You are on page 1of 20

Chủ đề III

Tìm hiểu về quản lý rủi ro hoạt động trong ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel và
tình hình triển khai quản lý rủi ro hoạt động trong hệ thống ngân hàng tại Việt
Nam hiện nay.

I. Hiệp ước vốn Basel là gì?


I.1. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervisor
- BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung
ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào
thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung
ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ,
Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy
Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó
được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I.
Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối
thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà
còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc
tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp
ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề
xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ
sở kế thừa Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự
đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông
tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ
lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới
(Basel II) đã chính thức được ban hành.
Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel : (1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel
đầu tiên ( Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992. (2) Năm 1996, Basel I được bổ
sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). (3)
Tháng 6/1999, đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn
lần thứ nhất (First Consultative Package - CP1). (4) Tháng 1/2001, chương
trình tư vấn lần thứ hai (CP2). (5) Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ
ba (CP3). (6) Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được
hoàn thiện. (7) Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. (8) Năm 2010, chấm dứt
quá trình chuyển đổi.
I.2. Đặc điểm cơ bản của Basel I và Basel II

1
I.2.1. Basel I
a, Mục đích của Basel I
Nhằm củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm
cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
b, Tiêu chuẩn của Basel I
(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS
với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những
ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100
quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất
8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ
thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia
quyền (RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn
thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR <
6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được
định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi
là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh
viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại
các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng
đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn
hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các
tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân
đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)

2
Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh
nghiệp 100%... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi
loại này.

- Những thiếu sót của Basel I: Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm
1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản
ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân
hàng thương mại và đến năm 1996, Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính
đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những
điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày
càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành
(không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm
hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa
dạng hóa…
I.2.2. Basel II
a, Mục tiêu của Basel II:
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế. Tạo lập và
duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện
quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lê nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực
quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn
Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần
từ cơ chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng
đến một sự điều tiết mà sẽ dưa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lẹ và các
mô hình,
b, Tiêu chuẩn của Basel II
Basel II sử dụng khái niệm “Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt
buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy
nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt:
rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So
với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối
với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối
với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-
150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.

3
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II
cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với
Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân
hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro
thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn
lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ
nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ
vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn
nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá
việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả
năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực
hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của
quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức
vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở
giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối
thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không
được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích
đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu
buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của
ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình
đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức
này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động
một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và
do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
I.3. Ưu điểm của Basel II so với Basel I
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy
nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi Basle II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám
sát và kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý
quốc gia được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có
tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất
cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp,
các biện pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn
lựa.

4
- Về tính nhạy cảm của rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm
hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro
tăng lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và
chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 -100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Basel II quy định từ 0-150 hoặc hơn và
không có đặc quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo, Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn và đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ
trợ, đảm bảo, phái sinh tín dụng lập mạng lưới vị thế.

II. Quản lý rủi ro hoạt động trong ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel là như
thế nào?

II.1. Rủi ro hoạt động

❖ Theo Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng, “Rủi ro hoạt động (Operational
Risk) là rủi ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự không đầy
đủ hoặc vận hành không tốt các qui trình, hệ thống; các sự kiện khách quan bên
ngoài”.
❖ Các loại rủi ro hoạt động:

- Rủi ro do quy chế, quy trình nghiệp vụ;

- Rủi ro do cán bộ ngân hàng;

- Rủi ro do các nguyên nhân khác;

- Rủi ro do tác động từ bên ngoài;

- Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin.

2.2. Quản lý rủi ro hoạt động theo chuẩn Basel

❖ Theo Yang, Shirley Ou; Hsu, Carol; Sarker, Suprateek; Lee, Allen S. (2017),
Enabling Effective Operational Risk Management in a Financial Institution:
An Action Research Study, Thuật ngữ quản lý rủi ro hoạt động (ORM) được
định nghĩa là “một quá trình liên tục theo chu kỳ bao gồm đánh giá rủi ro, đưa

5
ra quyết định rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro, dẫn đến việc
chấp nhận, giảm thiểu hoặc phòng tránh tránh rủi ro.”
❖ Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn quản trị nói chung và quản trị rủi ro nói riêng theo chuẩn
mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành ngân hàng có thể tiếp cận
nhanh và gần hơn với các chuẩn mực đó. Giải quyết các vấn đề rủi ro trong
ngân hàng không chỉ để giảm thiểu chi phí kinh doanh, nâng cao hoạt động của
ngân hàng mà còn là con đường để hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.

