You are on page 1of 30

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

PHAN TRỌNG NHÂN

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ LỆ AN TOÀN VỐN


CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

MÃ SỐ: 8 34 02 01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

BÌNH DƯƠNG – Năm 2022


2

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

PHAN TRỌNG NHÂN

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ LỆ AN TOÀN VỐN


CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG


MÃ SỐ: 8 34 02 01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ ĐẶNG VĂN CƯỜNG

BÌNH DƯƠNG – Năm 2022


1. Lý do chọn đề tài

Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, có mối quan hệ mật thiết với
các chủ thể trong nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng được xem là huyết mạch của
nền kinh tế do đó rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Các hoạt động của
Ngân hàng bao gồm huy động vốn, hoạt động tín dụng (bao gồm nhiều cấp tín
dụng khác nhau) và một số hoạt động khác. Trong đó hoạt động tín dụng Ngân
hàng là một trong những hoạt động nòng cốt và chủ chốt của Ngân hàng thương
mại (NHTM). Hoạt động này thường là hoạt động mang lại nguồn thu nhập cao
nhất cho Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này là hoạt động rủi ro nhất. Khi Ngân
hàng gặp sự cố không chỉ ảnh hưởng tới riêng Ngân hàng đó mà sẽ có hiệu ứng
dây chuyền khiến cho các Ngân hàng khác cũng có thể sẽ rơi vào tình trạng tương
tự. Không những thế, với vai trò là huyết mạch, hệ thống Ngân hàng bị tê liệt sẽ
ảnh hưởng lớn tới sự luân chuyển dòng vốn trong nền kinh tế, từ đó dẫn tới khủng
hoảng và tiến vào suy thoái kinh tế.

Tại Việt Nam, hầu hết các Ngân hàng Việt Nam đều chuyển đổi hình thức
thành Ngân hàng thương mại cổ phần (NH TMCP) và chiếm tỷ trọng lớn trong các
loại hình Ngân hàng trong hệ thống. Với vai trò của mình, các NH TMCP đang
ngày càng đóng góp quan trọng không thể thiếu cho sự phát triển của nền kinh tế.
Cũng vì tầm quan trọng đó, việc kiểm soát rủi ro để hệ thống ngân hàng luôn hoạt
động ổn định là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Lịch sử đã chứng
minh những cuộc khủng hoảng, những cuộc sụp đổ của các Ngân hàng trên thế
giới đã không chỉ ảnh hưởng một Ngân hàng, một quốc gia mà còn lan rộng tới
quy mô toàn cầu và còn để lại hậu quả nặng nề cho nền kinh tế: ví dụ cuộc Đại
khủng hoảng thế giới năm 1929 – 1933, cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm
1997 hay cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Để có thể phản ứng kịp thời và
hạn chế những hậu quả khi rủi ro xảy ra, việc nghiên cứu và xây dựng những chiến
lược quản trị rủi ro là thực sự cấp bách và cần thiết.

Một trong những tiêu chuẩn quan trọng mà các ngân hàng cần tuân thủ là
hệ số an toàn vốn tối thiểu bởi tỷ lệ này được xem như là công cụ chủ lực cho sự
2

an toàn và lành mạnh của ngân hàng theo Jeff (1990). Hệ số an toàn vốn (CAR) là
một chỉ tiêu kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa vốn tự có với tài sản có điều chỉnh
rủi ro của ngân hàng thương mại. Hệ số CAR là thước đo quan trọng để đo mức
độ an toàn hoạt động của ngân hàng, được các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh
vực ngân hàng thuộc Ủy ban Basel dày công xây dựng và phát triển. Các ngân
hàng khi đảm bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu sẽ có khả năng chống đỡ khi
rủi ro xảy ra để phát triển bền vững. Với ý nghĩa đó, hệ số CAR cũng như các nhân
tố ảnh hưởng đến hệ số CAR luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
trên thế giới. Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến CAR đã được Asarkaya và
Ozcan (2007) thực hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ, Skully và cộng sự (2009) ở Malaysia,
Muthuva (2009) ở Kenya, Shingjergji và Hyseni (2015) ở Albanian…

Trong những năm trở lại đây, việc bắt đầu áp dụng các chuẩn mực Quốc tế
trong quản trị rủi ro của Ngân hàng, đặc biệt là chuẩn mực Basel 2 đang là vấn đề
nổi cộm. Việc nghiên cứu về CAR đang được các cơ quan chức năng, các Ngân
hàng, các nhà đầu tư và các chủ thể khác trong nền kinh tế đặc biệt quan tâm. Bên
cạnh đó, dịch Covid-19 diễn biến trong 02 năm 2019, 2020 đặc biệt năm 2021 là
nhân tố mới xuất hiện, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng cần
được quan tâm, nghiên cứu. Xuất phát từ thực tiễn trên tác giả chọn đề tài “Các
yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” nhằm xác định một cách toàn diện các yếu
tố tác động chính tới tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách liên quan.

2. Cơ sở lý thuyết và các công trình nghiên cứu có liên quan

2.1. Cơ sở lý thuyết

2.1.1 . Cơ sở lý thuyết về vốn của ngân hàng thương mại

2.1.1.1 Khái niệm vốn ngân hàng

Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian, và là loại hình
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Các NHTM
3

muốn hoạt động một cách bình thường thì phải có vốn. Vốn của ngân hàng, nói
một cách đơn giản, là sự chênh lệch giữa tài sản và nợ phải trả trên và là tài sản
thực của chủ sở hữu ngân hàng. Nó có thể được sử dụng để bù đắp các khoản lỗ
hoạt động của ngân hàng và nếu khoản lỗ đó vượt quá số vốn khả dụng thì ngân
hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ, có thể dẫn đến phá sản

Một lý thuyết về vốn ngân hàng khác được trình bày bởi Diamond và Rajan
(2000) đã sử dụng một khuôn khổ trong đó tài sản của ngân hàng gắn liền với nợ
phải trả của ngân hàng. Vì chủ sở hữu vốn, không giống như người gửi tiền, không
thể được hưởng quyền ưu tiên đối với các dòng tiền. Cụ thể trong bảng cân đối kế
toán, Vốn ngân hàng là phần chênh lệch giữa tài sản của ngân hàng và nợ phải trả,
và nó thể hiện giá trị ròng của ngân hàng hoặc giá trị vốn chủ sở hữu của nó đối
với các nhà đầu tư. Phần tài sản vốn của ngân hàng bao gồm tiền mặt, chứng khoán
chính phủ và các khoản cho vay sinh lãi (ví dụ: thế chấp, thư tín dụng và các khoản
vay liên ngân hàng). Phần nợ phải trả trong vốn của ngân hàng bao gồm các khoản
dự phòng rủi ro cho vay và bất kỳ khoản nợ nào mà ngân hàng nợ. Vốn của ngân
hàng có thể được coi là mức ký quỹ mà các chủ nợ được bảo hiểm nếu ngân hàng
thanh lý tài sản của mình.

2.1.1.2 Phân loại vốn ngân hàng

Ngân hàng chiếm một vị trí quan trọng và quan trọng trong bất kỳ nền kinh
tế nào, với tư cách là nhà cung cấp tín dụng và thanh khoản tài chính, vì vậy vốn
ngân hàng rất quan trọng. Do đó, các ngân hàng vừa chịu sự quản lý chặt chẽ của
các cơ quan quản lý tiền tệ trung ương vừa phải tuân theo các quy tắc quản lý vốn
của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), có trụ sở tại Basel, Thụy Sĩ. 2Trên
phương diện quản trị ngân hàng như thế, dù vốn trong NHTM gồm có nhiều loại
khác nhau thì các NHTM vẫn phải xác định phân loại vốn theo các cấp độ như sau:

- Vốn cấp 1 được gọi là vốn lõi của ngân hàng, bao gồm vốn cổ phần
thường, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ vĩnh viễn, các khoản thặng dư vốn, lợi ích
của cổ đông thiểu số trong tài khoản vốn chủ sở hữu của các công ty con hợp nhất
và các tài sản vô hình khác. Đây là vốn quan trọng bởi vì nó là biện pháp bảo vệ
4

sự sống còn của các ngân hàng và sự ổn định của hệ thống tài chính (Kjeldsen,
2004).

