Professional Documents
Culture Documents
Tình Hình Biến Động Của Tỷ Giá Hối Đoái VND
Tình Hình Biến Động Của Tỷ Giá Hối Đoái VND
Giai đoạn từ năm 2008-2011 tỷ giá đã có nhiều sự biến động. Đầu năm 2008, nền
kinh tế vừa kết thúc giai đoạn suy thoái và khủng hoảng bắt đi vào sự ổn định.
Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự phản ứng trong chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
Dựa vào đồ thị và số liệu thống kê ta có thể thấy tỷ giá đầu 2008 của ngân hàng
thương mại giảm xuống sàn biên độ và đồng Việt Nam lên giá trong giai đoạn này.
Nguyên nhân là do từ cuối năm 2007 sự gia tăng ồ ạt của các nguồn đầu tư gián
tiếp vào Việt Nam làm cho nguồn cung USD tăng mạnh do đó tỷ giá trong giai
đoạn giảm xuống hay nói cách khác là đồng Việt Nam tăng giá. Dựa vào hình 1 ta
có thể thấy tỷ giá NHTM có nhiều biến động mạnh do lạm phát tăng cao vào giai
đoạn nửa đầu năm( tỷ lệ lạm phát năm 2008 rất cao có lúc kên đến gần 20%) đồng
thời cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bắt đầu ảnh hưởng và tác động đến nền
kinh tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Và cũng bắt đầu từ nửa cuối năm 2008
cùng với sự suy thoái của nền kinh tế thì luồng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã
bắt đầu giảm. Năm 2008 tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến động liên tục, có lúc
tỷ giá này thấp hơn cả tỷ giá chính thức trong khi năm 2009 tỷ giá NHTM luôn
luôn ở mức trần biên độ mà NHNN công bố. Trước áp lực về quan hệ cung cầu
ngoại hối trên thị trường mà tỷ giá trên thị trường tự do tăng rất nhanh. Mặc dù
NHNN đã mở rộng biên độ dao động tử +/- 3% lên +/- 5% (biên độ dao động lớn
nhất trong vòng 10 năm qua) nhưng các NHTM vẫn giao dịch ở mức trần. Đến
26/11/2009 NHNN chính thức giảm biên độ dao động xuông lại còn +/- 3% tuy
nhiên các NHTM vẫn dao dịch ở mức tỷ giá trần.
Hình 2: Tỷ giá giao dịch VND/USD 2008 của các ngân hàng thương mại.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm từ đầu năm 2008. Theo công bố của tổng cục
thông kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 tăng 2,38% so với cuối năm 2007. Để kiềm
chế lạm phát thì NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm, tăng 0,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 7,5%/năm tăng
1,0%/năm,…Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hàng tín phiếu NHNN bằng VND
vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá trị tín phiếu
phát hành 20300 tỷ đồng với kì hạn 364 nngày, lãi suất 7,8%/năm. Đồng thời tỷ giá
USD trên thị trường thế giới tăng mạnh. Hệ quả tức thời của các tác động trên là
dòng tiền VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng khan hiếm tiền mặt, thừa USD giữa
các NHTM.Vào thời điểm đó, USD/VND xuống rất thấp, tỷ giá của các NHTM
luôn ở mức dưới tỷ giá liên ngân hàng. Người dân không còn giữ USD như trước
mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao.
Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại
được lợi nhuận hơn. Nhà đầu tư càng được lợi cao hơn khi lãi suất ở VN đang tăng
chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh. Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền
về cho người thân ở Việt Nam đầu tư mà chủ yếu là gửi tiết kiệm để hưởng lãi
suất. Các NHTM một mặt phải chạy đua lãi suất với nhau, diễn ra một cuộc cạnh
tranh gây gắt nhằm thu hút lượng VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của
NHNN, mặt khác phải cầu cứu NHNN mua bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy
cho đồng USD, giải ngân để lấy tiền đồng hỗ trợ thanh khoản khi cung vốn cạn
dần. Tỷ giá VND/USD từ tháng 7/2008 có xu hướng tăng nhưng ổn định hơn.
