Professional Documents
Culture Documents
nghệ sĩ thiết tha vớ i đờ i, vớ i ngườ i. Có thể nó i rằ ng từ khi có con ngườ i thì đã có tình yêu và
con ngườ i cò n tồ n tạ i thì tình yêu cò n bấ t diệt. Lịch sử thơ ca nhâ n loạ i từ xưa đến nay đã có
biết bao bà i thơ tình nổ i tiếng khắ p Đô ng, Tây ca ngợ i tình yêu củ a con ngườ i và đã từ ng
là m xú c độ ng biết bao trá i tim củ a nhiều thế hệ. Ở Việt Nam chú ng ta, nhữ ng nă m thá ng
chố ng Mỹ cứ u nướ c, tuy phạ m vi thơ ca chủ yếu mở rộ ng về phía tình cả m lớ n như tình yêu
Tổ quố c, đấ t nướ c, nhâ n dâ n, cá ch mạ ng nhưng thơ ca vẫ n dà nh mộ t khoả ng nhấ t định cho
tình cả m riêng tư. Nhiều bà i thơ ca ngợ i tình yêu nam nữ ra đờ i trong thờ i kỳ này cò n mã i
là m xú c độ ng trá i tin bao thế hệ sau này. “Só ng” củ a Xuâ n Quỳnh – mộ t nhà thơ nữ tà i hoa –
là mộ t bà i thơ như thế. Qua đó , nhà thơ đã thể hiện niềm khá t khao củ a ngườ i phụ nữ muố n
yêu và đượ c yêu, đượ c số ng trong tình yêu hạ nh phú c thủ y chung, đượ c thể hiện rõ nhấ t
qua bố n khổ thơ đầ u:
Khi nhắ c đến tên tuổ i củ a Xuâ n Quỳnh, từ trong tiềm thứ c củ a mỗ i ngườ i yêu vă n chương
đều biết tiếng thơ bà là tiếng nó i nhâ n hậ u, thủ y chung, già u trự c cả m, tha thiết khá t vọ ng
hạ nh phú c đờ i thườ ng và Só ng là mộ t trong nhữ ng tá c phẩ m tiêu biểu cho phong cá ch vă n
chương đặ c trưng đó . Nă m 1967, nhâ n mộ t mộ t chuyến đi thự c tế ở biển Diêm Điền (Thá i
Bình), khi đứ ng trướ c biển khơi rộ ng lớ n, nhữ ng tâ m tư tình cả m củ a bà đượ c bộ c bạ ch qua
nhữ ng vầ n thơ và đó là cơ sở để Só ng ra đờ i. Bà i thơ đượ c in trong tậ p “Hoa dọ c chiến hà o”.
Bà i thơ có sự song hà nh hình tượ ng giữ a “só ng” và “em”: “Só ng” và “em” có lú c tá ch ra để soi
chiếu và o nhau, có lú c lạ i hò a hợ p thố ng nhấ t. Bở i thế, só ng có thể nó i là mộ t ẩ n dụ khô ng
hoà n toà n cho em, cho vẻ đẹp tâ m hồ n ngườ i phụ nữ trong tình yêu và trong cuộ c số ng.
