You are on page 1of 14

CÁC HIỆP ƯỚC VỐN CỦA ỦY BAN BASEL:

BASEL II VÀ VIỆC TRIỂN KHAI BASEL II TẠI VIỆT NAM

TS. Khuất Duy Tuấn1, TS. Bùi Văn Hải2


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngày nhận bài: 14/08/2017
Ngày gửi lại bài: 31/08/2017
Ngày duyệt đăng: 05/09/2017
Sau khủng hoảng thị trường tài chính dẫn đến Hệ thống Bretton Woods về tỷ
giá cố định sụp đổ năm 1973, Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước thuộc
Nhóm G103 đã thành lập một Ủy ban về các quy định hoạt động ngân hàng và thông
lệ giám sát (Committee on banking regulations and supervisory practices), sau này
đổi tên là Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS). Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng đóng vai trò như một diễn đàn hợp tác định kỳ giữa các nước thành viên
về các vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát ngân hàng với mục đích tăng cường
ổn định tài chính thông qua việc nâng cao kiến thức về giám sát và tăng cường chất
lượng giám sát ngân hàng toàn cầu (BCBS, 2014). Điều này đã đặt nền móng cho
hoạt động giám sát các ngân hàng có hoạt động tích cực ở nước ngoài. Khủng
hoảng nợ công tại các nước Mỹ Latinh 4 vào thập niên 80, khởi nguồn từ những năm
1970, với nguồn vốn quy mô lớn chủ yếu do vay nước ngoài để phát triển điểm đã
đặt ra yêu cầu thống nhất các chuẩn mực về thanh tra, giám sát giữa các nước liên
quan đến đo lường vốn và chuẩn mực vốn. Theo đó, trong năm 1998, Ủy ban Basel
về giám sát ngân hàng đã đưa ra Hiệp ước vốn Basel mà về sau được biết với tên
gọi Basel 1. Hiệp ước vốn Basel 1 có 02 mục đích : (i) tăng cường sự ổn định của
hệ thống ngân hàng quốc tế, và (ii) giảm thiểu hoặc loại trừ những khác biệt trong
cạnh tranh quốc tế giữa các ngân hàng do có những khác biệt trong quy định của
mỗi một quốc gia (Weber, 2009).
Những tiến bộ trong thông lệ ngân hàng cũng như khủng hoảng tài chính diễn
ra sau khi áp dụng Basel 1 đưa đến một thực tế là các chuẩn mực vốn cần phải linh
hoạt để đảm bảo tính hiệu quả. Theo hướng này, các chuẩn mực cẩn thể hiện những
1
Email của tác giả chính: kdtuansbv@yahoo.com.vn
2
Bài viết này phản ánh quan điểm riêng của các tác giả, không phản ánh quan điểm của Ngân hàng Nhà nước
và nơi các tác giả công tác.
3
Nhóm G10 ban đầu gồm Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật, Hà Lan, Vương Quốc Anh, Mỹ, Đức và Thụy Điển.
Sau này có bổ sung thêm Thụy Sỹ nhưng vẫn giữ nguyên tên Nhóm G10.
4
Điển hình là các nước Argentina, Mêhicô, Brazil phát triển khá mạnh với nguồn vốn lớn vay từ nước ngoài
để nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng, công nghiệp… và bắt đầu gặp khó khăn trong việc trả nợ vì nền kinh tế
thế giới suy thoái vào những cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và
xuất khẩu của các nước này. Việc sử dụng các khoản nợ vay của chính phủ (chủ yếu ngắn hạn) thiếu thận
trọng cùng với việc các tổ chức cho vay từ chối gia hạn các khoản vay, giảm cho vay.. dẫn đến Mêhico tuyên
bố vỡ nợ vào tháng 8/1982, tiếp theo là các nước khác như Argentina, Bolivia, Brazil,….

1
thay đổi trong khu vực tài chính và giải quyết những bất cập về chính sách được bộc
lộ qua khủng hoảng tài chính. Vì vậy, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã đưa
các thay đổi trên toàn cầu này vào Hiệp ước vốn Basel II vào năm 2006 và Basel III
vào năm 2010. Điều đáng nói ở đây Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ngay từ
ban đầu không đóng vai trò là một cơ quan thanh tra, giám sát quốc tế. Do đó Hiệp
ước vốn của Ủy ban giám sát ngân hàng này của Basel không có tính pháp lý và yêu
cầu tuân thủ đối với việc giám sát ngân hàng. Tuy nhiên, các Hiệp ước vốn của
Basel, đặc biệt là Hiệp ước vốn Basel I được chấp nhận như một tiêu chuẩn và giám
sát chung trên toàn cầu mà các cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng dựa vào đó
làm chuẩn mực để quản lý, giám sát cho các hoạt động ngân hàng trong vùng lãnh
thổ của mình, góp phần thống nhất các tiêu chuẩn giám sát trên toàn cầu.
1. Sự phát triển của các Hiệp ước Basel về vốn
Hiệp ước vốn Basel I
Năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đã đưa ra hệ thống đo lường
vốn có tên gọi là Hiệp ước vốn Basel hay Basel I (với tên gọi chính thức là Thống
nhất quốc tế về đo lường vốn và tiêu chuẩn vốn). Đây là phiên bản đầu tiên của
Hiệp ước Basel về quy định vốn ngân hàng trên toàn cầu với mục đích củng cố sự
ổn định của hệ thống ngân hàng hoạt động quốc tế, thiết lập một hệ thống ngân
hàng thống nhất, và tạo sân chơi bình đẳng. Hiệp ước này quy định cụ thể vốn cho
mục đích giám sát bao gồm 2 cấp. Vốn cấp 1 được coi là vốn lõi, bao gồm vốn chủ
sở hữu, các quỹ để lại từ lợi nhuận trước thuế (quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ
đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận chưa phân phối…). Vốn cấp 1 chiếm ít nhất
50% vốn cơ sở của ngân hàng. Vốn cấp 2 là vốn bổ sung, bao gồm 05 cấu phần 5
phụ thuộc vào các tỷ lệ quy định nhất định. Giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng Vốn cấp 1.
Ngoài ra, Basel I đưa ra khung khổ đo lường mức độ đủ vốn và các chuẩn
mực tối thiểu phải đạt được. Mức độ đủ vốn được đo bằng cách sử dụng phương
pháp trọng số rủi ro, trong đó vốn liên quan đến các nhóm tài sản Có và cam kết
ngoại bảng khác nhau nhân với các hệ số rủi ro tương ứng. Ngân hàng thực hiện
phân loại tài sản theo 5 nhóm 6 gồm Nhóm tài sản Có có hệ số rủi ro từ 0%, 10%,
20%, 50% và 100% theo phương pháp định lượng của ngân hàng tương ứng với các
mức độ rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là rủi ro duy nhất được đề cập trong Basel I.

