You are on page 1of 161

PHÂN TÍCH TRỌN VẸN “TÂY TIẾN”-QUANG DŨNG.

BÀI LÀM

“Có những chàng trai trẻ

Nhựa sống ngập đường gân

Đã từng đi xa đi gần

Đem máu thề rửa hận

Muôn dặm chẳng chồn chân.”

Đề tà i ngườ i lính từ xưa đến nay luô n là mộ t đề tà i bấ t hủ trên diễn đà n thi ca Việt
Nam. Nhắ c đến đề tà i nà y ta khô ng thể khô ng nhắ c đến tậ p thơ “Mâ y đầ u ô ” củ a Quang
Dũ ng. Có mộ t nhà vă n từ ng nhậ n định “Nghệ thuậ t nằ m ngoà i định luậ t củ a sự bă ng
hoạ i, chỉ mình nó khô ng thừ a nhậ n cá i chết” và thi phẩ m “Tâ y Tiến” đượ c viết bở i Quang
Dũ ng- Ngườ i nghệ sĩ đa tà i vớ i hồ n thơ hồ n hậ u, phó ng khoá ng là mộ t trong nhữ ng tá c
phẩ m như vậ y.

“Giá trị củ a mộ t tá c phẩ m nghệ thuậ t trướ c hết là ở giá trị tư tưở ng củ a nó . Nhưng là
tư tưở ng đã đượ c rung lên ở cá c cung bậ c tình cả m, chứ khô ng phả i là cá i tư tưở ng nằ m
thẳ ng đơ trên trang giấ y. Có thể nó i, tình cả m củ a ngườ i viết là khâ u đầ u tiên và là khâ u
sau cù ng trong quá trình xâ y dự ng mộ t tá c phẩ m nghệ thuậ t”. Thậ t vậ y, thi phẩ m “Tâ y
Tiến” cũ ng đượ c viết bở i nỗ i nhớ , bở i nhữ ng rung độ ng trong trá i tim ngườ i chiến sĩ
cầ m bú t- Quang Dũ ng trong mộ t buổ i chiều mưa ở Phù Lưu Chanh- khi xa đơn vị cũ .

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Thi phẩ m mở đầ u vớ i địa danh sô ng Mã - nơi đượ c xem như chứ ng nhâ n lịch sử gắ n
liền vớ i chặ ng đườ ng hà nh quâ n củ a đoà n binh Tâ y Tiến, đồ ng thờ i ghi lạ i nhữ ng tộ i á c
củ a giặ c và nhữ ng chiến cô ng hiển há ch mà nhữ ng chà ng lính trẻ gố c Hà Thà nh đã già nh
đượ c. Hai tiếng “xa rồ i” nghe sao da diết quá , nó thấ m đượ m bao cả m xú c củ a tá c giả vừ a
thể hiện sự tiếc nuố i, vừ a thể hiện tình cả m yêu thương tá c giả dà nh cho đơn vị cũ . Vầ n
“ơi” kết hợ p vớ i từ lá y “chơi vơi” dườ ng như cho ta thấ y nỗ i nhớ da diết, đầy thâ n
thương. Khô ng chỉ vậ y, từ cả m “ơi” cù ng từ lá y “chơi vơi” bắ t vầ n vớ i nhau, là m cho hai
câ u thơ thấ m đẫ m tính nhạ c, đồ ng thờ i điệp từ “nhớ ” đượ c lặ p lạ i hai lầ n cà ng thể hiện
nỗ i nhớ sâ u thẳ m trong tim tá c giả đã lan tỏ a ra khô ng gian mênh mô ng, trả i dà i theo
thờ i gian và đi và o tiềm thứ c như mộ t nỗ i niềm, kỷ niệm chẳ ng nguô i.
Ở hai câ u đầ u tiên, từ nỗ i nhớ da diết, bứ c tranh thiên nhiên miền Tâ y dầ n đượ c tá i
hiện và đượ c tá c giả ghi lạ i vớ i bao cả m xú c châ n thà nh nhấ t. Và ở đoạ n tiếp theo, thiên
nhiên đượ c hiện lên như mộ t bứ c tranh phong cả nh vô cù ng dữ dộ i nhưng cũ ng khô ng
kém phầ n thơ mộ ng, trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Cả nh sắ c Tâ y Tiến như mộ t bộ phim điện ả nh đượ c tá i hiện bắ t đầ u bằ ng nhữ ng địa


danh như: Sà i Khao, Mườ ng Lá t, Pha Luô ng… Nhữ ng cá i tên chỉ cầ n nghe nó i thô i ta đã
thấ y “mỏ i gố i, chù n châ n” nhưng đồ ng thờ i cũ ng gợ i cho bạ n đọ c mộ t xứ lạ , phương xa
đầ y bí ẩ n, hoang dạ i…

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Câ u thơ hiện lên như mộ t kỷ niệm đầy châ n thự c trong tiềm thứ c củ a tá c giả - kỷ niệm
về nhữ ng chuyến hà nh quâ n đầ y gian nan, vấ t vả . Trên đỉnh Sà i Khao cao chó t vó t, đượ c
bao phủ bở i tầ ng tầ ng lớ p lớ p sương trắ ng như muố n vù i lấ p, bủ a vâ y chiến sĩ Tâ y Tiến
đang hà nh quâ n giữ a vù ng nú i thẳ m, rừ ng sâ u. Sương là hiện tượ ng hơi nướ c đượ c bố c
lên và ngưng tụ lạ i, thườ ng thì sương chỉ là mộ t lớ p mỏ ng manh nhưng tạ i đỉnh Sà i Khao
đó khô ng cò n đơn thuầ n là lớ p hơi nướ c nữ a mà như nhữ ng chướ ng ngạ i vậ t, như
nhữ ng tấ m khiên mà quâ n ta cầ n phả i vượ t qua, phá bỏ . Mệt mỏ i là vậ y, vấ t vả là thế
nhưng tấ t cả nhữ ng điều đó vẫ n khô ng thể xó a nhò a đi vẻ đẹp tinh thầ n lạ c quan củ a
ngườ i chiến sĩ vù ng “rừ ng thiêng, nướ c độ c”- đầy rẫ y khắ c nghiệt và hiểm nguy.

Vớ i hồ n thơ hồ n hậ u, phó ng khoá ng và luô n nhìn đờ i qua lă ng kính lã ng mạ n tá c giả


đã phá t hiện mộ t vẻ đẹp lung linh, mộ t khô ng gian êm đềm và lã ng mạ n:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Câ u thơ là sự sá ng tạ o đầy độ c đá o củ a tá c giả , ô ng đã viết “hoa về” chứ khô ng phả i


“hoa nở ”, “đêm hơi” chứ khô ng phả i “đêm sương”. Phả i chă ng đó là nhữ ng bó đuố c rự c
sá ng, soi đườ ng chỉ lố i cho ngườ i chiến sĩ trên con đườ ng hà nh quâ n đầ y gian khổ - cá c
anh ra đi khi trờ i cò n mở sá ng và trở về sau nhữ ng đêm dà i giá lạ nh. Qua đó , ta dườ ng
như nghe đâ u đây tiếng hít thở mệt nhọ c, tiếng bướ c châ n nặ ng nề củ a nhữ ng chà ng trai
Hà Thà nh trên con đườ ng đầ y chô ng chênh, vấ t vả .