- Vốn cấp 2 được gọi là vốn bổ sung, bao gồm các khoản dự trữ không được
công bố, dự phòng tổn thất chung, trái phiếu chuyển đổi, nợ thứ cấp có kỳ hạn,
công cụ vốn chủ sở hữu, cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn, dài hạn và cổ phiếu ưu đãi
chuyển đổi. Tuy nhiên, vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1.

Các khoản giảm trừ vốn cấp 1 và vốn cấp 2 bao gồm các khoản đầu tư vào
các công ty tài chính và ngân hàng không hợp nhất, chứng khoán vốn và các khoản
khấu trừ khác.

- Vốn cấp 3 bao gồm các khoản nợ ngắn hạn trực thuộc. Vốn cấp 3 được sử
dụng để cung cấp một bộ “đệm” chống lại thiệt hại do rủi ro thị trường gây ra khi
vốn cấp 1 và vốn cấp 2 không đủ để bù đắp thiệt hại. Rủi ro thị trường là những
thiệt hại do hoạt động kinh doanh ngoại hối và các hợp đồng lãi suất gây ra do
những thay đổi trong tỷ giá hối đoái và lãi suất. Tuy nhiên, cơ quan quản lý không
yêu cầu một mức vốn cụ thể để đảm bảo chống lại những tổn thất do rủi ro thị
trường gây ra. Vì vậy, không có bất kỳ yêu cầu cho vốn cấp 3.

2.1.1.3 Vai trò vốn ngân hàng

Vốn ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng và
nền kinh tế như: Nó hấp thụ tổn thất, thúc đẩy niềm tin của công chúng, giúp hạn
chế tăng trưởng tài sản quá mức và mang đến sự bảo vệ cho người gửi tiền và quỹ
bảo hiểm tiền gửi.

Đầu tiên, Vai trò quan trọng nhất của vốn ngân hàng là nó đảm bảo cung
cấp một vùng đệm có khả năng hấp thụ những tổn thất không lường trước được,
và theo cách này, vốn ngân hàng hỗ trợ trong việc ngăn chặn những thất bại của
ngân hàng (Derina, 2011). Do đó, vốn càng lớn so với mức rủi ro, xác suất càng
nhỏ rằng nó sẽ bị tổn hại nghiêm trọng trước cú sốc.

Thứ hai, vốn thúc đẩy niềm tin của công chúng bằng cách cung cấp đảm
bảo cho công chúng rằng một tổ chức sẽ tiếp tục cung cấp các dịch vụ tài chính
5

ngay cả khi đã phát sinh lỗ, do đó giúp duy trì niềm tin vào hệ thống ngân hàng và
giảm thiểu lo ngại về thanh khoản.

Thứ ba, vốn giúp hạn chế tăng trưởng tài sản quá mức qua các tiêu chuẩn tỷ
lệ vốn tối thiểu, theo đó hạn chế việc mở rộng tài sản bất hợp lý bằng cách yêu cầu
tăng trưởng tài sản phải được tài trợ bởi một lượng vốn bổ sung tương xứng.

Thứ tư, vốn cung cấp sự bảo vệ cho người gửi tiền và quỹ bảo hiểm tiền gửi
bằng cách đặt chính chủ sở hữu vào rủi ro tổn thất lớn nếu tổ chức thất bại, qua đó
sẽ giúp giảm thiểu khả năng rủi ro đạo đức và thúc đẩy các hoạt động ngân hàng
an toàn và lành mạnh. Một tổ chức lớn vốn lớn, là động lực cho các cổ đông ít chấp
nhận rủi ro (Herring và Vankudre 1987).

Nghiên cứu Diamond và Rajan (2000) cũng xác định ngắn gọn vai trò của
vốn ngân hàng là đảm bảo sự an toàn của ngân hàng thông qua nguồn vốn thặng
dư có thể hấp thụ các khoản lỗ, và do đó, hỗ trợ ngân hàng có khả năng thanh toán
đầy đủ hơn cho các chủ nợ. Thông qua việc duy trì vốn và giảm tiền gửi xuống
mức được cho là an toàn, các ngân hàng có thể tái cấp vốn với chi phí thấp cũng
như giảm chi phí khó khăn.

2.1.2 Cơ sở lý thuyết về an toàn vốn của ngân hàng thương mại

2.1.2.1 Khái niệm an toàn vốn

Theo nghĩa phổ thông xuất phát từ từ điển Cambrige, an toàn vốn là thước
đo khả năng thanh toán các khoản nợ của ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác
nếu cá nhân hoặc tổ chức không có khả năng trả lại số tiền mà họ đã vay từ ngân
hàng.

Khái niệm an toàn vốn xuất hiện vào giữa những năm 1970 do sự mở rộng
hoạt động cho vay của các ngân hàng mà không có bất kỳ sự tăng vốn song song
nào, vì tỷ lệ vốn được đo bằng tổng vốn chia cho tổng tài sản (Al Sabbagh (2004).
Thật vậy, Sharp (1977) đã định nghĩa vốn là sự khác biệt giữa tài sản và tiền gửi,
do đó tỷ lệ vốn trên tài sản/ hoặc tỷ lệ vốn trên tiền gửi càng lớn) thì tiền gửi càng
an toàn. Vì vốn đủ nên tiền gửi cũng đủ an toàn. Ý tưởng của ông là nếu giá trị
6

tài sản của tổ chức có thể giảm trong tương lai, tiền gửi của tổ chức đó nhìn chung
sẽ an toàn hơn, giá trị hiện tại của tài sản càng lớn so với giá trị tiền gửi.

Theo Al-Sabbagh (2004), an toàn vốn được mô tả như một chỉ báo về rủi ro
của ngân hàng. An toàn vốn không chỉ phụ thuộc vào quy mô tài sản mà còn bị
ảnh hưởng bởi chất lượng tài sản (Casu và cộng sự, 2015)

Dowd (1999) đã phát hiện ra trong nghiên cứu rằng tiêu chuẩn vốn tối thiểu
có thể được coi là một phương tiện để củng cố sự an toàn của tiền gửi và sự vững
mạnh của hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, Harold (1999) cũng tìm thấy kết quả tương tự như Dowd, ở chỗ
nhiều quy định và tiền gửi lo ngại về tính bảo mật của hệ thống bảo hiểm tiền gửi.
Nghiên cứu của ông đã áp dụng các yêu cầu vốn dựa trên rủi ro hiện có vào dữ liệu
hiện tại của liên minh tín dụng để đánh giá sức mạnh vốn dựa trên rủi ro của liên
minh tín dụng.

Năm 1988 Ngân hàng Thanh toán Quốc tế tại Basel đã ban hành các quy
tắc quy định an toàn vốn, khi được phát triển thành Ủy ban Basel về Giám sát Ngân
hàng (BCBS hoặc Basel Committee). Những quy tắc này ban đầu được ban hành
để đảm bảo đủ vốn trong các ngân hàng G-10 hoạt động quốc tế và sau đó được
thêm vào năm 1996, đã được chấp nhận bởi hơn 100 quốc gia trong đó có Việt
Nam. Theo đó, an toàn vốn là khuôn khổ đảm bảo rằng vị thế vốn của một ngân
hàng phù hợp với chiến lược và các rủi ro tổng thể của ngân hàng và như vậy, sẽ
khuyến khích sự can thiệp giám sát sớm. Các giám sát viên phải có khả năng yêu
cầu các ngân hàng nắm giữ vốn vượt quá tỷ lệ vốn quy định tối thiểu kết hợp việc
quản lý ngân hàng phát triển một quy trình đánh giá vốn nội bộ và đặt ra các mục
tiêu về vốn tương xứng với các rủi ro cụ thể của ngân hàng và kiểm soát môi
trường.

2.1.2.2 Các nguyên tắc đánh giá an toàn vốn

Theo ủy ban Basel, để đánh giá mức độ an toàn vốn, các ngân hàng phải
tuân thủ bốn nguyên tắc sau:
7

Nguyên tắc 1: Các ngân hàng nên có một quy trình để đánh giá mức độ an
toàn vốn tổng thể liên quan đến rủi ro và một chiến lược để duy trì mức vốn

Năm đặc điểm chính của một quy trình nghiêm ngặt như sau:

Các tập đoàn ngân hàng phải có khả năng chứng minh rằng các mục tiêu
vốn nội bộ đã chọn là có cơ sở tốt và các mục tiêu này phù hợp với các rủi ro tổng
thể và môi trường hoạt động hiện tại. Để đánh giá mức độ an toàn vốn, ban lãnh
đạo ngân hàng cần quan tâm đến giai đoạn cụ thể của chu kỳ kinh doanh của ngân
hàng đang hoạt động. Cần thực hiện kiểm tra nghiêm ngặt, hướng tới tương lai để
xác định các sự kiện có thể xảy ra hoặc những thay đổi trong điều kiện thị trường
có thể tác động xấu đến ngân hàng. Ban lãnh đạo ngân hàng rõ ràng chịu trách
nhiệm chính trong việc đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để hỗ trợ các rủi ro của
mình.

