Professional Documents
Culture Documents
Bài 1: Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau: “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang
ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. … Mĩ nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi
trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Từ đó, nhận xét về giá trị
hiện thực hiện của đoạn trích.
Bài làm của HS Ngọc Bích 12A2 – Lê Văn Thiêm- Long Biên- Hà Nội
Trong truyện ngắ n “Tră ng sá ng”(1943) củ a nhà vă n Nam Cao ô ng đã từ ng viết:
“Nghệ thuậ t khô ng cầ n phả i là á nh tră ng lừ a dố i, nghệ thuậ t khô ng nên là á nh tră ng lừ a dố i,
nghệ thuậ t chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoá t ra từ nhữ ng kiếp số ng lầ m than”. Á nh tră ng
thơ mộ ng, huyền ả o nhưng cũ ng chỉ có thể để ngắ m nhìn, nó khô ng phả n á nh đượ c sự đau
khổ , bấ t cô ng củ a con ngườ i. Vậ y nên, cuộ c số ng là mộ t vườ n hoa đầ y mà u sắ c, như nhữ ng
con ong cầ n mẫ n đi tìm mậ t cho đờ i, mộ t nhà vă n châ n chính khô ng chỉ đem đến cho con
ngườ i mộ t bứ c tranh điêu khắ c nghệ thuậ t, mà qua đó cò n phả i gử i gắ m nhữ ng thô ng điệp
mang tính thiết thự c là m rung độ ng trá i tim củ a hà ng triệu ngườ i đọ c. Là mộ t nhà vă n củ a
ngườ i thườ ng, chuyện thườ ng củ a đờ i thườ ng, Tô Hoà i hiểu sâ u sắ c thế nà o là hiện thự c
cuộ c số ng, vậ y nên ô ng đã gử i gắ m trọ n vẹn nhấ t nhữ ng tình cả m củ a mình và o nhâ n vậ t Mị,
mộ t cô gá i đạ i diện cho vẻ đẹp và phẩ m chấ t con ngườ i Tâ y Bắ c qua tá c phẩ m “Vợ chồ ng A
Phủ ’. Đoạ n trích : “Sá ng hô m sau, Mị mớ i biết mình đang ngồ i trong nhà thố ng lí Pá Tra. Họ
nhố t Mị và o buồ ng. … Mĩ nghĩ rằ ng mình cứ chỉ ngồ i trong cá i lỗ vuô ng ấ y mà trô ng ra, đến
bao giờ chết thì thô i” chính là biểu hiện rõ nhấ t số phậ n củ a ngườ i dâ n miền nú i dướ i chế
độ phong kiến chú a đấ t. Qua đó , ta thấ y đượ c về giá trị hiện thự c củ a tá c phẩ m.
Tô Hoà i là nhà vă n đạ t kỉ luc về số lượ ng tá c phẩ m trong vă n hiện đạ i. Ô ng có vố n
hiểu biết phong phú , sâ u sắ c về phong tụ c, tậ p quá n củ a nhiều vù ng khá c nhau trên đấ t
nướ c ta. Ô ng cũ ng là nhà vă n luô n hấ p dẫ n ngườ i đọ c bở i lố i trầ n thuậ t hó m hỉnh, sinh
độ ng, vố n từ vự ng già u có . Nếu trướ c cá ch mạ ng thá ng Tá m, ô ng nổ i tiếng vớ i đồ ng thoạ i
“Dế mèn phiêu lưu kí”, nhữ ng nă m gầ n đâ y ô ng là m rú ng độ ng là ng vă n vớ i hồ i kí ‘Cá t bụ i
châ n ai”, thì trong cuộ c khá ng chiến chố ng Phá p ô ng đượ c biết đến nhiều vớ i tậ p “Truyện
Tâ y bắ c” trong đó linh hồ n củ a tậ p truyện là “Vợ chồ ng A Phủ ”.
Vợ chồ ng A Phủ là kết quả củ a chuyến đi cù ng bộ độ i và o giả i phó ng Tâ y Bắ c nă m
1952. Đâ y là chuyến đi thự c tế dà i 8 thá ng số ng vớ i đồ ng bà o cá c dâ n tộ c thiểu số từ khu du
lịch trên nú i cao đến nhữ ng bả n là ng mớ i giả i phó ng củ a nhà vă n. Chuyến đi nà y đã để lạ i ấ n
tượ ng sâ u sắ c và nhữ ng tình cả m tố t đẹp củ a nhà vă n vớ i con ngườ i miền Tâ y Bắ c. Truyện
ngắ n “Vợ chồ ng A Phủ ” đượ c sá ng tá c nă m 1952, in trong tậ p “Truyện Tâ y Bắ c”(1953) đượ c
tặ ng giả i Nhấ t- giả i thưở ng Hộ i vă n nghệ Việt Nam 1954-1955. Tá c phẩ m là kỉ niệm, là tấ m
lò ng củ a Tô Hoà i dà nh cho nhữ ng ngườ i Tâ y Bắ c. Qua câ u truyện về cuộ c đờ i củ a Mị và A
Phủ , Tô Hoà i thể hiện mộ t cá ch xú c độ ng nỗ i khổ củ a ngườ i dâ n miền nú i Tâ y Bắ c dướ i á ch
thố ng trị củ a bọ n chú a đấ t và thự c dâ n, đồ ng thờ i khẳ ng định vẻ đẹp, vù ng lên tự giả i phó ng
củ a họ .
