You are on page 1of 51

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.

HỒ CHÍ MINH

NĂM HỌC 2021-2022


----------------

BÀI TẬP LỚN


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA, HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVGD: ThS. Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ Nhóm 8 – L01


SVTH: Phạm Minh Quang MSSV: 1813679
Lưu Thị Xuân Quỳnh 1752461
Phạm Văn Siêu 1813827
Huyên Chí Tâm 1811206
Nguyễn Thành Sang 1712940

TP. HỒ CHÍ MINH, <2022>


MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................................... 2

Mở đầu ............................................................................................................................ 3

Nội dung ......................................................................................................................... 4

I.Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.... 4

1.1.Hoàn cảnh lịch sử: ................................................................................................ 4

1.2.Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ........... 4

II. Vận dụng............................................................................................................... 20

CHỦ ĐỀ VẬN DỤNG( không gian, thời gian, đối tượng) ...................................... 20

2.1. Chủ trương ...................................................................................................... 20

2.2. Đánh giá thực trạng ......................................................................................... 26

2.3. Giải pháp ......................................................................................................... 41

Kết Luận ....................................................................................................................... 48

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 50

2
MỞ ĐẦU
Nếu nhìn lại đất nước Việt Nam trong quá khứ vào 30 năm trước và so sánh với hiện
tại chúng ta có thể thấy một sự thay đổi kì diệu về mọi mặt. Vào thời điểm năm 1975,
nền kinh tế và phần lớn cơ sở hạ tầng của quốc gia đã bị tàn phá nặng nề bởi chiến
tranh, Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, với lạm phát phi mã
cùng nền nông nghiệp lạc hậu. Để thoát khỏi vũng lầy này, vào năm 1986, Đảng và nhà
nước ta đã đặt ra chính sách “Đổi mới” tập trung vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập và giao lưu quốc tế. Chính nhờ con đường đúng đắn này mà hiện tại
Việt Nam ta đang đến hiện nay vẫn đang phát triển với tốc độ “thần tốc”.
Tuy vậy sự phát triển của Việt Nam ta vẫn còn chưa đồng nhất ở các khu vực cũng như
giữa các tỉnh thành phố khác nhau trong cùng khu vực. Đón đầu chính là các trung tâm
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế của cả nước như Hà Nội,TP
Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai …. Lý do vì sao lại có sự không đồng đều này
chính là bởi nguồn nhân lực lớn đổ về những khu vực trên, tập trung hơn cho công cuộc
phát triển. Từ đó có thể thấy được rằng con người chính là một trong những nguyên
nhân quan trọng trong việc chuyển mình của Việt Nam ta nói chung và các khu khu đô
thị lớn nói riêng.
Bởi vậy thông qua đề tài này nhóm chúng em xin tập trung nghiên cứu các giải pháp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay dưới sự
phân tích tập trung vào nguồn lực con người, và nơi được chọn để phân tích chính là
tỉnh Đồng Nai. Đồng Nai nổi bật lên là một sự tiến hóa vượt bậc trong khoảng mười
năm trở lại đây là bởi vì trong giai đoạn mười năm trở lại đây, tiến hóa thành biểu tượng
điển hình của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, với những thành tựu
nhất định, tuy vậy đi kèm với sự đi lên đó còn là những hệ lụy tiêu cực và những mặt
trái đáng cần phải giải quyết. Nhóm chúng em xin phân tích trình bày và đưa là giải
pháp cho các mặt trên.

3
NỘI DUNG
I. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay

1.1. Hoàn cảnh lịch sử:

1.1.1. Thế giới:

Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các
nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế
giới trên cơ cở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu tan rã, mở ra thời kỳ
hình thành một trật tự thế giới mới.

Dù những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế
chung của thế giới mới là hòa bình và hợp tác phát triển và toàn cầu hóa. Các nước đổi
mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Từ đây, sức mạnh kinh tế được đặt
ở vị trí quan trọng hàng đầu.

1.1.2 Trong nước:

Việt Nam từ nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX tồn tại sự bao vây, chống phá
của các thế lực thù địch tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định. Bên cạnh đó, cuộc
khủng hoảng kinh tế ở nước ta vẫn đang tiếp diễn đòi hỏi phải có một sự thay đổi mạnh
mẽ về mọi mặt.

1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay

Đối với chung cả nước:

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay có thể
tóm gọn lại là tập trung vào 5 mặt sau đây:

 Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.

4
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức:

Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng dựa trên trình độ rất cao của lực lượng sản xuất
hơn hẳn so với kinh tế công nghiệp. Theo xu hướng này, nền kinh tế thế giới đang biến
đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ công nghệ, ngành sản xuất và cơ cấu sản phẩm.
Tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng của con người là những yếu tố quyết định nhất
của sản xuất và trở thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Những yếu tố đó trở
thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội thông qua
việc tạo ra những ngành sản xuất mới với những công nghệ mới, phương pháp sản xuất
mới, những vật liệu và nguồn năng lượng mới với những ưu thế vượt trội so với những
công cụ, nguyên liệu, năng lượng và phương pháp truyền thống do nền kinh tế công
nghiệp tạo ra. - Trên thực tế, xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã được khởi động
cách đây hàng chục năm, nhất là từ cuối những năm 70 thế kỷ XX khi trên thế giới bắt
đầu diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Theo xu hướng này, đến
nay bên cạnh những phát minh mới trong khoa học cơ bản, con người đã đi rất xa trong
việc sáng tạo ra các công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động, hệ thống máy
tự động, robot..), những năng lượng mới (nguyên tử, nhiệt hạch, mặt trời, thủy triều,
gió…), vật liệu mới (pô-ly-me, vật liệu tổ hợp composite, gốm cao cấp như siêu bền,
siêu cứng, siêu dẫn…), công nghệ sinh học (có những đột phá phi thường trong công
nghệ di truyền tế bào, vi sinh, enzim… góp phần giải quyết nạn đói, chữa bệnh), nông
nghiệp (tạo được cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp: cơ khí hóa, điện khí hóa ..
lai tạo giống mới, không sâu bệnh, nhờ đó con người đã khắc phục được nạn đói), giao
thông vận tải và thông tin liên lạc (máy bay siêu âm, tàu hỏa siêu tốc, cáp sợi thủy tinh
quang dẫn,… truyền hình trực tiếp, điện thoại di động, công nghệ chinh phục vũ trụ (vệ
tinh nhân tạo, thám hiểm mặt trăng, du hành vũ trụ…), công nghệ thông tin phát triển
và bùng nổ mạnh trên toàn cầu, mạng thông tin máy tính toàn cầu (Internet) ứng dụng
sâu rộng trong mọi ngành kinh tế và xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức.
Xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã và đang được diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các
nước công nghiệp phát triển. Do sức hấp dẫn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
xu hướng này mà nó đã và đang cuốn hút ngày càng nhiều nước đang phát triển. Đã có
một số nước đang phát triển thành công nhờ phát triển theo xu hướng này.CNH, HĐH

5
của Việt Nam được tiến hành bối cảnh xu hướng trên thế giới đang chuyển mạnh lên
nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đã và đang tác động sâu sắc với
tốc độ cao đến đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong khi đó Việt Nam vẫn
trong tình trạng của một nước có điểm xuất phát thấp, nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển
thiếu bền vững. Trong bối cảnh nhiều cơ hội và thách thức đan xen, để đi tới một nền
kinh tế hiện đại, Việt Nam phải có những giải pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải pháp đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cấp thiết.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc bảo vệ tài nguyên môi trường:

Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi
cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng
lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra
các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội. - Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng
trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà
nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và
phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động
lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát
triển bền vững.

 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp. Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ
quan trọng đó, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tức là chuyển
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp văn minh. Thực chất của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển toàn bộ nền sản xuất xã hội từ lao động thủ
công là chính sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàncầu hoá kinh tế,

6
chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước
hết là độc lập, tự chủ về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
không lệ thuộc vào những điều kiện kinh tế -chính trị do người khác áp đặt, đồng thời
có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế…có
năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng
lượng, tài chính, môi trường…Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từ đó phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo
quy luật chung nhất về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất thì bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, cũng đều là kết quả
tất yếu sự phát triển của lực lượng sản xuất.Trong suốt cả quá trình thực hiện công cuộc
đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, nhiều
ngành kinh tế được đầu tư, từng bước hiện đại. Mặt khác, chúng ta cũng không coi nhẹ
việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp. Thực tế những năm vừa
qua,trong nông nghiệp, nông thôn, sự thích ứng giữa trình độ phát triển của lựclượng
sản xuất với quan hệ sản xuất mới đã tạo ra những bước phát triển quan trọng trong khu
vực kinh tế này. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ
độnghội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.Trong bối
cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải phát huy cao độ nội lực,
coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồnngoại lực, tranh thủ nguồn
vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý…được xem là nguồn bổ sung quan
trọng cho sự phát triển của đất nước.Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta
rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi
trong việc mởrộng thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước (những mặt hàng có lợi thế).
Chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững,điều
này cần phải được quán triệt trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nềnkinh tế, cả
trước mắt cũng như lâu dài. Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng
bước cải thiện đờisống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội,bảo vệ và cải thiện môi trường.Khái niệm phát triển ngày nay được nhìn
nhận một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Ngoài chỉ số về tăng trưởng kinh tế (thu nhập

7
bình quân đầu người), pháttriển còn bao hàm nhiều chỉ số quan trọng khác về những
giá trị văn hoá và nhân văn. Đối với nước ta, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội,nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và
cảithiện môi trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo…phải được thực hiện ngay trong từng bước đi của quá trình phát triển.Kết hợp
phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh.Xây dựng đất nước đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc, điều đó được quán triệt trongviệc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội
với quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển tạo cơ sở để tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh.Quốc phòng, an ninh mạnh tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh
tế-xã hội nhanh và bền vững. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch chống chủ
nghĩa xã hội vẫn không ngừng chạy đua vũ trang. Hoà bình, ổn định đối với từng quốc
gia luôn luôn bị đe doạ. Vì vậy, chúng ta phải không ngừng nâng cao cảnh giác, cần
nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tăng cường
quốc phòng, an ninh. Để thu hút đầu tư từ nước ngoài, Việt Nam cần: Một ưu tiên hàng
đầu về chính sách là phải nỗ lực khắc phục các rào cản đối với việc giải ngân cho các
dự án FDI hiện tại. Thủ tục hành chính và giảiphóng mặt bằng luôn luôn là một rào cản
rất lớn đối với việc triển khai các dự án FDI.Một số nhà đầu tư cao ốc văn phòng cho
biết, cùng một dự án như nhau,nếu ở Trung Quốc hay Thái Lan chỉ cần 1-2 năm để hoàn
tất dự án thì ở ViệtNam thường phải tốn gấp đôi thời gian này vì thủ tục hành chính
phiền hà vàvô số phức tạp nảy sinh trong việc giải phóng mặt bằng. Theo kinh nghiệm
củacác nước khác, thay vì để nhà đầu tư tự đứng ra đền bù, giải tỏa mặt bằng thì nhà
nước (mà cụ thể là chính quyền địa phương) cần thực hiện những hoạt động này, sau
đó mới tiến hành đấu thầu hay đấu giá một cách công khai và cạnh tranh.

 Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh,
bền vững.

Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, phát huy nhân tố con người, phát triển
nguồn nhân lực chính là đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo dục, đào
tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ, tạo việc làm, an sinh xã hội… Đầu tư cho con người
chính là nhằm phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay
nghề; tính năng động và sức sáng tạo của con người; phát huy bản sắc nền văn hoá,

8
truyền thống lịch sử dân tộc để hun đúc thành bản lĩnh, ý chí của con người trong lao
động. Đó chính là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh, nếu được phát huy và sử dụng có
hiệu quả sẽ là động lực, nguồn sức mạnh để phục vụ cho chính con người và xã hội.
Với tinh thần “phát huy nhân tố con người”, “làm cho sản xuất bung ra”, “giải phóng
mọi năng lực sản xuất” trong nhân dân… được khởi xướng từ Đại hội VI của Đảng (12-
1986), đất nước đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Nước ta từ thiếu
đói đã tiến đến hoàn thành mục tiêu “ăn no, mặc ấm” và vươn tới những mục tiêu cao
hơn. Lại một lần nữa, thực tế cho chúng ta thấy, khi nào chúng ta biết tôn trọng, yêu
thương, tin tưởng, dựa vào nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù
hợp với lòng người, quan tâm tới quyền lợi của nhân dân, tạo ra động lực cho người lao
động… thì lúc đó chúng ta phát huy được nhân tố con người, khai thác và huy động
được năng lực, khả năng của mỗi cá nhân và toàn dân tộc vào tiến trình cách mạng. Bên
cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của cơ chế thị trường đã làm cho không ít cá nhân,
tập thể, doanh nghiệp bị chìm đắm vào những lợi ích cá nhân, vì đồng tiền, vì lợi ích
mà đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, của quốc gia dân tộc. Trong sự hỗn độn giữa
thiện và ác, giữa đúng và sai, giữa tích cực và hạn chế, ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
như mặt trời soi sáng cho con đường chúng ta đi. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và
tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nguồn lực con người nói riêng vẫn nguyên giá trị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người, coi con người vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, những lời dạy về phát huy sức mạnh của phẩm chất
và năng lực, những chỉ dẫn về cách dùng người, sử dụng cán bộ, những giải pháp để
phát huy được nhân tố con người thực sự xứng tầm “là cái cẩm nang thần kỳ”, “bàn chỉ
nam” cho sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.Mục tiêu xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh giữ vững, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng, văn
minh. Đó trước hết là cuộc cách mạng của con người, vì con người và do con người.
Bởi, khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không
do ai đưa đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với
những con người phát triển cả về trí lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính
trị-xã hội và đạo đức, tình cảm trong sáng. Trong sự nghiệp cách mạng từ ngày thành

9
lập đến nay, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho
hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trên thực tế,
Đảng ta đã luôn luôn cố gắng thực hiện mục tiêu đó. Sự nghiệp chăm lo cho hạnh phúc
con người tuy chưa có nhiều thành công như mong muốn, song phần nào đã đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân. Phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Việc gì có lợi
cho dân, taphải hết sức làm; việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” đã được Đảng
ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Lời dạy của Bác – “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” và “muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” – đã trở
thành tư tưởng xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng
cầm quyền. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định mục tiêu: tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển;
tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố
con người. Và trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-
2011), Đảng ta đặt mục tiêu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội
ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao động lành
nghề”.

 Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.

Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đặt ra yêu cầu ở chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ phải chuẩn bị đầy đủ tiền đề cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội khẳng định “Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) nhận định, thế kỷ
XXI, khoa học - công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày

10
càng nổi bật. Do đó, Đại hội chỉ rõ “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” để từng bước phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng suất
lao động. Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp chặt giữa hoạt
động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc
sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh
tế tri thức”. Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chú trọng tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức: “Phát triển mạnh khoa học,
công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
kinh tế tri thức”. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục
tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn
lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “Phát
triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là quốc
sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
kinh tế tri thức”. Với mục tiêu “đến năm 2020 khoa học và công nghệ đạt trình độ phát
triển của nhóm nước dẫn đầu ASEAN”, tại Đại hội này, Đảng ta xác định công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cần tiến hành qua 3 bước là: Tạo tiền đề, điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nếu tích cực chuyển đổi số, phát triển
kinh tế số, xã hội số thì sẽ có cơ hội để đi cùng, vượt trước các nước trong khu vực và
trên thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra động lực,
tài nguyên mới cho sự phát triển và đổi mới sáng tạo.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo tiền đề cho sự hình thành bước đột phá tư
duy trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Đại hội XIII, thể hiện ở những
điểm cốt lõi sau:

 Thứ nhất, thúc đẩy chuyển đổi tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc,
gia công, lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ công nghệ.

11
Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ
và nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp. Thực tế cho thấy, công nghiệp, công
nghiệp hỗ trợ nước ta còn phát triển chậm, trình độ hạn chế, nhiều nguyên liệu đầu vào
quan trọng chưa sản xuất được nên phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; việc tham gia trong
chuỗi giá trị toàn cầu ở nhiều sản phẩm vẫn chỉ ở công đoạn cuối cùng nên giá trị gia
tăng không lớn. Đại hội XIII đánh giá: “Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng
khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, vẫn còn
phụ thuộc vào bên ngoài”. Do vậy, Đại hội XIII chủ trương: “Thúc đẩy khởi nghiệp
sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh
mẽ các thành tựu của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư”. Hiện đại hóa công nghệ sản xuất là điều kiện tiên quyết để đưa sản phẩm thương
hiệu Việt Nam lên tầm cao mới, thoát khỏi vị trí gia công, lắp ráp trong thời gian qua.
Ứng dụng, tiên phong sáng tạo, phát minh công nghệ mới có thể giúp doanh nghiệp
tăng doanh số, nâng cao vị thế doanh nghiệp và nền kinh tế. Muốn làm được điều đó
không có con đường nào khác phải dựa trên nền tảng tài nguyên trí tuệ để sáng tạo công
nghệ.

 Thứ hai, chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế số, dựa
trên nền tảng tri thức.

Đây là điểm mới khác biệt so với các đại hội trước, là điểm nhấn của Đại hội XIII. Ngày
nay, với sự chuyển động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu trong kỷ nguyên Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, chủ động tham
gia vào quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đại hội XIII chủ trương “đẩy
mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học - công
nghệ, đổi mới sáng tạo”, trong đó con người hay tài nguyên trí tuệ là nền tảng cốt lõi,
doanh nghiệp phải là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công
nghệ, ứng dụng công nghệ số. Với lợi thế của nước đi sau, chúng ta hoàn toàn có thể
tiến thẳng vào những lĩnh vực mới của kinh tế số để có thể bứt tốc, tham gia quá trình
đó một cách chủ động, không chờ thế giới hoàn thiện công nghệ thì ta mới chuyển đổi
số. Chuyển đổi từ nền kinh tế vật lý sang nền kinh tế số là sự tối ưu hóa không giới hạn
mọi khâu, mọi quy trình sản xuất. Do vậy, nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo trở thành

12
động lực quyết định tăng năng suất lao động, lợi thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi
giá trị toàn cầu.

 Thứ ba, thúc đẩy chuyển đổi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sang giai
đoạn mới: thâm dụng tri thức và đột phá đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như
các nước tiên tiến trên thế giới, nhưng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở
ra cơ hội để nước ta thay vì “đi sau” thì có thể nỗ lực để “đi cùng”, một số lĩnh vực mũi
nhọn, có thế mạnh, có thể phấn đấu “đi trước, vượt trước”. Đại hội XIII chủ trương
“chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa
học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao”. Chủ trương này không chỉ
nhấn mạnh phát triển khoa học - công nghệ, mà còn đề cao yêu cầu đổi mới sáng tạo
như một định hướng trung tâm, xuyên suốt trong xu thế Cách mạng công nghiệp lần thứ
tưđang tăng tốc. Đại hội XIII xác định: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực
kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và
thế giới”.

Cùng với cơ hội, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đưa đến những thách
thức không nhỏ cho Việt Nam. Theo đó, khả năng tối ưu hóa các nguồn lực và sự kết
nối cung - cầu không giới hạn của nền kinh tế số tạo ra áp lực cạnh tranh kinh tế, chiến
tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực
chất lượng cao, thu hút đầu tư ngày càng quyết liệt, gay gắt hơn. Những năm tới, đất
nước ta hội nhập sâu rộng hơn và phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham
gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong điều kiện nền kinh tế phát triển
chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, nhất là vấn đề trình độ công nghệ, năng
suất lao động và mức độ chuyển đổi số.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, nước ta là nước đang
phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2030, nước ta là nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, nước ta trở
thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện thành công các mục tiêu này, trên cơ

13
sở nhận thức rõ thành tựu, hạn chế của khoa học - công nghệ trong quá trình đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, cùng những
tư duy mới về thời cơ và thách thức mà Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại, đòi
hỏi ngay từ bây giờ, Việt Nam cần tích cực chuyển đổi mạnh mẽ hơn sang nền kinh tế
số. Quá trình này cũng yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngày càng theo chiều
sâu, dựa nhiều vào tri thức, đổi mới, sáng tạo để có sự bứt phá về năng suất lao động,
sức cạnh tranh, trở thành một “mắt xích” quan trọng không thể thiếu trong chuỗi cung
ứng giá trị toàn cầu. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh chủ trương đẩy mạnh chuyển
đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đồng thời
thống nhất quan điểm đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng
hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội
nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân
tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những định
hướng này thể hiện cụ thể trên những nội dung sau:

 Một là, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh trên nền tảng số.

Nền công nghiệp quốc gia vững mạnh là yếu tố nền tảng quyết định sức cạnh tranh,
năng suất lao động và quy mô của nền kinh tế. Để xây dựng nền công nghiệp quốc gia
vững mạnh, Đại hội XIII yêu cầu: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát
triển, làm chủ công nghệ hiện đại. Phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu
mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ,
chất lượng nguồn nhân lực đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc
gia và phát triển kinh tế số. Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy
mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển công nghiệp nền tảng, nhất là
công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế,
có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên phát triển
những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Dựa trên công
nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp vẫn còn có lợi thế (chế biến
nông sản, dệt may, da giày…) tạo nhiều việc làm, sản xuất hàng xuất khẩu, đóng góp
lớn vào giá trị gia tăng quốc gia. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghệ

14
cao, khu kinh tế, khu công nghiệp. Nâng cao trình độ khoa học - công nghệ ngành xây
dựng đủ năng lực thiết kế, thi công các công trình xây dựng lớn, phức tạp, hiện đại, có
khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.

 Hai là, xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị
làm động lực phát triển từng vùng, địa phương.

Đô thị hóa và kinh tế đô thị luôn là chiến lược trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Mục tiêu là hướng tới hình thành các trung tâm đô thị nhằm tạo nền tảng
hạ tầng và các nguồn lực, nhất là nguồn lực về khoa học - công nghệ cho sự phát triển
và chuyển đổi số. Đô thị luôn là trung tâm, kinh tế đô thị có sức thu hút, lan tỏa, là điều
kiện rất thuận lợi để tiếp thu, ứng dụng, nghiên cứu, sáng tạo khoa học - công nghệ. Do
vậy, phát triển đô thị, kinh tế đô thị là mắt xích quan trọng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, cần nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát quá trình đô thị
hóa, phát triển đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng tập trung quá mức vào các đô thị lớn;
xây dựng đô thị hiện đại, văn minh, đô thị thông minh, đa dạng về loại hình, có bản sắc
đặc trưng về kiến trúc, văn hóa ở từng địa phương.

 Ba là, thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và
nông dân văn minh.

Nông nghiệp, nông thôn luôn là mục tiêu quan trọng của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tư duy phát triển nông
nghiệp đòi hỏi phải trên nền tảng đổi mới sáng tạo. Các yếu tố đầu vào, đầu ra và quy
trình, công nghệ sản xuất nông nghiệp cần được tối ưu hóa, hiện đại hóa dựa trên thành
tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, Đại hội XIII định hướng phải chủ động
phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp
sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ. Phát huy tiềm năng, lợi thế của từng
vùng, từng địa phương, đổi mới tổ chức, phát triển kinh tế hợp tác, thu hút doanh nghiệp
đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của hàng hóa nông sản. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ,
sản xuất với bảo quản, chế biến, xây dựng thương hiệu, tiêu thụ, nâng cao giá trị nông
sản trong chuỗi giá trị. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, kết

15
nối nông thôn với đô thị. Tiếp tục đẩy mạnh Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.

 Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, phát triển
mạnh khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ có giá trị gia tăng cao.

Thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế số đã đặt ra yêu cầu hiện đại hóa khu vực kinh tế dịch vụ với tốc độ cao hơn.
Theo đó, Đại hội XIII xác định rõ định hướng hiện đại hóa kinh tế dịch vụ trên một số
vấn đề cơ bản: Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, viễn
thông, công nghệ thông tin, vận tải, logictics, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý…
Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ
y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao, dịch vụ
thương mại… Tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn
mực quốc tế.

 Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển bền vững dựa trên trụ cột hiện đại hóa
khoa học - công nghệ khai thác biển.

Thành tựu to lớn của khoa học - công nghệ trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư cho phép nhanh chóng hiện đại hóa để khai thác hiệu quả, bền vững kinh tế
biển. Đại hội XIII xác định rõ việc cần thiết phải dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học -
công nghệ để tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian
biển, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển đảo. Đẩy mạnh phát
triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển. Phát triển các khu kinh tế, khu công
nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực kinh tế biển. Tăng
cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, điều tra tài nguyên, môi trường
biển. Xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát môi trường
biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển.

 Sáu là, đẩy mạnh đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công
trình hiện đại.

Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, cụm công trình, dự án
hạ tầng trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường không kết

16
nối các vùng, khu vực, các khu trung tâm kinh tế, phát triển hạ tầng năng lượng, nhất là
năng lượng tái tạo, bảo đảm cung cấp đủ, ổn định năng lượng cho nền kinh tế. Phát triển
hệ thống thủy lợi, hồ, đê, đập, nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, thích ứng với
biển đổi khí hậu. Xây dựng đồng bộ, hiện đại hạ tầng ở các đô thị, nhất là đô thị lớn;
tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối
cơ sở dữ liệu quốc gia. Chú trọng phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo
điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận tài nguyên số
bởi đây là hạ tầng giữ vị trí quyết định khả năng, tốc độ chuyển đổi số, đồng thời cũng
là nền tảng để thành lập và vận hành các doanh nghiệp số trong cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.

 Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên cơ sở nhận thức rõ tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn
để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội trong các kỳ Đại hội. Điều đó được biểu hiện ở chỗ: Đảng thường
xuyên khẳng định phải kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Đây là chủ trương và quan điểm có ý nghĩa bao trùm. Đại hội Đảng VII khẳng định:
“Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Ngay từ
những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã xác định luôn giữ vững mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa, tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; coi
tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng
1 năm 1994), mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội được Đảng ta xác định một cách rõ ràng hơn: “Tăng trưởng

17
kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”. Đến
Đại hội Đảng VIII, trước tình hình môi trường sống trong nước có biểu hiện suy thoái,
ô nhiễm và tình hình thế giới yêu cầu mục tiêu phát triển bền vững, Đảng ta ngoài việc
tiếp tục khẳng định mối quan hệ tăng trưởng kinh tế phải gắn với nâng cao chất lượng
sống của nhân dân, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn bổ
sung thêm nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong quá trình giải quyết mối quan hệ này:
“Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” “Kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ
trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ
nạn xã hội” . Đại hội Đảng IX, khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”
. Đại hội X Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một trong những nội
dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển
con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã
hội” . Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) ở Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “kết hợp chặt
chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần” . Quan điểm trên của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy,
mục đích tối cao của Lê Thị Thanh Hà 5 tăng trưởng kinh tế là phát triển con người.
Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là để giải phóng những
giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Mặt
khác, tăng trưởng kinh tế đồng thời giúp con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận
các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên những nấc thang mới trong lịch sử nhân loại. Các
quan niệm của Đảng về: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” và “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã

18
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển” cho thấy phát triển kinh tế đến
đâu phải thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội đến đó, không thể tách rời hai
quá trình này. Cụ thể là, không thể chờ khi nào kinh tế đã đạt đến trình độ phát triển cao
mới thực hiện công bằng xã hội, lại càng không thể hy sinh công bằng xã hội để chạy
theo sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỷ của thiểu số người
đặc quyền, đặc lợi trong xã hội mà quên lợi ích thiết thực của đa số quần chúng nhân
dân lao động - những người làm nên sự phát triển kinh tế. Ở đây cũng cần phải nói thêm,
về thực chất, Đảng ta khẳng định: tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai mục tiêu
song trùng của sự phát triển xã hội. Điều đó có nghĩa là, trong khi theo đuổi mục tiêu
tiến bộ xã hội (phát triển kinh tế xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất...) loài
người đã đồng thời tạo tiền đề và cơ sở vật chất - kỹ thuật, văn hoá - xã hội để thực hiện
mục tiêu công bằng xã hội. Đến lượt mình, công bằng xã hội vừa là sự thể hiện trình độ
tiến bộ hay thước đo (xã hội nhân văn), vừa là động lực quan trọng của tiến bộ xã hội,
hai mục tiêu tiến bộ xã hội và công bằng xã hội luôn gắn bó và đồng hành với nhau,
làm tiền đề và điều kiện cho nhau.

*Đối với riêng Đồng Nai:

Đối với Đồng Nai, những kết quả đạt được về phát triển kinh tế-xã hội trong các năm
qua là điều kiện hết sức quan trọng, việc tập trung xây dựng các dự án quan trọng cấp
quốc gia như Cảng hàng không quốc tế Long Thành và các dự án giao thông liên kết
vùng đang triển khai trên địa bàn sẽ tạo động lực, cơ hội thúc đẩy phát triển và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế-xã hội của tỉnh.

Song, Đồng Nai cũng đang đối mặt với những thách thức, đó là tốc độ công nghiệp
hóa, đô thị hóa nhanh, gây sức ép lớn về yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng, áp lực dân
số, việc làm, nhà ở, dịch vụ y tế, giáo dục, ô nhiễm môi trường; tình trạng chất lượng
nguồn nhân lực thấp...; những diễn biến phức tạp, khó lường về thời tiết, thiên tai do
biến đổi khí hậu.

Là địa phương có vị trí quan trọng về quốc phòng-an ninh, các thế lực thù địch luôn
coi Đồng Nai là một trong những địa bàn trọng điểm tập trung chống phá, nếu không
được giải quyết triệt để sẽ là những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định xã hội và
ảnh hưởng đến sự phát triển của tỉnh.

Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh (nhiệm kỳ 2020-2025) đã xác định mục tiêu tổng
quát của Đồng Nai là: Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, ý chí và khát vọng phát triển; đẩy mạnh ứng dụng
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tích cực, chủ động tham gia cuộc Cách
19
mạng công nghiệp lần thứ tư; khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; phát huy
tối đa tiềm năng và lợi thế; nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, bảo đảm vững
chắc quốc phòng-an ninh; xây dựng Đồng Nai phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội;
là trung tâm công nghiệp và dịch vụ cảng hàng không, cảng nước sâu, cửa ngõ giao
thương quốc tế; một trong những cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và cả nước vào năm 2025 và thuộc nhóm đầu các tỉnh phát triển.

Đồng thời, Đảng bộ tỉnh đã xác định các lĩnh vực đột phá trong 5 năm tới là, tăng
cường kỷ cương, kỷ luật, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên và trách
nhiệm của người đứng đầu ở các cấp ủy, chính quyền, các cơ quan ban, ngành, đoàn
thể chính trị-xã hội các cấp.

Tỉnh huy động các nguồn lực tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng giao thông đô thị, nông thôn và giao thông kết nối
với vùng.

Đồng Nai tập trung phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm; công nghiệp
chế biến sâu nông sản và các dịch vụ nông nghiệp để nâng cao giá trị gia tăng và phát
triển bền vững; phát triển thương mại, dịch vụ tổng hợp hiện đại mà tỉnh có lợi thế,
trọng tâm là dịch vụ du lịch, dịch vụ logistics.

Trong bối cảnh tình hình mới có nhiều thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh
Đồng Nai với quyết tâm chính trị cao nhất, tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí, nắm
bắt thời cơ, vượt qua thách thức, phát huy những thành tựu đã đạt được trong các năm
qua, khắc phục những khó khăn, trở ngại, quyết tâm xây dựng Đồng Nai phát triển
toàn diện, góp phần cùng cả nước vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội - con đường mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

II. Vận dụng


CHỦ ĐỀ VẬN DỤNG không gian, thời gian, đối tượng)
+ Về nội dung: Cơ cấu kinh tế

+ Về thời gian: Từ năm 2010 – 2020

+ Về không gian: Tỉnh Đồng Nai

2.1. Chủ trương


a. Chủ trương trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá
- Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trước đó, Đại hội VI đã cụ thể hóa
nội dung chính trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ

20
quá độ là thực hiện cho bằng được 3 Chương trình mục tiêu: lương thực thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

- Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1/1994) đã có bước đột phá mới trong
nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”

- Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) nhìn nhận lại đất nước sau 10 năm đổi mới
đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Đại hội IX (tháng 4/2001) và Đại hội X (tháng 4/2006), Đại hội XI (tháng
1/2011) của Đảng bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con
đường công nghiệp hóa ở nước ta, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh
tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn và phát triển nhanh, bền vững.

- Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở 2 thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN .

- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể.
Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển;
tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XII đã nhận định: nhiều chỉ tiêu, tiêu chí
trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

21
nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Trong 5 năm tới (2016-2020), tiếp
tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh, bền vững; phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

b. Chủ trương trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Tỉnh Đồng Nai từ năm
2010-2020
 Với vị thế là tỉnh công nghiệp nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong
10 năm qua, kinh tế Đồng Nai đã có nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo.

 Là địa phương có gần 80% diện tích tự nhiên là đất nông nghiệp, với 2 triệu người
dân sống ở vùng nông thôn, vì vậy tỉnh Đồng Nai luôn đặt nông nghiệp, nông dân,
nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng trong tiến trình phát triển nền kinh tế bền
vững. Kết thúc chặng đường 10 năm xây dựng nông thôn mới 2010-2020, Đồng
Nai là một trong 2 tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông
thôn mới và “về đích” trước 2 năm so với mục tiêu đề ra, dẫn đầu cả nước về số xã
đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

 Đồng thời, tỉnh đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh và không ngừng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát
triển kinh tế-xã hội.Kết quả là kinh tế Đồng Nai tiếp tục phát triển ở tất cả các lĩnh
vực: tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) giai đoạn 2010-2015 duy trì ở mức 12%
năm và giai đoạn 2016-2020 trung bình tăng 8,14%, nằm trong nhóm tỉnh, thành
phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước

- Đồng Nai sẽ trở thành Trung tâm công nghiệp, dịch vụ lớn, hiện đại của khu
vực phía Nam; phấn đấu đến năm 2010 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng
hiện đại, năm 2015 trở thành tỉnh cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa và năm
2020 thành tỉnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với cơ cấu kinh tế: công nghiệp
51%, dịch vụ 46%, nông nghiệp 3%.
22
- Công nghiệp của Đồng Nai sẽ phát triển theo hướng mở rộng quy mô, ưu tiên
thu hút đầu tư các ngành công nghiệp mũi nhọn như sản phẩm vật liệu xây
dựng, gốm sứ, quần áo may sẵn, máy móc thiết bị nông nghiệp...Đến năm
2010, xây dựng và phát triển 34 khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng
12.779 ha. Đến năm 2020 xây dựng và phát triển 45-47 khu công nghiệp và
chuyển dần các cụm công nghiệp có đủ điều kiện thành các khu công nghiệp.
Đến năm 2015 và 2020, sản phẩm công nghệ cao và tiên tiến chiếm trên 75%
và trên 85% giá trị sản xuất.
- Về nông, lâm, thủy sản, tỉnh phát huy điều kiện đất đai, sinh thái kết hợp với
nâng cấp hệ thống thủy lợi gắn nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Xây
dựng và phát triển các mô hình kinh doanh sản xuất nông nghiệp, các khu công
nghiệp công nghệ cao và các mô hình kinh tế trang trại, hợp tác xã chăn nuôi,
trồng trọt có mức độ chuyên môn hóa và thâm canh cao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tăng tỷ trọng GRDP ngành công nghiệp-xây dựng, ngành dịch vụ và giảm
ngành nông lâm nghiệp, phù hợp thực tiễn của tỉnh. Đồng Nai phấn đấu nâng
GDP dịch vụ bình quân đầu người lên 2.800 USD/người vào năm 2020. Phát
triển hệ thống bán lẻ các đô thị trong tỉnh, xây dựng Trung tâm thương mại có
quy mô cấp vùng tại thành phố Biên Hòa và các trung tâm thương mại ở các
khu đô thị Long Khánh, Nhơn Trạch, Long Thành.
- Để phục vụ cho sự nghiệp hiện đại hóa, công nghiệp hóa, Đồng Nai sẽ tập
trung xây dựng mới cầu Đồng Nai, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-
Long Thành-Dầu Giây trước năm 2010. Tiến hành quy hoạch lại cảng Thị Vải,
khu cảng trên sông Đồng Nai để đáp ứng với nhu cầu vận tải, lưu thông hàng
hóa đồng thời xây dựng sân bay quốc tế Long Thành với năng lực thiết kế 100
triệu khách/năm.
- Thành phố Biên Hòa là trung tâm kinh tế, chính trị của Đồng Nai, đồng thời là
trung tâm công nghiệp và đầu mối giao lưu quan trọng của Vùng thành phố Hồ
Chí Minh, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Vào
năm 2020, xây dựng thành phố Nhơn Nhạch thành trung tâm công nghiệp, dịch

23
vụ đô thị loại II; khu đô thị Long Thành, Long Khánh sẽ trở thành khu đô thị
loại III.
- Quy mô GRDP tính theo giá hiện hành đến năm 2020, đạt gần 400 nghìn tỷ
đồng (tương đương 17,2 tỷ USD), gấp 1,7 lần so với năm 2015. Mô hình tăng
trưởng kinh tế có bước chuyển đổi theo xu hướng tăng sự đóng góp của khoa
học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.GRDP bình quân đầu người đến năm 2020
đạt khoảng 5.300 USD, gấp hơn 1,7 lần năm 2015. Cơ cấu lao động dịch
chuyển mạnh mẽ từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch
vụ.
- Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, cơ cấu lại, trọng tâm là cổ phần hóa.
Kinh tế tập thể được quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, nhiều
hợp tác xã mở rộng quy mô, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, phát
triển liên doanh, liên kết gắn với thị trường.
- Kinh tế trang trại phát triển nhanh theo hướng tổ chức sản xuất hàng hóa quy
mô lớn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Kinh tế tư nhân và đầu
tư nước ngoài (FDI) phát triển mạnh mẽ và đa dạng.
- Đến nay, trên địa bàn tỉnh có trên 41.322 doanh nghiệp trong nước, với tổng số
vốn đăng ký trên 340.000 tỷ đồng; tổng số dự án FDI còn hiệu lực là 1.520 dự
án, với tổng vốn đăng ký 30,76 tỷ USD, với công nghệ hiện đại, sản xuất sản
phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, thuộc những ngành nghề, lĩnh vực ưu
tiên phát triển của tỉnh.
- Công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm thực hiện, tinh thần khởi nghiệp
và đổi mới sáng tạo được người dân và doanh nghiệp tích cực hưởng ứng.

 Về đích sớm

Đảng bộ, chính quyền tỉnh Đồng Nai luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị
trí chiến lược trong phát triển. Chính vì vậy, trước khi có Nghị quyết số 26-NQ/TW của
Trung ương về “tam nông”, từ năm 2007, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã có Nghị quyết và
đề án xây dựng “nông thôn 4 có”: có đời sống kinh tế được cải thiện; có kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội đồng bộ; có đời sống văn hóa, an ninh, an toàn đảm bảo; có môi trường
sinh thái phát triển bền vững. Đây là chủ trương đã được đưa vào Nghị quyết của Tỉnh

24
ủy Đồng Nai, qua đó xác định lấy người nông dân làm trung tâm, vừa là người thực
hiện, vừa là người thụ hưởng thành quả.

