You are on page 1of 81

GIÁO TRÌNH

NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH


Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH

1.1.Một số khái niệm cơ bản


1.1.1. Nghệ thuật

Từ điển tiếng Việt(TĐTV) cho rằng “Nghệ thuật là danh từ, có hai nghĩa: “1.
Hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để
phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng
hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu
tính sáng tạo. Nghệ thuật lãnh đạo”(84, tr. 654)

Với nghĩa 1, “Nghệ thuật” là thuật ngữ chỉ chung cho các loại hình nghệ
thuật, thuộc hình thái ý thức xã hội (thuộc lĩnh vực tinh thần, thượng tầng kiến trúc,
phân biệt với hình thái vật chất, hạ tầng cơ sở xã hội.). Nghệ thuật “đặc biệt” ở chỗ
“dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt
tư tưởng, tình cảm”. Đây là đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt với các hình thái ý
thức xã hội khác cũng “ phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm” nhưng
bằng công thức, triết lý, khẩu hiệu, mệnh lệnh... lạnh lùng, khô khan. Kiến trúc,
Điêu khắc, Hội hoạ, Văn học, Nhiếp ảnh, Sân khấu, Điện ảnh, Âm nhạc, Múa v.v...
đều thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, bởi chúng giống nhau ở chỗ “dùng hình tượng
sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình
cảm”. Tuy nhiên Kiến trúc, Điêu khắc, Hội hoạ... phản ánh hiện thực và truyền đạt
tư tưởng, tình cảm sinh động, cụ thể và gợi cảm khác nhau, đó chính là đặc trưng
ngôn ngữ của các loại hình nghệ thuật.

1.1.2. Tạo hình

TĐTV giải nghĩa “tạo hình” là động từ :“Tạo ra các hình thể bằng đường nét,
màu sắc, hình khối” (84,tr.860). Đây là cách hiểu đúng nghĩa khái quát của từ “tạo
hình”, trên cơ sở ý nghĩa của từng đơn vị cấu tạo (tạo, hình). Bằng kinh nghiệm và
hiểu biết củả mình, chúng ta đều thấy, không một sáng tạo của cải vật chất nào mà
3
không phải là sản phẩm tạo hình, bởi lẽ, vật chất luôn luôn tồn tại ở dạng hình khối
và màu sắc. Tuy nhiên, vật chất là chung cả của thế giới tự nhiên và xã hội, cho cả
loài người và loài vật. Vậy, hoạt động và sản phẩm tạo hình nào thuộc về nghệ thuật
?

1.1.3.Nghệ thuật tạo hình(NTTH)

NTTH là nghệ thuật sáng tạo hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm bằng
đường nét, màu sắc, hình khối.
Với cách hiểu này, ta phân biệt NTTH với những nghệ thuật không phải “tạo
hình” như Âm nhạc, văn, thơ…(khác nhau ngôn ngữ biểu hiện). Đồng thời ta cũng
phân biệt dược những hoạt động tạo hình nhưng không thuộc về lĩnh vực nghệ
thuật(chung ngôn ngữ biểu đạt nhưng khác về chủ thể, đối tượng, mục đích, hiệu
quả, bản chất thẩm mỹ…). Ví dụ: động Phong Nha, động Thiên Đường trong quần
thể khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha – Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình là kỳ quan
thiên nhiên thế giới nhìn từ góc độ cái đep tạo hình: hình thù kỳ thú, sắc màu huyền
ảo, nhưng là của thiên nhiên, chủ thể sáng tạo ra nó là “tạo hóa”… Đèn xanh đèn đỏ
- tín hiệu giao thông – có chung ngôn ngữ tạo hình, do con người làm ra, nhưng
không xếp vào tác phẩm nghệ thuật tạo hình…

1.1.4. Mỹ thuật (MT)

MT và NTTH là hai tên gọi khác nhau của một ngành, một lĩnh vực nghệ
thuật: nghệ thuật sáng tạo cái đẹp bằng điểm. nét, hình, mảng, khối, màu sắc. Có
nhiều cách định nghĩa khác nhau về MT. Sau đây là một số cách hiểu chúng tôi nêu
ra để cùng tham khảo :
+ TĐTV cho rằng, MT có hai nghĩa: 1.(danh từ) “ Ngành nghệ thuật nghiên cứu
quy luật và phương pháp sáng tạo cái đẹp bằng đường nét, màu sắc, hình khối”. 2.
(tính từ) “ Đẹp, khéo, hợp với thẩm mỹ” (84,tr.609).
Với nghĩa 1 của định nghĩa này thì MT là một ngành của nghệ thuật nói chung,
có nhiệm vụ là nghiên cứu quy luật và phương pháp sáng tạo cái đẹp
bằng đường 4
nét, màu sắc, hình khối. Đường nét, màu sắc, hình khối là ngôn ngữ đặc thù của MT.
+ Giáo trình Mỹ thuật, Dùng cho ngành Giáo dục tiểu học Hệ đào tạo Tại
chức và Từ xa của Nguyễn Quốc Toản cũng cho rằng “có nhiều cách hiểu về mĩ
thuật, mỗi cách diễn giải theo lối riêng” và đã “giới thiệu tóm lược” bốn cách hiểu –
bốn cách diễn giải “để tham khảo”:
1. Diễn giải theo cách diễn tả
Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật tạo nên các tác phẩm trên mặt phẳng (tranh...)
bằng đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt; trong không gian (tượng...) bằng
hình khối, sáng tối, đậm nhạt. Mĩ thuật sử dụng nhiều chất liệu khác nhau như: giấy,
chì, các loại màu, vải, sợi (hội hoạ, trang trí); đất, thạch cao, đá, gang, đồng, xi
măng...(điêu khắc), cao su, đồng, nhôm...(tranh khắc, tranh gò). Có thể nói vắn tắt:
Mĩ thuật là nghệ thuật của mặt phẳng, của không gian.
2. Diễn giải theo cấu trúc nội dung
Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật gồm có các ngành cơ bản như: hội hoạ,
điêu khắc, kiến trúc, mĩ thuật ứng dụng.
3. Diễn giải theo chức năng, tác dụng, đặc điểm
Mĩ thuật là nghệ thuật của con mắt – nghệ thuật của thị giác (nhìn, nhận ra cái
đẹp bằng con mắt). Cũng như nói âm nhạc là nghệ thuật của tai – nghệ thuật của
thính giác (nghe thấy cái hay, cái đẹp bằng tai).
4. Diễn giải theo ngữ nghĩa
Theo hoạ sĩ lão thành Nguyễn Phan Chánh, mĩ thuật là cách tạo ra cái đẹp.
Cách diễn đạt này ngầm nói là có nhiều cách tạo ra cái đẹp, tuỳ thuộc vào khả năng
tư duy, sáng tạo, thị hiếu thẩm mĩ và cảm thụ của người tạo nên nó. Cũng như vậy,
cách diễn đạt này còn làm sáng tỏ hơn cho phương pháp dạy – học mĩ thuật ở phổ
thông: dạy cho học sinh cách tạo ra cái đẹp theo khả năng, ý thích của mình chứ
không áp đặt, rập khuôn, sao chép theo một công thức chung nào đó.”( 23,Tr 6,7)

5
+ Mĩ thuật và phương pháp dạy học, tập một, Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu
học CĐSP và SP12+2 của Trịnh Thiệp và Ưng Thị Châu cho rằng: “ Mĩ thuật là một
nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người
(mĩ là đẹp, thuật là cách thức, phương pháp). Những gì trong giới tự nhiên và trong
đời sống xã hội đem lại sự thích thú, sự khoái cảm đều được coi là cái đẹp như :
cảnh đẹp chùa Tây Phương, chùa Hương Tích, một công trình kiến trúc đẹp, một tác
phẩm hội hoạ, điêu khắc đẹp v.v...”(52,tr.5)
Cách nêu khái niệm MT trên đây, phán đoán đầu (“Mĩ thuật là một nghệ thuật tạo ra
cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người”) là đúng nhưng
chưa đủ, bởi vì nó chung cho mọi nghệ thuật. Còn “(mĩ là đẹp, thuật là cách thức,
phương pháp)”, và “Những gì trong giới tự nhiên và trong đời sống xã hội đem lại
sự thích thú, sự khoái cảm đều được coi là cái đẹp như : cảnh đẹp chùa Tây Phương,
chùa Hương Tích, một công trình kiến trúc đẹp, một tác phẩm hội hoạ, điêu khắc
đẹp v.v” với hàm ý giải thích trực tiếp, khẳng định tính xác thực của phán đoán trên
thiết nghĩ cũng chưa thuyết phục. Bởi lẽ, “mỹ là đẹp”- mà “đẹp” còn đồng nghĩa với
“tốt”-“thiện” là cũng rất chung; còn như “trong giới tự nhiên và trong đời sống xã
hội” thì lại có vô số điều “ đem lại sự thích thú, sự khoái cảm” cho chúng ta chứ đâu
chỉ dừng ở “cảnh đẹp chùa Tây Phương, chùa Hương Tích, một công trình kiến trúc
đẹp, một tác phẩm hội hoạ, điêu khắc đẹp v.v”, ví dụ : một câu thơ hay, một giọng
hò dịu ngọt, một điệu múa cổ, một vở kịch hiện đại v.v... Nếu như vậy, tất cả đều là
MT thì không còn ranh giới giữa các loại hình nghệ thuật hay sao ?
Dẫu biết rằng, mọi định nghĩa, mọi sự khái quát, mọi cách diễn giải chỉ mang
tính tương đối trong thao tác của tư duy logic. Mỗi người hiểu khái niệm mỹ thuật
theo cách riêng, trên cơ sở vốn sống, vốn hiểu biết của mình. Nhưng dù diễn đạt thế
nào thì cũng cần phải đưa ra được hai ý :1.MT mang đặc điểm của nghệ thuật nói
chung, 2. MT có đặc trưng của mình.
Có thể có các cách hiểu MT như sau :

