông không hiểu!" Betty kêu lên. "Tôi
muốn một nhân chứng ở đó khi tôi nói cho Chester rằng
tôi đã đậu xe và cái cây đâm vào tôi!"

Tiến sĩ Horton, nhà nhân chủng học, tình cờ gặp


một bộ lạc ăn thịt người ở giữa rừng rậm. Đứng giữa

123
làng của họ là một cái cột cao với một cái mũ treo trên
đỉnh.
Ngay lập tức, Tiến sĩ Horton nhận ra cái mũ và hô
lên với viên tù trưởng, "Lạy Trời! Đó là mũ của Tiến sĩ
Fracture! Anh ấy là bạn tốt nhất của tôi!"
"Anh ấy đã là bạn tốt nhất của ông," viên tù trưởng
ăn thịt người nói, vừa xỉa răng bằng tăm. "Đêm qua anh
ấy đã là bữa tối của chúng tôi."
"Các ông đã ăn anh ta?" Tiến sĩ Horton kêu lên.
"Ấy chao," viên tù trưởng nói. "Trước hết chúng tôi
chặt chân anh ta, rồi chúng tôi rán giòn đôi chân và ăn
với nhiều Pepsi-Cola."
"Thật à?" Tiến sĩ Horton kêu lên.
"Ấy chao, " viên tù trưởng đáp. "Rồi chúng tôi luộc
hai cánh tay anh ta trong nước sốt tỏi và ăn chúng, cũng
với nhiều Pepsi-Cola."
"Thật à?" Tiến sĩ Horton kêu lên với vẻ không tin.
"Các ông thực sự đã ăn hết cả anh ấy sao?"
"Ấy chao, " viên tù trưởng nói. "Ăn tất cả anh ta,
với nhiều Pepsi-Cola."
"Ông muốn nói," Tiến sĩ Horton kêu lên, "các ông
ăn cả cái ấy của anh ấy... của anh ấy sao?"
"Phải rồi, chúng tôi ăn cái ấy của anh ấy," kẻ ăn thịt
người nói. "nhưng không với Pepsi-Cola đâu - với Coca-
Cola cơ... bởi vì cái ấy hợp với Coke hơn!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

124
Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong với toàn bộ
tâm thức của bạn và với sự khẩn thiết lớn lao, dường như
đây là khoảnh khắc cuối cùng của bạn.
Trung tâm này không xa xôi gì, và khi bạn tới ngày
một gần hơn với trung tâm bạn sẽ bắt đầu cảm thấy bình
thản, hương thơm, và im lặng mênh mông, và niềm vui
lớn lao.
Khoảnh khắc này, khi bạn ở tại trung tâm, bạn là
nhân chứng duy nhất. Thân thể ở xa xăm, tâm trí ở xa
xăm - bạn đã bỏ lại tất cả chúng.
Bạn chỉ là tấm gương, tỉnh táo, nhận biết, quan sát,
và hoa bắt đầu mưa rào lên bạn - những hương thơm
mới, an bình đi cùng hiểu biết. Bỗng nhiên bạn là một
phần của toàn thể vũ trụ.
Trong phòng Phật này, mười nghìn chư phật đã
biến mất... Chỉ một tâm thức phật... Để làm cho điều đó
thành rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)

Vẫn còn là nhân chứng. Thân thể có đó, tâm trí có


đó, nhưng bạn không là thân thể, không là tâm trí. Bạn là
nhân chứng vĩnh hằng. Từ khi sự tồn tại bắt đầu, bạn đã
từng ở đó như một nhân chứng trong những hình dạng

125
khác nhau. Việc chứng kiến là bản chất đích xác của bạn,
và nhận ra nhân chứng này là trở thành phật. Mọi biên
giới đều biến mất, và Thính phòng Phật trở thành cái hồ
của tâm thức im lặng không gợn sóng, im lặng tới mức
nó trở thành gần như tấm gương.
Bạn may mắn được ở đây tại biến cố trọng yếu như
vậy. Toàn thể nhân loại nghèo nàn thế nếu so sánh với
bạn. Bạn có thể không có gì, nhưng nếu bạn có phật
được thức tỉnh, thì bạn có mọi kho báu của sự tồn tại
trong tay mình. Bạn phải mang nhận biết này, việc
chứng kiến này, phật tính này, từ trung tâm ra chu vi của
cuộc sống thường ngày của bạn. Trong mọi hành động,
phật phải được thể hiện. Trong im lặng của bạn, phật
phải hiện diện. Trong bài ca của mình bạn nên cho phép
phật hát. Trong điệu vũ của mình bạn không nên nhảy
múa; cho phép phật nhảy múa.
Dần dần, dần dần toàn thể cuộc sống của bạn bị
chiếm lĩnh hoàn toàn bởi cốt lõi bên trong nhất. Sự khác
biệt giữa chu vi và trung tâm biến mất. Đó là khoảnh
khắc quí giá nhất. Trong Thiền họ gọi điều đó là về nhà.
Chẳng mấy chốc Nivedano sẽ gọi bạn trở lại. thu
lấy thật nhiều hoa và hương thơm... thuyết phục phật đi
cùng bạn. Ông ấy bao giờ cũng tới; chỉ cần khuyên nhủ
đúng... Tại trung tâm ông ấy chỉ là hạt mầm, tại chu vi
ông ấy sẽ thành đoá hoa.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại như phật - với cùng sự


duyên dáng, với cùng cái đẹp, với cùng phúc lạc. Ngồi
xuống trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại không

126
gian bạn đã ở, con đường, con đường vàng bạn đã đi
theo hướng tới trung tâm, và cùng con đường bạn đã
theo trở lại. Nhớ lấy, phật không phải là thành tựu, đó là
sự khải lộ. Bạn bao giờ cũng là phật; chỉ chút ít nhận ra
và toàn thể cuộc sống của bạn sẽ trải qua sự biến đổi.
Đây là cuộc cách mạng duy nhất xứng đáng gọi là cách
mạng.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

127
128
5. Thảnh thơi và biến
mất

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Lâm Tế có lần tới thăm một trong những đệ tử
của Vân Nham Đàm Thạch11, Án Sơn12. Nhân
cơ hội đó ông ấy hỏi Án Sơn: "Bò trắng của
mảnh đất đẫm sương là gì?"
Án Sơn đáp ứng bằng việc nói: "Mò! Mò!"
Lâm Tế bình: "Ông câm!"
Án Sơn nói, "Thế ông thì sao?"
Lâm Tế nhận xét, "Ông là con vật!"
Một lần Lâm Tế hỏi một ni cô, "Tới tốt hay tới
tồi?"
Ni cô hét lên.
"Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!" Lâm Tế
kêu, vừa vớ lấy cái gậy. Ni cô lại hét lên lần
nữa. Lâm Tế đánh cô ấy.
Một dịp khác Lâm Tế hỏi Lo'pu, "Mãi cho tới
giờ đã trở thành tục lệ là với một số người thì
dùng gậy và với người khác thì cho tiếng hét.
Cách nào tới gần trái tim của người nhận
hơn?"
11
Ungan: Vân Nham Đàm Thạch
12
Anzan: Án Sơn

129
"Không cách nào," Lo'pu đáp ứng.
"Cái nào tới gần?" Lâm Tế hỏi.
Lo'pu hét. Thầy đánh ông ấy.

Maneesha, tôi càng nhìn sâu hơn vào Thiền, nhiều


điều hơn lại càng trở nên rõ ràng như pha lê. Một điều là
tính duy nhất tuyệt đối của nó trong thế giới tôn giáo.
So với Thiền, tất cả các tôn giáo đều như trò giải
trí. Các nghi lễ hình thức, những ước định xã hội - Thiền
đi qua chúng như lưỡi kiếm chặt phăng mọi dây trói làm
mù bạn. Nó không có nghi lễ, nó không có mật chú, nó
không cúng tế bất kì cái gì cho bất kì ai. Chính cơ sở của
cúng tế, bản thân Thượng đế, là không có trong Thiền.
Không có Thượng đế bạn không thể tạo ra nghi lễ,
cúng tế được. Không có Thượng đế tất cả mọi tôn giáo
của bạn sẽ có vẻ như tuyệt đối vô nghĩa. Nếu Thượng đế
bị bỏ đi, cái gì sẽ trở thành Hindu giáo và Hồi giáo và Ki
tô giáo? Với việc bỏ đi giả tưởng toàn thể dinh thự của
những tôn giáo đó sụp đổ hoàn toàn xuống đất. Điều đó
là giả tưởng, và giả tưởng không phải là thực tại. Giả
tưởng là phóng chiếu chỉ của con người.
Đúng là con người muốn an ninh nào đó, đúng là
con người muốn an toàn nào đó. Con người bất an ninh
trong vũ trụ bao la này, quá nhỏ và quá một mình, quá
bất lực. Và bao giờ cũng có cái chết: bất kì khoảnh khắc
nào nó cũng có thể gõ cửa nhà bạn.
Từ tất cả những cái bất an ninh này, lo âu, sợ hãi,
đã nảy sinh ra giả tưởng về Thượng đế. Mọi người níu
bám lấy nó, bởi vì không có nó thì cuộc sống của họ sẽ
trở thành lo âu thế, họ sẽ phát điên. Lấy đi Thượng đế

130
khỏi họ, bạn đang lấy đi chính sự lành mạnh của họ,
chính thông minh của họ, tâm trí họ, toàn bộ việc ước
định từ hàng triệu năm.
Theo tôi, chừng nào bạn còn chưa có khả năng ném
đi giả tưởng về Thượng đế và thiên đường và địa ngục,
mọi phóng chiếu, bạn không thể là người tìm kiếm đích
thực được. Bạn phải vứt bỏ đi mọi điều đã được cái gọi
là tôn giáo tạo ra trên khắp thế giới. Cơ sở của họ là một;
họ có thể tạo ra nhiều thượng đế học quanh giả tưởng
này, họ có thể tranh đấu lẫn nhau về các thượng đế học
của họ, nhưng về bản chất họ tất cả đều là một.
Các thượng đế của họ có thể có những mặt khác
nhau, nhưng thượng đế có đó. Địa ngục và thiên đường
của họ có thể có môi trường khác, nhưng chúng đều có
đó. Họ liên tục biện luận về cái vốn dĩ là điều tưởng
tượng, và họ nghĩ rằng đây là luận cứ, điều họ đã tiếp tục
làm từ hàng thế kỉ, có tầm quan trọng nào đó. Trong thực
tế, đó là nỗ lực để làm lệch tâm trí con người: tranh đấu
về những điều không bản chất để cho không ai nêu ra
câu hỏi... không ai có thời gian để hỏi về điều bản chất.
Thiền là điều bản chất thuần khiết, không bị ô
nhiễm, không bị biến chất bởi bất kì điều không bản chất
nào. Bạn không thể lấy được cái gì từ Thiền, bởi vì nó
chỉ là tuyên bố của bạn về tự tính của bạn; mà bạn cũng
không thể thêm được bất kì cái gì vào Thiền, bởi vì bất
kì cái gì được thêm vào cũng đều thành nhân tạo.
Thiền là tuyệt đối thiên về tự nhiên. Nó không
chống lại giải trí; trong thực tế chỉ Thiền mới có khả
năng cười, giải trí, nhưng giải trí của nó không khác với
chứng ngộ của nó. Chính phẩm chất của giải trí là khác.
J. Krishnamurti, một người đã tranh đấu trong chín
mươi năm - lời cuối cùng của ông ấy có nghĩa lớn lao

131
nào đó. Một trong những người bạn của tôi đã hiện diện
ở đó. Krishnamurti than vãn, ông ấy than vãn cả đời
mình. Ông ấy than vãn rằng "mọi người đã coi tôi như
trò giải trí. Họ tới nghe tôi...." Có những người đã nghe
ông ấy cả năm chục năm liên tục, và vậy mà họ vẫn là
những người cũ như họ lần đầu tiên đến nghe ông ấy.
Một cách tự nhiên điều đó gây khó chịu và bực dọc
rằng cùng những người đó... Phần lớn trong họ tôi đều
biết, bởi vì J. Krishnamurti thường chỉ tới Bombay một
lần trong năm quãng hai ba tuần, và dần dần, dần dần
Những người đi theo ông ấy ở Bombay trở nên quen với
tôi. Họ tất cả đều buồn về điểm này: Phải làm gì đây?
Làm sao chúng tôi có thể làm cho Krishnamurti sung
sướng?
Lí do là ở chỗ Krishnamurti chỉ nói, mà không bao
giờ cho bất kì phương cách nào để cho bất kì điều gì ông
ấy nói tới trở thành kinh nghiệm. Điều đó toàn bộ là lỗi
lầm của ông ấy. Bất kì cái gì ông ấy đã nói đều tuyệt đối
đúng, nhưng ông ấy không tạo ra bầu khí hậu đúng, chỗ
đúng mà tại đó điều đó có thể trở thành hạt mầm. Tất
nhiên ông ấy rất thất vọng với nhân loại, và thất vọng
rằng đã không có lấy một người trở nên chứng ngộ qua
giáo huấn của ông ấy. Giáo huấn của ông ấy có mọi hạt
mầm, nhưng ông ấy không bao giờ chuẩn bị đất.
Thiền không phủ nhận giải trí theo cách mà J.
Krishnamurti đã lên án nó trong di chúc cuối cùng của
ông ấy cho thế giới. Ông ấy nói, "Tôn giáo không phải là
trò giải trí." Điều đó đúng, nhưng chứng ngộ có thể đủ
bao la để bao hàm cả giải trí trong nó.
Chứng ngộ có thể là đa chiều. Nó có thể bao hàm
tiếng cười, nó có thể bao hàm tình yêu, nó có thể bao
hàm cái đẹp, có có thể bao hàm sáng tạo. Không có gì
giữ nó tách với thế giới và tách với việc biến đổi thế giới

132
thành nơi mang tính thơ ca nhiều hơn, khu vườn đẹp
hơn. Mọi thứ đều có thể được mang tới trạng thái duyên
dáng tốt hơn.
Thiền không nói về những nguyên lí lớn lao, điều
phải được lưu ý. Nó đơn giản tạo ra phương sách và để
bạn tìm lối ra. Hiển nhiên nó đã thành công vô cùng.
Không một Thiền sư nào đã từng than vãn rằng "Đệ tử
của ta không chịu nghe ta. Ta đã thất bại hoàn toàn thất
vọng. Nhân loại đã phản bội ta." Không một Thiền sư
nào đã từng nhắc tới điều đó một lần.
Nếu cái gì đó không thành công, điều đó chỉ có
nghĩa là phương sách của bạn không đúng. Bạn đã không
nhìn vào con người và nhìn vào tiềm năng của người đó
một cách đúng đắn. Có lẽ phương sách của bạn là tốt cho
ai đó khác nhưng không cho người này.
Thiền đã tạo ra các phương sách, để bạn hoàn toàn
tự do tìm ra chân lí. Và đó là điều kì lạ, nhiều người đã
trở nên chứng ngộ qua Thiền hơn qua bất kì tôn giáo nào
khác trên thế giới. Các tôn giáo khác đều rất lớn, còn
Thiền là dòng suối rất nhỏ. Bạn có thể thấy những điều
nhỏ bé này, và thầy dùng chúng theo cách mà chúng bắt
đầu trỏ tới trăng.

Lâm Tế có lần tới thăm một trong những đệ tử


của Vân Nham Đàm Thạch, Án Sơn. Nhân cơ
hội đó ông ấy hỏi Án Sơn: "Bò trắng của
mảnh đất đẫm sương là gì?"

Đó là một trong những công án Thiền. Nó không


ngụ ý gì; nó đơn giản cho bạn một câu đố mà không thể
giải được. Bây giờ bằng việc hỏi ai đó, "Bò trắng của
mảnh đất đẫm sương là gì?" - đây là loại câu hỏi siêu
hình gì? Không tôn giáo nào sẽ hỏi câu hỏi như vậy cả.

133
Tôi nhớ tới một cậu bé thường hay tới thăm
Picasso, và sống ở gần đó, ngay bên hàng xóm. Nó trở
thành bạn bè với Picasso. Nó mới chỉ năm hay sáu tuổi,
nhưng rất bạo dạn. Xem Picasso vẽ liên tục, một hôm nó
cũng đem tới một tờ giấy và chìa cho Picasso xem, nói,
"Bác xem tranh cháu đây."
Picasso nhìn vào tranh nó và nói, "Trời đất, cái gì
thế này?"
Đứa bé nói, "Đấy là bò ăn cỏ ạ."
Picasso nói, "Cháu đã đánh bại ta rồi. Bò đâu?"
Đứa bé nói, "Bác đừng hỏi câu hỏi ngốc thế. Con
bò về nhà rồi. Sau khi ăn cỏ, bác cho rằng con bò vẫn
còn ở đó sao?"
Picasso nói, "Được rồi, nhưng cỏ đâu?"
Đứa bé nói, "Bác không thông minh tẹo nào. Khi
bò đã ăn cỏ rồi, thì làm sao còn cỏ ở đó được?" Đấy chỉ
là tờ giấy trắng nó đem tới.
Picasso nói, "Bác thích cái thông minh của cháu
lắm. Điều đó thực sự thách đố bác khi cháu nói con bò
cháu đã vẽ, mà bác lại không thể thấy con bò nào cả. Bác
đã thách đố cả thế giới còn cháu lại thách đố bác."
Công án Thiền là câu đố không có câu trả lời nào.
Án Sơn đáp ứng bằng việc nói: "Mò! Mò!" Không câu
trả lời nào là câu trả lời đúng cả. Người ta phải hoàn toàn
im lặng; chỉ im lặng mới có thể trả lời công án Thiền.
Nhưng Án Sơn đã dùng tâm trí mình và cố gắng hình
dung ra cách nào đó để chỉ ra con bò trắng là gì. Ông ta
đã đem tâm trí vào.
Lâm Tế bình: "Ông câm! Ông cho rằng ông có thể
lừa được ta sao bằng việc làm ra âm thanh như vậy? Ông
không thể nói được sao? Ông là người câm sao?" Công

134
án này cần sự đáp ứng. Cái mò, mò này không có tác
dụng.
Án Sơn nói, "Thế ông thì sao?" Ông ta đang nghĩ,
"Còn gì có thể thích hợp hơn câu trả lời này?" Trong
thực tế, không trả lời mới thích hợp cho công án Thiền.
Điều đó phải được ghi nhớ. Đừng tìm bất kì câu trả lời
nào, chỉ tìm im lặng. Hoàn toàn im lặng. Trong im lặng
của bạn thầy sẽ có khả năng thấy câu trả lời của bạn.
Án Sơn nói, "Thế ông thì sao? - nếu ông cho câu trả
lời của tôi là không đúng, và tôi là kẻ câm."
Lâm Tế nhận xét, "Ông là con vật! Tạo ra âm thanh
mò, mò ông đã chứng tỏ rằng ông vẫn dùng tâm trí con
vật."
Trong Thiền, tâm trí là cái kế thừa của con vật, và
chừng nào bạn còn chưa vượt ra ngoài tâm trí, bạn vẫn
chưa là con người đích thực. Chỉ thân thể bạn là thân thể
con người, nhưng tâm trí bạn là quá trình rất dài bốn
triệu năm của con vật; nó chứa tất cả các con vật bạn đã
trải qua. Bạn không phải là người mới tới, bạn già rồi,
già như thời gian cuộc sống đã tồn tại trên trái đất này,
và bạn đã trải qua tất cả các pha của con vật. Tâm thức
của bạn mang một quá khứ mênh mông.
Cho nên khi Lâm Tế nói, "Ông là con vật!" thì ông
ấy không kết án ông này. Ông ấy đơn giản phát biểu sự
kiện rằng ông này vẫn dùng tâm trí con vật. Chỉ khi bạn
ở trong trạng thái vô trí bạn mới vượt ra ngoài con vật.
Bạn vượt ra ngoài quá khứ của bạn, bạn mở ra tới vũ trụ;
bạn không còn đơn giản lặp lại sự kế thừa quá khứ. Kế
thừa quá khứ của bạn là kế thừa của tất cả các con vật.
Việc nói điều này của ông ấy không phải là kết án;
trong Thiền không có kết án. Mọi người có thể hiểu lầm,
nhưng ông ấy đơn giản nói rằng bạn đang dùng tâm trí

135
con vật để hình dung ra câu trả lời sẽ là gì. Tôi muốn bạn
vượt ra ngoài tâm trí con người, vượt ra ngoài tâm trí con
vật, bởi vì vô trí là câu trả lời duy nhất cho mọi công án,
cho mọi câu hỏi, cho mọi việc truy tìm. Câu trả lời đơn
giản - vô trí. Im lặng tới mức không có một ý nghĩ nào
hết cả. Như vậy thì công án gì cũng không thành vấn đề,
câu trả lời là một: im lặng hoàn toàn, vượt ra ngoài tâm
trí con vật.

Một lần Lâm Tế hỏi một ni cô, "Tới tốt hay tới
tồi?"
Ni cô hét lên.
"Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!" Lâm Tế
kêu, vừa vớ lấy cái gậy. Ni cô lại hét lên lần
nữa. Lâm Tế đánh cô ấy.

Bây giờ, điều đó có vẻ tuyệt đối ngớ ngẩn với bất


kì ai đã được nuôi dưỡng theo giáo dục hợp lí. Điều gì
đang xảy ra ở đây? Một ni cô tới, Lâm Tế hỏi cô ấy, "Tới
tốt hay tới tồi?" Ni cô hét lên. Đó không phải là câu trả
lời đúng.
Khi một người như Lâm Tế hỏi, "Tới tốt hay tới
tồi?", ông ấy đang nói rằng nếu bạn tới bằng tâm trí, thì
bạn tới tồi; nếu bạn tới bằng vô trí, bạn tới tốt. Chỉ vô trí
mới là tới tốt. Trong thế giới của Thiền, tâm trí là cái duy
nhất phải bị vứt đi, và thế thì bạn có toàn thể vũ trụ sẵn
đấy. Bạn được toàn thể vũ trụ đón chào.
Chỉ bởi vì tâm trí của mình mà bạn bị ở trong cũi.
Bạn không được vũ trụ chấp nhận, bạn không được vũ
trụ mưa rào hoa lên bởi vì bạn là tù nhân của ý nghĩ
riêng của bạn trong hộp sọ nhỏ. Bạn là tù nhân, và tù
nhân không thể được đón chào.

136
Lâm Tế đang nói, "Cô có là tù nhân không, hay tôi
phải đón chào cô như người tự do?" - tự do với tâm trí.
Ni cô hét lên. Tiếng hét của cô ấy không chỉ ra rằng
cô ấy đã hiểu Lâm Tế. Đây là khó khăn - rằng khi thời
gian trôi qua mọi thứ đều trở thành truyền thống. Tiếng
hét do Lâm Tế phát minh ra, nhưng dần dần, dần dần nó
lại trở thành câu trả lời truyền thống: bất kì khi nào bạn
thấy mình gặp khó khăn và bạn không thể trả lời được,
bây giờ bạn có câu trả lời truyền thống. Bạn có thể hét.
Nhưng tiếng hét không áp dụng được vào mọi nơi.
Đâu đó nó là có thể: nếu Lâm Tế đã hỏi cái gì đó vô
nghĩa, tiếng hét đúng lúc sẽ là câu trả lời đúng. Nhưng
điều ông ấy đã hỏi có nghĩa đến mức bạn không thể đáp
ứng bằng tiếng hét được. Bạn phải đáp ứng bằng im
lặng. Bạn phải bầy tỏ vô trí của mình. Bạn phải bầy tỏ
rằng bạn tới tốt, được đón chào.
Cho dù ni cô đã hét... "Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói
nữa đi!" Lâm Tế kêu, vừa vớ lấy cái gậy. Ni cô lại hét
lên lần nữa. Cô ấy chỉ học thuộc lòng như vẹt.
Bạn có thể học bất kì cái gì như vẹt, đó là khó
khăn. Bạn có thể học triết lí lớn lao, bạn có thể học
thượng đế học, bạn có thể học các từ đẹp đẽ lớn lao và
bạn có thể lặp lại chúng mà thậm chí không biết đích xác
ngụ ý của chúng.
Bây giờ, trong Thiền điều này trở thành vấn đề. Khi
hét hay đánh bằng gậy được coi là truyền thống, nó mất
đi mọi ý nghĩa. Ni cô hét lên; Lâm Tế đã không để ý tới
điều đó. Ông ấy nói, "Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!
Cô đến tốt ở đây hay đến tồi?" Ông ấy bỏ qua việc hét
của cô ấy, ông ấy cho cô ấy một cơ hội khác.
Nhưng người đàn bà này dường như ương ngạnh,
không có khả năng học. Ni cô hét lên. Điều này là quá

137
đáng. Lâm Tế vớ lấy cái gậy của mình, nhưng đã không
đánh cô ấy bởi vì cô ấy không xứng với cú đánh. Cô ấy
thậm chí không có khả năng hiểu một câu hỏi đơn giản.
Cô ấy chỉ học hét như nghi lễ. Cô ấy quá nghèo khi có
liên quan tới tâm thức, cô ấy không xứng với cú đánh từ
con người như Lâm Tế.
Trong Thiền, khi thầy đánh bạn, điều đó có nghĩa là
thầy đang bầy tỏ tình yêu của mình, thầy đang bầy tỏ sự
chấp nhận của mình. Bằng việc đánh bạn thầy đang cho
bạn một chỉ dẫn về sự chấp thuận của mình. Đó là một
loại chứng nhận. Các đệ tử lâu năm thường bị thầy đánh.
Đó là một thế giới rất khác mà Thiền đã tạo ra.
Trong thế giới thông thường, nếu bạn đánh ai đó,
bạn biết hoàn toàn rõ điều sẽ xảy ra. Nhưng trong Thiền
điều đó hoàn toàn khác. Thầy đánh chỉ khi có một người
xứng đáng với việc đó. Cú đánh và sự chấp thuận rất bí
mật. Không người ngoài nào hiểu được cái gì đang diễn
ra. Điều đó không dành cho người ngoài; điều đó chỉ
dành cho người trong cuộc, rất ít người mới có thể hiểu.
Lâm Tế kêu, "Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!"
Nhưng cô ấy dường như rất ương ngạnh. Lần này thì
Lâm Tế phải đánh cô ấy, nhưng ông ấy đơn giản kêu lên,
vớ lấy chiếc gậy của mình...
Ni cô lại hét lên lần nữa. Bây giờ điều này là quá
thể. Lâm Tế đánh cô ấy - và cú đánh này không phải là
chấp thuận, cú đánh này để trị sự ương ngạnh của cô ấy.
Cho nên bạn nên nhớ rằng trong Thiền mọi thứ đều
linh hoạt. Nó không có nghĩa chắc chắn, cố định. Trong
những tình huống khác nhau nó có thể ngụ ý điều gì đó
khác. Ông ấy đã tha thứ việc hét của cô ấy nhưng cuối
cùng ông ấy phải đánh cô ấy.