=> Quản lý rủi ro hoạt động theo chuẩn Basel giúp thực hiện chuẩn mức tối
thiểu đánh giá rủi ro ngân hàng phải đói mặt và để đảm bảo đủ vốn, tăng hiệu
quả hoạt động nói chung.

❖ Nguyên tắc quản lý rủi ro hoạt động theo chuẩn Basel II

Tháng 6/2011, Ủy ban Basel đã phát triển 11 nguyên tắc trong quản lý RRHĐ dựa
trên 10 nguyên tắc đã được xây dựng năm 2003, tập trung vào các vấn đề chính như
hoạt động quản trị rủi ro, môi trường quản lý rủi ro, vai trò của công bố thông tin và
đề cập đến ba tuyến phòng thủ gồm đơn vị kinh doanh, đơn vị độc lập có chức năng
quản lý rủi ro và đơn vị kiểm tra độc lập.

<chú ý bạn làm ppt có thể lược bớt phần các bước để để áp dụng nguyên tắc>

Nguyên tắc về Nội dung nguyên tắc cơ Các bước chính để áp dụng
quản lý RRHĐ bản về quản lý RRHĐ nguyên tắc tốt nhất

Nguyên tắc 1: HĐQT phải đóng vai trò Tổ chức tọa đàm để đảm bảo ban
Văn hóa rủi ro chỉ đạo trong việc thiết điều hành và cán bộ liên quan
hoạt động lập - “chính sách truyền hiểu rõ về trách nhiệm của mình
thông tone at the top”
theo đó tạo văn hóa quản Đảm bảo bộ phận RRHĐ chuyển
lý rủi ro tốt, nghiêm túc giao kiến thức hiệu quả (các khía
cạnh thực tế trong QLRRHĐ và
không chỉ lý thuyết) và hỗ trợ với
việc triển khai Khung QLRRHĐ

6
theo thứ tự ưu tiên.

Nguyên tắc 2: Các ngân hàng phải xây Thực hiện phân tích khoảng cách
Khung quản lý rủi dựng, áp dụng và duy trì (Gap Analysis) để đánh giá sự
ro hoạt động một khuôn khổ được tích thiếu hụt trong hạ tầng quản lý rủi
hợp vào các quy trình ro hiện tại của ngân hàng so với
quản lý rủi ro tổng thể của nguyên tắc thông lệ quốc tế tốt
ngân hàng nhất và khuôn khổ Basel II

Phương pháp phải phân biệt được


các lĩnh vực có thể được sử dụng
qua đó tránh thực hiện trùng lặp.

Nguyên tắc 3: HĐQT phải thiết lập, phê Thiết lập cấu trúc quản trị RRHĐ
Hội đồng Quản trị duyệt và định kỳ rà soát rõ ràng (bao gồm Ủy ban RRHĐ
khuôn khổ. với điều khoản tham chiếu chi tiết,
cụ thể)

Phác thảo và áp dụng mô hình hợp


tác kinh doanh cùng với khung
quản lý RRHĐ

Nguyên tắc 4: HĐQT phải phê duyệt và Tạo ma trận xếp loại rủi ro để
rà soát khẩu vị rủi ro và phân loại điểm số rủi ro của sự
Khẩu vị và mức mức chịu đựng RRHĐ kiện với mức xếp hạng để biết khả
độ chấp nhận rủi năng xảy ra và tác động, giúp xác
ro hoạt động định khẩu vị rủi ro

Tổ chức tọa đàm với cán bộ quản


lý cấp cao để xác định và thống
nhất các tiêu chí tính điểm rủi ro
và ngưỡng rủi ro

Nguyên tắc 5: BĐH phải xây dựng trình Đảm bảo các chính sách và văn
HĐQT phê duyệt cấu trúc bản hướng dẫn về quản lý RRHĐ
Quản lý quản trị rõ ràng, hiệu quả, được phê duyệt và phổ biến trong
có sức mạnh, trong đó nội bộ
cấp cao
phải quy định rõ các
Thực hiện và ghi chép, lưu giữ hồ

7
tuyến trách nhiệm một sơ chi tiết về phân tích luồng công
cách nhất quán và minh việc để hiểu rõ từng khâu trong
bạch. quy trình và các chốt kiểm soát
cho từng bộ sản phẩm
BĐH chịu trách nhiệm
triển khai thống nhất và
duy trì xuyên suốt tổ chức
các chính sách, quy trình
và hệ thống quản lý
RRHĐ trong tất cả các
sản phẩm, dịch vụ, hoạt
động của ngân hàng,
thống nhất với khẩu vị và
mức chịu đựng rủi ro của
ngân hàng