6
- MT là nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hình tượng sinh động,
cụ thể, gợi cảm, thông qua điểm, nét, hình, mảng, khối, màu sắc.
- MT là nghệ thuật sáng tạo cái đẹp bằng điểm, nét, hình, mảng, khối và màu
sắc.
- MT là Nghệ thuật tạo hình
1.1.5. Loại hình NTTH

- TĐTV định nghĩa loại hình là “Tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung
những đặc trưng cơ bản nào đó” (84, tr 553).
Từ định nghĩa này, có thể suy ra: loại hình NTTH là tập hợp các loại NTTH cùng có
chung những đặc trưng cơ bản nào đó.
Lâu nay NTTH được phân thành các loại hình (đồng nghĩa với các ngành) sau: a.
Điêu khắc: “Loại hình nghệ thuật gợi tả hoặc thể hiện sự vật trong không
gian bằng cách sử dụng các chất liệu như : đất, đá, gỗ, kim loại, v.v., tạo thành
những hình nhất định” (84, tr310)
b. Kiến trúc: “Nghệ thuật thiết kế, trang trí nhà cửa” (84, tr 505).
c. Hội hoạ: “Nghệ thuật dùng đường nét, màu sắc để phản ánh thế giối hình
thể lên mặt phẳng” (84, tr 444).
d. Đồ hoạ: “Nghệ thuật tạo hình nên những tác phẩm có thể làm nhiều phiên
bản” (84, tr 322).
1.2.Ngôn ngữ tạo hình
Thuật ngữ “Ngôn ngữ” trước hết là để chỉ lời nói của con người (ngôn ngữ
âm thanh) là công cụ của tư duy, đồng thời là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của loài người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người trao đổi tư tưởng tình cảm, kinh
nghiệm trong quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh sinh tồn. Ngôn ngữ gắn bó cộng
đồng gia đình, dân tộc, nhân loại. Cũng từ đó, có cách nói: ngôn ngữ tạo hình (ngôn
ngữ mỹ thuật), ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ hội hoạ v.v... là để

7
nói công cụ, phương tiện truyền tải nội dung tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người
nghệ sĩ trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật ấy.
Ngôn ngữ tạo hình là công cụ, phương tiện xây dựng hình tượng thẩm mỹ thị
giác, phản ánh cuộc sống, truyền tải tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người sáng
tác. Công cụ, phương tiện đó là: điểm, nét, hình, mảng, khối, màu sắc, bố cục.
Cũng như ngôn ngữ âm thanh của loài người, ngôn ngữ tạo hình gồm một hệ
thống các đơn vị, từ đơn vị bậc thấp đến bậc cao. Các đơn vị này vừa cụ thể vừa
khái quát, vừa có giá trị tự thân vừa có giá trị trong hệ thống, và chủ yếu là giá trị
trong hệ thống (giá trị kết cấu, cấu trúc, bố cục)... Có thể biểu diễn cấp độ, quan hệ
giữa các đơn vị đó như sau:

Điểm Nét Hình Mảng Khối

Màu

Bố cục

1.2.1. Điểm
Điểm là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ tạo hình. Điểm
đồng nghĩa với "chấm". Điểm có vai trò tạo nét, tạo hình, mảng, khối. Điểm có giá
trị tạo hình. Ý nghĩa phản ánh, tạo hình của điểm chỉ nảy sinh trong cấu trúc, bố cục
hình tượng thẩm mỹ, cũng có nghĩa là giá trị của điểm nảy sinh trong quan hệ giữa
điểm với điểm (to/nhỏ, đậm/nhạt, dày/thưa...) và điểm với nét, hình, khối và màu
sắc.
1.2.2. Nét
Nét là kết quả sự tịnh tiến liên tục của điểm trong không gian. Các điểm cấu
thành nét chỉ liền kề nhau chứ không cắt nhau, điểm đầu đến điểm cuối không gặp

8
nhau. Dựa vào cấu tạo, có hai loại nét cơ bản là nét thẳng và nét cong (nét không
thẳng).
- Nét thẳng:
Nét thẳng là nét mà các điểm cấu thành nó trong quá trình tịnh tiến, từ khởi điểm
(A) đến chung điểm (B) luôn nằm trên một đường thẳng.
Có thể phân nét thẳng làm nhiều nhóm loại, tùy theo tiêu chí khác nhau:
- Nét thẳng đứng, nét thẳng xiên, nét thẳng ngang
- Nét thẳng thanh, nét thẳng đậm, nét thẳng nhạt...
- Nét thẳng đen, nét thẳng đỏ, nét thẳng lam, nét thẳng lục...
- Nét thẳng ngắn, nét thẳng dài...

Nét thẳng tự nó thẳng, cứng, gợi cảm giác thẳng thắn, cứng rắn, dứt khoát,
rạch ròi...
- Nét cong:
Nét cong là nét mà các điểm cấu thành nó trong quá trình tịnh tiến, từ điểm
đầu đến điểm cuối không nằm trên một đường thẳng. Có thể phân nét cong làm
nhiều nhóm loại, tùy theo tiêu chí khác nhau:

9
- Nét cong đứng, nét cong xiên, nét cong ngang
- Nét cong thanh, nét cong đậm, nét cong nhạt...
- Nét cong đen, nét cong đỏ, nét cong lam, nét cong lục...
- Nét cong ngắn, nét cong dài...
- Nét cong cứng, nét cong mềm.

Nét không thẳng tự nó cong, gảy khúc..., gợi cảm giác hoặc mềm mại, uyển
chuyển nhẹ nhàng, hoặc gập ghềnh, khúc khuỷu...
1.2.3. Hình
Hình là là kết quả sự khép kín của nét, khi điểm đầu và điểm cuối của nét gặp
nhau. Đó là chu vi, đường viền bao quanh vật thể.
Nét tạo nên hình. Khép kín các nét ta có hình - chu vi. Từ hai loại nét điển hình
(nét thẳng và nét cong) ta có các hình cơ bản, khái quát. Hai hình cơ bản, điển hình
là hình vuông, hình tròn. Trong tâm thức người Việt, vuông tròn là trọn vẹn, đầy đủ,
hoà hợp lý tưởng, tốt lành như ý. Người Việt quan niệm “trời tròn đất vuông”, chúc
(cầu mong) “mẹ tròn con vuông”... là có cơ sở văn hoá của mình.

10
Hình vuông gợi cảm giác vững chải, chắc chắn trên mặt bằng, hình tròn gợi cảm
giác động, dịch chuyển nhưng ổn định bởi sự hướng tâm...
Các biến thể của vuông tròn là hình chữ nhật, hình tam giác, hình tứ giác, hình
bầu dục...Hình của sự vật, đối tượng trong thực tế vô cùng phong phú, đa dạng
nhưng chung quy lại đều tồn tại ở dạng các hình cơ bản này.
1.2.4. Mảng
Mảng là diện tích, bề mặt vật thể. Mảng cũng là kết quả cấu thành của các điểm
trên bề mặt vật thể.
Tô màu lên hình ta có mảng màu. Không mảng màu nào mà không có hình. Có
nghĩa là mọi mảng màu đều có diện tích, đều có chu vi.
Thuật ngữ tạo hình có từ ghép “hình mảng” là vì thế .

11
1.2.5. Khối: . Khối trước tiên là nói về vật thể chiếm chỗ trong không gian ba
chiều. Mọi sự vật tồn tại trong tự nhiên và xã hội đều tồn tại ở dạng khối.
Mỗi một sự vật, ta vừa nhận biết khối tổng thể, vừa nhận biết khối của từng bộ
phận. Sông núi, mây trời, hoa lá, cỏ cây, nhà cửa, đồ đạc,...tất cả đều tồn tại ở dạng
khối, và ta có thể quy chúng về khối cơ bản.
Hình, mảng tạo nên khối. Khối cũng là kết quả cấu thành của các điểm (hạt)
trong không gian. Tiếp tục vẽ, ghép nối các hình cơ bản, ta có các khối cơ bản là
khối lập phương, khối cầu và các biến thể của chúng như khối chữ nhật, khối chóp,
khối tam giác, khối trụ...