138
Lâm Tế đánh cô ấy. Đó không phải là cú đánh chấp
thuận, đó là cú đánh để phá tan sự ương ngạnh của cô ấy
và đưa cô ấy về ý thức của mình. "Chỉ hét lên thì cũng
không ích gì. Ta đang hỏi với cô, 'nói đi!' ta đang hỏi cô
một câu hỏi trực tiếp: Cô có tới tốt không? Cô có cho
rằng cô xứng đáng được đón chào không? Thế thì bày tỏ
điều đó ra đi. Việc hét của cô không bày tỏ điều đó."
Ba lần ông ấy đã cho cô ấy cơ hội, và chiếc gậy sau
ba lần là việc không chấp thuận. Ông ấy đã đánh cô ấy
chỉ để đem cô ấy về với ý thức của mình. Có lẽ chiếc gậy
ngay cả trong hoàn cảnh như vậy có thể dừng việc nghĩ
của cô ấy lại một khoảnh khắc. Hiển nhiên điều đó sẽ
diễn ra.
Cô ấy nghĩ mình đang làm điều đúng: chính việc
hét là do đích thân Lâm Tế phát minh ra. Ông ấy đã đưa
việc hét vào Thiền. Lâm Tế là người sáng lập ra việc hét,
cho nên cô ấy phải đã nghĩ rằng cô ấy đang làm điều
đúng. Nhưng cô ấy không hiểu rằng việc hét có thể đúng
trong tình huống nào đó, sai trong tình huống khác. Ở
đây, ông ấy đã không đặt trước cô ấy công án nào. Câu
hỏi của ông ấy rất đơn giản.
Ông ấy đang hỏi, "Cô có tới tốt ở đây không? Cô có
xứng đáng không, cô có cho rằng cô xứng đáng không?"
- bởi vì bạn không làm phí thời gian của người như Lâm
Tế. Trước hết bạn phải xứng đáng với nhóm của ông ấy,
và cách duy nhất để xứng đáng với nhóm của phật là im
lặng, hoàn toàn im lặng. Chỉ hiện hữu. Nếu ni cô này
đơn giản chạm chân của Lâm Tế và ngồi xuống, đó sẽ là
câu trả lời đúng. Nhưng cô ấy đã bỏ lỡ.
Phương sách không phải bao giờ cũng thành công.
Trong cuộc sống không có chuyện một phương sách bao
giờ cũng thành công, bởi vì những người khác nhau cho
hoàn cảnh khác nhau. Cùng phương sách có thể có ích

139
cho người này, và với người khác cùng phương sách đó
lại hoàn toàn thất bại.

Một dịp khác Lâm Tế hỏi Lo'pu, "Mãi cho tới


giờ đã trở thành tục lệ là với một số người thì
dùng gậy và với người khác thì cho tiếng hét.

Đã có những thầy đơn giản bao giờ cũng dùng gậy,


còn Lâm Tế đã đưa vào việc hét; đệ tử của ông ấy,
những người đã trở nên chứng ngộ đã dùng tiếng hét
thay vì việc đánh. Mục đích là như nhau. Tiếng hét cũng
là cú đánh, nhưng rất tinh tế. Có lẽ nó đi sâu hơn chiếc
gậy. Chiếc gậy chỉ chạm vào da bạn, có thể đi sâu vào
xương bạn; nhưng tiếng hét có thể thấm vào chính bản
thể bạn, bởi vì nó là lực vô hình. Chiếc gậy là thứ vật
chất, thông thường; nó có thể đánh vào thân thể nhưng
nó không thể đánh vào tâm thức.
Thế là ông ấy đang hỏi Lo'pu, ""Mãi cho tới giờ đã
trở thành tục lệ là với một số người thì dùng gậy và với
người khác thì cho tiếng hét. Cách nào tới gần trái tim
của người nhận hơn?" "Không cách nào," Lo'pu đáp ứng.
"Cái nào tới gần?" Lâm Tế lại hỏi. Lo'pu hét.
Trong tiếng hét ông ấy đang nói rằng tiếng hét tới gần.
Thầy đánh ông ấy. Đây là cú đánh chấp nhận, của
niềm vui lớn lao, bởi vì hét là phát minh của bản thân
Lâm Tế, và chắc chắn việc hét đi sâu hơn. Cho nên việc
đánh này là của sự chấp nhận lớn lao: Lo'pu, ông phải
đấy.
Thiền có phương pháp luận rất linh hoạt. Nó không
cho những lời dạy bảo để các thế hệ tuân theo; nó không
cho những nguyên tắc tổng quát áp dụng được trong mọi

140
tình huống cho mọi người. Nó thân mật hơn và cá thể
hơn.
Lâm Tế đã dùng việc hét, nhưng sau ông ấy chỉ các
đệ tử của ông ấy, những người đã chứng ngộ, mới tiếp
tục dùng. Cuối cùng điều đó biến mất. Chiếc gậy vẫn
tiếp tục, bởi vì chiếc gậy trực quan hơn, vật chất hơn, và
chúng ta bao giờ cũng có khuynh hướng hiểu vật chất dễ
hơn phi vật chất. Tiếng hét là điều phi vật chất.
Lâm Tế đã cho một phương cách vô cùng hữu hiệu,
nhưng nó chỉ dành cho những người rất thông minh biết
sự khác biệt khi tiếng hét là của chấp thuận hay không
chấp thuận. Ông ấy cũng dùng gậy. Bây giờ Lo'pu đã
hét, vì vậy cho ông ấy tiếng hét sẽ không phải. Thầy
đánh ông ấy. Ông ấy cần sự chấp thuận rõ ràng hơn rằng
ông ấy đúng.
Thiền chưa bao giờ trở thành tôn giáo của đa số và
nó sẽ không bao giờ trở thành vậy. Nó bao giờ cũng sẽ
vẫn còn dành cho vài người được chọn lựa, cho những
người hiếm hoi, chỉ bởi vì nó không an ủi bạn bằng việc
cho thuốc phiện, và nó không cho bạn hứa hẹn và hi
vọng về cuộc sống tương lai. Nó nhấn mạnh vào việc
vẫn còn trong hiện tại. Đừng đi lùi lại hoặc tiến lên, bởi
vì khoảnh khắc hiện tại là khoảnh khắc duy nhất bạn
đang hiện hữu trong đó và sẽ trong đó. Bất kì khi nào
bạn có đó, bạn đều trong khoảnh khắc hiện tại.
Cho nên quá khứ là vô nghĩa; không ích gì mà
nghiên cứu kinh sách quá khứ. Tương lai là không liên
quan; không có nhu cầu bận tâm tới thiên đường và cõi
trời. Có những luận giải lớn lao được viết về những chi
tiết như vậy...
Tôi đã đi vào một ngôi đền và họ có ở đó một tấm
bản đồ theo phóng chiếu của họ: đất ở giữa và rồi bên

141
dưới đất là địa ngục và phía trên đất là thiên đường - và
điều đó chỉ ra đích xác nơi Thượng đế sống trong thiên
đường. Tôi đã hỏi tu sĩ người chỉ nó cho tôi - và nó là
tấm bản đồ cổ - "Ông có biết Timbuktu ở đâu không?"
Ông ấy nói, "Timbuktu à? Chưa bao giờ nghe nói
tới nó."
Tôi nói, "Ông không biết Timbuktu ở đâu à? Ông
có biết Constantinople không?"
Ông ấy nói, "Ông đang làm cho các cái tên này bật
ra."
Tôi nói, "Tôi không làm cho các cái tên này bật ra
đâu. Ông không biết ngay cả trái đất này, và ông cho
rằng ông biết thiên đường và ông biết địa ngục sao? Dựa
trên nền tảng nào mà ông biết những điều này?"
Ông ấy nói, "Tôi không biết. Đây là tấm bản đồ cũ.
Nó là ngôi đền cổ đại."
Tôi hỏi ông ấy, "Ai khác trong cả thành phố của
ông, trong toàn thể cộng đồng của ông biết không?"
Ông ấy nói, "Tôi cũng không biết nữa, bởi vì tôi là
tu sĩ, và nếu tôi không biết, thì không ai biết cả. Nhưng
chúng tôi tin..."
Và đó là nơi Thiền tách khỏi mọi tôn giáo. Khoảnh
khắc bạn nói, "Chúng tôi tin," thì bạn trở thành không
xứng đáng với bất kì từ bi Thiền nào. Bạn tự cắt mình
khỏi đám mây Thiền có thể mưa xuống và đem tiềm
năng của bạn tới nở hoa.
Đừng bao giờ nói, "Tôi tin." Đó là một trong những
điều dối trá lớn nhất mà con người đã bịa ra. Nếu bạn
biết, nói, "Tôi biết." Nếu bạn không biết, nói, "Tôi không
biết." Tin tưởng không có chỗ chút nào trong sự tồn tại.

142
Bạn ngụ ý gì khi bạn nói, "Tôi tin"? Bạn đang nói, "Mặc
dầu tôi không biết, tôi cho rằng nó phải như vậy."
Nhưng thử điều đó trong cuộc sống bình thường và
thế rồi bạn sẽ hiểu. Bởi vì bạn đang dùng nó cho những
điều giả tưởng, nên không ai để ý tới nó. Bảo người đàn
bà nào đó, "Anh tin là anh yêu em," và cô ấy sẽ cho bạn
cái tát đích đáng. Tin sao? - hoặc bạn yêu cô ấy hoặc bạn
không yêu cô ấy, nhưng điều đó nghĩa là gì, "Anh tin..."
hay có lẽ, "Anh tin rằng anh yêu em"? Bạn không thể lừa
được bất kì người đàn bà nào. Đàn bà mang tính trần tục
thế.
Bây giờ ngay cả Sardar Gurudayal Singh cũng
cười. Anh ấy đã thử lừa đàn bà, nhưng không thành công
mấy. Nhìn vào khăn xếp của anh ấy - mầu cầu vồng đấy
nhé! Nhưng thỉnh thoảng anh ấy cũng thành công. Có vài
kẻ ngốc bao quanh người mà không sannyasin muốn ở
cùng. Mọi người cho họ địa chỉ của Sardar Gurudayal
Singh - và với những kẻ ngốc này anh ta xoay xở tài lắm.
Mới vài ngày trước đây một bức thư của một cô
nàng ngốc tới nói rằng cô ấy đã trở nên chứng ngộ. Tôi
nói, "Điều đó là tốt! Bạn tới Sardar Gurudayal Singh đi.
Đó mới là đúng chỗ, và anh ấy là đúng người để cho bạn
sự thừa nhận. Hoặc là bạn sẽ làm cho anh ấy chứng ngộ
hoặc là anh ấy sẽ làm cho bạn không chứng ngộ. Điều gì
đó nhất định phải xảy ra. Bạn cứ đi đi" - và tôi nghe nói
rằng Sardar đã làm cho cô ấy thành không chứng ngộ.
Cô ấy rất buồn rằng cô ấy đã tới một người như
vậy, người không coi chuyện gì là nghiêm chỉnh. Anh ấy
cười vào chứng ngộ của cô ấy, và tiếng cười của anh ấy
đã tạo ra hoài nghi trong cô ấy, "Ai mà biết được liệu
mình có chứng ngộ hay không? Nếu Sardar Gurudayal
Singh mà cười..."

143
Bao giờ cũng có những kẻ ngốc bao quanh. Họ trở
nên chứng ngộ, họ trở nên không chứng ngộ - lên rồi
xuống. Một ngày nào đó họ chứng ngộ... Và bạn bao giờ
cũng tìm được những kẻ ngốc như vậy bao quanh Sardar
Gurudayal Singh. Cho nên không cần phải thông báo cho
tôi. Bất kì khi nào bạn trở nên chứng ngộ, đi tới Sardar
Gurudayal Singh!
Ikkyu đã viết:

Tôi gần như đánh mất tâm trí mình


giữa học tập và huấn luyện khắt khe.
Nhưng điều có giá trị nhất của cuộc sống
thực sự là bài ca của người đánh cá.
Dọc theo sông Hsiao,
Có mặt trời lặn và mưa,
Mây và trăng,
Điều ưu việt bên ngoài lời
Ca hát hết đêm nọ tới đêm kia.

Ikkyu là một trong những nhà thơ haiku đáng yêu


nhất, và bạn có thể cảm thấy tại sao ông ấy lại đáng yêu
nhiều thế. Ông ấy không phải là tay mơ, ông ấy là con
người rất trần tục. Tôi gần như đánh mất tâm trí mình
giữa học tập và huấn luyện khắt khe. Nhưng điều có giá
trị nhất của cuộc sống thực sự là bài ca của người đánh
cá.
Khi ông ấy nghe thấy bài ca của người đánh cá gần
Sông Hsiao... Ông ấy đang nói tới bài ca của người đánh
cá dọc theo Sông Hsiao là điều có giá trị nhất - còn giá
trị hơn những kinh sách linh thiêng, bởi vì bài ca của
người đánh cá tự phát thế, chân thực thế. Có mặt trời lặn
và mưa, mây và trăng, điều ưu việt bên ngoài lời ca hát
hết đêm nọ tới đêm kia.

144
Haiku phải được quán tưởng. Bạn quán tưởng dòng
sông lớn Hsiao và đêm im lặng và người đánh cá đang
hát, đêm nọ tiếp đêm kia... và sau mỗi bài hát im lặng lại
sâu sắc.
Những bài thơ này không phải là thơ theo nghĩa
thường, chúng mang tính tranh vẽ, miêu tả. Chúng có
mầu sắc, chúng có hình dạng, chúng gần như cảm thấy
được. Bạn có thể nghe thấy bài ca của người đánh cá,
bạn có thể nghe thấy tiếng sóng của dòng sông Hsiao.
Đêm tiếp đêm... và trăng và mây và mưa và mặt trời lên
và mặt trời lặn... tất cả đều là bức tranh vẽ chứ không
phải là thơ ca.
Đó là khác biệt giữa thơ ca thường và haiku. Thơ
ca thường là việc hợp lại từ lời. Haiku là hiện tượng rất
lạ: nó là bức tranh vẽ bằng lời - không trong mầu sắc, mà
trong lời. Nó là điều rất sống.

Maneesha đã hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Liệu có ích lợi gì cho những người trong
chúng tôi đang cùng Thầy cố gắng hiểu điều
đang xảy ra trong vịêc thiền và trưởng thành
của chúng tôi, và để có khả năng nói ra nó?
Hay chúng tôi chỉ cần quan sát?

Maneesha, bạn chỉ cần quan sát thôi. Khoảnh khắc


bạn bắt đầu nghĩ, "Điều gì đang xảy ra?" tâm trí sẽ quay
lại. Nếu bạn bắt đầu phân tích, tâm trí sẽ quay lại. Bất kì

145
điều gì bạn làm, ngoại trừ việc quan sát, tâm trí sẽ quay
lại. Đó là kẻ thù duy nhất cần phải tránh, và quan sát là
chỗ trú ẩn duy nhất trong đó tâm trí không thể vào được.
Câu hỏi của bạn là có ý nghĩa. Người ta có khuynh
hướng nghĩ, "Điều gì đang xảy ra?" và phân tích nó.
Nhưng người ta không nhận biết về sự kiện là trong nỗ
lực này của việc phân tích, tìm kiếm giải thích, tâm trí đã
quay lại từ cửa sau. Bằng việc quan sát, chúng ta đang cố
gắng thoát khỏi tâm trí. Tất cả các hoạt động khác đều
thuộc về tâm trí.
Cho nên bạn chỉ cần quan sát, bạn chỉ cần đi sâu
vào quan sát nhiều nhất có thể được. Đi ngày một sâu
hơn tới mức độ là tâm trí bị bỏ lại sau, và chỉ nhân chứng
thuần khiết có đó. Đó là vàng ròng của bạn, đó là phật
của bạn. Bây giờ là lúc của Sardar Gurudayal Singh.

Mungo, một quí ông da đen lớn, bước ra từ rừng


rậm và vào thành phố Mĩ để tìm việc. Ông ấy nghe nói
có việc tại nhà máy địa phương, và đi tới đó để dự phỏng
vấn.
"Ông có thể có việc," ông chủ da trắng nói, "nhưng
ông phải hiểu một điều: tôi không muốn ông đem bất kì
người bạn hay người thân nào tới đây. Tôi biết những
người rừng hoang như ông là gì. Công việc này chỉ dành
cho ông thôi. Hiểu chứ?"
"Vâng, tôi hiểu, thưa ông chủ!" Mungo nói.
"Không bạn bè. Không họ hàng. Chỉ tôi, mình tôi thôi!"
Sáng hôm sau, khi ông ấy tới bắt đầu làm việc,
Mungo bước qua cổng xưởng có dắt theo một người lùn
da đen nhỏ. "Này!" ông chủ quát lên, "Tôi nghĩ là tôi đã
bảo ông rồi, không họ hàng, không bạn bè cơ mà!"

146
"Nhưng thưa ông chủ," Mungo lắp bắp, "anh ta
không phải là bạn tôi hay họ hàng tôi - anh ta là bữa trưa
của tôi!"

Trong một làng nhỏ ở miền nam Italia, Giovanni và


Maria lấy nhau. Nhưng Giovanni sống trong một túp lều
tranh nhỏ với cả gia đình mình, cho nên đôi thanh niên
phải qua đêm cưới ngủ trong cùng phòng như mọi người
khác.
Vào giữa đêm, Giovanni và Maria bắt đầu làm tình,
nhưng bỗng nhiên Maria kêu, "Ái! Giovanni, anh làm
đau quá!"
"Thực thế-a?" Giovanni nói. "Thôi được, anh sẽ-a
tới tủ và cho-a một chút dầu ô liu vào-a đầu chim vậy."
Thế là anh ta đứng dậy, bước qua bố, mẹ, chị, ông
và bà, và cuối cùng tới tủ. Anh ta cho một ít dầu vào
chim và rồi trở lại với Maria.
Nhưng sau vài phút, Maria lại kêu lên, "Ái!
Giovanni, nhớ rằng em-a vẫn còn trinh! Anh làm đau
quá."
"Thôi được," Giovanni nói, "anh sẽ cho-a thêm ít
dầu nữa vào chỗ đầu chim vậy." Thế là anh ta trèo qua
bố, mẹ, chị, ông và bà và đổ thêm dầu vào chim. Rồi anh
ta trở lại với Maria.
Nhưng cùng điều đó lại xảy ra. Lần này, Giovanni
đã trèo qua mọi người và tới tủ, thì bỗng nhiên ông của
anh ta ngồi dậy trên giường và quát, "Này, Maria! thoải
mái-a với dầu đi! Chúng ta sẽ dùng gì-a cho món salad
ngày mai đây - chim của Giovanni chắc?"

147
Giáo hoàng Polack đang làm cuộc hành hương Cơ
đốc giáo về Mĩ, thì ông ấy bị lạc tại sân bay quốc tế
Rome. Ông ấy đi vơ vẩn quanh hành lang, đẩy chiếc xe
kéo hành lí, và bằng cách nào đó lên chuyến bay đi
London.
Tới sân bay London với chiếc áo choàng dài và
chiếc mũ hình tên lửa, giáo hoàng Polack bước tới bàn
nhập cư, tại đó ông ấy được yêu cầu điền vào một tờ
khai. Giáo hoàng chép mọi chi tiết từ hộ chiếu Ba lan
của mình và rồi trao tờ khai cho một viên chức.
"Có một phần cần được làm đầy đủ," viên chức này
nói, nhìn vào bộ quần áo kì lạ của Polack và trỏ vào đoạn
có đánh dấu 'sex'. "Ồ vâng!" Giáo hoàng Polack nói.
"Điều đó nên đọc là: hai lần một ngày."
"Thật thế à?" viên chức này nói. "Nhưng tôi không
muốn biết điều đó, điều tôi muốn biết là: đàn ông hay
đàn bà?"
"Ôi, tôi hiểu ông muốn nói gì," giáo hoàng Polack
nói, với việc nháy mắt. "Tôi thích cả hai!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại và cảm thấy thân thể hoàn


toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong với toàn bộ
tâm thức của bạn với toàn bộ năng lượng sống của bạn

148
và với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối
của cuộc đời bạn. Chỉ với sự khẩn thiết đó bạn mới có
thể đạt tới trung tâm của bản thể mình. Trung tâm của
bản thể cũng là trung tâm của của toàn thể vũ trụ. Tại
trung tâm chúng ta tất cả là một. Chỉ chứng kiến sâu sắc.
Việc chứng kiến của bạn càng sâu... làm sương mờ biến
mất và bạn có thể thấy bản thân mình như phật. Kinh
nghiệm về việc là phật là kinh nghiệm lớn nhất trong
cuộc sống. Bỗng nhiên từ khắp mọi nơi hoa bắt đầu mưa
xuống, sự tồn tại trở thành đáng yêu thế.
Trong im lặng này mọi thứ trở thành điệu vũ. Ngay
cả im lặng cũng trở thành bài ca. đi ngày một sâu hơn...
để cho mũi tên tâm thức của bạn xuyên thấu vào sâu nhất
có thể được. Con đường này nhỏ. Một chút ít dũng cảm
và bỗng nhiên bạn ở tại trung tâm, thoát khỏi thân thể,
thoát khỏi tâm trí, bạn sẵn sàng biến mất vào trong vũ
trụ. Là không ai cả là phúc lạc lớn nhất.
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi, và chỉ biến mất trong đại dương tâm


thức đang bao quanh bạn. Chúng ta không là gì ngoài cá
trong đại dương. Khoảnh khắc này Thính phòng Phật đã
trở thành chiếc hồ tâm thức không gợn sóng nào. Niềm
vui thế, an bình thế... và kinh nghiệm về bản thể bạn là
bất tử, vĩnh hằng. Bạn bao giờ cũng đều ở đây và bạn
bao giờ cũng sẽ ở đây. Chỉ có hai cách ở đây: một cách
là trong tù túng, cách kia là trong tự do. Quan sát đem
bạn ra khỏi nhà tù và mở ra những cánh cửa của vô hạn.
Bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí. Bạn
chỉ là tâm thức chứng kiến này. Đây là tự do của bạn.
Đây là mặt nguyên thủy của bạn. Đây là phật bạn đã
từng tìm kiếm. Bạn phải mang mọi kinh nghiệm này dần

149
dần, dần dần tới chu vi của mình, tới cuộc sống thường
ngày của mình.
Trong những hoạt động bình thường của bạn phật
phải được diễn đạt. Trong tình yêu của bạn, trong các
mối quan hệ khác của bạn, trong bạn bè của bạn, tại bãi
chợ, ngồi hay đi, nói hay im lặng, bạn nên nhớ mình là
phật.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng đem tất cả mọi thứ ở trung tâm ra


chu vi. Quay lại như phật, duyên dáng, an bình, trong im
lặng tuyệt đối và bạn biết Thiền là gì. Việc đem phật ra
bề mặt là toàn thể khoa học của Thiền. Biến đổi mọi
người thành mặt nguyên thuỷ của mình - đó là mặt của
phật - là công việc của tôi, và nó là công việc của bạn
nữa. Chúng ta càng có nhiều chư phật trên trái đất, trái
đất càng được bảo vệ hơn khỏi các thế lực huỷ diệt.
Chúng ta càng có nhiều chư phật trên trái đất, thì nó sẽ
càng trở nên đẹp hơn.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

150
6. Mọi điều có thể làm
là bỏ tâm trí

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một lần khi Lâm Tế tới thăm Horin, Horin
nói: "Trong biển, ánh trăng chiếu sáng rõ và
không có bóng, nhưng cá ngang ngạnh vẫn tự
lừa mình."
Lâm Tế bình: "Nếu ánh trăng trên biển mà
không có bóng, thì làm sao cá có thể bị lừa
được?"
Horin lại nói: "Thấy có gió, sóng dậy lên; đùa
với nước, cánh buồm thô bay phần phật."
Lâm Tế nói: "Ếch dưới ánh trăng một mình
sáng lên, và tất cả mọi dòng sông và đồi núi
đều an bình. Cái thở dài của gió là giọng nói
của mùa thu trong đất và trời."
Horin nói: "Mặc dù ông có thể uốn ba tấc
lưỡi, và làm sáng lên sự yên tĩnh tinh tú, thử
nói một lời khớp với dịp này đi!"
Lâm Tế đáp ứng: "Khi ông gặp một thầy kiếm
thủ, cho người đó xem kiếm của ông. Khi ông

151
gặp một người không phải là nhà thơ, đừng
cho người đó xem thơ ông."

Maneesha, con đường của Thiền yêu cầu những


điều kiện nào đó cần được đáp ứng. Chúng không phải là
những điều kiện mà các tôn giáo khác yêu cầu; chúng là
những điều kiện về nhạy cảm, về nhận biết, về lắng
nghe, về hiểu điều vô lời, xuyên thấu sâu sắc vào im
lặng. Không tôn giáo nào khác đòi hỏi bạn những điều
này. Họ muốn bạn đức hạnh, đạo đức, không cho phép
ngoại tình. Yêu cầu của họ là rất hời hợt.
Thiền yêu cầu phẩm chất thực của việc hiện hữu.
Chỉ thế thì thầy mới có thể truyền đạt hiểu biết của mình
về điều tối thượng. Nói cách khác, Thiền không phải là
thượng đế học, mà là giao cảm con người với con người.
Đệ tử phải vươn lên cùng tầm cao như thầy, bằng không
đệ tử sẽ lỡ bất kì điều gì đã được nói cho mình. Những
phẩm chất này sẽ đem đệ tử tới rất gần chiều cao của
thầy.
Thầy chắc chắn biết bạn đang ở tầm cao nào và
thầy nói tương ứng theo đó. Thầy không bao giờ để phí
một lời nào hay một khoảnh khắc nào.
Maneesha đã đem tới giai thoại nhỏ này, điều sẽ
giải thích cho bạn Lâm Tế, người sáng lập ra Thiền ở
Nhật Bản, là gì.

