Professional Documents
Culture Documents
Cơ sở hạ tầng:
“Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự
vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.” (Giáo
Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất
vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên thực tế mà
trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện thực. C. Mác
đã chỉ rõ: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp
lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở
hiện thực đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13,tr.15). Các quan hệ
sản xuất là các quan hệ cơ bản, đầu tiên, chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội
khác.
Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản
xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định
hướng sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò đặc trưng cho
chế độ kinh tế của một xã hội nhất định. Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản
xuất nó cấu thành nên cơ sở hạ tầng của một xã hội để phản ánh tính chất vận
động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế thừa và phát
triển.
Như vậy, hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội đóng vai trò “kép”: một
mặt, với lực lượng sản xuất, nó giữ vai trò là hình thức kinh tế - xã hội cho sự
duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất; mặt khác, với các quan hệ
chính trị - xã hội, nó đóng vai trò là cơ sở hiện thực cho sựu thiết lập một hệ
“Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với
những thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng
hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.” (Giáo trình triết học Mác-Lênin -
Chương 3, tr.306)
Những quan điểm tư tưởng xã hội: chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn
Những thiết chế xã hội tương ứng: nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đoàn thể và tổ chức xã hội. Trong đó nhà nước gồm: quốc hội, chính phủ,
Các yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng
với những qua hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc thượng tầng
của xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý
thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức thì chính đảng và
nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng trong hệ thống kiến trúc thượng
tầng.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
đối kháng giai cấp là nhà nước - công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai
cấp thống trị. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở
thành một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về
mặt kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cùng những thể
chế của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp
đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và cả tính chất, đặc trưng cơ
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì nhà nước và pháp luật quyết định
quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình phát triển của xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định
tiến trình phát triển của xã hội, còn ý thức tư tưởng, chính trị không có vai trò gì
Nhưng chủ nghĩa Mac - Lênin đã khẳng định: “Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng có quan hệ biện chứng không tách rời nhau, trong đó cơ sở hạ tầng
giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ
sở hạ tầng, nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng đã sinh ra
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện
Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng
tầng, nội dung và tính chất là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Tương
ứng với một cơ sở hạ tầng nhất định tất yếu sẽ sản sinh ra một kiến trúc
thượng tầng phù hợp với nó, và có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.
Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ tất yếu tạo ra nhu cầu khách quan
phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng.
Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn
“Trong xã hội có đối kháng gia cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã
hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh
vực tư tưởng của xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất
của kiến truc thượng tầng là như thế ấy.” (Giáo trình triết học Mác-Lênin,
tr.309)
Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến
đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. C. Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay
đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sợ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh
chóng.” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15)
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
định nhưng có sự tác động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì
kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối với cơ sở hạ tầng. Ph. Ăngghen
khẳng định: “Quan điểm tư tưởng, đến lượt mình, nó tác động trở lại đến cơ sở
hạ tầng kinh tế và có thể biến đổi cơ sở hạ tầng ấy trong giới hạn nhất định.” (C.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện
Mọi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có vai trò tác động, ảnh hưởng
trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội theo những phương thức khác nhau, trực
tiếp hoặc gián tiếp, nhiều hay ít, mức độ lớn hay nhỏ,...
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra
theo nhiều xu hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà có
thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các
giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn
ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù
hợp hay không phù hợp của kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách
quan của sự phát triển kinh tế. Nếu phù hợp nó sẽ tác động tích cực làm
phát triển nền kinh tế, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực sẽ kìm hãm và
phá hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định.
Tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với
nhau. Do đó, khi xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của sơ
sở hạ tầng và tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng, không được tuyệt đối
Vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội trong triết học Mác-Lênin để phát triển đất
nước.
Để đất nước được phát triển bền vững và lâu dài chúng ta cần xét trên các
phương diện sau:
Về mặt cơ sở hạ tầng
Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trên lĩnh vực
kiến trúc thượng tầng. Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản
chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là
người chủ thực sự của xã hội. Đồng thời, nhà nước cũng đề ra đường lối chính
sách để phát huy tính năng động của cơ sở hạ tầng, phát huy mọi khả năng sáng
tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội phục vụ lợi ích
của toàn đảng, toàn dân. Trong cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước,
Đảng ghi rõ : “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân
và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ
máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư
nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về
Dưới sự dẫn dắt của Đảng, cùng với những kế hoạch rõ ràng và niềm tin của
nhân dân, đất nước Việt Nam của chúng ta đã phát triển không ngừng từ khi
Về mặt cơ sở hạ tầng
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu của
cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất
phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết
cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và
đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới
để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức
mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng. Vậy để thúc đẩy phát triển nền
kinh tế thì sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Vào thời kỳ năm 1986, nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế kinh tế
hiện hành, Nhà nước đã triển khai thực hiện một số thay đổi trong chính sách
quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lới đổi mới,
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Và đường lối đổi mới đó đã được quần
chúng nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính nhờ vào những thay đổi đó của Nhà nước mà đến bây giờ năm 2021,
nước ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu. Trong đó, Việt Nam chúng ta đã
chính thức vượt qua Thái Lan với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá đạt
670 tỷ USD tăng 22,6% so với năm 2020. Cán cân thương mại hàng hoá năm
2021 xuất siêu 4 tỷ USD, đó là một tín hiệu rất đáng mừng cho nền kinh tế Việt
Nam ta.
Mặt khác, sự tác động tiêu cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng gây nên sự kìm hãm phát triển kinh tế. Vào thời điểm đỉnh dịch Covid-19,
với chính sách “Chống dịch như chống giặc”, Nhà nước đã đưa ra những biện
pháp và chỉ đạo quyết đoán như: “Ai ở đâu, yên ở đấy”, “Thực hiện 5K”, “Ba tại
chỗ” và đặc biệt hơn hết ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam chúng ta là “Giãn
cách xã hội” trong một thời gian dài. Các hoạt động buôn bán, dịch vụ, sản xuất
bị trì trệ. Điều đó dẫn đến ảnh GDP năm 2021 của Việt Nam tăng 2,58% tương
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc đàm phán
cũng như là ký kết, phê chuẩn các Hiệp định thương mại tự do như là: FTA, 16
FTA, EVFTA, CPTPP,... Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy thương mại và
đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn thu các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
(FDI). Cùng với đó Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty, xí
nghiệp nước ngoài xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Từ đó tạo
ra nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương nơi các khu công nghiệp
toạ lạc. Đời sống, kinh tế, vật chất của người dân được cải thiện.
Mặt khác, với biện pháp quyết liệt của Nhà nước “Chống dịch như chống
giặc”, “Giãn cách xã hội” vô hình chung đã làm đóng băng các hoạt động sản
xuất, dịch vụ dẫn đến một bộ phận người lao động mất công việc và thu nhập,
làm cho cuộc sống người dân trở nên bấp bênh. Nhưng với chính sách “Ngoại
giao vắc-xin” khéo léo của Chính phủ, mọi công dân đã, đang và sẽ được tiêm
đầy đủ vắc-xin để tiến tới miễn dịch cộng đồng và “bình thường mới” các hoạt
động kinh tế và sinh hoạt. Người dân lao động sẽ sớm ổn định lại cuộc sống và
tập trung vào công việc, tăng gia sản xuất phục hồi kinh tế Việt Nam 2022.