You are on page 1of 13

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

53.
THỰC TRẠNG NỢ XẤU VÀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
ThS. Ngô Thanh Xuân*
Trần Trương Thảo Vân*, Nguyễn Thị Khánh Hòa*

Tóm tắt
Tín dụng là hoạt động xương sống của các ngân hàng, góp phần lớn trong việc gia tăng lợi
nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, nếu chất lượng tín dụng chưa cao và việc quản trị rủi ro chưa
tốt sẽ dẫn đến tình trạng nợ xấu, gây ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại
(NHTM). Bài viết này nhằm làm rõ khái niệm và tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế, nghiên
cứu đánh giá thực trạng về nợ xấu tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020 và trong bối
cảnh đại dịch COVID-19. Cuối cùng, bài viết tìm hiểu về kinh nghiệm xử lý nợ xấu ở các quốc
gia phát triển tại châu Á, từ đó rút ra những giải pháp giảm thiểu nợ xấu áp dụng vào hệ thống
tài chính tại Việt Nam.
Từ khóa: Nợ xấu, ngân hàng thương mại, COVID-19

1. MỞ ĐẦU
Sự phát triển của hệ thống NHTM gắn liền với sự tăng trưởng nền kinh tế khi mà NHTM
đóng vai trò là trung gian lưu chuyển vốn của thị trường. Theo Mishkin (2009), hoạt động chính
của NHTM là dẫn truyền vốn từ chủ thể thừa vốn đến chủ thể có nhu cầu vốn. Vì vậy, có thể nói,
sự ổn định trong hoạt động tín dụng của NHTM là yếu tố quan trọng góp phần cho sự ổn định và
phát triển của nền kinh tế, nhất là đối với một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam - nơi người đi
vay có ít cơ hội tiếp cận nguồn vốn trực tiếp (Kwambai và Wandera, 2013).
Cũng phải nói rằng, nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTM luôn tiềm ẩn những rủi ro đi kèm, đặc
biệt là rủi ro liên quan tới nợ xấu do nợ xấu tác động tiêu cực lên hoạt động của NHTM và làm
giảm lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động trong dài hạn. Do đó, xử lý nợ xấu không phải vấn
đề riêng của từng NHTM mà của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam và cần được sự quan tâm
chỉ đạo sát sao của Nhà nước, bởi những lý do sau: (i) một số nghiên cứu về thất bại của ngân

* Viện Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

562
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

hàng phát hiện ra rằng, chất lượng tài sản là một trong những nhân tố dẫn đến việc ngân hàng
mất khả năng thanh toán (Demirguc-Kunt, 1989; Barr và Siems, 1994). Các ngân hàng thường
có tỷ lệ nợ quá hạn cao trước khi phá sản. Do đó, một lượng lớn các khoản cho vay xấu trong hệ
thống ngân hàng nói chung dẫn đến sự thất bại của ngân hàng và mất khả năng sinh lời (Messai
và Jouini, 2013); (ii) việc giảm thiểu nợ xấu là điều kiện cần thiết để nâng cao tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Khi nợ xấu bị ứ đọng trong thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính của các
vấn đề trì trệ kinh tế (Hou, 2007).
Đại dịch COVID-19 diễn ra trên toàn cầu từ cuối năm 2019 tới nay đã và đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân cũng như các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, tác động lớn đến thương mại, dịch vụ và đặc biệt là tác động lên hoạt động của hệ thống
ngân hàng trên toàn thế giới (Bạch Hồng Việt, 2020). Hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng. Cụ thể, tín dụng tăng trưởng chậm và gia tăng nợ chậm trả, nợ xấu.
Theo số liệu mới nhất của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, đến ngày 18/11/2020, dư nợ tín dụng
toàn nền kinh tế đạt 8.801.253 tỷ đồng, tăng 7,39% so với cuối năm 2019 (Hà Thành, 2020).
Cũng theo Vụ Tín dụng, dư nợ bị ảnh hưởng bởi COVID-19 lên đến khoảng 2,3 triệu tỷ đồng,
chiếm xấp xỉ 26% tổng dư nợ hệ thống (Hoàng Yến, 2020). Mặc dù, Chính phủ Việt Nam được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao về khả năng kiểm soát dịch bệnh, song các doanh nghiệp và hộ
gia đình kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục sau COVID-19. Đồng thời,
các NHTM không thể hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng vì lo ngại sẽ gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng,
rủi ro cho nền kinh tế, nợ xấu gia tăng.
Xuất phát từ tình hình hiện tại về nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và ảnh hưởng của
nợ xấu đối với nền kinh tế, bài nghiên cứu này phân tích thực trạng nợ xấu và các biện pháp xử
lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Từ những
bài học kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ xấu, tác giả đề xuất một số ý kiến nhằm cải thiện tỷ
lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam.