5
Lợi nhuận giữ lại chưa công bố (quỹ khác được trích từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy
định), một phần tỷ lệ tăng do đánh giá lại tài sản và các khoản góp vốn đầu tư dài hạn theo quy định, một
phần tỷ dự phòng chung, công cụ vốn chủ sở hữu có tính chất nợ do ngân hàng phát hành, và nợ thứ cấp do
ngân hàng phát hành khi đáp ứng các điều kiện quy định…
6
Ở Việt Nam, theo quy định tại Thông tư 36, Nhóm tài sản Có có hệ số rủi ro từ 0%, 20%, 50%, 100%,
150%.

2
Vào thời điểm áp dụng Basel I, rủi ro tín dụng là rủi ro chủ yếu mà các ngân
hàng thường gặp phải. Rủi ro tín dụng ở các cam kết ngoại bảng cũng được đề cập.
Các cam kết ngoại bảng được chuyển sang tài sản tính theo rủi ro tín dụng tương
ứng bằng cách áp dụng các hệ số chuyển đổi (CCF) cho các cam kết ngoại bảng
khác nhau của ngân hàng (ví dụ: các cam kết ngoại bảng mà ngân hàng có quyền
hủy ngang hoặc tự động hủy ngang, bảo lãnh phát hành chứng khoán, các giao dịch
phát hành hoặc xác nhận thư tín dụng thương mại… ). Để xác định vốn yêu cầu cho
ngân hàng, Basel 1 này đưa ra 02 tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, gọi là tỷ lệ an toàn vốn
cấp 1 và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất. Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tính theo đơn vị phần
trăm (%) được tính bằng lấy vốn cấp 1 của ngân hàng đó chia cho tổng tài sản tính
theo rủi ro. Theo Basel I, nếu tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 4% thì ngân hàng được
coi là đủ vốn. Ngoài ra, tỷ lệ an toàn vốn tổi thiểu (CAR) được tính bằng tỷ lệ giữa
vốn tự có trên tổng tài sản tính theo rủi ro, và 8% là tỷ lệ tối thiểu mà ngân hàng
phải nắm giữ theo Basel I.
Trong nhưng năm thập niên 90 của thế kỷ trước, các ngân hàng tăng cường
các hoạt động kinh doanh (ngoại tệ, vốn, công cụ tài chính, sản phẩm phái sinh… )
và rủi ro thị trường trở thành mối quan ngại lớn cho các ngân hàng. Điều này dẫn
tới việc điều chỉnh, bổ sung Basel I vào năm 1996 để xử lý các vấn đề liên quan đến
rủi ro thị trường. Đặc điểm chủ yếu của sửa đổi này là phân biệt các số dư trên sổ
ngân hàng và sổ kinh doanh. Theo đó, cần phải tính cả vốn cho rủi ro tín dụng và
vốn cho rủi ro thị trường. Đồng thời, bản sửa đổi này cũng đưa ra nguyên tắc tính
vốn cho rủi ro thị trường. Để tính rủi ro thị trường, các ngân hàng được phép chọn
giữa 2 phương pháp tiếp cận trên cơ sở ý kiến của cơ quan giám sát ngân hàng của
mình. Đó là phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn và phương pháp tiếp cận đựa trên xếp
hạng nội bộ7. Rủi ro thị trường đề cập trong bản sửa đổi này bao gồm các rủi ro
chung và rủi ro cụ thể gắn với các công cụ tài chính và sản phấm chứng khoán phái
sinh liên quan đến lãi suất trong sổ kinh doanh cũng như các rủi ro về hàng hóa và
ngoại hối trong hoạt động ngân hàng. Theo phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn, rủi ro
thị trường được tính tách biệt đối với từng rủi ro hàng hóa, rủi ro ngoại hối, rủi ro
lãi suất…. Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường này sẽ là tổng vốn cho các rủi ro trên.
Mặt khác, khi áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ, các ngân
hàng được phép sử dụng các mô hình nội bộ tự xây dựng (thông thường là các mô
hình VaR) để tính vốn cho rủi ro thị trường.
Một trong những đặc điểm chính của Basel I là sự đơn giản khi triển khai thực
hiện vì Basel I sử dụng các hệ số rủi ro được xác định trước. Tuy nhiên, sau đó một
thời gian thực hiện, Basel I đã gặp nhiều chỉ trích. Cụ thể, Basel I không xử lý được
7
Basel Committee on Banking Supervision (01/1996). Amendment to the Capital Accord to Incorporate
Market Risks.