Nguyên tắc 6: BĐH phải đảm bảo nhận


diện và đánh giá được
Nhận diện và RRHĐ cố hữu trong tất cả
đánh giá rủi ro các sản phẩm, hoạt động

lớn, quy trình và hệ thống


để bảo đảm hiểu rõ các
rủi ro cố hữu và động lực

Nguyên tắc 7: BĐH phải đảm bảo có Gắn vào quy trình để nắm bắt và
quy trình phê duyệt tất cả nhận diện các sự kiện thực tế và
Quản lý các sản phẩm, hoạt động, sự kiện suýt xảy ra (hụt) phân loại
quy trình và hệ thống theo Basel II.
thay đổi
mới, đánh giá đầy đủ
RRHĐ Thực hiện phân tích nguyên nhân

Bắt đầu thiết lập các chỉ số rủi ro


Nguyên tắc 8: BĐH phải thực hiện quy chính hạn chế (limited KRI) để có
trình để giám sát thường sự tự tin và đảm bảo khả năng
Giám sát xuyên hồ sơ RRHĐ và phân tích số liệu.
các khoản rủi ro lớn có
và báo cáo
thể gặp tổn thất. Cần có
cơ chế báo cáo phù hợp ở

8
cấp HĐQT, BĐH, hoạt
động kinh doanh để hỗ trợ
việc chủ động quản lý
RRHĐ.

Nguyên tắc 9: Các ngân hàng phải có


môi trường kiểm soát tốt,
Kiểm soát sử dụng các chính sách,
quy trình và hệ thống; có
và giảm thiểu
các chốt kiểm

soát nội bộ cũng như


chiến lược giảm thiểu rủi
ro và/hoặc dịch chuyển
rủi ro phù hợp

Nguyên tắc Các ngân hàng phải có Thiết lập chương trình quản lý
hoạt động kinh doanh bền kinh doanh liên tục hoàn thành
10: Phục hồi vững và kế hoạch duy trì các mẫu biểu phân tích tác động
hoạt động liên tục để đảm kinh doanh
và hoạt động
bảo khả năng vận hành
liên tục và hạn chế tổn (BIA’s), Kế hoạch kinh doanh liên
kinh doanh
thất trong trường hợp xảy tục (BCP’s) và các hệ thống quan
liên tục ra gián đoạn kinh doanh trọng cũng như ma trận đánh giá
nghiêm trọng quy trình đối chiếu và phân tích
BIA‘s đã hoàn thiện và các kế
hoạch để sắp xếp thứ tự ưu tiên
các yêu cầu

Nguyên tắc Việc công bố công khai Công bố công khai thông tin của
thông tin của một ngân một ngân hàng sẽ giúp các bên
11: Công bố hàng sẽ giúp các bên liên liên quan đánh giá phương pháp
quan đánh giá phương quản lý RRHĐ của ngành hàng
thông tin
pháp quản lý RRHĐ của
ngành hàng

Case study: Kinh nghiệm quản lí RRHĐ của Trung Quốc khi áp dụng Basel II

9
Hệ thống quản lý giám sát tài chính Trung Quốc đảm nhiệm chức năng phát triển thị
trường tài chính và nền kinh tế bao gồm NHTW Trung Quốc và 3 cơ quan song song
quản lý định chế bao gồm Ủy ban quản lý chứng khoán Trung Quốc (CSCR), Ủy ban
quản lý ngân hàng Trung Quốc (CBRC), Ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc
(CIRC).