2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT


2.1. Khái niệm và phân loại
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có sự đồng thuận về khái niệm và những tiêu chí đo lường cũng như
phân loại nợ xấu. Nợ xấu được “nhắc đến với các thuật ngữ: như “bad debt”, “ non-performing loan”
(NPL), “doubtful debt” (Rose và Hudgins, 2009; Mishkin, 2009).
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cho rằng: “Nợ xấu là những khoản cho vay không có
khả năng thu hồi hoặc là những khoản cho vay có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng”
(Nguyễn Thị Hoài Phương, 2012). Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế - IMF (2004), nợ xấu được nhận
biết bởi hai dấu hiệu: (i) quá hạn trả nợ gốc và lãi; (ii) được đánh giá là không có khả năng trả nợ.
Ở Việt Nam, năm 2001, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày
05/10/2001 về việc phê duyệt Đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM. Theo Quyết định này,
nợ xấu được phân loại thành 3 nhóm: (i) nợ tồn đọng nhóm 1: Nợ xấu tồn đọng có tài sản đảm
bảo (TSĐB); (ii) nợ tồn đọng nhóm 2: Nợ xấu tồn đọng không có TSĐB và không còn đối

563
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

tượng thu hồi; (iii) nợ tồn đọng nhóm 3: Nợ xấu tồn đọng không có TSĐB và đối tượng thu
hồi nợ còn tồn tại, hoạt động.
Từ 2005 tới nay, theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt
Nam quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động của TCTD thì lần đầu tiên, nợ xấu được định nghĩa một cách rõ ràng theo 3 nhóm nợ: nhóm
3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Điều khoản
về phân loại nợ sau đó được sửa đổi theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của
NHNN. Tuy nhiên, về cơ bản, phân loại nợ xấu vẫn thuộc các nhóm nợ 3, 4 và 5.
Về mặt định lượng, định nghĩa nợ xấu của Việt Nam và thông lệ quốc tế tương đồng về thời
gian trả nợ quá hạn từ 91 ngày. Do đó, nợ xấu mà nhóm nghiên cứu sử dụng trong bài này được
hiểu là các khoản cho vay đã quá hạn trả nợ gốc và lãi 90 ngày trở lên và dấu hiệu nghi ngờ về
khả năng trả nợ của người đi vay.
2.2. Tác động của nợ xấu
• Đối với các NHTM
Nợ xấu luôn song hành cùng hoạt động tín dụng theo mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro (Đinh
Mai Long, 2015). Vì vậy, khi phê duyệt một món cho vay thì ngân hàng đã phải xác định nguy cơ
phát sinh nợ xấu. Theo Fofack (2005) và Nguyễn Thị Hoài Phương (2012), nợ xấu có những tác
động trực tiếp tới nền kinh tế và làm ảnh hưởng đến sự hoạt động của các NHTM như sau: 
(i) Giảm lợi nhuận của ngân hàng: Nợ xấu khiến cho doanh thu của các ngân hàng thấp dẫn
đến tình trạng thua lỗ. Chi phí vận hành của các ngân hàng cũng tăng lên khi nợ xấu phát sinh kể
cả không thua lỗ như: chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu, chi phí trích lập dự phòng rủi
ro và các chi phí khác liên quan. Việc tăng các khoản chi phí làm cho lợi nhuận trở nên thấp hơn.
(ii) Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng: Nợ xấu khiến cho quá trình luân
chuyển vốn của ngân hàng bị chậm lại do không thu hồi được các khoản cho vay. Trong khi đó,
ngân hàng vẫn phải có nghĩa vụ thanh toán cho khách hàng, điều này khiến ngân hàng phải đối
mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản.
(iii) Giảm uy tín của ngân hàng: Khi tài sản có của một ngân hàng có mức độ rủi ro cao thì
ngân hàng đó thường phải đối mặt với nguy cơ mất uy tín của mình trên thị trường. Những thông
tin bất lợi thường sẽ lan truyền trong dân chúng và được các trang báo đưa tin một cách nhanh
chóng, điều này sẽ khiến cho uy tín của ngân hàng trên thị trường bị giảm và giảm khả năng cạnh
tranh với các NHTM khác (Dinger, 2009).  
• Đối với nền kinh tế
Nợ xấu tác động gián tiếp đến nền kinh tế thông qua mối quan hệ giữa ngân hàng và các
chủ thể cho nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Nợ xấu phát sinh sẽ làm hạn chế khả năng luân
chuyển vốn của ngân hàng cho nền kinh tế. Mặt khác, nợ xấu phát sinh sẽ ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh kém hiệu
quả (Nguyễn Thị Hoài Phương, 2012; Hou, 2007; Nsobilla, 2015).

564
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

3. THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 - 2020 VÀ TRONG BỐI CẢNH
ĐẠI DỊCH COVID-19
3.1. Thực trạng nợ xấu tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2020
Hình 1. Tổng nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu của NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2019