Một lần khi Lâm Tế tới thăm Horin, Horin


nói: "Trong biển, ánh trăng chiếu sáng rõ và
không có bóng, nhưng cá ngang ngạnh vẫn tự
lừa mình."

152
Lâm Tế bình: "Nếu ánh trăng trên biển mà
không có bóng, thì làm sao cá có thể bị lừa
được?"

Tất cả mọi lừa dối đều lấy hình bóng thay cho cái
thật. Nhưng cũng khá kì lạ - có lẽ bạn chưa bao giờ quan
sát điều đó - bản thân cái bóng không thể vứt bỏ cái bóng
được. Do đó một luật cổ là nếu bạn thấy một người
không có bóng, thì nhớ người đó là ma, bởi vì người
thực sẽ có bóng. Chỉ người có vẻ như con người nhưng
lại trong suốt - bạn có thể thò tay mình qua người đó và
bạn sẽ không chạm vào cái gì cả - mới không tạo ra bóng
nào.
Phản xạ của trăng trong hồ bản thân nó là cái bóng.
Làm sao nó có thể vứt bỏ cái bóng được? Điều đó là
không thể được. Nhưng điều Horin muốn nói là không
cái gì là cần thiết hay không bản chất.
Ông ấy nói, "Trong biển, ánh trăng chiếu sáng rõ
và không có bóng, nhưng cá ngang ngạnh vẫn tự lừa
mình."
Chúng tự lừa dối mình về cái gì? Lừa dối của
chúng là gì? Ảo tưởng của chúng là gì? Ảo tưởng của
chúng là lấy việc phản xạ làm trăng thực. Nhưng Lâm Tế
bình: "Nếu ánh trăng trên biển mà không có bóng, thì
làm sao cá có thể bị lừa được?"
Cá chắc chắn có thể bị lừa dối, vì ngay cả con
người cũng bị cái bóng lừa dối. Câu hỏi của Lâm Tế là
rõ ràng và từ chiều cao của tâm thức. Mọi người trên thế
giới đều bị cái bóng lừa dối. Tất cả mọi tưởng tượng của
bạn là gì? Tất cả mọi giấc mơ của bạn là gì?
Bạn đã bao giờ xem xét sự kiện là trong khi mơ bạn
không bao giờ nghĩ rằng điều này là không thật không?

153
Khi thức bạn có thể nghĩ có lẽ tất cả những điều bạn nói
đều không thật, chỉ là mơ; nhưng trong mơ bạn không
bao giờ có thể nghĩ rằng nó là giấc mơ, bởi một lí do đơn
giản là nếu bạn có nhận biết nhiều về kinh nghiệm giấc
mơ là giấc mơ, thì việc mơ sẽ chấm dứt. Việc mơ chỉ có
thể tiếp tục trong chính trạng thái vô ý thức, vô nhận
biết.
Câu hỏi thực không phải về cá. Cá chỉ là biểu
tượng. Câu hỏi thực là về con người.
"Nếu ánh trăng trên biển mà không có bóng, thì
làm sao cá có thể bị lừa được?"
Chỉ có một cách cho cá bị lừa, và đó là lấy phản xạ
làm trăng thực.
Horin bỏ lỡ vấn đề. Ông ấy bắt đầu giải thích tại
sao cá lại bị mắc vào lừa dối. Đó không phải là điều Lâm
Tế muốn ông ấy làm. Với ông ấy cá không thành vấn đề
gì cả, mà việc phản xạ của trăng cũng không thành vấn
đề. Mối quan tâm của ông ấy là thế này, rằng chưa cần
nói về cá, ngay cả con người cũng bị cái bóng lừa dối -
và không chỉ trong mơ, mà trong cuộc sống thực tại khi
họ tỉnh thức. Mọi ngày bạn tiếp tục nhận điều lừa dối,
nhưng bạn không nhận biết, do đó nó không làm hại cho
bạn và chân giá trị của bạn.
Bạn thấy một người đàn bà rất đẹp - và cô ấy chắc
chắn đẹp, nhưng cái đẹp đó đi đâu sau tuần trăng mật?
Thế rồi bạn muốn giết cùng người đàn bà đó, người mà
bạn đã sẵn sàng chết vì cô ấy một ngày nào đó.
Bạn có thể ca ngợi cái đẹp của những đàn bà khác,
nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói về người chồng nào ca
ngợi cái đẹp của vợ mình. Có lẽ điều anh ta thấy không
phải là người đàn bà thật như cô ấy đang đấy; anh ta thấy
người đàn bà như anh ta muốn thấy cô ấy.

154
Đó là phóng chiếu mơ, và phóng chiếu mơ không
thể được kéo dài lâu. Sớm hay muộn việc phóng chiếu
mơ sẽ bị bỏ đi, và bỗng nhiên bạn thấy con người thực.
Không cái gì thay đổi: người đàn bà vẫn như cũ, người
đàn ông vẫn như cũ, nhưng người đàn bà không nghĩ bạn
là cùng người đàn ông mà cô ấy đã yêu, mà bạn cũng
không nghĩ cô ấy là cùng người đàn bà bạn đã từng yêu.
Điều gì đã xảy ra? Chỉ trong một tuần... và nếu bạn
đủ thông minh, thế thì chỉ cần qua ngày nghỉ cuối tuần.
Điều đó tuỳ thuộc vào thông minh. Người ngu có thể
sống thế cả đời họ. Người càng thông minh, người đó
càng sớm thấy ra phóng chiếu của mình, tưởng tượng bị
loại bỏ, mây mù biến mất, và người đó sẽ thấy bầu trời
thuần khiết không mây - và điều đó sẽ thay đổi ý kiến
của người đó.
Lâm Tế đang nói rằng chúng ta tất cả đều đang
sống trong cái bóng. Bạn nghĩ, bạn phóng chiếu, bạn
tưởng tượng, bạn mơ. Những người yêu lớn nhất trên thế
giới là những người chưa bao giờ gặp nhau; tình yêu của
họ là vĩnh viễn. Những người hát bài ca của Shiri và
Farhad, của Laila và Majnu, của Sohini và Mahival, và lí
do duy nhất tại sao tình yêu của họ được ghi nhớ là ở chỗ
họ chưa bao giờ được phép của bố mẹ và xã hội để ở
cùng nhau.
Nếu Laila và Majnu mà cưới nhau, bạn sẽ không
bao giờ nghe nói tới tên họ nữa. Bạn đã bao giờ nghe câu
chuyện nào, bài thơ nào liên quan tới đôi đã lấy nhau
chưa? Ít nhất tôi đã tìm kiếm đủ, và tôi không tìm thấy
điều đó. Điều đó dường như là điều không thể được về
bản chất, bởi vì khi họ lại gần, phóng chiếu của họ bắt
đầu sụp đổ. Nếu họ bị giữ xa nhau, bị buộc tách rời, thế
thì mơ của họ thậm chí còn trở thành đẹp hơn. Tưởng
tượng của họ cất cánh.

155
Và không chỉ trong vấn đề này đâu mà trong các
vấn đề khác nữa, bạn sống trong cái bóng, trong niềm hi
vọng của mình. Bạn đã được gì trong hi vọng của mình?
Chỉ tưởng tượng trống rỗng rằng ngày mai cái gì đó sẽ
xảy ra mà mãi cho tới nay còn chưa xảy ra, và bạn sẽ
cảm thấy được thoả mãn. Điều đó không bao giờ xảy ra
cả. Điều xảy ra ngày mai là cái chết, và cái chết tạo ra sợ
hãi bởi lẽ đơn giản bạn có thể không nhận biết.
Nỗi sợ chết là ở chỗ nó lấy tương lai ra khỏi bàn tay
bạn. Bạn đã từng sống trong tương lai trong tưởng tượng
của bạn, còn cái chết tới và đặt vào dấu chấm hết. Không
còn tương lai nữa. Tương lai đơn giản là ý tưởng của bạn
về cách mọi sự phải thế. Sự tồn tại không có nghĩa vụ gì
với bạn để hoàn thành những ham muốn của bạn và hi
vọng của bạn. Mọi người thậm chí còn cho những hứa
hẹn, mọi người nói với nhau, "Anh sẽ yêu em cả đời
anh," mà không biết chút nào rằng cả đời là một việc dài
lâu. Một người đàn ông nói với cô bạn gái của mình,
"Anh sẽ yêu em cả đời anh."
Thế rồi trong một khoảnh khắc anh ta trở nên im
lặng, và người đàn bà nói, "Sao anh bỗng nhiên trở nên
im lặng bất thần thế?"
Anh ta nói, "Nói cho anh một điều. Trong tuổi già
của em, em có bắt đầu trông giống như mẹ em không? -
bởi vì thế thì anh không thể đưa ra lời hứa đó được.
Bỗng nhiên anh nghĩ, 'Mình đang nói gì thế này? Trong
tuổi già người đàn bà này sẽ trông giống như mẹ vợ
mình!'" Và mẹ vợ... điều kì lạ là mọi người không bắn
họ.
Tôi đã nghe, một thợ săn đi vào rừng sâu để săn.
Vợ anh ta cứ khăng khăng đòi đi và cô ấy cũng khăng
khăng phải đem cả mẹ vợ đi. Không để tạo ra rắc rối anh

156
ta nói, "Thôi được, cũng chẳng hại gì trong đó. Em có
thể ngồi trên cây và em có thể thấy."
Mẹ vợ chưa quá già nên cũng trèo được lên cây,
cho nên bà ấy ngồi trên một cây nhỏ khi sư tử tới gần.
Người vợ thấy nó từ cây cao của mình và hô lên với
chồng, "Anh nhìn đấy, một con sư tử đang rất gần mẹ
em."
Người chồng nói, "Đấy không phải là vấn đề của
anh, đấy là vấn đề của con sư tử. Bây giờ nó đã lâm vào
rắc rối rồi. Nếu nó muốn thoát ra, thì nó sẽ thoát ra. Em
cứ yên tâm đi."
Mọi người trông đợi điều gì đó, và điều đó không
bao giờ được hoàn thành. Bao giờ cũng có thất vọng
khắp nơi. Mọi người đang sống trong thất vọng, và lí do
là ở chỗ điều họ đã trông đợi... sự tồn tại không có ham
muốn, không có lí do để đi theo trông đợi của họ. Nếu
bạn muốn hạnh phúc, đi cùng sự tồn tại và mục đích của
nó tới bất kì cái gì nó đem bạn tới.
Đó là điều tôi ngụ ý bởi buông bỏ: bạn đơn giản vứt
bỏ phóng chiếu của bạn, tưởng tượng của bạn, và để cho
sự tồn tại nắm giữ toàn thể cuộc sống của bạn. Thế thì
không có thất vọng, bởi vì không có khả năng nào bị thất
vọng cả. Không có phiền não và không lo âu; bạn được
thảnh thơi với sự tồn tại. Bất kì điều gì xảy ra, điều đó là
tốt.
Toàn thể sự tồn tại trí huệ hơn bạn, cho nên bất kì
điều gì xảy ra - Phật nói như thế - với bất kì điều gì xảy
ra, nhớ, như thế là bản tính của sự tồn tại. Đừng đứng
tách rời và chống lại sự tồn tại; là một phần, và cảm thấy
cái một nào đó.
Cái một đó có thể được gọi là cái như thế, hay cái
đang đó, hay cái này đây, nhưng ý nghĩa là ở chỗ bất kì

157
cái gì xảy ra cũng đều tốt. Bạn phải tìm ra cái đẹp của nó
và niềm vui của nó. Chỉ một người như vậy mới có thể
phúc lạc; bằng không bao giờ cũng có cảm giác bị lừa.
Mọi người - trong hàng nghìn người, có lẽ một
người chết đi mà không có ý tưởng rằng mình đã bị cuộc
sống lừa. Gần như mọi người chết đi với ý tưởng, "Nó là
cái gì vậy? Bẩy mươi năm mình đã tranh đấu; trò chơi
này là gì?" Tất cả mọi trông đợi của bạn đều bị tan tành,
tất cả mọi ước mơ của bạn đều tan vỡ, tất cả mọi hứa hẹn
của bạn đều vẫn không được hoàn thành. Bạn đang chết
đi là kẻ phá sản.
Gần như mọi người đều chết đi là kẻ phá sản khi có
liên quan tới trông đợi của người đó. Chỉ con người của
buông bỏ mới không bị lừa dối bởi bất kì cái gì. Người
đó nhận mọi thứ tới trên đường một cách sung sướng và
hân hoan, và nếu mọi sự thay đổi, người đó cho phép
việc thay đổi mà không cản trở nào, không tạo ra bất kì
rào chắn nào để ngăn cản thay đổi đó. Một người như
vậy không biết tới lừa dối. Người đó biết cuộc sống chưa
bao giờ lừa dối mình, mà bao giờ cũng hoàn thành những
niềm khao khát mà thậm chí người đó còn không nhận
biết tới.

Horin lại nói: "Thấy có gió, sóng dậy lên; đùa


với nước, cánh buồm thô bay phần phật."

Ông ấy đã không hiểu rằng Lâm Tế không nói về


cá, và ông ấy đang cố gắng giải thích phát biểu riêng của
mình mà không nghe điều Lâm Tế đã nêu ra như câu hỏi.

Lâm Tế nói: "Ếch dưới ánh trăng một mình


sáng lên, và tất cả mọi dòng sông và đồi núi

158
đều an bình. Cái thở dài của gió là giọng nói
của mùa thu trong đất và trời."

Mọi thứ đều là như nó đáng phải là. Cho nên an


bình là đồi núi trong đêm trăng tròn... sông an bình, việc
nhảy múa trong đêm trăng tròn. Bởi vì điệu vũ của chúng
mà phản xạ của trăng tròn trở thành màu bạc lan toả
khắp nơi. Mọi thứ đều im lặng và an bình, không có thất
vọng trong đồi núi, không có thất vọng trong dòng sông.
Ngay cả ếch trong trăng cũng một mình sáng lên.
Nếu bạn nhìn vào tự nhiên, chỉ bỏ con người và tâm
trí con người đi, mọi thứ đều là phúc lạc, mọi thứ đều là
phật. Chính tâm trí của con người tạo ra rắc rối, bởi vì nó
không thể cho phép buông bỏ.

Cái thở dài của gió là giọng nói của mùa thu
trong đất và trời."

Và có niềm vui lớn lao rằng mùa thu đang tới.


Trăng đầy phúc lạc và tất cả đều sáng lên dưới ánh trăng,
ngoại trừ con người...
Con người cũng có thể hạnh phúc như đồi núi và an
bình như dòng sông nếu con người nhìn vào trăng và mọi
thứ xung quanh mà không có tâm trí nào. Không có ý
nghĩ, con người cũng sẽ trở thành một phần của toàn thể
khung cảnh.
Nhưng con người bao giờ cũng bận tâm tới những ý
tưởng ngu xuẩn của mình. Khi toàn thể sự tồn tại đang
hân hoan, chỉ mỗi con người là lo nghĩ. Bạn đã bao giờ
thấy cây lo nghĩ chưa? Không con vật nào lo nghĩ cả.
Ngay cả trong việc chết, nó cũng chết an bình. Như thế

159
là cách thức của sự tồn tại, rằng bất kì cái gì được sinh ra
thì đều sẽ chết đi.
Nhưng tâm trí con người xâm nhập vào, bao giờ
cũng tạo ra vấn đề, bởi vì nó trông đợi mọi thứ khác hơn
chúng đang hiện hữu. Con người không thực sự chấp
nhận tính như thế của sự tồn tại; con người muốn nó phải
theo ý mình. Điều này, theo con người, là toàn bộ khổ.
Mọi người đều cố gắng rằng mọi thứ phải theo ý mình.
Người ta có thể nói ra điều đó, người ta có thể không nói
ra điều đó, nhưng cho dù không nói ra điều đó, tâm trí
bạn vẫn thêu dệt nên những ý nghĩ về cách mọi sự phải
được đem lại theo ý của bạn - và điều này là không thể
được. Bạn không thể thay đổi được sự tồn tại. Mọi điều
bạn có thể làm là vứt bỏ tâm trí của mình.

Horin nói: "Mặc dù ông có thể uốn ba tấc


lưỡi, và làm sáng lên sự yên tĩnh tinh tú, thử
nói một lời khớp với dịp này đi!"
Lâm Tế đáp ứng - và sự đáp ứng của ông ấy
có tầm quan trọng cơ bản: "Khi ông gặp một
thầy kiếm thủ, cho người đó xem kiếm của
ông. Khi ông gặp một người không phải là
nhà thơ, đừng cho người đó xem thơ ông."

Từng người đều theo giá trị của mình, từng người
đều theo cảm nhận của mình. Bạn chưa có khả năng cảm
nhận được từ và hiểu nó. Tôi không thể trích dẫn bài thơ
cho bạn được, bởi vì bạn sẽ không hiểu nó; bạn chắc
chắn sẽ hiểu lầm.
Tôi đã nghe nói, một tên trộm bị đem ra toà, và
quan toà nói, "Sao anh đã vào nhà của người này?"
Tên trộm đáng thương nói, "Tôi đã vào để lấy trộm
cái gì đó. Nhưng người này thực kì lạ thế: anh ta bắt giữ

160
tôi, và khi tôi định trốn đi anh ta nói, 'Đừng lo, ngồi
xuống và lắng nghe. Ta đã viết một bài thơ mới.' Tôi
nghĩ tốt hơn cả là lắng nghe im lặng, nhưng bài thơ cứ
diễn ra mãi. Và anh ta giữ tay tôi, cho nên theo cách này
cả đêm anh ta hành hạ tôi. Tôi không hiểu lấy một lời từ
điều anh ta nói, và tôi cũng không thể thoát được.
"Đến sáng cảnh sát tới, và bây giờ tôi đang đứng
đây trước ông với một hi vọng: rằng ông sẽ không trừng
phạt tôi bằng việc nghe lại bài thơ này. Tôi thậm chí sẵn
sàng đi tới giá treo cổ. Tôi không có ý tưởng rằng ngôi
nhà này thuộc về nhà thơ, bằng không thì tôi đã không
vào rồi."
Nhà thơ là giống điều đó. Rất khó cho họ tìm ra
thính giả. Họ liên tục tìm mãi xung quanh để xem liệu họ
thể tìm được ai đó không, và mọi người liên tục chạy xa
mà nói, "Tôi phải làm việc đặc biệt nào đó. Ngay bây giờ
tôi không sẵn có." Ai muốn phí thời gian?
"Chừng nào ông còn chưa là nhà thơ," Lâm Tế
đang nói, "đừng nói gì với người không xứng với nó, bởi
vì điều đó là xúc phạm người đó, điều đó làm hạ cấp
người đó, điều đó lấy đi chân giá trị của người đó, điều
đó đem tới cái vô giá trị của người đó. Cho nên đừng hỏi
ta chỉ một lời; ông còn chưa có khả năng tiếp nhận nó.
Ông đã không hiểu một điều đơn giản, và ông lại cứ đi
giải thích. Ông không phải là cá và ông không biết cái gì
diễn ra trong tâm trí của cá.
"Nói về con người và nói về sự lừa dối của người
đó, và tìm ra lí do tại sao người đó nhận lừa dối. Đó
chính là kháng cự riêng của người đó với sự tồn tại, và
nỗ lực để tạo khuôn cho toàn thể cuộc sống - điều không
thể được. Người đó đang cố gắng làm điều không thể
được và liên tục thất bại mãi."

161
Thất bại này không chỉ là sai lầm của người đó.
Không phải là người đó đã không làm đúng; bất kì điều
gì người đó làm, người đó đều sẽ thất bại. Không ai có
thể trí huệ hơn sự tồn tại vũ trụ. Cho nên người trí huệ
cho phép mình đi cùng dòng sông tồn tại, thậm chí
không hỏi, "Chúng ta đi đâu đây?"
Sự tồn tại không đi đâu cả. Nó đơn giản ở đây, chỉ
chơi đùa với hàng nghìn hình dạng, hàng nghìn tình
huống, tạo ra ngày một nhiều tâm thức, ngày một nhiều
hạnh phúc, ngày một nhiều tình yêu. Nếu điều đó không
xảy ra cho bạn, điều đó đơn giản nghĩa là bạn đang giữ
cánh cửa của mình đóng lại.
Mở trái tim bạn và thảnh thơi với sự tồn tại và bỗng
nhiên bạn sẽ thấy, Ếch dưới ánh trăng một mình sáng
lên. Không cần bầu bạn, không cần giầu có - chỉ con ếch
khiêm tốn. Không địa vị chính trị nào cần cả - và mọi
dòng sông và mọi núi đồi đều an bình. Chúng không có
gì, nhưng chúng có an bình, cái bạn không thể mua
được.
Cái thở dài của gió là giọng nói của mùa thu trong
đất và trời. Hiện hữu cùng sự tồn tại dù nó đi tới bất kì
đâu và bạn sẽ không bị lo nghĩ. Căng thẳng của bạn sẽ
biến mất. Bạn sẽ hạnh phúc như đứa trẻ, bạn sẽ đẹp như
đoá hoa.
Ikkyu đã viết:

Khi bạn chặt cây anh đào


và nhìn,
không có hoa chút nào;
Hoa được gió xuân đem tới.
Cho dù bạn bay lên bát ngát
thậm chí vượt ra ngoài mây,
đừng chỉ dựa vào

162
giáo huấn của Gautama.

Hai điều Ikkyu đang nói: một, bạn không thể đem
hoa tới, điều sẽ tới theo đúng thời điểm của nó. Bạn phải
đợi, bạn phải kiên nhẫn. Bạn không thể hỏi, "Sao hoa
anh đào vẫn không tới?" Cây có đó, bạn vẫn tưới cho
cây.... Ikkyu nói, bạn thậm chí có thể chặt cây anh đào ra
và nhìn vào bên trong cây để tìm xem hoa được giấu ở
đâu. Không có hoa nào hết cả.
Hoa được gió xuân đem tới. Để mùa xuân tới, để
cho đúng lúc và đúng khí hậu và gió đúng sẽ đạt tới cây
anh đào. Nó sẽ bất thần nở hoa, nó sẽ bùng nổ vào cái
đẹp mênh mông.
Cây anh đào đang chờ đợi; nó không vội vã, nó
không chạy đi đâu đó để đuổi bắt mùa xuân. Nó đơn giản
chờ đợi kiên nhẫn, hớn hở. Mùa xuân tới; cho dù nó tới
chậm một hai hôm, có thành vấn đề gì đâu? Mùa xuân
bao giờ cũng tới.
Điều thứ hai Ikkyu nói: Cho dù bạn bay lên bát
ngát thậm chí vượt ra ngoài mây, đừng chỉ dựa vào giáo
huấn của Gautama. Điều đó chỉ có thể được các Thiền
sư nói ra về người khởi thuỷ riêng của mình: "Đừng dựa
vào Gautama giáo huấn của Phật" - bởi vì giáo huấn của
ông ấy là trong hoàn cảnh khác. Ông ấy đã nói cho một
loại người khác. Bạn có thể không phải là loại người đó
chút nào, thời đại đã thay đổi; những giáo huấn đó có thể
không còn liên quan nữa.
chỉ dựa vào tâm thức riêng của chính bạn. Ngay cả
tâm thức của Gautama cũng không tin cậy được. Ông ấy
không nói rằng Gautama là sai; ông ấy đang nói rằng
Gautama đã giải quyết cho những tình huống từ một
nghìn năm trăm năm trước rồi.

163
Tôi đã kể cho các bạn về một ví dụ khi chỉ trong
một ngày... Vào buổi sáng một người đã hỏi Phật
Gautam, "Có Thượng đế không?" Và Gautama nói,
"Không, không có Thượng đế." Vào buổi chiều người
khác hỏi, "Thầy nghĩ gì về Thượng đế?" Gautama nói,
"Vâng, có Thượng đế đấy."
Bạn có thể hiểu sự khó hiểu của Ananda, người liên
tục sống cùng ông ấy. Ông ấy bắt đầu bị chứng đau nửa
đầu. Cái loại người gì thế này? Vào buổi sáng ông ấy
nói, "Không có Thượng đế," và vào buồi chiều ông ấy đã
quên hoàn toàn, và ông ấy nói, "Có Thượng đế."
Ông ấy đợi tới thời điểm vào buổi đêm khi không
còn ai ở xung quanh nữa, nhưng trước lúc đó người thứ
ba tới vào buổi tối, ngồi xuống và hỏi Gautama, "Tôi
không có quan niệm nào ủng hộ hay chống đối Thượng
đế. Xin giúp tôi hiểu."
Và Phật Gautam không nói gì với người này cả, mà
ngược lại đơn giản nhắm mắt, giữ im lặng. Thấy điều
này, người kia cũng nhắm mắt và ngồi đó. Người đó
nghĩ có lẽ Phật định nói điều gì đó trong im lặng của
mình và họ cả hai vẫn còn im lặng trong hai giờ.
Người này còn lại với vẻ đẹp đẽ, tươi tắn và trẻ
trung, sảng khoái đến mức sau hai giờ người đó mở mắt
ra và người đó đã là người được biến đổi. Người đó
chạm chân Phật Gautam, cám ơn ông ấy và bảo ông ấy,
"Tôi đã không trông đợi đến mức đó. Thầy đã cho tôi
nhiều hơn là tôi đã hỏi. Thầy đã cho tôi hương vị. Tôi đã
tới chỉ để hỏi một câu hỏi; thầy đã đưa tôi tới chính bản
thân kinh nghiệm này. Tôi sẽ còn biết ơn thầy cả đời."
Trong đêm Ananda nói, "Ít nhất thầy cũng nên nghĩ
đến tôi. Cả ngày tôi đã bận tâm thế. Thầy là loại người
nào? Buổi sáng thầy nói không, buổi chiều thầy nói có,

164
buổi tối thầy không nói gì, mà chỉ giữ im lặng - và anh
chàng kia được câu trả lời mà thầy không nói gì cả."
Phật nói, "Người thứ nhất, với người đó ta nói,
'Không có Thượng đế,' là kẻ vô thần, và người đó đã tới
để nhận được sự xác nhận cho chủ nghĩa vô thần của
mình, rằng nếu Phật Gautam mà cũng là vô thần, thế thì
không có vấn đề gì. Vô thần chắc chắn là cách tiếp cận
đúng. Không có Thượng đế.
"Người thứ hai cũng tới để xác nhận về định kiến
riêng của người đó. Anh ta là kẻ hữu thần và anh ta
muốn được sự ủng hộ. Họ không phải là người tìm kiếm,
họ chỉ tìm sự an ủi. Họ đã có một ý niệm; họ đơn giản
yêu cầu ta ủng hộ cho ý niệm của họ. Họ được thoả mãn
với ý niệm của mình mà không đi vào không gian mới
nào.
"Nhưng người thứ ba thực sự là người tìm kiếm.
Người đó nói một cách thẳng thắn, 'Tôi không có ý niệm
nào về ủng hộ hay chống đối.' Với con người như vậy
chỉ im lặng là câu trả lời. Và bởi vì anh ta không có định
kiến, nên thấy ta nhắm mắt và trở nên im lặng, anh ta lập
tức hiểu ra hướng dẫn này. Anh ta nhắm mắt và anh ta đi
vào sâu trong im lặng. Mặc dầu ta đã không nói điều gì
với anh ta, anh ta đã ra đi được giầu có vô cùng hơn khi
anh ta tới.
"Còn Ananda này," Phật nói, "ông không nên bị
bận tâm, bởi vì không câu hỏi nào là của ông cả. Đó
không phải là vấn đề của ông."
Ananda nói, "Đấy không phải là vấn đề của tôi,
nhưng tôi có tai và tôi bao giờ cũng ở gần thầy."
Phật nói, "Ông sẽ phải học rằng ta không có triết lí
nào cố định để cho ta có thể trao ngay câu trả lời làm
sẵn. Ta phải nhìn vào con người, khả năng của người đó.