Bằ ng cá i nhìn thơ và tâ m hồ n nhạy cả m, Xuâ n Quỳnh đã phá t hiện thấy ở hiện tượ ng só ng
củ a tự nhiên khô ng ít nhữ ng đặ c tính củ a ngườ i phụ nữ . Nghe tiếng só ng vỗ mà như nghe
đượ c tiếng lò ng củ a mình, củ a nhữ ng ngườ i con gá i đang yêu:
Ồn ào và lặng lẽ”
Trong hai câ u thơ đầ u tiên, tá c giả đã sử dụ ng nhữ ng hai cặ p tính từ trá i nghĩa nhằ m miêu
tả đượ c đặ c điểm củ a só ng biển: cặ p “dữ dộ i – dịu êm” và cặ p “ồ n à o – lặ ng lẽ”. Thô ng
thườ ng khi đứ ng giữ a nhữ ng cặ p tính từ trá i nghĩa ấy là quan hệ từ để biểu đạ t lên sự tương
phả n như “tuy – nhưng”, thế nhưng ở đây thì nhà thơ Xuâ n Quỳnh lạ i sử dụ ng quan hệ từ rấ t
đặ c biệt “và” vố n để biểu đạ t mố i quan hệ cộ ng hưở ng, cộ ng thêm và nố i tiếp. Như vậy
nhữ ng đặ c điểm tưở ng chừ ng như đố i lậ p lạ i có vẻ thố ng nhấ t vớ i nhau và sẽ luô n tồ n tạ i
trong mộ t chủ thể là só ng. Trong cá i dữ dộ i lạ i có nét dịu êm, trong cá i ồ n à o lạ i chứ a đự ng
sự lặ ng lẽ. Nhữ ng trạ ng thá i đố i lậ p ấy củ a só ng cũ ng chính là nhữ ng trạ ng thá i đố i lậ p xuấ t
hiện trong tâ m hồ n ngườ i phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâ m hồ n củ a ngườ i phụ nữ khô ng
hề bình lặ ng mà chứ a đầy nhữ ng biến độ ng: có khi thì sô i nổ i cuồ ng nhiệt, cũ ng có lú c lạ i e
lệ, kín đá o, có lú c đằ m thắ m nhưng có lú c lạ i hờ n ghen.
Tá c giả tiếp tụ c sử dụ ng thêm biện phá p nghệ thuậ t nhâ n hó a trong hai câ u thơ tiếp theo,
con só ng đượ c nhâ n hó a thô ng qua độ ng từ “tìm” trong hà nh trình đi từ sô ng ra đến biển:
Như vậy trong bố n câ u thơ đầ u tiên, nhà thơ đã giú p chú ng ta nhìn lạ i đượ c hai đặ c điểm tự
nhiên và vố n có củ a nhữ ng con só ng và cũ ng chính tá c giả đã phả i sử dụ ng thêm hai câ u thơ
để khẳ ng định lạ i sự hiển nhiên và vố n có ấy:
Ta tự hỏ i vì sao trong sá u câ u thơ đầ u tá c giả chỉ cho chú ng ta hai đặ c điểm tự nhiên, vố n có
củ a con só ng? Để giả i đá p cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câ u thơ:
Ở nhữ ng dò ng thơ trên nhà thơ muố n diễn tả nhữ ng đặ c điểm tự nhiên củ a con só ng chỉ để
đến đây nhằ m phá c họ a đến con só ng tâ m hồ n chứ khô ng chỉ là con só ng biển, só ng lò ng
nữ a. Só ng muô n đờ i khô ng thay đổ i thì tình yêu sẽ mã i mã i song hà nh cù ng vớ i con ngườ i
và khá t vọ ng tình yêu cũ ng sẽ là khá t vọ ng muô n đờ i mà thể hiện rõ nhấ t là tuổ i trẻ. Nhữ ng
từ “khá t vọ ng”, “bồ i hồ i” và hình ả nh “trong ngự c trẻ” đã diễn tả thậ t mã nh liệt mộ t trá i tim
vớ i nhữ ng nhịp đậ p dồ n dậ p vì khá t khao, mộ t tâ m hồ n đang rạ o rự c niềm đam mê tình yêu
củ a tuổ i trẻ. Ta thấy thậ t ra, con ngườ i có thể yêu ở bấ t kỳ độ tuổ i nà o, nhưng tuổ i trẻ là độ
tuổ i khá t khao tình yêu cháy bỏ ng nhấ t. Vớ i Xuâ n Quỳnh, cò n tuổ i trẻ là cò n khá t vọ ng củ a
tình yêu bồ i hồ i…
Vớ i nhữ ng giá trị đó , 4 khổ thơ đã gó p phầ n khô ng nhỏ là m nên thà nh cô ng củ a “Só ng” và
khẳ ng định hồ n thơ Xuâ n Quỳnh. Đọ c thơ bà , chú ng ta dườ ng như cũ ng cả m nhậ n đượ c
rung độ ng tình yêu và lắ ng nghe đượ c tiếng lò ng mình. Vì vậy, vượ t qua sự bà o mò n củ a thờ i
gian, thơ Xuâ n Quỳnh vẫ n có mộ t sứ c số ng mã nh liệt trong lò ng độ c giả .Viết về đề tà i tình
yêu, Xuâ n Quỳnh đã để lạ i cho vă n họ c Việt Nam nhiều thi phẩ m xuấ t sắ c.