3
hết các loại rủi ro của ngân hàng. Hơn nữa, các hệ số rủi ro dưới dạng các tỷ lệ phần
trăm đơn thuần không phản ánh được bản chất thật sự của rủi ro phía sau. Resti
(2004) chỉ ra Basel I sử dụng các quy tắc đơn giản dựa vào thông tin lịch sử. Trong
một nghiên cứu khác của Ủy ban BCBS (1999), việc phân nhóm tài sản theo rủi ro
trong Basel I đã tạo một khoảng cách hay sự không đồng nhất giữa vốn kinh tế và
vốn tự có….
Hiệp ước vốn Basel II
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng
bắt đầu lấy ý kiến góp ý về Basel II vào năm 1999 trong một tài liệu có tên “Thống
nhất quốc tế về chuẩn mực vốn và đo lường vốn”. Mục tiêu chính của Bản Hiệp ước
vốn Basel II là nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng hoạt
động quốc tế, tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng, đẩy
mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản trị rủi ro.
Hiệp ước vốn Basel II được Ủy ban Basel đưa ra vào tháng 6/2004 tập trung chủ
yếu vào số ngân hàng, đến tháng 7/2005 phối hợp cùng với Ủy ban Chứng khoán
Quốc tế (IOSCO) đã đưa ra văn bản điều chỉnh đối với sổ kinh doanh. Cho đến
tháng 6/2006, Hiệp ước vốn Basel II đầy đủ được ban hành, với 03 trụ cột cơ bản có
tác động hỗ trợ qua lại lẫn nhau (xem khái quát hóa ở trang bên), cụ thể: (i) Trụ cột
1, yêu cầu về vốn tối thiểu với mục đích phát triển và mở rộng phương pháp cơ bản
trong Hiệp ước vốn 1998, (ii) Trụ cột 2, sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá
nội bộ và mức độ đủ vốn, và (iii) Trụ cột 3, yêu cầu công bố thông tin để tăng
cường kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Ngày
26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (có tên gọi là Basel II) đã chính
thức được ban hành.
Tổng quan về các trụ cột của Hiệp ước vốn Basel II
BASEL II
Trụ cột 1 Trụ cột 2 Trụ cột 3
Sự xem xét giám sát của Công bố thông tin để
Yêu cầu về vốn tối
quá trình đánh giá nội bộ tăng cường kỷ luật thị
thiểu
và mức độ đủ vốn trường
Yêu cầu vốn đối với: - Quy định về đánh giá nội Yêu cầu công bố thông tin
- Rủi ro tín dụng bộ về mức đủ vốn (ICAAP) cho các ngân hàng
- Rủi ro thị trường cho các ngân hàng
- Rủi ro hoạt động - Khung khổ giám sát

Trong Trụ cột 1, Basel II vẫn duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiều của Basel I và
định nghĩa về vốn tự có. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) được tính toán trên cơ sở

4
xác định vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro với mức tỷ lệCAR là không thấp hơn
8% của tổng tải sản có rủi ro (trong đó rủi ro được tính toán theo 03 yếu tố chính
mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động)
như Basel I. Tức là ngân hàng có khả năng mất ít nhất 8% giá trị tài sản (phần lớn là
khoản vay) mà không dẫn đến mất khả năng chi trả. Tuy nhiên, Basel II đưa ra yêu
cầu cụ thể về vốn cho rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, và rủi ro hoạt động. Hơn
nữa, đối với từng loại rủi ro, Basel II quy định cách tính vốn cụ thể dựa trên các
phương pháp từ đơn giản đến nâng cao. Các phương pháp này khuyến khích ngân
hàng áp dụng các phương pháp quản lý rủi ro hiện đại. Theo đó, vốn yêu cầu sẽ
giảm xuống khi các ngân hàng áp dụng các phương pháp nâng cao. Ngân hàng phải
đáp ứng các yêu cầu về dữ liệu, mô hình, … theo phương pháp lựa chọn.
Phương pháp đầu tiên liên quan đến quy định, quy trình tính vốn yêu cầu cho
rủi ro tín dụng. Theo phương pháp này, ngân hàng được lựa chọn giữa 02 phương
pháp là (i) Phương pháp tiêu chuẩn; và (ii) Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ.
Phương pháp tiêu chuẩn dùng để đo lường rủi ro tín dụng dựa trên các đánh giá tín
dụng độc lập của các doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm độc lập. Để xác định các
trọng số rủi ro theo phương pháp này, các ngân hàng được sử dụng đánh giá của
doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm độc lập (ECAI) được cơ quan thanh tra, giám sát
ngân hàng nước sở tại chấp thuận. Basel 2 đưa ra 6 điều kiện mà doanh nghiệp xếp
hạng tín nhiệm độc lập phải đáp ứng. Đồng thời, Basel 2 cho phép ngân hàng được
điều chỉnh giám giá trị khoản phải đòi, giao dịch theo các biện pháp giảm thiểu rủi
ro tín dụng (CRM) cho mục đích tính vốn hơn nhiều hơn so với Basel I.
Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ - phải được sự chấp thuận của Cơ quan
giám sát ngân hàng – sẽ cho phép ngân hàng dựa trên các ước tính mô hình nội bộ
của mình về các yếu tố rủi ro, bao gồm ước tính xác suất vỡ nợ (PD), tổn thất vỡ nợ
ước tính (LGD), tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả
được nợ (EAD), và kỳ hạn hiệu lực (EM). Trong một số trường hợp, ngân hàng sẽ
phải áp dụng các giá trị do cơ quan giám sát đưa ra cho dù các giá trị đó có thể
ngược với ước tính nội bộ cho một hoặc nhiều cấu phần rủi ro. Theo phương pháp
xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng sẽ phân nhóm các danh mục trên sổ ngân hàng
thành 05 nhóm tài sản khác nhau. Đối với từng loại trong nhóm 5 tài sản này, sẽ có
3 thành phần chủ yếu là cầu phần rủi ro, các trọng số rủi ro và yêu cầu tối thiểu.
Liên quan đến nhóm tài sản này, Basel II đưa ra hai phương pháp là cơ bản
và nâng cao. Theo phương pháp cơ bản, ngân hàng sử dụng ước tính của mình đối
với PD và dựa vào ước tính của cơ quan giám sát ngân hàng đối với các cấu phần
rủi ro khác. Nói cách khác, ngân hàng sử dụng phương pháp nâng cao sẽ có ước
tính về PD, LGD, EAD và EM. Tuy nhiên, điều này sẽ phụ thuộc vào các chuẩn