12
Khối lập phương gợi cảm giác vững chải khi một mặt tiếp đất, khối cầu gợi
cảm giác động nhưng ổn định. Các khối hình học khác cũng đều gợi những cảm giác
nhất định trên cơ sở thế dáng, chiều hướng, điểm, diện tiếp xúc, trong trường liên
tưởng, kinh nghiệm nào đó.
1.2.5. Màu

Cùng với đường nét, hình khối là màu của sự vật.


Màu là: “Thuộc tính vật thể hiện ra nhờ tác động của ánh sáng và nhận biết
được bằng mắt, cùng với hình dáng giúp phân biệt vật này với vật khác.” (84,
tr.592). Mọi sự vật tồn tại đều ở dạng khối và có màu. Trong thực tế, chúng ta nhận
biết, phân biệt được mọi sự vật là nhờ xúc giác, thị giác. Thị giác (mắt nhìn) bình
thường, phân biệt màu của sự vật phải kèm theo điều kiện có ánh sáng.
Không có ánh sáng thì không phân biệt được màu. Thành ngữ “ Tắt đèn nhà
tranh như nhà ngói” hay “Mặc áo gấm đi đêm”, thể hiện kinh nghiệm dân gian về
vai trò của ánh sáng đối với màu sắc - xét ở góc độ tạo hình. Có ba điều kiện tiên
quyết, đồng thời để nhận biết màu là: ánh sáng, mắt nhìn, vật thể.

13
Màu khi là yếu tố (đơn vị, bộ phận) trong hệ thống các yếu tố ngôn ngữ tạo
hình là màu chất liệu. Màu chất liệu là khoáng chất tự nhiên có thuộc tính lý hóa về
màu, được chế tác để sử dụng trong cuộc sống và sáng tác mỹ thuật.
Sau đây là một số yêu cầu kiến thức và kỹ năng cơ bản về màu chát liệu.
- Màu gốc:
Màu gốc là màu khoáng chất tự nhiên đầu tiên, từ đó ta có thể điều chế thành
các màu khác.
Màu gốc gồm: Đỏ - Vàng – Lam
Theo cách pha trộn từng cặp màu gốc với tỉ lệ 1/1, ta được 3 màu mới :
- Đỏ + Vàng = Cam
- Đỏ + lam = Tím
- Vàng + Lam = Lục

Ba màu Cam, Lục, Tím là sản phẩm – con đẻ của từng căp màu gốc, bởi vậy,
chúng mang thuộc tính màu gốc. Nếu tiếp tục pha trộn màu mới với một trong hai
màu gốc tạo ra chúng, ta lại có thêm màu mới có thuộc tính (tính trội) nghiêng về
một màu gốc. ví dụ: màu Cam trộn thêm màu Đỏ, tùy vào tỉ lệ pha trộn mới mà ta

14
có Cam đỏ, Đỏ cam; màu Cam trộn thêm màu Vàng, tùy tỉ lệ mà ta có Cam vàng,
Vàng cam... Như vậy, từ hai màu gốc, ta có thể tạo ra nhiều màu mới cùng thuộc
tính gần gũi.
- Màu bổ túc:
Màu bổ túc là màu tăng cường độ cho nhau. Một màu gốc và một màu mới
không cùng thuộc tính được xem là một cặp màu bổ túc. Có 3 cặp màu bổ túc:
- Đỏ - Lục
- Vàng - Tím
- Lam - Cam
Các cặp màu trên khi chúng được đặt cạnh nhau đều tôn nhau lên, làm rực rỡ
nhau hơn, khác với khi chúng đặt cạnh những màu khác.

15
Còn khi trộn lẫn các màu bổ túc với nhau thì chúng phá nhau, tạo thành hợp
chất màu nâu, xám.
- Màu trung tính:
Màu trung tính là màu có tính chất trung hòa.
Hai màu Đen và Trằng được xem là màu trung tính. Đen và Trắng pha trộn
được với tất cả các màu, làm thay đổi sắc độ (đen đậm thêm hoặc trắng nhạt đi) chứ
không thay đổi thuộc tính bản chất ban đầu của các màu được trộn.

- Màu nóng/ lạnh:


Màu nóng, màu lạnh (còn được gọi là gam nóng, gam lạnh) là nhìn nhận màu
theo cảm giác tâm lý. Ví dụ, trong bảng màu chất liệu, màu đỏ gợi cảm giác nóng
nực, màu lam gợi cảm giác mát mẻ. Nóng lạnh về màu cũng chỉ là tương đối. Màu
vàng lạnh hơn so với màu đỏ nhưng lại nóng hơn so với màu lục, màu lam; màu tím
nóng ấm hơn so với màu chàm...

16
Nói gam nóng, gam lạnh là nói chủ yếu dùng màu nóng hay màu lạnh trong
một tác phẩm mỹ thuật (Hội họa, Đồ họa...).

17
1.3. Một số họa sĩ tiêu biểu của Việt nam

1.3.1. Họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910 – 1994)

Trần Văn Cẩn sinh ngày 13/8/1910 tại Kiến An, Hải Phòng, mất năm 1994 tại
Hà Nội. Ông học khóa VI (1931-1936)Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Trần Văn Cẩn là một trong “bộ tứ” danh họa hàng đầu của nền mỹ thuật hiện đại
Việt Nam: “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân,
Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn).

Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Văn Cẩn cùng nhiều họa sĩ khác
dựng hàng chục tranh cổ động quanh hồ Hoàn Kiếm. Bức "Nước Việt Nam của
người Việt Nam" của Trần Văn Cẩn đã được căng trên toà nhà Địa ốc ngân hàng
(nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).

Năm 1946, triển lãm mỹ thuật toàn quốc lần đầu tiên dưới chế độ mới được
mở tại Hà Nội. Bức "Xuống đồng" của Trần Văn Cẩn đã được trao giải nhất và được

18
Hội Văn hóa Cứu quốc mua, cùng với bức "Bác Hồ làm việc ở Bắc bộ phủ" của Tô
Ngọc Vân và "Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh" của Nguyễn Đỗ Cung.

Tháng 7/1948, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc, Trần Văn Cẩn được bầu vào
Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam.

Tháng 6/1954, Trần Văn Cẩn đảm nhiệm Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt
Nam ( thay hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã mất 1954), và giữ cương vị này trong 15 năm
(1954 -1969). Với những đóng góp to lớn, Trần Văn Cẩn đã được trao nhiều huân
chương cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng nhất. Ông được truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).

Năm 2010, một con phố thuộc khu đô thị Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội
được đặt tên Trần Văn Cẩn

Gội đầu (khắc gỗ màu của Trần Văn Cẩn)

19
Em Thúy (sơn dầu của Trần Văn Cẩn)

1.3.2. Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892 – 1984)

20
Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892 tại thôn Tiền Bạt, xã
Trung Tiết, huyện Thạch Hà nay là phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922 ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Ba ở lại Huế dạy học.
Nguyễn Phan Chánh là sinh viên khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương (1925-1930). Năm 1928, ông bắt đầu sáng tác các tranh sơn dầu: "Mẹ
bầy cho con đan len", "Hai vợ chồng người nông dân trục lúa",và cũng năm nay ông
bắt đầu học vẽ trên lụa Vân Nam và đã thành công.

Năm 1931, Nguyễn Phan Chánh sáng tác tranh lụa "Chơi ô ăn quan" cùng
một số họa phẩm khác như "Cô gái rửa rau", "Em bé cho chim ăn", "Lên đồng".
Cũng năm này tại triển lãm Paris, Pháp một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đã
được Giám đốc Victor Tardieu mang về Pháp giới thiệu. Lần đầu tiên công chúng
Pháp biết tranh lụa Việt Nam qua bút pháp Nguyễn Phan Chánh. Họa báo
L'Illustration xuất bản ở Paris số Noel 1932 đã giới thiệu 4 bức tranh này của hoạ sĩ.
Một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đã được trưng bày ở Milan (Ý) năm 1934,
ở San Francisco (Mỹ) năm 1937, ở Tokyo (Nhật Bản) năm 1940. Sau cuộc triển lãm
ở Paris, hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh được coi là người đặt nền tảng cho tranh lụa
hiện đại Việt Nam.