Như vậy, qua hình tượ ng só ng, Xuâ n Quỳnh đã diễn tả nhữ ng trạ ng thá i, cung bậ c khá c nhau
củ a tâ m hồ n ngườ i phụ nữ trong tình yêu. Sự song hà nh hình tượ ng só ng và em đã khắ c họ a
vẻ đẹp vừ a dịu dà ng, tinh tế vừ a chủ độ ng, mã nh liệt, vừ a truyền thố ng vừ a hiện đạ i củ a
mộ t tình yêu châ n thà nh. Bề sâ u tâ m tình củ a nhâ n vậ t trữ tình kết hợ p vớ i hình thứ c thơ 5
chữ , việc sử dụ ng và “phá vỡ ” ẩ n dụ chính là yếu tố quyết định giá trị bà i thơ. Bở i thế, con
só ng ấy vừ a là biểu hiện hiện củ a tình yêu muô n đờ i vừ a là nhịp đậ p củ a tình tình yêu hiện
đạ i hô m nay.
“Vớ i Xuâ n Quỳnh, thơ là số ng, số ng là thơ. Cứ hết mình số ng, hồ n nhiên viết, trú t trọ n vẹn
cá i tô i củ a mình và o mộ t thi phẩ m, thi tứ , mỗ i thi ả nh, thi điều đó là cá ch thơ Xuâ n Quỳnh.
Khô ng mặ t nạ , khô ng son phấ n, khô ng vay mượ n, khô ng lên gâ n, Xuâ n Quỳnh đã gử i mình
và o thơ.” (Chu Vă n Sơn). Và Xuâ n Quỳnh đã số ng mã i bằ ng nhữ ng câ u thơ như thế.
Khổ thơ thứ nă m là khổ thơ có số lượ ng câ u thơ nhiều nhấ t trong “Só ng”. Sá u câ u thơ đứ ng
giữ a thi phẩ m như mộ t đợ t só ng lò ng cồ n lên cao nhấ t từ tâ m điểm củ a tá c phẩ m trong đó
bố n câ u thơ đầ u là nỗ i nhớ bờ â m ỉ, tha thiết củ a con só ng:
Tá c giả đã sử dụ ng điệp từ “con só ng” lặ p lạ i liên tiếp nhiều lầ n. Qua đó khô ng chỉ tạ o mộ t
giọ ng thơ sô i nổ i phù hợ p vớ i mạ ch cả m xú c mà cò n nhấ n mạ nh hình tượ ng con só ng đang
cuộ n chảy, trà o dâ ng trong nỗ i nhớ . Dướ i ngò i bú t tinh tế củ a nữ thi sĩ, nhữ ng con só ng ấy
trở nên có hồ n hơn, chấ t chứ a nhữ ng suy tư, tình cả m như mộ t con ngườ i thự c sự . Đó là nỗ i
nhớ da diết, nỗ i nhớ cồ n cà o về bến đỗ thâ n thương “bờ ”. Bằ ng biện phá p nhâ n hó a đặ c sắ c
vớ i độ ng từ “nhớ ”, ngườ i đọ c dườ ng như có thể cả m nhậ n đượ c mộ t nỗ i niềm đau đá u ẩ n
hiện trong hình hà i con só ng biển. Đặ c biệt hơn nữ a, Xuâ n Quỳnh cò n sử dụ ng cặ p từ đố i lậ p
già u sứ c gợ i “trên mặ t nướ c” - “dướ i lò ng sâ u”, “ngày” - “đêm” vừ a tạ o nên cấ u trú c song
hà nh, đố i xứ ng vừ a khiến cho ngô n ngữ thơ câ n xứ ng hà i hò a, nhạ c điệu thơ nhịp nhà ng
nhưng trên hết là để nhấ n mạ nh nỗ i “nhớ bờ ” khô n nguô i củ a só ng. Dù ở bấ t cứ nơi đâ u, dù