Mị là mộ t ngườ i phụ nữ đạ i diện cho nhiều ngườ i phụ nữ khá c Hồ ng Ngà i, cũ ng như
ở cả vù ng nú i rừ ng Tâ y Bắ c. Dướ i ngò i bú t củ a Tô Hoà i, nhâ n vậ t Mị hiện lên là mộ t cô gá i
xinh đẹp “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, có tà i thổ i sá o “Mị uốn chiếc lá
trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” cò n là ngườ i con hiếu thả o “con phải làm nương trả
nợ thay bố, bố đừng bán con cho nhà giàu” . Nhưng Mị sinh ra là trong mộ t gia đình rấ t
nghèo đến mứ c “cha Mị lấy mẹ Mị phải vay tiền nhà thống lí Pá Tra, đến khi mẹ Mị mất, Mị đã
lớn lên mà vẫn chưa trả hết nợ, mỗi năm phải trả nợ lãi bàng một nương ngô”. Hình thứ c bó c
lộ t man rợ củ a bọ n chú a đấ t và mó n nợ nà y buộ c Mị phả i trở thà nh con dâ u gạ t nợ củ a nhà
thố ng lí Pá Tra “câ u nó i củ a thố ng lí Pá Tra dạ o trướ c: cho con gá i về nhà thố ng lí Pá Tra thì
đượ c trừ nợ . Chao ôi ! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt
bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi !”. Lú c mớ i về là m dâ u. Mị phả n khá ng
quyết luyệt “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” ,Mị đi từ cuộ c đờ i đẹp như
trong tranh xuố ng hố sâ u củ a địa ngụ c – nơi mà kẻ khá c số ng bằ ng â m thanh củ a tiếng than
và hít thở hơi mù i má u, mà mỗ i bướ c đi là mộ t nỗ i tủ i nhụ c đến tộ t cù ng. Khô ng chấ p nhậ n
cuộ c số ng như vậ y, cô tìm về cha già , tay cầ m nắ m lá ngó n. "Lá ngó n" xuấ t hiện lầ n đầ u tiên
như mộ t “lối thoát đen”. Đâ y là lố i thoá t cho nhữ ng ai muố n chấ m dứ t hiện tạ i nghiệt ngã
chứ khô ng phả i lố i thoá t cho ngườ i muố n sang trang mớ i. Và sự xuấ t hiện củ a "lá ngó n" lú c
nà y mang tầ m ý nghĩa tố cá o cao độ : Sự dã man củ a xã hộ i ép buộ c con ngườ i lương thiện đi
tìm cá i chết. Ta có thể nhìn thấ y sự kiên quyết và chú t gì đó vụ t sá ng trong lò ng Mị khi cô
tìm đến lá ngó n vớ i ý nghĩ đã tìm ra lố i thoá t, nhưng bố Mị lạ i nó i “Mày chết nhưng nợ tao
vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ
người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi !”. Vì thương cha, Mị phả i số ng để trả
mó n nợ truyền kiếp, trả bằ ng tuổ i trẻ, tình yêu và hạ nh phú c cả đờ i mình “Mị ném phịch
nắ m lá ngó n xuố ng đấ t....Mị chết thì bố Mị cò n khổ hơn bao nhiêu lầ n bâ y giờ nữ a. Mị đà nh
trở lạ i nhà thố ng lí”. Chính chữ hiếu là bả n lĩnh cao đẹp nơi ngườ i con gá i trẻ, Mị cũ ng giố ng
như Thú y Kiều:
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
....Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Cả Mị và Thú y Kiều đều là ngườ i con gá i tà i nă ng, sắ c diện và nhâ n phẩ m tuyệt vờ i, điều đó
kết cụ c chung vì chế độ xấ u xa mụ c rữ a, nhữ ng thiên hương vô phú c sinh nhầ m thờ i, nhữ ng
cá nh hoa trô i dạ t trong bã o dữ .
Dầ n thay thế cho phả n khá ng là chấ p nhậ n chịu đự ng “ở lâu trong cái khổ Mị quen
rồi” . Mị nghĩ đến chết nữ a bở i lá ngó n bâ y giờ phai mờ , nó tượ ng trưng cho sự ham số ng đã
nguộ i lạ nh, Mị cũ ng khô ng thể trố n chạ y vì mình đã trình ma nhà thố ng lí, cô trở về tiếp tụ c
số ng vớ i thâ n phậ n vừ a là m con dâ u, vừ a là m con ở khô ng cô ng đến suố t đờ i suố t kiếp cho
nhà thố ng lí, khô ng đượ c ngơi nghỉ. Lú c nà o cũ ng là “những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
trước mặt, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc
phiện; giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô,
lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời
thế...đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày ” .Mộ t cô gá i ấ y nhưng là m việc
khô ng ngơi nghỉ, ngà y đêm là m việc, bị vắ t kiệt sứ c lao độ ng là nỗ i cự c nhụ c mà Mị phả i
chịu đự ng.