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Tạ i đâ y, Quang Dũ ng như mộ t ngườ i thợ ả nh chuyên nghiệp, đầ y nhiệt huyết, tà i


nă ng khi đã liên tụ c đưa ố ng kính củ a mình hết lên cao rồ i lạ i xuố ng thấ p để rồ i mở ra
trướ c mắ t bạ n đọ c mộ t thế giớ i mớ i- thế giớ i mà dườ ng như chỉ khi tưở ng tượ ng ta mớ i
có thể bắ t gặ p khung cả nh dữ dộ i và khắ c nghiệt đến thế. Điệp từ “dố c” kết hợ p vớ i hai
từ lá y tượ ng hình “khú c khuỷu” và “thă m thẳ m” đã hình thà nh lên mộ t vù ng địa hình đầ y
hiểm trở và thá ch thứ c nhữ ng bướ c châ n dung cả m củ a ngườ i chiến sĩ.

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Heo hú t đượ c hiểu đơn giả n là hoang vu, vắ ng vẻ qua đó thể hiện độ cao như đến vô
cù ng vô tậ n củ a nhữ ng dã y nú i- nơi hà nh quâ n đi qua. Nhữ ng dã y nú i ấ y cao đến mứ c
dườ ng như mũ i sung có thể vươn tớ i tậ n trờ i cao. Hình ả nh “sú ng ngử i trờ i” vừ a thể
hiện độ cao, vừ a phá c họ a vẻ đẹp chinh phụ c củ a cá c chà ng trai Tâ y Tiến đó là vẻ đẹp
củ a lí tưở ng anh hù ng đồ ng thờ i thể hiện sự tinh nghịch củ a nhữ ng con ngườ i hà o hù ng
và hà o hoa. Quả thự c là địa hình cà ng hiểm trở , cuộ c số ng cà ng khó khă n, con ngườ i
cà ng mạ nh mẽ, cà ng đượ c tô i luyện. Vì thế, qua câ u thơ thi sĩ đã phá c họ a vẻ đẹp thiên
nhiên đồ ng thờ i qua đó khiến bạ n đọ c thấ y đượ c sứ c mạ nh củ a đoà n binh- sứ c mạ nh
đượ c là m nên từ ý chí quyết tâ m sắ t đá “quyết tử cho tổ quố c quyết sinh”.

Đến vớ i câ u thơ tiếp:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Từ “ngà n” kết hợ p vớ i dấ u phẩ y giữ a dò ng như ngắ t đô i câ u thơ, bẻ đô i câ u thơ thà nh


hai vế đố i lậ p dườ ng như các địa hình cá c chà ng trai đi qua toà n là nú i cao chó t vó t, vự c
sâ u thă m thẳ m, nú i nà y qua đi vự c nà y qua đi lạ i là nú i và vự c sâ u khá c đợ i chờ . Qua đó
thi sĩ phá c họ a sinh độ ng hơn nhữ ng hiểm nguy mà cá c chiến sĩ Tâ y Tiến phả i trả i qua

Khép lạ i đoạ n thơ vớ i mộ t câ u thơ toà n thanh bằ ng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
câ u thơ thự c sự vô cù ng thơ mộ ng và trữ tình đồ ng thờ i cũ ng thể hiện đượ c nét độ c đá o,
tà i hoa bậ c nhấ t trong cả m nhậ n củ a tá c giả . Đó là cả m nhậ n về nhữ ng má i nhà , nhữ ng
ngô i là ng như đang bồ ng bềnh trong là n mưa và đâ y cũ ng là vẻ đẹp lã ng mạ n, đặ c trưng
củ a thiên nhiên nú i rừ ng miền Tâ y.
Vẻ đẹp củ a bứ c tượ ng đà i ngườ i lính bộ độ i cụ Hồ trong thi ca củ a Quang Dũ ng đượ c
thể hiện bở i ba vẻ đẹp: Ố m nhưng khô ng yếu, chết nhưng khô ng hết, bi mà khô ng bi
quan, bi lụ y bi ở đây là bi hù ng, bi trá ng. Ta biết có mộ t thờ i kỳ “Tâ y Tiến” khô ng đượ c
đưa và o chương trình giả ng dạ y bở i trong thi phẩ m có đề cậ p đến cá i chết nhưng chiến
tranh là hiện thự c chứ đâ u phả i trò đù a. Dướ i ngò i bú t tà i hoa và cả m xú c châ n thự c củ a
tá c giả mộ t lầ n nữ a “Tâ y Tiến” đượ c đưa và o chương trình giả ng dạ y vớ i mộ t vị trí đặ c
biệt là mộ t kiệt tá c củ a vă n chương.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

“Anh bạ n” ở đây là chỉ nhữ ng ngườ i đồ ng chí đồ ng độ i, nhữ ng ngườ i bạ n đườ ng trên
chặ ng đườ ng hà nh quâ n củ a tá c giả cũ ng như củ a đoà n binh Tâ y Tiến, tiếng gọ i ấ y ngậ p
trà n tình cả m, thâ n thương và vô cù ng gầ n gũ i. Sứ c nặ ng củ a câ u thơ dườ ng như đượ c
dồ n và o cụ m từ “dã i dầ u” qua đó thể hiện sự vấ t vả, khó khă n củ a đoà n binh.Tà i hoa củ a
tá c giả qua đoạ n trích đã thự c sự đượ c bộ c lộ mộ t cá ch rõ rệt bở i tá c giả miêu tả cá i chết
nhưng khô ng sử dụ ng bấ t kỳ mộ t từ ngữ mang tính chấ t chết chó c nà o. Ô ng viết “khô ng
bướ c nữ a” chứ khô ng phả i là gụ c xuố ng, ngã xuố ng thi sĩ đã chuyển từ thế bị độ ng sang
tư thế chủ độ ng- chủ độ ng là m chủ thế giớ i xung quanh. Vớ i nghệ thuậ t nó i giả m nó i
trá nh, nhà thơ đã là m cho sự ra đi củ a cá c chiến sĩ thêm nhẹ nhà ng hơn. Qua lă ng kính
lã ng mạ n, cụ m từ “bỏ quên đờ i” kết hợ p vớ i dấ u chấ m than cuố i dò ng ta dườ ng như
nhậ n thấ y sự ra đi củ a cá c anh chỉ như mộ t giấ c ngủ bình yên, chẳ ng lo toan. Ta thấ y
hiện thự c khố c liệt củ a chiến tranh đã đượ c tá c giả khắ c họ a lạ i vớ i bao yêu thương,
châ n trọ ng. Dấ u chấ m than ấ y như mộ t nố t lặ ng để ta lắ ng lạ i để tri â n nhữ ng ngườ i đã
ngã xuố ng vì Tổ quố c, vì đấ t mẹ thâ n yêu. Đọ c câ u thơ, ta bấ t giá c nhớ đến hình ả nh
ngườ i chiến sĩ trong “Dá ng đứ ng Việt Nam” củ a nhà thơ Lê Anh Xuâ n:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng…”