Nguyên tắc 2: Kiểm soát viên sẽ xem xét và đánh giá chiến lược an toàn
vốn nội bộ của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ
an toàn vốn.

Nguyên tắc 3: Người giám sát mong muốn các ngân hàng hoạt động trên
tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu và có thể yêu cầu họ nắm giữ vốn vượt quá mức tối thiểu.

Có một số cách thức để đảm bảo rằng ngân hàng đang hoạt động với mức
vốn phù hợp. Trong số các phương pháp, Người kiểm soát có quyền thiết lập tỷ lệ
vốn mục tiêu hoặc xác định các danh mục trên tỷ lệ vốn tối thiểu.

Nguyên tắc 4: Người kiểm soát sẽ can thiệp ngay từ đầu để ngăn vốn giảm
xuống dưới mức tối thiểu cần thiết để hỗ trợ các dấu hiệu rủi ro của ngân hàng cụ
thể và sẽ yêu cầu nhanh chóng khắc phục nếu vốn không được duy trì hoặc khôi
phục.

Những hành động liên quan có thể bao gồm việc tăng cường giám sát ngân
hàng, hạn chế trả cổ tức, yêu cầu ngân hàng chuẩn bị và thực hiện phương án khôi
phục an toàn vốn thỏa đáng, đồng thời yêu cầu tăng vốn bổ sung ngay lập tức.
Kiểm soát viên có toàn quyền quyết định sử dụng các công cụ phù hợp nhất với
8

hoàn cảnh của ngân hàng và môi trường hoạt động.

2.1.2.3 Tiêu chuẩn về an toàn vốn

Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn nhạy cảm với rủi ro, dễ rơi vào tình
trạng khủng hoảng. Cơ sở lý luận cốt lõi của việc có một tiêu chuẩn an toàn vốn là
để tăng cường hệ thống tài chính và sự ổn định kinh tế vì sự thất bại của ngân hàng
có thể gây ra một cuộc khủng hoảng có hệ thống (Kupiec & Ramirez 2013 và
Marques Pereira & Saito 2015). Trong những năm 1970 - 1980, hệ thống NHTM
của các quốc gia phát triển rơi vào tình trạng khủng hoảng khi tỷ lệ vốn của các
ngân hàng này sụt giảm mạnh, tỷ lệ nợ lớn, đồng thời rủi ro quốc tế có dấu hiệu
gia tăng. Trước bối cảnh đó, Ủy ban Giám sát ngân hàng được Ngân hàng thanh
toán quốc tế thành lập dưới sự bảo trợ của BIS nhằm ban hành thông lệ và thực
hiện giám sát an toàn hoạt động của ngân hàng. Với thành viên là các ngân hàng
trung ương của các nước phát triển G10, Ủy ban Basel đã ban hành hệ thống các
tiêu chuẩn đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng hay còn gọi là Hiệp ước Basel.
Bản thân BIS không phải là cơ quan quản lý và các tuyên bố của cơ quan này
không có trọng lượng lập pháp; tuy nhiên, các nhà chức trách muốn chứng minh
rằng họ tuân theo các quy tắc Basel ở mức tối thiểu, để duy trì niềm tin của nhà
đầu tư và công chúng.

Theo các yêu cầu của Basel, tất cả các công cụ tiền mặt và ngoại bảng trong
danh mục đầu tư của ngân hàng đều được ấn định tỷ trọng rủi ro, dựa trên rủi ro
tín dụng nhận thức được, xác định mức vốn tối thiểu phải được đặt ra đối với
chúng. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng được Hiệp ước Basel quy định là
tỷ lệ an toàn vốn. Hệ số an toàn vốn được hiểu là một tỷ lệ phản ánh mối quan hệ
giữa vốn và tài sản của ngân hàng, cụ thể là mối quan hệ giữa vốn tự có với tài sản
có điều chỉnh rủi ro của ngân hàng thương mại. Ủy ban Basel cũng cung cấp quy
định cách định lượng các yếu tố về vốn tự có và tài sản có điều chỉnh rủi ro.

Các ngân hàng khác nhau trên toàn thế giới đã bắt đầu thực hiện đo lường
tỷ lệ an toàn vốn theo các tiêu chuẩn của Basel I và tiếp tục được cải thiện thông
qua Basel II và Basel III để duy trì khả năng cạnh tranh trên toàn thế giới và tuân
9

thủ các cơ quan quản lý quốc tế. Ở Hiệp ước Basel I, tài sản có điều chỉnh rủi ro
trong công thức chỉ quan tâm đến rủi ro tín dụng vì đây được xem là loại rủi
ro quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Đến Hiệp ước
Basel II, hệ số CAR giữ nguyên tử số nhưng lúc này tài sản có điều chỉnh rủi ro,
ngoài việc tính toán rủi ro tín dụng, còn đề cập đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt
động. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Basel áp dụng cho các NHTM
tối thiểu là 8%. Nói cách khác, NHTM phải giữ lại tối thiểu lượng vốn ít nhất bằng
8% tài sản có đã xét đến rủi ro của ngân hàng. Việc này kỳ vọng sẽ giúp ngân hàng
chống đỡ được với các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro
hoạt động. Sau khủng hoảng kinh tế năm 2008, Ủy ban Basel đã thực hiện điều
chỉnh cách tính hệ số an toàn vốn tối thiểu. Theo đó, tỷ lệ này vẫn được giữ nguyên
ở mức tối thiểu là 8% nhưng tỷ lệ nguồn vốn chất lượng cao tăng lên. Cụ thể, tỷ lệ
vốn cấp 1 điều chỉnh từ 4% trong Basel II lên 6% trong Basel III; tỷ lệ vốn cổ động
thường cũng được điều chỉnh tăng lên 4.5% so với 2% trong Basel II; bổ sung phần
vốn đệm dự phòng tài chính bảo đảm bằng vốn chủ sở hữu 2.5%. Ngoài ra, những
khoản vốn có vấn đề, tiềm ẩn nhiều rủi ro được loại khỏi vốn tự có khi tính CAR
như khoản đầu tư vượt giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính. Do những thay đổi
trong cách tính toán, Basel III mặc dù được ban hành vào năm 2010 nhưng bắt đầu
có hiệu lực vào năm 2013 và thực hiện theo lộ trình đến năm 2019 được thực hiện
đầy đủ.

Hệ số an toàn vốn (CAR) là tỷ lệ được các cơ quan quản lý trong lĩnh vực
ngân hàng sử dụng để đánh giá tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng và đảm bảo
rằng các ngân hàng có thể xác định mức độ an toàn vốn trước khả năng xảy ra tổn
thất từ hoạt động ngân hàng (Aspal & Nazneen, 2014). Hệ số CAR càng cao cho
thấy sự củng cố của các ngân hàng và khả năng bảo vệ vốn từ các nhà đầu tư của
các ngân hàng tăng lên. Tỷ lệ này đảm bảo rằng ngân hàng có khả năng đáp ứng
các nghĩa vụ và rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường.
Dang (2011) cho rằng tỷ lệ an toàn vốn cho thấy nội lực của ngân hàng để gánh
chịu những tổn thất phát sinh khi ngân hàng rơi vào thời kỳ khủng hoảng.
10

Như vậy, hệ số an toàn vốn tối thiểu có thể hiểu là chỉ tiêu phản ánh khả
năng chống đỡ rủi ro của các NHTM thông qua mối quan hệ giữa vốn tự có và tài
sản có điều chỉnh các loại rủi ro cơ bản mà ngân hàng phải đối mặt trong quá trình
hoạt động. Hệ số an toàn vốn tối thiểu theo thông lệ quốc tế được xác định dựa
trên Hiệp ước Basel do Ủy ban giám sát ngân hàng ban hành tùy theo từng giai
đoạn phát triển. Hiệp ước này không mang tính bắt buộc cho các quốc gia nhưng
phần lớn các quốc gia tự nguyên tuân thủ các quy định trong hiệp ước nhằm bảo
đảm an toàn cho hệ thống. Tùy thuộc vào trình độ phát triển, năng lực hoạt động
của hệ thống ngân hàng cùng với việc hội nhập quốc tế mà mỗi quốc gia có thể
điều chỉnh các tiêu chuẩn cho phù hợp. Ở các quốc gia phát triển đã triển khai
Basel III. Các nước đang phát triển đang triển khai Basel III và một số nước đang
áp dụng Basel II. Việc áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Basel
I hay II hay III phản ánh phần nào bức tường an ninh trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng của quốc gia đó.