165
Ta không muốn cho cái gì đó mà họ không thể hiểu nổi,
điều sẽ vượt quá cái đầu của họ."
Nếu đây là tình huống trong thời của Phật, thì
Ikkyu là phải: đừng chỉ dựa vào giáo huấn của
Gautama. Tìm ra cội nguồn riêng của mình. Đi sâu vào
trong bản thể riêng của mình. Bạn sẽ thấy ở đó sự khẳng
định của Phật Gautam.
Nhưng đừng dựa vào giáo huấn. Đừng chỉ ngồi với
kinh sách, đọc chúng hàng năm, nghiên cứu chúng hàng
năm. Điều đó sẽ không ích gì. Phật Gautam đã không
đọc những kinh sách đó trước khi ông ấy trở nên chứng
ngộ, cho nên điều tuyệt đối chắc chắn là chúng không
thể là nguyên nhân cho chứng ngộ của bất kì ai. Làm
điều ông ấy đã làm; đừng quá bận tâm với điều ông ấy
đã nói. Bất kì điều gì ông ấy nói đều được ngụ ý cho
người đương đại với ông ấy, với thời của ông ấy, cho
những người ông ấy đang nói với.
Làm điều Phật đã làm. Ông ấy đã trở thành vô trí,
và trở thành vô trí, bạn sẽ phải vứt đi ngay cả Phật và
kinh sách của ông ấy ra khỏi bản thể bạn. Chỉ trong cái
trống rỗng này mới có khả năng của việc nở hoa anh đào
của bản thể bạn đi từ tiềm năng thành thực tại. Bạn có
thể đem mùa xuân tới bằng việc đem vô trí tới.
Khi vô trí tới, hàng nghìn phép màu theo sau.
Nhưng đừng ham muốn những phép màu đó; nếu bạn bắt
đầu ham muốn chúng, bạn sẽ không bao giờ có vô trí,
bởi vì những ham muốn đó sẽ không cho phép tâm trí
được trống rỗng.
Cho nên nhớ, chính một trong những điều có ý
nghĩa nhất cho người tìm kiếm là ở chỗ người đó không
nên trở thành quá bận tâm tới việc tìm kiếm. Người đó

166
nên vẫn còn vui đùa. "Nếu có chân lí trong sự tồn tại,
một ngày nào đó, ở đâu đó mình sẽ gặp nó."
Nhưng đừng nghiêm chỉnh, vui đùa. Trong vui đùa
bạn được thảnh thơi, và trong thảnh thơi, hoàn toàn
thảnh thơi, bạn sẽ tìm thấy chính bản thân Phật Gautam,
cho nên sao phải bận tâm về giáo huấn của ông ấy? Khi
bạn có thể tìm thấy bản thân Phật Gautam, sao bận tâm
về những kinh sách chết? Ikkyu là phải, tuyệt đối phải.

Maneesha đã hỏi một câu hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Nhân chứng là sự hiện diện hay đơn giản là
sự vắng bóng - sự vắng bóng của việc đồng
nhất với thân thể và tâm trí?

Maneesha, đó là một câu hỏi khó - khó chỉ bởi vì


tâm trí bạn chưa bao giờ chấp nhận những điều mâu
thuẫn, còn sự tồn tại tuyệt đối ủng hộ cho mâu thuẫn.
Trong thực tế, sự tồn tại được tạo ra từ những mâu thuẫn.
Cho nên hai từ này, hiện diện và vắng bóng, cả hai đều
đúng.
Trong nhân chứng có sự vắng bóng, chắc chắn, của
nhân cách bạn, của tâm trí bạn, của ý nghĩ, tình cảm - bất
kì cái gì bạn đang mang bên trong tâm trí bạn đều vắng
bóng. Nếu bạn nhìn từ phía bên này, dường như là vô trí
là tâm trí trống rỗng.

167
Nhưng khoảnh khắc tất cả những điều này bị làm
trống rỗng đi, tiềm năng của bản thể bạn bắt đầu phát
triển - một hiện diện mới đã từng bị ngăn cản không cho
phát triển bởi mọi thứ đồ đạc bạn đã mang trong tâm trí.
Bởi vì tất cả những đồ đạc đó và tất cả những hòn đá kia
đã bị ném đi và mảnh đất thành sẵn sàng, sự hiện diện
tới.
Cho nên cả hai đều có đó khi có liên quan tới tâm
trí của bạn. Thiền là nỗ lực của việc tạo ra sự vắng bóng.
Nhưng khi tâm trí thực sự vắng bóng, trong im lặng đó,
trong không gian vô giới hạn đó, tiềm năng của bạn bắt
đầu bừng sáng, rạng ngời, nở hoa. Bỗng nhiên bạn tràn
đầy việc nở hoa anh đào, sự hiện diện mới, hương thơm
mới.
Cho nên vắng bóng và hiện diện cả hai đều cùng có
trong thiền của bạn. Một mặt bạn làm trống rỗng, mặt
khác không gian trống rỗng lại được rót đầy bằng tiềm
năng của bạn. Trước đây không có không gian cho nó nở
hoa.
Thiền đơn giản tạo ra không gian cho tiềm năng
của bạn đi tới nở hoa. Con người của thiền có sự hiện
diện tới mức bạn có thể cảm thấy nó.
Trong phòng ăn của tôi, tôi nhận được một bức
tượng Phật nhỏ. Nó chỉ là bức tượng, nhưng khi Jayesh
lần đầu tiên tới và thấy nó, anh ta nói, "Bức tượng này có
sự hiện diện lớn lao." Tôi đã yêu mến bức tượng đó và
đã mang nó từ Ấn Độ sang Mĩ, từ Mĩ về Ấn Độ, bởi vì
nó là quà tặng. Nó chỉ là chiếc tượng, nhưng tượng của
một phật thiền. Cái gì đó về thiền trong chính cử chí đó
đã tạo ra một hào quang rất sống.
Tôi đã mang một bức tượng khác tới Thính phòng
Phật của các bạn, được đặt ngay tại cổng, để cho bạn có

168
thể thấy rằng ngay cả một bức tượng, vì nó đang trong tư
thế thiền, cũng toả ra cái gì đó. Chỉ ngồi bên cạnh chiếc
tượng này bạn sẽ thấy cái gì đó tuôn chảy từ bức tượng
tới bạn. Đó không phải là tôn thờ; đó chỉ là ở gần im
lặng và quan sát tư thế. Bởi vì tư thế là của thiền, nên cái
gì đó của tính thiền toả sáng ngay cả từ tảng đá.
Cho nên khi bạn đang thiền, bạn đang làm cả hai
điều: một mặt bạn đang ném đi tất cả mọi thứ rác rưởi,
và mặt khác bạn đang giúp cho hoa hồng nở hoa. Bạn sẽ
có sự vắng bóng và bạn sẽ có sự hiện diện lớn lao, cùng
nhau: vắng bóng của tất cả những cái xấu xí trong bạn,
và hiện diện của tất cả những cái đẹp đẽ.
Bây giờ là lúc cho Sardar Gurudayal Singh. Tôi hi
vọng anh ấy vẫn đang đội khăn xếp mầu cầu vồng. Khăn
xếp đó có sự hiện diện đặc biệt!

Đó là bữa tiệc chia tay tại Nhà Trắng cho Ronald


và Nancy Reagan. Mọi người đều ngà ngà say và Nancy
Reagan đề nghị cho George Bush, vị tân tổng thống, một
chuyến thăm riêng tư vào phòng ngủ tổng thống.
Khi họ quay lại bữa tiệc, George Bush tìm Ronald
Reagan và thấy ông ta đã ngồi sụp xuống ghế bành, ngủ
say.
"Này, Ronald," Bush nói, vừa lay mạnh Reagan.
"Ông có bức ảnh Nancy trần truồng nào không?"
"Cái gì?" Reagan lẩm bẩm, bị sốc. "Ông ngốc ạ!
Tất nhiên là tôi không có!"
"Được rồi," Bush nói, giơ chiếc máy ảnh của mình
lên. "Muốn mua vài chiếc không?"

169
Doris và Jeff Dull đã lấy nhau được sáu năm và có
ba con. Nhưng Jeff có một thói quen kì lạ - anh ta sẽ chỉ
làm tình khi đèn tắt.
Doris kiên nhẫn chịu đựng điều này đến hết khả
năng, nhưng một đêm sự tò mò của cô ấy còn lớn hơn cô
ấy. Cô ấy và Jeff đang làm tình theo cách thông thường
thì bỗng nhiên cô ấy bật đèn lên, và với sự khủng khiếp
của mình, cô ấy thấy rằng Jeff đang làm tình với cô ấy
bằng việc dùng quả dưa chuột.
"Anh là đồ yếu đuối bất lực!" Doris hét lên. "Cho
nên đây là lí do tại sao anh không bao giờ muốn bật đèn
lên! Thật là ghê tởm - tự giải thích đi!"
"Được, em yêu," Jeff nói một cách bình thản. "Anh
có thể giải thích quả dưa chuột, nếu em có thể giải thích
ba đứa con của chúng ta!"

Adolf Hitler bấm chuông cửa tại cổng Ngọc Môn


của Thiên đường và xin vào. Ông ta gây chuyện ồn ào
tới mức thánh Peter phải gọi Jesus tới giải quyết tình
huống này.
"Ta muốn vào," Quốc trưởng kêu lên, "và ta sẽ
thưởng hậu cho các ông nếu các ông để ta ở lại."
"Ông muốn nói gì?" Jesus hỏi. "Ông không thể vào
được. Xem ông đã làm gì trên trái đất!"
"Này," Hitler nói, lôi Jesus sang một bên, "nếu ông
để cho ta vào, ta sẽ tặng riêng cho ông phần thưởng cao
nhất của nước Đức vì lòng dũng cảm, huân chương Chữ
thập Sắt."
"Thật à?" Jesus nói. "Đó là một đề nghị rất hấp dẫn.
Để ta gọi điện thoại đã."

170
Thế là Jesus gọi cho Thượng đế Cha. "Cha ơi,"
Jesus nói, "Con có Adolf Hitler ở đây tại Ngọc Môn, và
ông ấy muốn vào. Cha nghĩ thế nào?"
"Jesus Christ!" Thượng đế hét. "Con có trẻ con
không đấy? Thằng cha ấy là kẻ bị bệnh tâm thần đấy!"
"Con biết, Cha ạ," Jesus nói, "nhưng cha xem, ông
ấy đã tặng con món quà rất lớn. Ông ấy muốn tặng con
Chữ thập Sắt!"
"Chữ Thập Sắt sao?" Thượng đế quát, hết sức ngạc
nhiên. "Con ngốc lắm! Xem điều đã xảy ra khi con được
chữ thập gỗ kia!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong với toàn bộ
năng lượng sống của bạn, với toàn bộ tâm thức của bạn
và với sự khẩn thiết dường như đây là khoảng khắc cuối
cùng của cuộc đời bạn. Chỉ với sự khẩn thiết đó bạn mới
có thể đạt tới trung tâm bản thể mình, và tại trung tâm
bản thể mình bạn là phật. Nhận ra điều này là tạo ra chỗ
đúng cho mọi loại biến đổi trong cuộc sống của bạn. Để
kinh nghiệm này chìm vào mọi thớ thịt của con người
bạn. Phật chỉ có một phẩm chất, và phẩm chất đó là
chứng kiến.

171
Phật được tạo nên từ việc chứng kiến, từ việc quan
sát. Quan sát, và trong chính việc quan sát của bạn, phật
tính của bạn thành sâu sắc.
Tối nay, khoảng khắc này bạn là người may mắn
nhất trên trái đất, bởi vì là phật là đỉnh Everest Himalaya
của tâm thức. Thế thì bạn không phải theo bất kì kỉ luật
nào, bất kì đạo đức nào. Tất cả mọi cái tốt đều tới theo
sau bạn như cái bóng. Vẫn còn là nhân chứng cả ngày.
Bất kì điều gì bạn làm, làm nó với đầy nhận biết và với
sự duyên dáng biểu lộ rằng bạn đã nhận ra phật trong cốt
lõi sâu nhất của bản thể mình. Để làm điều đó rõ ràng
hơn,

Nivedano...
(tiếng trống)

Quan sát, là nhân chứng.


Bạn không là thân thể, bạn không là tâm trí; bạn
đơn giản là việc chứng kiến, và việc chứng kiến này là
phật. Mùa xuân đã tới và cây anh đào đã nở hoa thành
nghìn đoá hoa. Bạn thu lấy thật nhiều hoa của việc
chứng kiến... thuyết phục phật tới từ những bí mật ẩn kín
của cuộc sống bạn vào chu vi, vào cuộc sống thường
ngày của bạn.
Ông ấy bao giờ cũng tới, chỉ cần việc thuyết phục
đúng, và chỉ cho ông ấy sự xứng đáng của bạn bằng việc
chứng kiến. Thu lấy thật nhiều khoảnh khắc thảnh thơi
này, của việc buông bỏ này, trước khi Nivedano gọi bạn
lại.
Khoảnh khắc này Thính phòng Phật không còn là
việc tụ tập của mười nghìn chư phật. Nó đã trở thành
chiếc hồ của tâm thức mênh mông không gợn sóng nào.
Bạn là cá trong đại dương. Đừng hỏi đại dương ở đâu.

172
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, và mang phật của bạn theo mình. Im lặng


và duyên dáng, ngồi vài khoảnh khắc chỉ để nhớ lại nơi
bạn đã ở, con đường vàng nào bạn đã theo, trung tâm của
bạn giống gì. Im lặng, cái đẹp, phúc lạc - bạn phải lan
toả nó lên chu vi của mình trong mọi hành động, trong
mọi cử chỉ, trong mọi lời, trong mọi im lặng. Bạn phải
vẫn còn là phật trong bất kì tình huống nào. Ở cùng với
tôi, bạn có được cơ hội không có sẵn ở bất kì đâu trên
trái đất.
Nó sẽ thành có sẵn ở nhiều, nhiều chỗ. Những ngày
vàng đó đã qua. Nỗ lực của tôi là để cho bạn thoáng nhìn
về những ngày vàng đó khi hàng nghìn người ở những
chỗ khác nhau đang cố gắng đạt tới tâm thức tối thượng,
tới tính bất tử, tới cái vĩnh hằng.
Không đạt tới trung tâm của mình bạn là cây anh
đào không bao giờ tìm thấy mùa xuân của mình. Khoảnh
khắc bạn đạt tới trung tâm của mình bạn cho phép mùa
xuân tới với bạn.
Toàn thể cuộc sống của bạn trở thành điệu vũ, bài
thơ, bài ca.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

173
174
7. Không có đích cuối

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Một lần, khi Kingyu thấy Lâm Tế tới đạo
tràng của mình, ông ấy ngồi trong phòng của
mình cầm cây gậy bắt chéo. Lâm Tế lấy tay
mình đánh vào cây gậy ba lần, rồi đi vào
phòng các sư và ngồi vào chỗ đầu.
Kingyu vào, nhìn Lâm Tế, và nói, "Trong gặp
gỡ giữa chủ và khách, mỗi người nên giữ tục
lệ xã giao. Ông từ đâu tới, và sao ông khiếm
nhã thế?"
"Ông đang nói cái gì vậy, ông hoà thượng
già?" Lâm Tế trả lời.
Khi Kingyu định mở mồm đáp lại, Lâm Tế
đánh ông ấy. Kingyu giả vờ ngã ra. Lâm Tế
lại đánh ông ấy. Kingyu nói, "Hôm nay mọi sự
không thuận lợi cho ta."
Một thời gian sau, Qui Sơn13 hỏi Ngưỡng
Sơn14, "Trong trường hợp của hai bậc đáng
kính này, liệu có người thắng kẻ thua không?"

13
Isan: Qui Sơn Linh Hựu
14
Kyozan: Ngưỡng Sơn Huệ Tịch

175
Ngưỡng Sơn nói, "Khi người ta thắng, người
ta thắng vô điều kiện. Khi người ta thua,
người ta thua vô điều kiện."

Maneesha, giai thoại bạn đã đem tới có thể được


hiểu chỉ nếu bạn hiểu quan điểm của Thiền về tính điều
kiện. Trong cuộc sống của chúng ta mọi thứ đều phải
theo điều kiện - điều kiện do hoàn cảnh, điều kiện do
truyền thống. Khi tôi nói mọi thứ phải theo điều kiện, tôi
ngụ ý không cái gì là của bạn cả; mọi thứ đã tới với bạn
bên ngoài. Bạn chỉ là điểm thu thập. Về phần riêng của
bạn thì bạn là cái không, bạn hoàn toàn trống rỗng.
Thiền muốn bạn tiếp cận tới cuộc sống một cách vô
điều kiện. Điều đó nghĩa là không có định kiến nào,
không có tiền điều kiện nào, không có bất kì trông đợi
nào. Bạn có thể toàn bộ chỉ nếu bạn đang đứng tại chính
trung tâm của mình.
Bạn yêu, nhưng tình yêu của bạn là có điều kiện.
Bạn có bạn bè nhưng bạn bè của bạn là có điều kiện. Chỉ
một thay đổi nhỏ về hoàn cảnh và người yêu trở thành kẻ
thù và bạn bè không còn là bạn bè nữa.
Machiavelli có sự sáng suốt lớn khi ông ấy viết
cuốn sách Hoàng tử - The Prince. Mặc dầu nó là cuốn
sách về ngoại giao và không liên quan gì tới tôn giáo,
vẫn có những điều sáng suốt có thể giúp bạn hiểu.
Machiavelli nói, "Vua không bao giờ nên nói cho bạn
ông ấy điều ông ấy không thể nói được cho kẻ thù, bởi vì
không ai biết được: người là bạn hôm nay có thể là kẻ
thù ngày mai, và người là kẻ thù hôm nay có thể là bạn
ngày mai." Ông ấy đang đặt ra chính sách ngoại giao -
nhưng toàn thể cuộc sống chúng ta cũng mang tính ngoại
giao. Chúng ta nói mọi thứ bởi vì người nghe sẽ ca ngợi

176
chúng; thế thì điều đó đã trở thành điều kiện. Nói ra chân
lí chúng ta không phải xem xét chút nào liệu nó có được
mọi người thích hay không.
Gurdjieff hay dạy các đệ tử mình tính vô điều kiện
là một nguyên tắc cơ bản để tìm ra chân lí. Nếu bạn đưa
vào bất kì điều kiện nào, thì những điều kiện đó sẽ là rào
chắn, và tất cả mọi tôn giáo của bạn là gì nếu không là
các điều kiện?
Khi một người đi theo của Krishna hay một người
đi theo của Christ ngồi thiền, ham muốn của người đó là
để thấy Krishna - người đó trông đợi sự tồn tại tuân theo
ham muốn của mình - và người Ki tô giáo đang cầu xin
Christ. Bởi vì tâm trí được ước định của mình nên người
Hindu có thể thấy Krishna. Người Ki tô giáo sẽ không
thấy Krishna và người Hindu sẽ không thấy Christ; họ sẽ
thấy tương ứng theo các ước định của họ. Họ sẽ thấy các
ước định riêng của họ theo một loại ảo giác, và họ sẽ
cảm thấy vui sướng mênh mông rằng họ đã nhận ra
Thượng đế.
Tất cả cái gọi là thánh nhân của bạn đơn giản đều là
kẻ tâm thần. Họ không hiểu rằng nền tảng cơ bản của
việc tìm ra chân lí là trước hết phải lau sạch tâm trí bạn
mọi điều kiện. Tiếp cận tới sự tồn tại một cách trống
rỗng tuyệt đối. Cho phép sự tồn tại nói điều gì đó. Đừng
hỏi.
Đó là chỗ Thiền đi tới loại tính tôn giáo cao nhất.
so sánh nó với lời của Jesus nói cho các người đi theo
của ông ấy, "Hỏi và điều đó sẽ được trao cho ông" -
nhưng phải hỏi. Điều bạn có thể hỏi sẽ là ham muốn nào
đó, khao khát nào đó, đam mê nào đó, tham lam nào đó.
Bạn có thể hỏi cái gì? - và sự tồn tại khôngcó nghĩa vụ
đáp ứng cho việc hỏi của bạn.

177
Jesus tiếp tục bằng việc nói, "Gõ cửa và cửa sẽ mở
ra cho ông." Cứ dường như sự tồn tại đóng lại; chừng
nào bạn chưa gõ cửa, thì cửa sẽ không mở ra.
Chân lí là, sự tồn tại không có cửa, cho nên bạn sẽ
gõ vào đâu? Và sự tồn tại là mọi khoảnh khắc có sẵn;
cánh cửa của bạn bị đóng. Bạn có định gõ lên cánh cửa
riêng của mình không? Và ai định mở chúng?
Jesus nói, "Tìm và ông sẽ thấy." Những lời nói hay,
và nếu bạn không hiểu, thì đó là thơ ca lớn. Nhưng nếu
bạn hiểu, thế thì chúng không phải là những phát biểu
nền tảng về tâm thức tôn giáo.
Tâm thức tôn giáo sẽ thay đổi toàn thể mọi sự
thành cái đối lập của nó: tìm và bạn sẽ lỡ; không tìm và
bạn đã tìm thấy. Gõ cửa và bạn sẽ gõ vô ích, bởi vì sự
tồn tại không có cửa; nó là mở trong mọi chiều. Hỏi và
bạn sẽ sống trong ảo tưởng. Điều đó sẽ được trao cho
bạn không phải từ sự tồn tại, mà từ trí tưởng tượng riêng
của bạn.
Đừng đặt điều kiện nào lên sự tồn tại, đừng đặt sức
ép nào lên sự tồn tại. chỉ sẵn có và hân hoan, với bất kì
điều gì tới với bạn. Và sự tồn tại tới trong sự dư thừa thế
cho con người không điều kiện mà đơn giản ngạc nhiên.
Bạn đã không hỏi mà tất cả mọi kho báu, tất cả mọi sự
huy hoàng, tất cả mọi bí ẩn, đều là của riêng bạn. Bạn
không tìm, và chân lí đã có đó rồi.
Bạn là chân lí, toàn thể việc tìm kiếm là ngu xuẩn.
Bạn càng tìm, bạn càng đi xa khỏi chân lí. Cho nên dừng
việc tìm lại - và dừng toàn bộ ham muốn, tìm kiếm, hỏi,
chúng tất cả đều là cùng một thứ. Chỉ vẫn còn tại trung
tâm của mình, có sẵn và cởi mở, vô điều kiện, và bạn đã
tìm thấy cái không thể được nói ra. Với nền tảng này bạn
sẽ hiểu giai thoại này.

178
Một lần, khi Kingyu thấy Lâm Tế tới đạo
tràng của mình, ông ấy ngồi trong phòng của
mình cầm cây gậy bắt chéo. Lâm Tế lấy tay
mình đánh vào cây gậy ba lần, rồi đi vào
phòng các sư và ngồi vào chỗ đầu.

Hiển nhiên chỗ đầu thuộc về Kingyu; ông ấy là chủ


của đạo tràng này. Và đây là hành vi kì lạ của ông khách,
là trước hết ông ấy gõ vào cây gậy của chủ ba lần, và rồi,
không nói gì, đi vào phòng hội chúng và ngồi ngay vào
chỗ của chủ.

Kingyu vào, nhìn Lâm Tế, và nói, "Trong gặp


gỡ giữa chủ và khách, mỗi người nên giữ tục
lệ xã giao."

Đó là chỗ Lâm Tế khác, và bất kì thầy lớn nào cũng


sẽ khác. Kingyu có nhiều đệ tử hơn Lâm Tế, bởi vì đám
đông có thể hiểu ông ấy rõ ràng hơn. Ông ấy theo cách
nào đó đi theo qui cách của đám đông. Ông ấy trông đợi
Lâm Tế cũng thế...
Ông ấy nói với Lâm Tế, "Trong gặp gỡ giữa chủ và
khách" - ông ấy nghĩ ông ấy là chủ, mà một cách chính
thức thì ông ấy là vậy, còn Lâm Tế là khách, mà một
cách chính thức ông ấy là vậy - "mỗi người nên giữ tục
lệ xã giao."
Tại đó Lâm Tế không đồng ý, và không thầy lớn
nào có thể đồng ý được. Xã giao truyền thống sao? Thế
thì Thiền tất cả là gì? Nó là cuộc cách mạng chống lại
hình thức. Nó tất cả ủng hộ cho sự tự phát, không theo lề
thói.

179
Ông từ đâu tới, và sao ông khiếm nhã thế?