đang ngủ yên dướ i lò ng biển sâ u thẳ m hay vậ n độ ng trên đạ i dương bao la thì con só ng vẫ n
luô n “nhớ bờ ”, vẫ n luô n hướ ng về nơi phương xa, về nơi dừ ng châ n bình yên củ a mình. Nỗ i
nhớ ấy luô n thườ ng trự c trong hình tượ ng con só ng và nó dườ ng như bao trù m lấy cả
khô ng gian mênh mô ng củ a biển cả , kéo dà i miên man khô ng dứ t theo thờ i gian. Dù trong
ngày êm ả hay đêm vắ ng lặ ng, con só ng vẫ n thao thứ c “khô ng ngủ đượ c”. Nữ thi sĩ tiếp tụ c
sử dụ ng biện phá p nhâ n hó a đầy tinh tế, già u tính biểu cả m. Nỗ i “nhớ bờ ” ấy phả i cồ n cà o,
da diết như thế nà o mớ i có thể khiến con só ng “khô ng ngủ đượ c”? Khô ng cò n là thứ vô tri,
vô giá c nữ a mà con só ng ấy từ lâ u đã mang trong mình cả mộ t tâ m hồ n, mộ t tâ m hồ n biết
“nhớ ”, biết “khô ng ngủ đượ c” vì nỗ i tră n trở . Đọ c nhữ ng câ u thơ này, ngườ i ta khô ng chỉ cả m
nhậ n đượ c nhữ ng â m điệu sô i nổ i, mã nh liệt củ a só ng mà cò n hình dung đượ c nhữ ng con
só ng đang trà o dâ ng giữ a biển cả vớ i nỗ i nhớ bao trù m cả khô ng gian, kéo dà i theo thờ i
gian.
Từ nỗ i nhớ củ a só ng, Xuâ n Quỳnh đã bày tỏ nỗ i nhớ củ a “em” mộ t cá ch đầy tự tin, trự c tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nếu ngườ i phụ nữ trướ c khi chỉ dá m bày tỏ nỗ i nhớ mộ t cá ch giá n tiếp thì ngườ i phụ nữ
trong thơ Xuâ n Quỳnh đã phá vỡ rà o cả n mà chủ độ ng, trự c tiếp khẳ ng định tình yêu củ a
mình. Ở đây Xuâ n Quỳnh đã dù ng từ “lò ng” thậ t chính xá c để diễn tả tình cả m củ a ngườ i phụ
nữ vớ i tình yêu. Lò ng là chố n sâ u kín nhấ t củ a tâ m hồ n, lò ng là kết tinh củ a tình cả m đượ c
chưng cấ t trong mộ t thờ i gian dà i qua biết bao thử thá ch. Vì vậy mà tấ m lò ng ấy khô ng chú t
hờ i hợ t mà là gan, là ruộ t củ a ngườ i phụ nữ . “Lò ng em nhớ đến anh” là câ u nó i khẳ ng định
giả n dị, châ n thà nh mà nồ ng nà n, da diết và đầy tá o bạ o. Điều này chứ ng tỏ nỗ i nhớ và tình
yêu củ a ngườ i phụ nữ phả i rấ t cháy bỏ ng, tha thiết và mã nh liệt mớ i có thể có đủ can đả m
để khẳ ng định đượ c tấ m lò ng củ a mình mộ t cá ch chủ độ ng như vậy. Đây cũ ng chính là vẻ
đẹp củ a tình yêu tự do, hiện đạ i. Để rồ i nỗ i nhớ ấy khô ng chỉ cò n là ở cả m xú c hay ý thứ c mà