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp


từ Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam 2008 - 2019, 2021

Giai đoạn 2008 - 2010


Từ Hình 1 cho thấy, đến cuối năm 2008, nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở khoảng
43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng. Tính chung cả hệ thống, tăng trưởng tín dụng
đến hết tháng 11/2009 là khoảng 34% trong khi năm 2008, con số này chỉ ở mức 21% - 22%
(Trịnh Thanh Huyền, 2010). Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM chưa tính nợ của
Vinashin thì chỉ 2,52%, tương đương khoảng 58 nghìn tỷ đồng.
Theo phân tích của Công ty Cổ phần Chứng khoán Phố Wall (2010), từ nhiều nguyên nhân
như: lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt ngân sách nhà nước và đặc biệt là
vụ nợ xấu của Vinashin mà cả hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s và S&P đã hạ
bậc tín nhiệm tín dụng bằng ngoại tệ của Việt Nam sang mức triển vọng tiêu cực. Đồng thời,
Moody’s cũng hạ bậc tín nhiệm của 6 NHTM bao gồm: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV), Ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng Quân đội (MB), Ngân hàng Kỹ thương
Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) và Ngân hàng Quốc tế (VIB) (An
Huy và Vinh Nguyễn, 2010). Lúc này, nợ xấu vẫn chưa được đánh giá là vấn đề đặc biệt nghiêm
trọng gây ra bất ổn tài chính quốc gia. Do đó, năm 2010, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tiếp tục duy
trì ở mức tăng 27,65% (Minh Đức, 2010).
Giai đoạn 2011 - 2015
Theo Hình 1, tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam có xu hướng tăng từ năm 2009 và trở nên trầm trọng
hơn từ cuối năm 2011. Năm 2011, tỷ lệ nợ xấu được ghi nhận ở mức 3,3% tổng dư nợ. Nợ xấu

565
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

hết năm 2012 của hệ thống là 4,12%. Tuy nhiên, cùng năm, NHNN đã mạnh dạn công bố tỷ lệ nợ
xấu tới 8,82%, vượt xa số liệu các NHTM công bố (Vũ Mai Chi và Trần Anh Quý, 2018). Thậm
chí, tới thời điểm tháng 5/2015, khi đánh giá lại toàn diện các nguồn nợ xấu, NHNN đưa ra một
tỷ lệ nợ xấu gấp đôi tới 17,21% tại thời điểm 30/9/2012. Tuy nhiên, đến hết năm 2013 tỷ lệ nợ
xấu giảm đáng kể, chỉ còn ở mức 3,16% (Hình 1). Như vậy, nợ xấu có vẻ nằm trong tầm kiểm
soát giảm khi hầu hết ngân hàng đều ghi nhận tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%.
Giai đoạn 2016 - 2019
Nhìn chung, số liệu về tỷ lệ nợ xấu năm 2016 của các ngân hàng cho thấy nỗ lực giải quyết
nợ xấu trong những năm vừa qua đã có kết quả. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống vẫn ở mức
2,52% (Hình 1). Theo số liệu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (2017), chất lượng tài sản
hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) đã được cải thiện. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống TCTD
cuối năm 2017 khoảng 2,34%, giảm mạnh so với mức 2,52% cuối năm 2016. Có thể nói, đây là
một tín hiệu đáng mừng đối với toàn hệ thống trong bối cảnh các ngân hàng đang dồn lực xử lý
nợ xấu. Và tính đến hết năm 2019 (Hình 1), tỷ lệ nợ xấu nội bảng tiếp tục được duy trì dưới mức
2%, cụ thể là 1,89%.
Năm 2020
Năm 2020 là một năm đặc biệt bởi ảnh hưởng của dịch COVID-19. Mặc dù các ngân hàng
công bố kết quả khả quan về tăng trưởng lợi nhuận của năm 2020, tuy nhiên, theo các chuyên
gia, bởi rủi ro từ nợ xấu ngày một lớn mà các ngân hàng cũng rất nặng gánh với vấn đề này.
Theo NHNN (2020), tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD trong giai đoạn từ đầu
năm đến tháng 8/2020 được duy trì dưới 2%, cụ thể là 1,96%. Tuy nhiên, do tác động của dịch
COVID-19, từ tháng 8/2020, tỷ lệ này bắt đầu có xu hướng tăng nhẹ trên mức 2%. Đến cuối
năm 2020, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống ngân hàng ở vào mức khoảng 3% (so với
mức 1,89% cuối năm 2019) và nợ xấu gộp khoảng 5% cuối năm 2020 (so với mức 4,65% cuối
năm 2019).
3.2. Thực trạng về quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
2008 - 2020
Trong giai đoạn 2008 - 2009, Quốc hội, Chính phủ và NHNN Việt Nam không có văn bản
về nợ xấu cũng như quản lý nợ xấu một cách cụ thể. Việc phân loại nhóm nợ vẫn chủ yếu theo
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về việc ban hành quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD.
Giai đoạn này, Việt Nam vẫn sử dụng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao
dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành làm cơ sở cho việc xử lý các tài sản bảo đảm (TSBĐ) của
người vay vốn. Tuy nhiên, văn bản này vẫn chưa đủ mạnh để các ngân hàng thực hiện xử lý các
khoản nợ xấu phát sinh.
Trước nhu cầu cấp thiết về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, Chính phủ đã đưa ra
những giải pháp cần thiết để giảm tỷ lệ nợ xấu như việc ban hành Quyết định số 254/QĐ-TTg
ngày 01/3/2012 phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015; Nghị
quyết số 02/NQ-CP ngày 07/02//2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh
doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. Trong đó có “yêu cầu các TCTD đẩy mạnh triển