Năm 1933, ông tham gia bày tranh ở Địa ốc Ngân hàng Hà Nội và triển lãm
cá nhân lần thứ nhất ở Hà Nội. Năm 1935, ông tham gia triển lãm do Hội Chấn
hưng Mỹ thuật và Kỹ nghệ (SADEAI) tổ chức lần thứ nhất tại Hà Nội. Năm 1938,
ông tham gia triển lãm do SADEAI tổ chức lần thứ 2 tại Hà Nội, cũng năm nay ông
tổ chức triểm lãm cá nhân lần thứ 2 tại Hà Nội với các tác phẩm tiêu biểu: "Đôi
chim bồ câu", "Chăn trâu trong rừng", "Đi chợ", "Tắm cho trâu", "Đi lễ chùa". Năm
1939, tại quê ông đi vẽ ảnh "Đền làng", "Cầu ao", "Xóm Chài", "Hui thuyền",
"Thuyền đánh cá", và cũng trong năm đấy Nguyễn Phan Chánh gửi sang Pháp
những tranh cỡ lớn "Mùa đông đi cấy", "Chim sổ lồng", "Chị em đùa cá", "Công
chúa hoa dâm bụt" cùng một số tác phẩm khác.
21
Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Phan Chánh là Ủy viên Thường vụ Hội Văn
hóa Cứu quốc của tỉnh. Trong thời gian này ông đã vẽ nhiều chân dung lãnh tụ và
chiến sĩ cộng sản như: Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai,
Trần Phú. Trong chín năm tham gia kháng chiến, họa sĩ đã vẽ tranh tuyên truyền cổ
động: "Em bé tẩm dầu", (1946), "Phá kho bom giặc" (1947), "Lội suối", (1949).

Năm 1955, Nguyễn Phan Chánh trở về Hà Nội, làm giảng viên hội họa
Trường Đại học Mỹ thuật trong vài năm. Năm 1957, ông được bầu vào Ban Chấp
hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá I. Năm 1962, ông là Đại biểu Đại hội liên hoan A
nh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III.

Nguyễn Phan Chánh sáng tác tác phẩm đầu tiên về đề tài kháng chiến chống Mỹ,
"Sau giờ trực chiến" (1967), tiếp đó là "Trăng tỏ" (lụa, 1968), "Chiều về tắm cho
con" (1969), "Trăng lu" (lụa, 1970). Trong những ngày máy bay Mỹ ném bom Hà
Nội, phòng tranh mừng hoạ sĩ 80 tuổi vẫn được mở tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam, sau đó bày tại 10 Nguyễn Cảnh Chân, Hà Nội. Năm 1973, Nguyễn Phan
Chánh sáng tác những tác phẩm cuối cùng về đề tài tắm: "Tiên Dung tắm", "Tiên
Dung và Chử Đồng Tử", "Lội suối" và bức sau cùng là "Kiều tắm". Năm 1974, ông
dự triển lãm tranh tượng về đề tài lực lượng vũ trang với tác phẩm "Sau giờ trực
chiến" (lụa).

Tháng 8 và tháng 9 năm 1982, mừng thọ hoạ sĩ 90 tuổi, Bộ Văn hoá Việt
Nam cùng Bộ Văn hoá Tiệp Khắc, Bộ Văn hoá Hungary tổ chức triển lãm 47 tác
phẩm của các thời kỳ sáng tác của Nguyễn Phan Chánh tại Praha, Bratislava,
Budapest, Bucharest. Tháng 7 năm 1983, phòng tranh Nguyễn Phan Chánh được
trưng bày tại Viện Bảo tàng Phương Đông ở Moskva.

Nguyễn Phan Chánh mất ngày 22 tháng 11 năm 1984 tại Hà Nội và được an
táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.

22
Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Phan Chánh được mời
tham gia giảng dạy Mỹ thuật tại một số trường học, trong đó có Trường Bưởi và
Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1955). Ông đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ họa
sĩ Việt Nam sau này.

Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp
đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về
số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Lao động hạng 3,
Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất. Ông được truy
tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.

Một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh:

Chơi ô ăn quan, 1931

23
Bữa cơm vụ mùa thắng lợi

Trăng tỏ

24
Rửa rau cầu ao, 1931.

Em bé cho chim ăn, 1931.

25
1.3.3. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1922)

Nguyễn Tư Nghiêm sinh năm 1922 tại xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Cha ông là cụ Phó bảng Nguyễn Tư Tái, đỗ cùng khoa thi với cụ Nguyễn
Sinh Sắc. Ông học khóa XV Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1941 -
1946). Lúc đang học năm thứ 3, ông đã gây chú ý của giới hội hoạ với bức tranh
sơn dầu Người gác Văn Miếu giành được giải nhất tại Salon Unique năm 1944. Ông
là một họa sĩ vẽ tranh sơn mài, sơn dầu và bột màu nổi tiếng. Ông cũng được xếp
vào một trong bộ tứ “Phái - Sáng - Liên -- Nghiêm”(Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng,
Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm).

Trong kháng chiến chống Pháp, ông giảng dạy tại Trường Mỹ thuật kháng
chiến ở Việt Bắc. Ông cũng có thời gian giảng dạy tại Trường Mỹ Nghệ Hà Nội
(1959 – 1960).

26
Ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật. (1996)

Một số tác phẩm tiêu biểu:

- Người gác Văn Miếu (giải nhất Salon Unique năm 1944).
- Cổng làng Mộng Phụ.
- Đánh cờ dưới bóng tre.
- Trạm gác (1948).
- Con nghé (1957)
- Giao thừa bên Hồ Gươm (1957)
- Nông dân đấu tranh chống thuế (1960).
- Giao thừa bên Hồ Gươm.
- Điệu múa cổ
- Thánh Gióng
- Mười hai con vật tượng trưng cho năm
- Kim Vân Kiều.

27
Thánh Gióng (sơn mài, 100x120cm)

Con nghé quả thực - Sơn mài

Điệu múa cổ.

28
Điệu múa cổ, 1959, sơn dầu 62cm x 83cm

Thánh Gióng - Sơn mài.

29
Giao thừa bên Hồ Gươm 1957

Điệu múa xưa, 1983

30
Chân dung, 1989

31
1.3.4. Họa sĩ Bùi Xuân Phái (1920 – 1988)

Bùi Xuân Phái sinh năm 1920, mất năm 1988 tại Hà Nội. Ông tốt nghiệp
khoa Hội họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá 1941 – 1946, tham gia
kháng chiến, đồng thời tham dự nhiều triển lãm chung với các họa sĩ khác. Năm
1952 ông về Hà nội, sống và sáng tác tại nhà (số 87 Phố Thuốc Bắc) cho đến khi
mất. Từ năm 1956 đến năm 1957, Bùi Xuân Phái giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Hà
Nội, khi xảy ra phong trào Nhân văn Giai phẩm, họa sĩ phải đi lao động, học tập
trong một xưởng mộc tại Nam Định và ban giám hiệu nhà trường đã đề nghị ông
viết đơn xin ngưng giảng dậy tại trường Mỹ thuật.

Bùi Xuân Phái là một trong những họa sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng thời với các danh họa Nguyễn Sáng,
Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên - những tên tuổi ảnh hưởng lớn tới sự phát
triển của mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Ông chuyên về chất liệu sơn dầu, đam mê
mảng đề tài phố cổ Hà Nội. Ngay từ lúc sinh thời, sáng tạo của ông đã được quần
chúng mến mộ gọi dòng tranh này là Phố Phái…

32
…Ngoài phố cổ, ông còn vẽ các mảng đề tài khác, như: chèo, chân dung,
nông thôn, khỏa thân, tĩnh vật... rất thành công. Nhiều tranh của Bùi Xuân Phái đã
được giải thưởng trong các cuộc triển lãm toàn quốc và thủ đô. Ông vẽ trên vải,
giấy, bảng gỗ, thậm chí cả trên giấy báo khi không có đủ nguyên liệu. Ông dùng
nhiều phương tiện hội họa khác nhau như sơn dầu, màu nước, phấn mầu, chì than,
bút chì... Các tác phẩm của ông biểu hiện sâu xa linh hồn người Việt, tính cách nhân
bản và lòng yêu chuộng tự do, óc hài hước, đậm nét bi ai và khốn khổ. Ông đă góp
phần rất lớn vào lĩnh vực minh họa báo chí và trình bày bìa sách, được trao tặng giải
thưởng quốc tế (Lép-dích) về trình bày cuốn sách “Hề chèo” (1982).

Ông giành được Giải thưởng mỹ thuật tại các triển lãm:

- Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1946


- Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980
- Giải thưởng đồ họa Leipzig (Đức)
- Giải thưởng Mỹ thuật Thủ đô các năm 1969, 1981, 1983, 1984

Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Năm 1997, ông được tặng Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam

Một số tác phẩm chính c ủa ông:

- Phố cổ Hà Nội - Sơn dầu 1972


- Hà Nội khán chiến - Sơn dầu 1966
- Xe bò trong phố cổ - Sơn dầu 1972
- Phố vắng - Sơn dầu 1981
- Hóa trang sân khấu chèo - Sơn dầu 1968
- Sân khấu chèo - Sơn dầu 1968
- Vợ chồng chèo - Sơn dầu 1967

33
Phố cổ

34
Tranh màu bột

Hoá trang, màu nước

35
1.3.5. Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923 – 1988)

Nguyễn Sáng Sinh năm 1923 tại Làng Điều Hoà, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc TP
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Năm 1938, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương.