Ông ấy không khiếm nhã. Trên bề mặt ông ấy sẽ có


vẻ như là khiếm nhã với bất kì ai, nhưng ông ấy đích xác
bày tỏ quan điểm của mình. Khi ông ấy đánh ba lần vào
chiếc gậy, ông ấy đã bảo ông chủ, "Cố hiểu rằng một
thầy lớn hơn đang ở đây. Ông chỉ là thầy giáo hình
thức."
Ba cú đánh này vào gậy chỉ ra rằng từ nay trở đi,
"Về mặt hình thức, ông là chủ; nhưng trong sự tồn tại ta
là chủ, ông là khách." Cái đúng trên bề mặt không nhất
thiết là đúng ở trung tâm.
Lâm Tế đang nói, "Thầy đã tới với đệ tử." Ông ấy
đã làm điều đó rõ ràng bằng việc đánh vào cây gậy của
Kingyu rằng từ nay trở đi, "Trong khi ta đang ở đây, ta là
thầy." Ông ấy không khiếm nhã, ông ấy đơn giản thẳng
thắn, và đó là phẩm chất của thầy đích thực.
Kingyu hỏi ông ấy, "Ông từ đâu tới, và sao ông
khiếm nhã thế?" Ông này không thể hiểu nổi hành vi
này, mặc dầu hành vi này là rõ ràng. Thầy đã đánh ba lần
vào chiếc gậy của Kingyu, và ông ấy ngồi vào chỗ ông
này trong phòng hội chứng.
Lâm Tế đang nói, "Ông chỉ là thầy giáo thôi, ông
còn chưa là thầy. Bất kì điều gì ông biết cũng đơn thuần
là tri thức, nó không phải là kinh nghiệm tồn tại của
riêng ông."

"Ông đang nói cái gì vậy, ông hoà thượng


già?" Lâm Tế trả lời.

180
Osho - hoà thượng là lời nói rất tôn kính. Chỉ trong
một lời ông ấy đã nói, "Tôi không khiếm nhã đâu; tôi chỉ
công bố rằng tôi đã tới đây thôi."
"Ông đang nói cái gì vậy, ông hoà thượng già?
Ông già rồi và ông được tôi kính trọng, nhưng điều đó
không có nghĩa là ông biết chân lí. Ông đã cố gắng vất
vả cả đời mình, ông tự khép mình vào kỉ luật, ông đã tự
ước định mình, nhưng ông vẫn chưa nhận ra vấn đề. Tôi
kính trọng ông, tuổi già của ông, nỗ lực cả đời của ông.
"Tôi không khiếm nhã, nhưng chân lí phải được nói
ra cho dù nó có vẻ như khiếm nhã. Ông đang nói cái gì
vậy, ông hoà thượng già?"
Bằng từ 'hoà thượng - osho' ông ấy đã làm quan
điểm rõ ràng: "Tôi không khiếm nhã, và tôi không thể
khiếm nhã với bất kì ai được. Chính thực sự từ lòng từ bi
mà tôi đã đánh vào chiếc gậy của ông, chỉ ra cho ông
rằng ông không xứng có nó. Nó phải trong tay tôi. Ông
đã không hiểu, đó là lí do tại sao tôi đã tới phòng hội
chúng và ngồi vào vị trí nơi ông vẫn thường ngồi.
"Hiển nhiên ông cảm thấy bị xúc phạm, nhưng tất
cả mọi điều tôi đang nói là ở chỗ khoảnh khắc thầy thực
đi vào, thầy bao giờ cũng là chủ, thầy chưa bao giờ là
khách cả."
Khi Kingyu định mở mồm đáp lại, Lâm Tế đánh
ông ấy. Ông ấy đã không cho phép ông này nói, bởi vì
vấn đề không phải là nói, đó không phải là đối thoại.
Cố hiểu đi: đừng bận tâm tới lời, mà chú ý vào tình
huống thực tại. Ông này vừa định mở mồm nghĩa là ông
này định nói điều gì đó. Lâm Tế đánh ông này để nói,
"Không nói cái gì cả, rõ chưa! Đừng bị lạc vào giải
thích, nhìn vào các tình huống, nhìn vào mắt ta!"

181
Kingyu giả vờ ngã ra. Lâm Tế lại đánh ông ấy - bởi
vì không giả vờ nào là được phép trong Thiền. Hoặc bạn
ngã, không phải bằng bất kì nỗ lực nào mà chỉ như việc
xảy ra... Bạn không giả vờ; đó không phải là vở kịch.
Kingyu giả vờ ngã ra. Lâm Tế lại đánh ông ấy. Bây
giờ cú đánh này dành cho việc giả vờ của ông ấy - không
chỉ việc giả vờ ngã này, mà cả đời ông ấy là việc giả vờ.
Ông ấy không phải là thầy, vậy mà ông ấy đã giả vờ là
thầy. Kingyu nói, "Hôm nay mọi sự không thuận lợi cho
ta."
Đó không phải là đáp ứng của người đã hiểu ra.
Ông ấy vẫn còn nghĩ dưới dạng thuận lợi. Ông ấy đã
không hiểu nghĩa của cách cư xử của Lâm Tế. Ông ấy
ném trách nhiệm, cũng như mọi người khác trên thế giới,
lên định mệnh, lên số phận, lên đường vân tay, lên sơ đồ
sinh - đủ mọi loại cớ ngu xuẩn. "Ta có thể làm được gì?
Hôm nay mọi sự không thuận lợi cho ta."
Thực tại là ở chỗ Lâm Tế đã làm quá nhiều, đã cho
ông ấy lặp đi lặp lại nhiều cơ hội để hiểu - điều đáng là
một trong những ngày vĩ đại nhất trong cuộc đời ông ấy -
rằng thầy đã bước xuống từ đỉnh núi của mình tới đạo
tràng của ông ấy, không lời mời, và cố gắng đánh thức
ông ấy dậy. Nhưng ông ấy lại đang nghĩ tới thuận lợi...

Một thời gian sau, Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn,


"Trong trường hợp của hai bậc đáng kính
này, liệu có người thắng kẻ thua không?"

Điều này đã được hỏi hết thế kỉ nọ tới thế kỉ kia


trong Thiền: "Điều gì đã xảy ra vào ngày đó? Ai là người
thắng và ai là người thua?"

182
Một thời gian sau, Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn -
cả hai đều là các thầy lớn - "Trong trường hợp
của hai bậc đáng kính này, liệu có người
thắng kẻ thua không?"
Ngưỡng Sơn nói, "Khi người ta thắng, người
ta thắng vô điều kiện. Khi người ta thua,
người ta thua vô điều kiện."

Đây là một phát biểu sâu sắc thế; nó nghĩa là câu


hỏi về việc người thắng hay người thua là vô nghĩa. Vấn
đề là, dù bất kì điều gì xảy ra nó cũng phải là vô điều
kiện, nó phải là tự phát. Thất bại một cách tự phát cũng
có giá trị như thắng lợi. Giá trị thực là ở tính tự phát, ở
vô điều kiện.
Nếu bạn thua, bạn chấp nhận thua của mình một
cách vô điều kiện, với niềm vui. Đó là món quà của tự
nhiên. Người ta không bao giờ biết được, ngay cả đêm
tối cũng có thể biến thành bình minh đẹp. Bạn không nên
bắt đầu có ý kiến về người đã thắng và người đã thua. Cả
hai người tham dự và sự gặp gỡ nên vẫn còn tự phát dù
bất kì điều gì xảy ra. Giá trị là ở tính tự phát; nó đã bị lấy
đi hoàn toàn khỏi mọi thắng.
Thắng là một phần của thế giới tranh đấu, thế giới
có điều kiện, thế giới với ham muốn. Thiền không chú ý
tới thắng hay thua; chúng cả hai đều vô nghĩa. Có thể là
với tự phát người ta bị thua và thắng không thể vô điều
kiện. Trong con mắt của Thiền, người thua ở trạng thái
cao hơn.
Có lần chuyện xảy ra, một võ sĩ đạo Thiền, một
chiến binh Thiền, đã từ mặt trận về nhà sớm, và ông ấy
thấy người hầu đang làm tình với vợ mình.

183
Là con người của Thiền, ông ấy nói với người hầu,
"Đừng lo, làm xong việc của anh đi. Ta đợi ở ngoài. Anh
sẽ phải cầm kiếm trong tay và đánh với ta. Bất kì điều gì
xảy ra cũng hoàn toàn tốt. Ta đang đợi ở ngoài."
Kẻ hầu này bắt đầu run rẩy. Anh ta thậm chí không
biết cầm kiếm, còn chủ của anh ta là chiến binh nổi
tiếng; ông ấy sẽ chặt đầu anh ta trong một nhát chém.
Thế là anh ta chạy theo lối cửa sau tới một Thiền
sư, người này cũng là thầy của võ sĩ đạo này. Anh ta nói
với thầy, "Tôi ôiđã lâm vào rắc rối. Đó là lỗi của con,
nhưng điều đó đã xảy ra."
Thầy nghe toàn bộ câu chuyện và thầy nói, "Không
cần phải lo nghĩ. Ta sẽ dạy cho anh cách cầm kiếm, và ta
cũng sẽ bảo anh rằng việc chủ của anh là võ sĩ đạo vĩ đại
cũng không thành vấn đề. Mọi sự thành vấn đề là tính tự
phát. Và trong tính tự phát anh sẽ giỏi hơn, bởi vì ông ta
dường như tự tin: không có vấn đề về người hầu này
sống sót được; điều đó gần như mèo vờn chuột.
"Cho nên đừng lo. Cứ toàn bộ, và đâm mạnh ông
ta, bởi vì đây là cơ hội sống, sống còn duy nhất của anh.
Cho nên đừng nửa vời, đừng có điều kiện, đừng cho rằng
có lẽ ông ấy có thể tha thứ cho anh. Ông ấy sẽ không bao
giờ tha thứ cho anh đâu. Anh sẽ phải đánh nhau với ông
ấy. Anh sẽ phải khiêu chiến và thách thức ông ấy. Nhưng
không có vấn đề gì: như ta có thể thấy, anh sẽ kết thúc là
người thắng."
Người hầu này không thể nào tin nổi vào điều đó,
và thầy nói, "Anh nên hiểu rằng ta cũng là thầy của ông
ấy, và ta biết rằng ông ấy sẽ hành xử theo cách huấn
luyện của ông ấy. Biết rất rõ rằng mình sẽ thắng, ông ấy
không thể nào vô điều kiện được - và anh không có cách
nào khác hơn là mang tính vô điều kiện. Toàn bộ đi. Anh

184
không biết đâm vào đâu, cách đâm thế nào, cho nên cứ
đâm đại vào bất kì đâu. Cứ phát cuồng lên!"
Người hầu nói, "Nếu thầy nói vậy, tôi sẽ làm điều
đó. Trong thực tế không có cơ hội nào cho sự sống còn
của tôi, cho nên sao không làm điều đó một cách toàn
bộ!"
Thấy rằng thời gian đã tới, anh ta đã học cách cầm
kiếm, và anh ta quay lại và thách thức ông chủ của mình,
"Bây giờ lại đây!"
Ông chủ không thể tin được vào điều đó. Ông ta
cho rằng kẻ hầu sẽ sụp xuống chân ông ta và kêu khóc và
nói, "Xin tha cho tôi!"
Nhưng thay vì điều đó người hầu lại gầm lên như
sư tử, và anh ta có chiếc kiếm của Thiền sư. Ông chủ
nhận ra chiếc kiếm và ông ta nói, "Anh lấy chiếc kiếm
này ở đâu vậy?"
Người hầu nói, "Từ thầy của ngài đấy. Bây giờ lại
đây, để cho sự việc được quyết định dứt khoát một lần.
Hoặc là tôi sẽ sống hoặc là ông sẽ sống, nhưng cả hai
không thể cùng sống."
Ông chủ cảm thấy chút ít run rẩy trong tim mình,
nhưng ông ấy vẫn nghĩ, "Làm sao anh ta có thể xoay xở
được? Đấy là chuyện huấn luyện nhiều năm chứ có ít
đâu.... Ta đã từng đánh nhau trong nhiều năm, và kẻ hầu
đáng thương này..." Nhưng ông ta phải rút kiếm của
mình ra.
Người hầu thực sự phát cuồng. Không biết đâm vào
đâu, anh ta đâm lung tung và chỉ chực... Võ sĩ đạo đâm
ra lúng túng, bởi vì ông ta có thể đánh với bất kì võ sĩ
đạo nào biết cách đánh nhau - nhưng người này lại
không biết gì và anh ta đang làm đủ mọi thứ. Người hầu

185
đẩy ông ta vào sát tường, và ông chủ phải cầu xin anh ta,
"Xin tha cho ta. Anh sẽ giết chết ta. Anh không biết cách
đánh nhau - anh đang làm gì?"
Người hầu nói, "Vấn đề không phải là làm. Đó là
khoảnh khắc cuối cùng của tôi; tôi sẽ làm mọi điều với
sự toàn bộ."
Người hầu trở thành người thắng, còn võ sĩ đạo
cũng tới thầy và nói, "Thầy đã làm phép màu nào vậy?
Trong năm phút anh ta trở thành một võ sĩ đạo lớn thế,
và anh ta ra cú đánh, ngu xuẩn tới mức anh ta có thể giết
cả tôi. Anh ta không biết gì nhưng anh ta có thể đã giết
chết tôi. Anh ta đẩy tôi vào tường nhà tôi, lưỡi kiếm của
anh ta chĩa vào ngực tôi. Tôi phải cầu xin được tha và
bảo anh ta rằng bất kì điều gì anh ta đang làm cũng đều
hoàn toàn tốt và cứ tiếp tục làm."
Thầy nói, "Anh phải học bài học, rằng chung cuộc
đó là tính toàn bộ, tuyệt đối vô điều kiện... dù là thua hay
thắng không thành vấn đề. Điều thành vấn đề là ở chỗ
con người phải toàn bộ, và con người toàn bộ không bao
giờ bị thua. Tính toàn bộ của người đó là thắng của
người đó."
Đó là điều Ngưỡng Sơn đang nói: "Khi người ta
thắng, người ta thắng vô điều kiện." Người đó không
nhận bất kì khen ngợi nào rằng "Ta là người thắng"; bao
giờ người thắng cũng ở tâm thức vô điều kiện.
"Khi người ta thua, người ta thua vô điều kiện."
Không có vấn đề về chủ nghĩa thua nào; không có vấn đề
về cảm thấy thua. Người đó đã đưa ra toàn bộ nỗ lực của
mình. Nhưng nếu tự nhiên muốn rằng người kia phải
thắng, thì điều đó hoàn toàn được. "Tôi đã không để lại
cái gì, tôi đã làm hết sức mình và toàn bộ, và đã tuyệt đối
tự phát. Hơn thế nữa thì tôi không thể làm được."

186
Cho nên khi hai võ sĩ đạo đánh nhau ở Nhật Bản -
và điều đó thường xảy ra, thậm chí hàng ngày - điều có
thể nhất là không ai thắng và không ai thua, bởi vì cả hai
đều toàn bộ. Nỗ lực của họ là tự phát đến mức chung
cuộc họ kết thúc mà không thắng hay thua. Rất hiếm khi
một người thua, và bất kì ai thua, đấy chỉ là do hoàn
cảnh. Người thắng không công bố mình thắng và sự vị kỉ
của mình; ngược lại, người đó ôm lấy người thua và
người đó ca ngợi cách người thua đã tranh đấu. Đó là tự
phát và toàn bộ, "và đấy chỉ là bởi tình cờ mà tôi mới là
người thắng còn anh thì không. Đấy chỉ là tình cờ thôi.
Nhưng khi có liên quan tới tính tự phát và tính toàn bộ,
anh tuyệt đối ngang bằng tôi."
Đây là cách tiếp cận rất khác. Thắng hay thua
không còn giá trị nữa. Dịch chuyển lớn lao về giá trị đã
xảy ra: tự phát, tuyệt đối, đem ra đặt cược tất cả mọi thứ
bạn có, điều đó mới giá trị. Dù thắng hay thua xảy ra,
điều đó không quan trọng.

Một giáo sư Đức, Herrigel, là một trong những đệ


tử phương Tây đầu tiên của một Thiền sư ở Nhật Bản.
Ông ấy học cung thuật. Ông ấy đã là một cung thủ lớn ở
Đức, bởi vì tại đó các giá trị là khác. Ông ấy đã là cung
thủ lớn bởi vì ông ấy bao giờ cũng bắn trúng một trăm
phần trăm, mũi tên của ông ấy bắn đích xác giữa bia,
trúng điểm đen. Ở Đức thành công của bạn được đếm
bằng phần trăm - một trăm phần trăm, chín mươi phần
trăm, tám mươi phần trăm. Đó là cách nó được đếm trên
toàn thế giới, ngoại trừ ở Nhật Bản.
Ở Nhật Bản, khi Herrigel đã học cung thuật trong
nhiều năm ở Đức và đã trở thành cung thủ vô địch của
Đức, ông ấy nghe nói về một cách đánh giá khác. Ông ấy
tới Nhật Bản và ở đó ba năm cùng thầy. Ông ấy không

187
thể nào hiểu nổi tại sao thầy bao giờ cũng nói, "Ông lỡ
rồi" - và mũi tên của ông ấy bao giờ cũng trúng đích xác
điểm đen.
Thầy nói, "Đó không phải là vấn đề, dù mũi tên của
ông có trúng điểm đen hay không. Vấn đề là ông phải tự
phát. Quên bia đi. Nhớ lấy rằng ông phải tự phát, ông
phải không nỗ lực."
Ba năm trôi qua, nhưng vị giáo sư Đức, Herrigel,
vẫn không thể hiểu được người này đang nói về gì. Mọi
ngày ông ấy đều cố gắng, mà thầy thì cứ nói, "Không!"
Chung cuộc ông ấy quyết định trở về: "Thật là vô
ích, phí thời gian!" Ông ấy không thể nào hiểu được tính
tự phát này là gì. Ông ấy không thể nào hiểu được làm
sao bạn có thể tự phát khi bạn là cung thủ. Bạn phải cầm
cung trong tay, bạn phải nhắm, bạn phải ngắm đích xác
để cho mũi tên bắn trúng điểm - làm sao bạn có thể
không nỗ lực được? Nỗ lực nào đó là tuyệt đối cần thiết.
Và bạn sẽ đồng ý rằng ông ấy không sai.
Nhưng Thiền sẽ không đồng ý. Thiền sư liên tục
làm việc, không chán nản không ngán ngẩm rằng ba năm
đã trôi qua và người này vẫn không thể thảnh thơi được.
Herrigel tự nhủ mình sau ba năm, "Ngày mai mình
phải đi thôi. Mình tiếc là mình không thể hiểu được.
Mình vẫn mang ý tưởng rằng mình đúng một trăm phần
trăm, vậy làm sao thầy có thể nói rằng mình không biết
cung thuật chút nào?"
Thế là ngày hôm sau, sáng sớm, ông ấy tới gặp thầy
lần cuối cùng. Thầy đang dạy ai đó khác, cho nên ông ấy
ngồi trên ghế dài và chỉ nhìn. Lần đầu tiên ông ấy không
quan tâm; ông ấy sắp đi, ông ấy đã vứt bỏ ý tưởng học
cung thuật qua Thiền, cho nên ông ấy hoàn toàn thảnh
thơi và quan sát, chỉ quan sát cách thầy cầm cung trong

188
tay và cách thầy thảnh thơi toàn bộ dường như không
quan tâm chút nào liệu mũi tên có tới bia hay không,
không căng thẳng và không ham muốn, chỉ vui đùa và
thảnh thơi.
Ông ấy đã nhìn thầy trong ba năm, nhưng bởi vì
ông ấy đã tràn đầy ham muốn nên ông ấy không thể thấy
được rằng cung thuật của thầy là hoàn toàn khác: giá trị
không ở đích bắn, giá trị ở trong cử chỉ của bạn, trong
bạn. Bạn có thảnh thơi không? Bạn có toàn bộ không?
Tâm trí bạn có tuyệt đối im lặng không? Một khuynh
hướng khác... bởi vì cung thuật là không quan trọng,
thiền mới quan trọng. Và con người của thiền, mặc dầu
người đó không chăm nom tới đích bắn, vẫn cứ đơn giản
bắn trúng đích, với vô trí, trong sáng tỏ hoàn toàn, trong
im lặng, thảnh thơi.
Thiền đã mang lại cách đánh giá khác cho mọi thứ.
Ở Trung Quốc họ có câu ngạn ngữ rằng khi nhạc sĩ trở
nên điêu luyện, người đó vứt nhạc cụ đi; khi cung thủ trở
nên điêu luyện, người đó vứt cung và tên đi. Thật kì lạ,
bởi vì phỏng có ích gì khi đã thành cung thủ điêu luyện
mà bây giờ bạn lại vứt cung và tên đi?
Một người tuyên bố với hoàng đế Trung Quốc,
"Bây giờ bệ hạ phải tuyên bố và thừa nhận thần là cung
thủ vĩ đại nhất Trung Quốc. Thần sẵn sàng với bất kì
thách thức nào." Và anh ta tuyệt đối hoàn hảo, cũng
giống như giáo sư Herrigel - một trăm phần trăm thành
công.
Nhưng nhà vua nói, "Khanh đã nghe nói về một
cung thủ già sống trong thâm sơn cùng cốc không?"
Anh ta nói, "Thần đã nghe nói về ông ấy, nhưng
thần sẵn sàng thi đấu."

189
Nhà vua cười. Ông ấy nói, "Khanh nên đi và gặp
ông già ấy. Nếu ông ấy thừa nhận khanh, ta sẽ thừa nhận
khanh, bởi vì ta không biết về cung thuật... Nhưng ông
ấy là một cung thủ vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất, cho nên
khanh nên đi. Đem về sự thừa nhận của ông ấy, và sự
thừa nhận của ta có đấy. Nhưng không hỏi ý kiến ông ấy
ta không thể thừa nhận được. Đấy không phải là vấn đề
thách thức."
Thế là người này phải đi lên vùng núi non, nơi đó
anh ta tìm thấy một người rất già, lưng đã còng, không
thể đứng thẳng lên được. Anh ta hỏi, "Ông có phải là
cung thủ không?"
Người này nói, "Ta đã từng là cung thủ đấy. Nhưng
có lẽ nửa thế kỉ đã trôi qua rồi, và khi ta trở thành cung
thủ hoàn hảo, theo thầy ta, ta phải vứt cung và tên đi.
Anh cho rằng anh là thầy hoàn hảo; anh đã tới để được
thừa nhận sao?" Nhà vua đã báo tin cho ông ấy rằng vua
đang phái ai đó tới.
Người này nói, "Vâng."
Ông già nói, "Thế thì sao anh lại mang cung và tên
tới?"
Người này nói, "Thật kì lạ... Đó chính là cái thể
hiện việc làm chủ của tôi."
Ông già cười to. Ông ấy đưa anh ta ra khỏi túp lều
tranh để lên một mỏm núi. Ông già này già thế, dễ tới
một trăm bốn mươi tuổi, và mỏm núi sâu thế phía dưới,
cả nghìn mét thăm thẳm xuống thung lũng. Nếu bạn chỉ
lỡ một bước thôi hay run rẩy hay ngần ngại, bạn đi đời.
Ông già bước lên ngay cạnh mỏm đá, nửa bàn chân ông
thò ra trên vách đá, nửa bàn chân trên mép đá.

190
Chàng thanh niên không thể tin được vào mắt
mình. Ông già nói, "Bây giờ anh cũng tới đi. Còn đủ chỗ
ở đây cho một người nữa!" Chàng thanh niên thử hai
bước rồi ngồi xuống, run rẩy, khi thấy tình huống này.
Ông già cười to và ông nói, "Anh là loại cung thủ
gì vậy? Anh đã giết bao nhiêu con chim bằng một mũi
tên?"
Chàng thanh niên nói, "Tất nhiên là một con chim."
Ông già nói, "Anh phải học theo Thiền sư. Một mũi
tên chỉ được một chim là điều cực kì lãng phí. Thầy ta
chưa bao giờ cho phép bất kì ai được xác nhận chừng
nào người đó còn chưa có khả năng bằng một mũi tên hạ
cả đàn."
Chàng thanh niên nói, "Thầy có thể hạ được bao
nhiêu con?"
Ông ấy nói, "Anh thử nói con số xem sao."
Vừa lúc đó một đàn chim bay qua. Ông già chỉ liếc
mắt nhìn lên, và bẩy con chim rơi xuống.
Chàng thanh niên nói, "Trời!"
Ông già nói, "Khi anh có thể nhìn với tính toàn bộ,
thì chính mắt anh trở thành mũi tên. Nhưng anh là người
mới; anh không thể tới mỏm đá này. Nếu anh run rẩy bên
trong, cung thuật của anh không thể hoàn hảo được. Anh
có thể điều khiển bắn trúng mục tiêu, nhưng đó không
phải là vấn đề. Vấn đề là ở chỗ anh có hiện diện toàn bộ
không run rẩy. Thế thì hiện diện toàn bộ của anh trở
thành sắc như bất kì mũi tên nào.
"Đó là lí do tại sao có câu ngạn ngữ cổ: Khi nhạc sĩ
trở nên hoàn hảo, người đó vứt nhạc cụ đi. Bây giờ chính
giọng nói của người đó, chính con người của người đó là
âm nhạc; bây giờ chính không khí xung quanh người đó

191
có âm nhạc. Và khi cung thủ trở thành hoàn hảo, tính
toàn bộ không run rẩy của người đó trở thành gần như tia
chết, nếu người đó nhìn vào đàn chim, hay bầy súc vật."
Thầy nói, "Anh về và học từ điểm này đi. Mục tiêu
không phải là mục tiêu; anh là mục tiêu. Trở thành toàn
bộ - và nếu ta còn sống, ta sẽ tới thăm anh năm năm sau
để xem liệu ta có thể cho anh sự thừa nhận hay không.
Hay nếu ta qua đời, con ta sẽ tới sau năm năm nữa. Nó là
một người lão luyện vĩ đại như ta, và anh sẽ có khả năng
nhận ra nó, bởi vì bất kì điều gì ta có thể làm bằng mắt
mình, nó cũng có thể làm được."
Năm năm sau ông già này tới. Năm năm này người
bắn cung đã cố gắng hết sức để là toàn bộ, và anh ta đã
thành công. Ông già hỏi, "Cung và tên của anh đâu?"
Anh ta nói, "Đến giờ phải đã hai năm rồi, nhưng
điều đó dường như hàng thế kỉ đã trôi qua và tôi đã
không thấy tên và cung. Bây giờ tôi có thể làm điều thầy
đã có thể làm."
Ông già đã không yêu cầu phép thử, ông ấy đơn
giản cho sự thừa nhận. Ông ấy nói, "Ta có thể thấy trong
mắt ông tính toàn bộ không do dự. Ta có thể thấy trong
thân thể ông sự thảnh thơi tự phát. Ông có thể tới nhà
vua và bảo ông ấy rằng ông già này đã cho sự thừa nhận,
và chỉ vì sự thừa nhận ông mà ta đã xuống núi."
Thiền đem tới một cách đánh giá mới trong mọi
thứ. Nó không phải là tôn giáo từ bỏ cuộc sống, nó là tôn
giáo biến đổi cuộc sống. Nó biến đổi mọi thứ, nó không
phủ định cái gì. Nhưng một điều phải ghi nhớ: vô điều
kiện, toàn bộ, tự phát - những giá trị kì lạ, bởi vì không
tôn giáo nào nói về chúng và chúng là những giá trị đích
thực sẽ cho bạn giả kim thuật để thay đổi con người bạn.