Trong tháng 7/2008 chênh lệch giữa ngoại tệ liên ngân hàng và ngoại tệ trên thị
trường tự do không quá cách biệt. Nguyên nhân là do ngân hàng nhà nước công bố
nguồn dự trữ ngoại tệ nên tâm lý của người dân được cải thiện hơn nên người dân
giảm gim giữ ngoại tệ và đầu cơ ngoại tệ nên tỷ giá lúc này khá ổn định. Mặc khác
lạm phát lúc này đã được kiểm soát mức tăng lạm phát được kiềm hãm ở mức
1.13% so với tháng trước. Sang các tháng cuối năm biến động nhưng không nhiều,
tỷ giá VND/USD trong 8/2008 biến động nhích lên theo từng tuần. Cụ thể tỷ giá
bình quân liên ngân hàng từ 16.489 đồng lên 16.493 đồng và tăng đến 16.496 đồng
trong 2 tuần cuối tháng 8. Tỷ giá trên thị trường tự do ổn định hơn. Tháng 9/2008
biến động mạnh nhất vào giũa tháng 9 tỷ giá tăng mạnh từ 16.620 lên 16.740 sau
đó giảm xuống còn 16.630 VND/USD vào cuối tháng. Nguyên nhân là do cuộc
khủng hoảng tài chính ở Mĩ, các tập đoàn tài chính của Mĩ bị phá sản làm cho tỷ
giá biến động bất ngờ. Đến tháng 10/2008 tỷ giá tiếp tục được ổn định và đến cuối
tháng tỷ giá lại bất ngờ tăng vọt lên mốc 16.800 VND/USD trong khi tỷ giá liên
ngân hàng vẫn ổn định. Tuy nhiên sau đó thì tỷ giá này cũng giảm nhẹ. Nguyên
nhân là do cuối tháng 9 các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khối lượng cổ phiếu
và trái phiếu trên 2 sàn giao dịh của Việt Nam mà chủ yếu là để mua USD nên gây
sức ép lên tỷ giá. Nguyên nhân nữa là do các ngoại tệ mạnh trên thế giới đều mất
giá so với USD nhất là chính phủ Mĩ can thiệp vào thị trường tài chính ngăn chặn
cuộc khủng hoảng làm cho USD tăng giá trở lại. Cuộc khủng hoảng toàn cầu ảnh
hưởng kinh tế Việt Nam. Rõ ràng nhất là trong cuối năm 2008 nhu cầu hàng xuất
khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm liên tục từ tháng 8 chủ yếu là dầu thô. Các
nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm đầu tư, lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng
giảm, lượng kiều hối cũng giảm mạnh đã làm cho nguồn cung USD giảm mạnh
ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá. Tuy nhiên chính phủ ta đã có biện pháp hợp lý và đã
kiểm soát được tỷ giá không biến động quá mạnh.
Năm 2009:Giá USD tháng 01/2009 so với tháng 12/2008 tăng 1,48%, so với
tháng 01/2008 tăng 8,16%. Qua tháng 2 dưới sự tác động của khủng hoảng kinh tế
thế giới, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nhiều tuy nhiên nhà nước ta có nhiều
biện pháp để kiềm chế sự ảnh hưởng và cải thiện kinh tế. Nhìn chung từ đầu tháng
1/2009 đến giữa tháng 2/2009, tỷ giá USD/VND không có biến động mạnh - tăng
giảm trong khoảng 17.480 đến 17.490 VND/USD - nguyên nhân phần lớn là do có
sự can thiệp của nhà nước. Vào những ngày đầu tháng 1/2009 nhu cầu vay vốn
bằng ngoại tệ của doanh nghiệp đã giảm hẳn sau khi các NH áp dụng chương trình
vay vốn được bù 4% lãi suất.Cơ chế bù lãi suất chỉ áp dụng cho các trường hợp
vay vốn bằng VND, không áp dụng cho trường hợp vay vốn bằng USD.Các doanh
nghiệp đã tính toán, vay USD vừa phải lo lắng về biến động tỉ giá lại không được
bù lãi suất. Từ đó, doanh nghiệp đã dừng vay vốn bằng USD để chuyển sang vay
VND, số đã vay đến hạn trả nợ, không vay thêm làm số dư vốn vay USD giảm.
