Professional Documents
Culture Documents
Hữu Thỉnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ
trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Ông viết nhiều, viết hay về
mùa thu nông thôn Việt Nam. Thơ ông thường có những phát hiện bất ngờ, tinh tế,
hình ảnh thơ giản dị, gần gũi mà giàu sức gợi. “Sang thu” được sáng tác cuối năm
1977 và được in trong tập “Từ chiến hào cho đến thành phố”. Bài thơ là một khúc
giao mùa tinh tế có hồn, bức tranh sang thu đẹp có tình, có chiều sâu suy nghĩ.
Vớ i biện phá p nghệ thuậ t đả o ngữ nhà thơ đã đẩ y độ ng từ “mọ c” lên đầ u câ u thơ, đầ u bà i
thơ để nhấ n mạ nh sự vâ n độ ng, sinh sô i, sứ c số ng mã nh liệt củ a thiên nhiên mỗ i khi xuâ n
về. Khô ng chỉ thế, bứ c tranh mù a xuâ n cò n đượ c hiện lên bằ ng hình ả nh bình dị, quen
thuộ c: “dò ng sô ng xanh mềm mạ i” gợ i cho ta liên tưở ng đến dò ng sô ng Hương thơ mộ ng,
hữ u tình. “Mộ t bong hoa tím biếc” – mộ t mà u tím đặ c trưng củ a Huế thơ mộ ng. Sự phố i hợ p
nà y đã là m nên mà u sắ c hà i hò a tươi tắ n củ a sô ng – nướ c – cá – hoa. Hai câ u thơ hà m sú c, tả
ít mà gợ i nhiều, đườ ng nét mềm mạ i, mà u sắ c tươi sá ng đã tá i hiện mộ t mù a xuâ n xứ Huế
trong trẻo, thơ là nh, thi vị, đầ y sứ c số ng. Bứ c tranh mù a xuâ n cò n đượ c nhà thơ cả m nhậ n
bằ ng cả â m thanh :
Ngậ p trà n khô ng gian là bả n nhạ c mưingf xuâ n củ a bầ y chin chiền chiện ca vang, hó t vang
độ ng cả đấ t trờ i như bá o hiệu mù a xuâ n về trên quê hương, dợ i khô ng khí rộ n rã , há o hứ c
tưng bừ ng. Hình ả nh “giọ t long lay” ở đâ y ta có thể hiểu theo nhiều tầ ng ý nghĩa. Đó có thể
là giọ t mưa, giọ t sương củ a mù a xuâ n nhưng cũ ng có thể là giọ t â m thanh củ a tiếng chim
chiền chiện. Đâ y là mộ t hình ả nh thơ vô cù ng độ c đá o, tá c giả đã sử dụ ng biện phá p nghệ
thuậ t ẩ n dụ chuyển đổ i cả m giá c để nhấ t mạ nh â m thanh củ a tiếng chim. Từ ng giọ t â m
thanh củ a tiếng chim trong trẻo như kết đọ ng lạ i, ngâ n vang rồ i thả và o khô ng gian trong
suố t củ a mù a xuâ n rơi xuố ng thấ m và o đấ t trờ i, và o lò ng ngườ i. Từ “ơi” trong câ u thơ cù ng
giọ ng hỏ i “hỏ i chi” mang â m hưở ng thâ n thương, dịu dà ng củ a con ngườ i xứ Huế, khiến cho
lờ i thơ thênh thang viết. Giữ a thiên nhiên đấ t trờ i hình ả nh con ngườ i đã xuấ t hiện vớ i cả m
xú c say xưa, ngâ y ngấ t như đang reo vui tiếng nhạ c lò ng, giao hò a cù ng cả nh vậ t :
Bố n câ u thơ có cấ u trú c song hà nh, tạ o ra hình ả nh hoá n dụ , nó i về về con ngườ i đanh thự c
hiện nhiên vụ là chiến đấ u, bả o vệ Tổ quố c và lao độ ng sả n xuấ t, là m già u nướ c nhà . Hai