Nó i đến sự khắ c nghiệt trên con đườ ng hà nh quâ n ngoà i nhữ ng nguy hiểm về địa
hình ta khô ng thể khô ng nhắ c đến trong tâ m khả m củ a ngườ i lính bộ độ i cụ Hồ đều toá t
ra vẻ ớ n lạ nh, ghê rợ n mỗ i khi nghe â m thanh đặ c trưng củ a mộ t vù ng rừ ng thiêng, nướ c
độ c vọ ng về.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều” và “đêm đêm” là nhữ ng cụ m từ chỉ thờ i gian- thờ i gian tuầ n hoà n, lặ p đi
lặ p lạ i thể hiện sự khó khă n, nguy hiểm luô n luô n thườ ng trự c theo từ ng bướ c đi củ a
đoà n binh. Tự hỏ i phả i ở độ cao đến bự c nà o mà khiến cho tiếng thá c đổ biến thà nh
tiếng thét gà o củ a nhữ ng oai linh, quỷ dữ ? Sứ c nặ ng củ a câ u thơ đượ c dồ n và o từ “Hịch”
kết hợ p vớ i cụ m từ “cọ p trêu ngườ i” cà ng nhấ n mạ nh hơn sự uy linh củ a nú i rừ ng. Tuy
nhiên vớ i cá ch sử dụ ng từ ngữ đầ y tinh tế, tá c giả đã sử dụ ng từ “trêu” để dườ ng như
biến tấ t cả nhữ ng sự dữ dộ i, khắ c nghiệt củ a thiên nhiên, củ a tiếng cọ p vồ ngườ i chỉ như
mộ t “trò đù a trẻ con” qua đó ta cả m nhậ n dù cho có bấ t cứ điều gì xảy ra đi chă ng nữ a
chiến sĩ ta vẫ n luô n dũ ng cả m, dá m đương đầ u vớ i khó khă n và chiến đấ u đến cù ng.

Trong cuộ c đờ i ngườ i lính củ a mình, Quang Dũ ng đã khắ c họ a nhữ ng con ngườ i xếp
và o balo nhữ ng ướ c mơ bình dị nhấ t để lên đườ ng tham gia chiến dịch. Con đườ ng mà
họ đang đi khô ng chỉ là nhữ ng ngà y thá ng khoét nú i, ngủ hầ m… mà cò n là nhữ ng giâ y
phú t thắ m tình quâ n dâ n, tình đồ ng chí, đồ ng độ i và để lạ i trong họ mộ t thứ tình cả m vô
cù ng ngọ t ngà o nhưng đồ ng thờ i cũ ng khô ng kém phầ n sâ u lắ ng:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Hai tiếng “nhớ ô i” lạ i mộ t lầ n nữ a thể hiện nỗ i nhớ đượ c bậ t lên thà nh lờ i. Hình ả nh
“cơm lên khó i” và “thơm nếp xô i” kết hợ p vớ i cụ m từ “mù a em” đã thể hiện đượ c tình
cả m gắ n bó mặ n nồ ng củ a cá c chà ng trai Tâ y Tiến vớ i con ngườ i, cả nh sắ c và thiên nhiên
miền Tâ y. Ta dễ dà ng bắ t gặ p tình cả m ấ y trong bà i “Việt Bắ c” củ a Tố Hữ u:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Hay cũ ng là mù i “thơm nếp xô i” Chế Lan Viên lạ i viết:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng


Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.”

Qua đó , ta có thể thấ y mù i thơm củ a xô i và từ ng là n khó i tỏ a bay sau mỗ i nếp nhà đã


để lạ i trong trá i tim ngườ i lính nhữ ng tình cả m, ký ứ c khó thể phai mờ bở i tình cả m đó
đượ c dệt lên từ nhữ ng kỷ niệm mà kỷ niệm ấ y lạ i đượ c dệt lên bở i tình quâ n dâ n ấ m á p.

Vấ t vả là vậ y, khắ c nghiệt là thế nhưng trong cuộ c số ng củ a ngườ i lính vẫ n khô ng


thiếu nhữ ng giâ y phú t vui vẻ, nhữ ng giai điệu vui tươi:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

Độ ng từ mạ nh “bừ ng” thể hiện sự bấ t ngờ , ngạ c nhiên- đó là sự bừ ng lên củ a á nh


sá ng hay cũ ng có thể hiểu đó là sự tưng bừ ng, rộ n rà ng củ a tiếng há t, tiếng khèn. Nếu
trong thi ca cổ “hộ i đuố c hoa” là ngọ n nến trong đêm tâ n hô n thì “đuố c hoa” ở đây thể
hiện ngọ n lử a trong đêm lử a trạ i đầy vui tươi, ấ m á p, gắ n bó . Qua đó ta thấ y, trong đờ i
ngườ i đêm khó quên nhấ t có lẽ là đêm Tâ n hô n cò n trong cuộ c đờ i ngườ i lính đêm đặ c
biệt nhấ t có lẽ là đêm lử a trạ i tưng bừ ng, rộ n rà ng nà y. “Kìa” thể hiện sự ngạ c nhiên kèm
theo chú t gì đó tinh nghịch đú ng vớ i lứ a tuổ i củ a cá c thanh niên Hà Thà nh. Ta biết các
anh nhậ p ngũ khi tuổ i đờ i rấ t trẻ đa số đều là họ c sinh, sinh viên, nhữ ng ngườ i tri thứ c
trẻ.

“Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Khèn là loạ i nhạ c cụ củ a mộ t số dâ n tộ c ở phía Bắ c Việt Nam, man điệu là điệu mú a


truyền thố ng củ a ngườ i dâ n miền nú i. Từ tiếng khèn, điệu mú a, xiêm y rự c rỡ sắ c mà u
dườ ng như đã gâ y cho ngườ i lính nhữ ng cả m xú c thự c đặ c biệt trong trá i tim mình. Họ
vừ a say mê, ngâ y ngấ t vừ a hy vọ ng về sự hò a hợ p, nhữ ng giai điệu, nhữ ng đêm liên hoan
thắ m tình quâ n dâ n như vậ y ở Viên Chă n- Là o. Nhữ ng giâ y phú t như vậ y thự c sự là
nhữ ng phú t giâ y hiếm hoi mà cuộ c số ng đã ban tặ ng cho nhữ ng ngườ i lính bộ độ i cụ Hồ ,
bở i chiến tranh là hy sinh, mấ t má t nên ta có thể hiểu đây là nhữ ng phú t giâ y đẹp nhấ t,
nồ ng nà n nhấ t củ a cuộ c đờ i ngườ i lính Tâ y Tiến.