566
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

khai giải pháp tự xử lý nợ xấu” như: đánh giá lại nợ, cơ cấu lại nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để
xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh trong tương lai, nâng cao chất lượng đánh giá giá trị thị
trường của các khoản nợ xấu, hỗ trợ liên quan tới hoàn thành các hồ sơ pháp lý liên quan đến tài
sản đảm bảo tiền vay để sớm xử lý được nợ xấu.
Ngày 18/5/2013, Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt
động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) đã được ban hành. Và cũng
trong năm 2013, lần lượt các quyết định và thông tư được ra đời. Với năm 2014, đây là một năm
tích cực và chủ động xử lý nợ xấu. Theo Châu Đình Linh (2015), trong 7 tháng đầu năm 2015,
các TCTD đã xử lý được hơn 40,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu giảm dần của các TCTD
có mối quan hệ chặt chẽ với việc mua nợ xấu của VAMC trong giai đoạn 6 tháng cuối năm 2014
và đầu năm 2015.
Giai đoạn 2016 - 2019
Theo NHNN (2019), đến 31/8/2019, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng
nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Tính
trung bình từ 15/8/2017 - 31/8/2019, toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng/tháng.
Theo thống kê của Bộ Tài chính (2019), đến hết tháng 6/2019, VAMC đã tất toán 163.868 tỷ
đồng trái phiếu đặc biệt, từ khi thành lập đến ngày 30/6/2019, VAMC đã mua nợ bằng trái phiếu
đặc biệt đạt 316.066 tỷ đồng, với 347.432 tỷ đồng dư nợ gốc, mua nợ theo giá thị trường đạt
6.419 tỷ đồng hồi nợ đạt 125.796 tỷ đồng. Như vậy, trong vòng 2 năm, VAMC mới thu hồi được
hơn 50% nợ xấu mà tổ chức đã mua bằng trái phiếu đặc biệt (Thanh Hoa, 2019).
Năm 2020
Trong năm 2020, nợ xấu được kiểm soát và xử lý quyết liệt bằng nhiều giải pháp. Trong đó,
giải pháp thu hồi nợ được các TCTD thực hiện đạt kết quả tích cực (Hà Thành, 2020). Về hoạt
động xử lý thu hồi nợ xấu, VAMC đã phối hợp với các TCTD xử lý thu hồi nợ xấu được 47.515
tỷ đồng dư nợ gốc (tạm tính), đạt 95,03% kế hoạch năm 2020, giá trị thu hồi nợ (tạm tính) là
15.515 tỷ đồng. Với các khoản nợ đã mua bằng trái phiếu đặc biệt, VAMC đã phối hợp với các
TCTD xử lý thu hồi nợ xấu đạt 46.149 tỷ đồng dư nợ gốc, thu hồi nợ được 14.210 tỷ đồng (bao
gồm các biện pháp bán nợ/bán TSBĐ, bán lại nợ cho TCTD...).
Tuy nhiên, dịch bệnh COVID-19 dự báo còn diễn biến phức tạp và tiếp tục gây nên những ảnh
hưởng bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội và việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14.
Các NHTM, NHNN có thể gặp phải những khó khăn trở ngại trong việc bảo đảm an toàn hoạt
động ngân hàng cũng như kết quả cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu toàn ngành do tác động của
dịch COVID-19. Vì vậy, ngành Ngân hàng cần có giải pháp ứng phó với tình hình nợ xấu trong
bối cảnh đợt dịch thứ 3 đang bùng phát.

4. KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI QUỐC GIA CHÂU Á PHÁT TRIỂN
4.1. Trung Quốc
Nợ xấu của Trung Quốc hình thành từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các hoạt động
của các NHTM Nhà nước lớn phải chịu sự chi phối của Nhà nước, có nhiệm vụ cho vay theo
chỉ định để hỗ trợ các doanh nghiệp và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua

567
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

lỗ (Nguyễn Thị Thùy Linh, 2017). Những khoản cho vay này không được thông qua quy trình
phân tích tín dụng chặt chẽ nên luôn tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra rủi ro tín dụng. Để nâng cao chất
lượng quản lý nợ xấu của ngành Ngân hàng trong nước, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC)
đã cho thi hành một số nội dung sau:
Một là, xác lập môi trường pháp lý cho nghiệp vụ tín dụng của NHTM. Trong vài năm trở lại
đây, Trung Quốc đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến quản lý nợ xấu
(Phạm Phú Thái, 2020). Chính phủ Trung Quốc quan tâm đến việc tuân thủ các cam kết gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và sửa đổi, ban hành thêm luật và quy định mới như: Luật
Quản lý và giám sát ngân hàng, Quy định về quản lý các định chế tài chính có vốn nước ngoài và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Các văn bản pháp lý này cung cấp cơ sở vững chắc cho tiến trình
mở cửa khu vực ngân hàng Trung Quốc. Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc cũng ban hành Quy
chế mua cổ phần tại các định chế tài chính Trung Quốc của các định chế tài chính nước ngoài,
Quy định các tiêu chuẩn về quy mô tài sản, mức vốn và khả năng sinh lời cũng như giới hạn cổ
phần tối đa đối với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, PBC cũng triển khai các nguyên tắc cơ
bản về thanh tra ngân hàng hiệu quả của Ủy ban Basel về thanh tra ngân hàng để tăng cường tính
hiệu quả và minh bạch của các khoản tín dụng.
Hai là, ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM. Năm 2002, PBC đã
ban hành Hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay (Đinh Mai Long, 2015). Theo đó, các
khoản tín dụng được phân thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2), nợ
dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), trong đó nợ
xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay gồm: dự phòng
chung và dự phòng cụ thể. Dự phòng chung được trích hàng tháng và được tính bằng 1% dư nợ
cuối kỳ của các khoản tín dụng. Dự phòng cụ thể: dựa theo kết quả phân loại nợ và sau khi khấu
trừ giá trị tài sản thế chấp, NHTM trích lập dự phòng cụ thể hàng tháng theo số dư các khoản
tín dụng tương ứng với mức tỷ lệ lần lượt là: nhóm 1: 0%; nhóm 2: 2%; nhóm 3: 25%; nhóm 4:
50%; nhóm 5: 100%. Khi phân loại các khoản tín dụng, NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên
khả năng trả nợ và dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp luật về
thanh toán nợ vay của khách hàng, tình hình quản lý tín dụng của ngân hàng,… (Đinh Mai Long,
2015). Còn nếu khách hàng vay là công ty mới thành lập thì NHTM chủ yếu xem xét lịch sử giao
dịch và uy tín của các cổ đông.
Ba là, hoàn thiện quy trình quản lý tín dụng tại các NHTM, tổ chức kiểm tra và giám sát hoạt
động tín dụng và nợ xấu của các NHTM. Cụ thể, các NHTM cần thu thập thông tin để xem xét
và phân tích, đảm bảo tính chính xác, tính xác thực của các dữ liệu; tiến hành phân loại sơ bộ tài
sản theo tiêu chuẩn, đề xuất tiêu chí và lý do phân loại; báo cáo định kỳ những thông tin phân
loại của bộ phận tín dụng đến bộ phận quản lý rủi ro; căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản
lý các khoản tín dụng (Đinh Mai Long, 2015). Trung Quốc đã đẩy mạnh việc nâng cao năng lực
kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng và nợ xấu của các NHTM. Các phương pháp kiểm tra, giám
sát hệ thống được sử dụng đa dạng để đảm bảo và duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân
hàng. Quá trình tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng và nợ xấu tại Trung Quốc được đặt
dưới sự thanh tra phòng ngừa nghiêm ngặt theo đúng quy chuẩn quốc tế (Phạm Phú Thái, 2020).