nó đã trở thà nh nỗ i nhớ củ a tiềm thứ c: “Cả trong mơ cò n thứ c”. Nếu chỉ hiểu theo nhậ n thứ c
củ a lí trí thô ng thườ ng thì khi mơ là đang ngủ mà trạ ng thá i ngủ là hoà n toà n đố i lậ p vớ i
trạ ng thá i thứ c. Cho nên “cả trong mơ cò n thứ c” là điều rấ t vô lý, trá i vớ i nhậ n thứ c thô ng
thườ ng. Tuy vậy nhưng câ u thơ vẫ n đượ c ngợ i ca và đó n nhậ n. Tạ i sao lạ i như vậy? Có lẽ là
bở i nó đượ c lý giả i bở i quy luậ t củ a tình yêu. Trong tình yêu, mọ i thứ vô lý đều có thể trở
thà nh hợ p lý và ở đây cũ ng vậy. Có lẽ chỉ ngườ i đã và đang số ng trong nỗ i nhớ củ a tình yêu
mớ i có thể cả m nhậ n trọ n vẹn nhữ ng cung bậ c cả m xú c ấy. Có thể nó i, Xuâ n Quỳnh đã đem
đến cho ngườ i đọ c nhữ ng cả m nhậ n sâ u sắ c mà mớ i mẻ về tình yêu trong tâ m hồ n ngườ i
phụ nữ . Đây cũ ng là trạ ng thá i tình cả m tiêu biểu cho nhữ ng ai đã , đang và sẽ yêu. Và đằ ng
sau nỗ i nhớ “anh” tha thiết ấy là mộ t lờ i khẳ ng định đầy mạ nh mẽ cho mộ t tình yêu sâ u sắ c
và cao đẹp.
Trướ c hết ở hai câ u thơ đầ u, chú ng ta thấy cá ch diễn đạ t củ a Xuâ n Quỳnh thậ t thú vị:
Trong cá ch nó i quen thuộ c củ a ngườ i Việt Nam, ngườ i ta thườ ng chỉ nó i “xuô i Nam ngượ c
Bắ c”. Thế nhưng Xuâ n Quỳnh lạ i viết “xuô i Bắ c ngượ c Nam”. Tạ i sao tá c giả khô ng viết theo
quy luậ t thô ng thườ ng mà bấ t ngờ đả o ngượ c như vậy? Lú c ấy, phương Nam là tiền tuyến,
miền Bắ c là hậ u phương mà ta thườ ng nó i xuô i về tiến tuyến, ngượ c về hậ u phương. Điều
này khẳ ng định rõ hơn nhữ ng gian nan, tấ t tả , ngượ c xuô i cá ch trở éo le mà “em” phả i đố i
diện. Phả i chă ng, nhà thơ cò n muố n khẳ ng định cho dù vạ n vậ t luô n đổ i thay, cuộ c đờ i luô n
điên đả o, lò ng ngườ i dễ thay đen đổ i trắ ng, dễ biến ngượ c thà nh xuô i, thì ngườ i phụ nữ vẫ n
luô n thủ y chung son sắ t trong tình yêu. Nhà thơ cò n sử dụ ng nghệ thuậ t điệp cấ u trú c
“dẫ u…” nhằ m khẳ ng định sự mạ nh mẽ, tá o bạ o và châ n thà nh củ a ngườ i phụ nữ khi yêu. Dù
có phả i trả i qua tấ t cả nhữ ng thay đổ i thă ng trầ m, ngườ i phụ nữ vẫ n luô n thủ y chung vớ i
tình yêu và hạ nh phú c vớ i sự lự a chọ n củ a mình. Dườ ng như Xuâ n Quỳnh muố n phủ nhậ n
tấ t cả nhữ ng khó khă n, trá i ngang để yêu – mộ t tình yêu đích thự c mà ngườ i phụ nữ khao
khá t có đượ c.