Ngay từ những ngày đầu xây dựng nông thôn mới, Đồng Nai luôn xác định “tam nông”
là cơ sở để phát triển kinh tế bền vững ở một tỉnh còn trên 60% dân số sống chủ yếu ở
khu vực nông thôn, làm ăn sinh sống từ nông nghiệp. Chính vì vậy, Đồng Nai đã đi
trước một bước với việc thực hiện “nông thôn 4 có” và mô hình này đã từ nghị quyết
của Đảng đi vào cuộc sống, dần dần thay đổi nếp nghĩ, cách làm, cuộc sống của những
người dân nông thôn. Đây cũng là tiền đề để địa phương nhanh chóng đón đầu các
chương trình phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và nhất là Chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng rãi trên cả nước.

Mặc dù là một tỉnh có thế mạnh về công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu ngành nông nghiệp chỉ
chiếm tỉ trọng chưa tới 9%, nhưng Đồng Nai đã trở thành 1 trong 3 tỉnh đầu tiên của cả
nước hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Theo đó,
tỉnh đã chọnhuyện Xuân Lộc, một huyện thuần nông, thời điểm ấy còn nghèo khó làm
điểm xây dựng nông thôn mới cho thấy sự chủ động, sáng tạo trong chỉ đạo. Việc huyện
Xuân Lộc trở thành huyện nông thôn mới đầu tiên của cả nước đã khẳng định sự quyết
tâm, quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền, sự đoàn kết, đồng thuận trong nhân dân
mới là yếu tố quyết định. Điều này còn nhằm tạo động lực, khích lệ tất cả các địa phương
trong tỉnh tích cực đẩy nhanh tiến độ thực hiện xây dựng nông thôn mới.

Nông dân là đối tượng làm chủ và thụ hưởng quyết sách

Ở Đồng Nai, xây dựng nông thôn mới được xác định là chương trình có điểm khởi đầu
nhưng không có điểm kết thúc, đồng nghĩa với việc không cho phép tâm lý chủ quanvới
kết quả đã đạt được, mà lấy đó làm động lực, tiếp tục đẩy mạnh phát triển. Đảng bộ,
chính quyền tỉnh xác định xây dựng nông thôn mới phải lấy đời sống người dân nông
thôn làm thước đo. Do đó, việc nâng cao thu nhập, đời sống của người dân là mục tiêu
quan trọng nhất, phát triển sản xuất theo hướng bền vững, liên kết chuỗi, đầu tư cho
công nghiệp chế biến nông sản, nâng cao giá trị nông sản… nhằm tăng thu nhập cho
người nông dân.

25
Nông thôn mới ở Đồng Nai sau hơn 10 năm xây dựng đã để lại những dấu ấn tích cực,
thay đổi bộ mặt nông thôn, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của người dân ở nông thôn. Và nông thôn mới chỉ có thể bên vững, khi những yếu tố
“nâng chất” đời sống người dân luôn được coi trọng, đặt lên hàng đầu.

Theo kế hoạch ban đầu, Đồng Nai sẽ hoàn thành xây dựng nông thôn mới vào năm
2021, nhưng đến đầu năm 2019, mục tiêu này đã hoàn thành, nghĩa là đã “về đích” sớm
hơn 2 năm. Đặc biệt, Đồng Nai còn là tỉnh đầu đầu tiên có 11/11 huyện đạt chuẩn huyện
nông thôn mới, góp phần tạo nên thành tích chung để chương trình xây dựng nông thôn
mới của cả nước về đích sớm so với mục tiêu đề ra.

2.2. Đánh giá thực trạng


2.2.1. Thành tựu, nguyên nhân
 Thành tựu :

Đông Nam bộ là một trong những khu vực phát triển công nghiệp hàng đầu cả
nước với các khu công nghiệp lớn tại Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai. Sau
thời gian phát triển mạnh, các khu công nghiệp cơ bản đã được lấp đầy. Hiện nhiều địa
phương đang chuyển đổi mô hình thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng các dự án nhằm
giảm thiểu những tác động đến môi trường, hướng tới phát triển bền vững lâu dài.

Đồng Nai hiện là khu vực có rất nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội
với các trường đại học, khu công nghệ cao, các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tại
Đồng Nai, nhiều dự án về công nghệ cao được đầu tư trong thời gian qua và đây cũng
đang là xu hướng thu hút đầu tư được địa phương chú trọng. Các đô thị cũng dần được
hình thành để đáp ứng xu hướng phát triển khu vực này.

Thành tựu: “Khu công nghiệp Đồng Nai “hết chỗ”

Thực hiện công cuộc đổi mới, đặc biệt là chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai đã có bước phát triển
mạnh mẽ, với các khu công nghiệp lớn, hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, giá nhân
công rẻ, lợi thế về đất đai không còn là thế mạnh, việc chuyển đổi định hướng thu hút
đầu tư đang được các địa phương thực hiện với mục tiêu thu hút các dự án hiệu quả, ít
tác động ảnh hưởng đến môi trường.

26
Với phương châm chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp nên quá trình hút đầu tư
nước ngoài FDI tại các khu công nghiệp trên địa bàn Đồng Nai đạt kết quả cao. Theo
báo cáo của Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, từ đầu năm 2021 đến nay,
tỉnh thu hút được gần 1,1 tỷ USD vốn FDI, đạt gần 160% kế hoạch cả năm.

Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu hút được thêm 46 dự án đầu tư mới FDI
với số vốn đầu tư đăng ký hơn 358 triệu USD và 8 dự án đầu tư trong nước với số vốn
hơn 1.138 tỷ đồng; đồng thời có 94 dự án FDI tăng vốn với số vốn tăng thêm hơn 736
triệu USD và 7 dự án trong nước tăng hơn 1.248 tỷ đồng.

Hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 32 khu công nghiệp được thành lập, trong đó 31 khu
công nghiệp đang hoạt động, 1 khu công nghiệp đang trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng
hạ tầng (Khu công nghiệp Công nghệ cao Long Thành). Các khu công nghiệp có tỉ lệ
lấp đầy rất cao (trung bình 84%), trong đó đa số các khu công nghiệp ở thành phố Biên
Hòa, huyện Long Thành, Trảng Bom đã không còn diện tích đất cho thuê.

Nguyên nhân:
Đồng Nai cũng đang mở rộng nhiều khu công nghiệp như: Hố Nai (Trảng Bom), Amata
(Biên Hòa), Sông Mây (Trảng Bom). Vấn đề mở rộng khu công nghiệp ở Đồng Nai là
rất cần thiết, bởi quỹ đất xây nhà xưởng trong các khu công nghiệp còn rất ít, không
đáp ứng yêu cầu nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với mở rộng nhiều khu công
nghiệp, Đồng Nai cũng đang chuyển hướng trong thu hút đầu tư, “chọn lọc” các dự án
với yêu cầu cao hơn.

Ông Lê Văn Danh, Phó Trưởng Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai cho
biết, thực hiện chủ trương của tỉnh, Ban Quản lý tiếp tục tập trung thu hút các dự án có
vốn đầu tư lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến, lao động có tay nghề, những dự án thuộc
lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Tỉnh cũng hạn chế những dự án sử dụng nhiều lao động
phổ thông, công nghệ lạc hậu, gây ảnh hưởng đến môi trường, đảm bảo theo đúng định
hướng thu hút đầu tư của tỉnh Đồng Nai.

Thành tựu: Phát triển bền vững

Tiếp nối thành tựu phía trên, tỉnh ưu tiên thu hút những dự án công nghệ cao, thân thiện
với môi trường, công nghiệp phụ trợ và những dự án vốn nhỏ nhưng giá trị gia tăng cao,

27
có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; đồng thời yêu cầu
doanh nghiệp đưa ra lộ trình chuyển giao khoa học kỹ thuật.

Mục tiêu đến năm 2025, hơn 80% doanh nghiệp trong tỉnh sẽ công nghiệp hoá – hiện
đại hoá các công nghệ. Hiện nay, tại Đồng Nai có gần 700 dự án thuộc lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ. Trong đó có 3 doanh nghiệp được xác nhận ưu đãi dự án sản xuất sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản xuất công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.

Nguyên nhân:
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng cho biết, Đồng Nai đã xây dựng
kế hoạch thu hút dòng vốn FDI cho 5-10 năm tới, trong đó tiếp tục thu hút đầu tư có
chọn lọc, mời gọi những dự án có công nghệ cao, công nghệ hiện đại thân thiện với môi
trường trên lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch. Đồng Nai
cũng tăng cường xúc tiến đầu tư để doanh nghiệp FDI quan tâm nhiều hơn đến các dự
án về hạ tầng kỹ thuật, logistics, khu đô thị thông minh, thương mại dịch vụ, năng lượng.

Đồng Nai có lợi thế về cảng hàng không quốc tế Long Thành và một số tuyến đường
cao tốc như: Bến Lức - Long Thành, Dầu Giây - Phan Thiết đang được đầu tư xây dựng.
Do đó, doanh nghiệp FDI đầu tư vào các lĩnh vực trên có rất nhiều cơ hội để thành công.

Theo ông Lê Văn Danh, việc phát triển công nghiệp của Đồng Nai trong những năm tới
sẽ tập trung vào các khu vực vùng xa như Xuân Lộc, Định Quán, Long Khánh, đặc biệt
là huyện Cẩm Mỹ nhằm tận dụng lợi thế sân bay Long Thành. Với vùng Long Thành –
Nhơn Trạch, nhờ lợi thế gần sân bay Long Thành, cảng Cái Mép – Thị Vải, cảng Phước
An nên Đồng Nai sẽ xây dựng khu logistics ở huyện Long Thành.

Ngoài lĩnh vực công nghiệp, nhiều doanh nghiệp FDI đang quan tâm, dự tính rót vốn
vào những dự án thương mại dịch vụ, năng lượng và bất động sản. “Hiện Việt Nam và
nhiều nước trên thế giới đã chuyển sang sống chung an toàn với dịch COVID-19 và có
chính sách mở cửa lại nền kinh tế. Đây sẽ là cơ hội cho các tập đoàn FDI mở rộng đầu
tư ra nước ngoài, Đồng Nai sẽ tận dụng cơ hội này mời gọi doanh nghiệp FDI thực hiện
các dự án trên địa bàn tỉnh, góp phần phát triển kinh tế”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng
Nai Nguyễn Thị Hoàng chia sẻ.

28
Thành tựu: Hình thành chuỗi kết nối khu công nghệ cao

Ban Quản lý các khu công nghiệp Đồng Nai cho biết, từ khi dịch COVID-19 xuất hiện,
thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở nhiều địa phương sụt giảm nhưng tại Đồng Nai
việc thu hút vốn FDI vẫn rất khả quan. Cụ thể, kế hoạch năm 2021, thu hút vốn FDI vào
tỉnh khoảng 700 triệu USD, nhưng mới 10 tháng đã đạt trên 1,1 tỷ USD, vượt hơn 400
triệu USD.

Ngày 15/11 vừa qua, Ban Quản lý các khu công nghiệp Đồng Nai đã trao giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư cho KSM và Flowserve KSM (Hàn Quốc) đầu tư dự án Nhà máy
sản xuất, gia công KSM ENG VINA tại Khu công nghiệp Giang Điền. Dự án sẽ sản
xuất các cấu kiện kim loại dùng trong các ngành công nghệ cao như sản xuất thiết bị
bán dẫn, thiết bị hiển thị, hàng không vũ trụ, y tế (trong quy trình sản xuất không bao
gồm công đoạn xi mạ)… với quy mô 108.505 sản phẩm/ năm (tương đương 361 tấn sản
phẩm/ năm).

Trong hai năm qua, một số tập đoàn Hàn Quốc đã đầu tư vốn lớn vào tỉnh Đồng Nai
như: Tập đoàn Changshin đầu tư gần 100 triệu USD ở Khu công nghiệp Tân Phú; Tập
đoàn Hansol Technics đầu tư vào Khu công nghiệp Hố Nai giai đoạn 2, khoảng 100
triệu USD; Tập đoàn Intops đầu tư vào Khu công nghiệp Amata 30 triệu USD...

Theo ông Kim Byunggi, Tổng giám đốc Công ty TNHH Hansol Electronics Vietnam
Hochiminhcity, Tập đoàn Hansol Technics đầu tư nhà máy sản xuất các loại linh kiện
điện tử tại Đồng Nai là để cung cấp cho Samsung.

Nguyên nhân:
Đây là khu vực công nghiệp phát triển, giao thông thuận lợi nên đặt nhà máy trên địa
bàn sẽ giúp việc vận chuyển hàng hóa nhanh, đồng thời dễ dàng tìm thêm đối tác liên
kết cung ứng sản phẩm đầu vào. Những năm gần đây, song song với việc thu hút các
ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ vào các khu công nghiệp, Đồng
Nai cũng quan tâm đầu tư cho các dự án khu công nghiệp công nghệ cao, hiện đại.