5
mực tối thiểu. Đối với hoạt động bán lẻ, không phân biệt giữa phương pháp cơ bản
và phương pháp nâng cao. Do đó, các ngân hàng sẽ sử dụng ước tính riêng của
mình đối với PD, LGD, EAD. Đối với cả 2 phương pháp, các ngân hàng luôn phải
sử dụng các hàm trọng số rủi ro mà Hiệp ước vốn đưa ra cho mục đích tính yêu cầu
vốn. Ngoài các tài sản đảm bảo được ghi nhận trong phương pháp tiêu chuẩn, một
số hình thức khác của tài sản đảm bảo cũng được ghi nhận trong phương pháp xếp
hạng nội bộ.
Phương pháp thức hai là tính vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động. Trong trường
hợp này, Hiệp ước vốn đưa ra 03 phương thức để tính vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt
động tùy thuộc vào mức độ phức tạp và nhạy cảm về rủi ro tăng lên. Cụ thể là
phương thức chỉ số cơ bản, phương thức tiêu chuẩn, và phương thức nâng cao.
Ngân hàng sử dụng phương thức cơ bản sẽ phải duy trì vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt
động bằng trung bình của 3 năm trước với tỷ lệ cố định 15% của tổng thu nhập hàng
năm dương. Những năm nào mà tổng thu nhập năm là âm hoặc bằng không thì phải
loại ra, không tính trung bình. Trong phương pháp tiêu chuẩn, các hoạt động ngân
hàng được chia ra làm 8 loại hoạt động. Trong mỗi loại hoạt động, thu nhập ròng là
chỉ số chung để xác định quy mô hoạt động...
Vốn yêu cầu cho từng loại hoạt động được tính bằng cách nhân tổng thu nhập
với nhân tố gán cho từng loại hoạt động. Tổng vốn yêu cầu tính trung bình 3 năm là
phép cộng dơn giản các vốn yêu cầu cho từng loại hoạt động của từng năm. Phương
pháp nâng cao thì phức tạp hơn 2 phương pháp đầu tiên, được xây dựng để phản
ánh các phương pháp đo lường nội bộ của ngân hàng. Yêu cầu vốn tự có sẽ tương
ứng với mức độ rủi ro mà hệ thống đánh giá rủi ro hoạt động nội bộ của ngân hàng
đưa ra, sử dụng các tiêu chí định lượng và định tính đối với phương pháp đo lường
nâng cao được quy định cụ thể trong Hiệp ước vốn.
Trụ cột 2 liên quan đến quy trình đánh giá nội bộ và giám sát mức độ đủ vốn.
Ở trụ cột này, Basel II cung cấp cho các nhà quản lý, cơ quan giám sát ngân hàng
những công cụ tốt hơn so với Basel I. Nếu như Trụ cột 1 đề cập đến yêu cầu vốn tối
thiểu cho ngân hàng, ở Trụ cột 2, các ngân hàng quản lý các rủi ro khác liên quan
đến hoạt động ngân hàng (rủi ro tập trung, rủi ro danh tiếng,…) và tính toán vốn
kinh tế để bù đắp các rủi ro khác (vốn kinh tế có thể cao hơn vốn tối thiểu) cũng
như công tác thanh tra, giám sát của cơ quan giám sát ngân hàng. Đồng thời, Trụ
cột 2 tạo ra cho cơ quan giám sát ngân hàng quyền quyết định về mức vốn yêu cầu
phù hợp ngân hàng cần nắm giữ, đánh giá mức độ phù hợp của các mô hình tính
toán vốn cho từng ngân hàng, và có thể nhanh chóng can thiệp nếu vốn ngân hàng
giảm mạnh. Trụ cột 2 bao gồm 4 nguyên tắc sau: Thứ nhất là ngân hàng cần có một
quy trình đánh giá đủ vốn nội bộ phù hợp với mức độ rủi ro và chiến lược duy trì

6
mức đủ vốn (cụ thể: Giám sát của quản lý cấp cao; Đánh giá vốn trong tương quan
rủi ro hiện tại và tương lai; Đánh giá các rủi ro trọng yếu; Giám sát và báo cáo; và
Rà soát của kiểm toán nội bộ). Thứ hai, cơ quan giám sát ngân hàng cần phải tính
toán vốn, chiến lược vốn của ngân hàng, đảm bảo tuân thủ yêu cầu tối thiểu và có
biện pháp can thiệp kịp thời khi cần thiết. Thứ ba, ngân hàng cần duy trì mức vốn
cao hơn mức vốn tối thiểu. Cơ quan giám sát ngân hàng có thể yêu cầu ngân hàng
nắm giữ mức vốn cao hơn mức vốn tối thiểu. Thứ tư, cơ quan giám sát ngân hàng
cần can thiệp kịp thời ở giai đoạn đầu đề ngăn vốn yêu cầu giảm xuống dưới mức
tối thiểu, và yêu cầu ngân hàng có biện pháp khắc phục khi mức vốn của ngân hàng
giảm hơn mức vốn tối thiểu. Như vậy, ngoài việc so sánh giữa vốn tối thiểu và vốn
kinh tế thì tủy thuộc vào tính chất rủi ro trong hoạt động ngân hàng, cơ quan giám
sát ngân hàng có thể yêu cầu ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức vốn xác định
ở Trụ cột 1.
Trụ cột 3 tập trung vào yêu cầu công bố thông tin để tăng cường kỷ luật thị
trường. Mục đích của trụ cột này là bổ sung 2 trụ cột đầu, cho phép các thành viên
thị trường hiểu được mối liên hệ giữa rủi ro và vốn của ngân hàng. Basel II đưa ra
yêu cầu là các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách minh bạch để các
thành viên tham gia thị trường có thể đánh giá các thông tin chủ yếu về phạm vi áp
dụng, các giá trị chịu rủi ro về vốn, quy trình đánh giá rủi ro và cuối cùng là mức độ
đủ vốn của ngân hàng. Việc công khai minh bạch thông tin có mối liên quan đặc
biệt trong Basel II bởi vì nó làm tăng lòng tin vào các phương pháp nội bộ của ngân
hàng khi đánh giá yêu cầu vốn. Phạm vi công bố thông tin gồm 4 nội dung: (i) phạm
vi áp dụng; (ii) cơ cấu vốn; (iii) rủi ro và đánh giá rủi ro (gồm rủi ro tín dụng trên sổ
ngân hàng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng); và
(iv) mức độ đủ vốn.
Trụ cột 3 khái quát sự cần thiết cho cơ quan giám sát ngân hàng can thiệp
nhanh chóng nếu như vốn ngân hàng hoặc các mô hình mà nó sử dụng để tính vốn
không phù hợp. Tính hiệu lực của trụ cột này bị giảm đi bởi vì không có một chế tài
cụ thể cho các cơ quan giám sát ngân hàng để thực thi chức năng này một cách hiệu
quả. Trụ cột này cũng có thể không có hiệu quả vì những bên có liên quan mà
không có rủi ro sẽ không có hoặc có ít động cơ để giám sát hoặc ảnh hưởng đến các
ngân hàng của họ. Do đó ít có nhu cầu đối với các thông tin công khai minh bạch.
Điều này càng thấy rõ đối với các ngân hàng quá lớn để có thể sụp đổ khi mà chính
phủ và cơ quan quản lý ngân hàng ở hầu hết các quốc gia có xu hướng tránh đổ vỡ
của một số ngân hàng nhất định được xếp vào nhóm này và thông qua hỗ trợ và tái
cơ cấu để bảo vệ người gửi tiền và các chủ nợ khác (Kaufman 2003).