Lờ i thơ đọ c lên thấy tiếng lò ng da diết củ a ngườ i phụ nữ khi yêu. Ta khô ng nghe thấy tiếng
lò ng củ a só ng chỉ nghe thấy tiếng lò ng củ a em. Xuâ n Quỳnh đã khẳ ng định mộ t cá ch châ n
thà nh, mạ nh mẽ: Dù ra Bắ c hay và o Nam, dù đi ngượ c hay về xuô i, dù lên rừ ng hay xuố ng
biển, dù ở bấ t cứ nơi đâ u, dù có đi tớ i châ n trờ i gó c bể, dù em có phả i cá ch xa đến chừ ng nà o
thì em vẫ n luô n nghĩ về anh, luô n hướ ng về anh. Và dù trờ i đấ t vũ trụ có bố n phương, tá m
hướ ng thì trá i tim em chỉ có mộ t phương duy nhấ t - phương anh. Dấ u “-” đặ t giữ a câ u thơ,
tá ch hai chữ “mộ t phương” riêng thà nh mộ t vế. Chính điều đó đã tạ o nên điểm nhấ n, sâ u
lắ ng, nồ ng nà n củ a xú c cả m thơ. Xuâ n Quỳnh quả thự c đã rấ t tự tin và châ n thà nh bày tỏ
tình cả m thủ y chung củ a mình trướ c anh. Đó là sự tự tin củ a ngườ i phụ nữ bả n lĩnh dá m yêu
và cũ ng dá m đi đến tậ n cù ng để đạ t tình yêu củ a cuộ c đờ i.
Tấ m lò ng thủ y chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắ n liền vớ i truyền thố ng củ a ngườ i phụ nữ
Việt Nam. Đồ ng thờ i đây cũ ng là phẩ m chấ t quan trọ ng củ a tình yêu đích thự c, củ a hạ nh
phú c đờ i thườ ng. Ca ngợ i về tấ m lò ng thủ y chung củ a ngườ i phụ nữ trong tình yêu đã khẳ ng
định giá trị nhâ n vă n cao đẹp trong thơ Xuâ n Quỳnh.
Để có đượ c tình yêu vừ a sô i nổ i thiết tha, mã nh liệt vừ a trong sá ng thủ y chung thì con só ng
phả i vượ t qua đạ i dương mênh mô ng để đến vớ i “bờ anh”.
Ngườ i phụ nữ đang yêu tin và o tình yêu sẽ đến bến bờ hạ nh phú c dù trả i qua bao khó khă n
thử thá ch. Đú ng vậy! Mộ t tình yêu châ n chính, đích thự c, mộ t niềm tin mã nh liệt và o tình
yêu sẽ giú p họ vượ t qua bao só ng gió cuộ c đờ i cậ p đến bến bờ tương lai củ a hạ nh phú c. Hãy
nhìn và o hiện thự c như trở thà nh quy luậ t, dù gió có ở thậ t xa nơi bã i bờ thì nó cũ ng sẽ tìm
đến nhữ ng bã i cá t dà i dù trả i qua thậ t nhiều khó khă n. Tình yêu củ a em dù gặ p biết bao trở
ngạ i em vẫ n vượ t qua để đến bên anh, đến mộ t má i ấ m gia đình như Chế Lan Viên từ ng viết:
Ba khổ thơ vớ i nỗ i nhớ , sự tră n trở và tấ m lò ng chung thủ y son sắ t cù ng vớ i phép lặ p, nhâ n
hó a, ẩ n dụ , sử dụ ng cá ch nó i ngượ c vớ i nhữ ng hình ả nh đố i lậ p đã khẳ ng định niềm tin
mã nh liệt và o tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượ t qua mọ i thử thá ch. Tha thiết vớ i tình yêu, khao
khá t số ng mã i trườ ng tồ n vớ i tình yêu nhà thơ đã có chú t khắ c khoả i, lo â u về sự tan chảy
củ a thờ i gian, đờ i ngườ i cũ ng mong manh và hạ nh phú c củ a trá i tim yêu Xuâ n Quỳnh cũ ng
vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồ ng nà n luô n đồ ng hà nh vớ i nỗ i lo â u khắ c khoả i:
Đờ i ngườ i tră m nă m ngỡ dà i thă m thẳ m nhưng con tà u thờ i gian cứ vun vú t lao đi khô ng
chờ đợ i chú ng ta. Bằ ng sự chiêm nghiệm củ a mộ t trá i tim đầy nhạy cả m nhà thơ nhậ n ra vũ
trụ mã i vĩnh hằ ng - cuộ c đờ i con ngườ i thì hữ u hạ n
Lo lắ ng tình yêu đổ vỡ , phai nhạ t, khi đứ ng trướ c sự chảy trô i củ a thờ i gian. Nhưng ngườ i
phụ nữ ấy vẫ n luô n tin và o tương lai củ a tình yêu, và o ý nghĩa đích thự c củ a tình yêu
Ở đây tình yêu đượ c đặ t trong cả khô ng gian và thờ i gian. “Cuộ c đờ i” là khoả ng thờ i gian
hữ u hạ n củ a con ngườ i, cò n “nă m thá ng” là thờ i gian vô thuỷ, vô chung. “Biển” là khô ng gian
bao la, rộ ng lớ n nhưng vẫ n chứ a đự ng trong nó nhữ ng giớ i hạ n, “mây” là kẻ lã ng tử phiêu
du khắ p thế gian rộ ng lớ n. Đặ t trong chỉnh thể, khổ thơ nằ m giữ a khổ 7 – niềm tin và o sứ c
mạ nh tình yêu củ a cá i tô i trữ tình và khổ 9 khá t vọ ng về mộ t tình yêu bấ t tử thì khổ thơ này
đã diễn tả trá i tim củ a ngườ i phụ nữ luô n tin và o tình yêu. Chị tin rằ ng dẫ u cuộ c đờ i tuy dà i,
thì nă m thá ng vẫ n đi qua; biển kia dẫ u có rộ ng đến đâ u thì mây vẫ n cứ bay về xa. Như tình
yêu củ a em và anh cũ ng vậy, dù có bao cá ch trở , chô ng gai thì ở phía cuố i con đườ ng, chị tin
rằ ng đó là mộ t tình yêu hạ nh phú c. Có lẽ vì niềm tin này mà bà i thơ đã vượ t qua nhữ ng nă m
thá ng khố c liệt nhấ t để trở thà nh đoá hoa thơm ngá t hương giữ a gió Là o cá t trắ ng.
Tuy vậy, Xuâ n Quỳnh vẫ n là mộ t ngườ i phụ nữ rấ t đa sầ u đa cả m, chị đã từ ng trả i qua nhữ ng
đổ vỡ nên trá i tim chỉ chứ a đầy nhữ ng vết sẹo do tình yêu. Do đó mà nhữ ng câ u thơ củ a
nhữ ng phầ n nà o cũ ng thể hiện đượ c mộ t trá i tim đầy bấ t ổ n. Nhìn ở mộ t khía cạ nh khá c, ta
bắ t gặ p trong khổ thơ này là nhữ ng sự trá i ngượ c qua cá ch thể hiện “tuy”, “nhưng”, “dẫ u”,
“vẫ n” đã đem đến cho ngườ i đọ c cả m nhậ n đượ c mộ t trá i tim đa sầ u, đa cả m. Tuy có niềm
tin mã nh liệt và o tình yêu, nhưng chị vẫ n luô n lo sợ . Chị lo sợ rằ ng cuộ c đờ i dẫ u có rộ ng đến
đâ u thì nă m thá ng vẫ n có thể trô i qua, biển kia dẫ u có bao la thì mây cứ trô i đi về miền thơ
mộ ng thì liệu rằ ng tình yêu củ a đô i mình có bền lâ u. Liệu nhữ ng khó khă n, trắ c trở củ a cuộ c
đờ i có là m tình yêu đô i ta bị chia rẽ. Sự lo sợ này cũ ng đã từ ng đượ c Xuâ n Quỳnh bộ c bạ ch:
Tuy vậy, nhữ ng nét lo sợ , nhữ ng dự cả m bấ t ổ n này lạ i gó p phầ n thể hiện mộ t trá i tim mã nh
liệt. Bở i khi có yêu, ngườ i ta mớ i sợ mấ t, bở i khi yêu trá i tim mớ i lo sợ rằ ng “lờ i yêu mỏ ng
mả nh như mà u khó i” mớ i sợ rằ ng “tình anh có đổ i thay:. Khổ thơ đã diễn tả khá t vọ ng, niềm
tin và o mộ t tình yêu đầy mã nh liệt củ a nhâ n vậ t trữ tình, đồ ng thờ i vớ i đó là nhữ ng dự cả m
đầy bấ t ổ n trong tình yêu.