Mị số ng như cá i má y, số ng như mộ t thự c thể khô ng ý thứ c về mình. Nhà vă n Tô Hoà i
đã nhiều lầ n so sá nh Mị vớ i con vậ t “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng
là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ
biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”. Đọ c nhữ ng dò ng vă n ấ y, ngườ i ta đã tưở ng đến độ con ngườ i
phả i bị á p bứ c, bị vắ t kiệt bị giam cầ m đến mứ c nà o mớ i có thể có nhữ ng suy nghĩ đớ n đau
đến nhườ ng nà y. Và cá i khổ nó đã là m biến dạ ng cả tâ m hồ n, ngoạ i hình Mị, đầ u ó c cô khô ng
nghĩ việc gì khá c ngoà i nhữ ng việc là m lụ ng, dù là m gì cũ ng cú i mặ t, buồ n rườ i rượ i, lạ i
ngà y cà ng chẳ ng nó i nă ng gì, dườ ng như Mị quên đi cả khả nă ng giao tiếp củ a mình. Điều đó
cho thấ y Mị đã buô ng xuô i, đầ u hà ng số phậ n, nhịp số ng củ a đờ i Mị ngà y cà ng chậ m lạ i. Mị
trở thà nh con ngườ i vô cả m, tê liệt về tinh thầ n chỉ cò n lạ i cá i bó ng, cá i xá c khô ng hồ n. Sự
số ng đố i vớ i Mị chỉ cò n tính chấ t tồ n tạ i, vô cù ng đá ng sợ , lớ n hơn cả cá i chết.
Khô ng chỉ thế, đờ i Mị nó khô ng chỉ khổ về thể xá c, mà nó cò n là cả nhữ ng đớ n đau về
mộ t tâ m hồ n trong hoà n cả nh tù đà y. Vớ i gam mà u xá m lạ nh, u tố i, Tô Hoà i đã cho ngườ i
đọ c cả m nhậ n đượ c khô ng gian số ng củ a Mị: “Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa. Căn buồng Mị nằm kín mít, chỉ có ô vuông bằng bàn tay trông ra chỉ
thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị cứ ngồi đấy mà trông ra ngoài, đến khi
nào chết thì thôi”. Hình ả nh đó già u sứ c gợ i, khiến ngườ i ta liên tưở ng đến nhà tù , mộ t thứ
ngụ c thấ t đang giam hã m đờ i Mị. Cá i ngộ t ngạ t, tù tú ng trong că n buồ ng Mị nằ m đối lập với
một thế giới bên ngoài lồng lộng của mây trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc,
nó đố i lậ p vớ i cá i già u có , tấ p nậ p củ a nhà thố ng Lí Pá Tra. Qua đó , nhà vă n đã tố cá o sâ u sắ c
chế độ cai trị đã đầ y đọ a con ngườ i, là m tê liệt quyền số ng, quyền khao khá t hạ nh phú c củ a
họ . Cũ ng giố ng như nhà vă n Nam Cao tố cá o Bá Kiến – hiện thâ n củ a chế độ phong kiến thố i
ná t đã tiếp tay cho nhà tù thự c dâ n biến Chí Phèo từ mộ t anh canh điền khỏ e mạ nh, hiền
là nh thà nh mộ t anh Chí lưu manh. Nếu hình ả nh că n buồ ng Mị nằ m là mộ t trong nhữ ng chi
tiết có sứ c á m ả nh ở truyện ngắ n Vợ chồ ng A Phủ nhấ t thì hình tượ ng tiếng sá o đêm tình
mù a xuâ n lạ i có sứ c quyến rũ lò ng ngườ i nhấ t.
Đoạ n vă n đã miêu tả số phậ n bấ t hạ nh củ a Mị trong sự đố i lậ p gay gắ t giữ a thờ i gian
và khô ng gian nghệ thuậ t. Dướ i cườ ng quyền bạ o lự c, thâ n phậ n củ a con ngườ i lao độ ng
thậ t đá ng thương.
Nét đặc sắc của đoạn trích khi tác giả đã phản ánh rất chân thật,sinh động hiện
thực về số phận của người lao động miền núi tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc. Khiến
cho đoạn văn có sức tố cáo đanh thép sự dã man của chế độ xưa đã vùi dập của đời
người dân lao động thấp cổ bé họng.
Nghệ thuậ t xâ y dự ng nhâ n vậ t Mị vớ i nhữ ng tính cá ch, tâ m lí phứ c tạ p… Nghệ thuậ t
trầ n thuậ t linh hoạ t: kể đan xen tả ; ngò i bú t miêu tả thiên nhiên, nhữ ng sinh hoạ t gắ n vớ i
phong tụ c, tậ p quá n rấ t châ n thậ t gó p phầ n giả i thích tính cá ch, tâ m hồ n nhâ n vậ t. Ngô n ngữ
già u chấ t thơ, già u tính tạ o hình, biểu cả m. Tá c phẩ m xứ ng đá ng là mộ t trong nhữ ng sá ng
tá c vă n xuô i tiêu biểu củ a vă n họ c thờ i kỳ khá ng chiến chố ng Phá p.
Nhà vă n Sê – khố p từ ng khẳ ng định: Nhà vă n châ n chính là phả i nhâ n đạ o từ trong
cố t tủ y. Quả đú ng như vậ y, vă n là ngườ i, cho nên con ngườ i như thế nà o thì vă n chương
cũ ng vậ y. Nhà vă n châ n chính phả i đứ ng trong lao khổ để đó n nhữ ng vang vọ ng cuộ c đờ i.
Chính vì thế, vă n họ c phả i hướ ng tớ i cuộ c số ng, phả i khơi gợ i đượ c nhữ ng tình cả m, nhâ n
vă n cao đẹp, đá nh thứ c đượ c lò ng trắ c ẩ n đang ngủ sâ u trong trá i tim mỗ i ngườ i đọ c. Từ
nhữ ng điều trên, ta có thể khẳ ng định nhà vă n Tô Hoà i đã hoà n thà nh sứ mệnh củ a mộ t nhà
vă n châ n chính khi tạ o ra nhữ ng trang viết chan chứ a giá trị nhâ n đạ o.