Tháng 8-1945, ông tham gia cách mạng ở Hà Nội. Cuối tháng 12-1946, ông
lên chiến khu Việt Bắc, dùng nét vẽ của mình, phục vụ cuộc kháng chiến của dân
tộc. Tranh của ông gồm nhiều thể loại, ở thể loại nào ông cũng đều thành công. Về
thể loại chiến tranh, ông có các tác phẩm Giặc đốt làng tôi, Kết nạp đảng ở Điện
Biên Phủ, Hành quân đêm mưa, Bộ đội nghĩ trưa trên đồi, Thành đồng Tổ quốc. Về
thể loại tranh chân dung, ông có hai tác phẩm nổi tiếng là Tự hoạ và Không gian.
Ông là bậc thầy về mô tả, làm nổi bật cả tính cách lẫn đặc điểm của nhân vật.

Ngoài ra, ông còn vẽ theo nhiều đề tài khác nhau, như phụ nữ và hoa (Thiếu
nữ bên hoa sen), cảnh đẹp vừa cổ kính vừa lộng lẫy của chùa chiền (Tháp phổ
36
minh), cảnh núi rừng thâm u mà hùng vĩ (Pắc Bó), cảnh nông thôn bình dị, hiền hoà
(Thiếu nữ trong vườn chuối), cảnh những trò chơi dân gian (Chọi trâu, Đấu vật)
v.v…

Về mặt nghệ thuật, ông đã làm cuộc cánh tân đáng kể trong lĩnh vực sơn dầu
và nhất sơn mài. Đồng thời, ông cũng khai thác thành công phong cách nghệ thuật
hội hoạ hiện đại Châu Âu, nhưng vẫn không xa rời nghệ thuật dân gian và cổ truyền
Việt Nam. Nghệt thuật của ông là sự kết hợp hài hoà giữa tính hiện đại và tinh hoa
của dân tộc. Cùng với Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, ông là cây đại thụ của
sơn mài Việt Nam. Nếu như Nguyễn Gia Trí đưa sơn mài đến đỉnh cao của những
cảnh thần tiên, thì Nguyễn Sáng đẩy sơn mài đến đỉnh cao với tầng lớp đời thường,
chiến tranh, cách mạng, những xung đột của cuộc sống hiện tại. Ông bổ sung vào
sơn mài bảng màu vàng, xanh, diệp lục với cách diễn tả phong phú dường như vô
tận. Những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Sáng nằm ở sơn mài và đấy là
đóng góp lớn nhất của Nguyễn Sáng cho hội hoạ cả về chất liệu và danh tiếng. Các
tác phẩm của Nguyễn Sáng có tầm cỡ về kỹ năng, mang rõ những thông điệp lớn về
thân phận con người và tiềm ẩn một tài năng lớn của sáng tạo hiện đại cho nền mỹ
thuật Việt Nam. Giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của
Nguyễn Sáng vào thập niên 70.

Ông mất năm 1988 tại thành phố Hồ Chí Minh, thọ 65 tuổi. Tên tuổi của ông
được ghi trong “Từ điển Bách khoa Larousse” ở Pháp. Ông đã được nhà nước truy
tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

37
Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Sáng:

Giặc đốt làng tôi

Kết nạp đảng ở Điện Biên

38
Cô gái và hoa sen

Kiều

39
1.3.6. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993)

Nguyễn Gia Trí quê ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Ông là hoạ sĩ, nhà đồ hoạ,
biếm hoạ Việt Nam, một trong những hoạ sĩ hàng đầu có những đóng góp cho
những bước khởi nguyên và sự phát triển của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam thế kỉ
20. Ông cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn là bốn cây đại
thụ của nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam (nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn).

Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mĩ thuật Đông Dương năm 1936, ông là người đi đầu
trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm
nghệ thuật và từ đó ông đã được mệnh danh là "người cha đẻ những bức tranh sơn
mài tân thời của Việt Nam". Ông Nguyễn Gia Trí là một trong những họa sĩ nổi
tiếng đi đầu trong việc tạo ra một khuynh hướng nghệ thuật mới cho Việt Nam, với
những đường nét vẽ thanh lịch và những tư tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Ông
phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng các
nguyên tắc cấu trúc tranh vẽ phương Tây, để tạo những bức họa hiện đại mang đầy
40
tính chất dân tộc. Những tác phẩm của ông có thể tìm thấy trong viện Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam tại Hà Nội và viện Bảo tàng Mỹ thuật tại Sài Gòn.

Những bức tranh đầu tiên mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực và ấn
tượng Châu Âu (Hoàng hôn trên sông, Phong cảnh Móng Cái…).

Vào thập niên 40 thế kỉ 20, khi chuyển sang sáng tác chuyên về chất liệu sơn
mài, đã tạo ra được một phong cách riêng. Chủ đề quen thuộc là những thiếu nữ
duyên dáng, nhàn tản trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Với chất son, sơn
than, vàng, bạc, vỏ trứng, sơn cánh gián, Nguyễn Gia Trí đã tạo cho tranh sơn mài
một vẻ đẹp lộng lẫy, một chiều sâu bí ẩn, đưa kĩ thuật sơn mài lên đỉnh cao, khẳng
định tầm quan trọng của chất liệu hội hoạ này trong nền mĩ thuật Việt Nam: Đình
làng vào đám (1939), Thiếu nữ bên cây phù dung (1944).

Những năm 1960 - 1970, nghệ thuật của ông có xu hướng thiên sang trừu
tượng. Tuy vậy, cuối đời ông lại trở về với thế giới lãng mạn đầy mộng mơ của
những năm 40: bức tranh Bắc, Trung, Nam.

Bức tranh Thiếu nữ trong vườn được trình bày như vườn hoa muôn sắc màu,
trong đó các cô gái đang vui đùa, chạy nhảy, giá trị hiện thực toát lên từ hình khối,
động tác. Sắc vàng kim được dát trên nền trời, trên những tấm áo điểm xuyết vỏ
trứng, những vệt vàng lộng lẫy trên từng đường lượn như tôn vẻ đẹp thanh tân thiếu
nữ. Ở những tranh sơn mài có kích thước lớn, Nguyễn Gia Trí luôn mở rộng tầm
nhìn thẩm mỹ, đặt cái cổ kính bên cạnh cái tân kỳ, cái lộng lẫy sang trọng cạnh sự
giản dị mộc mạc, ý tưởng hy vọng đặt bên cạnh sự hoài niệm... Đó cũng là cách xử
lý khi thể hiện mặt bên kia của tấm bình phong mang tên Phong cảnh có cách vẽ
khoẻ khoắn, những mảng vỏ trứng, hình cây điển hình được viền bằng những mảng
mầu to rộng, nét chắc khoẻ gợi về sự gần gũi chân quê của vùng nông thôn Bắc Bộ
Việt Nam.

41
Nguyễn Gia Trí còn là một nhà biếm hoạ sắc sảo, bút danh Raitơ (Right) với những
tranh châm biếm chính quyền thực dân Pháp và đám quan lại phong kiến tay sai trên
báo Phong hoá, báo Ngày nay. Ông là nhà đồ hoạ nổi tiếng với những tranh khắc gỗ
màu mang đậm màu sắc dân gian: Ai mua rươi ra mua, Kẻ khó không lo ba ngày
Tết …và những minh hoạ sách báo phóng khoáng đầy chất hiện thực.

…Các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã được chỉ định là Bảo vật Quốc
Gia. Vì thế, những tác phẩm của ông đã không được phép rời khỏi Việt Nam.

Nguyễn Gia Trí từ trần lúc 22 giờ 30 phút ngày 20/6/1993 tại Sài Gòn.

Phong cảnh (1941)

42
Vườn xuân Bắc Trung Nam

43
1.3.7. Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954)

Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 - 1906 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội.

Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (khóa 2 năm 1926
- 1931). Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng
cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế... Ông hợp tác với
các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị... Từ 1935 đến
1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa sáng tác.

Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống
Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc.

Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng
chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông còn là một trong những họa sĩ lớn của hội họa
Việt Nam, nằm trong "bộ tứ" “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn”

44
Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay
từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn
tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của
Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn
tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Khmer. Tem
Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ
khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền
nghệ thuật tem thư ở Việt Nam

Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện
Biên Phủ. Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về
văn học nghệ thuật (1996)

Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam.

Một số tác phẩm tiêu biểu

Trước 1945

Thiếu nữ bên hoa sen (1944)


Thiếu nữ bên hoa huệ (1943)
Hai thiếu nữ và em bé (1944)
Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa
(1942) Buổi trưa (1936)
Bên hoa (1942)
Thuyền sông Hương (1935)

Đều là tranh sơn dầu.