Hiện nay, Tập đoàn Amata (Thái Lan) đang triển khai xây dựng Khu công nghiệp công
nghệ cao Long Thành với tổng diện tích hơn 400 ha, vốn đầu tư hơn 280 triệu USD.

29
Khu công nghiệp này có vị trí đắc địa khi nằm trong vùng trung tâm của đô thị Long
Thành và sẽ ưu tiên thu hút các ngành nghề công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp
sạch.

Ngoài ra, trong năm 2020, tỉnh Đồng Nai cũng đang làm việc với các đơn vị liên quan
để triển khai Dự án khu công nghệ cao Việt – Hàn (Techno Park), do Công ty cổ phần
liên doanh Techno Park Việt Nam – Hàn Quốc làm chủ đầu tư với số vốn đăng ký 150
triệu USD, tổng diện tích khoảng 300 ha. Dự kiến, Techno Park sẽ thu hút được từ 2 –
3 tỷ USD vốn đầu tư trong khoảng thời gian từ 6 – 9 năm sau khi đi vào hoạt động.

Mục tiêu thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo và thương mại hóa các sản phẩm
công nghệ cao, Techno Park hướng tới thu hút các doanh nghiệp công nghệ cao từ Hàn
Quốc cũng như các nước phát triển khác đến với Đồng Nai nhằm tạo ra sản phẩm chất
lượng trên các lĩnh vực.

Dự án sẽ xây dựng trung tâm nghiên cứu, phát triển với các phòng thí nghiệm, kiểm
định dùng chung; trung tâm đào tạo nhân lực chất lượng cao; trung tâm đổi mới sáng
tạo và ươm tạo công nghệ cao.

Theo ông Cao Tiến Dũng, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, quá trình chuyển hướng thu
hút đầu tư đang được Đồng Nai thực hiện mạnh mẽ. Tỉnh đã quy hoạch 3 phân khu công
nghiệp hỗ trợ với những ngành nghề chất lượng cao.

Hiện nay, các khu công nghiệp đang dần được lấp đầy nên sẽ có những khu khác được
mở rộng thêm. Để phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, Đồng Nai rất muốn “kéo”
các doanh nghiệp công nghệ cao về, nâng chất hoạt động công nghiệp trên địa bàn.

“Dù thực tế tỉnh chưa có khu công nghệ cao như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội nhưng Đồng
Nai cũng đã định hướng các khu công nghiệp công nghệ cao. Đồng Nai hoan nghênh
và sẽ tạo những điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp công nghiệp công nghệ cao đến
địa phương đầu tư”, ông Cao Tiến Dũng chia sẻ.

Thành tựu: Tạo chuỗi kết nối với Tp. Hồ Chí Minh

Sự phát triển công nghệ cao cũng như công nghiệp hỗ trợ tại Đồng Nai được xem là
thuận lợi, nhờ vị trí địa lý giáp Khu Công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh cũng như các
tuyến giao thông kết nối đa dạng.

30
Sau 19 năm hình thành và phát triển, Khu Công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh đã thu hút
thành công nhiều tập đoàn, công ty công nghệ vào đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ
cao như Intel, Nidec, Jabil, Sonion, Sanofi, FPT, Nipro, Datalogic, Samsung. Hiện việc
đầu tư lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ cũng được Tp. Hồ Chí Minh kết nối
với các “vệ tinh” xung quanh.

Thời gian qua, Khu Công nghệ cao và Trung tâm Phát triển công nghiệp hỗ trợ thành
phố đã làm việc với chủ đầu tư về tổ chức tìm kiếm nhà cung cấp và khảo sát thực địa
các nhà máy của nhà đầu tư tại địa phương lân cận.

Khu Công nghệ cao cũng làm việc với Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh Đồng
Nai, Long An, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu về ký kết thỏa thuận phối hợp liên kết
vùng, triển khai chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Trong định hướng phát triển tới đây, Khu Công nghệ cao Thành phố định hình thành
một khu thu hút FDI công nghiệp công nghệ cao từ các công ty đa/xuyên quốc gia có
tiềm lực mạnh về công nghệ cao nhằm thu hút, thích nghi hóa và khuếch tán công nghệ
cao tới các ngành công nghiệp có thế mạnh của thành phố và khu vực.

Khu cũng sẽ tăng cường đầu tư các hoạt động nghiên cứu – triển khai, phát triển năng
lực nội sinh về công nghệ cao, xây dựng Khu trở thành nguồn động lực công nghệ cao
cho phát triển kinh tế ở phía Nam và cả nước.

Hạ tầng giao thông từng bước được đầu tư phát triển. Định hướng của Khu Công nghệ
cao Tp. Hồ Chí Minh gắn với liên kết những vệ tinh xung quanh để phát triển công
nghiệp hỗ trợ, tạo chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp công nghệ cao.

Hiện nhiều đô thị, khu dân cư khu vực tiếp giáp Đồng Nai và Tp. Hồ Chí Minh cũng đã
và đang hình thành, là tiền đề để thu hút chuyên gia, người lao động tay nghề cao phục
vụ định hướng phát triển của hai địa phương.

Nguyên nhân:
Theo ông Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Tp. Hồ Chí Minh,
Khu đã tạo sự lan tỏa, thúc đẩy phát triển công nghệ cao và kinh nghiệm triển khai dự

31
án tại đây đã đóng góp cho công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, văn bản pháp quy
liên quan đến phát triển công nghệ cao của thành phố và cả nước.

Thành công bước đầu của Khu là cơ sở cho các tỉnh, thành phố mạnh dạn nghiên cứu,
đầu tư các khu công nghệ cao địa phương. Tính lan tỏa của Khu Công nghệ cao cũng
bao gồm thúc đẩy hình thành công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao ở các khu công nghiệp
lân cận.

Trong phát triển giao thông, Đồng Nai có nhiều tuyến đường kết nối trực tiếp với Tp.
Hồ Chí Minh như: Cao tốc Tp. Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, cao tốc Bến
Lức – Long Thành, đường Vành đai 3, đường Vành đai 4, Xa lộ Hà Nội. Trước đây,
Đồng Nai từng kiến nghị kéo dài tuyến metro số 1 (Bến Thành - Suối Tiên) đến thành
phố Biên Hòa và đã được Tp. Hồ Chí Minh chấp thuận, đến nay, Đồng Nai vẫn giữ
nguyên quan điểm này.

Theo kế hoạch giai đoạn 2020 – 2025, Tp. Hồ Chí Minh sẽ hoàn thiện đường Vành đai
3, Vành đai 4, từng bước kết nối giữa các khu công nghệp, khu đô thị vệ tinh, cung cấp
các dịch vụ thiết yếu bổ trợ cho các khu công nghiệp gắn với việc đẩy nhanh tiến độ các
tuyến giao thông chính.

Đây là tiền đề quan trọng để phát triển chuỗi sản xuất hàng hóa giữa hai địa phương,
trong đó có thể hình thành chuỗi cung ứng sản xuất công nghệ cao giữa Khu công nghệ
cao Tp. Hồ Chí Minh và các doanh nghiệp vệ tinh tại Đồng Nai.

Qua đó, thú hút những tập đoàn, doanh nghiệp FDI có tiềm lực lớn về công nghệ, tài
chính đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát
triển bền vững và chiến lược tăng trưởng xanh.

Thành tựu: Quy hoạch các đô thị vệ tinh

Trong quy hoạch vùng của Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai đóng vai trò trung tâm với đô
thị vệ tinh độc lập là Biên Hòa và các đô thị vệ tinh phụ thuộc là đô thị mới Nhơn Trạch,
Tam Phước, Long Thành, Trảng Bom, Hiệp Phước. Đồng Nai là tỉnh có nhiều lợi thế
để xây dựng khu đô thị vệ tinh cho Tp. Hồ Chí Minh, nhiều dự án khu dân cư tại Biên
Hòa, Nhơn Trạch, Long Thành, Trảng Bom đã và đang triển khai.

32
Trong một vài năm sắp tới, khi cầu Vàm Cái Sứt và cầu Cát Lái hoàn thành, các khu đô
thị ở Đồng Nai, đặc biệt là thành phố mới Nhơn Trạch sẽ trở nên gần hơn với Tp. Hồ
Chí Minh, có thêm động lực mạnh để cất cánh, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh,
bền vững.

Theo Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Cao Tiến Dũng, đến nay, các ngành chức năng
của tỉnh đang tập trung nghiên cứu, quy hoạch xây dựng khu vực phụ cận sân bay Long
Thành thành “thành phố sân bay”.Vấn đề này, Đồng Nai sẽ làm bài bản, đồng bộ, chặt
chẽ nhằm khai thác tối đa lợi thế sân bay mang lại, đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền
vững.

Hiện Nhơn Trạch (Đồng Nai) đang hình thành một loạt các khu đô thị thương mại, khu
dân cư giúp cho địa phương này thu hút hàng ngàn người lao động khắp nơi đổ về sinh
sống làm việc. Tại đây hiện có hơn 30 dự án hạ tầng lớn, nhỏ được triển khai. Bên cạnh
Nhơn Trạch, huyện Long Thành cũng đang nắm giữ hàng loạt lợi thế, trong đó sân bay
Long Thành trong tương lai sẽ tạo một cú hích lớn để địa phương này cất cánh.

Trong tham luận “Kết nối không gian vùng đô thị Tp. Hồ Chí Minh để phát triển kinh
tế và đô thị biển tại vịnh Cần Giờ”, Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Anh (Chuyên gia quy
hoạch) cho rằng, Nhơn Trạch là một địa phương nằm ở phía Đông Tp. Hồ Chí Minh,
phát triển mạnh về công nghiệp.

Ngoài hệ thống đường bộ, kết nối với Quốc lộ 51, cao tốc, thì còn có hệ thống đường
thủy, cảng biển và cảng cạn phong phú, điều đó tạo thế mạnh, tiền đề phát triển cho
Nhơn Trạch.

Hiện Đồng Nai đang quy hoạch hơn 300 dự án khu dân cư, tập trung ở thành phố Biên
Hòa, Long Thành và Nhơn Trạch nhằm đón đầu các khu công nghiệp và sân bay Long
Thành. Những năm gần đây, hầu hết các tập đoàn lớn trong lĩnh vực bất động sản đã
đầu tư xây dựng các đô thị, nhà ở quy mô lớn tại thành phố Đồng Nai.

Đơn cử như đô thị sinh thái thông minh Aqua City của Novaland với quy mô 1.000 ha
tại xã Long Hưng (thành phố Biên Hòa). Đây là khu đô thị nằm dọc sông Đồng Nai, có
đường kết nối với sân bay Long Thành và Tp. Hồ Chí Minh, đồng thời cũng nằm ở vị
trí tâm điểm kết nối giao thương liên vùng, gắn kết các trung tâm kinh tế lớn của khu

33
vực Đông Nam Bộ. Hiện Aqua City đang được gấp rút xây dựng các hạng mục lớn như
quảng trường, bến du thuyền, trung tâm thể thao, dự kiến năm 2023 sẽ đưa vào vận
hành.

Trong khi đó, Tập đoàn Hưng Thịnh cũng đang triển khai dự án Bien Hoa Universe
Complex tại thành phố Biên Hòa. Ông Nguyễn Nam Hiền, Phó Tổng Giám đốc Tập
đoàn Hưng Thịnh cho biết, về bất động sản, Đồng Nai được coi như “tam giác vàng”,
bởi tỉnh này là cửa ngõ phía đông của Tp. Hồ Chí Minh.

Nguyên nhân:
Theo hướng Bắc – Nam, Đồng Nai có nhiều khu công nghiệp, trung tâm hành chính,
đây là lợi thế phát triển nhà ở cho cán bộ công nhân viên, chuyên gia nước ngoài. Ở
hướng Đông, do gần với sân bay Long Thành nên trong tương lai sẽ hình thành các khu
đô thị mới.

Đồng Nai có vị trí hết sức quan trọng, là cửa ngõ phía Đông Tp. Hồ Chí Minh, hai địa
phương có nhiều điểm tương đồng về kinh tế, xã hội. Trong lĩnh vực công nghiệp, Đồng
Nai và Tp. Hồ Chí Minh đã liên kết, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Hiện có rất nhiều
doanh nghiệp, chuyên gia, người lao động đang sản xuất, kinh doanh, làm việc tại Đồng
Nai nhưng lại sinh sống ở Tp. Hồ Chí Minh và ngược lại.

Thành tựu: Tạo chuỗi đô thị - công nghiệp

Giữa năm 2020, UBND Tp. Hồ Chí Minh đã phê duyệt Đề án phát triển kết cấu hạ tầng
giao thông trên địa bàn thành phố giai đoạn 2020 – 2030, với nhu cầu vốn đầu tư khoảng
952 ngàn tỷ đồng.

Theo Sở Giao thông Vận tải Tp. Hồ Chí Minh, quan điểm phát triển giao thông vận tải
thành phố phải gắn liền với địa lý vùng để đảm bảo giao thông thuận tiện giữa Tp. Hồ
Chí Minh với các đô thị vệ tinh trong khu vực, với cả nước và quốc tế.