Ban đầu NHTW Trung Quốc cho phép các ngân hàng duy trì mức an toàn vốn theo
yêu cầu của Basel I. Sau đó, NHTW Trung Quốc đã sửa đổi các chính sách, quy định
vào tháng 2/2004 và có hiệu lực từ tháng 1/2007. Việc sửa đổi các quy định này làm
gia tăng đáng kể chi phí đối với việc quản lý và giám sát ngân hàng. Tỉ lệ nợ xấu cao
trong tổng tài sản của các ngân hàng tại Trung Quốc khiến cho việc áp dụng Basel II
ngày càng trở nên phức tạp do các nhà quản lý phải ra quyết định lựa chọn giải pháp
đối với tỷ lệ nợ xấu này nhưng không gây ra sự gia tăng quá mức dự phòng, dẫn tới sự
suy giảm về tín dụng cho các ngành và doanh nghiệp cụ thể.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được từ năm 2007 tới năm 2009, Trung Quốc đã
chính thức áp dụng Basel II vào cuối năm 2010, áp dụng đối với 10 ngân hàng hàng
đầu và thực hiện theo phương pháp tiếp cận nội bộ IRB, mặc dù CBRC đã hối thúc 3
NHTM hàng đầu gồm Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China), Ngân hàng Kiến thiết
Trung Quốc (China Construction Bank) và Ngân hàng Công thương Trung Quốc
(Industrial & Commercial Bank of China) xây dựng hệ thống quản trị rủi ro trên cơ sở
phương pháp tiếp cận nội bộ (IRB) sớm hơn. Các ngân hàng áp dụng IRB phải áp
dụng phương pháp mô hình nội bộ đối với rủi ro thị trường và phương pháp AMA đối
với rủi ro tác nghiệp (KPMG, 2008). Đối với các ngân hàng chưa sẵn sàng áp dụng
Basel II theo thời hạn quy định, được phép chậm lại đến hết năm 2013. Đối với các
ngân hàng có quy mô nhỏ hơn có thể lựa chọn áp dụng Basel II khi sẵn sàng hoặc tiếp
tục áp dụng Basel I cho đến khi ngành ngân hàng phát triển phù hợp với mục tiêu cải
cách.

III. Tình hình triển khai quản lý rủi ro hoạt động trong hệ thống ngân
hàng tại VN hiện nay.

Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam phải
đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung và quản trị rủi ro (QTRR) nói riêng theo chuẩn

10
mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành Ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và
gần hơn với các chuẩn mực đó.

Hiện nay, bên cạnh nỗ lực giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong quá
khứ, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị các bước dài hơi hơn bằng cách xây
dựng hệ thống quản lý rủi ro (QLRR) tiên tiến, nhằm phòng ngừa rủi ro trong tương
lai, thay vì phải giải quyết “sự đã rồi”.

QTRR vẫn là một chức năng khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh
các ngân hàng đang chật vật xây dựng “khẩu vị” rủi ro, khả năng chịu đựng và các
giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản lý các
nguồn lực. Giải quyết các vấn đề rủi ro trong ngân hàng không chỉ đơn giản là chi phí
thực hiện kinh doanh mà còn là con đường để hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Hơn thế nữa, sự kết hợp giữa giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
và sự sẵn sàng chủ động của các ngân hàng sẽ giúp xây dựng hệ thống ngân hàng Việt
Nam vững mạnh.

Trước tình hình đó, Hiệp ước Basel là một thước đo chung để QLRR tại các NHTM
Việt Nam. Một ngân hàng tuân thủ Hiệp ước Basel II đồng nghĩa với việc có một hệ
thống QLRR tiên tiến, hiện đại. Hiệp ước Basel II không chỉ là tuân thủ, tiếp nhận
thực hiện Hiệp ước Basel chính là thực hiện chuẩn mực tối thiểu đánh giá rủi ro ngân
hàng phải đối mặt và để đảm bảo đủ vốn, tăng hiệu quả hoạt động nói chung.

Trong thời gian qua, các NHTM Việt Nam đã quan tâm quản trị các loại rủi ro như rủi
ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động. Kết quả “Khảo sát về
ngành Ngân hàng Việt Nam 2013” của KPMG (Công ty cung cấp các dịch vụ kiểm
toán, thuế và tư vấn): 80% ngân hàng đã nắm bắt được việc NHNN lập kế hoạch thực
hiện khung giám sát theo Hiệp ước Basel II. NHNN đã tài trợ các khóa đào tạo giới
thiệu ý nghĩa của Basel II cho các ngân hàng nhưng chưa đưa ra hướng dẫn về việc
khi nào các quy định mới được ban hành; Các ngân hàng cũng chưa sẵn sàng để cam
kết thực hiện lộ trình triển khai hay đưa ra một quyết định quan trọng gây tốn kém.

Tuy nhiên, 57% đối tượng tham gia khảo sát cho rằng, vấn đề QTRR Hoạt Động là
đáng quan ngại nhất. Nhiều ngân hàng đang triển khai QLRR Hoạt Động ở những
công việc ban đầu như: nghiên cứu thiết lập quy trình, xây dựng các văn bản về
QTRR hoạt động, theo dõi các rủi ro và cảnh báo…Về cơ sở tính toán vốn cho rủi ro
hoạt động thì 64% các ngân hàng sẽ sử dụng phương pháp tiêu chuẩn để tính vốn
trong khi 14% ngân hàng lại sử dụng phương pháp chỉ số cơ bản và 21% vẫn chưa
quyết định. Tất cả các ngân hàng đều chỉ ra rằng còn rất nhiều khó khăn khi triển khai
áp dụng Hiệp ước Basel II. Hai khó khăn chung được nhắc đến nhiều nhất chính là chi
phí triển khai Hiệp ước Basel II (85%) và thiếu dữ liệu lịch sử (78%).