nhiệm vụ ấ y đặ t nặ ng lên vai ngườ i chiến sĩ và ngườ i nô ng dâ n. Vì thế, họ chính là nhữ ng
ngườ i là m nên mù a xuâ n đấ t nướ c. Nhịp thơ đến đâ y cũ ng có vẻ như nhanh hơn bở i điệp từ
: “mù a xuâ n, lộ c” đượ c xuấ t hiện đầ u câ u. “Lộ c” ở đâ y ta có thể hiểu theo nhiều ý nghĩ. “Lộ c”
khô ng chỉ là chồ i non lộ c biếc gợ i sắ c xuâ n lan tỏ a mà lộ c cò n tượ ng trưng cho sự may mắ n,
thà nh cô ng, hạ nh phú c. Hình ả nh ẩ n dụ : “Lộ c giắ t đầ y trên lưng, lộ c trả i dà i nương mạ ”. Nhà
thơ như khẳ ng định: “ngườ i cầ m sung” là ngườ i gieo lộ c chiến cô ng trên từ ng trậ n đá nh, giữ
lộ c yên bình; cò n “ngườ i ra đồ ng” là gieo nhữ ng mù a và ng bộ i thu, lộ c ấ m lo. Qua hai hình
ả nh thơ đã gợ i ca mù a xuâ n trong sự tưng bừ ng vớ i sứ c xuâ n că ng trà n đang về trên mọ i
miền đấ t nướ c:
“Tấ t cả như hố i hả
Tấ t cả như xô n xao…”
Cá c từ lá y “hố i hả , xô n xao” cù ng điệp từ “tấ t cả ” là m cho câ u thơ vang lên nhịp điệu vui
tươi, mạ nh mẽ, phấ n chấ n khá thườ ng. “Hố i hả ” – là từ chỉ trạ ng thá i vộ i vã do ý thướ c
đượ c sự hố i thú c củ a thờ i gian, gợ i khô ng khí là m ă n tậ p thể, sô i nổ i, hă ng há i, khẩ n trương.
“Xô n xao” - là â m vang sô i độ ng củ a cuộ c số ng mớ i, đượ c nhà thơ cả m nhậ n khô ng củ a bằ ng
tai nghe mắ t thấ t mà cò n bằ ng cả trá i tim nhiệt huyết trà n đầ y. Điệp từ “tấ t cả ” như muố n
nó i chung mọ i ngườ i, mọ i cá nhâ n. Cả dâ n tộ c bướ c và o xuâ n vớ i mộ t khí thế khẩ n trương
và ná o nhiệt. Mọ i ngườ i như phá t huy hết khả nă ng, sứ c lự c, trí tuệ, đồ ng lò ng để phụ c vụ sự
nghiệp cung là bả o vệ và xâ y dự ng đấ t nướ c. Kết thú c khổ thơ là dấ u ba chấ m phả i chă ng
tá c giả muố n nó i rằ ng đấ t nướ c ta sẽ luô n phá t triển, sẽ vươn tớ i mộ t tầ m cao mớ i mà
khô ng có sự dừ ng châ n, ngơi nghỉ. Qua khổ thơ khô ng chỉ miêu tả mù a xuâ n đấ t nướ c trà n
ngậ p sứ c số ng mà cò n bộ c lộ tình cả m yêu mến thiết tha củ a nhà thơ vớ i cuộ c đờ i.
Hình ả nh mù a xuâ n đấ t nướ c cò n đượ c nhà thơ cả m nhậ n qua suố t chiều dà i lịch sử củ a
nhâ n dâ n ta trong quá trình dự ng nướ c và giữ nướ c:
“Đấ t nướ c bố n ngà n nă m” như chứ ng minh mộ t bề dà y lịch sử dự ng nướ c và giữ nướ c vớ i
biết bao bao thă ng trầ m nhưng cũ ng thậ t anh hù ng củ a nhâ n dâ n Việt Nam. Nó i về đấ t nướ c,
cá c nhà thườ ng nhắ c đến nhữ ng trang sử hà o hù ng, chiến cô ng lừ ng lẫ y nhưng Thanh Hả i
lạ i chọ n cá ch thể hiện hình ả nh đấ t nướ c rấ t gầ n giữ và rấ t đồ i tự hà o và gian lao, vấ t vả .