7
Như vậy, Bản Hiệp ước vốn Basel II không chỉ là việc sửa đổi, bổ sung các
quy định về vốn mà còn là bước tiến mới trong việc yêu cầu về đánh giá và quản lý
rủi ro. Tuy nhiên, Basel II cũng có những nhược điểm như khi độ nhạy cảm với rủi
ro tăng lên, quy định của Bản Hiệp ước vốn này có thể gây nhiều khó khăn cho việc
quản lý vốn của ngân hàng khi vốn yêu cầu tăng lên trong giai đoạn khó khăn của
nền kinh tế. Hơn nữa, Hiệp ước vốn này lại dựa vào các doanh nghiệp xếp hạng tín
nhiệm độc lập để đo lường rủi ro. Việc này có thể có những ảnh hưởng bất lợi bởi vì
ngân hàng được phép chọn doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm độc lập.
Hiệp ước vốn Basel III
Sau Hiệp ước vốn Basel II, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng có một số
điều chỉnh, bổ sung cho Basel II từ những vấn đề tồn tại trong Hiệp ước vốn này.
Một số bổ sung khác để xử lý những yếu kém của khuôn khổ quản lý trên phạm vi
toàn cầu trong khủng hoảng tài chính giai đoạn 2007 – 2009 (qua các sự kiện như
phá sản ngân hàng Lehman Brothers, tỷ lệ vay nợ quá cao, không duy trì đủ dự trữ
thanh khoản, yếu kém trong quản lý rủi ro, cơ chế khuyến khích không phù hợp).
Việc cho phép các ngân hàng áp dụng mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh
giá rủi ro của đối tác và khách hàng của mình theo quy định của Basel II là những
vấn đề cần xem xét. Tháng 9/2008, Ủy ban Basel ban hành Nguyên tắc quản trị và
giám sát rủi ro thanh khoản. Những điều chỉnh, bổ sung này được phát triển và hình
thành lên Hiệp ước vốn Basel III (tài liệu bổ sung khuôn khổ vốn Basel II vào tháng
9/2009) và thể hiện các đề xuất, kiến nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng
để tăng cường các quy định về vốn và thanh khoản nhằm mục đích thúc đẩy hình
thành một khu vực ngân hàng trụ vững và lành mạnh hơn.
Tháng 12/2010, Ủy ban Basel ban hành quy định Basel III: Khuôn khổ quốc tế
đo lường rủi ro thanh khoản, các chuẩn mực và giám sát, và Basel III; Khuôn khổ
pháp lý toàn cầu cho các ngân hàng phục hồi và hệ thống ngân hàng nhằm sửa đổi
và củng cố 3 trụ cột của Basel II. Cụ thể là:
Tổng quan về các trụ cột của Hiệp ước vốn Basel III
BASEL III
Trụ cột 1 Trụ cột 2 Trụ cột 3
Tăng cường xem xét giám
Tăng cường về Yêu cầu sát của quá trình đánh giá Tăng cường công bố
vốn tối thiểu và thanh nội bộ và mức độ đủ vốn thông tin để tăng cường
khoản cho quản lý rủi ro hệ thống kỷ luật thị trường
và kế hoạch vôn
Một số điểm đáng lưu ý trong Hiệp ước vốn Basel III là: (i) Yêu cầu vốn đệm
chuyển đổi, nếu vi phạm sẽ bị hạn chế trả cổ tức; (ii) Vốn đệm cho các chu kỳ kinh

8
tế; (iii) Tỷ lệ vay nợ; (iv) Yêu cầu thanh khoản (LCR và NSFR); và (v) Yêu cầu bổ
sung vốn đối với các NH mang tầm quan trọng hệ thống. Các điều chỉnh, bổ sung
đã tăng cường các quy định về giám sát an toàn vi mô (đặc biệt là các yêu cầu về
vốn đối với các sản phẩm chứng khoán hóa phức tạp, các công cụ ngoại bảng và
giao dịch trên sổ ngân hàng), góp phần nâng cao khả năng chịu đựng của từng ngân
hàng trong giai đoạn khó khăn.
Đồng thời, nhấn mạnh đến giám sát an toàn vĩ mô khi xử lý các rủi ro mang
tính hệ thống có thể được tích lũy trong hệ thống ngân hàng cũng như khi bị thổi
phổng các rủi ro thuận chu kỳ theo thời gian. Những điều chỉnh, bổ sung này có 5
nội dung chính như sau:
Thứ nhất là định nghĩa về vốn tự có. Khủng hoảng tài chính cho thấy các
khoản mất mát trong tín dụng và xóa giảm nợ làm cho lợi nhuận để lại giảm đi –
một phần của vốn cổ phần thường của ngân hàng. Để xử lý vấn đề này, Ủy ban
Basel về giám sát ngân hàng đã sửa đổi định nghĩa về vốn tự có. Điều này được
thực hiện để đảm bảo ngân hàng không chi nắm nhiều vốn mà còn phải nắm vốn có
chất lượng cao. Đồng thời có nghĩa là các ngân hàng sẽ có nhiều khả năng hấp thụ
được sự mất mát nhiều hơn. Như thế các ngân hàng sẽ khỏe hơn và giúp cho ngân
hàng đứng vững trong các giai đoạn khó khăn. Tổng số vốn tự có theo Hiệp ước
vốn sẽ bao gốm Vốn cấp 1 và Vốn cấp 2 để đảm bảo ngân hàng có thể hấp thụ được
những khoản mất mát đã và đang xảy ra. Vốn cấp 1 được chia thành vốn chủ sở hữu
cấp 1 và vốn bổ sung vốn cấp 1. Ở mỗi nhóm này đều có các quy định cụ thể về các
điều kiện mà các công cụ phải thỏa mãn để được xếp vào nhóm tương ứng. Hơn nữa
các thành phần trong đó còn đòi hỏi quy định chặt chẽ hơn: vốn chủ sở hữu cấp 1,
vốn cấp 1 và tổng vốn phải luôn luôn được duy trì ở mức 4,5%, 6% và 8% trên tổng
tài sản có rủi ro.
Thứ hai là tăng cường phạm vi rủi ro. Khi khủng hoảng tài chính nổ ra thì rõ
ràng là cần phải tăng cường phạm vi rủi ro của khung khổ vốn. Điều này xuất phát
từ việc không ghi nhận được những vấn đề chủ yếu về rủi ro trong và ngoại bảng
cân đối. Đồng thời, những giá trị chịu rủi ro liên quan đến công cụ phái sinh là yếu
tố gây bất ổn chính trong giai đoạn khủng hoảng. Vì vậy, Basel 3 đã tăng yêu cầu
vốn cho sổ kinh doanh và các giá trị rủi ro của chứng khoán hóa phức tạp. Biện
pháp tăng cường này đã đưa ra yêu cầu vốn dựa trên đánh giá VaR vào trong giai
đoạn khó khăn trên cơ sở một giai đoạn 12 tháng liên tục của giai đoạn khó khăn tài
chính. Thêm vào đó, yêu cầu vốn cao hơn đối với chứng khoán hóa trên sổ ngân
hàng và sổ kinh doanh. Yêu cầu vốn cho rủi ro tín dụng đối tác cũng tăng lên để
phản ánh giả định mối quan hệ đồng tương quan lớn hơn.