Ở đoạ n tiếp đã bộ c lộ đượ c vẻ đẹp củ a thiên nhiên miền Tây đồ ng thờ i khắ c họ a vẻ
đẹp củ a con ngườ i miền Tâ y trong cả m nhậ n củ a tá c giả nó i riêng và củ a đoà n binh nó i
chung:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”


Châ u Mộ c là mộ t trong nhữ ng địa danh mà đoà n binh đã đi qua, nơi đâ y có nắ ng, có
gió , nú i, đá … Nếu cả nh liên hoan vừ a thự c vừ a hư thì cả nh sô ng nướ c miền Tâ y lú c lú c
chiều xuố ng lạ i gợ i cả m giá c mênh mô ng, hiu quạ nh. Khô ng gian dò ng sô ng đượ c bao
phủ bở i sương giă ng- đầ y im lặ ng, yên ả nhưng cũ ng khô ng kém phầ n hoang dạ i và đây
chính là vẻ đẹp củ a mộ t thờ i tiền sử . Vớ i giọ ng điệu bỗ ng chố c chuyển nhẹ nhà ng, mênh
mang, yên ả câ u thơ trên đã gợ i cả nh chia tay trong mộ t chiều sương loả ng lả ng đầy thơ
mộ ng, trữ tình đồ ng thờ i cũ ng đượ m buồ n, bịn rịn đầ y luyến lưu.

Câ u hỏ i tu từ :

“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Điệp từ “có nhớ ”, “có thấ y” đã khắ c họ a cả m xú c trong lò ng ngườ i chiến sĩ dườ ng
như sự lặ p đi lặ p lạ i ấy như mộ t khú c ca buồ n trong lò ng cá c anh bở i ấ n tượ ng trong
lò ng họ về mộ t Châ u Mộ c khô ng chỉ sương giă ng mù lố i mà cò n là ngà n lau nở trắ ng
rừ ng. Chính là n sương, bờ lau ấ y đã tạ o cho thiên nhiên miền Tâ y mộ t nét đẹp riêng- nét
đẹp cổ kính và đầ y hoang dạ i củ a mộ t thờ i tiền sử . Nét đẹp đó cứ xà o xạ c, xô n xao mã i
trong tâ m tưở ng tá c giả đồ ng thờ i qua đó tạ o cho độ c giả cả m giá c bâ ng khuâ ng, xa vắ ng
phả ng phấ t nỗ i buồ n, nỗ i cô đơn. Nổ i bậ t lên dò ng song mang đậ m vẻ đẹp cổ kính là
dá ng ngườ i mềm mạ i, uyển chuyển củ a con ngườ i trên chiếc thuyền độ c mộ c. Hình ả nh
ấ y kết hợ p vớ i hình ả nh nhữ ng cá nh hoa “đong đưa” là m duyên là m dá ng. Tạ i đâ y, tá c
giả viết là “đong đưa” chứ khô ng phả i “đu đưa” để rồ i qua đó khiến nhữ ng cá nh hoa từ
nhữ ng sinh thể vô tri vô giá c thà nh sinh thể có hồ n và sinh độ ng đang đong đưa, đưa
tiễn ngườ i chiến sĩ lên đườ ng vớ i bao cả m xú c bâ ng khuâ ng, bịn rịn, đầy nuố i tiếc.

Ta biết, thơ- nhạ c- họ a là nhữ ng loạ i hình nghệ thuậ t đều nhằ m phả n á nh lạ i hiện
thự c cuộ c số ng nhưng mỗ i thể loạ i lạ i có cho mình nhữ ng nét đặ c sắ c riêng. Nếu họ a
dù ng nét vẽ, nhữ ng gam mà u tinh tế; nhạ c dù ng nhữ ng â m thanh, nhịp điệu để xây dự ng
trong lò ng bạ n đọ c nhữ ng ấ n tượ ng khó phai thì thi ca cũ ng như bao tá c phẩ m khá c lạ i
sử dụ ng nghệ thuậ t ngô n từ , nó tá c độ ng và o trí tưở ng tượ ng củ a con ngườ i và khơi dậ y
nhữ ng cả m nhậ n cụ thể củ a bạ n đọ c về mà u sắ c, đườ ng nét, â m thanh, giai điệu. Ngườ i
xưa có câ u “thi trung hữ u nhạ c, thi trung hữ u họ a” nghĩa là trong thơ có nhạ c và trong
thơ có họ a- nhữ ng đườ ng nét, mà u sắ c. Vă n họ c là tấ m gương phả n chiếu lạ i hiện thự c
cuộ c số ng và nhà vă n, nhà thơ là nhữ ng thư ký trung thà nh củ a thờ i đạ i. Thi ca cũ ng
tương tự như vậ y, nó phả n á nh hiện thự c củ a cuộ c số ng thô ng qua hệ thố ng ngô n từ già u
hình ả nh. Ta chưa từ ng bắ t gặ p trong bấ t kỳ thể loạ i nà o mà xuấ t hiện nhiều hình ả nh,
biểu tượ ng nổ i bậ t như thi ca. Sở dĩ chú ng nổ i bậ t như vậ y bở i vì mang theo cả mà u sắ c
củ a cả m xú c mã nh liệt và trí tưở ng tượ ng phong phú .