45
Sau 1945

Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (1946-sơn


dầu) Nghỉ đêm bên đường (sơn mài - 1948)
Con trâu quả thực (ký hoạ màu nước -
1954) Hai chiến sĩ (màu nước - 1949)

Thiếu nữ bên cửa sổ, sơn dầu

46
Thiếu nữ bên tranh Tố nữ - Lụa

Thiếu nữ bên hoa huệ


47
1.4. Một số họa sĩ tiêu biểu của thế giới
1.4.1. Leonardo da Vinci (1452–1519)

Leonardo di ser Piero da Vinci (thường được phiên âm theo tiếng Pháp là
"Lê-ô-na đơ Vanh-xi", hoặc phiên là "Lê-ô-nác-đô đa Vin-xi) sinh ngày 15 tháng 4
năm 1452 tại Anchiano, Ý - mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp. Ông
là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà
sáng tạo và là một nhà triết học tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng
người Ý. Tên thành phố Vinci, nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh
Firenze, cách thành phố Firenze 30 km về phía Tây, gần Empoli, cũng là họ của
ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì da Vinci có nghĩa là "đến từ Vinci",
không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci có
nghĩa là Leonardo, con của Ser Piero, đến từ Vinci. Ông nổi tiếng với những bức
hoạ cổ điển của mình như bức Mona Lisa, bức Bữa ăn tối cuối cùng. Ông là người
có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là sự sáng chế máy bay trực

48
thăng, xe tăng, dù nhảy, sự sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý
thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép (double hull), cùng nhiều sáng chế khác, khó
có thể liệt kê hết ở đây. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong
lúc ông còn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở
thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng
góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây
dựng dân dụng (civil engineering), quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản
phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ
nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong
chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học, và bút ký.

Người đàn ông Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về sự
pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.

49
La-giô-công-đơ, tranh sơn dầu của Lê-o-na đờ Vanh-xi

50
Người đàn bà và con chồn- Bảo tàng Czartoryski, Kraków, Ba Lan

Bữa ăn cuối cùng

51
1.4.2. Raffaello (1483–1520)

Raffaello sinh năm 1483 m ất 6 tháng 4 năm 1520 tại miền đông Italia. Cha
ông là một họa sĩ nổi tiếng, từ nhỏ đã cho Raffaello theo học những thầy giáo giỏi
và ông học rất xuất sắc.

Khi được 21 tuổi, ông đến Firenze và nghiên cứu tỉ mỉ các tác phẩm của những
bậc thầy trước đó.

Từ năm 1508, ông nhận lời mời của Giáo Hoàng, đã vẽ một chùm bích hoạ
trong thánh thất Vatican trong vòng 5 năm. Cho đến tận ngày nay ta cũng có thể
chiêm ngưỡng tác phẩm đó ở 4 bức bích hoạ trên 4 bức tường trong thánh thất
Vatican.

Năm đó Giáo Hoàng đã yêu cầu Raffaello vẽ 4 bức bích hoạ hàm chứa 4 nội
dung: Thần học, Triết học, Văn nghệ, Pháp luật. Trong bức Triết học là một toà kiến
trúc lớn trải dài từ gần đến xa, xa hơn là một mái vòm. Hai nhà triết học vĩ đại đi

52
phía trước là Platon và Aristotle, phía sau là những nhà triết học, khoa học cổ Hi
Lạp. Raffaello muốn thể hiện cho những người kế tục tư tưởng văn hoá cổ Hy Lạp
đã vượt lên trên thế hệ trước của mình. Nói tóm lại, Raffaello đã từ bỏ lối vẽ cứng
nhắc khi bàn về vấn đề Tôn giáo mà thay vào đó là những nội dung tư tưởng phục
hưng văn hoá cổ Hi Lạp, hình thành nên những cấu tứ độc đáo, mới lạ.

Ngoài chuyên môn hoạ sĩ, Raffaello còn là một kiến trúc sư lỗi lạc. Bằng chứng
là việc thiết kế nhà thờ Thánh Pie tại Vatican ở Roma. Ông cũng đã có những đóng
góp quan trọng trong quy hoạch tổng thể Nhà thờ lớn và đồng thời còn là người phụ
trách công việc thi công công trình này.

Khi công trình chưa hoàn thành thì ông mất ở tuổi 37 vào năm 1520. Với
những cống hiến to lớn của mình thì danh hiệu Thánh hội hoạ của thời kì văn hóa
Phục Hưng xứng đáng với ông.Nội dung thường là tôn giáo và lịch sử.

Sistine Madonna Raffaello

53
1.4.3. Michelangelo Buonarroti (1475–1564)

Chân dung Michelangelo vẽ bằng phấn của Daniele da Volterra

Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (6 tháng 3 năm 1475 – 18


tháng 2 năm 1564), thường được gọi là Michelangelo, là một hoạ sĩ nhà điêu khắc,
kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng Italia. Dù ít có những đột phá bên
ngoài nghệ thuật, sự uyên bác của ông trong các lĩnh vực đạt tới tầm mức khiến ông
được coi là một người xứng đáng với danh hiệu nhân vật thời Phục hưng, cùng với
đối thủ và là người bạn Leonardo da Vinci.

Khả năng sáng tạo của Michelangelo trong mọi lĩnh vực ông tham gia trong
suốt cuộc đời dài của mình rất phi thường; khi tính cả các thư từ, phác thảo, ký sự
còn lại, ông là nghệ sĩ được ghi chép đầy đủ nhất về cuộc đời ở thế kỷ 16. Hai trong
số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Pietà và David, được thực hiện trước khi
ông sang tuổi 30. Dù ông không được đánh giá nhiều trong hội hoạ, Michelangelo
cũng đã tạo ra hai trong các tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất trong thể loại bích hoạ
54
trong lịch sử Nghệ thuật phương Tây: các cảnh Chúa sáng tạo ra thế giới trên trần
và Sự phán xét cuối cùng trên bức tường bệ án thờ Nhà nguyện Sistine ở Rome.

Một ví dụ về vị trí độc nhất của Michelangelo, ông là nghệ sĩ phương Tây đầu
tiên có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống. Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản
trong khi ông đang sống; một trong số đó, bởi Giorgio Vasari, cho rằng ông là động
cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm
vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ. Trong đời
mình, ông cũng thường được gọi là Il Divino ("người siêu phàm"). Một trong những
phẩm chất của ông được những người đương thời ngưỡng mộ nhất là terribilità, một
cảm giác kính sợ trước sự vĩ đại, và các nỗ lực của những nghệ sĩ thời sau học theo
phong cách say mê và rất cá nhân của ông đã dẫn tới Mannerism, phong trào lớn
tiếp sau trong nghệ thuật phương Tây sau thời Đỉnh cao Phục hưng.

Michelangelo đã vẽ trên trần Nhà nguyện Sistine; tác phẩm mất gần bốn năm
để hoàn thành (1508–1512)

55
Tượng David của Michelangelo (1504)

Sự phán xét cuối cùng (Trích đoạn).


Nhà thờ Sistine. Nề họa của Michelangelo

Sự phán xét cuối cùng là sự thể hiện lần xuất hiện thứ hai của Chúa Jesus và
ngày tận thế; nơi các linh hồn con người mọc lên và được trao các số phận khác
nhau, như được Chúa phán xét, bao quanh là các Thánh.
56
1.4.4. Vincent van Gogh (1853 – 1890)

Vincent Willem van Gogh sinh ngày 30 tháng 3 năm 1853, tại Groot-Zundert,
một làng nhỏ gần thành phố Breda thuộc tỉnh Bắc Brabant phía Nam Hà Lan, mất
ngày 29 tháng 7 năm 1890, ở Auvers-sur-Oise, gần Paris. Ông thường được biết đến
với tên Vincent van Gogh, đọc theo tiếng Việt là Van Gôc), là một danh hoạ Hà Lan
thuộc trường phái hậu ấn tượng. Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những tác
phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt nhất trên thế giới. Van Gogh là
nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật
hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại
Đức…Ông thực sự trở thành họa sĩ từ năm 27 tuổi(1880). Thoạt đầu, Van Gogh chỉ
sử dụng các gam màu tối, chỉ đến khi được tiếp xúc với trường phái ấn tượng
(Impressionism) và Tân ấn tượng (Neo-Impressionism) ở Paris, ông mới bắt đầu thay
đổi phong cách vẽ của mình. Trong thời gian ở Arles miền Nam nước Pháp, Van
Gogh kết hợp các màu sắc tươi sáng của hai chủ nghĩa này với phong cách vẽ của
mình để tạo nên các bức tranh có phong cách rất riêng…Phần lớn các tác phẩm nổi
tiếng nhất của Van Gogh được sáng tác vào hai năm cuối đời, thời gian ông lâm vào
khủng hoảng tinh thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul
Gauguin. Sau đó Van Gogh liên tục phải chịu đựng các cơn suy nhược thần kinh và
cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình năm 37 tuổi.

57
Van Gogh có ảnh hưởng lớn trong văn hóa đương đại. Đã có những cuốn tiểu
thuyết, bộ phim, bài hát… ra đời phản ánh cuộc đời v à sự nghiệp của ông.