9
Thứ ba là việc bổ sung yêu cầu vốn trên cơ sở rủi ro với hệ số đòn bẩy. Một
trong nhưng nguyên nhân chính của khủng hoảng tài chinh là sự tích lũy quá mức
trên bảng cân đối và ngoại bảng cân đối các đòn bẩy trong hệ thống ngân hàng.
Basel 3 vì thế đã đưa ra yêu cầu đối với hệ số đòn bẩy nhằm hạn chể đòn bẩy trong
hệ thống ngân hàng. Điều này giảm thiểu rủi ro của tiến trình giảm đòn bẩy có thể
gây ra những bất ổn đối với hệ thống tài chính và cả nền kinh tế. Hiệp ước vốn này
hơn nữa cũng nhằm đến các biện pháp bảo vệ bổ sung đối với rủi ro mô hình và sai
sót đo lường bằng biện pháp đo lường trên cơ sở rủi ro một cách độc lập, minh bạch
và đơn giản.
Thứ tư là cố gắng giảm vốn đệm khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định và tăng
vốn đệm khi khó khăn. Một trong các thành phần gây bất ổn nhất của khủng hoảng
là sự thổi phổng theo chu kỳ các cú sốc tài chính trong hệ thống ngân hàng, thị
trường tài chính và cả nền kinh tế. Vì vậy, Basel 3 đưa ra các biện pháp để giúp
ngân hàng có khả năng trụ vững nhiều hơn trong những giai đoạn bủng nổ theo chu
kỳ như thế. Các biện pháp đưa ra là (i) hạ nhiệt các yếu tố thuận chu kỳ quá mức
của các yêu cầu vốn tối thiểu, (ii) tăng cường việc trích lập dự phòng trên cơ sở nhìn
về tương lai, (iii) vốn dự trữ để tạo phần vốn đệm tại từng ngân hàng và các khu vực
ngân hàng có thể được sử dụng vào thời kỳ khó khăn, và (iv) đạt mục tiêu an toàn vĩ
mô rộng hơn về bảo vệ khu vực ngân hàng từ những giai đoạn mà tăng trưởng tín
dụng nóng.
Thứ năm là đưa ra các chuẩn mực về thanh khoản trên toàn cầu. Đây là một
đặc điểm quan trọng của Basel 3 bởi vì trước đây chưa có một tiêu chuẩn nào như
vậy. Các tiêu chuẩn được đưa ra xuất phát từ thực tế rằng trong giai đoạn khủng
hoảng thì nhiều ngân hàng đã không quản lý thanh khoản một cách thận trọng trong
những thời điểm khó khăn. Điều này bất chấp việc ngân hàng đó có đủ các mức vốn
yêu cầu hay không. Các chuẩn mực này đưa ra nhằm đạt 2 mục tiêu vừa riêng rẽ và
vửa bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Một là tăng cường khả năng trụ vững trong ngắn hạn
đối với rủi ro thanh khoản bằng cách bảo đảm rằng ngân hàng có đủ các tài sản
thanh khoản chất lượng cao để vượt qua được các tình huống căng thẳng trong vòng
ít nhất một tháng. Mục tiêu thanh khoản ngân hàng được duy trì tốt với chỉ số LDR
(Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động). Mục tiêu thứ hai đạt được thông qua chỉ số nguồn
vốn ổn định (NSFR) để tăng cường khả năng trụ vững của ngân hàng trong thời
gian dài hơn (áp dụng cho thời hạn 1 năm) bằng cách tạo ra các cơ chế khuyến
khích cho ngân hàng tài trợ các tài sản dài hạn bằng nguồn vốn dài hạn và ổn định.
2. Triển khai thực hiện Basel II tại Việt Nam
Việc các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng tiêu chuẩn Basel II là một
xu thế tất yếu và bắt buộc khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