Đọ c “Tâ y Tiến”, ta nhậ n thấ y Quang Dũ ng khô ng hề che dấ u nhữ ng khó khă n, gian
khổ và hiện thự c đầy nghiệt ngã mà ngườ i lính phả i trả i qua. Ô ng đã thự c hiện đú ng
trá ch nhiệm củ a mộ t “thư ký trung thà nh củ a thờ i đạ i” nhưng hiện thự c tà n khố c ấ y
khô ng đượ c ô ng miêu ta mộ t cá ch trầ n trụ i, khô cứ ng mà đượ c miêu tả dướ i con mắ t
tinh tế, qua lă ng kính lã ng mạ n củ a mình.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Qua đoạ n trích, ngườ i lính Tâ y Tiến hiện lên vớ i mộ t vẻ đẹp ngoạ i hình dữ dộ i, cá c
anh hiện lên vớ i cá i đầ u trọ c ló c, vớ i là n da xanh xao. Đọ c qua, ta có thể nghĩ đó chỉ là
thứ tồ n tạ i trong tưở ng tượ ng nhưng khô ng… đó chính là hiện thự c khố c liệt củ a nhữ ng
nă m thá ng chiến đấ u chẳ ng thể nà o quên. “Khô ng mọ c tó c” có thể hiểu là để thuậ n tiện
cho việc ẩ n nấ p và đá nh giặ c nên nhiều chiến sĩ đã chủ độ ng cạ o trọ c đầ u nhưng ta cũ ng
có thể hiểu trọ c đầ u ở đây chính là tá c phẩ m củ a că n bệnh số t rét rừ ng gâ y nên cho chiến
sĩ củ a ta. Vớ i cá ch dù ng từ độ c đá o kết hợ p vớ i nghệ thuậ t nó i giả m nó i trá nh tá c giả đã
biến nhữ ng ngườ i lính từ tư thế bị độ ng sang tư thế chủ độ ng, qua đó ta có thể liên
tưở ng “khô ng phả i cá c anh khô ng thể mọ c tó c mà dườ ng như khô ng thèm mọ c tó c”.
“Quâ n xanh mà u lá ” xanh ở đâ y là mà u xanh củ a lá câ y, củ a nú i rừ ng khắ c nghiệt, là mà u
xanh củ a bộ quâ n phụ c đang mang trên ngườ i. Để rồ i từ đó ta có thể thấ y, dù cho đầ u có
rụ ng hết tó c, da chuyển từ hồ ng hà o sang xanh xao, và ng vọ t- mà u củ a bệnh tậ t cũ ng
khô ng thể nà o ngă n đượ c tư thế hiên ngang, hung dung, oai vệ củ a nhữ ng ngườ i chiến sĩ.
Tư thế đó như tư thế củ a nhữ ng con mã nh hổ đang rình rậ p, bà y sẵ n ra tư thế chuẩ n bị
để sẵ n sang lao ra vồ lấy con mồ i. Sứ c nặ ng củ a câ u thơ như đượ c dồ n tấ t cả và o cụ m từ
“dữ oai hù m” để qua đó đã tô thêm vẻ đẹp và sứ c mạ nh kì diệu củ a nhữ ng chà ng trai Hà
Thà nh- nhữ ng chà ng trai chỉ mớ i đô i mươi.

Tá c giả đã thà nh cô ng trong việc sử dụ ng nghệ thuậ t đố i lậ p giữ a vẻ đẹp dữ dộ i, khá c


thườ ng củ a ngoạ i hình vớ i vẻ đẹp nộ i tâ m, mộ t vẻ đẹp củ a nhữ ng tâ m hồ n hà o hoa, lã ng
mạ n:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cụ m từ “mắ t trừ ng” thể hiện tinh thầ n luô n că ng thẳ ng, đề cao cả nh giá c trướ c sự
xâ m lượ c củ a kẻ thù . Phả i chă ng khô ng chỉ có vậ y mà đó cò n là á nh mắ t thương nhớ
khô n nguô i luô n đau đá u, mộ t lò ng hướ ng về Tổ quố c thâ n yêu. “Dá ng kiều thơm” ở đâ y
ta có thể hiểu là dá ng hình ngườ i yêu củ a cá c chiến sĩ; có thể hiểu là ngườ i tri kỷ ở quá n
Kiều- nơi thi sĩ thườ ng xuyên đà m đạ o đồ ng thờ i cũ ng có thể hiểu đó là nhớ về dá ng
hình củ a quê hương, xứ sở - nơi đấ t mẹ thâ n yêu. Dù hiểu theo nghĩa nà o thì có lẽ tấ t cả
đều đú ng nhưng đọ c thơ ta khô ng nên hiểu theo nghĩa riêng mà phả i suy theo nghĩa
chung, bở i lẽ đó mà “dá ng kiều thơm” đượ c hiểu là dá ng hình củ a quê hương có lẽ là
điều hợ p lý nhấ t. Ta thấ y dù hoà n cả nh có khắ c nghiệt, khó khă n, gian khổ đến nhườ ng
nà o thì nhữ ng chà ng trai Tâ y Tiến vẫ n luô n mong mỏ i, luô n giữ cho tâ m hồ n mình nét
hà o hoa, lã ng mạ n củ a nhữ ng ngườ i lính trẻ. Có lẽ điều đó đã tiếp thêm sứ c mạ nh cho họ
trên con đườ ng chiến đấ u đầ y gian khổ , hy sinh và mấ t má t…

Khép lạ i nhữ ng trang thơ về châ n dung ngườ i lính trong chiến tranh, tá c giả lạ i viết
tiếp về nhữ ng hiện thự c khố c liệt nhấ t củ a chiến tranh;

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Ở câ u thơ nà y, hiện thự c bi thả m củ a chiến tranh đã phầ n nà o đượ c khắ c họ a rõ nét
vớ i nhịp thơ 2/2/3 kết hợ p cù ng nhữ ng cụ m từ như “rả i rá c”, “biên cương”, “mồ viễn
xứ ” dườ ng như đã đưa sự bi thả m củ a chiến tranh lên tớ i tậ n cù ng

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Ta biết Tâ y Tiến là mộ t quâ n đoà n đượ c thà nh lậ p và o nă m 1947 vớ i nhiệm vụ phố i


hợ p vớ i bộ độ i Là o để bả o vệ biên giớ i Việt- Là o. Khô ng giố ng như nhữ ng quâ n đoà n
khá c “Tự phương trờ i chẳ ng hẹn quen nhau” mà phầ n lớ n tầ ng lớ p tham gia nhậ p ngũ
đều là nhữ ng thanh niên, tri thứ c trẻ trong độ tuổ i mườ i tá m, đô i mươi. Nhưng vì ý chí
chiến đấ u “quyết tử cho Tổ quố c quyết sinh” nên cá c anh sẵ n sang hy sinh thâ n mình, ra
đi để bả o vệ Tổ quố c thâ n yêu.

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

“Á o bà o” trong suy nghĩ củ a ta chính là á o củ a vua chú a thườ ng mặ c nhưng thử hỏ i


trên chiến trườ ng khó i lử a ta tìm đâ u ra mộ t manh á o bà o? Nhữ ng từ Há n- Việt kết hợ p
vớ i cụ m từ “á o bà o” đã hình tượ ng hó a sự hy sinh củ a nhữ ng ngườ i chiến sĩ Tâ y Tiến,
cá c anh như nhữ ng trá ng sĩ trong thi ca cổ đạ i mặ c cho “da ngự a bọ c thâ y nơi xa trườ ng”
nhưng quyết “nhấ t khứ bấ t phụ c hoà n”. Cụ m từ “anh về đấ t” nghe qua nhẹ nhà ng, êm ả
là thế nhưng khi ngẫ m lạ i bi thả m biết nhườ ng nà o. Qua đó ta thấ y câ u thơ đã thể hiện
nhữ ng hiện thự c khố c liệt mà ngườ i lính Tâ y Tiến phả i trả i qua. Tuy nhiên qua cá i nhìn
đầ y lã ng mạ n củ a ngườ i thi sĩ, ngườ i chiến sĩ cầ m bú t Quang Dũ ng hiện thự c ấ y hiện lên
rấ t đỗ i hà o hù ng đồ ng thờ i cũ ng thà nh cô ng gợ i lên trong tim bạ n đọ c nhữ ng tình cả m
sâ u sắ c, châ n thậ t nhấ t để ngườ i đọ c thấ m thía hơn sự hy sinh cao cả “vì nướ c quên
thâ n” củ a nhữ ng con ngườ i sẵ n sà ng hy sinh thâ n mình để bả o vệ Tổ quố c.