Bằ ng trá i tim củ a mộ t ngườ i phụ nữ hồ n hậ u, châ n thà nh, luô n khá t khao về mộ t tình yêu
châ n thà nh, bình dị đờ i thườ ng nên Xuâ n Quỳnh muố n giữ trọ n vẹn tình yêu củ a mình:
Ở đây, Xuâ n Quỳnh đã thể hiện mộ t cá i tô i luô n muố n vĩnh viến hoá , bấ t tử hoá tình yêu.
Tình yêu đố i vớ i chị như thế là chưa thỏ a, chị muố n “tan ra” để hò a mình và o “ tră m con
só ng nhỏ ” hò a mình và o tình yêu củ a nhâ n loạ i, củ a trờ i đấ t, củ a thiên nhiên vĩnh hằ ng. Bở i
vì chỉ có như vậy mớ i có thể chiến thắ ng đượ c thờ i gian, chiến thắ ng đượ c khô ng gian hữ u
hạ n củ a cuộ c đờ i. Chị muố n hoà tan tình yêu củ a bả n thâ n và o tình yêu cuộ c đờ i vĩnh hằ ng
vì chị biết rằ ng só ng cứ luô n như thế, luô n cồ n cà o mộ t nỗ i nhớ bờ khô n nguô i đến mứ c
“ngày đêm khô ng ngủ đượ c”. Chị muố n tình yêu củ a mình đượ c như thế, tồ n tạ i bấ t tử cù ng
thờ i gian, vẹn nguyên cù ng nă m thá ng. Ở đây Xuâ n QUỳnh cò n thể hiện mộ t cá i tô i khá t
khao yêu, khá t khao về mộ t tình yêu vẹn trò n bấ t tử . Nhưng cá i tô i ở đây khô ng hề có mộ t
chú t ích kỷ riêng mà luô n muố n tan ra hoà mình, dâ ng hiến trong khú c ca yêu mã nh liệt củ a
cuộ c đờ i.
Gấ p lạ i nhữ ng trang thơ đầy cả m xú c củ a Xuâ n Quỳnh, ngườ i đọ c có lẽ sẽ khó có thể quên
đượ c hình ả nh củ a mộ t cá i tô i trữ tình vớ i khá t khao yêu mã nh liệt dẫ u vẫ n ngậ p trà n tră n
trở bă n khoă n. Bằ ng tấ t cả nhữ ng gì mình có , Xuâ n Quỳnh đã có nó i hết qua bà i thơ Só ng.
Chắ c hẳ n, bà i thơ sẽ luô n là mộ t trong nhữ ng vầ n thơ tình hay nhấ t trên thi đà n Việt Nam.
Bà i thơ dù đượ c sá ng tá c từ khá lâ u nhưng chắ c chắ n sẽ luô n cò n mã i, số ng mã i vớ i bạ n đọ c
mọ i thờ i.