2.1.2.4 Cách xác định hệ số an toàn vốn

Tại Việt Nam, việc NHNN ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN về quy
định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vào
ngày 30/12/2016 và bắt đầu có hiệu lực vào 01/01/2020 được xem như là mốc thời
gian đánh dấu việc tuân thủ Basel II của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Hệ số an toàn vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại được đo
lường như sau bằng cách lấy vốn tự có chia cho tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro.
Trong đó, vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là
những giá trị tiền tệ mà ngân hàng có thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là nguồn
vốn phân biệt với các khoản nợ, huy động từ các chủ thể khác trong nền kinh tế.
Vì là vốn của chủ sở hữu nên đây là nguồn vốn dài hạn, ngân hàng có thể sử dụng
để kinh doanh, đầu tư cho tài sản cố định, thực hiện cho vay các khoản cho vay
trung dài hạn. Với đặc điểm là trung gian tài chính, nguồn vốn chủ sở hữu thường
chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu vốn của các NHTM, tuy nhiên, đây lại là cơ sở
để thực hiện các tiêu chuẩn kiểm soát rủi ro liên quan đến các hoạt động của ngân
11

hàng. Cụ thể như vốn tự có là cơ sở để xác định dư dư nợ cho vay tối đa đối với
một khách hàng, cơ sở để thực hiện đầu tư qua mua vốn góp, cổ phần. Vốn tự có
cũng là yếu tố phản ánh năng lực hoạt động của ngân hàng cũng như triển vọng
phát triển trong tương lai. Nó cũng được xem như là tấm đệm chống đỡ rủi ro của
các NHTM. Trong công thức đo lường hệ số an toàn vốn, vốn tự có được xác định
như sau:

Vốn tự có = Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2

Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
vốn cấp 1 thể hiện năng lực vốn của Ngân hàng như là vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ
sung vốn điều lệ, khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: vốn chủ sở hữu
vĩnh viễn; dự trữ công bố (lợi nhuận giữ lại); lợi ích thiểu số tại các công ty con,
có hợp nhất báo cáo tài chính; lợi thế kinh doanh.

Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: lợi nhuận giữ lại không công khai, giá trị
tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản thông qua dự phòng đánh giá lại tài sản, dự
phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công nợ cho phép chuyển đổi
thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp hay còn gọi là công cụ vốn hỗn hợp, vay
với thời hạn ưu đãi hay đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài
chính khác.

Tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro là tổng tất cả các Ngân hàng nắm giữ được
tính toán theo trọng số đối với rủi ro tín dụng theo một công thức do cơ quan quản
lý đưa ra.

Tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro là tổng tất cả các Ngân hàng nắm giữ được
tính toán theo trọng số đối với rủi ro theo một công thức do cơ quan quản lý đưa
ra. Tài sản có điều chỉnh rủi ro phải tính đến rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và
rủi ro hoạt động nhằm đảm bảo khi tính đến hệ số an toàn vốn tối thiểu có thể giúp
ngân hàng chống đỡ lại các rủi ro quan trọng. Theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN,
tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam được xác định bằng công thức:
12

C
CAR = x 100%
RWA + 12,5 (KOR + KMR)

Trong đó:

- C: Vốn tự có;

- RWA: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;

RWA = RWACR + RWACCR

Trong đó:

+ RWACR : Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;

+ RWACCR: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng đối tác.

- KOR: Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động;

(BInăm thứ n + BI năm thứ n-1 + BInăm thứ n-2)


KOR = x 15%
3

Trong đó:

+ BInăm thứ n: Chỉ số kinh doanh được xác định theo quý gần nhất tại thời
điểm tính toán;

+ BInăm thứ n-1, BInăm thứ n-2: Chỉ số kinh doanh được xác định theo quý tương
ứng của 2 năm liền kề trước năm tính toán.

- KMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường. Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường
(KMR) được xác định theo công thức sau:

KMR = KIRR+ KER + KFXR + KCMR + KOPT

Trong đó:

- KIRR : Vốn yêu cầu cho rủi ro lãi suất, trừ giao dịch quyền chọn;
13

- KER: Vốn yêu cầu cho rủi ro giá cổ phiếu, trừ giao dịch quyền chọn;

- KFXR: Vốn yêu cầu cho rủi ro ngoại hối (bao gồm cả vàng), trừ giao dịch
quyền chọn;

- KCMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro giá hàng hóa, trừ giao dịch quyền chọn;

- KOPT : Vốn yêu cầu cho giao dịch quyền chọn.

2.1.2.5 Ý nghĩa về hệ số an toàn vốn

NHTM là trung gian tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế nên có
ảnh hưởng lớn đến các chủ thể trong nền kinh tế. Hệ số an toàn vốn tối thiểu không
chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá mức độ an toàn cho hoạt động ngân
hàng mà còn có ý nghĩa với các chủ thể khác liên quan như người gửi tiền, chủ đầu
tư hoặc cơ quan quản lý. Cụ thể.

Đối với NHTM:

Hệ số an toàn vốn ra đời giúp NHTM xác định được rủi ro mà NHTM phải
chịu trong quá trình hoạt động. Nếu NHTM có tỷ lệ vốn tự có phù hợp với quy mô
tài sản có đã điều chỉnh rủi ro thì có thể cho thấy hoạt động của ngân hàng có độ
an toàn cao. Bởi chỉ tiêu CAR cho thấy khả năng chịu đựng rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường và rủi ro hoạt động của các ngân hàng thương mại. Nếu các NHTM thực
hiện đúng quy định về hệ số an toàn vốn thì ngân hàng có thể vượt qua các cú sốc
tài chính, vượt qua khó khăn để hoạt động và phát triển bền vững. Nghiên cứu của
Wall (1985) cho thấy nếu ngân hàng đáp ứng chuẩn mực về quản trị vốn sẽ giúp
giảm thiểu được nguy cơ phá sản, hoạt động trở nên ổn định hơn. Tuy nhiên, nếu
hệ số này quá cao cũng có thể phản ánh cho việc tồn động vốn, ảnh hưởng tiêu cực
đến khả năng sinh lời của ngân hàng.

Hệ số an toàn vốn là công cụ giúp ngân hàng nhận diện sớm các rủi ro để
có biện pháp xử lý phù hợp. Thông qua quá trình tính toán và theo dõi biến động
của hệ số CAR, ngân hàng có thể kịp thời phát hiện ra những vấn đề liên quan đến
quá trình hoạt động, đặc biệt trong việc hình thành các loại tài sản có tiềm ẩn rủi
ro để điều chỉnh hoạt động cho phù hợp nhằm kiểm soát rủi ro trong hoạt động.
14

Nói cách khác, đây là chỉ tiêu giúp NHTM hạn chế đầu tư/cho vay vào những lĩnh
vực rủi ro, dễ gây bất ổn cho hoạt động của ngân hàng.

Do hoạt động ngân hàng phần lớn là dựa trên niềm tin của đối tác nên khi
chỉ tiêu hệ số an toàn vốn tối thiểu đảm bảo được yêu cầu sẽ giúp NHTM tạo được
niềm tin của công chúng vào mình, từ đó, góp phần giúp thu hút đối tác. Điều này
cũng được thể hiện rõ qua nghiên cứu của Bentson và Keufman (1996), khi chứng
minh được rằng các ngân hàng đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn vốn có kết quả
huy động vốn, cấp tín dụng, thu nhập tốt hơn những ngân hàng không đáp ứng
được tiêu chuẩn này.

Đối với người gửi tiền, nhà đầu tư:

Hệ số an toàn vốn là một trong những chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn của
ngân hàng mà các chủ thể này cần quan tâm trước khi thực hiện giao dịch. Thông
qua chỉ số này, người gửi tiền có thể xác định được khả năng của ngân hàng trong
việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ theo thỏa thuận. Các nhà đầu tư
cũng dùng chỉ tiêu này để đánh giá mức độ phát triển bền vững của ngân hàng để
mua các loại giấy tờ có giá, hạn chế rủi ro lựa chọn sai lầm trong việc đầu tư.