11
Mặc dù có nhiều nỗ lực, song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn
khổ pháp lý chính thức cho QTRR hoạt động. Hiện NHNN vẫn đang nghiên cứu để
hoàn thiện hệ thống QTRR tại các ngân hàng để phù hợp với lộ trình áp dụng Basel II
và lộ trình cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) theo đề án đã được chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-TTg.

Theo Dự thảo thông tư, các TCTD cần báo cáo cho NHNN theo định kỳ hàng quý về
tình hình rủi ro, QLRR và đột xuất trong trường hợp các rủi ro này có nguy cơ gây ra
tổn thất lớn hơn 5% vốn tự có TCTD, chi nhánh ngân hàng trong nước trong thời gian
5 ngày làm việc kể từ khi tổn thất xảy ra. Dự thảo thông tư quy định TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài phải thiết lập và vận hành hệ thống QLRR theo 4 cấu phần: (i)
Sự giám sát của HĐQT, HĐTV, ngân hàng mẹ, Ban điều hành; (ii) Các văn bản về
chiến lược, chính sách, quy trình QLRR; (iii) Hệ thống thông tin quản lý (MIS) và (iv)
Kiểm toán nội bộ. Hội đồng quản trị, ngân hàng mẹ sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng và
cao nhất về hệ thống QLRR của TCTD, chi nhánh.

Trong bối cảnh hiện tại, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý chặt chẽ của NHNN, do vậy cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định lựa chọn
khung QTRR hoạt động sao cho đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo chuẩn mực
quốc tế như: (i) Chiến lược của ngân hàng và phương pháp QTRR hoạt động phải ăn
khớp với nhau; (ii) Xác định được các phương pháp quản lý và đo lường rủi ro hoạt
động; (iii) Đưa ra các công cụ chuẩn mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát,
báo cáo rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống…

Mục tiêu triển khai mô hình QTRR hoạt động ở mỗi ngân hàng có thể khác nhau, từ
việc đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của pháp luật, phù hợp với các thông lệ quốc tế đến
tạo ra hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động
QTRR hoạt động thành công là cam kết của ban lãnh đạo và sự thống nhất về mô hình
QTRR hoạt động. Ngân hàng nên thực hiện việc minh bạch khung QTRR hoạt động
để các bên liên quan có thể hiểu được các phương pháp QTRR hoạt động của ngân
hàng.

Mặt khác, công việc có vai trò quan trọng trong quy trình QTRR hoạt động là giai
đoạn thu thập các dữ liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại của NHTM từ nhiều nguồn
khác nhau. Xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất là yếu tố hàng đầu để thiết lập và triển
khai hệ thống QTRR hoạt động hiệu quả và tin cậy. Để làm được điều này, các
NHTM Việt Nam cần sớm triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ QLRR,
thậm chí là phục dựng lại dữ liệu quá khứ để đẩy nhanh tiến trình QTRR hoạt động
theo chuẩn quốc tế. Các dữ liệu tổn thất các NHTM có thể khai thác được từ các
nguồn sau:

12
Một là, từ các hoạt động nghiệp vụ, các phòng/ban/đơn vị trong hệ thống (ở đây các
trưởng phòng/ ban/đơn vị có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro phát sinh trong
quá trình tác nghiệp);

Hai là, các bộ phận giám sát, kiểm soát có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro
phát sinh trong quá trình kiểm tra, kiểm soát;

Ba là, chiết xuất lỗi, sự cố và tổn thất từ các hệ thống khác trong ngân hàng như: core
banking, các bộ phận như internet banking, thẻ, treasury...

Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro hoạt động

Để xây dựng được cơ sở dữ liệu tổn thất đầy đủ và tin cậy, thời gian tới các NHTM
cần tập trung vào những giải pháp sau:

Thứ nhất, cần phải có sự tham gia của tất cả các phòng ban trong các hoạt động thu
thập dữ liệu tổn thất. Thêm vào đó, cần xây dựng và chính thức hóa quy trình thu thập
dữ liệu tổn thất. Quy trình này phải linh hoạt để có thể cập nhật các nguồn thông tin
cũng như phản ánh đúng các khả năng rủi ro hoạt động khi môi trường kinh doanh
thay đổi. Quy trình này cần được thông báo rộng rãi và thống nhất trong toàn ngân
hàng.