Tại thành phố Thủ Đức, về tổng thể, đây là nơi có vị trí quan trọng trong vùng tam giác
Tp. Hồ Chí Minh – Đồng Nai – Bà Rịa Vũng Tàu, đầu mối của các tuyến giao thông
huyết mạch giữa Tp. Hồ Chí Minh với các tỉnh Đông Nam Bộ. Nằm ở cửa ngõ Đông
Bắc Tp. Hồ Chí Minh, thành phố Thủ Đức tiếp giáp khu vực trung tâm Tp. Hồ Chí

34
Minh, giáp Biên Hòa, Nhơn Trạch của tỉnh Đồng Nai, thành phố Dĩ An và Thuận An
của tỉnh Bình Dương. Theo đề án Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông, thành
phố Thủ Đức sẽ có 8 khu vực trọng tâm.

Về chức năng phát triển đô thị, Khu Tam Đa, Long Phước - Trung tâm công nghệ sinh
thái, được quy hoạch để thúc đẩy du lịch sinh thái, đặt ga đường sắt cấp vùng và trung
tâm chế biến thực phẩm để hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp ẩm thực cũng như
nông nghiệp công nghệ cao trong khu vực. Trong khi đó, Khu Trường Thọ - Đô thị
tương lai phát triển theo mô hình thành phố thông minh, một “phòng thí nghiệm đô thị”
tích hợp công nghệ vào đời sống thường nhật.

Nguyên nhân:
Các chuyên gia quy hoạch cho rằng, sự phát triển nhanh chóng của Tp. Hồ Chí Minh
và các khu vực đô thị chủ yếu tiếp giáp phía Bắc và phía Đông Thành phố, đó là tại
Nam tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên) và phía Tây tỉnh
Đồng Nai (Biên Hòa, Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch). Điều này đang trên xu
hướng hình thành đại đô thị và hạt nhân là Tp. Hồ Chí Minh trong bán kính 30 km.

Liên kết vùng là cơ sở để các địa phương trong vùng có sự phân công hợp lý trong phát
triển các ngành kinh tế trên cơ sở chuyên môn hóa các thế mạnh của từng tiểu vùng,
đồng thời tạo hiệu quả quy mô kinh tế.

Theo Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Anh, bên cạnh việc tiếp tục phát triển, thu hút các
ngành công nghiệp chủ lực có lợi thế, Đồng Nai ưu tiên thu hút các dự án công nghệ
cao, công nghiệp hỗ trợ, sản xuất vật liệu mới, các dự án tiết kiệm năng lượng, thân
thiện với môi trường, hạ tầng kỹ thuật, chế biến nông sản, sản xuất nông nghiệp công
nghệ cao để hướng đến phát triển bền vững.

Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Cao Tiến Dũng phân tích, Biên Hòa hiện có gần 1,2
triệu dân và có nhiều mối liên kết với Tp. Hồ Chí Minh, nếu Tp. Hồ Chí Minh là trung
tâm thương mại, tài chính, khoa học thì Biên Hòa là nơi phát triển công nghiệp, sản xuất
– nhu cầu kết nối giữa 2 thành phố là rất lớn. Tuyến metro số 1 kéo dài đến Đồng Nai
cần được đầu tư càng sớm càng tốt, vì mang lại hiệu quả vận chuyển hành khách rất
cao.

35
Với vị thế là sân bay lớn nhất nước, sân bay Long Thành hứa hẹn sẽ thúc đẩy phát triển
cho khu vực Long Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ với các đô thị được hình thành. Hệ
thống giao thông kết nối đã và đang được đầu tư, khu vực này được dự báo sẽ hình
thành các khu đô thị, khu dân cư sầm uất.

Ngoài ra, việc kết nối thuận lợi với Tp. Hồ Chí Minh và các địa phương Đông Nam bộ,
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tại Long Thành, tạo động lực phát
triển công nghiệp hiện đại của Đồng Nai trong tương lai

2.2.2. Hạn chế, nguyên nhân


Trong sự nghiệp Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa nền kinh tế Đồng Nai đã thu được
rất nhiều thành công to lớn. Nhưng bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những mặt
hạn chế và yếu kém. Sau đây là một số vấn đề xảy ra cần quan tâm:

Về nông nghiệp

Nông nghiệp của Đồng Nai mặc dù chỉ chiếm gần 6% GDP, nhưng là trụ đỡ của nền
kinh tế tỉnh, chẳng những tạo ra khối lượng sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của nhiều người
dân trong tỉnh, khu vực Đông Nam bộ mà còn góp phần xuất khẩu. Ở nước ta, với sự
phát triển của nền sản xuất và khoa học công nghệ, nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp đã ra đời và tồn tại. Đối với tỉnh Đồng Nai, các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp đã góp phần mang lại hiệu quả cao về mặt kinh tế, tuy nhiên khu vực nông
lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp nhất (4.04%/năm) ( giai đoạn 2011-2015). Đồng
thời, kinh tế nông nghiệp cũng bộc lộ không ít hạn chế.

Nông hộ là một hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đóng vai trò quan trọng ở Đồng
Nai, chiếm gần 78,13% giá trị sản xuất nông nghiệp và 95,7% lao động phục vụ trong
ngành nông nghiệp. Hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn xã hội, phát
triển kinh tế nông thôn; là cơ sở đảm bảo cho kinh tế hợp tác tồn tại và thúc đẩy kinh tế
nông thôn chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của hình
thức tổ chức lãnh thổ này là quy mô nhỏ, phân tán và khó áp dụng tiến bộ của khoa học
vào sản xuất nên năng suất lao động thấp, khó cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Trang trại được hình thành và phát triển ở tỉnh Đồng Nai đã góp phần giải quyết việc
làm cho 11.292 lao động nông nghiệp (đặc biệt là lao động nông nhàn), chiếm gần 4,3%

36
tổng số lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp và đóng góp 21,87% giá trị sản
xuất nông nghiệp cho địa phương, góp phần hình thành các vùng chuyên canh: cà phê,
điều, cao su và tiêu. Ngoài ra còn hình thành vùng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế
biến và cung cấp giống cây trồng, vật nuôi như: Công ti Donafood Đồng Nai (liên kết
giữa trồng với chế biến hạt điều), Tổng công ti Cao su Đồng Nai (gắn kết gữa trồng với
chế biến và cung cấp giống cao su), Công ti Nông súc sản Đồng Nai (gắn liền giữa chế
biến với giết mổ gia súc, gia cầm)… Tất cả những mối liên kết này nhằm góp phần nâng
cao giá thành nông sản và giúp nông dân (các chủ trang trại) yên tâm đẩy mạnh sản xuất
cũng như chủ động về giống, hạn chế ô nhiễm môi trường và đưa họ trở thành những
người nông dân giàu. Mặc dù vậy, nhưng các chủ trang trại vẫn gặp phải khó khăn trong
tiêu thụ sản phẩm, dịch bệnh ở gia súc (bệnh lợn tai xanh; cúm, lở mồm long móng ở
lợn, bò), dịch cúm ở gia cầm, bệnh vàng lùn xoắn lá xuất hiện ở lúa… Mặt khác, giá vật
tư phục vụ nông nghiệp ngày càng tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư
sản xuất của các trang trại trên địa bàn toàn tỉnh. Việc ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất của các trang trại vẫn còn rất hạn chế, do trình độ chuyên môn chưa cao,
thiếu hiểu biết về nhu cầu thị trường, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá nông
sản xuống thấp. Sự liên kết giữa các trang trại với nhau và liên kết giao dịch với các tổ
chức kinh tế khác còn ở mức thấp nên dễ bị thiệt thòi.

Về công nghiệp

Công nghiệp là ngành quan trọng không thể thiếp trong việc thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh Đồng Nai, năm 2016 tỉ trọng ngành chiếm gần 57% với đầy
đủ cả 4 hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp (từ điểm công nghiệp cho đến trung tâm
công nghiệp). Tuy nhiên, cụm công nghiệp (CCN) và khu công nghiệp (KCN) là hai
hình thức tổ chức lãnh thổ đã tạo nên sự phân bố công nghiệp của địa phương.

Cụm công nghiệp ra đời chính là nhằm di dời các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và ngành nghề truyền thống tồn tại phân tán ở các huyện, thị xã, thành phố, nhất
là khu vực trung tâm TP Biên Hòa và các khu vực nội thị, các khu dân cư về đây. Theo
đề án phát triển cụm công nghiệp (CCN) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020, Đồng
Nai giữ quy hoạch 27 CCN với tổng diện tích gần 1.500 ha và xóa khỏi quy hoạch 13
CCN có diện tích gần 619 ha. Đến năm 2016 Đồng Nai mới có 4 CCN hoàn thành hạ

37
tầng kỹ thuật là: CCN Gốm sứ Tân Hạnh (TP.Biên Hòa), CCN Phú Cường (H.Định
Quán), CCN Hố Nai 3 (H.Trảng Bom), CCN Phú Thạnh - Vĩnh Thanh (H.Nhơn Trạch).
Còn lại các CCN đang trong quá trình hoàn tất hồ sơ, thủ tục đầu tư, bồi thường giải
phóng mặt bằng. Sở dĩ các nhà đầu tư chưa mặn mà với việc làm hạ tầng các CCN là vì
diện tích nhỏ chỉ từ 30-75 ha. Trong các khu vực quy hoạch CCN đã có một số nhà máy
sản xuất hiện hữu, khi hoàn tất hạ tầng chủ đầu tư còn lại diện tích đất cho thuê rất ít,
lợi nhuận thấp. Đặc biệt 3 năm trở lại đây, giá đất tại Đồng Nai tăng cao, tiền bồi thường
bị đẩy lên cao khiến chi phí đầu tư cũng tăng lên. Đồng thời nguyên nhân khiến nhiều
CCN khó thu hút đầu tư là vì mức hỗ trợ còn quá thấp, chỉ khoảng 10 tỷ đồng/cụm
(chính sách hỗ trợ cũng chỉ có CCN Phú Cường được ngân sách tỉnh hỗ trợ hơn 10 tỷ
đồng lập quy hoạch chi tiết xây và đầu tư hạ tầng kỹ thuật). Việc triển khai đầu tư hạ
tầng các CCN trên địa bàn tỉnh còn gặp một số khó khăn như: Vốn đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng cho CCN còn hạn chế; nhiều CCN gặp khó khăn trong việc kêu gọi đầu tư
kinh doanh hạ tầng do thiếu cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng. Do kết cấu hạ tầng chưa hoàn thiện nên khó thu hút các doanh nghiệp
đầu tư vào các CCN. Vấn đề ô nhiễm môi trường chưa được chú ý trong quá trình xây
dựng nên hầu hết các CCN chưa có hệ thống xử lý môi trường. Bên cạnh đó, một số
CCN đã có các doanh nghiệp hoạt động nhưng vẫn nằm trong tình trạng hạ tầng kém.
Phần lớn các CCN trên địa bàn tỉnh hình thành khi chưa có quy hoạch phát triển CCN
của tỉnh, do đó, việc phát triển các CCN thiếu định hướng lâu dài dẫn tới hiệu quả sử
dụng đất chưa cao; thiếu gắn kết với các quy hoạch về điện, giao thông, nước, đào tạo
nghề… Nhiều CCN không thống nhất được phương thức huy động vốn đầu tư hạ tầng
nên tình trạng hạ tầng kém kéo dài, thậm chí phải hủy bỏ quy hoạch vì không có chủ
đầu tư hạ tầng. Hạ tầng bên ngoài CCN trên địa bàn hiện còn nhiều hạn chế, chưa có
đường giao thông, cấp thoát nước…

“Với chủ trương này, Đồng Nai đang hình thành Khu công nghiệp công nghệ cao Long
Thành nhằm nâng cao chất lượng thu hút đầu tư. Ông Lê Văn Danh cho biết, hiện nhà
đầu tư đang triển khai các bước để đầu tư hạ tầng. Khó khăn lớn nhất hiện nay là vấn
đề giải phóng mặt bằng. Cơ quan chức năng Đồng Nai đang phối hợp cùng nhà đầu tư
tháo gỡ khó khăn về thủ tục hành chính trong quá trình xây dựng Khu công nghiệp công

38
nghệ cao Long Thành. Đồng thời, tỉnh đã báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư những vấn
đề liên quan đến chính sách trong quá trình triển khai khu công nghiệp này.”

Khu công nghiệp của tỉnh Đồng Nai đã tạo nên những cơ hội lớn góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Trong những thành công nhất định phải kể tới việc thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, tạo ra sản phẩm hàng hóa phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm
cho người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp và gia tăng thu nhập cho một bộ phận dân
cư, bổ sung nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, các KCN được hình thành cũng là sự khởi
đầu của những tác động tiêu cực, đó là: đất nông nghiệp bị thu hồi cụ thể là diện tích
đất nông nghiêp giảm: từ năm 2010, tổng diện tích đất nông nghiệp của tỉnh là 500.647
ha đến năm 2015 diện tích đất nông nghiệp của tỉnh có 470.670 ha, giảm 29.977 ha so
với năm 2010. Vì vậy nhiều hộ nông dân không còn đất sản xuất và dễ dẫn đến những
hệ lụy kinh tế – xã hội khó lường; ô nhiễm môi trường bởi chất thải từ các KCN, người
nông dân bị thu hồi đất chưa chuẩn bị sẵn sàng để tham gia vào lĩnh vực lao động mới.
Các hoạt động thu hồi đất hiện nay đang vô tình đẩy nhiều nông dân đối mặt với kinh
tế thị trường trong thế yếu và khó có thể tự vệ, đó là thực tế ngoài ý muốn trong xây
dựng và phát triển các KCN. Tình trạng quy hoạch treo ở các KCN, hoặc sử dụng tiền
đền bù thu hồi đất của người dân không hiệu quả, tạo ra sự “phồn vinh giả tạo”, thiếu
tính bền vững…, từ đó nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, gây khó khăn cho việc giữ
vững ổn định chính trị – xã hội ở nông thôn. Tồn tại lớn nhất hiện nay đối với các KCN
tỉnh Đồng Nai chính là sự liên kết còn rất mờ nhạt giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với các doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước, mặc dù đây là 1 trong 2 nhiệm
vụ chính của việc thành lập KCN.