Đối với cơ quan quản lý:

Chỉ tiêu CAR được ngân hàng trung ương các quốc gia sử dụng như là một
công cụ để giám sát hoạt động của các ngân hàng. Ngân hàng trung ương thông
qua chỉ tiêu này kết hợp với các dấu hiệu khác để nhận diện sớm các ngân hàng có
vấn đề nhằm đưa ra biện pháp quản lý phù hợp để hạn chế trường hợp các ngân
hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc phá sản, gây ảnh hưởng đến
tính ổn định của hệ thống NHTM nói riêng và hệ thống tài chính nói chung.

2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn tối thiểu

2.1.3.1 Các yếu tố vĩ mô

a. Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế (GDP)

Là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng
15

thương mại chịu sự tác động rất lớn của môi trường kinh tế. Tăng trưởng kinh tế
là một biến số quan trọng để giải thích CAR và nó được thể hiện bằng tốc độ tăng
trưởng GDP. (Mili và cộng sự, 2014) nhận định rằng nếu tăng trưởng kinh tế của
một quốc gia là tích cực, sự ổn định về của nền kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể trong nền kinh tế hoạt động hiệu quả, có nhu cầu vay vốn để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho quy mô hoạt động tín dụng
của ngân hàng được mở rộng và chất lượng tín dụng được đảm bảo do năng lực tài
chính của các khách hàng vay lành mạnh, ngân hàng có thể ít rủi ro hơn, dẫn đến
việc các ngân hàng giảm quy định về vốn và đầu tư nhiều hơn vào các lĩnh vực
khác. Ngược lại, khi tốc độ tăng trưởng này có dấu hiệu suy giảm sẽ làm cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng gặp khó khăn như nhu cầu vay vốn giảm, nợ quá
hạn gia tăng do khách hàng không trả được, rủi ro của ngân hàng cao hơn, do đó
ngân hàng cần giữ tỷ lệ vốn cao để phòng ngừa tổn thất trong tương lai. Tương tự,
các nghiên cứu của (Ruckes, 2004) và (Aktas và cộng sự, 2015) cho thấy mối quan
hệ giữa tăng trưởng GDP và CAR là âm. Trong thời kỳ suy thoái, tốc độ tăng
trưởng GDP giảm, các ngân hàng phải duy trì lượng vốn lớn để xử lý lỗ có thể
đồng thời thu hẹp số lượng và lĩnh vực đầu tư, do đó CAR có xu hướng tăng trong
giai đoạn này.

b. Tỷ lệ lạm phát (CPI)

Lạm phát thể hiện sự gia tăng trong tổng giá của hàng hóa và dịch vụ dẫn
đến sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Khi lạm phát cao và bất ngờ, có thể gây
ra những tổn thất đối với nền kinh tế.

Tỷ lệ lạm phát được xác định dựa trên chỉ số giá tiêu dùng chung (CPI).
Điều này cho thấy, khi tỷ lệ lạm phát gia tăng, chi phí vay mượn sẽ trở nên đắt hơn
và làm xấu đi chất lượng của danh mục cho vay và đe doạ khả năng an toàn vốn
của ngân hàng. Do đó, ổn định nền kinh tế vĩ mô là điều cần thiết để duy trì sự ổn
định thị trường tài chính và không làm xói mòn vốn của ngân hàng. Khi tỷ lệ lạm
phát ở mức thấp, sự xáo trộn của thị trường tín dụng có thể là "không ràng buộc",
do đó lạm phát không làm biến dạng luồng thông tin hoặc can thiệp vào việc phân
16

bổ nguồn lực và tăng trưởng theo Azariadas & Smith (1996) và Choi et al. (1996).

Như vậy, tỷ lệ lạm phát tăng can thiệp vào khả năng của "ngành tài chính
để phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả". Mối quan hệ giữa lạm phát và sự
phát triển ngành ngân hàng, đặc biệt là an toàn vốn của ngân hàng là tiêu cực theo
Boyd et al., (2001). Trong khi các nghiên cứu của Schaeck and Čihák (2007),
Ogere et al. (2013), Aktas, et Al., (2015) và Ben Moussa (2018) tìm thấy sự tác
động cùng chiều giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng.

c. Lãi suất

Mức lãi suất cho vay cao hơn có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ của
khách hàng vay vốn. Lãi suất cho vay cao dẫn tới tỷ lệ khách hàng phá sản cao hơn
và rủi ro hoạt động cho vay cao làm tăng rủi ro cho ngân hàng. Điều này có thể tác
động tiêu cực đến an toàn vốn của ngân hàng, do nhiều người vay không có khả
năng thanh toán các khoản nợ. Chính vì vậy, khi xem xét tác động của lãi suất tới
CAR, các nghiên cứu thường quan tâm tới chỉ tiêu lãi suất cho vay. Nghiên cứu
của theo Bahihuga (2007), Williams (2011), Mili et al. (2014) xem xét tác động
của lãi suất cho vay tới CAR của các ngân hàng thông qua chỉ tiêu lãi suất cho vay
bình quân. Kết quả cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất cho vay bình
quân và CAR.

d. Tỷ giá hối đoái.

Một yếu tố khác ảnh hưởng đến an toàn vốn của ngân hàng là tỷ giá hối
đoái. Nghiên cứu của (Williams, 1998) chỉ ra rằng có một mối tương quan nghịch
giữa tỷ giá hối đoái và tỷ lệ an toàn vốn. Việc tăng tỷ giá sẽ khiến nhà đầu tư nước
ngoài hạn chế đầu tư trực tiếp dẫn đến giảm tỷ lệ an toàn vốn. Ngược lại, kết quả
nghiên cứu của Shaddady and Moore (2015) chỉ ra rằng tỷ giá hối đoái có tác động
cùng chiều với tỷ lệ an toàn vốn. Tác giả lập luận rằng, khi tỷ giá hối đoái tăng,
các ngân hàng sẽ kiếm được nhiều tiền hơn và bù đắp được các khoản lỗ về an toàn
vốn. Nghiên cứu của tác giả thực hiện đối với các quốc gia nhóm GCC, do đó khi
tỷ giá hối đoái tăng các ngân hàng này nhận được nhiều khoản đầu tư nước ngoài
17

giúp ngân hàng gia tăng lợi nhuận dẫn đến tỷ lệ an toàn vốn tăng.

2.1.3.2 Nhóm yếu tố vi mô

Khác với nhóm yếu tố khách quan, nhóm yếu tố chủ quan chính là các yếu
tố bên trong nội bộ của các ngân hàng thương mại như khả năng huy động vốn,
tình hình cho vay, chất lượng tín dụng… Trong một thị trường, các ngân hàng đều
chịu những tác động khách quan như nhau thì chính những yếu tố bên trong sẽ là
yếu tố quyết định đến CAR của các ngân hàng thương mại.

a. Khả năng sinh lời

Theo lý thuyết trật tự phân hạng, NHTM sẽ ưu tiên sử dụng nguồn lợi nhuận
giữ lại cho các hoạt động kinh doanh. Do đó, nếu NHTM hoạt động tốt, tạo ra
nhiều lợi nhuận thì sẽ có khả năng mở rộng hoạt động cho vay hơn, ít phụ thuộc
vào nguồn vốn huy động hơn và chi phí sử dụng lợi nhuận giữ lại cũng thấp hơn
so với việc huy động vốn từ các chủ thể bên ngoài. Như vậy, nếu căn cứ vào lý
thuyết trật tự phân hạng, khả năng sinh lời sẽ có tác động thuận chiều đến hệ số
CAR. Song song đó có nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã xác định cụ thể sự tác
động của khả năng sinh lời đến hệ số an toàn vốn chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản
(ROA) và chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

ROA là yếu tố phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận từ tài sản của NHTM.
ROA có tác động đáng kể và tích cực đến vốn, cho thấy các ngân hàng có lợi nhuận
có thể dễ dàng cải thiện vốn của họ thông qua thu nhập được giữ lại theo Rime
(2001). Tuy nhiên, ROA cũng có thể có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với CAR của các
NHTM. Các NHTM có khả năng sinh lời tốt, hoạt động hiệu quả, mức độ rủi ro
thấp. Chính vì vậy, các NHTM có ROA cao thường có “đệm” vốn thấp hơn hay
CAR thấp hơn theo nghiên cứu của Almazari (2013); Dreca (2014).