568
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Bốn là, chú trọng xử lý các NHTM khi có mức nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín
dụng. Khi xảy ra tình trạng này, Chính phủ Trung Quốc sẽ sử dụng giải pháp mua lại nợ xấu
của các NHTM, phân loại và bán cho các công ty nợ xấu hoặc các công ty có chức năng tương
tự. Hoạt động này bơm thêm vốn cho các NHTM, đồng thời khiến các nhà đầu tư lạc quan
hơn, kích thích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế ổn định và phát triển. Ngoài ra, nó còn hỗ trợ
những NHTM nhỏ đảm bảo tính thanh khoản tạm thời, thúc đẩy quá trình tái cấu trúc hệ thống
(Nguyễn Tiến Đông, 2018).
Năm là, xử lý nợ thông qua các cơ quan quản lý tài sản (AMC). Các công ty quản lý tài sản
(AMC) của Trung Quốc được thành lập bởi Bộ Tài chính và hoạt động độc lập dưới sự quản lý
của Bộ Tài chính, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết nợ xấu tại quốc gia này. AMC
tại Trung Quốc có đặc điểm là đa mục tiêu, kết hợp giữa xử lý nợ xấu và ổn định nền kinh tế,
thúc đẩy cải cách hệ thống ngân hàng, khác với các AMC tại các quốc gia khác (Phạm Phú Thái,
2020). Phương pháp xử lý nợ xấu phổ biến của AMC tại Trung Quốc là tái cấu trúc nợ hoặc
chuyển đổi nợ thành cổ phần. Theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, 4 hình thức huy động
vốn đối với AMC, đó là: nguồn vốn từ Bộ Tài chính, khoản vay đặc biệt từ PBC, phát hành trái
phiếu do Bộ Tài chính bảo lãnh và vay trên thị trường liên ngân hàng. Trong thực tế, hai phương
thức huy động vốn được các AMC sử dụng nhiều là đi vay từ PBC và phát hành trái phiếu bảo
lãnh. Để có nguồn vốn thực hiện mua lại các khoản nợ xấu và tiếp tục duy trì hoạt động, các
AMC đã vay tới 40% từ PBC, 60% còn lại được tài trợ bằng trái phiếu của AMC phát hành cho
4 NHTM Nhà nước (Tô Ngọc Hưng, 2012).
4.2. Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, nợ xấu là kết quả của hai cuộc khủng hoảng tín dụng và cuộc khủng hoảng
tiền tệ năm 1997 mà nguyên nhân chính là những yếu kém trong cơ cấu thị trường, cụ thể là việc
nguồn vốn bị phụ thuộc quá nhiều vào việc mở rộng thị trường và đi vay cũng như các nhà đầu
tư nước ngoài liên tục rút vốn ra. Tính đến cuối tháng 3/1998, nợ xấu của các tổ chức tài chính
của Hàn Quốc chiếm tới 18% tổng dư nợ cho vay với 118 nghìn tỷ Won, trong đó, bao gồm 50
nghìn tỷ Won là nợ quá hạn từ 3 đến 6 tháng (chiếm 42% tổng nợ xấu) và 68 nghìn tỷ Won là nợ
quá hạn trên 6 tháng, tiềm ẩn khả năng vỡ nợ cao (Tô Ngọc Hưng, 2012).
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra hai biện pháp giải quyết nợ xấu: (i) các tổ chức tín dụng phải
thu hồi một nửa giá trị các khoản nợ xấu thông qua yêu cầu khách hàng trả nợ hoặc phát mại tài
sản đảm bảo (ii) Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (Korean Asset Management Corporation -
KAMCO) mua lại một nửa các khoản nợ xấu. Để thực hiện quá trình xử lý nợ xấu, Chính phủ
Hàn Quốc đã áp dụng tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế để đánh giá thực trạng nợ xấu của các tổ
chức tài chính. Theo đó, quy định nợ quá hạn từ 3 tháng trở lên được coi là nợ xấu, phân loại
những khoản nợ dựa trên khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của khách hàng, và ở mức độ thắt
chặt hơn nữa khi phân loại các khoản vay có mức độ rủi ro lớn ngay cả khi khách hàng có thể trả
được lãi vào nhóm nợ xấu (Tô Ngọc Hưng, 2012).
Giống như VAMC của Việt Nam, Hàn Quốc khuyến khích các NHTM giải quyết nợ xấu
bằng các biện pháp tự thân, giao dịch trên thị trường mua bán nợ và bán nợ xấu cho KAMCO
(Đào Minh Tú, 2017). KAMCO nằm dưới quyền điều hành của Bộ Tài chính và Kinh tế, Ngân
hàng Phát triển Hàn Quốc và các tổ chức tài chính khác, Ban điều hành của công ty là các đại