Kết thú c đoạ n thơ là hình ả nh “Sô ng Mã gầ m lên khú c độ c hà nh”. Tá c giả đã rấ t thà nh
cô ng trong việc sử dụ ng nghệ thuậ t nhâ n hó a kết hợ p vớ i nghệ thuậ t đầ u cuố i tương
xứ ng, mở đầ u đoạ n trích là hình ả nh song Mã - con song gắ n liền vớ i từ ng chặ ng đườ ng
hà nh quâ n củ a đoà n binh và kết thú c đoạ n trích là hình ả nh con sô ng Mã “gầ m lên”- con
sô ng củ a hồ n thiêng sô ng nú i đã tấ u lên mộ t khú c ca trầ m hù ng để tiễn đưa nhữ ng ngườ i
lính đã ra đi và o cõ i bấ t tử , vĩnh hằ ng.

Tà i nă ng củ a tá c là miêu tả tượ ng đà i ngườ i chiến Tâ y Tiến dự a trên ba vẻ đẹp: Ố m


mà khô ng yếu, chết mà khô ng hết, bi mà khô ng bi quan bi lụ y- bi ở đâ y là bi hù ng, bi
trá ng. Qua đó nhà thơ đã thổ i và o đoạ n trích tấ t cả nhữ ng cả m nhậ n sâ u sắ c củ a bả n thâ n
về chiến cũ ng như tấ t cả nhữ ng điều chấ t mà tá c giả và nhữ ng đồ ng chí, đồ ng độ i từ ng
cù ng nhau trả i qua. Bố n câ u cuố i củ a bà i lạ i mộ t lầ n nữ a nhấ n mạ nh lờ i thiêng liêng vì
dâ n tộ c, quê hương, đấ t nướ c nguyện hy sinh để bả o vệ Tổ quố c. Khó khă n là thế, gian
khổ là vậ y nhưng nhữ ng chiến sĩ khô ng mộ t ai lù i bướ c, luô n mang trong mình tư tưở ng
đá ng khâ m phụ c “quyết chiến, quyết thắ ng”

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

Ta biết, nhữ ng nă m 45 củ a thế kỷ XX là giai đoạ n đầ u củ a cuộ c khá ng chiến chố ng


thự c dâ n Phá p và đâ y đượ c xem như thờ i kỳ lấ y trứ ng để chọ i đá khi thế giặ c quá mạ nh
cò n quâ n ta thì quá yếu, đồ ng thờ i cũ ng đượ c coi là thờ i kỳ lấ y má u xương để đổ i lấ y hò a
bình, độ c lậ p, tự do.

“Ai lên Tây Tiến mùa Xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Mù a xuâ n ở đây là mù a xuâ n nă m 1947, mù a xuâ n củ a tuổ i trẻ- mộ t tuổ i trẻ, mộ t


mù a xuâ n đẹp vô cù ng vớ i bao lí tưở ng, khá t vọ ng. Khi nó i đến “hồ n” ta rấ t khó có thể đi
sâ u và o định nghĩa nhưng có thể hiểu đơn giả n đó là nơi sâ u thẳ m nhấ t củ a con ngườ i.
Ngườ i lính Tâ y Tiến trên chặ ng đườ ng hà nh quâ n đầy gian nan, vấ t vả đã “rả i rá c biên
cương mồ viễn xứ ”- thâ n thể củ a họ đã ra đi, đượ c hò a và o là m mộ t vớ i đấ t mẹ thương
yêu. Ta có thể hiểu tuy họ đã hy sinh nhưng linh hồ n họ vẫ n luô n đồ ng hà nh trên suố t
chặ ng đườ ng hà nh quâ n, chiến đấ u cù ng nhữ ng đồ ng chí, đồ ng độ i. Dù cá c anh có ra đi
nhưng trong tâ m tưở ng nhữ ng ngườ i ở lạ i, cá c anh vẫ n luô n là mộ t tồ n tạ i đẹp đẽ, thiêng
liêng nhấ t. Sự hy sinh anh dũ ng củ a nhữ ng chiến sĩ bộ độ i cụ Hồ là sự hy sinh cao đẹp
củ a tuổ i trẻ, là tấ m gương soi đườ ng, chỉ lố i cho thế hệ mai sau họ c tậ p và noi theo.

Vớ i nhữ ng hình ả nh thơ sá ng tạ o kết hợ p vớ i ngô n ngữ thơ đa sắ c thá i, đa trạ ng thá i-
khi trang trọ ng, sâ u lắ ng, khi vui tươi, hó m hỉnh và già u tính gợ i. Thi phẩ m “Tâ y Tiến”
đã dự ng lên bứ c tranh thiên nhiên hù ng vĩ, thơ mộ ng vớ i nhữ ng con ngườ i khỏ e khoắ n,
dũ ng cả m và rấ t đỗ i hà o hoa. Bở i lẽ đó mà thi phẩ m đã trở thà nh mộ t trong nhữ ng kiệt
tá c trong nền vă n họ c nướ c nhà .