“Vợ chồ ng A Phủ ” tố cá o sâ u sắ c tộ i á c củ a bọ n phong kiến miền nú i Tâ y Bắ c đố i vớ i
cá c dâ n tộ c vù ng cao. Tá c phẩ m đã nó i lên mộ t cá ch đau xó t nỗ i thố ng khổ bao đờ i củ a cá c
dâ n tộ c anh em ở Tâ y Bắ c dướ i á ch đô hộ củ a thự c dâ n Phá p và bè lũ tay sai là quan lang,
quan châ u, phìa (Thá i), tạ o (Mườ ng), thố ng lí (H’Mô ng). Dướ i chế độ thố ng trị tà n bạ o man
rợ củ a bọ n thố ng lí, quan lang, là m con dâ u gạ t nợ cho nhà thố ng lí như Mị là nhữ ng “kiếp
trâ u ngự a”, khố n khổ , nhụ c nhã ê chề. Thậ t ra nhữ ng kiếp ngườ i như Mị, là nô lệ ở vù ng cao.
Bọ n thố ng lí là mộ t thứ “vua” ở vù ng cao, chú ng có quyền sinh quyền sá t đố i vớ i ngườ i dâ n
Tâ y Bắ c.
Qua đoạ n vă n trên, nhà vă n đã khắ c họ a châ n thự c nhữ ng nét riêng biệt về phong tụ c
tậ p quá n, tính cá ch và tâ m hồ n ngườ i dâ n cá c dâ n tộ c thiểu số bằ ng mộ t giọ ng vă n nhẹ
nhà ng, tinh tế, đượ m mà u sắ c và phong vị dâ n tộ c, vừ a già u tính tạ o hình vừ a già u chấ t thơ.
Từ đó , Tô Hoà i là m nổ i bậ t lên số phậ n nhâ n vậ t Mị cũ ng là đạ i diện cho đồ ng bà o miền nú i
dướ i á p bứ c củ a bọ n thự c dâ n và chú a đấ t, đã đượ c Tô Hoài nghiên cứu và ghi chép thật tỉ
mỉ thể hiện tấm lòng gắn bó và yêu thương sâu sắc của ông đối với mảnh đất miền cao
này. Tây Bắc đã trở thành một phần tâm hồn của Tô Hoài, giống như Chế Lan Viên
từng viết:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”.
Bài 2: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau : “Những
đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn , nếu không có bếp lửa sưởi kia ….. và hai
người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”
Bài làm của HS Hồng Nhung 12A6 – Lê Văn Thiêm- Long Biên- Hà Nội
Đặ c sắ c nhấ t củ a vă n họ c là quan tâ m tớ i cá thể, cá tính, cá nhâ n, quan tâ m đến
tính cá ch và số phậ n con ngườ i. Chỉ có vă n họ c quan tâ m đến số phậ n con ngườ i giữ a biển
đờ i mênh mô ng, Ai-ma-tốp đã từng nói: “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc
ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát khao khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Và có lẽ
Tô Hoà i là mộ t trong số nhữ ng nhà vă n đã hoà n thà nh sứ mệnh ấ y mộ t cá ch xuấ t sắ c nhấ t
khi sá ng tá c tậ p “Truyện Tâ y Bắ c” trong đó linh hồ n củ a nó là tá c phẩ m “Vợ Chồ ng A
Phủ ” .Vớ i vố n kiến thứ c phong phú về phong tụ c củ a tấ t cả cá c vù ng miền trên khắ p đấ t
nướ c thì Tâ y Bắ c khô ng phả i là mộ t ngoạ i lệ, Tô Hoà i đã vẽ lên mộ t bứ c tranh sâ u sắ c nhấ t
về hiện thự c cuộ c số ng ngườ i dâ n miền nú i vớ i hai mả ng sá ng-tố i mà đứ ng đầ u hai phe cự c
ấ y chính là bọ n phong kiến miền nú i, chú a đấ t vớ i nhữ ng ngườ i lao độ ng nghèo khổ như Mị
và A Phủ . Chắ c hẳ n ngườ i đọ c vẫ n cò n nhớ nhâ n vậ t Mị trong đêm mù a đô ng định mệnh củ a
cuộ c đờ i vớ i nhữ ng diễn biến tâ m lí vừ a phứ c tạ p vừ a bấ t ngờ mà vừ a rấ t châ n thự c qua
đoạ n trích sau: “Những đêm mùa đông trên núi cao ……. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao
chạy xuống dốc núi.” Từ đó , ta thấ y đượ c sứ c số ng mã nh liệt củ a con ngườ i trong đấ u tranh
tìm đến tự do, hạ nh phú c.
Tô Hoà i là mộ t nhà vă n xuấ t sắ c củ a vă n xuô i Việt Nam hiện đạ i. Ô ng sá ng tá c
theo xu hướ ng hiện thự c, thiên về phả n á nh nhữ ng sự thậ t củ a cuộ c số ng đờ i thườ ng trong
nhữ ng trang viết bình dị, tinh tế đầ y chấ t thơ. Sau hơn nử a thế kỷ lao độ ng nghệ thuậ t, ô ng
đã có gầ n 200 đầ u sá ch thuộ c nhiều thể loạ i khá c nhau: Dế Mèn phiêu lưu kí ( truyện,
1941); O Truyện ( tậ p truyện, 1942)… Hấ p dẫ n ngườ i đọ c bở i lố i trầ n thuậ t hó m hỉnh, sinh
độ ng củ a ngườ i từ ng trả i, vố n từ vự ng già u có , nhiều khi rấ t bình dâ n và thô ng tụ c, nhưng
nhờ cá ch sử dụ ng đắ c địa và tà i ba nên có sứ c lô i cuố n, lay độ ng ngườ i đọ c.