ROE là chỉ số quan trọng nhất đối với nhà đầu tư cho khả năng sinh lợi và
tiềm năng tăng trưởng của một ngân hàng. Đây là tỷ suất lợi nhuận cho cổ đông
hoặc tỷ lệ phần trăm lợi nhuận trên mỗi đồng vốn cổ phần đã đầu tư vào ngân hàng
Casu et al., (2015). Mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu và lợi nhuận là vấn đề còn
18

gây nhiều tranh cãi. Quan điểm truyền thống cho rằng CAR có mối quan hệ tỷ lệ
nghịch với ROE. CAR cao hơn có xu hướng làm giảm rủi ro vốn chủ sở hữu và do
đó làm giảm ROE theo yêu cầu của nhà đầu tư. CAR cao hơn có thể làm giảm thu
nhập sau thuế do giảm lá chắn thế được khấu trừ từ các khoản thanh toán lãi từ đó
làm giảm ROE theo Berger et al (1995).

b. Hoạt động cho vay

Tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản (LAR) được sử dụng để đo lường tác
động của quy mô các khoản cho vay trong danh mục đầu tư tài sản, phản ánh mức
độ đa dạng hoá của các tài sản và cơ hội đầu tư của ngân hàng. LAR cũng được sử
dụng như một chỉ số rủi ro của ngân hàng. Khi LAR tăng nghĩa là mức độ rủi ro
trong hoạt động cho vay tăng lên, vì vậy ngân hàng cần tăng vốn để đảm bảo an
toàn cho người gửi tiền theo Shrieves & Dahl (1992), Büyüksalvarci & Abdioğlu
(2011).

Có thể, tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa CAR và LAR nếu mức độ rủi
ro của các khoản cho vay được các nhà quản lý ngân hàng ước tính cao hơn so với
các tiêu chuẩn quy định. Nghĩa là, khi LAR tăng, mức độ rủi ro của tài sản tăng,
các nhà quản lý tăng vốn ngân hàng cao hơn mức cần thiết theo tiêu chuẩn quy
định, điều đó làm CAR của ngân hàng tăng.

Cấu trúc tài sản cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hệ số CAR của NHTM.
NHTM là trung gian tài chính nên phần lớn tài sản của NHTM là các khoản cho
vay. Đặc điểm của các khoản vay là luôn tiềm ẩn rủi ro tín dụng cũng như chịu sự
ảnh hưởng lớn từ rủi ro thị trường nên nó có tác động không nhỏ đến hệ số CAR.
Mẫu số của CAR là tài sản có điều chỉnh rủi ro, phần lớn chính là các khoản cho
vay của NHTM. Do đó, khi quy mô cho vay của ngân hàng càng lớn nhưng nguồn
vốn không đủ đảm bảo thì tỷ lệ cho vay càng cao càng làm giảm hệ số CAR như
trong nghiên cứu của Nadja Dreca (2014). Tuy nhiên, nghiên cứu của Leila Bateni
và cộng sự (2014); Osama A. Elanasary và Hassan M. Hafez (2015) lại cho thấy
có mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ cho vay và CAR. Điều này cho thấy nếu các
NHTM có tỷ lệ cho vay cao nhưng là những khoản cho vay an toàn, mang lại
19

nguồn lợi nhuận lớn, giúp ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu thì tỷ lệ cho vay cao có
ảnh hưởng tích cực đến hệ số CAR.

c. Chất lượng tín dụng

Tín dụng là một trong những hoạt động quan trọng của các NHTM, chủ yếu
đem lại thu nhập từ lãi cho vay cho các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay
cũng lại là hoạt động có mức độ rủi ro cao. Hoạt động cho vay có thể đem lại
những tổn thất cho ngân hàng do các khoản nợ xấu. Tác động của khoản cho vay
tới an toàn vốn của các ngân hàng có thể được xem xét thông qua chỉ tiêu nợ xấu
(Hassan and Bashir, 2003) (Mohammed T. Abusharba, 2013) và chỉ số dự phòng
rủi ro tín dụng (Buyuksalvarci &Adioglu, 2011)

Nợ xấu (NPL) là các khoản cho vay mà người vay không thực hiện thanh
toán theo hợp đồng trong một thời gian xác định trước. Các khoản cho vay được
phân loại là nợ xấu không nhất thiết dẫn đến thua lỗ của ngân hàng, nếu có đủ tài
sản thế chấp, các khoản lỗ có thể không xảy ra. Ngược lại, các khoản vay có thể bị
mất ngay cả khi chúng không được phân loại là nợ xấu. Theo nghiên cứu của Ali
Shingjergji và Marsida Hyeni (2015) nợ xấu cho thấy chất lượng của các khoản
cho vay của ngân hàng. Nợ xấu càng cao thì chất lượng của các khoản cho vay
càng thấp và làm giảm khả năng an toàn vốn của các NHTM và ngược lại.

Dự phòng rủi ro tín dụng (LLR) theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN là khoản


tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng
của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro tín dụng được
tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD. Dự phòng rủi
ro tín dụng bao gồm: Dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Trong đó, dự phòng cụ
thể được xác định dựa trên các nhóm nợ cụ thể theo các mức độ rủi ro của của từng
nhóm nợ. Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những
tổn thất chưa được xác định trong quá trình phân loại nợ và các trường hợp khó
khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng nợ suy giảm. Thoa &Anh
(2017) cho biết dự phòng rủi ro tín dụng trong ngân hàng có thể được tính bằng
cách tính tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng khoản vay. Nghiên cứu tiết lộ
20

rằng dự phòng rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực đáng kể đến tỷ lệ an toàn vốn.
Trong khi nghiên cứu được thực hiện bởi Buyuksalvarci &Adioglu (2011) chỉ ra
rằng dự phòng rủi ro tín dụng (LLR) có tác động tích cực đến CAR. Mức LLR của
một ngân hàng càng cao cho thấy dự trữ tổn thất tín dụng cũng cao. Tỷ lệ CAR
cũng được yêu cầu để đáp ứng tổn thất mà các ngân hàng phải đối mặt từ rủi ro tín
dụng.

d. Thu nhập lãi biên

Thu nhập lãi biên (NIM) là một trong những chỉ số có thể được sử dụng
trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Thu nhập lãi biên là tỷ
lệ giữa thu nhập lãi ròng trên tài sản sinh lãi bình quân (Büyükşalvarci and
Abdioğlu, 2011), phản ánh sự khác biệt giữa lợi ích thu được từ lãi trên tài sản trừ
chi phí lãi vay trên mỗi đồng tài sản. NIM cao phản ánh chênh lệch lãi cho vay và
lãi tiền gửi cao và ngược lại. NIM giảm phản ánh sự cạnh tranh gia tăng trong thị
trường tiền gửi và cho vay theo Casu et al., (2015). Theo Angbazo (1997), NIM
phù hợp sẽ tạo ra đủ thu nhập để tăng vốn với sự gia tăng rủi ro.