“Vấ t vả ” là mấ t rấ t nhiều sứ c lự c, tâ m trí; cò n “gian lao” là phả i trả i qua nhiều khó khă n, gian
khổ . Đâ y là cá i khó khă n gian khổ mà mộ t dâ n tộ c nhỏ bé nhưng kiêu hã nh, luô n luô n phả i:
“sá ng chố ng bã o going, chiều ngă n nắ ng lử a”. Qua đâ y ta hiểu đượ c thá i độ củ a nhà thơ vừ a
trâ n trọ ng tự hà o lạ i vừ a chĩu nặ ng yêu thương. Trướ c đau thương, mấ t má t, hi sinh mà dâ n
tộ c ta phả i trả i qua. Và đâ y lẽ số ng thủ y chung tình nghĩa, “uố ng nướ c nhớ nguồ n” đố i vớ i
đấ t nướ c củ a nhâ n dâ n ta. Từ quá khứ củ a đấ t nướ c tá c giả thể hiện niềm tin tưở ng củ a
mình về tương lai phía trướ c, sự vươn lên củ a đấ t nướ c:
Vớ i biện phá p nghệ thuậ t so sá ng, tá c giả đã ví đấ t nướ c như vì sao. Vì sao chính là nguồ n
sá ng bấ t diệt như mộ t thiên thể khiêm nhườ ng, lặ ng lẽ giữ a bầ u trờ i nhâ n loạ i. Cũ ng giố ng
như vì sao ấ y, đấ t nướ c Việt Nam nhỏ bé trên bả n đồ thế giờ có mộ t sứ c mạ nh vô cù ng to
lớ n. Dù trong quá khứ hay hiện tạ i vẫ n bền bỉ vượ t qua bao gian nan, vấ t vả , bấ t chấ p mọ i
kẻ thù để tự mình tỏ a sá ng luô n trườ ng tồ n và phá t triển bền vữ ng. Từ “cứ ” đượ c đặ t ở đầ u
câ u thơ đã gó p phầ n khẳ ng định và nhấ n mạ nh điều ấ y. Phía trướ c ở đâ y phả i chă ng là
tương lai tố t đẹp, yên bình. Qua khổ thơ đã thể hiện lò ng tự hà o, lạ c quan niềm tin củ a nhà
thơ dà nh cho đấ t nướ c và con ngườ i Việt Nam.
Nhà thơ Thanh Hả i đã thể hiện khá t vọ ng số ng củ a mình là muố n đượ c cố ng hiến phầ n nhỏ
bé củ a mình cho cuộ c đờ i chung, đượ c hò a nhậ p và o mù a xuâ n đấ t nướ c:
Ta là m mộ t cà nh hoa
Ta nhậ p và o hò a ca
Nếu như khổ mộ t củ a bà i thơ tá c giả xưng “tô i” để nó i lên cả m xú c cá nhâ n kín đá o, lặ ng lẽ
củ a mình trướ c mù a xuâ n thiên nhiên đấ t tro ừ i thì đến đâ y cá i “tô i” ấ y đã chuyển hó a
thà nh cá i “ta” trang trọ ng và kiêu hã nh. “Ta” hiểu là nhà thơ và cũ ng cũ ng là chung tấ t cả
mọ i ngườ i. Cấ u trú c lặ p lạ i “ta là m – ta nhậ p” đã cho thấ y con ngườ i đang là m chủ cuộ c đờ i,
tự mình bơ ra sứ c lự c để là m nên giá trị cuộ c số ng. Từ “nhậ p” trong câ u thơ đã thể hiện sự
hò a mình củ a mỗ i ngườ i mộ t cá ch chủ độ ng, tích cự c, ý thứ c, tự nguyện, gắ n bó và hò a nhậ p
đờ i mình vớ i trong đấ t nướ c. Bằ ng mộ t loạ i cá c hình ả nh ẩ n dụ vừ a quan thuộ c vừ a mớ i lạ