Truyện ngắ n “Vợ Chồ ng A Phủ ” đượ c sá ng tá c và o nă m 1952, in trong tậ p
Truyện Tâ y Bắ c (1953). Tá c phẩ m chính là kỉ niệm là tấ m lò ng củ a Tô Hoà i dà nh tặ ng cho
nhữ ng ngườ i dâ n Tâ y Bắ c, và nó cũ ng chính là kết quả củ a chuyến đi cũ ng bộ độ i và o giả i
phó ng Tâ y Bắ c nă m 1952. Đâ y là chuyến đi thự c tế kéo dà i 8 thá ng số ng vớ i đồ ng bà o cá c
dâ n tộ c thiểu số từ khu du kích trên nú i cao đến nhữ ng bả n là ng mớ i giả i phó ng củ a nhà
vă n. Chuyến đi dà i nà y đã để lạ i nhiều ấ n tượ ng sâ u sắ c vớ i nhữ ng tình cả m tố t đẹp củ a nhà
vă n vớ i con ngườ i miền Tâ y Bắ c. Tô Hoà i tâ m sự : “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của
chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và con người Miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá.
Tôi không bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dung cảm lúc nào cũng có trong
tâm trí tôi. Vì thế, tôi viết Truyện Tây Bắc”. Qua câ u chuyện về cuộ c đờ i củ a Mị và A Phủ , nhà
vă n Tô Hoà i đã khẳ ng định: Ngườ i dâ n miền nú i dù có bị tướ c đoạ t quyền số ng, quyền là m
ngườ i, bị vù i sâ u dướ i đá y Xã Hộ i nhưng trong lò ng họ vẫ n â m ỉ ngọ n lử a củ a lò ng ham số ng
yêu đờ i, khao khá t tự do hạ nh phú c chỉ chờ cơ hộ i là bù ng chá y lên mạ nh mẽ; đồ ng thờ i tá c
phẩ m cũ ng thể hiện lò ng cả m thô ng và sự trâ n trọ ng nhữ ng khao khá t tự do và ý thứ c tự
giả i phó ng củ a họ .
Mị là mộ t cô gá i xinh đẹp, yêu đờ i, có khá t vọ ng tự do, hạ nh phú c nhưng bị bắ t
về là m con dâ u gạ t nợ cho nhà thố ng lí Pá Tra. Lú c đầ u suố t mấ y đêm thá ng rò ng, lú c nà o
Mị cũ ng khó c, Mị định ă n lá ngọ n tự tử nhưng vì thương cha nên Mị khô ng thể chết. Đà nh
phả i số ng mộ t cuộ c số ng tủ i cự c trong nhà thố ng lí; là m việc quầ n quầ n hơn trâ u ngự a và
lú c nà o cũ ng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mù a xuâ n đến, khi nghe tiếng sá o gọ i
bạ n tình tha thiết Mị lạ i nhớ mình hồ i cò n trẻ, Mị muố n đi chơi nhưng lạ i bị A Sử chồ ng củ a
Mị tró i đứ ng và o cộ t nhà . A Phủ mộ t chà ng trai nghèo mồ cô i, khỏ e mạ nh, lao độ ng giỏ i. Vì
đá nh A Sử nên bị bắ t bị đá nh đậ p, phạ t vạ rồ i trở thà nh mộ t đầ y tớ khô ng cô ng cho nhà
Thố ng Lí. Mộ t lầ n do để hổ vồ mấ t con bò , A Phủ đã bị đá nh tró i đứ ng và o cộ t điện đến gầ n
chết. Để mà từ đâ y, ta thấ y đượ c ướ c mơ khá t vọ ng số ng, khá t vọ ng tự do củ a họ .
Sau đêm tình mù a xuâ n đi qua, thì Mị lạ i trở về vớ i kiếp số ng lù i lũ i, chai sạ n,
vô cả m bă ng giá , mọ i chuyện xả y ra xung quanh Mị khô ng hề hay khô ng hề biết. Sự vô cả m
vớ i nỗ i đau củ a cả ngườ i khá c và chính mình đượ c thể hiện trong nhữ ng chi tiết miêu tả
thá i độ , tâ m tư củ a Mị khi hằ ng đêm ra sưở i lử a, hơ tay ở bếp lử a gầ n nơi A Phủ bị nhà
thố ng lí tró i bắ t đứ ng ở câ y cọ c ngoà i trờ i. Có tớ i mấ y đêm, Mị thờ ơ, khô ng đoá i hoà i đến
cả nh mộ t ngườ i con trai đang tró i, bị đó i và rét đang chờ chết ngà y bên cạ nh mình. Mị cũ ng
ý thứ c đượ c sự thả n nhiên củ a mình khi “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” bên cạ nh mộ t ngườ i
sắ p chết, thậ m chí cô cò n nghĩ rằ ng “Nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế
thôi”. Thậ t ra thì cô khô ng chỉ thờ ơ vớ i nỗ i khổ củ a A Phủ . Bả n thâ n mình bị A Sử đá nh ngã
xuống cửa bếp, cô cò n dử ng dưng , khô ng thấ y bấ t bình, chẳ ng hề sợ hã i, đêm sau, Mị vẫn ra
ngồi sưởi như đêm trước. Đắ ng cay thay cho Mị lò ng nhâ n á i lò ng yêu thương con ngườ i
vố n dĩ là mộ t phẩ m chấ t đã di truyền và o má u thịt củ a ngườ i phụ nữ , nhưng ở đâ y thì Mị
đã bị thầ n quyền và cườ ng quyền vù i lấ p mấ t rồ i, cho nên Mị chỉ biết chỉ cò n ở vớ i ngọ n
lử a. Nhữ ng bếp lử a lớ n bao giờ cũ ng gắ n vớ i sinh hoạ t cộ ng đồ ng và nó biểu thị cho sự hâ n
hoan, cho niềm vui sướ ng. Cò n nhữ ng ngọ n lử a nhỏ bé, le ló i thườ ng biểu tượ ng cho cá i
kiếp số ng lụ i tà n. Và nếu chú ng ta đọ c Hai Đứa Trẻ củ a Thạ ch Lam , chắ c chắ n ta sẽ hiểu rõ
đượ c hình ả nh củ a ngọ n đèn con chị Tí cứ thế leo lét trong cá i bó ng tố i bủ a vâ y ô m lấ y phố
huyện. Và ở đâ y, chú ng ta lạ i bắ t gặ p mộ t ngọ n lử a trên rẻo cao trong đêm mù a đô ng, ở đâ y
lử a thì cô độ c mà Mị thì cô đơn đến héo hắ t, cứ thế ngườ i và lử a soi và o nhau cô đọ c cô
đơn trong nhữ ng ngà y dằ ng dặ c củ a bă ng giá , hình ả nh Mị vì thế hiện lên cà ng trở nên đau
khổ và cam chịu. Tấ t cả đã nó i lên tình trạ ng số ng câ m lặ ng, chai sạ n, giá bă ng là dấ u ấ n củ a
sự tê liệt tinh thầ n ở Mị.