569
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

diện đến từ các chủ sở hữu cộng thêm đại diện từ Ủy ban Giám sát Tài chính, Công ty Bảo hiểm
Tiền gửi, Hiệp hội các ngân hàng và 3 chuyên gia độc lập, hoạt động dưới sự giám sát của Ủy
ban Giám sát tài chính. KAMCO được trao quyền rất lớn trong việc xử lý nợ xấu và được thông
qua một Bộ luật riêng biệt về cải tổ chức năng và nhiệm vụ. KAMCO ưu tiên mua các khoản nợ
xấu có khả năng phát mại (có thể dễ dàng chuyển giao quyền thu nợ), các khoản nợ có thể giúp
các tổ chức tài chính khôi phục lại hoạt động và tạo dựng hình ảnh, uy tín trước công chúng, và
các khoản cho vay đồng tài trợ. Nguyên tắc xử lý nợ xấu được đặt ra là minh bạch, công bằng và
nhanh chóng, hiệu quả, tối đa hóa thu hồi để giảm bớt gánh nặng chi phí lên ngân sách nhà nước.
Đa phần các khoản tiền được sử dụng để mua nợ đến từ các ngân hàng (chiếm 62,1%),
công ty ủy thác đầu tư (21,1%) và công ty bảo hiểm (4,5%) (Nguyễn Thị Phương Thúy, 2017).
KAMCO áp dụng nhiều biện pháp xử lý nợ xấu đã mua, trong đó có hai biện pháp phổ biến và
hiệu quả là chứng khoán hóa các khoản nợ đã mua có bảo đảm bằng tài sản (ABS) và đấu thầu
quốc tế. Sau khi mua lại các khoản nợ xấu, KAMCO nhóm chúng lại và dựa vào đó để làm đảm
bảo cho việc phát hành các chứng khoán (trái phiếu,...) hay đấu giá những khoản nợ này cho các
nhà đầu tư. Luật Chứng khoán có bảo đảm bằng tài sản đã được ban hành để đẩy mạnh việc bán
các khoản nợ cho các tổ chức có chức năng chứng khoán hóa các khoản nợ xấu và bán lại cho
các nhà đầu tư (Nguyễn Thị Phương Thúy, 2017). Hàn Quốc đã rất thành công trong việc thu hút
một lượng lớn nhà đầu tư nước ngoài tham gia, theo đó cũng hấp dẫn được các nhà đầu tư trong
nước đầu tư vào các chứng khoán cũng như các khoản nợ xấu này, từ đó thúc đẩy thị trường vốn
tăng trưởng mạnh mẽ và đa dạng hơn, không chỉ dừng lại ở chứng khoán được bảo đảm bằng tài
sản có vấn đề mà còn có cả các tài sản khác (Tô Ngọc Hưng, 2012).

5. KẾT LUẬN
Tổng kết kinh nghiệm từ Trung Quốc và Hàn Quốc, nhóm tác giả đề xuất một số bài học có
thể áp dụng cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, để nhanh chóng xử lý các khoản nợ xấu tại các tổ chức tài chính, nhiều Chính phủ
có thể thêm vốn cho một số ngân hàng lớn (bằng tiền mặt hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh phát hành), cho các công ty xử lý nợ tập trung để nhanh chóng làm sạch sổ sách cho các
NHTM, giúp các ngân hàng trong ngắn hạn tránh được áp lực trích lập, đảm bảo các ngân hàng
được nhận vốn đáp ứng đủ các quy định về an toàn vốn nhằm thực hiện tăng cường cho vay đối
với nền kinh tế và thúc đẩy quá trình thu mua nợ của các công ty xử lý nợ tập trung.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý cho các Công ty Quản lý tài sản (AMC) để các AMC hoạt
động thực sự hiệu quả. Quyền lực của AMC phải được quy định rõ ràng, đầy đủ với nguồn ngân
sách giới hạn cụ thể, gắn với một thời hạn nhất định để xử lý các khoản nợ xấu đang ở mức cao.
Bên cạnh đó, cần xác định rõ ràng AMC là công ty quản lý tài sản, không phải là kho lưu trữ nợ
xấu của hệ thống tài chính. Bài học kinh nghiệm từ KAMCO - mô hình công ty quản lý tài sản
thành công nhất khu vực Đông Á đã chứng minh được sự hiệu quả trong việc giảm thiểu tình
trạng nợ xấu khi áp dụng theo những điều kiện này.
Thứ ba, phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý tài sản xấu. Trung Quốc
và Hàn Quốc đã chứng minh tầm quan trọng của biện pháp mua bán nợ trong việc thoát khỏi
khủng hoảng và áp lực nợ xấu. Sự tham gia của các thành phần kinh tế có chức năng kinh doanh,