192
Tất cả các tôn giáo đều nói về nghi lễ, xã giao, cách
xử sự. Chúng tất cả đều có liên quan tới nhân cách được
tô điểm của bạn. Chúng làm cho bạn thành người giả
dối, chúng làm cho bạn thành diễn viên, nhưng chúng
không thay đổi trung tâm của bạn.
Đây là giai thoại hay, và Ngưỡng Sơn đang nói,
"Khi người ta thắng, người ta thắng vô điều kiện."
Không có ham muốn để thắng, người ta đơn giản vui
đùa, tận hưởng chính nghệ thuật và tận hưởng tính thiền
và tính tự phát. Bây giờ bất kì điều gì xảy ra, điều đó
không phải là mối quan tâm.
Tất nhiên khi hai người đánh nhau, một người sẽ
thua, một người sẽ thắng. Có thành vấn đề gì ai thắng và
ai thua? Mọi thứ thành vấn đề chỉ là liệu cả hai có ở cùng
mức độ tập trung, ở cùng mức độ vô điều kiện không.
Bất kì ai cao hơn trong tính vô điều kiện - người đó có
thể là người thua, nhưng theo Thiền người đó ở điểm
tâm thức cao hơn, và đó mới là thắng thực. Thắng hình
thức là chuyện khác.
Ikkyu đã viết:

Bản thân ta đã từ lâu,


Trong tự nhiên
Vô tồn tại:
Không đích cuối,
Không cái gì có giá trị gì.

Ông ấy đang cho bạn chính bản cương lĩnh của


Thiền. Bản thân ta đã từ lâu, trong tự nhiên... Ta đã biến
mất trong tự nhiên, ta không biết khi nào, ta không giữ
nhật kí và ta không nhớ rằng ta là cái gì khác vào bất kì
lúc nào.

193
Bản thân ta đã từ lâu, trong tự nhiên, vô tồn tại: ta
không tìm thấy bản thân mình, ta chỉ tìm thấy tự nhiên.
Không đích cuối... Ta không đi đâu cả. Không có đích
cuối, bởi vì đích cuối sẽ có nghĩa là cái chết.
Cuộc sống là sự liên tục bao giờ cũng như bao giờ.
Không có đích cuối cùng nó cứ tiếp diễn mãi. Chỉ là
cuộc hành hương, chỉ là cuộc hành trình trong bản thân
nó, không đạt tới điểm nào đó, không mục đích - chỉ
nhảy múa và hiện hữu trong cuộc hành hương, đi một
cách vui sướng, không bận tâm về đích nào.
Bạn sẽ làm gì bằng việc đi tới đích? Không ai đã
hỏi điều này, bởi vì mọi người đều đang cố gắng có đích
nào đó trong cuộc sống. Nhưng những điều ẩn ý...
Nếu bạn thực sự đạt tới đích của cuộc sống, thì
sao? Thế thì bạn sẽ có vẻ rất lúng túng. Không đâu mà
đi… bạn đã đạt tới đích cuối cùng - và trong cuộc hành
trình bạn đã đánh mất mọi thứ. Bạn phải làm mất mọi
thứ. Cho nên đứng trần trụi ở đích cuối cùng, bạn sẽ nhìn
quanh như kẻ ngốc: vấn đề là gì nhỉ? Bạn đã vội vã vất
vả thế, và bạn đã lo âu vất vả thế, và đây là kết quả.
Tôi đã kể cho các bạn về một trong những câu
chuyện của Rabindranath. Đó là bài ca. Câu chuyện này
nói trong bài ca, "Tôi đã từng tìm kiếm Thượng đế hàng
thế kỉ. Đôi khi ngài ở quanh trăng, nhưng lúc tôi tới đó
ngài đã đi sang ngôi sao khác. Tôi đã thấy ngài ở ngôi
sao khác, nhưng lúc tôi tới đó thì ngài lại đã đi rồi. Việc
này cứ diễn ra mãi, nhưng có niềm vui lớn trong việc
ngài ở đó, và một hôm tôi định đi tìm ngài. Làm sao ngài
có thể trốn lâu được? Làm sao ngài có thể thoát được?
"Và việc xảy ra là một hôm tôi tới một nhà tại đó
có chiếc bảng nói rằng đây là nhà của Thượng đế. Tôi có
cảm giác lớn lao về sự nhẹ gánh rằng định mệnh của tôi

194
đã được hoàn thành. Tôi tiến lên vài bước và tôi vừa
định gõ cửa thì tôi nhận biết rằng, 'Đợi đã, thử nghĩ lại
lần thứ hai xem sao! Mình định làm gì nếu Thượng đế
tới và mở cửa ra? Mình sẽ làm gì tiếp?'"

Toàn thể cuộc sống của bạn đã là cuộc hành trình,


cuộc hành hương, tìm kiếm, tìm tòi. Bạn được huấn
luyện như một người chạy từ hàng triệu năm, và bỗng
nhiên bạn gặp Thượng đế và và bạn không có gì để nói
cả. Bạn sẽ nói gì?

Bạn đã bao giờ nghĩ rằng nếu tình cờ bạn gặp


Thượng đế, bạn sẽ có gì để nói, hay ngài sẽ có gì để nói
không? Bạn đã tự làm nặng gánh mình một cách không
cần thiết, đã kết thúc rồi. Đích cuối cùng có nghĩa là cái
chết tối thượng.
Ikkyu là phải khi ông ấy nói, "Không đích cuối,
không cái gì có giá trị gì" - mọi thứ chỉ là để tận hưởng
và nhảy múa và ca hát. Nhưng đừng hỏi về giá trị; đừng
hỏi đức hạnh là gì và tốt là gì. Hân hoan trong mọi thứ,
và tiếp tục trong cuộc hành hương, vẫn biết hoàn toàn rõ
rằng cuộc sống không định chấm dứt ở đâu cả, cuộc
hành trình sẽ tiếp tục, đoàn lữ hành sẽ tiếp tục. Không có
chỗ con đường kết thúc.

Maneesha đã hỏi:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,

195
Khi không có gì để cảm nhận - không cái vào
từ thân thể hay tâm trí và do vậy người ta
không có gì để xác định bản thân mình - cái
còn lại có phải là việc chứng kiến không?
Thậm chí dường như không có cả nhân
chứng, chỉ mỗi nhận biết mà không có ai ở đó.

Điều đó đích xác đúng. Không có nhân chứng, chỉ


có việc chứng kiến. Chỉ có tâm thức, nhưng không có
nhân cách cho nó, không hình dạng. Chỉ có nhận biết,
như ngọn lửa không nảy sinh từ đâu cả và biến mất vào
không đâu cả, và chỉ ở giữa bạn thấy ngọn lửa.
Bạn đã bao giờ quan sát nến chưa, ngọn lửa từ đâu
tới? Bản thân Phật Gautam hay dùng từ này cho kinh
nghiệm tối thượng, thổi tắt ngọn nến. Niết bàn nghĩa là
thổi tắt ngọn nến. Không cái gì còn lại, chỉ một nhận biết
thuần khiết, thậm chí không bị chứa trong tính cá nhân
của bạn, chỉ là đám mây bồng bềnh, không hình dạng
chắc chắn - sự hiện hữu mênh mông, niềm vui lớn lao.
Nhưng đó không phải là niềm vui của bạn; bạn
vắng bóng. Thế thì trong sự vắng bóng của bạn niềm vui,
phúc lạc nảy sinh. Khoảnh khắc bạn không có đó, thế thì
việc chứng kiến là thuần khiết. Và việc chứng kiến này
đem tới phúc lành lớn lao nhất có thể có. Việc chứng
kiến này là phật.
Chúng ta đã nghiêm chỉnh rồi. Bây giờ Sardar
Gurudayal Singh, con người của sự kiên nhẫn lớn lao...
Cho dù tôi cứ nói cả đêm một cách nghiêm chỉnh, anh ấy
sẽ vẫn đợi cho thời gian của mình tới. Tin cậy lớn lao.
Đó là lí do tại sao anh ấy có thể cười trước khi chuyện
cười được kể: nó biểu lộ tin cậy lớn lao vào bất kì điều gì
xảy ra, cái gì đó tốt lành sắp xảy ra.

196
"Vợ tôi giống như nữ thần Venus De Milo," một
đêm Paddy nói cho anh bạn bia của mình.
"Thật thế à?" Seamus nói, vẻ ngạc nhiên. "Anh
định nói cô ấy có thân thể hình dáng quyến rũ và đứng
truồng đó sao?"
"Không," Paddy đáp. "Cô ấy là di tích cũ và không
còn đó chút nào! Nhiều bộ phận bị thiếu."
"Vậy, trong trường hợp đó," Seamus nói, "vợ tôi
giống Mona Lisa."
"Sao lại thế?" Paddy hỏi. "Có phải bởi vì cô ấy là
người Italian và có nụ cười bí ẩn và quyến rũ không?"
"Không," Seamus đáp. "Đó là vì cô ấy phẳng như
bức vẽ và thuộc vào bảo tàng!"

Bé Ernie có một ý tưởng là chắc sẽ vui lắm nếu trở


thành chính khách khi nó lớn lên. Thế là bố nó đem nó
tới Washington để xem lễ nhậm chức của tân thổng
thống Mĩ, Adolf Ramsbottom.
Bé Ernie để ý tới Cha Fungus, giám mục New
York, đang đứng trên bục cạnh tân tổng thống. "Bố ơi,"
Ernie thì thào, "ông linh mục ở kia có cầu nguyện cho
tổng thống không?"
"Không, con," bố nó đáp. "Sự thật là ở chỗ ông linh
mục kia nhìn vào tổng thống - và thế rồi cầu nguyện cho
phần còn lại của thế giới."

Kowalski đi vào quán rượu đông đúc để làm vài


chầu bia sau công việc. Vài giờ sau đó, anh ta cảm thấy

197
cần đi ỉa, thế là anh ta hỏi người đứng quầy hướng đi vào
phòng vệ sinh.
"Nó ở trên gác," người đứng quầy đáp, "đi xuống
phòng, rẽ trái, và ở cánh cửa thứ hai bên phải."
Kowalski, gần như say rượu lúc này, nháy mắt với
người đứng quầy, và đi tìm phòng vệ sinh.
Anh ta cũng xoay xở lên được cầu thang, nhưng lại
bị lẫn lộn từ đó trở đi. Cuối cùng, hoàn toàn bị lạc và quá
buồn ỉa, anh ta kéo một tấm ván lỏng lẻo từ sàn lên và
ngồi ỉa. Nhưng điều Kowalski không biết là ở chỗ tấm
ván sàn này lại ở ngay giữa trần của quầy bán rượu ở
dưới.
Khi anh ta xuống cầu thang trở lại, anh ta thấy rằng
quầy rượu hoàn toàn trống trơn. Chỗ này bốc mùi thối
nồng nặc. Kowalski đi tới người đứng quầy, ngồi xuống
quầy và đặt cốc rượu khác. "Mọi người đi đâu cả rồi?"
Kowalski hỏi, vẫn say.
"Trời đất!" người đứng quầy đáp. "Ông ở đâu khi
cứt rơi vào quạt trần?"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại và cảm thấy thân thể bạn


hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong bằng
tính toàn bộ của bạn và bằng sự khẩn thiết dường như

198
đây là khoảnh khắc cuối của bạn. Đi ngày một sâu hơn,
như mũi giáo, vào trung tâm. Nó không xa xôi gì, và
khoảnh khắc bạn đạt tới trung tâm bạn chỉ là nhân
chứng, nhân chứng cho thân thể, nhân chứng cho tâm trí
và nhân chứng cho nhiều thứ - im lặng, an bình, chân
thành sâu sắc, một cơn gió mát thoảng hương thơm của
nghìn hoa hồng. Tại trung tâm bạn thuộc vào vĩnh hằng.
Tại trung tâm bạn là phật. Phật không hề sinh và không
hề chết; đó là chính bản tính của bạn. Nhận ra chính bản
tính của bạn cẩn thận nhất có thể được, bởi vì dần dần,
dần dần chúng ta phải mang phật ra cuộc sống bình
thường của mình - trong các hành động, cử chỉ của
chúng ta, trong sự đáp ứng của chúng ta. Đem phật từ
trung tâm ẩn kín về chu vi của cuộc sống là toàn thể
nghệ thuật của tôn giáo. Mọi thứ khác đều không bản
chất, phụ thêm. Để làm điều đó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)

Thảnh thơi và quan sát. Thân thể đang nằm ra,


nhưng bạn không là thân thể; tâm trí có đó, nhưng bạn
không là tâm trí. Bạn chỉ là nhân chứng thuần khiết. Bạn
cũng không là một người. Bỗng nhiên, Thính phòng Phật
đã trở thành cái hồ tâm thức im lặng. Các cá nhân đã mất
đi, như giọt sương trong đại dương. Khoảnh khắc quí giá
vô cùng... thuyết phục phật, thu lấy mọi hoa đang mưa
rào lên bạn an bình, im lặng, phúc lạc. Bạn phải mang
chúng ra các hành động, cử chỉ, lời nói, im lặng của
mình. Nỗ lực của tôi là để đem ra thật nhiều chư phật
trên thế giới, nhận biết đầy đủ về mình... bởi vì đó là
cách bảo vệ duy nhất chống lại những chính khách ngu
xuẩn và những kẻ hiếu chiến.

199
Họ quyết tâm phá huỷ hành tinh đẹp này. Chỉ tâm
thức phật lan toả như lửa hoang và chiếm lĩnh trái tim
hàng triệu người mới có thể bảo vệ được hành tinh nhỏ,
đẹp này. Trong toàn thể vũ trụ - bao la thế, vô biên, vô
hạn - hành tinh nhỏ bé này duy nhất có sự sống, và hành
tinh nhỏ bé này duy nhất có ý thức và hành tinh nhỏ bé
này có khả năng đạt tới tâm thức cao nhất trong chư
phật. Trước khi Nivedano gọi các bạn về, nhớ thu thập
lấy thật nhiều kinh nghiệm về việc ở trung tâm và đem
nó đi cùng bạn. Thuyết phục phật hàng ngày... Sớm hay
muộn mùa xuân sẽ tới, và bạn sẽ, không hoài nghi gì,
nhận ra phật tính của mình. Và việc nhận ra của bạn
không chỉ về phật tính của mình; việc nhận ra của bạn là
điều toàn thể cuộc sống có khả năng ở đỉnh cao nhất của
tâm thức.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng đem theo phật cùng bạn. Biểu lộ


phật trong mọi hành động - ngay cả việc đứng dậy, ngồi
xuống. Biểu lộ cái đẹp và sự duyên dáng và âm nhạc.
Cuộc sống phải trở thành bài thơ, bức hoạ, âm nhạc, điệu
vũ.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

200
8. Ngày nghỉ không
dành cho thánh nhân

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,


Lâm Tế nói, "Ta diễn giải chi tiết pháp của
nền tảng tâm, qua đó người ta có thể đi vào
cái trần tục và cái linh thiêng. Nhưng các ông
sai lầm nếu các ông giả thiết rằng cái thực và
cái tạm, cái trần tục và cái linh thiêng có thể
gắn tên cho mọi thứ thực và tạm, trần tục và
linh thiêng. Chúng không thể gắn tên cho con
người này. Người đi theo của đạo, hiểu thấu
và sử dụng, nhưng không bao giờ đặt tên -
điều này được gọi là 'nguyên tắc bí ẩn.'"
Khi ông ấy quyết định rằng những ngày cuối
của mình sắp hết rồi, Lâm Tế mặc bộ áo
choàng đẹp nhất và tự ngồi thiền. Ông ấy nói
với các đệ tử của mình, đang tụ tập quanh ông
ấy, "Sau khi ta ra đi, đừng phá kho báu của ta
về con mắt chân lí của luật."

201
Đại đệ tử của ông ấy, Tam Thánh Huệ
Nhiên15, nói, "Ai dám hỗn láo mà làm việc
đó?"
Lâm Tế đáp ứng, "Từ giờ về sau, nếu ai đó
hỏi ông câu hỏi về con mắt chân lí của luật,
các ông sẽ trả lời sao?"
Tam Thánh Huệ Nhiên kêu: "Quái!"
Lâm Tế bình, "Ai sẽ nghĩ rằng kẻ ngu mù sẽ
phá huỷ nó?"

Maneesha, đây là bài nói cuối cùng trong loạt bài


nói hay, Lâm Tế: Thầy của điều phi lí. Sống cùng với
Lâm Tế... đó đã là một thời kì tuyệt diệu. Làm cho ông
ấy thành người đương đại của chúng ta, chỉ trong vài
khoảnh khắc, là nước cam lồ thuần khiết. Đây sẽ là bài
nói cuối cùng về Lâm Tế.
Trước khi thảo luận về lời kinh của Lâm Tế và giai
thoại này, Avirbhava, tổng giám đốc của Bảo tàng các
thần, đã đem tới một thành viên mới. Trước hết tôi sẽ kể
cho các bạn về thành viên mới của bảo tàng của cô ấy.
Tên thần đó là Rồng.
"Theo Kinh Cựu ước, rồng tương truyền đã giáng
sinh từ con rồng cái Babylon có tên là Tiamet. Trong Ki
tô giáo rồng đại diện cho cái ác; do đó, các bức tranh về
cuộc sống của vị thánh mô tả trận đánh giữa họ và rồng,
đại diện cho Thượng đế và quỉ.
"Chỗ phương Tây coi rồng là ác, thì phương Đông
coi nó là nhân đức. Ở Trung Quốc người ta nói rằng khi
chết, vua thăng lên trời như rồng. Người ta tin rằng khi
rồng thăng lên trời, sức ép của chân nó lên mây tạo ra
15
Sansho: Tam Thánh Huệ Nhiên

202
mưa. Cũng theo huyền thoại Trung Quốc rồng là sứ giả
của trời để lộ ra âm và dương, hai lực của vũ trụ, đối với
Hoàng đế. "
Trong Kinh Dịch rồng là biểu tượng cho trí huệ.
"Ở Nhật Bản, rồng ba móng đại diện cho hoàng đế,
có cả quyền năng vương quốc và tâm linh."
Bảo tàng các thần này có nghĩa vô biên. Nó công
bố sự chấm dứt của mọi thần. Các thần chỉ thuộc về bảo
tàng. Đó chính là chủ định của Bảo tàng các Thần. Sự
liên quan của họ với cuộc sống đã chấm dứt; họ chỉ có
thể được nhớ như huyền thoại, như hư cấu, như khai thác
của giới tăng lữ, như bịa đặt bệnh hoạn của người điên.
Con người tương lai sẽ không có thần; con người
tương lai sẽ là thần. Đã quá lâu rồi chúng ta ở dưới
những thực thể hư cấu. Bây giờ là lúc tuyên bố bản thân
chúng ta tự do với mọi hư cấu.
Thần của con người mới không còn trên trời nữa,
nó là trong cuộc sống riêng của họ - thân thiết hơn, gần
gũi hơn. Con người mới sẽ không tôn thờ thần, con
người mới sẽ sống thần, sẽ hát thần, sẽ nhảy múa thần;
bản thân người đó sẽ là ngôi đền của thần. Do đó tôi đã
gọi con người mới là phật. Bây giờ tôi sẽ gọi Avirbhava
đem rồng tới. (Một con rồng mầu lục, làm bằng giấy bồi
bước vào Thính phòng Phật từ cửa sau và di chuyển
quanh phòng. Thỉnh thoảng nó lại phun ra bụi nước và
khói từ cái mồm đầy răng. Mọi người đều cười khi nhạc
phương đông cất lên. Tiếng cười, nhạc Trung Quốc,
tiếng vỗ tay.)
Lời kinh:

Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,

203
Lâm Tế nói, "Ta diễn giải chi tiết pháp của
nền tảng tâm, qua đó người ta có thể đi vào
cái trần tục và cái linh thiêng. Nhưng các ông
sai lầm nếu các ông giả thiết rằng cái thực và
cái tạm, cái trần tục và cái linh thiêng có thể
gắn tên cho mọi thứ thực và tạm, trần tục và
linh thiêng. Chúng không thể gắn tên cho con
người này. Người đi theo của đạo, hiểu thấu
và sử dụng, nhưng không bao giờ đặt tên -
điều này được gọi là 'nguyên tắc bí ẩn.'"

'Nền tảng tâm' đơn giản nghĩa là tâm trí trống rỗng.
Chỉ nền tảng còn lại, chỉ cái móng còn lại, mọi thứ khác
đều mất đi. Thậm chí để có mơ bạn phải sống. Bạn có
cho rằng người chết có thể mơ được không? Chức năng
sống của bạn xem như nền tảng cho mọi phóng chiếu của
bạn, cho mọi tưởng tượng của bạn, cho mọi thần của bạn
trên thiên đường và địa ngục, và mọi loại huyền thoại,
thần học và triết học. Nhưng với tất cả, nền tảng là tâm
trí.
Thiền không đi ra ngoài nền tảng bản chất của tâm
trí. Nó không phát triển thành huyền thoại về nó, nó
không trở thành bất kì hệ thống niềm tin nào về nó; nó
đơn giản vẫn còn với tâm trí im lặng - và tâm trí im lặng
mới đích xác là vô trí. Đây chỉ là những cách diễn đạt
khác nhau. Bạn có thể nói 'vô trí' bởi vì không có ý nghĩ;
bạn có thể gọi nó là 'nền tảng tâm' - cũng không có ý
nghĩ nào.
Nền tảng tâm này có thể mô tả mọi thứ là linh
thiêng, là báng bổ, là vật chất, là tâm linh, là tinh tú, là ê
te - tâm trí này có khả năng đặt tên cho hàng nghìn thứ,
thật và không thật. Nhưng nó không thể đặt tên cho con
người này. Lâm Tế đang trỏ tới nhận thức riêng của

204
mình, và con người mới được sinh ra từ nhận biết. Nền
tảng tâm không thể đặt tên cho con người này - con
người mới, con người của Đạo, hay con người của chứng
ngộ.
Sao nó không thể đặt tên được cho nó? Bởi vì tên là
ý nghĩ, còn Thiền không cho phép bất kì ý nghĩ nào,
thiêng liêng hay báng bổ; nó chỉ chấp nhận tâm thức
thuần khiết, trái tim trống rỗng. Không cái gì được vang
vọng trong nó.
Do đó, tâm trí này mà có thể tạo ra huyền thoại lớn
thế... Hàng triệu người đã sống dưới tác động của các
thần hư cấu. Toàn bộ trò chơi là của tâm trí. Nó có thể
tạo ra Thượng đế, nó có thể tạo ra quỉ, nó có thể tạo ra
bất kì cái gì bạn muốn, nhưng không tạo ra con người
này. Con người chứng ngộ không còn nữa. Làm sao bạn
có thể đặt tên cho người đó được? Con người của chứng
ngộ bị tan biến trong vũ trụ; bây giờ người đó không còn
hình dạng nào nữa hay không còn biên giới nào nữa.
Làm sao bạn có thể đặt tên cho người đó được?
Cho nên toàn thể quá trình đặt tên cho mọi vật, điều
bạn nghĩ là việc suy nghĩ, không có giá trị gì; chính nền
tảng của tâm thức mới có giá trị. Bất kì cái gì bạn trưởng
thành lên từ nền tảng đó đều vô tích sự. Nó có khả năng
cho bạn bất kì cái gì bạn muốn. Quyền năng tưởng tượng
của nó là mênh mông, không biết tới giới hạn - nhưng
chúng tất cả sẽ là hư cấu, ảo giác, ảo ảnh. Bất kì khi nào
bạn đi tới chân lí, tâm trí đều không có khả năng, tuyệt
đối bất lực và không có khả năng đặt tên cho nó.
Chân lí không có tên, nó vô danh. Bản thể tối
thượng của bạn chưa bao giờ được đặt tên, và không có
cách nào để cho nó tên. Khi bạn tìm thấy nó, bạn bị hấp
thu và tràn ngập bởi nó đến mức bạn biến mất; chỉ nó

205
còn lại. Sự chói sáng, tình yêu, từ bi, duyên dáng - tất cả
đều có đó, nhưng bạn đã biến mất. Ai sẽ đặt tên cho nó?
Sự biến mất của bạn nghĩa là việc mở ra cánh cửa
của vũ trụ. Bằng việc biến mất, tôi ngụ ý bạn biến mất
trong đại dương. Bây giờ, khi hạt sương đã biến mất
trong đại dương, tìm nó ở đâu được? Làm sao đặt tên cho
nó? Tất cả mọi điều bạn có thể nói là ở chỗ nó đã trở
thành một với đại dương. Nó là đại dương nhỏ, đó là lí
do tại sao nó có thể trở thành một với đại dương. Nó giữ
bản thân mình nhỏ bé, trong các giới hạn. Hôm nay nó
vứt bỏ các giới hạn, trượt từ lá sen, biến mất vào trong
đại dương. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó đã chết;
điều đó đơn giản nghĩa là nó đã trở thành quá lớn, đến
mức bạn không còn có thể gọi nó là giọt sương được.
Phát biểu cuối cùng của Lâm Tế... "Người đi theo
của đạo, hiểu thấu và sử dụng, nhưng không bao giờ đặt
tên - điều này được gọi là 'nguyên tắc bí ẩn.'"
Đạo đích xác ở cùng chiều cao của hiểu biết như
Phật. Từ 'đạo' không ngụ ý gì. Chỉ do bức bách mà Lão
tử mới gọi nó là đạo - một từ vô nghĩa - cũng như Phật
đã gọi nó là pháp dhamma.
Cả đời mình Lão Tử chưa hề viết. Ngay cả hoàng
đế cũng nhấn mạnh rằng "Ông nên viết ra kinh nghiệm
của mình. Chúng sẽ có giá trị cho những thế kỉ tới."
Lão Tử nói, "Bệ hạ không biết điều bệ hạ đang đòi
hỏi. Không ai có thể viết nó ra được, không ai có thể
phát âm nó được. Người ta có thể sống nó, yêu nó, người
ta có thể được tan biến vào trong nó, người ta có thể
được phục sinh trong nó, nhưng không cái gì có thể được
nói về nó. Lời là quá xa xôi, quá nhiều sai lạc."
Toàn bộ cuộc đời mình Lão Tử đã từ chối mọi đề
nghị từ các đệ tử rằng "Thầy đã sống cuộc sống vĩ đại

206
của im lặng hoàn toàn, của an bình và phúc lạc; sẽ là mất
mát lớn cho nhân loại nếu thầy không viết ra chỉ một
luận giải nhỏ, vài lời kinh, vài dấu vết có thể chỉ ra thầy
đã đạt tới tầm cao này thế nào, theo chiều hướng nào
chúng tôi phải đi - chỉ để hướng dẫn chúng tôi."
Nhưng Lão Tử nói, "Ta cũng muốn nói, nhưng ta
không thể làm biến chất sự thuần khiết của kinh nghiệm
được. Khoảnh khắc ta nói nó, nó sẽ bị biến chất. Lời là
quá nhỏ bé còn kinh nghiệm là mênh mông. Thôi thứ lỗi
cho ta!"
Đây đã là thái độ trong cả đời của ông ấy, nhưng
đến cuối ông ấy nói với các đệ tử của mình, "Bây giờ là
lúc ta về nghỉ trên núi Himalayas. Cái chết của ta không
còn xa nữa, và ta muốn gặp cái chết của ta và đón chào
nó ở đúng chỗ" - và không thể có chỗ nào đúng hơn là
im lặng vĩnh hằng của Himalayas.
Không chỉ Lão Tử, mà nhiều người nữa đã đưa
những ngày cuối của mình tới Himalayas và biến mất
trong tuyết vĩnh hằng. Himalayas có hấp dẫn bí ẩn: bởi
vì chiều cao, bởi vì những con đường chưa ai đặt chân
tới, vẫn có hàng nghìn chỗ mà con người chưa từng tới,
nơi tuyệt đối không bị ô nhiễm bởi con người và sự phát
xạ xấu xa của con người.
Lão Tử cáo biệt đệ tử của mình, nhưng ông ấy lại bị
rắc rối, bởi vì hoàng đế đã báo cho lính gác trên mọi ngả
đường tới Himalayas. Có lính gác trên mọi nẻo đường
dẫn tới Himalayas đi ra khỏi Trung Quốc. Vua đã thông
báo cho các lính gác, "Bất kì khi nào các ngươi tìm thấy
Lão Tử đi qua biên giới Trung Quốc, bắt ông ấy làm tù
nhân. Rất kính trọng, nhưng phải dàn xếp với ông ấy
rằng nếu ông ấy muốn đi tới Himalayas, ông ấy phải viết
ra một luận giải về kinh nghiệm của mình - chỉ cần
những hướng dẫn bản chất."