Như nhà vă n Nguyễn Minh Châ u đã từ ng quan niệm: “Văn học và đời sống là hai
vòng trong đồng tâm mà tâm điểm là con người” Và sứ mệnh nhà vă n tồ n tạ i ở trên đờ i có
lẽ trướ c hết là để là m cô ng việc giố ng như kẻ nâ ng giấ c cho nhữ ng ngườ i cũ ng đườ ng tuyệt
lộ bị cá i á c hoặ c số phậ n đen đủ i dồ n đến châ n tườ ng. Xét trên bình diện nhâ n vă n ấ y thì
đích đến cuố i cũ ng củ a nghệ thuậ t là để cứ u vớ t con ngườ i. Có lẽ chính vì vậ y, mà ngay
trong lú c tưở ng như A Phủ sắ p phả i trở thà nh hồ n ma và tình trạ ng củ a Mị tưở ng chừ ng
chỉ là sự hiện diện củ a con ngườ i vô tri, thì Tô Hoà i đã phả và o đấ y tấ m lò ng sự trâ n trọ ng
củ a ô ng đố i vớ i con ngườ i bở i khô ng có gì cao quý bằ ng hai chữ “con người”. Giọ t nướ c
mắ t củ a A Phủ đú ng là mộ t chi tiết nâ ng tầ m Tô Hoà i. Theo nhà giá o Đỗ Kim Hồ i thì chỗ
đá ng nể củ a Tô Hoà i chính là ở đấ y: “Nhà văn luôn biết tìm ra cái quyết định tất cả từ cái
dường như không là cái gì hết cả”. Quả đú ng là như vậ y, dò ng nướ c mắ t củ a A Phủ đã đá nh
thứ c và là m hồ i sinh lò ng thương ngườ i trong Mị bở i chính nhờ ngọ n lử a đêm ấ y Mị lé mắ t
trô ng sang và nhìn thấ y “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” lạ i củ a
A Phủ . Mộ t ngườ i con trai khỏ e mạ nh, cườ ng trá ng bâ y giờ hố c há c thê thả m vớ i hai hõm
má đã xám đen khi bị tró i đứ ng chết; mộ t ngườ i con trai ngang tà ng mạ nh mẽ bâ y giờ lạ i
phả i lặ ng lẽ khó c, dò ng nướ c mắ t khô ng thể kiềm chế vì quá cay đắ ng, khô ng thể che giấ u
vì khô ng tự lau đi đượ c, nướ c mắ t củ a sự đau đớ n vì cá i chết đang gặ m nhấ m A Phủ từ từ ,
“chết đau, chết đói, chết rét”. Giọ t nướ c mắ t ấ y khô ng chỉ chả y xuố ng gò má đã xá m đen củ a
A Phủ mà dòng nước mắt ấy còn chảy cả vào trải tim của Mị. Trá i tim ấ y vố n dĩ đã bị
đó ng bă ng trong sự vô cả m , chai sạ n nay đượ c dò ng nướ c mắ t củ a A Phủ làm cho tan vỡ
cái giá băng, cái lạnh lùng. Giọt nước mắt ấy đã thấm sâu vào đáy trải tim Mị thức
dậy lòng nhân ái. Cho nên giọt nước mắt lấp lánh ấy chính là giọt nước mắt cuối
cũng của A Phủ, nó cũng chính là giọt nước mắt làm tràn ly và đưa Mị về cõi quên,
trở về cõi nhớ, và trải tim Mị quặn đau khi trông người lại ngẫm đến mình. Mị nhớ
cá i kí ứ c hã i hù ng củ a Mị và o đêm tình mù a xuâ n nă m trướ c, cũ ng bị A Sử tró i đứ ng thế kia
“tóc Mị xõa xuống hẵn cuốn luôn tóc lên cột”, “nhiều lần khóc nước mắt, nước mắt chảy
xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Đâ y chính là lú c mà Mị đã hồ i sinh đượ c
hoà n toà n, đượ c đá nh thứ c khô ng chỉ ở cả m xú c mà cò n đượ c đá nh thứ c bở i lí trí, cả m
nhậ n cá i nỗ i đau củ a độ ng loạ i bằ ng chính nỗ i đau củ a mình. Hình dung ra cá i chết củ a
mình nếu tiếp tụ c bị tró i như thế; nhớ tớ i cá i chết củ a ngườ i đà n bà ngà y trướ c ở nhà
thố ng lí; nghĩ đến cá i chết củ a A Phủ sắ p tớ i – Mị bấ t chợ t nhậ n ra tấ t cả nhữ ng cá i chết ấ y
đều có nguyên nhâ n từ sự tà n bạ o củ a cha con thố ng lí Pá Tra, lò ng thương thâ n thứ c dậ y
tình ngườ i, lò ng nhâ n hậ u dẫ n đến sự că m hờ n, phẫ n uấ t: Chúng nó thật độc ác! Vớ i bả n
thâ n mình, Mị có vẻ như đã cam chịu: “Ta là thân đàn bà , nó đã bắt ta về trình ma nhà nó
rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây”, nhưng trong lò ng Mị lạ i phả ng phấ t nghĩ về sự
vô lí trong cá i chết củ a A Phủ : người kia việc gì phải chết thế. Sau bao nhiều nă m thá ng
số ng trong sự thờ ơ, vô cả m thì chắ c hẳ n đâ y là ý nghĩ đầ u tiên Mị dà nh cho ngườ i khá c.