Thứ hai, trên cơ sở thu thập các dữ liệu rủi ro, tổn thất nội bộ và bên ngoài, NHTM đo
lường rủi ro hoạt động theo 2 phương pháp: Đo lường định tính và định lượng. Đối
với đo lường định lượng thì việc lưu trữ dữ liệu là quan trọng nhất. NHTM phải lưu
trữ ít nhất là 3 năm dữ liệu rủi ro hoạt động và chất lượng dữ liệu phải có kiểm soát
chặt chẽ để đảm bảo tính đúng đắn trong việc tính toán.

Thứ ba, ngân hàng cần xác định các rủi ro chính trong các hoạt động theo từng
phòng/ban nghiệp vụ, nhằm mục đích giám sát hàng ngày các chuẩn mực và điều kiện
về tổ chức ở cấp độ từ dưới lên dựa trên hoạt động kinh doanh, thường xuyên rà soát
lại các quy trình và rủi ro đã được xác định. Từ đó, phân tích sát hơn những loại rủi ro
hoạt động liên quan đến mảng kinh doanh. Thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm có
hiệu lực, coi đó như một biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro hoạt động. Để xác
định các rủi ro chính, ngân hàng dựa trên những chỉ số rủi ro chính (KRI) được xây
dựng cho từng lĩnh vực kinh doanh.

Thứ tư, ngân hàng còn phải phân loại mức độ rủi ro hoạt động theo cấp độ quan trọng
từ thấp đến cao trong hoạt động của mình và xác định các cấp độ báo cáo cho phù
hợp. Đồng thời, đưa ra những phương pháp hoặc cách thức để đánh giá và kiểm soát
rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau (cấp lãnh đạo, quản lý hay cán bộ…). Việc đánh giá
và kiểm soát rủi ro phải được diễn ra thường xuyên và áp dụng cho toàn bộ các
phòng/ban, nghiệp vụ kinh doanh trong hệ thống.

13
Thứ năm, một công cụ thường được sử dụng trong QTRR hoạt động là phân tích kịch
bản. Lợi ích của phân tích kịch bản là hỗ trợ ban lãnh đạo rút ra những thông tin cần
thiết cho hoạt động điều hành, không ngừng cải thiện quy trình QLRR hoạt động, thực
hiện giám sát rủi ro chủ động để bổ sung cho việc phân tích dữ liệu tổn thất sau này.

Để xác định kịch bản, ngân hàng cần lưu ý các điều kiện tiên quyết: Những gì xảy ra
gần đây? Những gì có thể xảy ra trong điều kiện hiện tại, những gì có thể xảy ra sắp
tới? Xác suất ước tính là bao nhiêu? Tổn thất dễ xảy ra nhất là gì? Những rủi ro nào
cần tính đến trong trường hợp xấu nhất? Các biện pháp để giảm các rủi ro này?... Với
các kịch bản lựa chọn, ngân hàng ước tính rủi ro hoạt động trên cơ sở toàn bộ hoạt
động kinh doanh của toàn bộ phận, đồng thời rà soát mức độ mà các tổn thất lớn có
thể xảy ra. Dựa vào đó, các NHTM sẽ tính toán hay điều chỉnh giá trị rủi ro và phân
bổ vốn dự phòng rủi ro hoạt động theo phương pháp thích hợp được hướng dẫn trong
Basel II.

Thứ sáu, ngân hàng cần sớm xây dựng hệ thống báo cáo nhằm đáp ứng các yêu cầu
của NHNN cũng như đáp ứng nhu cầu quản trị nội bộ. Theo Basel, ban lãnh đạo ngân
hàng nên triển khai một quy trình để thường xuyên giám sát hồ sơ rủi ro hoạt động và
các nguy cơ trọng yếu có thể gây ra tổn thất. Cơ chế báo cáo phù hợp cần phải có ở
cấp độ Hội đồng quản trị, ban điều hành, đơn vị kinh doanh nhằm tạo điều kiện chủ
động QTRR hoạt động.

Thứ bảy, cần chú trọng công tác quản trị nội bộ, giúp ngân hàng chủ động nắm bắt
những biến động trên thị trường, nhìn nhận được dấu hiệu rủi ro và cảnh báo sớm rủi
ro. Để quản trị nội bộ tốt, ban lãnh đạo cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng
trong QTRR hoạt động của ngân hàng, thường xuyên cập nhật quá trình đánh giá rủi
ro hoạt động, đặc biệt những rủi ro trong phát triển sản phẩm mới hoặc triển khai một
hoạt động kinh doanh mới.