Bên cạnh đó, NIM có ảnh hưởng tích cực đến vốn ngân hàng do doanh thu
cao cho phép ngân hàng huy động vốn bổ sung thông qua thu nhập giữ lại và đã
đem lại một tín hiệu tích cực cho giá trị của công ty (Rafet, 2015). Tuy nhiên, NIM
cũng có thể có một mối quan hệ tỷ lệ nghịch với CAR. Bởi, có thu nhập cao có thể
làm giảm xác suất thất bại của ngân hàng. Chính vì vậy, khi có thu nhập, rủi ro thất
bại thường thấp nhà quản lý ngân hàng giảm bớt CAR như Do et al. (2019);
Mekonnen (2015).

e. Khả năng thanh khoản (LIQ)

Tính thanh khoản cho biết khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng các
khoản nợ ngắn hạn và các khoản rút tiền không thường xuyên (Sundararajan and
Errico, 2002). Đảm bảo khả năng thanh khoản luôn là yêu cầu quan trọng với các
ngân hàng. Khả năng thanh khoản phản ánh sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Trên bảng cân đối kế toán ngân hàng, các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu là
21

những tài sản được xem như có tính thanh khoản cao vì dễ dàng chuyển đổi thành
tiền. Ngân hàng có thanh khoản cao thì rủi ro thanh khoản sẽ giảm và vốn cũng sẽ
tăng (Abusharba et al., 2013). Thoa & Anh (2017) cho biết thanh khoản có ảnh
hưởng tích cực đến tỷ lệ an toàn vốn. (Jaber & Al- khawaldeh, 2014) đã thực hiện
một nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Ả Rập Xê Út trong giai đoạn 2007-2011 về các
yếu tố quyết định mức độ an toàn vốn của các ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và lợi nhuận tài sản có ảnh hưởng
tích cực đến mức độ đủ vốn. Nghiên cứu được thực hiện bởi Abusharbeh et al.
(2013) tuyên bố rằng tính thanh khoản ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ an toàn vốn vì
các ngân hàng có đủ vốn để tối đa hóa việc rút tiền của khách hàng và bảo vệ vốn
của ngân hàng khỏi những tổn thất có thể xảy ra.

f. Quy mô ngân hàng (SIZE)

Quy mô của ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hệ số an
toàn vốn. Các ngân hàng lớn hơn có xu hướng có danh mục đầu tư đa dạng, phân
tán và ít rủi ro hơn, do đó, dự trữ vốn của họ cũng nhỏ hơn. Ngoài ra, ngân hàng
có quy mô lớn thường đầu tư hệ thống quản trị rủi ro hiện đại, năng lực kiểm soát
rủi ro cũng tốt hơn (Wong et al., 2008). Do đó, các ngân hàng có quy mô lớn
thường có tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy quy mô ngân
hàng có tương quan ngược chiều với tỷ lệ an toàn vốn, quy mô ngân hàng càng
lớn thì tỷ lệ an toàn vốn có xu hướng giảm, Bateni et al. (2014); Asama-Ansary và
Hafez (2015); Hoang Thi Thu Huong (2018) với không gian nghiên lần lượt tại Ai
Cập, Iran, Việt Nam trên cơ sở dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của các
NHTM, vận dụng phương pháp phân tích định lượng để kiểm định mối quan hệ
giữa các biến giải thích đối với biến phụ thuộc CAR. Một số nghiên cứu khác cho
thấy quy mô của ngân hàng có mối tương quan thuận với hệ số an toàn vốn. Ngân
hàng có quy mô càng lớn thì mức đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng càng lớn
như nghiên cứu của Shingjergji and Hyseni (2015); Phạm Phát Tiến và Nguyễn
Thị Kiều Ni (2019) thực hiện đối với các ngân hàng thương mại tại Albanian, Việt
Nam.
22

g. Đòn bẩy tài chính

Edson (2015) cho rằng đòn bẩy tài chính trong ngân hàng là khi ngân hàng
được tài trợ bởi các khoản nợ có nguồn gốc từ tất cả các loại tiền gửi, thuế thu nhập
phải trả và các khoản nợ khác. Do đó khi nghiên cứu về tác động của đòn bẩy đến
hệ số an toàn vốn, các nhà nghiên cứu xác định qua tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
(LEV) hoặc tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản (DEP)

Yếu tố đòn bẩy của ngân hàng mà đại diện bằng tỷ lệ đòn bẩy (LEV), có
mối quan hệ chặt chẽ với an toàn vốn của ngân hàng. Đối với các ngân hàng có tỷ
lệ đòn bẩy càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn, đòi hỏi ngân hàng có một lượng
vốn đủ lớn để bù đắp tổn thất tiềm năng không làm ảnh hưởng đến các chủ nợ
(Angabazo, 1997); (Shingjergji & Hyseni, 2015). Tuy nhiên theo Ahmad et al.
(2008) khi ngân hàng có vốn vay cao với nhiều rủi ro hơn, các cổ đông sẽ yêu cầu
tăng tỷ lệ lợi nhuận, dẫn đến ngân hàng có tỷ lệ vốn vay cao có khó khăn trong
việc huy động vốn cổ phần mới do chi phí vốn cao. Do đó, tỷ lệ đòn bẩy và CAR
của ngân hàng có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.

Đối với tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản (DEP), theo nghiên cứu Ijaz Hussain
Bokhari, Syed Muhamad Ali (2009) về yếu tố tác động đến hệ số an toàn vốn trong
hệ thống Ngân hàng Pakistan thì chỉ ra rằng hệ số tiền gửi trên tổng tài sản có
tương quan âm với hệ số an toàn vốn. Trong khi một nghiên cứu khác của tác giả
Bahiru Workneh (2014) nghiên cứu về yếu tố tác động đến hệ số an toàn vốn trong
hệ thống Ngân hàng thương mại ở Ethiopia năm 2002-2013 cho thấy rằng hệ số
tiền gửi trên tổng tài sản có mối tương quan dương với hệ số an toàn vốn. Khi
tiền gửi tăng lên, các ngân hàng nên được điều tiết và kiểm soát để đảm bảo quyền
của người gửi tiền và để bảo vệ một ngân hàng khỏi mất khả năng thanh toán do
đó ngân hàng sẽ tăng tỷ lệ an toàn vốn lên một mức tỷ lệ vốn tối ưu. Do đó, tồn tại
mối quan hệ giữa quy mô tiền gửi và hệ số an toàn vốn. Mối quan hệ này có thể là
mối quan hệ âm hoặc mối quan hệ dương.

2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan


23

2.2.1 Nghiên cứu nước ngoài

Trước đây có nhiều tác giả nước ngoài nghiên cứu về CAR và các yếu tố
ảnh hưởng tới CAR Các nghiên cứu thường tập trung đánh giá các yếu tố kinh tế
vĩ mô và đặc thù của Ngân hàng tới CAR.

Yonas Mekonnen (2015) đã nghiên cứu về những yếu tố tác động tỷ lệ an


toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng thương mại tại Ethiopia. Tác giả đã nghiên
cứu 8 ngân hàng trong thời gian 2004 - 2013 vơi mẫu quan sát cho mỗi biến là 80,
mục tiêu chính của nghiên cứu này là khảo sát thực nghiệp các yếu tố quyết định
CAR trong các ngân hàng thương mại Ethiopia. Mô hình này đã phân tích các biến
tác động đến CAR như sau: quy mô ngân hàng (SIZE), tỷ lệ tiền gửi (DEP), cho
vay tổng tài sản (LNTA), lợi nhuận trên vốn (LIQ), ROE, ROA, lãi suất ròng
(NIM), đòn bẩy (LEV) và biến phụ thuôc là CAR.

Masood.U (2016) phân tích các nhân tố nội tại ngân hàng tác động đến tỷ
lệ an toàn vốn. Dữ liệu nghiên cứu bao gồm 14 ngân hàng thương mại tại Pakistan
được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Karachi và mẫu dữ liệu được thu
thập trong vòng 7 năm từ 2008 – 2014. Tác động của tỷ suất sinh lợi trên tài sản
(ROA), tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ cho vay trên tài sản, dự
phòng rủi ro tín dụng, nợ xấu (NPL), tỷ lệ huy động, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tài sản và mức độ sở hữu tập trung trên 10%, 25% và 50% được hồi quy theo mô
hình dữ liệu bảng với ảnh hướng ngẫu nhiên (REM) và ảnh hướng cố định (FEM).
Tuy nhiên, kiểm định Hausman đề xuất rằng mô hình hồi quy với ảnh hưởng ngẫu
nhiên (REM) phù hợp hơn trong nghiên cứu này. Kết quả mô hình hồi quy cho
thấy tỷ lệ cho vay trên tài sản và mức độ sở hữu tập trung trên 50% có tác động
ngược chiều với mức độ rất đáng kể trong khi các biến tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tài sản, tỷ lệ huy động và dự phòng rủi ro tín dụng có tác động dương và rất đáng
kể đối với tỷ lệ an toàn vốn CAR. Các biến quy mô, ROA, ROE và nợ xấu không
có tác động đến tỷ lệ an toàn vốn trong mẫu nghiên cứu.

