(ĐOẠ N 1) mà Nguyễ n Trã i cò n mạ nh mẽ khẳ ng định sự bình đẳ ng, độ c lậ p
củ a con ngườ i, đấ t nướ c ta vớ i cá c triề u đạ i phương Bắ c “Cù ng Nhà phê bình vă n họ c Hoà i Thanh từ ng nhậ n định “Mỗ i trang Há n, Đườ ng, Tố ng, Nguyê n mỗ i bê n xưng đế mộ t phương. vă n đề u soi bó ng thờ i đạ i mà nó ra đờ i”. Nhữ ng kiệ t tá c vă n họ c Truyề n thố ng đấ u tranh đầ y anh dũ ng, bấ t khuấ t củ a cá c triề u ra đờ i khô ng chỉ mang trong mình ý nghĩa vă n chương mà cò n đạ i Đinh Lý Trầ n Lê có thể sá nh ngang vớ i cá c triề u đạ i mang cả tầm vó c lịch sử . “Đạ i cá o Bình Ngô ” chính là mộ t kiệ t Há n ,Đườ ng, Tố ng, Nguyê n. Đạ i Việ t ta tuy nhỏ bé về lã nh thổ tá c như thế . Khô ng nhữ ng là á ng “thiê n cổ hù ng vă n” củ a mà tinh thầ n khô ng nhỏ , vẫ n xưng vương, bờ cõ i độ c lậ p, mạ nh Nguyễ n Trã i, “Đạ i cá o Bình Ngô ” cò n có ý nghĩa như mộ t bả n mẽ , khô ng chịu nhú n mình dướ i quyề n uy kẻ khá c, tấ m lò ng tuyê n ngô n độ c lậ p củ a dâ n tộ c. Đạ i Việ t cũ ng vì thế mà rộ ng lớ n biế t bao. Đấ t Việ t cũ ng có hà o kiệ t bố n phương, vang danh sử sá ch, nhâ n tà i giỏ i giang cả về Đượ c viế t theo thể cá o – mộ t thể loạ i vă n họ c cổ có nguồ n gố c mưu cơ, chiế n lượ c, vă n võ song toà n. Nhữ ng yế u tố đó đã gó p từ Trung Hoa, “Bình Ngô đạ i cá o” củ a Nguyễ n Trã i cũ ng có mộ t phầ n dự ng xâ y nên mộ t Đạ i Việ t hù ng hồ n, trê n mọ i chiế n trậ n bố cụ c rấ t chặ t chẽ . Mở đầ u bà i cá o, tá c giả Nguyễ n Trã i đã luô n già nh thắ ng lợ i: khé o lé o nê u lê n luậ n đề chính nghĩa, làm cơ sở , nề n tả ng cho châ n lí độ c lậ p dâ n tộ c. “Lưu Cung tham cô ng nê n thấ t bạ i
“Việ c nhâ n nghĩa cố t ở yê n dâ n Triệ u Tiế t thích lớ n phả i tiê u vong;
Quâ n điế u phạ t trướ c lo trừ bạ o” Cử a Hà m tử bắ t số ng Toa Đô
Như chú ng ta đã biế t, “nhâ n nghĩa” là mộ t trong số nhữ ng Sô ng Bạ ch Đằ ng giế t tươi Ô Mã
phạ m trù tư tưở ng quen thuộ c và gần gũ i củ a Nho giá o, nó đượ c dù ng để nhắ c tớ i mố i quan hệ , cá ch ứ ng xử tố t đẹ p giữ a Việ c xưa xem xé t, chứ ng cớ cò n ghi” con ngườ i vớ i con ngườ i trê n cơ sở tình thương và đạ o đứ c. Vớ i Nguyễ n Trã i, “việ c nhâ n nghĩa” phả i gắ n liề n vớ i việ c “yê n Trướ c sự xâ m lă ng ngang ngượ c, bạ o tà n củ a kẻ thù , tinh thầ n dâ n” bở i ô ng luô n “lấ y dâ n là m gố c”, là m nề n tả ng cho mọ i chiế n đấ u củ a Đạ i Việ t ta nô i nổ i, quyế t tâ m hơn bao giờ hế t, hà nh độ ng, việ c là m củ a mình. Đặ c biệ t, trong bố i cả nh quâ n bao chiế n cô ng lẫ y lừ ng, oanh liệ t đượ c Nguyễ n Trã i kể ra chứ a Minh xâ m lượ c nướ c ta, Nguyễ n Trã i khẳ ng định, muố n “yê n chan nhữ ng cả m xú c tự hà o: “ Cử a Hà m Từ …Toa Đô ”, “ Sô ng dâ n” thì trướ c hơn hế t phả i lo “trừ bạ o” nghĩa là phả i đá nh đuổ i Bạ ch Đằ ng…. Ô Mã .” .thê m và o đó là sự xem thườ ng, că m ghé t quâ n xâ m lượ c, nhữ ng kẻ đang đà n á p nhâ n dâ n và đẩ y nhâ n đố i vớ i sự thấ t bạ i củ a nhữ ng kẻ xâ m lượ c khô ng biế t tự lượ ng dâ n và o cuộ c số ng lầ m than, cơ cự c. Như vậ y, vớ i hai câ u thơ sứ c : “Lưu Cung..tham cô ng”, “Triệ u Tiế t… thích lớ n”, Toa Đô , Ô mở đầ u bà i cá o, Nguyễ n Trã i đã nê u lê n tiề n đề tư tưở ng cho Mã , tấ t cả chú ng đề u nhậ n lấ y nhữ ng thấ t bạ i cay đắ ng. Đoạ n toà n bộ tá c phẩ m, đó chính là tư tưở ng nhâ n nghĩa và tư tưở ng thơ đã mộ t lầ n nữ a khẳ ng định rằ ng: Đạ i Việ t là mộ t quố c gia có ấ y luô n lấ y dâ n là m gố c, xé t đế n cù ng đâ y là mộ t tư tưở ng tiế n độ c lậ p, tự chủ , có nhâ n tà i, có tướ ng giỏ i, chẳ ng thua ké m gì bộ và mớ i mẻ củ a ô ng. Ô ng khô ng nó i đế n nhâ n nghĩa mộ t cá ch bấ t cứ mộ t quố c gia nà o. Bấ t cứ kẻ nà o có ý muố n thô n tính, chung chung mà chỉ bằ ng mộ t hai câ u ngắ n gọ n tá c giả đi và o xâ m lượ c ta đề u phả i chịu kế t quả thả m bạ i. Cuố i cù ng, chính khẳ ng định hạ t nhâ n cơ bả n, cố t lõ i và có giá trị nhấ t. nghĩa mã i mã i là nguồ n á nh sá ng cao đẹ p soi sá ng con đườ ng đấ u tranh củ a dâ n tộ c. Sau tư tưở ng nhâ n nghĩa ấ y, tá c giả Nguyễ n Trã i tiế p tụ c khẳ ng định nề n vă n hiế n tố t đẹ p đượ c gâ y dự ng từ bao đờ i củ a Đoạ n thơ tuy ngắ n mà khô ng chỉ nê u lên đượ c tư tưở ng nhâ n con ngườ i nướ c Việ t: nghĩa sá ng ngờ i mà cò n khẳ ng định nền độ c lậ p, tổ ng kế t lạ i đượ c nhữ ng chiế n cô ng hà o hù ng củ a dâ n tộ c. Ngô n ngữ đầ y khả ng khá i, tứ thơ hù ng hồ n, mạ nh mẽ cù ng mộ t trá i tim lớ n vì dâ n vì nướ c củ a Nguyễ n Trã i đã tạ o nên mộ t tá c phẩ m vă n họ c “Như nướ c Đạ i Việ t ta từ trướ c xuấ t sắ c, trở thà nh mộ t bản tuyê n ngô n bấ t hủ củ a dâ n tộ c.
Vố n xưng nề n vă n hiế n đã lâ u
Từ Triệ u, Đinh, Lý, Trầ n bao đờ i gâ y nền độ c lậ p
Cù ng Há n, Đườ ng, Tố ng, Nguyê n mỗ i bê n xưng đế mộ t phương”
Nướ c ta có truyề n thố ng vă n hiế n từ xa xưa, nướ c ta có phong
tụ c, tậ p quá n riê ng, né t đẹ p củ a truyề n thố ng, vă n hó a đượ c ngườ i Việ t gâ y dự ng từ bao đờ i “Từ Triệ u, Đinh, Lí, Trầ n”. Khô ng chỉ khẳ ng định nề n vă n hiế n lâ u đờ i trong niềm tự hà o
LĐ3: Ở những câu văn tiếp theo, tâm trạng của Mị có sự thay đổi và chuyển biến rõ rệt. Từ vô thức, Mị bỗng đột khởi cảm giác phấn chấn và nhận thức được giá trị bản thân
LĐ1: Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người có sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy mãnh liệt khi thể hiện thái độ và các hành động "nổi loạn"