Sau khi Van Gogh mất, tranh của ông rất được các bảo tàng nghệ thuật và nhà
sưu tầm cá nhân ưa thích, đặc biệt là trong thập niên 1980 và 1990. Khi đó nhiều tác
phẩm của ông liên tục phá kỉ lục thế giới về giá bán, trong số đó có bức Chân dung
Bác sĩ Gachet, từng được bán với giá 82,5 triệu USD.
Một số tác phẩm của Van Gốc:

Những người ăn khoai (1885)

Quán cà phê đêm ở Arles (1888)


58
Đêm đầy sao (1889)

Chân dung Bác sĩ Gachet (1890)

59
1.4.5. Paul Gauguin (1848 - 1903)

Paul Gauguin (thường được đọc là Gô ganh) có ên đầy đủ là Eugène Henri


Paul Gauguin

Ông sinh ngày 7 tháng 6 năm 1848 tại Paris – Mất 8 tháng 5 năm 1903) là họa
sĩ hàng đầu của trào lưu hậu ấn tượng. Lúc 17 tuổi, ông làm thủy thủ trên tàu
Luzitano và có các chuyến đi từ Le Havre, Pháp tới Rio de Janeiro. Ông đã đi vòng
quanh thế giới trong 13 tháng với tư cách thuyền phó. Năm 1871, ông từ bỏ hải
quân về làm việc trong một văn phòng của Bertins ở Paris. Ông lấy vợ người Đan
Mạch, và có 4 người con.

Ông bắt đầu vẽ trong thời gian làm việc tại ngân hang (khoảng năm 1873) và
chỉ có thể vẽ vào ngày chủ nhật. Ban đầu ông hứng thú với cách vẽ của các họa sĩ
ấn tượng. Năm 1874, Paul Gauguin gặp Camille Pissarro cùng các nghệ sĩ ấn tượng
khác, cùng nhau đi vẽ và tham gia trưng bày tranh. Năm 1876 ông vui sướng vì có
một bức tranh phong cảnh được trưng bầy. Sự kiện đó gây cho ông rất nhiều hứng
thú và từ đó ông dấn thân vào con đường nghệ thuật một cách đầy đam mê. Ông từ
bỏ việc môi giới chứng khoán vào tuổi 35 để theo đuổi hội họa. Quan điểm nghệ
60
thuật của ông là: không nên vẽ giống hệt, nghệ thuật là phải trừu tượng hóa, từ hình
mẫu bên ngoài phải sáng tạo một cái gì đó mới lạ…Năm 1889, ông tuyên bố với
bạn bè là nên vễ như những nét vẽ của trẻ thơ, chỉ chú trọng đến đường nét cơ bản
của vật thể, cái tinh túy của người và vật. Quan điểm độc đáo của ông đã mở ra lý
thuyết ban sơ của chủ nghĩa tượng trưng trong trào lưu hội họa hiện đại.

Ông chu du nhiều nơi, đến tận Tahiti, vẽ rất nhiều tác phẩm giá trị. Về cuối đời
ông sống trong nghèo túng cơ cực, nợ nần chồng chất, sức khỏe giảm sút… Ông
mất trong nỗi cô đơn trong một túp lều ở Hivahoa.

Paul Gauguin đã để lại những tác phẩm nghệ thuật bất hủ sống mã trong lịch
sử nghệ thuật tạo hình thế giới.

Tiêu biểu nhất là tác phẩm cuối đời của ông: Chúng ta từ đâu đến - Chúng ta là
ai - Chúng ta đi về đâu (vẽ năm 1897, trên khổ lớn 139cm x 375cm), mang tính triết
lý, tượng trưng về cuộc sống và con người.

61
Chúng ta từ đâu đến - Chúng ta là ai - Chúng ta đi về đâu

62
1.4.6.Pablo Picasso (1881-1973)

Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, tại Málaga, miền nam Tây
Ban Nha; mất ngày 8 tháng 4 năm 1973, tại Mougins, Pháp. Ông được coi là một
trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỉ 20, ông cùng với Georges Braque là hai
người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.

Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh
vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là
"piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha
của Picasso,ông José, là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông
José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ
thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu
tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.

Picasso học tại Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid
chưa được một năm, năm 1900 ông bỏ sang Paris, thủ đô nước Pháp, trung tâm nghệ
thuật của Châu Âu thời bấy giờ. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ
63
sĩ nổi tiếng, và bắt đầu chuỗi ngày hoạt động nghệ thuật lắm gian truân nhưng cũng
đầy hào quang: ông đã để lại một tài sản khổng lồ cho nhân loại (1800 bức tranh sơn
dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo…)

Tự họa với bảng màu, (phấn màu, 1906)- Gia đình xiếc,(sơn dầu, 1905)

The Old Guitarist. 1903 Old Beggar with a Boy. 1903

64
Những cô nàng ở Avignon

65
1.5. Tranh dân gian Việt Nam

1.5.1.Tranh Đông Hồ

Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một
dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp
Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột
bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:

Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột


Loẹt lòe trên vách bức tranh gà

Tranh Lợn đàn ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam.

Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu
như ai cũng đều biết cả. Tranh gần gũi còn vì hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn
trong chương trình học. Ngày nay lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một,
làng tranh cũng thay đổi nhiều: làng Đông Hồ ngày nay có thêm nghề làm vàng mã.
Nghề giấy dó ở làng Yên Thế (Bưởi, Tây Hồ) cũng đã không còn. Tuy thế tranh
Đông Hồ đóng vai trò như một di sản văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể
thiếu.

66
Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường
không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào
điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường",
màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản
không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc
đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh
ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa.

Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc
gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có,
song tranh Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được
thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.

Ván khắc tranh Đánh ghen (âm bản) ở nhà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, làng
tranh Đông Hồ

67
Ván khắc tranh Chăn trâu thổi sáo ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam
làng tranh Đông Hồ

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế (người ngồi bên trái), làng tranh Đông Hồ

68
Làng tranh Đông Hồ cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi
dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ,
nay là cầu Hồ.

Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ
thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho
cách phòng khách, hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần
nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến
ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa
danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu
(Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố Hồ-huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km
là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai
sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.

Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại
mấy câu ca rằng:

Hỡi cô thắt lưng bao xanh


Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh.

Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con
đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp
của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.

Còn "làng Mái có lịch có lề" thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy
rách phải giữ lấy lề. Chữ lề ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người
xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn
tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn

69
nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất
hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.

Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều
như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm
tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện
nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng
con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ.

Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng 3 âm lịch. Trong hội làng có
những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có
các làn điệu dân ca như:

Hỡi anh đi đường cái quan


Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.

Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ
còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy
điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ
được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền
tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường
dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên
những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp
lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong
quá trình làm giấy điệp. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như
đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi
son, gỗ vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng
màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên tranh Đông Hồ thường dùng khoảng 4 màu.

70
Đấu vật(Tranh Đông Hồ)

Lợn độc (Tranh Đông Hồ)

71
Đám cưới chuột(Tranh Đông Hồ)

Hứng dừa(Tranh Đông Hồ)


72
1.5.2.Tranh Hàng Trống

Tranh Hàng Trống là một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được
làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa kia
thuộc đất cũ của thôn Tự Tháp, tổng Tiền Túc (sau đổi thành Thuận Mỹ), huyện Thọ
Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng
Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt... là nơi chuyên sản xuất cả đồ thủ công mỹ nghệ nhất
là đồ thờ như : tranh thờ, trống, quạt, lọng, cờ... Dòng tranh này hiện nay gần như
đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Chính vì vậy, những
nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống giảm hẳn. Hiện, chỉ còn duy nhất nghệ nhân Lê
Đình Nghiên còn gắn bó với nghệ thuật tranh Hàng Trống và những nét tinh hoa của
dòng tranh này.

Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh
chính là tranh thờ và tranh Tết. Nhưng chủ yếu là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín
ngưỡng phục vụ đền phủ của Đạo giáo nhất là tranh thờ của Đạo Mẫu (Mẫu Liễu
Hạnh ở Phủ Giầy, Nam Đình), như tranh Tứ Phủ cộng đồng, Bà chúa thượng ngày,
Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi ngựa, cưỡi rắn, Ông Hoàng Mười,
Bà Chúa Ba, Đức Thánh Trần... rất cầu kỳ. Loại tranh này thường được các cụ
chạm bằng vàng hay bạc thật dát mỏng. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quí, ...

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ dòng tranh Hàng Trống xuất hiện từ
khoảng 400 năm trước đây. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn
hoá, tôn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa
Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét
đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày.

Dòng tranh Hàng Trống thực sự phát triển cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến
tranh Việt Nam hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết
73
những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc, một phần do thú chơi tranh của người
Hà Nội đã đổi khác, một phần do việc làm tranh không có thu nhập cao nên nhiều
người đã chuyển nghề.

Cách in ấn và vẽ

Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình,
còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm
màu, cỡn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu.

Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay.
Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên
chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi
một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ
mầu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh.