Hewaidy và Alyousef (2018) trong nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng đến
hệ số CAR của ngân hàng theo các yếu tố thuộc về hoạt động từng ngân hàng và
24

kinh tế vĩ mô. Theo đó các yếu tố cụ thể về ngân hàng được sử dụng: Quy mô ngân
hàng, khả năng sinh lời của ngân hàng (ROA và ROE), chất lượng tài sản, chất
lượng quản lý, thanh khoản và biên lãi ròng. Các yếu tố kinh tế vĩ mô được sử
dụng là lạm phát và GDP. Dữ liệu điều tra tác động đến mức an toàn vốn của các
ngân hàng niêm yết tại Kuwait trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2016. Kết
quả cho thấy tác động đáng kể đến CAR là quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản,
chất lượng quản lý và khả năng thanh khoản thuộc về các đặc điểm của ngân hàng.
Trong đó, quy mô ngân hàng, tính thanh khoản và chất lượng tài sản có tác động
tiêu cực đến tỷ lệ an toàn vốn. Đồng thời, CAR bị ảnh hưởng tích cực tùy thuộc
vào việc quản lý như cách thức sử dụng các nguồn lực của ngân hàng hơn là bởi
các đặc điểm của ngân hàng khác hoặc các yếu tố kinh tế vĩ mô. Lạm phát tác động
ngược chiều nhưng rất yếu.

2.3. Nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng
tới tỷ lệ an toàn vốn. Một số nghiên cứu có thể kể đến như sau:

Phạm Thị Xuân Thoa, Nguyễn Ngọc Anh (2017) đã nghiên cứu về các
yếu tố ảnh hưởng đến CAR tại các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015.
Trên cơ sở lược khảo các nghiên cứu trước, nhóm tác giả đã xây dựng mô hình
gồm 6 biến độc lập kỳ vọng có tác động đến CAR gồm quy mô ngân hàng được
tính bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản, hệ số đòn bẩy xác định bẳng vốn chủ
sở hữu trên tổng nợ, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ, tỷ lệ thu nhập
lãi thuần, tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao. Nghiên
cứu sử dụng bộ dữ liệu của 29 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015,
được thu thập từ “Vietnamese Banks-A helicopter view Issue 11, Stoxplus”.
Phương pháp hồi quy FEM được sử dụng trong nghiên cứu vì những ưu điểm của
nó so với hồi quy OLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng,
tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ tài sản thanh khoản cao có tương quan
ngược chiều với CAR. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên NIM có ảnh hưởng thuận chiều
đến CAR. Các biến số còn lại không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên
25

cứu.

Lê Thanh Tâm và Nguyễn Diệu Linh (2017) nghiên cứu về các nhân tố
quyết định tới CAR của 26 NHTM Việt Nam giai đoạn 2009 - 2015. Kết quả cho
thấy, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế và tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch và có ý nghĩa thống kê với
CAR. Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, tỷ lệ tổng vốn chủ sở hữu trên tổng nợ, tỷ
lệ huy động vốn trên tổng tài sản có mối quan hệ tỷ lệ thuận và có ý nghĩa thống
kê với CAR. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu, tỷ trọng cho vay trên tổng tài sản, lãi suất
cho vay có ảnh hưởng tới CAR nhưng không có ý nghĩa thống kê.

Như vậy, so với các nghiên cứu khác về CAR ở Việt Nam thì nghiên cứu
của Lê Thanh Tâm và Nguyễn Diệu Linh (2017) cho thấy một bức tranh khá đầy
đủ về các nhân tố tác động tới CAR. Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu cũng mới chỉ
giải thích được 46,06% sự thay đổi của CAR nghĩa là còn thiếu một số biến quan
trọng khác. Đồng thời, cũng cần phải xem xét lại mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ xấu và
CAR của các NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nợ xấu có mối
quan hệ tiêu cực với CAR nhưng lại không có ý nghĩa thống kê.

Phạm Phát Tiến và Nguyễn Thị Kiều Ny (2019) đã thực hiện nghiên cứu
các yếu tố ảnh hưởng đến CAR tại 29 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2013 -
2017. Với 7 biến độc lập gồm quy mô ngân hàng, ROA, NIM, tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tài sản, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ
nợ xấu. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tài sản có mối quan hệ thuận chiều với CAR. Hệ số an toàn vốn CAR có mối quan
hệ nghịch chiều với ROA, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng. Chưa có bằng chứng cho
thấy NIM, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và tỷ lệ nợ xấu có ảnh hưởng đến CAR.

2.3. Khoảng trống nghiên cứu

Qua tổng hợp, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã thực hiện các
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống Ngân hàng.
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, do đặc thù hệ thống Ngân hàng đặc thù kinh
26

tế khác nhau, do đó một số kết quả có thể không thể áp dụng tại Việt Nam.

Đối với các nghiên cứu trong nước, luận văn của tác giả có một số điểm
khác biệt như sau:

 Đa phần các tác giả đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới CAR để làm bước
trung gian đánh giá tác động tới hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Do đó hàm
ý quản trị đối với các nghiên cứu này tập trung chủ yếu vào cải thiện hiệu quả kinh
doanh của Ngân hàng. Đối với luận văn, trên cơ sở kết quả hồi quy mô hình, tác
giả tập trung đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện các yếu ảnh hưởng CAR.

 Các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến hệ số CAR tại Việt Nam chưa
đề cập đến đồng thời tác động của yếu tố vĩ mô và dịch Covid- 19. Trong khi nhiều
nghiên cứu thực nghiệm tại các quốc gia trên thế giới cho thấy có sự ảnh hưởng
của các yếu tố này đến hệ số CAR. Vì vậy trong nghiên cứu, đề tài đưa thêm các
yếu tố vĩ mô và dịch Covid- 19 vào mô hình nhằm xác định được đầy đủ hơn yếu
tố ảnh hưởng đến CAR tại các NHTM Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Hoàng Huy Hà 2012, Việc áp dụng những tiêu chuẩn an toàn hoạt động
và quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Hiệu 2010, ‘Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 3
– lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính – ngân hàng’, Tạp chí công nghệ
ngân hàng, số 22, trang 17-20.

3. Hoàng Thị Thu Hường 2017, ‘Hệ số an toàn vốn của các ngân hàng
thương mại Việt Nam’, Tạp chí Tài chính, số 3, trang 14-19.

4. Tôn Thanh Tâm 2012, ‘Khó khăn và thách thức của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam trong việc vận dụng các quy định về tỷ lệ an toàn vốn theo
27

tinh thần Hiệp ước Basel III’, Tạp chí ngân hàng, số 16, trang 49-55.

5. Phạm Hữu Hồng Thái 2013, ‘Các yếu tố quyết định hệ số an toàn vốn
của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 2006 – 2010’, Tạp chí nghiên cứu
kinh tế, số 4, trang 30-36.

6. Phạm Phát Tiến và Nguyễn Thị Kiều Ny 2019, ‘Yếu tố ảnh hưởng đến
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam’, Tạp chí
Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 55, trang 78-84.

7. Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/08/1999, Quyết định


457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày
20/5/2010, Thông tư 36/2014/TT- NHNN ngày 20/11/2014, Thông tư 41/2016/TT-
NHNN ngày 30/12/2016.

8. Nguyễn Đức Trung 2015, ‘An toàn vốn của các NHTM - Thực trạng
Việt Nam và giải pháp cho việc áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II và III’,
Tạp chí Ngân hàng, số 4, trang 45-53.

Tiếng Anh

9. Jim Wong, Ka-fai Choi, Tom Fong 2005, ‘The cost efficiency of
commercial banks in Hong Kong, Hong Kong Monetay Authority’, International
Journal of Economics, vol. 3, no. 1, pp. 18-26.

10. Masood. U. 2016. ‘Determinants of capital adequacy ratio : A


perspective from Pakistan banking sector’. International Journal of Economics,
Commerce and Management, vol IV, issue 7, July, pp. 247-273.

11. Corporate Governance’, International Journal of Review, vol. 24, no. 3,


pp. 334-345.

12. Yusuf, M., & Ichsan, R. N. 2021, ‘Analysis of Banking Performance in


The Aftermath of The Merger of Bank Syariah Indonesia in Covid 19’,
International Journal of Science, Technology & Management, vol. 2, no. 2, pp.
472-478.
28

11. Kế hoạch thực hiện


Thời gian dự Kết quả nghiên cứu dự
STT Nội dung nghiên cứu
kiến định đạt được
1 Xây dựng đề cương 2 tháng
2 Thu thập số liệu 1,5 tháng
3 Phân tích số liẹu 1 tháng
4 Viết kết quả nghiên cứu 1 tháng
Nộp luận văn đăng ký
5 0,5 tháng
bảo vệ
Tổng thời gian 6 tháng

You might also like