Xú c cả m củ a trá i tim nhâ n hậ u vị tha tiếp tụ c đậ m nét hơn khi Mị nhậ n ra tình cả nh củ a A
Phủ : chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết rét, phải chết… Nhưng từ “chết” xuấ t hiện
liên tiếp tớ i 9 lầ n trong tâ m chí Mị cũ ng là mộ t biểu hiện rõ nhấ t củ a niềm ham số ng mộ t
lầ n nữ a đã trở lạ i vớ i Mị. Nghĩ tớ i việc nếu A Phủ trố n thoá t, Mị phả i chết thay, Mị cũ ng
khô ng thấ y sợ . Như vậ y, nguyên nhâ n khiến Mị cở i tró i cho A Phủ khô ng phả i vì sợ liên lụ y
mà là do sự thứ c đẩ y củ a cả m giá c bấ t bình, phẫ n uấ t, thương ngườ i, sự đồ ng cả m vớ i
ngườ i cũ ng cả nh ngộ . Dẫ u vậ y, khi rú t dao cắ t dâ y cở i tró i cho A Phủ , Mị vẫ n như đang là m
theo sự má ch bả o củ a tiềm thứ c mơ hồ tồ n tạ i trong mộ t tấ m lò ng nhâ n hậ u chưa hoà n
toà n bị phá hủ y, vì thế nên khi gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hoảng hốt, có
lẽ lú c ấ y, lí trí củ a Mị mớ i chợ t nhậ n ra tiền thứ c đã xui khiến cô là m mộ t việc thậ t ghê
gớ m!
Giả i thoá t cho A Phủ , Mị cũ ng đồ ng thờ i thoá t ra khỏ i trạ ng thá i vô cả m, lặ ng lẽ,
trả i tim nhâ n hậ u hồ i sinh thì đồ ng thờ i khá t vọ ng số ng cũ ng hồ i sinh. Có lẽ, sau giâ y phú t
đứ ng lặng trong bóng tối, nhìn A Phủ lao vụ t đi, hình ả nh mộ t con ngườ i trên bờ vự c củ a
cá i chết đang mạ nh mẽ thoá t ra khỏ i chố n địa ngụ c trầ n gian, tìm cho mình sự số ng khiến
Mị độ t ngộ t hiểu điều mình cầ n là m ngà y bâ y giờ , ngay lậ p tứ c, đó là tự giả i thoá t mình
khỏ i á ch thô ng trị, đà y ả i, tró i buộ c tà n bạ o củ a cườ ng quyền và thầ n quyền trong suố t thờ i
gian qua. Hà nh độ ng nà y Mị khô ng có kế hoạ ch khô ng tình sẵ n mà nó đến mộ t cá ch bấ t ngờ
và đượ c tiếp sứ c bở i hà nh độ ng củ a A Phủ khi quật sức vù ng lên chạ y. Chính hà nh độ ng
củ a A Phủ giố ng như mộ t ngọ n gió sứ c mạ nh để thổ i bù ng lên khá t vọ ng số ng củ a Mị, “Mị
vụt chạy ra trời tối lắm, nhưng Mị vẫn đuổi kịp A Phủ “chạy, đã lăn, chạy, chạy”. Ở đoạ n vă n
nà y tá c giả đã sử dụ ng mộ t loạ t cá c độ ng từ mạ nh để diễn tả cá i tố c độ rấ t nhanh củ a Mị, Mị
ra sứ c chạ y thoá t chạ y trố n khỏ i nhà thố ng lí Pá Tra nơi địa ngụ c trầ n gian để tìm thấ y tự
do. Đâ y chính là hà nh độ ng củ a niềm khao khá t số ng rấ t mã nh liệt, niềm khao khá t ấ y
đượ c thể hiện ra rấ t rõ qua lờ i nó i củ a Mị. Có thể nó i đâ y là mộ t hạ nh độ ng tấ t yếu củ a Mị,
tự giả i thoá t khỏ i nhữ ng gô ng xiềng và cườ ng quyền bạ o lự c, đó cũ ng là con đườ ng duy
nhấ t để tự cứ u ngườ i cứ u mình
Qua hà nh độ ng cở i tró i cứ u A Phủ và chạ y theo tiếng gọ i củ a tự do, nhà vă n
khẳ ng định: Khi sứ c số ng tiềm tang trong con ngườ i đượ c hồ i sinh thì nó là ngọ n lử a khô ng
thể dậ p tắ t đượ c. Nó tấ t yếu chuyển thà nh hạ nh độ ng phả n khá ng tá o bạ o, chố ng lạ i mọ i sự
chà đạ p, lă ng nhụ c để cứ u lấ y cuộ c đờ i mình. Đâ y cũ ng chính là nét mớ i trong giá trị nhâ n
đạ o sau nă m 1945-con ngườ i tự đấ u tranh vớ i hoà n cả nh để tự giả i phó ng mình. Vớ i việc
tạ o tình hình huố ng truyện độ c đá o, hấ p dẫ n, lô i cuố n, cá ch miêu tả diễn biến tâ m lí nhâ n
vậ t tà i tình hợ p lí cũ ng vớ i ngô n ngữ hình ả nh đậ m chấ t miền nú i già u chấ t thơ, Tô Hoà i đã
tạ o nên sự thay đổ i số phậ n nhâ n vậ t mộ t cá ch thuyết phụ c khiến độ c giả khô ng nà o quên
đượ c.