570
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

mua bán nợ xấu sẽ giúp tận dụng được các nguồn lực xã hội, phối hợp cùng AMC đẩy nhanh tốc
độ và nâng cao chất lượng xử lý nợ xấu. Nếu không có thị trường mua, bán nợ thì AMC sẽ trở
thành độc quyền, từ đó dễ dẫn đến một số vấn đề tiêu cực về tính công khai minh bạch, về lợi
ích nhóm,...
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các điều kiện của thị trường chứng khoán để có thể áp dụng
chứng khoán hóa xử lý nợ xấu. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy, nhu cầu
thực tế của thị trường tạo động lực đẩy nhanh quá trình phát triển của thị trường chứng khoán
hóa, tuy nhiên, cần đáp ứng đủ các điều kiện của thị trường để có thể triển khai giải pháp này
một cách hiệu quả và triệt để. Quá trình chứng khoán hóa diễn ra rất phức tạp, đòi hỏi những cơ
chế khuyến khích phát triển cũng như sự giám sát chặt chẽ hoạt động của các bên có liên quan
như: tổ chức khởi tạo, tổ chức trung gian chuyên trách phát hành, tổ chức ủy thác kinh doanh,
nhà đầu tư, tổ chức xếp hạng tín nhiệm (CIC),… Ngoài ra, Quốc hội và các công ty chứng khoán
cũng cần đề xuất và thông qua Luật Quản lý hoạt động chứng khoán hóa trong mối liên hệ chặt
chẽ với các điều luật hiện hành khác.
Thứ tư, cần đa dạng hóa các phương thức xử lý nợ xấu. Hàn Quốc và Trung Quốc đã áp dụng
thành công nhiều biện pháp xử lý nợ xấu khác nhau, từ việc bán các khoản nợ xấu cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước (bao gồm bán buôn và bán lẻ) đến phát hành các “chứng khoán được
đảm bảo bằng tài sản”, bán tài sản thu hồi nợ, chuyển nợ thành vốn góp để tranh thủ trình độ
quản lý, đấu thầu quốc tế và tái cấu trúc nợ, điều hành của các nguồn lực đặc biệt là nguồn lực
nước ngoài,... Điều này góp phần thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu, tái cấu trúc doanh nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Barr, R., Siems, T. (1994), Predicting Bank Failure using DEA to quantify management quality.
2. Bộ Tài chính (2019), Tin Kinh tế - Tài chính trong nước, ngày 18/7/2019, truy cập ngày 8
tháng 3 năm 2021 https://bitly.com.vn/qrv0wy
3. Vũ Mai Chi và Trần Anh Quý (2018), Tình hình xử lý nợ xấu tại Việt Nam qua các giai đoạn:
Các vấn đề cần quan tâm và khuyến nghị, Tạp chí Ngân hàng, 21, 26 - 33.
4. Chính phủ (2001), Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án xử lý nợ tồn
đọng của các NHTM ban hành ngày 05 tháng 10 năm 2001.
5. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, ban hành ngày 29
tháng 12 năm 2006.
6. Chính phủ (2012), Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ
chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011 - 2015, ban hành ngày 01 tháng 03 năm 2012.
7. Chính phủ (2013), Nghị định số 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của công
ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2013.
8. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu, ban hành ngày 07 tháng 01 năm 2013.