Dịch vụ

Dịch vụ là khu vực kinh tế phức tạp và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của tỉnh Đồng Nai trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Năm 2011, khu vực dịch vụ chiếm 35% GDP của tỉnh và đến năm 2015 chiếm gần
38% .

Hoạt động ngoại thương mở ra nhiều chiều hướng tích cực đối với Đồng Nai trong
việc tiếp cận và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài với việc hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra ngày càng sâu rộng đối với kinh tế Việt Nam. Đồng Nai có nhiều lợi thế trong

39
phát triển hệ thống dịch vụ Logistics. Đây là ngành dịch vụ thực hiện quá trình lưu
thông phân phối hàng hóa, có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế không chỉ riêng cho
Đồng Nai mà còn tác động đến cả vùng. Tuy nhiên, hệ thống giao thông, chi phí sử
dụng, việc đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics với nhau, cũng như với
doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu còn yếu, chưa hình thành được mạng lưới các doanh
nghiệp logistics có quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt thị trường, thúc đẩy ngành logistics
phát triển. Quá trình chuyển đổi số trong ngành logistic còn chậm, chưa đáp ứng được
yêu cầu.

Hoạt động nội thương thì hệ thống siêu thị góp phần trong quá trình lưu thông hàng hóa
phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa phát triển, từng
bước thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đầu vào của hàng hóa được xác định rõ
nguồn gốc, xuất xứ, hạn chế được tình trạng hàng hóa kém phẩm chất, hàng lậu, hàng
giả đưa vào lưu thông. Giá cả hàng hóa được niêm yết cụ thể, rõ ràng tạo điều kiện
thuận lợi cho người tiêu dùng lựa chọn. Cơ sở vật chất tại các siêu thị được trang bị khá
hoàn chỉnh nên chất lượng hàng hóa trong khâu lưu thông được bảo quản theo đúng yêu
cầu của nhà sản xuất. Bên cạnh đó, vấn đề vệ sinh môi trường, an ninh trật tự… cũng
được đảm bảo, tạo sự an tâm cho khách hàng khi đến mua sắm tại siêu thị. Hiện nay,
tập quán tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã thay đổi. Những người có thu nhập trung
bình và thu nhập cao đã đến mua hàng tại siêu thị nhiều hơn so với các chợ dân sinh.
Bên cạnh những mặt tích cực thì hệ thống siêu thị ở tỉnh Đồng Nai cũng bộc lộ những
hạn chế: Qua nhiều cuộc khảo sát về nguy cơ vắng khách của siêu thị, có rất nhiều vấn
đề phải quan tâm, đặc biệt là mối đe dọa từ các loại hình chợ tạm, chợ cóc mà ở đó mọi
tiêu chuẩn đều thấp hơn so với siêu thị. Vì chợ cóc, chợ tạm thường nằm ven đường,
nên việc mua bán thuận tiện hơn so với siêu thị. Mặt khác hệ thống siêu thị ở Đồng Nai
còn ít so với tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Du lịch ở Đồng Nai có tài nguyên phong phú, đa dạng, năm 2013 với hơn 50 địa điểm
du lịch tự nhiên và gần 40 địa điểm du lịch nhân văn. Đặc biệt, một số di tích văn hóa
lịch sử phân bố xen kẽ trong các khu rừng tạo thành một dạng tài nguyên du lịch sinh
thái đặc sắc: các khu rừng văn hóa lịch sử và bảo vệ môi trường. Đồng thời, nền văn
hóa cũng rất đặc sắc với khoảng 41 dân tộc ít người ở vùng này rất lâu đời thường cư

40
trú ở gò đồi, vùng có nước ngọt theo tuyến sông rạch nên bên cạnh các lễ hội mang tính
quốc gia thì cũng tồn tại nhiều hoạt động như: Lễ hội làng xã truyền thống (cúng đình,
cúng vía trời đất, cúng bà, tả tài phán,...); Lễ hội của các dân tộc ít người (cúng lúa mới,
cầu được mùa, đâm trâu, cầu an...); Lễ hội kỷ niệm những sự kiện lịch sử Đồng Nai (Lễ
hội truyền thống cách mạng tại Chiến Khu Đ, Chiến thắng La Ngà, chiến thắng sân bay
Biên Hòa...). Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đã đạt được một số thành tựu
nhất định nhưng theo thống kê của Sở VHTT&DL Đồng Nai, các cơ sở lưu trú du lịch
phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu tại khu trung tâm đô thị và rải rác ở các
huyện. Riêng tại thành phố Biên Hòa đã có khoảng 350 cơ sở lưu trú du lịch. Điều này,
làm cho tình trạng thiếu phòng tại các khu vực vùng xa trung tâm trở nên thiếu có nhu
cầu tổ chức những sự kiện lớn. Bên cạnh đó, tỉnh cũng mời gọi được một số dự án đầu
tư du lịch từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Tuy vậy, khả năng thu hút đầu
tư nước ngoài còn rất hạn chế. Năm 2013, Đồng Nai có 40 dự án đầu tư du lịch, trong
đó 9 dự án đã hoạt động kinh doanh ổn định, 19 dự án đang trong quá trình đền bù, quy
hoạch, hoàn chỉnh thủ tục và 17 dự án đã thu hồi giấy phép hoặc hết hạn thời gian giới
thiệu địa điểm. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được quan tâm, thúc
đẩy. Nhìn chung, hiệu quả của hoạt động xúc tiến du lịch chưa cao, chủ yếu giới hạn
trong các hoạt động giới thiệu du lịch, nâng cao sự hiểu biết của du khách về Đồng Nai
chứ chưa thật sự đủ mạnh để định hướng thị trường, góp phần khơi dậy nhu cầu của du
khách, và mới dừng lại ở mức thu hút phục vụ khách nội tỉnh, còn rời rạc đơn lẻ, chưa
đầu tư đúng mức cho các hoạt động xúc tiến dẫn đến chưa đủ sức hấp dẫn du khách
ngoài tỉnh và khách quốc tế.

2.3. Giải pháp


Giải Pháp về nguồn lực lao động:

Lý do lựa chọn giải pháp:

Con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển, quyết định mọi sự thành - bại. Dù ở
thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò quyết
định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Đảng Cộng sản Việt
Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

41
bằng, văn minh. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng
yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã
hội. Trong các văn kiện các Đại hội của Đảng đã khẳng định: “Con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững”. Nhân lực lại
càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân
tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta
trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người.

Đến nay Đồng Nai thu hút đông đảo lao động nhập cư. Điều này gây ra nhiều hệ lụy
như thiếu trường lớp, hệ thống y tế quá tải, hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông
không đáp ứng đủ nhu cầu. Ngoài ra việc sử dụng lao động chưa hợp lý cũng như chưa
tạo được sức hút với những lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao cũng là
một bước ngại cản trở Đồng Nai trong tương lai. Thực tế đã chứng minh, trong giai
đoạn 10 năm từ 2010 – 2020 đã có rất nhiều dẫn chứng chỉ ra sự cấp thiết trong yếu tố
con người ngay tại địa bàn nơi đây. Điển hình là vụ nhà máy Intel Product VN, sau một
năm trực tiếp khảo sát gần 2.000 sinh viên năm cuối tại năm trường đại học chuyên
ngành kỹ thuật lớn nhất VN, họ chỉ chọn được 40 sinh viên đủ khả năng. Đó chính là
hồi chuông cảnh báo cho chính Đồng Nai phải nhanh tay nâng cấp lao động để phù hợp
với tiêu chuẩn ngày càng cao của các doanh nghiệp. Nếu không cho dù có doanh nghiệp
lớn đi vào đầu tư thì cũng không đưa về được lợi nhuận cho tỉnh nhà.

Bởi dưới những ví dụ trên, nhóm chúng em thấy được nguồn nhân lực con người chính
là vấn đề cấp thiết nhất cho sự phát triển bền vững lâu dài. Chính vì vậy đây sẽ là nhóm
chúng em sẽ tập trung phân tích giải pháp cho vấn đề này.

Phân tích:

Đến nay, nguồn nhân lực của Đồng Nai đã có sự thay đổi rất lớn cả về số lượng và chất
lượng, lực lượng lao động tăng bình quân giai đoạn 2006-2011 là 5%, gấp ba lần so với
tốc độ tăng dân số chung. Số lao động chất lượng cao tăng lên nhanh chóng, thường
được thể hiện ở trình độ đào tạo, lĩnh vực làm việc... Chẳng hạn, số lao động làm việc
trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, xây dựng chiếm tới 91%, riêng trong lĩnh vực
công nghiệp chế biến là 428.949 người, chiếm 32% tổng số lao động, số lao động qua
đào tạo chiếm tới trên 50% tổng số lao động... Nguồn nhân lực dồi dào về số lượng đã

42
tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Số người trong độ tuổi lao động
và có khả năng lao động có tỷ lệ cao trong tổng dân số, tạo điều kiện hết sức thuận lợi
cho tỉnh thực hiện tốt mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chất lượng lao động cũng được thay đổi đáng kể. Năm 2001, tỷ lệ lao động được đào
tạo là 32% so với tổng số lao động, thì đến năm 2011, tỷ lệ này lên tới trên 50%. Trong
tổng số lao động đã qua đào tạo, tốc độ phát triển số lao động có trình độ công nhân kỹ
thuật là nhanh nhất. Năm 2001, số lao động này mới chiếm 18,22% so với tổng số lao
động, thì năm 2011 chiếm tới gần 40%. Sự gia tăng tương đối nhanh của tỷ lệ lao động
qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc tại các ngành kinh tế là điều kiện
thuận lợi để tỉnh phát triển các ngành kinh tế, đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học,
nhất là những ngành phát triển cần có hàm lượng chất xám cao.
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển của
tỉnh nói riêng và của đất nước nói chung. Hiện, sự phân bổ nguồn nhân lực trong các
ngành kinh tế của tỉnh đã thay đổi theo hướng tích cực, tạo điều kiện hết sức thuận lợi
cho tỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, trên cơ sở đó có thể khai thác
có hiệu quả các ngành mà tỉnh có lợi thế so sánh như công nghiệp, dịch vụ, nhất là
những ngành công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ chất lượng cao.
Nguồn nhân lực trên địa bàn Đồng Nai không những thay đổi về số lượng, chất lượng
và cơ cấu, mà còn được thay đổi cả về quan điểm, tư duy, tác phong làm việc. Có thể
nói rằng, từ tư duy đến tác phong làm việc của người lao động, kể cả cán bộ quản lý
nhà nước, các nhà quản trị doanh nghiệp đã có những thay đổi cơ bản, theo hướng phù
hợp với môi trường hội nhập kinh tế quốc tế. Người lao động đã chuyển từ tác phong
lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp. Những nhân tố này đã tạo điều kiện
hết sức thuận lợi cho Đồng Nai nói riêng và đất nước nói chung thực hiện tốt mục tiêu
hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì nguồn nhân lực của Đồng Nai còn
bộc lộ nhiều hạn chế, trước hết là chất lượng.
Tuy đạt được những thành tựu đáng kể, song nguồn nhân lực ở Đồng Nai vẫn chưa đáp
ứng được hết những yêu cầu và thiếu tính bền vững, cả về sức khỏe, về năng lực, trình
độ chuyên môn, kỹ thuật, về ý thức lao động, kỷ luật lao động... Tỷ lệ lao động được
đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng trong tổng lực lượng lao động chưa cao so với yêu cầu
công việc. Tính đến hết năm 2011, mới có trên 50% số người được đào tạo trong tổng
số lực lượng lao động. Riêng với nữ giới, con số này còn thấp hơn, chỉ khoảng 30%.
Con số này thực sự chưa thể đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
tỉnh. Sự hạn chế không chỉ biểu hiện ở phương diện số lượng lao động được đào tạo mà
cơ cấu đào tạo lực lượng lao động còn nhiều bất hợp lý, số lao động có trình độ trung
học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu. Chẳng hạn, số lao động xuất
thân từ học sinh phổ thông chiếm tới 34,62%, số lao động xuất thân từ các trường dạy
nghề chỉ có 9,6% ; tốt nghiệp đại học, cao đẳng là 4,21% ; xuất thân từ bộ đội là 5,09%...
Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn là yếu
tố làm hạn chế năng lực cạnh tranh của tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa, nhất là
trong điều kiện quá trình công nghiệp hóa đang chuyển mạnh về chất.