10
Thực tế đã chứng minh, chuẩn mực Basel II là giải pháp tối ưu để các ngân hàng
thương mại trụ vững trước những biến động khó lường của thị trường tài chính,
giúp các ngân hàng dễ dàng thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài. Với Basel II, mọi
rủi ro được lượng hóa bằng con số cụ thể và con số này sẽ chỉ ra rằng ngân hàng cần
bao nhiêu vốn để có thể bù đắp rủi ro.
Tình hình thực hiện Basel II tại Việt Nam
Theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ TCTD giai đoạn 2011-2015” được
phê duyệt tại Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ,
bên cạnh việc tái cơ cấu các TCTD yếu kém, xử lý nợ xấu thì việc nâng cao năng
lực quản lý rủi ro, khả năng tài chính, sức cạnh tranh cho các TCTD để phát triển hệ
thống ngân hàng lành mạnh, bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế càng sâu
rộng là nhiệm vụ trọng tâm đối với Ngân hàng Nhà nước và toàn hệ thống ngân
hàng Việt Nam.
Từ năm 2015, có 10 ngân hàng thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn
và rủi ro theo tiêu chuẩn của Basel II (gồm Ngân hàng TMCP Ngoại Thương, Đầu
Tư và Phát Triển, Công Thương, Sài Gòn Thương Tín, Việt Nam Thịnh Vượng, Kỹ
Thương, Quốc Tế, Hàng Hải, Á Châu). Theo lộ trình của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), đến năm 2018, đây là các ngân hàng được NHNN giao thí điểm áp dụng
phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo phương pháp cơ bản của Basel II. Đến năm
2020, 10 ngân hàng được lựa chọn sẽ thực hiện từ phương pháp tiêu chuẩn trở lên
theo Basel II và nhóm ngân hàng còn lại sẽ thực hiện từ phương pháp cơ bản của
Basel II. Từ đó đến nay, việc song hành giữa NHNN và các ngân hàng triển khai
Basel II và cả hệ thống đã một số kết quả như sau:
- Về khuôn khổ pháp lý: NHNN đã nghiên cứu, xây dựng dự thảo Thông tư
quy định tỷ lệ an toàn vốn theo phương pháp tiêu chuẩn từ đầu năm 2015. Qua
nhiều vòng lấy ý kiến, và thực hiện đánh giá tác động định lượng (QIS) đối với dự
thảo Thông (02 lần), NHNN đã ban hành Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày
30/12/1016 quy định tỷ lệ an toàn vốn (CAR) đối với ngân hàng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Trong đó, một trong những thay đổi lớn là tỷ lệ CAR giảm từ 9%
xuống 8% với các công thức tính cũng thay đổi. Trước đây, theo Thông tư số
36/2014/TT-NHNN, công thức tính là vốn tự có chia tổng tài sản “Có” rủi ro. Theo
Thông tư số 41 phần mẫu số sẽ tính cả Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng, vốn
yêu cầu cho rủi ro hoạt động, và vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường... Việc điều chỉnh
thời hạn tuân thủ chung cho tất cả các ngân hàng thương mại tới năm 2020 thay vì
giới hạn trong nhóm 10 ngân hàng ban đầu nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển ổn
định và bền vững của toàn hệ thống. Hiện nay, NHNN đang nghiên cứu, xây dựng
Thông tư thay thế Thông tư 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 quy định về hệ

11
thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, trong đó có quy định nội dung về Trụ cột 2 – ICAAP về quy trình đánh giá
mức độ đủ vốn nội bộ. Việc hoàn thành dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số
44/2011/TT-NHNN này cùng với Thông tư số 41/2016/TT-NHNN sẽ cung cấp bức
tranh đầy đủ về yêu cầu tuân thủ Basel II cả về mặt định lượng và định tính.
- Về cơ sở dữ liệu, công nghệ thông tin: NHNN đã phối hợp với các ngân
hàng trong nhóm 10 ngân hàng nêu trên thực hiện đánh giá mức độ chênh lệch GAP
tổng thể, chênh lệch về dữ liệu và công nghệ thông tin, và kế hoạch thu hẹp chênh
lệch khi thực hiện Basel II. Đồng thời, triển khai thực hiện các giải pháp, kế hoạch
thu hẹp khoảng cách.
- Về đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực: NHNN đã xây dựng khoạch đào tạo
tổng thể cho cán bộ NHNN và các NHTM. Phối hợp cùng với các dự án hỗ trợ kỹ
thuật, các ngân hàng nước ngoài, đơn vị tư vấn tổ chức chương trình đào tạo, hội
thảo, tọa đàm…theo các chủ đề được gắn với kế hoạch triển khai Basel II để từng
bước phát triển đội ngũ cán bộ phục vụ cho việc triển khai Basel II phù hợp với lộ
trình được Thống đốc phê duyệt.
Khó khăn và thách thức đối với các ngân hàng khi thực hiện Basel II
Việc triển khai Basel II tại Việt Nam không phải dễ dàng do vướng nhiều
thách thức. Trong nghiên cứu của KPMG (2013), 80% ngân hàng đã nắm bắt được
việc NHNN lập kế hoạch thực hiện khung giám sát theo Hiệp ước Basel II nhưng
chưa sẵn sàng để cam kết thực hiện lộ trình triển khai hay đưa ra một quyết định
quan trọng gây tốn kém. 57% đối tượng tham gia khảo sát cho rằng, vấn đề quản trị
rủi ro hoạt động là đáng quan ngại nhất. Nhiều ngân hàng đang triển khai quản trị
rủi ro hoạt động ở những công việc ban đầu như: nghiên cứu thiết lập quy trình, xây
dựng các văn bản về quản trị rủi rohoạt động, theo dõi các rủi ro và cảnh báo… Về
cơ sở tính toán vốn cho rủi ro hoạt động thì 64% các ngân hàng sẽ sử dụng phương
pháp tiêu chuẩn để tính vốn, trong khi 14% ngân hàng lại sử dụng phương pháp chỉ
số cơ bản và 21% vẫn chưa quyết định. Đồng thời, tất cả các ngân hàng đều chỉ ra
rằng còn rất nhiều khó khăn khi triển khai áp dụng Hiệp ước Basel II.
Hai khó khăn chung được nhắc đến nhiều nhất chính là chi phí triển khai
Basel II (85%) và thiếu dữ liệu lịch sử (78%). Cụ thể:
- Chi phí triển khai dự án Basel II: Các yêu cầu về tuân thủ Basel II dự kiến
được ban hành trong thời gian tới là một khó khăn cho các ngân hàng, đòi hỏi chi
phí triển khai lớn, tập trung vào chi phí đầu tư hệ thống công nghệ thông tin, chi phí
thuê tư vấn và chi phí nguồn nhân lực. Theo Nguyễn Văn Thọ và cộng sự (2015),
các ngân hàng ở khu vực châu Á đã phải dành một nguồn lực tài chính nhất định,