571
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

9. Công ty Cổ phần Chứng khoán Phố Wall (2010), Thị trường chứng khoán năm 2010 và triển
vọng năm 2011, truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2021 từ < https://bitly.com.vn/02d8lm>
10. Demirguc-Kunt, A. (1989), Deposit-institution failures: a review of empirical literature.
Economic Review, Federal Reserve Bank of Cleveland, 4, 2 - 18.
11. Dinger, V. (2009), Do Foreign-owned banks Affect Banking System Liquidity Risk?, Journal
of Comparative Economics, 37.
12. Nguyễn Tiến Đông (2018), Phát triển thị trường mua, bán nợ xấu tập trung giải pháp bền
vững cho xử lý nợ xấu tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, 22.
13. Minh Đức (2010), Tăng trưởng tín dụng 2010: “Xanh vỏ, đỏ lòng”, VnEconomy, truy cập
ngày 8 tháng 3 năm 2021 từ https://bitly.com.vn/ezxmt4
14. Fofack, H. (2005). Non-performing loans in sub-saharan africa: Causal analysis and
macroeconomic implications. World Bank Policy Research Working, Paper 3769.
15. Hou, Y. (2007), The Non-performing Loans: Some Bank-level Evidences. The 4th Advances
in Applied Financial Economics, the Quantitative and Qualitative Analysis in Social Sciences
conferences.
16. Thanh Hoa (2019), Cao điểm xử lý nợ xấu ngành ngân hàng, Thời báo Kinh doanh, truy cập
ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/ntgtnj>
17. Tô Ngọc Hưng (2012), Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số quốc gia và những bài học cho
Việt Nam, Vietstock, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021 từ <https://bitly.com.vn/rvwbk4>
18. Trịnh Thanh Huyền (2010), Hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2009 và những bài toán đặt
ra cho năm 2010, Tạp chí Ngân hàng, số 1.
19. An Huy và Vinh Nguyễn (2010), Moody’s hạ tín nhiệm 6 ngân hàng và trái phiếu Chính phủ
Việt Nam, VnEconomy, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/gptyqd>
20. IMF (2004), Financial Soundness Indicators (FSIs): Compilation Guide, truy cập ngày 24
tháng 12 năm 2020 từ <https://bitly.com.vn/pvug0w>
21. Kwambai, K. D., & Wandera, M. (2013), Effects of credit information sharing on non-
performing loans: the case of Kenya commercial bank Kenya, European Scientific Journal,
ESJ, 9(13).
22. Châu Đình Linh (2015), Bức tranh toàn diện về xử lý nợ xấu ngân hàng từ 2010 đến tháng
8/2015, CafeF, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ https://bitly.com.vn/walbuu
23. Nguyễn Thị Thùy Linh (2017), Xử lý nợ xấu của doanh nghiệp tại Trung Quốc và một số bài
học kinh nghiệm, Cổng thông tin và điện tử Tài chính, Viện Chiến lược và Chính sách Tài
chính, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021 từ < https://bitly.com.vn/fuy4ve>
24. Đinh Mai Long (2015), Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng: Nhìn từ góc độ chính sách
công, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, 1(5), 34 - 39.
25. Messai, A., Jouini, F. (2013), Micro and macro determinants of non-performing loans,
International Journal of Economics and Finance, 3(4), 852 - 860.

572
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

26. Mishkin, F. S. (2009), The economics of money banking and financial markets, Pearson
Press, London, England.
27. NHNN (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, ban hành ngày 22 tháng 04 năm 2005.
28. NHNN (2013), Thông tư số 02/2013/TT-NHNN Quy định về phân loại tài sản có, mức trích,
phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ban hành ngày 21 tháng 01 năm 2013.
29. NHNN (2019), Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTg tạo dấu ấn rõ nét
và chuyển biến tích cực, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/hixp6r>
30. NHNN (2019), Tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu được thực hiện quyết liệt, hiệu quả,
truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/tlscda>
31. NHNN (2020), Báo cáo tóm tắt hoạt động ngân hàng năm 2019, phương hướng, nhiệm vụ
năm 2020, Hà Nội.
32. NHNN (2020), NHNN điều hành CSTT nhanh nhạy, kịp thời, tích cực tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp và người dân, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/8fgk27>
33. Nguyễn Hồng Nga (2020), Kinh tế Việt Nam 2016 - 2019 và định hướng 2020, VGP News,
truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021 từ https://bitly.com.vn/glf2nq
34. Nsobilla, T, (2015), The Effect of Non-Performing Loans on The Financial Performance of
Selected Rural Banks in The Western and Ashanti Regions of Ghana, School of Business,
KNUST College of Humanities and Social sciences.
35. Việt Phong (2020), Thúc đẩy xử lý nợ xấu, Nhân dân, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ
<https://bitly.com.vn/q48zxz>
36. Nguyễn Thị Hoài Phương (2012), Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận
văn Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
37. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng,
ban hành ngày 21 tháng 6 năm 2017.
38. Rose, P. S và Hudgins, S.C (2009), Bank management & financial services, McGraw - Hill
Press, New York, USA.
39. Hà Thành (2020), Tín dụng năm 2020 tăng trưởng ở mức nào?, Thời báo Ngân hàng, truy cập
ngày 25 tháng 11 năm 2020, từ <https://bitly.com.vn/yvvhzn>
40. Hà Thành (2020), VAMC tập trung toàn lực hoàn thành mục tiêu năm 2021, Thời báo Ngân
hàng, truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021, từ <https://bitly.com.vn/gw6o3t>
41. Phạm Phú Thái (2020), Quản lý nhà nước về nợ xấu - Kinh nghiệm thế giới và bài học cho
Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, 10.
42. Nguyễn Thị Phương Thúy (2017), Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước, Cổng thông
tin và điện tử Tài chính, Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, truy cập ngày 8 tháng 3
năm 2021 từ < https://bitly.com.vn/9mjpr1>

573
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

43. Đào Minh Tú (2017), Kinh nghiệm của Hàn Quốc về tái cơ cấu ngân hàng và xử lý nợ xấu,
Tạp chí Ngân hàng, 23.
44. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia (2017), Báo cáo tổng quan thị trường tài chính 2017,
truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021 từ < https://bitly.com.vn/3tc8vr>
45. Bạch Hồng Việt (2020), Tác động của đại dịch COVID-19 đến tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững ở Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, truy cập ngày 8 tháng
3 năm 2021, từ < https://bitly.com.vn/a0ul4g>
46. Hoàng Yến (2020), Tăng trưởng tín dụng năm 2020 có thể đạt 11%, truy cập ngày 24 tháng
12 năm 2020 tại <https://bitly.com.vn/m3z5js>

574

You might also like