Professional Documents
Culture Documents
Câu thơ đầ u đã cho độ c giả thấ y ba hình ả nh đặ c trưng nhấ t củ a mùa thu là: rừ ng
phong, hạ t móc, khí thu, ba hình ả nh này có mố i quan hệ chặ t chẽ vớ i nhau gợ i cả m
giác lạ nh lẽo, thê lương. Sương móc vố n là loạ i sương đặ c trưng củ a mùa thu Trung
Quố c, loạ i sương gợ i nên sự giá buố t, lạ nh lẽo. Nhưng trong câu thơ dịch không
truyền tả i đượ c tinh thầ n củ a nguyên tác: Sương móc rơi lác đác – lác đác là tính từ
cho thấ y sự thưa thớ t củ a nhữ ng hạ t sương rơi. Tạ o nên cả nh tượ ng mờ ả o, quyến
rũ . Nguyên tác phả i là Sương móc trắ ng xóa dày đặ c, giă ng mắ c, bao phủ khắ p
không gian, cả nh vậ t. Màu trắ ng không gợ i ra sự tinh khôi, thanh khiết mà gợ i ra sự
ả m đạ m và hiu hắ t, lạ nh lẽo. Kết hợ p vớ i làn sương trắ ng xóa, hiu hắ t là hình ả nh
rừ ng phong, vố n rừ ng phong vào mùa thu có màu đỏ , gợ i nên sự ấ m nóng, rự c rỡ .
Nhưng vớ i làn sương trắ ng xóa dày đặ c, đã khiến cả rừ ng thu trở nên xơ xác, tiêu
điều. Sang đến câu thơ thứ hai, khắ c họ a rõ nét hơn sự ả m đạ m, hiu hắ t củ a khung
cả nh thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là nhữ ng dãy núi chạ y dài, không có mộ t khoả ng
trố ng. Vùng núi cao ấ y không bao giờ thấ y ánh sáng mặ t trờ i nên rấ t tă m tố i, ả m
đạ m. Kết hợ p vớ i làn sương dày đặ c càng khiến không gian thêm ả m đạ m, hiu hắ t
hơn. Ba hình hình kết hợ p lạ i vớ i nhau mang đến cho ngườ i đọ c sự cả m nhậ n về
bứ c tranh cả nh thu nơi đấ t khách: lạ nh lẽo, tiêu điều, hiu hắ t tă m tố i.
Nếu ở hai câu đề, tác giả bao quát cả nh thu theo chiều rộ ng thì ở hai câu thự c, tác
giả bao quát cả nh thu theo chiều cao:
Câu thơ đượ c tác giả sử dụ ng kết hợ p biện pháp nghệ thuậ t đố i và phóng đạ i: Sóng
vọ t lên tậ n lưng trờ i; Mây sà xuố ng giáp mặ t đấ t. Hai sự vậ t thiên nhiên vậ n độ ng
trái chiều: vọ t lên, sà xuố ng, cùng với các độ ng từ đã nhấ n mạ nh hơn nữ a vào sự vậ n
độ ng ngượ c chiều đó. Hai sự vậ t vậ n độ ng ngượ c chiều, ép sát vào nhau, khiến
không gian bị ken đặ c lạ i, bị lấ p kín bởi cái mờ ả o, hoang vu củ a sông và mây. Bứ c
tranh thu hiện lên hùng vĩ nhưng âm u, dữ dộ i, đầ y ngộ t ngạ t.
Bố n câu đầ u mở ra không gian nhìn từ xa: rừ ng phong, sông núi, cử a ả i,… bố n câu
sau mạ ch thơ có sự vậ n độ ng về gầ n, trướ c mắ t tác giả là hình ả nh:
Vớ i ý tứ sâu xa, bả n dịch thơ đã không truyền tả i đượ c hết ý nghĩa củ a nguyên tác.
Câu thơ thứ nă m mang đến nhiều cách hiểu, khi chủ thể củ a hoạ t độ ng nướ c mắ t
tuôn rơi đều bị ẩ n đi. Câu thơ có thể hiểu nướ c mắ t tuôn rơi là củ a khóm cúc vì
nhữ ng cánh hoa nở ra đều mang hình giọ t lệ, khóm cúc nở hoa cũ ng là khóm cúc
đang tuôn rơi nhữ ng giọ t lệ. Nhưng cũ ng có thể hiểu chủ thể củ a nướ c mắ t là thi
nhân. Cứ mỗ i lầ n nhìn khóm cúc nở hoa là mộ t lầ n nhậ n ra thờ i gian chả y trôi, mà
mình thì bị buộ c ở đây mãi, càng chạ nh lòng, lạ i thứ c dậ y nỗ i nhớ quê trong bấ t lự c.
Dù hiểu theo cách nào câu thơ chấ t chứ a nỗ i buồ n đau củ a tác giả mỗ i khi hoa cúc
nở . Khóm cúc nở hoa đã hai lầ n nhấ n mạ nh vào con số , hai nă m – khoả ng thờ i gian
tác giả lưu lạ c và mắ c lạ i ở mả nh đấ t Quý Châu. “Lưỡ ng khai” còn là con số ướ c lệ
– số nhiều – gợ i ra nỗ i đau triền miên và dai dẳ ng. Không chỉ nă m nay hoa cúc nở
mớ i làm thứ c dậ y nỗ i đau mà nỗ i đau ấ y từ nă m ngoái, cho thấ y nỗ i đau triền miên,
dai dẳ ng, thườ ng trự c từ rấ t lâu. Nỗ i đau trong bế tắ c – nỗ i đau thờ i thế, nỗ i nhớ quê
hương mà không thể nào có thể trở về quê hương.
Cả nh ngộ lẻ loi củ a tác giả thể hiện rõ ràng hơn trong hình ả nh “cô chu” – hình ả nh
con thuyền cô đơn, lẻ loi. Đồ ng thờ i gợ i ra cả nh ngộ cô đơn, lẻ loi, trôi nổ i nơi đấ t
khách củ a tác giả . Câu thơ trướ c hết là hình ả nh thự c: con thuyền chở nhà thơ về
quê đã bị mắ c lạ i ở Quý Châu. Đằ ng sau nghĩa thự c là mộ t hàm ý: gử i gắ m nỗ i nhớ
quê buộ c chặ t trên con thuyền lẻ loi nơi đấ t khách. Chữ “buộ c” trở thành nhãn tự củ a
câu thơ, vừ a là sợ i dây buộ c con thuyền, vừ a là sợ i dây thắ t lòng ngườ i.
Trong nỗ i nhớ quê hương da diết ấ y, cả nh rộ n ràng tiếng dao thướ c may áo rét,
tiếng chày đậ p áo dồ n dậ p càng cho thấ y rõ hơn nỗ i niềm củ a kẻ xa quê phả i tha
hương nơi đấ t khách quê ngườ i. Nhưng bên cạ nh đó hình ả nh ấ y còn cho thấ y nỗ i lo
lắ ng vì đấ t nướ c vẫ n chưa đượ c yên bình.
Vớ i ngôn từ hàm súc, cô đọ ng, bút pháp tả cả nh ngụ tình đặ c sắ c, Đỗ Phủ đã tái
hiện bứ c tranh thu xơ xác, tiêu điều, lạ nh lẽo. Đằ ng sau bứ c tranh ấ y còn gử i gắ m
tâm trạ ng bài thơ: nỗ i lo cho đấ t nướ c, nỗ i nhớ quê hương và nỗ i xót xa cho thân
phậ n củ a chính mình.