207
Ông ấy bị bắt, với sự kính trọng lớn lao, và ông ấy
được cho chiếc lều tranh có lính gác, và ông ấy bị khoá
trong lều và được bảo, "Chừng nào thầy còn chưa viết ra
kinh nghiệm bản chất và những bước hướng tới nó -
chúng tôi được nghiêm lệnh - thầy sẽ không được phép
rời khỏi Trung Quốc và đi vào Himalayas."
Dưới sự bức bách đáng yêu đó, không tìm được
đường nào khác, Lão Tử đã viết ra cuốn sách của mình,
Sách về Đạo16. Ông ấy bắt đầu từ chính dòng đầu tiên,
"Chân lí không thể được viết ra. Khoảnh khắc nó được
nói ra, nó trở thành phi chân lí.17"
Tất cả những người đã đọc bản luận giải nhỏ này
đều được cảnh báo từ ngay ban đầu rằng đây là lời, và
lời không thể mang được cái im lặng vô lời. Đây là lời
nói đầu cho bản luận giải riêng của ông ấy: "Ta bị bó
buộc, cho nên ta viết nó ra, nhưng đây không phải là
chân lí. Các ông không thể lấy được chân lí từ một cuốn
sách" Chân thực thế!
Lâm Tế nói, " Người đi theo của đạo, hiểu thấu và
sử dụng" - họ hiểu thấu nền tảng tâm trí, họ hiểu thấu
chính bản thể họ, và dùng nó - "nhưng không bao giờ đặt
tên - điều này được gọi là 'nguyên tắc bí ẩn.'" Họ nắm
bắt lấy nó, họ dùng nó trong cả đời mình, họ trở thành
một với nó, nhưng họ chưa bao giờ nói ra một lời về nó,
nó là gì.
Bạn phải sống với một thầy đã đạt tới nó, có lẽ
trong im lặng sâu sắc, ngồi cùng thầy. Trái tim bạn và
trái tim thầy có thể bắt đầu đồng bộ, nhảy múa theo cùng
điệu, đi vào hài hoà. Khôngng cái gì sẽ được nói ra,
khôngng cái gì sẽ được nghe, nhưng mọi thứ sẽ được
hiểu. Bởi vì điều này mà nó được gọi là "nguyên tắc bí
16
Đạo Đức kinh
17
Đạo khả đạo phi thường đạo.

208
ẩn." Không ai đã nói nó, không ai đã từng nghe về nó,
nhưng hàng nghìn người đã sống nó.
Tôn giáo không phải là việc giải thích, nó là kinh
nghiệm. Nó không phải là cái để được nghiên cứu, nó
phải được sống. Đó là nơi tất cả các tôn giáo đã đi sai.
Chúng đã trở thành kinh sách, chúng đã trở thành đền
chùa, nhà thờ, giáo đường, chúng đã tạo ra lời cầu
nguyện, nghi lễ, theo đám đông. Bất kì cái gì đám đông
cần họ đều sẵn sàng cung cấp: chỉ vẫn còn trong bầy
đoàn của họ, bởi vì sự hiện diện của người đi theo là
quyền năng chính trị.
Cái gọi là tôn giáo của họ - tôi muốn làm rõ ràng
điều đó, với chắc chắn tuyệt đối - không là gì ngoài
chính trị giấu mặt. Bộ mặt của họ là tôn giáo, nhưng
những bộ mặt đó không phải là thực, chúng là mặt nạ.
Sâu bên trong là chính trị thuần tuý và không gì khác.
Một cách tự nhiên họ phải chiều theo đám đông. Điều đó
là việc buồn cười thế, lố bịch tới mức các tôn giáo phải
chiều theo đám đông, những người không biết gì, chỉ để
giữ cho họ còn trong bầy đoàn.
Tôi đã nghe nói về ba giáo sĩ ở New York, nói
chuyện với nhau. Giáo sĩ thứ nhất nói, "Giáo đường của
tôi là tinh tế nhất, bởi vì tôi thậm chí cho phép mọi người
được hút thuốc và uống rượu bên trong giáo đường trong
khi thầy giảng vẫn thuyết giảng. Hút thuốc và uống rượu
không hại gì. Đây là ý tưởng hiện đại về giáo đường."
Giáo sĩ thứ hai nói, "Thế chưa là gì. Tôi cho phép
mọi người thậm chí được làm tình - có hại gì? Thầy
giảng cứ thuyết giảng và mọi người thích thú, yêu nhau.
Tình yêu là thông điệp!"
Người thứ ba nói, "Các ông vẫn ở xa sau giáo
đường của tôi. Giáo đường của tôi là từ cuối cùng, bởi vì

209
phía trước giáo đường của tôi treo một biển báo lớn nói
rằng vào ngày nghỉ lễ Do Thái giáo đường sẽ vẫn còn bị
đóng cửa!" Bây giờ, các ông không thể cải tiến về điều
đó.
Xét nét mọi người... Gurdjieff hay nói, "Nếu bạn
xét nét mọi người, bạn sẽ không bao giờ có tính tôn giáo
cả." Đừng bao giờ xét nét bất kì ai. Chỉ tìm chân lí của
bạn và sống theo nó, cho dù nó có đi ngược lại cả thế
giới. Đừng thoả hiệp gì hay bất kì xét nét gì. Con người
của tôn giáo đích thực là con người của không thoả hiệp
và không xét nét.

Khi ông ấy quyết định rằng những ngày cuối


của mình sắp hết rồi, Lâm Tế mặc bộ áo
choàng đẹp nhất và tự ngồi thiền.

Những biểu tượng nhỏ này chỉ ra chính phẩm chất


đẹp của con người này. Chúng là những chỉ báo, cho
những người có thể hiểu được, rằng ông ấy đang chuẩn
bị cho mình đi gặp cái chết. Hiển nhiên ông ấy phải mặc
bộ áo choàng đẹp nhất của mình và tự mình ngồi thiền.
Ông ấy phải gặp cái chết trong im lặng đẹp đẽ của thiền.

Ông ấy nói với các đệ tử của mình, đang tụ


tập quanh ông ấy, "Sau khi ta ra đi, đừng phá
kho báu của ta về con mắt chân lí của luật."

Tôi đã giải thích cho các bạn rằng Thiền gọi con
mắt thứ ba - con mắt nhìn vào bên trong - điều ở Ấn Độ
chúng ta đã gọi trong hàng nghìn năm, là con mắt chân lí
của luật. Hai con mắt này nhìn ra ngoài, và nó rất biểu
tượng là mọi thứ bên ngoài bao giờ cũng chia làm hai.

210
Nếu có đêm, có ngày; nếu có yêu, có ghét; nếu có bạn,
có thù.
Nhìn ra bên ngoài điều tuyệt đối cần thiết là bạn
phải có hai mắt. Nhưng nhìn vào bên trong, hai mắt đó
phải tan chẩy thành một. Và khi bạn quay vào bên trong,
chỉ có một con mắt của luật, con mắt của Đạo, hay đơn
giản con mắt thứ ba.
Ông ấy đã yêu cầu các đệ tử của mình trước khi
ông ấy trút hơi thở cuối cùng, "Sau khi ta ra đi, đừng
phá kho báu của ta về con mắt chân lí của luật. Ta đã
cho các ông một kho báu, ta đã giới thiệu cho các ông
nguyên tắc bí ẩn, ta đã làm cho các ông nhận biết về con
mắt thứ ba; đừng để ai phá huỷ nó."
Đại đệ tử của ông ấy, Tam Thánh Huệ Nhiên, nói,
"Ai dám hỗn láo mà làm việc đó? Ai có thể phá huỷ nó,
ai sẽ liều lĩnh, hỗn láo mà làm điều đó?

Lâm Tế đáp ứng, "Từ giờ về sau, nếu ai đó


hỏi ông câu hỏi về con mắt chân lí của luật,
các ông sẽ trả lời sao?"
Tam Thánh Huệ Nhiên kêu: "Quái!"
Lâm Tế bình, "Ai sẽ nghĩ rằng kẻ ngu mù sẽ
phá huỷ nó?"

Tam Thánh Huệ Nhiên đáp ứng lại chính xác... Hét
lên "Quái!" là do Lâm Tế đưa vào trong truyền thống
Thiền. Khi bạn không thể trả lời được câu hỏi, khi câu
hỏi là không thể trả lời được, thì tiếng hét ra trò lập tức
đưa người khác, ít nhất trong một khoảnh khắc, vào im
lặng. Đó là câu trả lời của bạn. Bạn đang nói, "Im đi và
anh sẽ biết!" - không nói nhiều bằng lời, mà chỉ cho một
tiếng hét ra trò. Người này đơn giản bị sốc.

211
Trong một khoảnh khắc tâm trí trở nên tỉnh táo:
"Cái gì đang diễn ra vậy? Mình đã hỏi một câu hỏi rất
logic, hợp lí mà anh chàng này lại hét với mình!" Và
tiếng hét tới nhanh thế, không có lí do và nhịp điệu nào,
tới mức tâm trí không thể luận ra được nghĩa của nó.
Cho nên nó trở nên im lặng - ít nhất cũng trong vài
khoảnh khắc.
Tam Thánh Huệ Nhiên đã cho một tiếng hét ra trò,
"Quái!", nhưng đó không phải là điều đúng.
Lâm Tế bình, "Ai sẽ nghĩ rằng kẻ ngu mù sẽ phá
huỷ nó?" Ông ấy đang nói rằng nó bao giờ cũng bị phá
huỷ bởi sự mù của con người. Trước một người mù bạn
có thể hét to tuỳ thích; điều đó cũng không giúp cho
người đó có con mắt thứ ba. Người đó thậm chí không
thể nhìn được ra ngoài, làm sao người đó có thể nhìn
được vào bên trong? Người đó không biết 'nhìn' nghĩa là
gì.
Mọi đỉnh cao tôn giáo đều bị phá huỷ sau cái chết
của thầy bởi những kẻ ngu mù. Bạn sẽ không thể có khả
năng nhận ra họ, bởi vì những kẻ ngu mù này không phải
là kẻ ngu bạn biết. Những kẻ ngu mù này là các học giả,
các giáo sĩ, các giám mục, các giáo hoàng, các
shankaracharyas. Những kẻ ngu mù này liên tục phá huỷ
mọi thứ, bởi vì họ phải thao túng tâm trí quần chúng. Họ
không quan tâm tới việc gìn giữ chân lí. Ai chăm nom về
chân lí? - câu hỏi thực là bạn có bao nhiêu người đi theo.
Mọi người đều chăm nom về việc có nhiều quyền
lực hơn, và chỉ có một quyền lực bên ngoài, và đó là
quyền lực của việc có đám đông sau bạn. Nhưng để có
đám đông sau bạn, bạn phải theo họ. Bạn phải đi tới mọi
thoả hiệp, bằng không họ sẽ không theo bạn.

212
Họ đã có một tâm trí đầy định kiến hàng thế kỉ. Họ
biết cái gì là phải và cái gì là trái - và họ không biết gì
cả! Họ biết chân lí là gì, Thượng đế là gì, thiên đường là
gì, còn bạn thì không thể thay đổi được ước định của
mình. Sẽ dễ dàng hơn cho họ bỏ bạn và chuyển sang
nhóm khác, nơi các định kiến của họ được nuôi dưỡng.
Đó là một tình huống rất lạ: chỗ dốt nát của bạn
được nuôi dưỡng, bạn cảm thấy hạnh phúc, còn chỗ dốt
nát của bạn bị phơi bầy và giết chết bạn cảm thấy rất bất
hạnh, bởi vì bạn đã bị đồng nhất quá nhiều với dốt nát
của mình. Đây là kẻ ngu mù của bạn.
Lâm Tế đang nói rằng không có cách nào để giữ
con mắt thứ ba, ngoại trừ nếu bạn có nó và bạn liên tục
chuyển giao cho người nhận khác. Nó không thể được
gìn giữ trong kinh sách, nó không thể được gìn giữ theo
bất kì cách nào khác. Cách duy nhất để gìn giữ nó là có
nó - và có nó trong dư thừa đến mức bạn có thể chia sẻ
với người khác.
Lâm Tế chết trong khi ngồi thiền - ngồi theo tư thế
Phật. Năm đó là 866 hay 867, và ông ấy để lại sau mình
hai mươi hai đệ tử chứng ngộ.
Đó là một đóng góp lớn cho tâm thức con người.
Để lại hai mươi hai đệ tử chứng ngộ là nâng mức độ tâm
thức lên - một nỗ lực lớn lao của một người và một đóng
góp lớn lao. Và qua một nghìn một trăm năm này các đệ
tử của Lâm Tế đã liên tục trở nên chứng ngộ. Nó vẫn là
dòng suối sống, tuôn chảy, nó đã không bị mất hút trong
sa mạc.
Sa mạc là sa mạc của các học giả. Sa mạc đó đang
được tạo ra bởi các đại học và cao đẳng và trường học.
Trong sa mạc đó mọi thứ đều bị mất. Trong sa mạc bao
la Sahara, những dòng suối tâm thức nhỏ đơn giản mất

213
đi, thay vì đạt tới đại dương. Tất cả các học giả đều đưa
bạn ra xa khỏi đại dương, bởi vì tất cả những học giả này
đều là kẻ phục vụ của những quyền lợi được đầu tư. Họ
có quyền lợi nào đó, và vì quyền lợi đó họ có thể thoả
hiệp mọi thứ - và họ đã thoả hiệp mọi thứ.
Nếu ông ấy mà không tạo ra ngọn lửa sống quanh
mình, thì mọi thầy lớn đều sẽ bị quên lãng. Nhân loại
mất mát nhiều khi một thầy bị quên lãng. Đã có hàng
nghìn nhà huyền môn, và thậm chí tên của họ cũng bị
quên.
Anando đang soạn một cuốn sách về tất cả các nhà
huyền môn tôi đã nói tới. Cô ấy nói với Giáo sư
Coleman Barks. Ông ấy rất quan tâm; ông ấy muốn đích
thân xuất bản nó. Nhưng ông ấy nói, "Từ đâu mà ông ấy
đã tìm ra ba trăm người này? Tôi chưa từng nghe nói tới
những cái tên này - ba trăm phật!" Ông ấy đã bỏ đi, bằng
không thì tôi sẽ gửi cho ông ấy thông điệp rằng tôi vẫn
còn sống và tôi định nói ít nhất hai trăm người nữa. Vẫn
còn nhiều nữa, nhưng thậm chí tên của họ cũng thất
truyền.
Các bạn đang nghe những người và kinh của họ đã
bị đại đa số nhân loại quên lãng. Nỗ lực của tôi là để làm
sống lại những đỉnh cao vàng đó trong tâm thức của bạn,
để cho bạn có thể có tin cậy rằng "Nếu nhiều người thế
đã trở nên chứng ngộ, không có lí do gì tại sao mình
không thể trở nên chứng ngộ được."
Việc nói của tôi về những người này có một mục
đích: để tạo ra tin cậy trong bạn về bản thân bạn, rằng
định mệnh của bạn là phật.
Ikkyu đã viết:

Dù tôi có nâng cao thông điệp này

214
Hay hạ nó xuống,
Mọi thứ dưới bầu trời
Đều là lãnh thổ hoàng đế.
Tôi chào và nói,
"để nó là vậy... để nó là vậy."

Đó là phiên bản khác của thảnh thơi toàn bộ với sự


tồn tại, phiên bản khác của buông bỏ, phiên bản khác của
cái như thế, cái này, đây này.
Ông ấy đang nói, "Dù tôi có nâng cao thông điệp
này hay hạ nó xuống, mọi thứ dưới bầu trời đều là lãnh
thổ hoàng đế. Tôi chào và nói, 'để nó là vậy... để nó là
vậy.' Bất kì cái gì xảy ra, quyết tâm tuyệt đối của tôi,
cam kết tuyệt đối của tôi là ở chỗ bất kì cái gì xảy ra đều
tốt. Để nó là vậy."
Có thể đôi khi dường như là cái gì đó là không may
- nhưng dầu vậy Ikkyu vẫn phải. Nhiều lần ân huệ tới
dưới dạng trá hình, và những người đã sẵn sàng chấp
nhận ngay cả điều không may một cách vui sướng, họ
biến đổi điều không may thành niềm vui. Chính bằng
việc chấp nhận chúng, không kháng cự gì, là cách biến
đổi chúng thành không gian đẹp.
để nó là vậy.
Bất kì điều gì xảy ra, bạn đừng miễn cưỡng, đừng
phàn nàn gì về sự tồn tại. Đó là thông điệp thuần khiết
nhất của Thiền.

Maneesha đã hỏi:

215
Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,
Từ việc nhận ra nhân chứng bên trong, không
giao động, cho tới việc tôn thờ thượng đế bên
ngoài mà mọi người hết hi vọng - liệu chúng
tôi có thể thực sự làm cuộc hành trình trở lại
nhân chứng bên trong trong nháy mắt không,
chỉ bằng một bước? Chừng nào tôi thực tế
không đang ngồi trước Thầy, việc nhớ tới
nhân chứng dường như là nhiệm vụ kiểu lên
dốc thế!

Maneesha, đó không phải là nhiệm vụ kiểu lên dốc,


nó là nhiệm vụ kiểu xuống dốc! Bản ngã bao giờ cũng
sẵn sàng cho nhiệm vụ kiểu lên dốc; đó là vấn đề xuống
dốc. Việc tự nhiên, giản dị, là không ai cả, thì không thể
là nhiệm vụ kiểu lên dốc được. Cho nên trước hết bạn
thay đổi ý tưởng này: nó không phải là nhiệm vụ kiểu lên
dốc, nó là kiểu xuống dốc.
Và điều thứ hai bạn nói, "Chừng nào tôi thực tế
không đang ngồi trước Thầy, việc nhớ tới nhân chứng
dường như là nhiệm vụ kiểu lên dốc thế!"
Bạn đang làm nó thành việc lên dốc đấy. Nếu điều
đó là có thể khi ở trước tôi, cái gì ngăn cản bạn khi bạn
không ngồi trước tôi? Nếu nó là có thể khi ở trước tôi,
thế thì nó là có thể ở bất kì đâu.
Và bạn nói, "Chừng nào tôi thực tế không đang
ngồi trước Thầy..." Nhưng làm sao bạn có thể chắc chắn
rằng tôi thực tế ở đây? Bạn không có bằng chứng nào về
sự hiện diện của tôi ở đây cả. Bạn không thể tin được
vào mắt mình - chúng lừa dối bạn nhiều lần rồi. Điều đó
có thể đơn giản chỉ là ở chỗ toàn thể hội chúng đã rơi

216
vào giấc ngủ và tất cả các bạn đang mơ về tôi; tôi là giấc
mơ của tất cả các bạn.
Bạn không thể xác định được liệu bất kì cái gì bên
ngoài việc chứng kiến của bạn có thực tại nào hay
không. Bởi vì điều này, triết gia vĩ đại Shankara liên tục
nhấn mạnh và chứng minh cho toàn thể Ấn Độ rằng thế
giới bên ngoài chỉ là mơ, ảo vọng, ảo tưởng. Và có
những điều song song ở phương Tây: Bradley và
Bosanquet cả hai đều thử cùng ý tưởng - rằng bạn không
thể nói được liệu bên ngoài là thực hay không thực, bởi
vì trong mơ bạn bắt đầu tin vào mơ.
Việc tin của bạn không đáng tin cậy mấy. Trong
giấc mơ, bạn có bao giờ hoài nghi, "Có lẽ mình đang
trong mơ sao"? Trong mơ bạn tham gia vào sâu sắc đến
mức mơ trở thành thực tại, thực đến mức nếu bạn có ác
mộng, một con sư tử hay con rồng đang ngồi lên ngực
bạn, bạn sẽ tỉnh dậy từ sợ hãi, và bạn sẽ kinh nghiệm sự
giảm nhẹ lớn lao rằng nó đã là giấc mơ. Nhưng ngay cả
mơ cũng có tác dụng của nó: việc thở của bạn chỉ ra
dường như bạn đã chạy nhanh, việc vã mồ hôi của bạn
chỉ ra rằng thân thể bạn đã tin, tâm trí bạn đã tin, rằng
con rồng là thực tại.
Không có cách nào để chứng minh rằng bên ngoài
không phải là giấc mơ khác - có thể nó dài hơn chút ít,
bẩy mươi năm; có thể một giấc mơ đặc biệt rằng khi bạn
bạn đi ngủ nó đợi bạn, và khi bạn tỉnh dậy nó lại tiếp tục.
Nhưng không có cách nào để chứng minh một cách hợp
lí rằng bên ngoài thực sự có đó. Nó có thể có, nó có thể
không có.
Cho nên đừng lo nghĩ về thực tại của tôi. Tôi có thể
chỉ là một phương sách... trong thực tế, tôi là phương
sách đấy. Nếu bạn có thể trở thành nhân chứng ở trước
tôi, thì bạn biết rằng bạn có khả năng trở thành nhân

217
chứng. Thế thì không có lí do làm cho nó thành nhiệm
vụ kiểu lên dốc. Chỉ vui đùa về nó.
Tôi biết ngay từ đầu bạn sẽ quên nhiều lần. Cố hiểu
điều đơn giản này: khi bạn quên, đừng bận tâm; bằng
không, điều xảy ra là bạn quên việc chứng kiến, và thế
rồi bạn nhớ, "Lạy trời, mình quên mất!" - và bây giờ bạn
bắt đầu hối hận. Đó lại là việc quên nữa. Điều bạn đã
quên lại bị quên. Bây giờ bạn đã nhớ, tiếp tục.
Đừng bao giờ hối hận vì những khoảnh khắc đó đã
qua. Chúng đã qua rồi. Nếu bạn bắt đầu hối hận, bạn sẽ
phá huỷ đi nhiều khoảnh khắc nữa. Và tâm trí con người
hay có kiểu như thế, nó có thể quên. Bởi vì tôi đã nói,
"Đừng hối hận!" nên nó sẽ hối hận, và thế thì nó sẽ hối
hận rằng nó đã hối hận, và việc chứng kiến sẽ bị xa dần.
Cho nên làm cho nó thành đơn giản: khi bạn quên,
bạn quên luôn. Chương đó đóng lại rồi. Bây giờ bạn
đang nhớ lại - nhớ, chứng kiến. Dần dần, dần dần lỗ
hổng của việc quên sẽ trở nên nhỏ hơn, ít hơn. Nó cần
chút ít thời gian. Bạn không phải là hoa theo thời vụ chỉ
xuất hiện vài ngày rồi biến mất trong vài ngày. Bạn là
hoa của vĩnh hằng.
Cho nên không có nhu cầu lo lắng về nó; nếu trong
vài khoảnh khắc bạn quên mất việc chứng kiến, điều đó
hoàn toàn được. Bây giờ, chứng kiến đi! Đừng để một ý
nghĩ cho việc đã qua. Điều đó là tự nhiên, đừng cảm thấy
mặc cảm.
Tôi không hề muốn bất kì ai thuộc về tôi mà lại
cảm thấy mặc cảm về bất kì cái gì. Bất kì cái gì đã xảy ra
rồi, cứ để nó là vậy! Bây giờ bạn là nhận biết, nhân
chứng. Bạn sẽ lại ngã nữa, nhiều lần bạn sẽ tỉnh dậy.
Đây là quá trình tự nhiên. Nó không là gì riêng cho cá
thể; nó phải xảy ra cho mọi người.