Đầu ra của USD ở nước ngoài bị thu hẹp dần. Như vậy, gói kích cầu đã làm cho
cầu đồng nội tệ tăng vì các NHTM cần VND để cho vay theo nên lãi suất huy động
VND tăng, làm cho giá VND tăng. Đồng thời, gói kích cầu cũng làm cho nhu cầu
USD giảm, lãi suất huy động USD giảm, làm cho giá USD giảm. Tuy nhiên tỷ giá
USD/VNĐ lại tiếp tục tăng trong các tháng tiếp theo, tỷ giá niêm yết tại các ngân
hàng vẫn không đổi, nhưng trên thị trường tự do tỷ giá USD/VND có nơi đã lên
đến 18.000đ. Trong hệ thống ngân hàng đã xảy ra tình trạng thiếu USD, khiến cho
nhiều người có nhu cầu không thể đổi được ngoại tệ. Mặt khác do việc chênh lệch
tỷ giá giao dịch giữa ngân hàng và thị trường tự do đã khiến cho những người dân
hay doanh nghiệp có USD không bán cho các ngân hàng mà bán trên thị trường tự
do điều đó buộc NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ
giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên thị trường tự do tiến
sát mức 18000đồng/USD. Trong điều kiện 4 tháng đầu năm 2009 lượng ngoại tệ
ròng vào Việt Nam dương tuy nhiên tỷ giá lại tăng và nguyên nhân chủ yếu vẫn là
do các chủ thể găm giữ ngoại tệ. Trong năm 2009 tỷ giá VND/USD biến động
mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. Cụ thể từ tháng 1/2009
đến tháng 3/2009 tỷ giá liên ngân hàng dao động trong khoảng17.450 -
17.700đồng/USD. Từ tháng 10 đến cuối tháng 11/2009 tỷ giá biến động rất dữ dội,
trên thị trường tự do có lúc đạt đỉnh 20000 đồng/USD và 19750 đồng/USD trên thị
trường liên ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do hiện tượng găm giữ ngoai
tệ của người dân, các doanh nghiệp thì vì sợ tỷ giá sẽ tiếp tục tăng nên mặc dầu
chưa đến kỳ hạn trả nợ nhưng đã mua sẵn ngoại tệ để chuẩn bị cho việc trả nợ.
Điều đó đã làm cho cầu ngoại tệ tăng cao gây ảnh hưởng tỷ giá. Ngoài ra, do tâm
lý bất ổn của người dân và các doanh nghiệp nên họ lựa chon găm giữ ngoại tệ và
đồng thời do chính sách hỗ trợ lãi suất vay tiền đồng thấp cho các doanh nghiệp,
phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên các
doanh nghiệp muốn vay tiền đồng hơn mà không cần bán ngoại tệ để đổi ra VND
nữa. Đây là gói kích cầu mà nhà nước ta thực hiện tuy nhiên đã mang lại ảnh
hưởng lớn đến tỷ giá. Từ cuối 11/2009 đến hết năm 2009 tỷ giá bắt đầu giảm dần
trở lại nguyên nhân là do NHNN thực hiện chính sách bình ổn tỷ giá cùng với sự
góp sức của NHTM đã làm tỷ giá giảm sau giai đoạn biến động mạnh.
2. Sự ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2008-2011:
2.1. Ảnh hưởng đến xuất, nhập khẩu giai đoạn 2008-2011:
Hình 2: Biểu đồ thể hiện kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu các năm
2008-2011.
120
100
80
60
xuất khẩu
40 nhập khẩu
nhập siêu
20
0
2008 2009 2010 2011
-20
-40
Năm 2009:
Đến năm 2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 127,05 tỷ USD.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 57,1 tỷ USD giảm 8,9% so với năm 2008. Năm
2009 là năm đầu tiên xuất khẩu giảm so với trước đó. Đóng góp vào việc giảm kim
ngạch xuất khẩu năm 2009 do tỷ trọng xuất khẩu giảm: dầu thô chiếm 69,7%, tiếp
đến giày dép chiếm khoảng 12,6%, cao su chiếm xấp xỉ 6,8%, cà phê 6,7%, gỗ và
sản phẩm gỗ 4,7%, thủy sản 4,4%,… Kim ngạch nhập khẩu đạt 69,95 tỷ USD giảm
13,3% so với 2008. Cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 12,85 tỷ USD. Kim
ngạch nhập khẩu giảm mạnh hơn so với xuất khẩu.