Thứ tám, các NHTM cần nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm toán nội bộ. Định kỳ, kiểm
toán nội bộ đánh giá hoạt động kinh doanh, tập trung vào các rủi ro chiến lược và rủi
ro hoạt động, từ đó đưa ra các khuyến nghị để cấp quản lý rà soát, xác định và giải
quyết. Yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải có hiểu biết toàn diện về toàn bộ hoạt
động ngân hàng, các vấn đề pháp lý và quy định.

CASE STUDY: QUẢN LÝ RỦI RO TÁC NGHIỆP CỦA NGÂN HÀNG THEO
BASEL – TÌNH HUỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN AN BÌNH.

KHUNG QUẢN LÝ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẨN


AN BÌNH

14
Với mục tiêu chuẩn hóa hoạt động theo thông lệ quốc tế, ABBANK đã bắt đầu triển
khai những nguyên tắc và hướng dẫn của Basel II từ đầu năm 2010.

 7 nguyên tắc cơ bản


 Khẩu vị rủi ro
 Danh mục rủi ro

 Mô hình quản lý rủi ro


 Các kỹ thuật/công cụ phân tích và quản lý rủi ro
 Giám sát và báo cáo

 Quy trình hoạt động


 Nhân sự
 Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin

CƠ CHẾ QUẢN LÝ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI ABBANK

1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý rủi ro hoạt động tại ABBANK.

15
Trong đó đơn vị chịu trách nhiệm chính đối với công tác quản lý, kiểm soát, giám sát
rủi ro hoạt động (ORM) thuộc khối quản lý rủi ro (RMD).

2. Cơ chế quản lý rủi ro hoạt động tại ABBANK

Mô hình quản lý rủi ro hoạt động: Được xây dựng tương tự mô hình quản lý rủi ro
chung của ABBANK, tức đều dựa trên ba tuyến phòng thủ. Tuy nhiên, điểm khác biệt
nằm ở việc bố trí đội ngũ chuyên viên kiêm nhiệm quản lý rủi ro hoạt động (RO) tại
các đơn vị chấp nhận rủi ro.

16
QUY TRÌNH QUẢN LÝ RỦI RO TẠI ABBANK
Từ khi triển khai hoạt động quản lý RRHĐ tại ABBANK, RMD nói chung và ORM
nói riêng đã hướng dẫn, hỗ trợ các ĐVKD và hội sở thực hiện quy trình quản lý
RRHĐ một cách toàn diện. Tuy các bước của quy trình quản lý RRHĐ chưa được văn
bản hóa nhưng với cơ chế vận hành xuyên suốt, được triển khai sâu rộng từ RMD
xuống từng đơn vị thì quy trình có thể được phân chia thành các bước như sau:

THỰC TRẠNG RỦI RO

HOẠT ĐỘNG TẠI ABBANK GIAI ĐOẠN 2010 – 2014


Kể từ khi triển khai từ năm 2010 đến 2013 cho thấy số lượt RRHĐ được báo cáo của
ABBANK tăng lên hàng năm và sau bốn năm triển khai xây dựng lộ trình ứng dụng
Basel II, tổng số RRHĐ được báo cáo là 3244.

Năm 2010 2011 2012 2013 2014

Số lượng hợp 538 - 1252 1454 -


đồng rủi ro

Thiệt hại về tài 670 633 485 376 316


sản(Triệu
VND)