43
 Giải pháp:
Nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và người lao động về phát triển nguồn nhân
lực
Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần
gắn với truyền thống của cộng đồng dân tộc. Nguồn nhân lực có dồi dào, đủ trình độ,
năng lực, phẩm chất mới có thể làm chủ các lĩnh vực, thực hiện tốt, đạt hiệu quả cao
các yêu cầu, mục tiêu, định hướng phát triển của các địa phương. Trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế và phát triển thì yêu cầu sử dụng lao động chất lượng cao là vấn
đề bức thiết, đó là giải pháp quan trọng, cơ bản và lâu dài để Đồng Nai đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cơ bản,
quan trọng nhất trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Đồng Nai nói riêng và cả
nước nói chung trong môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay. Trong điều kiện toàn cầu
hóa, tự do hóa thương mại và sự đổi mới khoa học, công nghệ diễn ra nhanh chóng, đòi
hỏi lực lượng lao động phải thích nghi tốt với quá trình này.
Tăng cường đào tạo, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Hiện nay, trình độ lao động của Đồng Nai chưa đáp ứng được hết yêu cầu phát triển
trong điều kiện mới, vì vậy trong thời gian tới cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực. Trước hết, cần tuyên truyền cho mọi người lao động hiểu rõ yêu cầu cấp thiết
phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh cũng như của đất nước. Bên cạnh đó, tăng cường phát triển mạng lưới
đào tạo nghề cả theo chiều rộng và chiều sâu như: đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở
dạy nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên dạy nghề,
đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển,
tăng cường sự gắn kết trong đào tạo nghề với doanh nghiệp, đặc biệt đẩy mạnh công tác
xã hội hoá trong công tác đào tạo nghề. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân
lực được đào tạo một cách căn bản có hệ thống, có khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng
tạo, phát minh những tri thức khoa học mới, đáp ứng tốt, đảm nhiệm xuất sắc yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra trên các lĩnh vực. Trong điều kiện phân công lao động quốc tế diễn ra
nhanh chóng thì lợi thế về lao động rẻ sẽ ngày càng mất đi và nhường chỗ cho nó là lao
động chất lượng cao, vì vậy Đồng Nai cần tăng cường đào tạo lao động chất lượng cao
nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Tập trung phát triển thị trường lao động
Cần tập trung nâng cao năng lực hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm, xây
dựng các sàn giao dịch việc làm, củng cố và phát triển hệ thống thông tin thị trường lao
động, phát triển các dịch vụ về đào tạo, tìm kiếm, giới thiệu việc làm, mạng lưới này sẽ
thực hiện chức năng làm cầu nối liên kết giữa cung và cầu lao động, giữa người lao
động, cơ sở đào tạo và người sử dụng lao động.
Tăng cường hợp tác với các bộ, ngành Trung ương, các địa phương và các tổ chức
quốc tế để phát triển nguồn nhân lực
Trong thời gian tới, Đồng Nai nên tập trung hợp tác với các ban, ngành Trung ương,
các địa phương khác và các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
nguồn nhân lực. Khai thác tốt nội lực và ngoại lực trong phát triển nguồn nhân lực.

44
Xây dựng chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài
Trước mắt rà soát lại các quy chế đã ban hành, xây dựng chính sách đãi ngộ về tiền
lương, nhà ở nhằm thu hút nhân tài, nhất là trong những lĩnh vực mà tỉnh xác định đó
là khâu đột phá về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Cần có cơ chế sử dụng
cán bộ một cách hợp lý nhằm thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo, phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực. Tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích người lao động tham gia
học tập nâng cao trình độ.
Chuyển dịch cơ cấu sử dụng lao động
Hiện nay, cơ cấu sử dụng lao động tại Đồng Nai còn khá nhiều bất cập, cụ thể:
Lao động trong cái khối ngành sản xuất cực kì lớn, cụ thể là ở các khu công nghiệp, chủ
yếu là công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp. Mặc dù vậy tiềm năng lao động về mảng
này vẫn cực kì cần thiết, và cũng đồng thời mang lại một khoản thu nhập nhất định.
Vì vậy nên hướng mũi lao động thêm vào những nơi như vậy, giảm thiểu tỉ lệ buôn bán
nhỏ lẻ, dịch vụ không cần thiết. Ngoài ra còn có thể phối hợp với các doanh nghiệp tinh
giảm biên chế cho các chức danh thiếu tính hữu dụng ở bộ máy cấp thôn, xã.
 Thuận lợi khi thực hiện giải pháp:
Đồng Nai có sự thuận lợi đầu tiên là về vị trí địa lý, nằm gần TP. Hồ Chí Minh và
các tỉnh Tây Nam Bộ, có thể dễ dàng thu hút nguồn nhân lực được đào tạo chất lượng
cao từ các trung tâm giáo dục lớn như TP. Hồ Chí Minh, đồng thời còn hấp dẫn cả các
lao động ngoại tỉnh đang có nhu cầu tìm việc bởi yếu tố di chuyển tiện lợi.

Tiếp theo, Đồng Nai đang là nơi thu hút vốn đầu tư nước ngoài cực kì lớn, đó sẽ là
tiền đề cho việc nâng cao thu nhập bình quân cho lao động

Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ như bảo hiểm, giờ làm việc linh hoạt,... là một điểm
cộng lớn. Chính yếu tố phúc lợi là điểm tiên quyết đầu tiên để nâng cao tinh thần lao
động. Như các chương trình về quê ăn tết, nhà ở cho công nhân, … luôn là đề tài bàn
tán được chú ý nhiều trong xã hội. Đặc biệt vừa qua Chương trình "Tiếp sức người lao
động" với gói việc làm “3 trong 1” (giới thiệu việc làm, hỗ trợ tìm nhà trọ, xét nghiệm
Covid-19 miễn phí) nhằm hỗ trợ NLĐ yên tâm đến, ở lại thành phố tìm việc được nhanh
nhất.

Thêm vào đó các trung tâm quy hoạch bàn bản thuận tiện cho người lao động, đầy
đủ các khu dịch vụ cần thiết như trường học, xe buýt công cộng, siêu thị, chợ dân sinh,

45
 Khó khăn khi thực hiện giải pháp:
Một trong những điều đầu tiên cần nhắc đến đó chính là chưa đủ thu hút nhân lực
có trình độ cao tới với đại bàn phục vụ lâu dài.

Tuy đã có nhiều sự đầu tư, chính sách hấp dẫn nhân tài nhưng hầu như vẫn chưa
đủ, một số khu đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương vẫn đang dẫn trước ĐN
để dẫn vị thế đầu về nhân lực.

Về cơ cấu lao động, các ngành sản xuất cũng chịu chung số phận khi sự thu hút
lớn nhưng cũng chỉ như muối bỏ biển, các khối ngành kinh tế, du lịch, dịch vụ vẫn có
một vị thế cụ thể, khiến cho các doanh nghiệp gần như luôn luôn trong tình trạng thiếu
lao động.

Chưa kể đến trong vòng ba năm vừa qua, COVID – 19 đã đánh một đòn quá
mạnh với kinh tế cả nước nói chung, và đối với Đồng Nai nói riêng. Dịch bệnh ảnh
hưởng tới mọi mặt trong phát triển, đình trệ kinh tế, cắt đứt chuỗi cung ứng và ngăn
chặn sự phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài. Một số lao động sau một thời gian dài
nghỉ vì dịch bệnh không quay trở lại làm việc khiến cho việc nhân lực đã thiếu lại càng
trầm trọng hơn.

Các yếu tố về dân sinh cũng là một vấn đề nhức nhối khi nguồn lao động nhiều,
càng kể đến là lao động ngoại tỉnh nhập cư khiến cho vấn đề về an ninh trật tự trên địa
bàn chưa bao giờ là yên ổn. Các vụ trộm cướp, án mạng, … không khác gì một búa bổ
vào tâm lý, đời sống tinh thần lao động.

Lạm phát và giá cả phi mã cũng đang khiến cho các nguồn nhân lực lao đao khi
lương chưa tăng mà chi tiêu đã liên tục bay chóng mặt, áp lực lớn và thực sự cần quan
tâm cho chính quyền và các nhà chức trách.

Trong tương lai thì ảnh hưởng mới nhất của cuộc khủng hoảng Nga – Ukraina sẽ
ảnh hưởng không kém gì COVID -19, thậm chí có thể còn hơn. Giá xăng tăng kéo theo
giá vận tải tăng, chắc chắn kèm theo giá cả hàng hóa cũng phải tịnh tiến, đặt gánh nặng
lớn lên thị trường và nhân dân người lao động. Chưa kể đến đường bay gián đoạn sẽ
khiến cho chuỗi cung ứng nay đã mong manh càng thêm khốn khó.

46
47
KẾT LUẬN

Với những thế mạnh về tài nguyên, nhân lực trẻ, địa lý Đồng Nai hằng năm đã thu hút
lượng đầu tư nước ngoài rất lớn và được quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia
thu hút FPI thành công nhất khu vực và trên thế giới, được đánh giá là địa điểm đầu tư
tin cậy, hiệu quả đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.

Việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đã phần nào góp phần thúc đẩy chuyển dịch,
đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, nhiều mô hình tăng trưởng vượt bật, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhiều sản phẩm, dịch vụ, được cạnh tranh đưa ra thị trường, thúc đẩy cải cách thể chế,
chính sách kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh, giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho dân số trẻ của Đồng Nai nói riêng và nước ta nói chung.

Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài cũng tạo ra nhiều thuận lợi cho Đồng Nai đẩy nhanh
thời gian mở rộng thị trường quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, nhiều hàng hóa
may mặc tại Việt Nam được du nhập sang các nước trên thị trường thế giới đến những
quốc gia có nền kinh tế phát triển, đống thời giới thiệu cho bạn bè quốc tế biết đến
những văn hóa của nước ta, thu hút nền kinh tế du lịch. Nhiều xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài được thành lập liên kết với những xí nghiệp trong nước tạo ra mạng lưới
sản xuất toàn cầu giúp tham gia trong quá trình phân công lao động khu vực. Đầu tư
nước ngoài cũng tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường quốc tế, gia tăng
kim ngạch xuất khẩu, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị trên thị
trường thế giới, khằng định được vị trí của hành hóa nước ta trên thị trường Nhờ có định
hướng này, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh, góp phần cân bằng
cán cân thương mại, giảm áp lực tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Hiên nay, nhiều doanh nghiệp với vốn đầu tư nước ngoài đã phần nào góp phần cho quá
trình đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ để có thể đáp ứng được nhu
cầu của các nhà tuyển dụng từ đó tạo động lực để lực lượng lao động đầu tư trình độ,
tay nghề của bản thấn, từ đó tạo ra những đội ngũ lao động chuyên nghiệp cao. Cụ thể
tại nhiều doanh nghiệp chúng ta có thể nhiều vị trí trước kia được các chuyên gia nước
ngoài đảm nhận nay đã được thay thế bằng những chuyên gia người Việt Nam, từ đó
phần nào đã góp phần xóa đói, giảm nghèo tạo công ăn việc làm cho nhiều cá nhân. Từ

48
đó càng khẳng định vai trò quan trọng của yếu tố con người trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Đồng Nai nói riêng và nước ta nói
chung.

49
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Phân tích những vai trò của đầu tư nước ngoài (luatminhkhue.vn)

[2] Định hướng , giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam giai đoạn 2021-2030

http://vjst.vn/vn/tin-tuc/5638/dinh-huong--giai-phap-cong-nghiep-hoa--hien-dai-hoa--

nong-nghiep--nong-thon-viet-nam-giai-doan-2021-2030.aspx

[3] How Vietnam Became An Economic Miracle? - YouTube

[4] Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người,

Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người – Wikipedia

tiếng Việt

[5] Thu hút FDI vượt mốc 31 tỷ USD (baochinhphu.vn)

[6] Nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu
(congdoantttt.org.vn)

[7] Bảo Khê (2018), So sánh đường lối Công nghiệp hóa của nước ta ở hai thời kì
trước đổi mới (1960 – 1985) và sau đổi mới (sau 1986),
So sánh đường lối Công nghiệp hóa của nước ta ở hai thời kì trước đổi mới
(1960 – 1985) và sau đổi mới (sau 1986). (noron.vn)

[8] Đại hội Đảng lần thứ VI (2017), Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển
KT - XH trong 5 năm 1986 – 1990,
Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển KT - XH trong 5 năm 1986 - 1990
| Ban Chấp hành Trung ương Đảng (dangcongsan.vn)

50
[9] Đại hội Đảng lần thứ VIII (2017), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996
– 2000,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1996 - 2000 | Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (dangcongsan.vn)

[10] Đại hội Đảng lần thứ XI (2015), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 | Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (dangcongsan.vn)

[11] Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2021-2030,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 | Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (dangcongsan.vn)

[12] Loigiaihay.com, Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước? (loigiaihay.com)

[13] Tusachthuvien , Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam,
Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam – VLOS
(thuvienkhoahoc.com)

[14] So sánh điểm giống nhau và khác nhau trong đường lối công nghiệp
hóa thời kỳ trước đổi mới và đường lối công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới,
So sánh điểm giống nhau và khác nhau trong đường lối công nghiệp hóa thời
kỳ trước đổi mới và đường lối công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới? – Thich Ho
Hap

51

You might also like