218
Cho nên coi nó là dễ dàng, và liên tục trưởng thành,
ngày một chứng kiến hơn và ngày một ít quên hơn. Một
thời điểm sẽ tới - phải tới - khi thậm chí bạn muốn quên
bạn cũng không thể quên được. Thế thì bạn sẽ giận tôi
đấy - giận thực là "Bây giờ tôi muốn quên mà tôi không
thể nào quên được!" Bây giờ bạn rất hạnh phúc thử việc
chứng kiến, nhưng cái ngày bạn sẽ là nhân chứng hoàn
hảo, bạn sẽ giận tôi, bởi vì có cái đẹp nào đó trong việc
quên đi vài thứ. Nhưng bạn không thể quên được... việc
chứng kiến của bạn đã trở thành vững vàng đến mức bạn
không thể lấy cho dù một ngày nghỉ. Ngày nghỉ không
dành cho thánh nhân.
Bây giờ Gurudayal Singh đã tuyên bố thời gian
dành cho thánh nhân.

Ông già lang thang Herbie gõ cửa một nhà nghỉ có


tên George và Rồng. Một người đàn bà to lớn mở cửa ra
và nói, "Ông muốn gì?"
"Bà có thừa miếng ăn nào cho con người đáng
thương này không?" Herbie hỏi.
"Không!" người đàn bà này la lên, đóng sầm cửa
lại. Vài phút sau, Herbie lại gõ cửa. "Xin cô," kẻ lang
thang hỏi, "Tôi có thể xin chút gì ăn được không?"
"Cút ngay, đồ vô tích sự!" người đàn bà quát lên,
"và đừng có quay lại nữa!" Sau vài phút, Herbie lại gõ
cửa. Người đàn bà trả lời điều đó.
"Tôi xin lỗi," Herbie nói, "nhưng tôi có thể nói vài
lời với George lần này không?"
Bạn sẽ hiểu nó trong đêm nay, đích xác vào giữa
đêm!

219
Donald Dixteen đang đứng ở nhà tiểu công cộng,
thì anh da đen to lớn Rufus chạy vào. Rufus cởi phẳng
quần ra, thò nhanh cái to tướng ba mươi xăng ti mét của
mình ra, và bắt đầu đái vào thùng. "Úi trời!" Rufus kêu
lên với sự nhẹ nhõm. "Tôi vừa mới làm nó đấy!"
"Thật à?" Donald nói, nhìn chăm chăm vào cỗ máy
đồ sộ của Rufus. "Anh sẽ làm cho tôi một cái nữa chứ?"

Đó là đêm Halloween ở Washington và có bữa tiệc


của các ma và ma cà rồng tại Nhà Trắng. Nancy Reagan,
George Bush và tất cả nhân viên Nhà Trắng đều ăn mặc
như quỉ và phù thuỷ, với những mặt nạ gớm ghiếc, ma
quái. Mọi người đều nôn nóng chờ đợi đích thân Ronald
Reagan xuất hiện.
"Tôi không thể đợi để xem bộ trang phục của
Ronnie được," Nancy nói, đang mặc bộ đồ như con gái
của Dracula, với một con dao khắc kẹt ngang qua cổ.
"Tôi cũng không đợi được," Bush đáp, đang trá
hình như Frankenstein cho buổi tối hôm đó. "Năm ngoái
Ronald thực sự làm mọi người sợ cứt khi ông ấy được
mang vào, trong cái quan tài kia!"
Vừa lúc đó, cánh cửa mở ra và Reagan bước vào.
Nhưng trước sự thất vọng của mọi người ông ấy lại ăn
vận như bình thường, trong bộ complet làm việc mầu
xám đậm. Trong tay ông ta là một cái hộp nhỏ mầu đen.
"Ô, Ronald!" Nancy kêu. "Xấu hổ thế! Tất cả
chúng tôi cứ ngỡ là anh thực sự gây cho chúng tôi hoảng
sợ năm nay."
"Làm các vị sợ sao?" Reagan kêu lên, nhìn quanh
hội chúng các ma đang tụ tập. "Tôi đã bẩy mươi nhăm
tuổi rồi, tôi lão suy, ốm yếu về thể chất và chậm tiến về

220
tinh thần - và với cái hộp nhỏ này tôi có thể phá huỷ toàn
thế giới! Điều đó không làm các vị sợ sao?"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)

Nivedano...
(tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn
toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào trong, bằng tất cả mọi
tâm thức của bạn, bằng toàn bộ năng lượng sống của
bạn, và bằng sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh
khắc cuối cùng của bạn. Giống như mũi giáo, đi thẳng
vào trung tâm. Tại trung tâm bạn chỉ là nhân chứng,
không gian im lặng thuần khiết, chứng kiến thân thể, tâm
trí - cũng chứng kiến cả hoa đang mưa rào lên bạn, cũng
chứng kiến rằng tính cá nhân của bạn đang tan biến, rằng
bạn đang trở thành một phần của đại dương. Tại khoảnh
khắc này, khi bạn ở tại trung tâm của bản thể mình, bạn
là phật. Và nhớ, phật không được làm bằng xương và
máu và tuỷ. Phật chỉ được làm bằng việc chứng kiến. Bất
kì khi nào bạn chỉ là nhân chứng, thì bạn là phật. Và điều
này đơn giản thế, vì nó tự nhiên thế. Nó là chính bản thể
bạn. Cái vĩnh hằng này... vũ trụ này tuyệt đối hạnh phúc
với bạn, đang hân hoan với sự im lặng của bạn. Để làm
cho việc chứng kiến tuyệt đối rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)

221
Thảnh thơi, buông bỏ. Nhớ từ cuối cùng của Ikkyu,
"để nó như vậy...." Hoàn toàn im lặng, chân thành. Thính
phòng Phật đã trở thành chiếc hồ tâm thức. Cá nhân đã
mất đi; thậm chí không có một gợn sớng trên hồ. Bạn
được phúc lành. Tại khoảnh khắc này, không ở đâu khác
trên thế giới này mười nghìn chư phật đang ngồi trong
thiền, chứng kiến và tạo ra trường năng lượng cực kì
mạnh. Chúng ta đang cố gắng làm sống lại quá khứ vàng
- không phải của đám đông bình thường, mà chỉ của chư
phật. Thế giới chỉ có một khả năng sống còn, và khả
năng đó là truyền bá phật tính trên khắp trái đất nhanh
nhất mà bạn có thể làm được. Bằng không, trong vòng
mười hai năm hành tinh đẹp mênh mông này đơn giản sẽ
chết -không cái gì sống, ngay cả hoa dại cũng chết. Và
điều đó là không may vì đây là hành tinh duy nhất trong
toàn thể vũ trụ đã phát triển tới điểm người ta có thể trở
thành phật, nơi người ta có thể trở thành bất tử. Tại
khoảnh khắc này bạn là bất tử. Tại khoảnh khắc này cái
chết không tồn tại cho bạn. Tại khoảnh khắc này bạn có
nguyên tắc huyền diệu rất bí mật trong tay mình. Dùng
nó, là nó - không có tên cho nó - hát nó, nhảy múa nó,
nhưng vẫn còn hoàn toàn im lặng về nó. Nói bất kì cái gì
về nó đều là phản bội lại nguyên tắc huyền bí. Truyền bá
ngọn lửa của phật tính cho mọi ngóc ngách và xó xỉnh
của trái đất. Đó là bảo vệ duy nhất chống lại vũ khí hạt
nhân. Bây giờ thu lấy thật nhiều kinh nghiệm như bạn có
thể trước khi Nivedano gọi bạn quay về, và thuyết phục
Phật - cứ thuyết phục hàng ngày. Từng li một ông ấy sẽ
tới gần hơn với chu vi. Đem ông ấy đi cùng bạn.
Mọi người đều chứa phật. Chỉ mất chút thời gian...
bởi vì trong nhiều thế kỉ bạn chưa bao giờ nghĩ về nó.
Việc nghĩ bạn là phật là điều mới thế, nghĩ bạn là phật
mang tính nổi dậy thế. Nhưng khi có liên quan tới tôi,

222
đây là sự kiện đơn giản, chân lí đơn giản. Thu lấy thật
nhiều như bạn có thể.
Nivedano...
(tiếng trống)

Quay lại, nhưng quay lại với cùng sự chân thành,


im lặng, duyên dáng, cái đẹp, và ngồi trong vài khoảnh
khắc nhớ lại không gian bạn đã từng ở, nhớ lại con
đường, con đường vàng, mà bạn đã đi theo để đạt tới
trung tâm của mình. Nhớ rằng tại trung tâm chỉ việc
chứng kiến mới là chân lí. Mọi thứ chết đi, chỉ việc
chứng kiến còn lại. Việc chứng kiến là vĩnh hằng của
chúng ta, nhưng sống nó trong các hành động của bạn,
trong lời của bạn, trong đáp ứng của bạn, trong im lặng
của bạn, trong bài ca của bạn, trong điệu vũ của bạn.
Chúng ta có thể tạo ra một thế giới huy hoàng vĩ đại,
mặc cho mọi kẻ ngốc quyết tâm phá huỷ nó.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.

223
224
Về Osho

Osho sinh ra tại Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn


Độ, vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Từ thiếu thời ông
đã là một tinh thần độc lập và nổi dậy, nhấn mạnh tới
chứng nghiệm chân lí cho chính mình thay vì thu nhận
tri thức và niềm tin do người khác trao lại.
Sau khi chứng ngộ ở tuổi hai mươi mốt, Osho hoàn
thành học tập hàn lâm và dành nhiều năm giảng dạy triết
học tại Đại học Jabalpur. Đồng thời, ông đã du hành
trong toàn Ấn Độ để nói chuyện, thách thức các nhà lãnh
đạo tôn giáo chính thống trong các cuộc tranh luận công
khai, đặt câu hỏi về những niềm tin truyền thống và gặp
gỡ mọi người từ mọi nẻo đường cuộc sống. Ông đọc rất
nhiều, mọi thứ ông có thể tìm thấy để mở rộng hiểu biết
của mình về hệ thống niềm tin và tâm lí của con người
hiện đại.
Đến cuối những năm 1960 Osho đã bắt đầu phát
triển các kĩ thuật thiền động duy nhất của mình. Con
người hiện đại, ông nói, bị quá nặng gánh với những
truyền thống lạc hậu của quá khứ và những lo âu của
cuộc sống hiện đại đến mức người đó phải trải qua quá
trình tẩy rửa sâu sắc trước khi người đó có thể hi vọng
khám phá ra trạng thái thảnh thơi, vô suy nghĩ của thiền.
Trong quá trình làm việc của mình, Osho đã nói về
mọi khía cạnh thực của việc phát triển tâm thức con
người. Ông đã cô đọng tinh hoa của điều có ý nghĩa cho

225
việc truy tìm tâm linh của con người hiện đại, dựa trên
không chỉ hiểu biết trí tuệ mà được kiểm nghiệm lại theo
kinh nghiệm sống của riêng ông.
Ông không thuộc về tín ngưỡng nào cả - “Tôi là
người bắt đầu cho tâm thức tôn giáo hoàn toàn mới,” ông
nói. “Xin đừng gắn tôi với quá khứ - điều đó thậm chí
không đáng nhớ.”
Bài nói của ông cho các đệ tử và người tìm kiếm
tâm linh đã được xuất bản trong hơn sáu trăm năm mươi
tập, và đã được dịch sang hơn bốn mươi ba thứ tiếng. Và
ông nói, “Thông điệp của tôi không phải là học thuyết,
không phải là triết lí. Thông điệp của tôi là giả kim thuật
nào đó, khoa học về biến đổi, cho nên chỉ những ai sẵn
sàng chết như họ hiện tại và được sinh ra lần nữa trong
cái gì đó mới đến mức họ không thể nào hình dung ra
được điều đó ngay bây giờ... chỉ vài người dũng cảm mới
sẵn sàng lắng nghe, vì lắng nghe là sắp nguy hiểm.
“Lắng nghe, bạn đã bước đi bước đầu tiên hướng
tới tái sinh. Cho nên đấy không phải là triết lí mà bạn có
thể chỉ choàng vào người và đi khoác lác về nó. Đấy
không phải là học thuyết mà bạn có thể tìm ra khuây
khoả cho những câu hỏi phiền nhiễu. Không, thông điệp
của tôi không phải là truyền giao bằng lời nào đó. Nó
còn nguy hiểm hơn thế nhiều. Nó không gì khác hơn là
chết và tái sinh.”
Osho rời khỏi thân thể ngày 19 tháng 01 năm
1990. Tâm xã khổng lồ của ông ở Ấn Độ tiếp tục là trung
tâm trưởng thành tâm linh lớn nhất trên thế giới hấp dẫn
hàng nghìn khách thăm quốc tế, người tới để tham dự
vào thiền, liệu pháp, các chương trình sáng tạo, hay chỉ
để chứng nghiệm bản thể trong phật trường.

226
Tâm xã Osho quốc tế

Pune, Ấn Độ
Tâm xã này là trường phái kì diệu cho việc thám
hiểm bên trong. Đó là phiêu lưu lớn lao nhất có đó, và
cũng là lễ hội lớn nhất.
Con đường bạn phải đi qua, bạn sẽ phải đi một
mình; nhưng biết rằng bao nhiêu người cũng đang du
hành một mình sẽ đem lại cho bạn động viên lớn lao.
Một ốc đảo nhỏ mà trong đó cuộc sống đang diễn
ra với tầm nhìn hoàn toàn khác; nơi cuộc sống diễn ra có
mục đích, ý nghĩa, nơi cuộc sống diễn ra có phương
pháp, nơi cuộc sống diễn ra trong tỉnh táo, nhận biết, tỉnh
thức; nơi cuộc sống không phải chỉ là điều ngẫu nhiên,
nơi cuộc sống bắt đầu trở thành ngày một trưởng thành
hơn theo chiều hướng nào đó.
Và đây không phải là tu viện Ấn Độ; đây là tâm xã
quốc tế, nơi gặp gỡ của Đông và Tây. Tâm xã này đại
diện cho toàn bộ loài người, không phải về quá khứ mà
là về tương lai.
Nỗ lực của chúng tôi là để làm cho thiền trở thành
có sẵn cho từng người và mọi người; bất kì ai muốn
thiền, thiền đều sẵn có tương ứng với kiểu của người đó.
Nếu người đó cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi cũng nên là thiền
của người đó. “Ngồi im lặng không làm gì, xuân tới và
cỏ tự nó mọc lên” - đó sẽ là thiền của người đó. Chúng ta
phải tìm ra thật nhiều chiều hướng cho thiền, nhiều như
số người trên thế gian này. Và khuôn mẫu phải đừng quá

227
cứng nhắc, vì không có hai cá nhân nào giống nhau cả.
Đây là cuộc cách mạng. Cá nhân phải không bị gò khít
vào khuôn mẫu; nhưng khuôn mẫu thì phải vừa vặn với
cá nhân. Đó là lí do tại sao bạn thấy có nhiều cách thiền
thế đang diễn ra ở đây. Cách thức thì có thể là hoạt động
hay thụ động, cũng không thành vấn đề gì, mục tiêu là
một: làm sao làm cho bạn thành im lặng đến mức tất cả
mọi suy nghĩ đều biến mất và bạn chỉ còn là tấm gương,
phản chiếu cái đang đấy.

Đa đại học Osho


Trong tâm xã này có ít nhất năm mươi nhóm liệu
pháp đang tiến hành, bởi những lí do nào đó. Đấy chỉ là
cách làm cân bằng lại hàng nghìn năm kìm nén. Đấy chỉ
là để đem lại nhẹ nhàng cho tất cả những cái bạn đã kìm
nén - như người Ki tô giáo, người Hindu giáo, Phật tử.
Nó chỉ hoàn tác lại cái hại của hàng thế kỉ cũ kĩ đã gây
cho bạn. Các nhóm liệu pháp này không phải là cứu
cánh; chúng chỉ chuẩn bị cho bạn để thiền, chứng kiến
thụ động về các ý nghĩ, tình cảm và hành động mà không
đánh giá hay đồng nhất.
Sự bừng sáng của mỗi ngày là việc gặp gỡ vào buổi
tối: một buổi lễ hai giờ với âm nhạc, nhảy múa và thiền
im lặng theo dõi một trong những bài nói của Osho.
“Đấy không phải là bài học; đấy chỉ đơn thuần là
phương tiện để làm cho bạn thành im lặng, vì nếu yêu
cầu bạn phải im lặng không nỗ lực gì, bạn sẽ thấy rất khó
khăn. Tôi đang làm cho bạn im lặng mà không phải nỗ
lực gì về phần bạn cả. Việc nói của tôi trước hết là để
dùng như một chiến lược tạo ra im lặng trong bạn.”

228
Để biết thêm thông tin

http://www.osho.com
Osho Community International
17 Koregaon Park
Pune 411 011 (MS) Ấn Độ
Tel: + 91 (212) 628 562
Fax: + 91 (212) 624 181
Email: osho-community@osho.com
Osho International

410 Park Avenue, 15th Floor,


New York, NY 10022
Tel. +1 212 231 8437
Fax. +1 212 658 9508
http://www.osho.com/oshointernational
Klau Steeg:
klau.steeg@oshointernational.com
Montse Cortazar:
montse.cortazar@oshointernational.com
Office email:
oshointernational@oshointernational.com
Royalties: OshoOffice@oshointernational.com

Đại lí cho Việt Nam là Tuttle Mori Agency, Managing


Dirrector Pimolporn Yutisri
pimolporn@tuttlemori.co.th

Để xem tin tức, trao đổi nói chuyện, xem các trích đoạn và
toàn văn bài nói của Osho, các bạn có thể ghé thăm trang web

229
http://oshovietnam.org

Để xem những trích đoạn mới nhất của sách Osho các bạn có
thể theo dõi trên Facebook:

https://www.facebook.com/OshoFansVietnam?ref=hl

Để xem một số bản dịch tiếng Việt của sách Osho, các bạn có
thể vào trang web:

http://oshovietnam.wordpress.com/

230
Về tác giả

Osho thách thức các phân loại. Hàng nghìn bài nói
của ông bao quát mọi điều từ cuộc truy tìm cá nhân về ý
nghĩa cho tới những vấn đề xã hội và chính trị khẩn thiết
nhất mà xã hội ngày nay đang đối diện. Sách của Osho
không được viết ra mà được dỡ ra từ các bản ghi âm
thanh và video về các bài nói ngẫu hứng của ông cho
khán giả quốc tế. Như ông đã nói điều đó, “Vậy nhớ lấy:
bất kì điều gì tôi đang nói cũng không chỉ là cho bạn...
tôi cũng đang nói cho các thế hệ tương lai.”
Osho đã được tờ Sunday Times ở London mô tả là
một trong “1000 người làm nên thế kỉ 20” và được tác
giả người Mĩ Tom Robbins mô tả là “con người nguy
hiểm nhất từ Jesus Christ.” Tờ Sunday Mid-Day (Ấn Độ)
đã chọn Osho là một trong mười người - cùng với
Gandhi, Nehru và Phật - những người đã làm thay đổi
định mệnh của Ấn Độ.
Về công trình riêng của mình Osho đã nói rằng ông
đang giúp để tạo ra hoàn cảnh cho sự ra đời của một loại
con người mới. Ông thường đặc trưng con người mới là
“Zorba Phật” - có khả năng vừa tận hưởng vui thú trần
gian của Zorba người Greek và trung thực im lặng của
Phật Gautama.
Chạy như sợi chỉ xuyên suốt mọi khía cạnh của các
bài nói và thiền của Osho là viễn kiến bao quát cả trí huệ

231
vô thời gian của mọi thời đại quá khứ và tiềm năng cao
nhất của khoa học và công nghệ ngày nay (và ngày mai).
Osho được biết tới từ đóng góp cách mạng của ông
cho khoa học về biến đổi bên trong, với cách tiếp cận tới
thiền thừa nhận nhịp độ tăng tốc của cuộc sống đương
đại. Thiền Động duy nhất của OSHO được thiết kế để
đầu tiên xả ra những căng thẳng tích luỹ của thân thể và
tâm trí, để cho dễ dàng hơn lấy kinh nghiệm về tĩnh lặng
và thảnh thơi vô suy nghĩ trong cuộc sống thường ngày.
Hai công trình tiểu sử bởi chính tác giả nay sẵn có
là:
Autobiography of a Spiritually Incorrect Mystic,
Glimpses of a Golden Childhood

www.biography.osho.com

232
Sách Osho đã dịch sang tiếng Việt

Số Tên sách Năm


1. Con đường tôi con đường của mây trắng 1997
2. Biến chuyển Mật tông 1997
3. Ngón tay chỉ trăng 1997
4. Thiền là gì? 1997
5. Đi tìm điều huyền bí, t.2 1998
6. Thiền: Tự do đầu tiên và cuối cùng 1998
7. Kinh Kim Cương 1998
8. Tôi là lối cổng 1998
9. Nhịp đập của tuyệt đối 1998
10. Tâm Kinh 1998
11. Mưa rào không mây 1999
12. Nhạc cổ trong rặng thông 1999
13. Dhammapada: Con đường của Phật - t.1 1999
14. Thuyền rỗng 1999
15. Tín Tâm Minh: Sách về cái không 1999
16. Từ dục tới Siêu tâm thức 1999
17. Từ Thuốc tới Thiền 1999
18. Cương lĩnh Thiền: Tự do với chính mình 2000
19. Vô trí: Hoa của vĩnh hằng 2000
20. Bồ đề đạt ma: Thiền sư vĩ đại nhất 2000
21. Và hoa đã mưa xuống 2000
22. Đạo: Ba kho báu - t.1 2001
23. Kinh nghiệm Mật tông 2001
24. Bản kinh cuối cùng - t.6 2001
25. Chiều bên kia cái biết 2001
26. Kỉ luật của siêu việt - t.3 2002
27. Con đường bên ngoài mọi con đường 2002
28. Không nước không trăng 2002
29. Om Mani Padme Hum 2002
30. Nam Tuyền: Điểm khởi hành 2003

233
Số Tên sách Năm
31. Triệu Châu: Tiếng gầm của sư tử 2003
32. Mã Tổ: Gương rỗng 2003
33. Lâm Tế: Bậc thầy của điều phi lí 2003
34. Bách Trượng Huệ Hải: Đỉnh Everst của 2003
Thiền
35. Qui Sơn: Không dấu chân trên trời xanh 2003
36. Ngưỡng Sơn: Con người thực của Thiền 2004
37. Đạo Nguyên Thiền sư: Tìm kiếm và hoàn 2004
thành
38. Dược Sơn: Thẳng tới điểm chứng ngộ 2004
39. Đi tìm điều huyền bí - t.1 2004
40. Dhammapada: Con đường của Phật - t.2 2004
41. Từ Thuốc tới Thiền (chỉnh lí) 2004
42. Trưởng thành: Trách nhiệm là chính mình 2005
43. Sáng tạo: Khơi nguồn sức mạnh bên trong 2005
44. Dũng cảm: Vui sống hiểm nguy 2005
45. Dược khoa cho linh hồn 2005
46. Cân bằng thân tâm 2005
47. Ta là cái đó 2006
48. Tình yêu, tự do, một mình 2006
49. Dhammapada: Con đường của Phật - t.3 2006
50. Kỉ luật của siêu việt - t.1 2006
51. Kỉ luật của siêu việt - t.2 2006
52. Kỉ luật của siêu việt - t.4 2007
53. Vui vẻ: Hạnh phúc từ bên trong 2007
54. Chuyến bay của một mình tới một mình 2007
55. Nhận biết: Chìa khoá sống trong cân bằng 2007
56. Tự do: Dũng cảm là bản thân mình 2007
57. Dhammapada: Con đường của Phật - t.4 2007
58. Trực giác: Việc biết bên ngoài logic 2007
59. Dhammapada: Con đường của Phật - t.5 2008
60. Dhammapada: Con đường của Phật - t.6 2008
61. Thân thiết: Tin cậy bản thân mình và người 2008

234
Số Tên sách Năm
khác
62. Dhammapada: Con đường của Phật - t.7 2008
63. Từ bi: Việc nở hoa tối thượng của tình yêu 2008
64. Đạo: lịch sử và giáo huấn 2008
65. Dhammapada: Con đường của Phật - t.8 2009
66. Dhammapada: Con đường của Phật - t.9 2009
67. Cuộc sống, tình yêu, tiếng cười 2009
68. Dhammapada: Con đường của Phật - t.10 2009
69. Dhammapada: Con đường của Phật - t.11 2009
70. Dhammapada: Con đường của Phật - t.12 2009
71. Đạo: Ba kho báu - t.2 2010
72. Đạo: Ba kho báu - t.3 2010
73. Đạo: Ba kho báu - t.4 2010
74. Đạo: Đường vô lộ - t.1 2011
75. Đạo: Đường vô lộ - t.2 2011
76. Đạo: Cổng Vàng - t.1 2012
77. Đạo: Cổng Vàng - t.2 2012
78. Cỏ tự nó mọc lên 2012
79. Yoga: Alpha và Omega - t.1 2012
80. Yoga: Alpha và Omega - t.2 2012
81. Yoga: Alpha và Omega - t.3 2012
82. Yoga: Alpha và Omega - t.4 2012
83. Yoga: Alpha và Omega - t.5 2012
84. Yoga: Alpha và Omega - t.6 2012
85. Yoga: Alpha và Omega - t.7 2013
86. Yoga: Alpha và Omega - t.8 2013
87. Yoga: Alpha và Omega - t.9 2013
88. Yoga: Alpha và Omega - t.10 2013
89. Bí mật của các bí mật - t.1 2013
90. Bí mật của các bí mật - t.2 2013
91. Sen trắng 2014
92. Tương lai vàng - t.1 2014
93. Tương lai vàng - t.2 2014

235
Số Tên sách Năm
94. Tìm trâu 2014
95. Khi giầy vừa 2014
96. Sống Thiền 2014
97. Nguyên lí thứ nhất 2014
98. Thầy hoàn hảo - t.1 2015
99. Thầy hoàn hảo - t.2 2015
100. Ngỗng ở ngoài 2015
101. A cái này 2015
102. Sét đánh bất thần 2015
103. Chim tung cánh 2015
104. Ngôn ngữ của sự tồn tại 2016
105. Niết bàn ác mộng cuối 2016
106.
107.
108.
109.
110.

236

You might also like