Nhà vă n Sê-khố p từ ng khẳ ng định: Nhà vă n châ n chính là phả i nhâ n đạ o từ
trong cố t tủ y. Quả đú ng như vậ y, vă n là ngườ i, cho nên con ngườ i như nà o thì vă n chương
cũ ng sẽ như vậ y. Cho nên nhà châ n chính phả i đứ ng trong lao khổ cuộ c đờ i để đó n nhữ ng
vang vọ ng cuộ c đờ i. Chính vì thế, vă n họ c phả i hướ ng tớ i cuộ c số ng, phả i khơi gợ i đượ c
nhữ ng tình cả m nhâ n vă n cao đẹp, đá nh thứ c đượ c lò ng trắ c ẩ n đang ngủ sâ u trong trả i tim
mỗ i ngườ i đọ c. Vă n chương phả i giú p ta ngườ i hơn. Từ nhữ ng điều trên, ta có thể khẳ ng
định nhà vă n Tô Hoà i đã hoà n thà nh sứ mệnh củ a mộ t nhà vă n châ n chính khi tạ o ra nhữ ng
trang viết chan chứ a giá trị nhâ n đạ o.
“Vợ Chồ ng A Phủ ” đã lên á n tố cá o cá c thế lự c tà n bạ o cướ p đoạ t quyền số ng
quyền là m ngườ i củ a ngườ i dâ n miền nú i Tâ y Bắ c. Cho ta thấ y rõ đượ c sự tủ i nhụ c củ a
nhâ n dâ n ta, và điển hình như nhâ n vậ t Mị, số ng là ngườ i nhưng bị đà y đọ a, bó c lộ t như
“kiếp trâ u ngự a”, khố n khổ , nhụ c nhã ê chề. Hiện thự c rõ về số phậ n ngườ i nô ng dâ n khi bị
bọ n thự c dâ n phong kiến đọ a đầ y.
Nhà phê bình vă n họ c Hoà i Châ n đã từ ng nó i: “Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng
yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người”. Tô Hoà i đã vượ t qua nhữ ng hạ n
chế củ a dò ng vă n họ c hiện thự c phê phá n cũ để hò a nhậ p và o cuộ c đờ i, số phậ n nhâ n vậ t
củ a mình để tạ o ra mộ t cá i nhìn và giọ ng điệu trầ n thuậ t. Cá i tâ m củ a Tô Hoà i dà nh cho
đứ a con đẻ tinh thầ n củ a mình chính là sự đồ ng cả m, trâ n trọ ng và khơi dậ y nhữ ng phẩ m
chấ t đẹp đẽ, nhữ ng giá trị châ n chính, nhữ ng khá t vọ ng số ng hạ nh phú c và tự do. Nử a thế
kỉ trô i qua, Vợ chồ ng A Phủ vẫ n đứ ng vữ ng trướ c thử thá ch củ a thờ i gian, tá c phẩ m chính là
sự mình chứ ng cho sứ c số ng bấ t diệt củ a nghệ thuậ t. Sau khi gấ p nhữ ng trang sá ch lạ i,
ngườ i đọ c sẽ nhớ đến câ u nó i bấ t hủ củ a Sê-đư-rin: “ Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài
những ngoài những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”
Bài 3: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau để thấy được sức
sống mãnh liệt của con người trong đấu tranh tìm đến tự do.
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. ..Và hai ngườ i lẳ ng lặ ng đỡ nhau lao
chạ y xuố ng dố c nú i.”
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng
đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em
trong nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.Chỉ chợp mắt được từng lúc Mị lại
thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn
lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết A
Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là
cái xác chết đứng ở đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn
lửa. Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm
sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng
sáng lên. Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh
bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A
Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng
thôi, nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt
ta về trình ma rồi, thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải
chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
thống lý sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây.
A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở
người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…” rồi Mị nghẹn
lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ
lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy
xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồ ng A Phủ )
Bài làm của HS Quỳnh Như 12A6 – Lê Văn Thiêm- Long Biên- Hà Nội
Mùa xuân này, Mị muốn xúng xính trong váy hoa
Không đi /làm sao biết ngoài kia một mai là sương hay nắng toả
Cơ hội này Mị sẽ nắm lấy, Mị chẳng cần một ai dắt tay/