12
tùy theo quy mô, mức độ và yêu cầu cụ thể của cơ quan quản lý. Trên thực tế,
không có mức chi phí chuẩn để thực hiện Basel II, chi phí này phụ thuộc vào quy
mô, phạm vi hoạt động, nền tảng sẵn có của từng ngân hàng. Chính vì vậy, mỗi
ngân hàng phải có sự tính toán cho chi phí của từng giai đoạn thực hiện trong lộ
trình áp dụng, để không gây phát sinh quá lớn. Bên cạnh đó, các ngân hàng nhất
thiết phải cân nhắc việc nhờ tới sự hỗ trợ của các chuyên gia, tập đoàn tư vấn về
quản trị rủi ro.
- Cơ sở dữ liệu và công nghệ thông tin: Khó khăn đối với đa số các ngân hàng
nước ta khi triển khai Basel II chính là cơ sở dữ liệu, thời gian và chi phí thu thập
dữ liệu. Hệ thống công nghệ ngân hàng lõi tại các ngân hàng có quá nhiều hệ thống
khác nhau đang cùng được đầu tư (như Silverlake, Flexcube, T24,.. ) bên cạnh
những kho dữ liệu khác bên ngoài như excel, file hồ sơ nên có thể dẫn đến các báo
cáo chiết suất rời rạc, chưa chính xác, không được kiểm duyệt và cập nhật thường
xuyên. Đồng thời, dữ liệu lịch sử chưa được chú trọng thu thập và quản trị một cách
có hệ thống trong suốt thời gian dài. Trong khi đó, yêu cầu tối thiểu độ dài dữ liệu
cho một số mô hình phân tích là 3 năm, 5 năm và thậm chí 7 năm cho các mô hình
nội bộ.
3. Đề xuất, kiến nghị:
Việc triển khai thực hiện Basel II là một thách thức lớn đối với các ngân hàng
tại Việt Nam. Để hỗ trợ thiết thực cho tiến trình triển khai Basel II, trong thời gian
qua, NHNN đã tiến hành hàng loại các giải pháp để hỗ trợ các ngân hàng, trong đó
việc tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm về triển khai
Basel II với các chuyên gia, tổ chức tư vấn quốc tế, ngân hàng nước ngoài hàng đầu
trên thế giới. Một số đề xuất có thể đưa để tiếp tục hỗ trợ và thúc đẩy quá trình triển
khai Basel II ở Việt Nam có hiệu quả như sau:
- Cần tiếp tục tăng cường phối hợp giữa NHNN và các TCTD trong việc xây
dựng, triển khai Basel II nhằm tạo tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động
trong quá trình triển khai Basel II. Đây là một lộ trình dài và NHNN cần đi song
hành cùng với các TCTD trong lộ trình đó.
- Cần nghiên cứu giải pháp tập trung hóa cơ sở dữ liệu tại CIC để hình thành
cơ sở hạ tầng tài chính phục vụ cho việc tính tỷ lệ an toàn vốn (Hưng, 2017). Đồng
thời, xây dựng và đẩy nhanh hoàn thiện cơ sở thông tin dữ liệu và hệ thống thông
tin quản lý để hoàn thiện cơ sở dữ liệu, đảm bảo cho việc chạy mô hình rủi ro cho
kết quả chính xác nhất đối với từng ngân hàng. Cần thực hiện rà soát, chuẩn hóa lại
dữ liệu để chuẩn bị cho việc thực hiện (theo yêu cầu của Basel II, các thông tin/ dữ
liệu về khách hàng, thông tin về tài sản bảo đảm (bao gồm các biện pháp giảm thiểu
rủi ro) phải được lưu trữ trong thời gian từ 3 – 5 năm; các dữ liệu về nợ xấu phải

13
được lưu trữ từ 5 – 7 năm). Đồng thời, các ngân hàng cần xây dựng kế hoạch và
phân bổ chi phí cho dự án Basel II được triển khai trong nhiều năm.
- Khi thực hiện Basel II, con người là yếu tố quan trọng và cần có kế hoạch
tuyển chọn, đào tạo nhân sự có chất lượng cao, gắn bó lâu dài với ngân hàng. Bên
cạnh việc sử dụng các chuyên gia tư vấn, các ngân hàng cần xây dựng và thiết lập
đội ngũ cán bộ có hiểu biết và kinh nghiệm để làm việc có hiệu quả với các chuyên
gia tư vấn để làm chủ được công nghệ sau khi chuyên gia tư vấn kết thúc dự án.
- Việc triển khai Basel II theo đúng lộ trình đã được Thống đốc phê duyệt đòi
hỏi các ngân hàng phải tiến hành đồng thời nhiều giải pháp, dự án đồng bộ về quản
trị rủi ro, nhân lực, năng lực tài chính, cơ sở dữ liệu, công nghệ thông tin…. Bên
cạnh việc tập trung hoàn thiện về quản trị rủi ro, việc tổ chức bộ phận quản lý dự án
Basel II hiệu quả là tiền đề quan trọng và là một vấn đề cần hết sức quan tâm đối
với các TCTD./.

Tài liệu tham khảo

BCBS. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng.

Nguyễn Văn Hưng (2017). Hoàn thiện cơ chế, chính sách thanh tra, giám sát ngân
hàng. Đặc san toàn cảnh ngân hàng Việt Nam.

KPMG (2013). Khảo sát về ngành Ngân hàng Việt Nam 2013.

Resti A. (2004). The Architecture of the New Basel Capital Accord from Basel I to
Basel II in “The New Basel Capital Accord and the Future of the European
Financial System”. Centre for European Policy Studies CEPS report No.51.

Weber A. (2009). The future of banking regulations. Bài phát biểu tại Hội nghị
“The Future of Banking Regulations” ngày 24/9/2009 tại NHTW Đức.

Nguyễn Văn Thọ, Ngọc Linh (2015). Thách thức đối với Ngân hàng Việt Nam khi
triển khai Basel II.

14

You might also like