Dướ i dò ng chả y tuyến tính củ a thờ i gian cù ng sự biến độ ng khô ng ngừ ng củ a lịch sử
có rấ t nhiều tá c phẩ m khô ng thể giữ đượ c vị trí ban đầ u, vố n có củ a mình. Tuy nhiên
“Tâ y Tiến” đã , đang và sẽ mã i là mộ t bứ c tượ ng đài bấ t hủ về ngườ i lính trong lò ng độ c
giả , bở i vậ y có ý kiến cho rằ ng: “Tâ y Tiến giố ng như mộ t viên ngọ c. Ngọ c cà ng mà i cà ng
sá ng, cà ng lấ p lá nh và hấ p dẫ n. Đó là mộ t bà i thơ kỳ diệu và có mộ t giá trị đặ c biệt trong
lò ng cô ng chú ng… mộ t bà i thơ là m số ng dậ y cả mộ t trung đoà n, khiến địa danh Tâ y Tiến
trong lịch sử và kí ứ c mỗ i ngườ i”.
Phân tích toàn bộ bài thơ Tây Tiến
Như nhà thơ Vân Long nhận định: “ Nhà thơ Quang Dũng như bóng mây
qua đỉnh Việt và là một áng mây bay qua sông núi nước Việt. Mây Quang Dũng
bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và sông núi như có hồn theo đến đấy”. Thật vậy! Thơ
Quang Dũng hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn, đặc biệt là khi viết về quê
hương “ xứ Đoài mây trắng” và hình ảnh người lính Tây Tiến. Và nhắc đến
Quang Dũng là không thể không nhắc đến bài thơ “Tây Tiến”- “một tượng đài bất
tử về người lính vô danh”(Vũ Thu Hương),là “sự thăng hoa của một tâm hồn lãng
mạn” ( Đinh Minh Hằng). Bài thơ Tây Tiến có bốn khổ, giống như bốn đợt
sóng tâm trạng, nó chìm đắm trong nỗi nhớ tha thiết, mãnh liệt về thiên nhiên Tây
Bắc hùng vĩ mà mơ mộng, chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn giữ
được nét lãng mạn hào hoa và những bài ca không quên những kỉ niệm gắn bó
đậm tình quân dân.
Thuộc vào thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau cách
mạng tháng Tám. Quang Dũng- một nhà thơ tài hoa, tinh thông nhiều lĩnh vực
nghệ thuật, nào là họa sĩ, nào là nhạc sĩ...nhưng nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ ca.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào cuối năm 1948, khi nhà thơ chuyển từ đơn vị
Tây Tiến sang một đơn vị khác. Tại đơn vị mới, ở Phù Lưu Chanh( một làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), ngồi nhớ về một thời Tây Tiến gian khổ mà hào hùng,
“thơ là tiếng nói của tâm hồn”( Nguyễn Đình Thi), từ đó Quang Dũng đã viết lên
bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Sau đó, khi in tác giả đã lược đi chữ “ Nhớ” chỉ còn là
“Tây Tiến” được in trong tập “ Mây đầu ô”( 1986).
Khi viết bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng muốn bày tỏ một nỗi nhớ
da diết, mãnh liệt về núi rừng Tây Bắc, về đoàn quân Tây Tiến hào hùng, hào
hoa. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ ngay trong nhân đề “Nhớ Tây Tiến” mà còn
thể hiện ngay ở hai câu thơ mở đầu của tác phẩm:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Với thủ pháp “ lắng dần” của điện ảnh, nhà thơ để hình ảnh sông Mã xuất
hiện đầu tiên gợi về nỗi nhớ để rồi dòng sông Mã ấy mờ dần trong dòng cảm xúc
của nhà thơ về những kỉ niệm. “ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ 7 chữ mà
có đến 4 chữ chỉ tên riêng, đó chính là nơi mà nỗi nhớ dội về, là mạch chảy xuyên
suốt dòng tâm trạng và nơi mà khúc dạo đầu của khúc hát mang tên thương nhớ
vang lên: sông Mã và Tây Tiến. Sông Mã là con sông chảy dọc theo biên giới
Việt- Lào. Nó là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến từng sẻ chia, chứng
kiến nỗi vui buồn, mất mát, hi sinh, từ gầm lên khúc độc hành để tiễn đưa người
lính Tây Tiến ngã xuống vì dân tộc, chứng kiến các anh về với đất mẹ thiêng
liêng. Đó thực sự là một dòng sông cảm xúc, chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc
đời người lính. Vì thế, trong ý thơ “ sông Mã xa rồi” lại chứa đựng bao nhiêu sự
luyến tiếc, lưu luyến, lui về quá khứ đan xen đến hiện tại, tiếc bởi dòng sông Mã
đã lùi ra thành kỉ niệm.
Nếu “sông Mã xa rồi” là nguyên nhân làm thức dậy nỗi nhớ thì “ Tây
Tiến ơi” lại như tiếng gọi , là sự thổ lộ chân thành xuất phát từ trái tim chân thật
của nhà thơ với đồng đội và đoàn quân. Lời gọi tha thiết tạo nên tiếng ngân vang,
vang vọng vào vách đá như một sinh thể có hồn. Như thể Tây Tiến vẫn gần lắm,
vẫn đâu đó quanh đây để nhà thơ cất lên tiếng gọi da diết. Tây Tiến chỉ xa về
không gian, thời gian còn trong tâm khảm của Quang Dũng , Tây Tiến vẫn hiện
lên sống động mãi không bao giờ xa. Âm “ơi” cuối câu thơ hiệp vần với hai chữ
“chơi vơi” tạo sự gắn kết mạnh, tạo nên cấu tứ cho bài thơ và nó là cầu nối bắt
sang câu thơ sau: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Sau tiếng gọi Tây Tiến ơi là cả
một nỗi nhớ trong lòng của nhà thơ. Điệp lại 2 lần từ “nhớ” nhằm nhấn mạnh ,
khắc sâu nỗi nhớ kết hợp với từ láy “chơi vơi” mang âm hưởng nỗi nhớ càng để
nhấn mạnh tô đậm nỗi nhớ da diết, có sức lan tỏa, khơi gợi nỗi nhớ thường trực
trong lòng bật “Thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ”.Nhớ về rừng
núi là nhớ về nơi nhà thơ từng gắn bó. Còn “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vô hình vô
lượng, khó nắm bắt chập chờn, mênh mang, bồng bềnh, mơ hồ, đầy ám ảnh, lơ
lửng khôn nguôi. Ca dao xưa cũng đã từng bày tỏ nỗi niềm:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải nhớ nơi bạn nằm”
Hay tứ thơ của Xuân Diệu:
“Sương nương theo trăng lên lưng trời
Tương tư nặng lòng lên chơi vơi”.
Như vậy, hai câu thơ mở đầu của Tây Tiến đã khái quát được cảm hứng
trung tâm của bài thơ, đồng thời cho ta thấy mạch cảm xúc, sợi chỉ để xuyên suốt
bài thơ là nỗi nhớ mãnh liệt về một thời Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Và
cũng là tiếng gọi ấy làm cho Tây Tiến như một sinh thể có hồn, trong sinh thể ấy,
người ta thấy những địa danh gợi về vẻ đẹp hùng vĩ, xa xôi của núi rừng khiến