Tranh được in trên giấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ
khổ to và dài, thường bồi dầy, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp
với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị.

Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng
bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác.

Màu sắc và cách tạo màu

Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam,
vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận
mắt và ưa nhìn.

Tranh Hàng Trống được tô màu bằng bút lông và phẩm nhuộm nên màu sắc
đậm đà hơn tranh Đông Hồ.

74
Đề tài nội dung và thể thức tranh

Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ,
Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông Hoàng Bẩy... Ngoài ra cũng có
những bức tranh chơi như các bộ Tứ Bình (4 bức) hoặc Nhị bình (2 bức). Tứ bình
thì có thể là tranh Tố nữ, Tứ dân (ngư, tiều, canh, mục) hoặc Tứ quý (Bốn mùa). Tứ
bình còn có thể trình bày theo thể liên hoàn rút từ các truyện tích như Nhị độ mai,
Thạch Sanh, Truyện Kiều. Nhị bình thì vẽ những đề tài như "Lý ngư vọng nguyệt"
(Cá chép trông trăng) hoặc "Chim công múa" có tính cách cầu phúc, thái bình.
Những bức về đề tài dân dã như cảnh "Chợ quê" hay "Canh nông chi đồ" cũng
thuộc loại tranh Hàng Trống.

Bịt mắt bắt dê (Tranh Hàng Trống)

75
Ngũ Hổ (Tranh Hàng Trống)

76
1.5.3. Tranh làng Sình
Làng Sình là một làng nằm ven sông Hương được thành lập vào khoảng thế kỷ
15, đối diện bên kia sông là Thanh Hà, một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở
Đàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh, một trung tâm buôn
bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Đây còn là một trung tâm văn hóa của vùng
cố đô, có chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng
Hóa Châu xưa.

Tranh làng Sình là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Đây là dòng tranh mộc
bản được sử dụng phổ biến ở cố đô Huế với mục đích cúng lễ. Nghề làm tranh ra
đời tại làng không biết từ bao giờ, và tranh làm ra chủ yếu là để phục vụ cho việc
thờ cúng của người dân khắp vùng. Ngày nay, tranh làng Sình đang mất dần đi yếu
tố truyền thống xưa. Các bản khắc cũ còn lại với số lượng rất ít, các bản khắc mới
đã xa rời với yếu tố gốc và người làm nghề cũng đã dùng chất liệu sơn công nghiệp
thay cho các chất liệu màu truyền thống.

(Bản khắc để dập in một bức tranh làng Sình)

77
Tranh làng Sình khác với tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà
Nội) bởi chức năng duy nhất là phục vụ thờ cúng, cúng xong là đốt. Vì vậy, đến nay
chỉ còn những bản khắc gỗ là hiện vật quý giá còn lưu giữ được ở nhà ông Kỳ Hữu
Phước - một nghệ nhân làm tranh lâu năm ở làng Sình.

Cách in ấn và vẽ tranh

Hổ (Tranh làng Sình)

Tranh Sình có nhiều loại kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó. Giấy dó cổ
truyền có khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi (25x35), pha ba (25x23) hay
pha tư (25x17). Tranh khổ lớn khi in thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một
chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in.
Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra.
Với tranh khổ nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in
đen phải chờ cho khô rồi mới đem tô màu.

Bản khắc của tranh được làm từ gỗ mít.

78
Nguyên liệu và cách tạo màu

Giấy in tranh là giấy mộc[cần dẫn nguồn] quét điệp, màu sắc trước đây được tạo từ
các sản phẩm tự nhiên như từ :thực vật, kim loại hay từ sò điệp... Một số loại màu
pha chế tự nhiên: màu vàng nhẹ (lá đung giã với búp hòe non), màu xanh dương
(hạt mồng tơi), màu vàng đỏ (hạt hòe), màu đỏ (nước lá bàng, đá son), màu đen (tro
rơm nếp hòa tan trong nước rồi lọc sạch, cô lại thành một thứ mực đen bóng). Màu
chủ yếu trên tranh làng Sình là các màu xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗi
màu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng, khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu
bằng da trâu tươi.

Sau này do nhiều nguyên nhân nên màu sắc được tạo nên từ phẩm hóa học.

Đề tài và nội dung tranh

Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng, có khoảng 50 đề tài tranh. Các
đề tài tranh chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa. Ngoài các đề tài về tín ngưỡng, phục
[cần dẫn nguồn]
vụ thờ cúng còn có tranh Tố Nữ , tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội...

Tranh phục vụ tín ngưỡng có thể chia làm ba loại:

- Tranh nhân vật, chủ yếu là tranh tượng bà, thường vẽ một người phụ nữ xiêm
y rực rỡ với hai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại:
tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ
quanh năm. Tranh con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ông đàn bà; ảnh
phền vẽ bé trai bé gái.

Các loại nhân vật còn lại là tranh ông Điệu, ông Đốc và Tờ bếp (có lẽ là tranh
vẽ Táo quân).

- Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông,
áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình.. thường là tranh cỡ nhỏ.

- Tranh súc vật (gia súc, voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người

chết. Tất cả các loại tranh này sẽ được đốt sau khi cúng xong.

79
1.5.4. Tranh Kim Hoàng

Tranh Kim Hoàng là tên thường gọi của một dòng tranh dân gian phát triển khá
mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài
Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội.

Tương truyền, dòng họ làm tranh đầu tiên là dòng họ Nguyễn Sĩ người Thanh
Hoá theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở làng Kim Hoàng. Thế kỷ 19, tranh
Kim Hoàng phát triển mạnh, nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915,
khi làng mạc từ Phùng đến Cầu Giấy bị ngập trắng, nhiều ván in tranh của làng bị
cuốn trôi. Đến năm 1945 thì tranh hoàn toàn không còn được sản xuất nữa. Ngày
nay, chỉ còn một vài ván in của dòng tranh này được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam.

Tranh của làng Kim Hoàng có đủ loại tranh thờ cúng, tranh chúc tụng như một
số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng lại
biết kết hợp nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có nét khắc
thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc lại tươi như tranh Hàng Trống.
Chính vì thế nó tạo cho dòng tranh này những giá trị riêng.

Đề tài và nội dung tranh:

Đề tài của tranh Kim Hoàng cũng tương tự như tranh Đông Hồ. Đó là những gì
quen thuộc của cuộc sống mộc mạc đơn sơ của người nông dân như trâu, bò, gà,
lợn, đời sống làng quê, cảnh ngày Tết, ông Công, ông Táo. Ngoài ra, tranh Kim
Hoàng có một điểm đặc biệt mà các dòng tranh dân gian khác không có. Đó là
những câu thơ Hán tự được viết theo lối chữ thảo trên góc trái bức tranh. Cả thơ và
hình vẽ tạo nên một chỉnh thể hài hoà, chặt chẽ cho tranh.

80
Cách in ấn và vẽ :

Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc
tươi như tranh Hàng Trống. Tranh Kim Hoàng không sử dụng giấy điệp như tranh
Đông Hồ hay giấy dó như tranh Hàng Trống mà in trên nền giấy đỏ, giấy hồng điều,
hoặc giấy vàng tầu. Trong tranh Đông Hồ, một bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ,
mỗi bản khắc tương ứng với một màu và một lượt in. Nhưng ở tranh Kim Hoàng,
các nghệ nhân chỉ sử dụng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi dựa vào đó mà tự
do chấm phá màu sắc theo cảm xúc riêng của mỗi người. Vì thế, mỗi bức tranh có
một sự phóng khoáng và diện mạo riêng, dù cùng được in ra từ một bản khắc. Đây
là điểm được ưa chuộng nhất ở tranh Kim Hoàng.

Màu sắc và cách tạo màu:

Tranh Kim Hoàng dùng mực tàu và các màu có nguồn gốc tự nhiên. Màu trắng
tạo từ thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hoà với nước chàm. Màu đỏ
lấy từ son, màu đen từ tro rơm rạ, màu xanh từ gỉ đồng, màu vàng từ hoa dành dành.

Lợn độc (Tranh Kim Hoàng)

81
Gà độc ( Tranh Kim Hoàng)

Hướng dẫn học chương 1:


1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu thêm về:
- Các khái niệm cơ bản của nghệ thuật tạo hình
- Ngôn ngữ tạo hình
- Các họa sĩ tiêu biểu của Việt Nam và Thế giới
- Tranh đân gian Việt Nam
2. Tập viết thu hoạch, trình bày, giới thiệu mỹ thuật:
- Bài tập 1: Viết một bài thu hoạch nhỏ về một vấn đề hiểu biết của mình
thuộc nội dung chương 1(Tự luận, viết tay ho ặc đ ánh m áy khoảng 1500 chữ, trên
giấy A4)
- Bài tập 2: Trình bày (thuyết trình) tóm tắt bài thu hoạch trên của mình trước
nhóm, lớp (khoảng 5 -10 phút)

82

You might also like