Năm 2010:
Năm 2010,tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt gần 157
tỷ USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt 72,19 tỷ
USD, tăng 26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là 12,61 tỷ
USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Hết năm 2010, tổng trị giá
xuất nhập khẩu của khu vực FDI là 70,92 tỷ USD, tăng 41,5% so với năm trước.
Trong đó, trị giá xuất khẩu là 34,1 tỷ USD, tăng 41,2% và chiếm 47% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực này là 36,97 tỷ USD,
tăng 41,8%, chiếm 43,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Xu hướng của
các doanh nghiệp có vốn FDI năm 2010 có mức tăng trưởng cao, xấp xỉ 40%. Đây
là một yếu tố đáng lưu ý của bức tranh xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2010.Nhiều
mặt hàng trong năm 2010 tăng mạnh về số lượng xuất khẩu, giúp duy tăng trưởng
xuất khẩu và thể hiện được quy mô mở rộng sản xuất. Lượng hàng công nghiệp
tăng lên đã góp phần bù đắp cho lượng hàng khoán sản, dầu thô giảm mạnh (dầu
thô và than đá giảm 3,8 tỷ USD). Giá xuất khẩu năm 2010 của nhiều mặt hàng
cũng tăng mạnh, trong đó nhiều mặt hàng được hưởng lợi từ tăng giá thế giới như
gạo, cà phê, cao su, dầu thô, than….một số hàng hóa tăng giá khá do hàm lượng
chế biến tăng lên như dệt may, thủy sản, gỗ, dây và cáp điện,…
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có xu hướng tăng ở ngành công nghiệp chế tạo và hàng
hóa có hàm lượng chất xám cao. Tỷ trọng hàng hóa ngành công nghiệp chế biến so
với 2009 tăng mạnh từ 63,4% lên 67,9%, nhóm khoáng sản giảm từ 15,2% xuống
11,1%,…
Về nhập khẩu năm 2010, doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 47,5 tỷ USD chiếm
56,6% tổng kim ngạch tăng 8,3% so với năm 2009, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài nhập khẩu 36,5 tỷ USD chiếm 43,4% tổng kim ngạch và tăng 39,9%
so với năm 2009.
Một số hàng hóa cần nhập khẩu giảm khá mạnh năm qua là xăng dầu giảm 28,6%,
khí đốt hóa lỏng giảm 14%, phân bón giảm 22%, thép các loại giảm 10%, ô tô
nguyên chiếc giảm 45%,…chủ yếu do sản xuất trong nước phần nào đáp ứng được
nhu cầu.
Năm 2011:
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan công bố ngày 1-2-2012, năm
2011, tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu đạt 203,66 tỷ USD, tăng 29,7% so
với cùng kỳ năm trước.Trong đó, trị giá hàng hoá xuất khẩu đạt 96,91 tỷ USD, tăng
34,2% trong khi đó, trị giá hàng hóa nhập khẩu là 106,75 tỷ USD, tăng 25,8% .Với
kết quả trên thì cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam trong năm 2011 thâm
hụt 9,84 tỷ USD, bằng 10,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2011 đạt 96,71 tỷ USD, tăng 36% so với kết
quả thực hiện của năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu là 47,87 tỷ USD, tăng
40,3% và chiếm 49,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trị giá nhập khẩu của khu vực các doanh nghiệp này là 48,84 tỷ USD, tăng 32,1%,
chiếm 45,7% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Trong khi đó, khối doanh
nghiệp trong nước xuất khẩu đạt 49,03 tỷ USD trong năm 2011, tăng 28,7% và
nhập khẩu là 57,91 tỷ USD, tăng 21%.