để nó i lên ướ c nguyện củ a nhà thơ. Tá c giả muố n hó a thâ n và o tiếng chim để bá o hiện mộ i
khi mù a xuâ n về, nguyện là m mộ t cà nh hoa để tô điểm cho nú i sô ng, mộ t nố t nhạ c trầ m
trong khô ng khí tưng bừ ng củ a ngà y hộ i mù a xuâ n. Ta có thể hiểu “hò a ca” là bà i ca gồ m
nhiều â m sắ c, giọ ng điệu hò a hợ p. Cò n “nố t trầ m” là mộ t nố t nhạ c ghi â m thấ p tạ o lên sự
lặ ng đọ ng, sâ u xa trong bả n nhạ c. Thanh Hả i nguyện là m nố t nhạ c trầ m, khô ng vú t cao rộ n
rã , khô n thá nh thó t vang ca mà lắ ng sâ u đến xao xuyến mộ i ngườ i. Qua nhữ ng câ u thơ đã
nó i lên khá i vọ ng số ng củ a nhà thơ và cũ ng là củ a mọ i ngườ i muố n đượ c hò nhậ p, đượ c
chó ng hiến cho đờ i phầ n tình tú y và nhỏ bé củ a mình cho cuộ c đờ i chung. Ướ c vọ ng ấ y thậ t
gầ n gũ i và tâ m tình củ a Tô Hữ u:
Lặ ng lẽ dâ ng cho đờ i
Dù là khi tó c bạ c.”
Bằ ng hình ả nh và ngô n từ chọ n lọ c; nghệ thuậ t tư từ quen thuộ c; giọ ng điệu trữ tình thiết
tha; thể thơ ngũ ngô n già u mà u sắ c và phong vị dâ n ca Huế..., Trong khổ đầ u bà i “Mù a xuâ n
nho nhỏ ”, tá c giả viết khi đang lâ m bệnh trọ ng, vừ a miêu tả hết sứ c sinh độ ng bứ c tranh
mù a xuâ n thiên nhiên xứ Huế thơ mộ ng, quyến rũ , đầ y sứ c số ng vừ a bộ c lộ cả m xú c ngâ y
ngấ t, say sưa củ a mình trướ c mù a xuâ n thiên nhiên. Đoạ n thơ vớ i hình ả nh và ngô n từ chọ n
lọ c, gầ n gũ i, nghệ thuậ t tu từ quen thuộ c, giọ ng điệu trữ tình thiết tha, Thanh Hả i đã dự ng
lên hình tượ ng mù a xuâ n đấ t nướ c trà n đầ y đồ ng thờ i bộ c lộ niềm tin tưở ng, tự hà o sâ u sắ c
củ a mình và o tương lai đấ t nướ c. Qua đó , ta thấ y sự khở i sắ c đi lên củ a dâ n tộ c và tinh thầ n
lạ c quan yêu đờ i, già u bả n lĩnh củ a chính nhà thơ.
Mù a xuâ n là đề tà i truyền thố ng trong thơ ca dâ n tộ c. Thanh Hả i đã gó p cho thơ ca dâ n tộ c
mộ t bà i thơ xuâ n đẹp, đậ m đà tình nghĩa. Thể thơ nă m chữ , giọ ng thơ lú c mạ nh mẽ, lú c tha
thiết ngâ n vang. Ngô n ngữ thơ trong sá ng và biểu cả m, hà m sú c và hình tượ ng. Cá c biện
phá p tu từ như so sá nh, ẩ n dụ , song hà nh đố i xứ ng, điệp ngữ ... đượ c vậ n dụ ng sắ c sả o, tà i
hoa. Tình yêu mù a xuâ n gắ n liền vớ i tình yêu đấ t nướ c, quê hương đượ c Thanh Hả i diễn tả
mộ t cá ch sâ u sắ c, cả m độ ng. Mỗ i mộ t cuộ c đờ i hã y là mộ t mù a xuâ n. Đấ t nướ c ta mã i mã i sẽ
là nhữ ng mù a xuâ n tươi đẹp..