17
Bảng rủi ro hoạt động của ABBANK từ năm 2010 đến 2014.
Nguồn: ABBANK 2010, 2012, 2013.

ĐÁNH GIÁ KHÁCH QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP AN BÌNH
Về bộ phận thường xuyên xảy ra RRHĐ: Lãnh đạo RMD, ORM và các chuyên viên
quản lý RRHĐ đều cho rằng bộ phận tiếp xúc khách hàng như giao dịch viên, kiểm
ngân, quan hệ khách hàng là nơi thường xuyên xảy ra RRHĐ. Nguyên nhân chủ yếu là
do nhận thức quản lý RRHĐ của CBNV chưa cao, dẫn đến việc họ làm sai quy trình
nghiệp vụ hoặc cố tình sai phạm để trục lợi. Mặt khác, cũng có ý kiến cho rằng
nguyên nhân xuất phát từ chính Ban lãnh đạo của ABBANK, vì mục tiêu tiết kiệm chi
phí, Ban điều hành hạn chế việc đầu tư cho công tác quản lý RRHĐ. RMD không phát
huy hết vai trò quản lý, mọi báo cáo hoặc kiến nghị đối với các đơn vị tiếp nhận
RRHĐ chỉ mang tính chất khuyến khích, đề xuất mà chưa xây dựng được chế tài bắt
buộc, khiến các công cụ quản lý RRHĐ chưa được triển khai một cách triệt để và hiệu
quả.
Đánh giá về văn hóa quản lý RRHĐ: Hầu hết các ý kiến cho rằng mặc dù RMD đã nỗ
lực rất nhiều thông qua việc đào tạo kiến thức, truyền thông... nhưng văn hóa quản lý
RRHĐ tại ABBANK vẫn chưa cao. CBNV vẫn còn tâm lý né tránh thay vì nhận thức
rủi ro, các đơn vị mới chỉ dừng lại ở việc biết và hiểu về quản lý RRHĐ mà chưa chủ
động trong việc phòng ngừa và quản lý RRHĐ, chỉ thực hiện khi có yêu cầu hoặc
thông báo từ RMD.
Đánh giá về những khó khăn trong công tác quản lý RRHĐ: Hầu hết các ý kiến đều
cho rằng quản lý RRHĐ ở ABBANK chưa thực sự hiệu quả, đủ để đáp ứng được yêu
cầu chung do RMD đề ra nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của Ban điều
hành, chưa đúng tinh thần của Basel II. Một số khó khăn tồn tại như: nhận thức về
quản lý rủi ro chưa cao, các công cụ chưa hiệu quả, thiếu sự tương giữa tác tuyến
phòng thủ thứ nhất với hai tuyến phòng thủ còn lại, nguồn nhân lực của ORM mỏng
và chưa có sự ổn định, thiếu chi phí để phát triển cơ sở hạ tầng quản lý RRHĐ. Ngoài
ra, sự thiếu tính độc lập của các RO cũng được xem là một trong những nguyên nhân
vì RO là CBNV trực thuộc đơn vị tiếp nhận rủi ro, khiến cho việc theo dõi, báo cáo
RRHĐ của họ về RMD chưa được khách quan và trung thực.
Đánh giá đối với việc ứng dụng Basel II: Các ý kiến khảo sát cho rằng dù công tác
quản lý RRHĐ chưa triệt để bám sát các văn bản, cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ và chính
xác để áp dụng phương pháp tính yêu cầu vốn tối thiểu đối với RRHĐ theo Basel II.
ĐÁNH GIÁ QUẢN LÝ RỦI RO HOẠT ĐỘNG THEO BASEL II TẠI NGÂN
HÀNG TMCP AN BÌNH
 Các hạn chế:
- Về quy trình, văn bản
- Về nguồn nhân lực

18
- Văn hóa quản lý RRHĐ
- Công tác dự đoán, dự báo về nguy cơ RRHĐ
- Minh bạch thông tin
- Vấn đề đào tạo
- Vấn đề truyền thông
 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế:
- Yếu tố khách quan:
Sự phức tạp của Basel II
Hệ thống vận hành và hành lang pháp lý
Thiếu hướng dẫn cụ thể từ NHNN
- Yếu tố chủ quan:
Vấn đề nhận thức về quản lý rủi ro
Vấn đề đào tạo
Vấn đề truyền thông
Vấn đề chiến lược quản lý RRHĐ
Vấn đề chính sách và chi phí
Vấn đề chỉ tiêu kinh doanh, áp lực công việc
Hệ thống công nghệ thông tin
Quy trình, quy định nghiệp vụ
Vấn đề đạo đức của CBNV

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Quang Tuyến (2019), Kiểm soát rủi ro hoạt động của ngân hàng thương
mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel II, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam.

2. Trịnh Quốc Trung, Phạm Thu Thủy (2016), Quản trị rủi ro tác nghiệp của ngân
hàng theo Basel II - Tình huống ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình, Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, số 19/2016, tr. 108-126.
3. TS. Đặng Anh Tuấn, ThS. Trần Nhật Trang, Trần Quang Thái (2018), Quản lý
rủi ro hoạt động theo Basel II tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng hải
Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: “Kinh tế Việt Nam năm 2018 và
triển vọng năm 2019: Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng
trưởng”, tr. 354-379.
4. Tú, Đ. T. T. (2014). Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro hoạt động tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam. Truy xuất từ: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--
trao-doi/trao-doi-binh-luan/xay-dung-he-thong-quan-tri-rui-ro-hoat-dong-tai-
cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-87027.html

5. Yang, Shirley Ou; Hsu, Carol; Sarker, Suprateek; Lee, Allen S. (2017),
Enabling Effective Operational Risk Management in a Financial Institution:
An Action Research Study, Journal of Management Information Systems. 34:
727–753.

20

You might also like