con người dậy lên niềm khao khát khám phá. Đó là vẻ đẹp mơ màng của sương,
vẻ đẹp mờ ảo của hoa, của mưa Mường Lát, Pha Luông.
Qua nỗi nhớ da diết ấy, nhà thơ họa lên bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa
hùng vĩ, hiểm trở, vừa thơ mộng, trữ tình, vẻ đẹp kì thú của đoàn binh Tây Tiến
vừa hào hùng, kiêu dũng vừa hào hoa lãng mạn:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Nhớ về một Tây Bắc hoang sơ, thơ mộng, Sài Khao, Mường Lát – hai địa
danh đứng đầu ở dòng thơ gợi cho người đọc nhớ về một vùng đất heo hút, xa
xôi, một miền Tây hoang sơ thăm thẳm. Địa danh trong bài thơ này xuất hiện dày
đặc với những cái tên nghe xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha
Luông, Mai Châu,...Các địa danh không được sắp xếp theo không gian, thời gian.
Nhưng chính sự không trình tự này ta lại nhận ra một trình tự khác, trình tự của
cảm xúc, của con tim cho thấy nỗi nhớ của Quang Dũng da diết mãnh liệt và trải
ra, lan tỏa khắp cả không gian. Dường như mỗi bước chân đi qua, tâm hồn nhà
thơ lại thấm thía, chất chứa đầy kỉ niệm.
Nét vẽ đầu tiên trong tâm khảm của nhà thơ là hình ảnh sương mờ ảo “Lấp
đoàn quân mỏi”, tạo nên vẻ đẹp huyễn hoặc, hư ảo, thi vị lãng mạn cho bức tranh
thiên nhiên. Vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng miền Tây. Không chỉ là sương của núi
rừng, sương của thiên nhiên mà còn là màn sương của không gian, thời gian, của
kỉ niệm của nỗi nhớ về một thời đã xa, nó che mờ đi được khoảng cách của lòng
người. Nhịp thơ 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ “lấp” – một động từ có
sức gợi tả, màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín một đoàn
quân vừa gợi ra một Tây Bắc hoang sơ, vừa gọi được con đường chiến sĩ vất vả,
gian lao. Câu tiếp theo tác giả sử dụng bút pháp lãng mạn, hiện thực đã được thi
vị hóa “đêm hơi”. Đêm sương trở thành đêm hơi, vẫn nói được sự mờ ảo bồng
bềnh, bao phủ nhưng tạo nên bồng bềnh bảng lảng nhẹ nhàng. Kết hợp với hai thủ
pháp nghệ thuật: ẩn dụ cho những bó đuốc sáng trên đường hành quân thành
những đóa hoa lung linh huyền ảo, nhân hóa để diễn tả những người lính Tây
Tiến trở về, nụ cười vui tươi, rạng rỡ sau những chặng đường vất vả ấy chính là
những bông hoa đẹp nhất, “con người ta là hoa đất” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Thêm vào đó là những thanh bằng của về thơ càng làm đậm thêm vẻ đẹp huyền
ảo, hư hư thực thực của màn sương rừng Tây Bắc. Thiên nhiên khắc nghiệt được
cảm nhân thi vị hóa, lãng mạn hóa của tâm hồn hào hoa lãng mạn của thi nhân.
Cũng miêu tả về sương, Nguyễn Ngọc Giang cũng đã viết trong bài thơ : “Chợt
quên”:
“ Một buổi chiều về trong gió lu
Se se Hà Nội buổi sương mù
Chầm chậm bước chân qua chốn cũ
Cõi lòng hiu hắt giọt mưa thu.”
Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc, một bức tranh vẽ nên địa
bàn không gian núi cao mà người lính Tây Tiến đã từng trải qua:
“ Dốc lên khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước kên cao ngàn thước xuống.”
Người xưa có câu: “ Thi trung hữu nhạc, thi trung hữu họa”. Và ở ba câu thơ
trên Quang Dũng đã vẽ ra một bức họa về núi rừng Tây Bắc vô cùng “khúc
khuỷu, thăm thẳm”. Câu thơ của Quang Dũng có bảy chữ thôi mà có tới năm
thanh trắc ( dốc, khúc khuỷu, dốc, thăm thẳm) gợi cho người đọc kiên tưởng đến
tứ thơ của đại thi hào Nguyễn Du khi ông miêu tả con đường đưa Kiều vào lầu
xanh mà cô không hề hay biết:
“ Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”.
Thi hào Nguyễn Du đã dùng âm điệu trúc trắc của câu thơ để ngầm dự báo số
phận bi thảm của nàng Kiều. Còn Quang Dũng là sử dụng những thanh trắc dày
đặc để gây ấn tượng về một miền Tây Bắc gập ghềnh hiểm trở.
Cùng với âm điệu thanh trắc là điệp từ “dốc” nhấn mạnh một địa hình chỉ có
dốc và dốc kết hợp với từ chỉ phương hướng “lên” gây ấn tượng với người đọc về
những dốc núi, dốc này chưa qua thì dốc khác đã trực sẵn như thể muốn thử thách
ý chí nghị lực của đoàn quân Tây Tiến. Sự hiểm trở nguy hiểm ấy còn được thể
hiện qua từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm”, gấp khúc, gập nghềnh, uốn lượn, vừa
gợi ra độ cao vời vợi ngàn trùng. Con đường miền Tây quả đúng như “ Ư thướng
thanh thiên” của thi tiên Lý Bạch, khấp khểnh gập nghềnh Nguyễn Du. Câu thơ
mô tả dốc núi làm hiện ra rõ nét, chân thực khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ qua
đó làm bật lên sự gian lao vất vả và ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan trong
hành quân của người lính Tây Tiến.
Đã thế nhà thơ lại miêu tả “heo hút cồn mây”. Từ láy “heo hút” vừa gợi cao,
vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu thơ như để nhấn mạnh về hoang
sơ, xa vắng của nhưng nơi anh hành quân đi xa, thậm chí còn chưa có bóng người
đặt chân đến. Còn “cồn mây” lại mở ra độ cao, cho ta cảm nhận độ cao miền Tây
cao đến mức con đường như lấn vào mây, mây bao phủ trắng xóa cả con đường
đi, mờ mịt, chập chùng khiến con đường hành quân của người lính vô cùng gian
lao, vất vả. Chưa đầy hai câu thơ thôi nhưng Quang Dũng đã mở ra một chiến
trường miền Tây như một không gian ba chiều có những khoảng vắng lặng, có
những con đường ghồ ghề, có chiều sâu thăm thẳm. Tất cả được hiện ra bởi
những nét vẽ vừa chắc khỏe, vừa gân guốc, giàu chất gợi hình, gợi cảm.
Trung tâm thần hứng của đoạn thơ này rơi vào ba chữ “súng ngửi trời”. Chữ “
ngửi” mộc mạc, chân phương dường như không để nói về những gì thanh thoát
hào hoa ở bài thơ này. Nhưng chính điều đó lại làm nên nét độc đáo, vẽ ra hình
ảnh người lính chót vót trên đỉnh núi, đi giữa ngàn mây súng chạm trời. Nhưng
Quang Dũng lại sử dụng chữ “ngửi” – đó là sự nhân hóa tinh nghịch, đùa tếu, dí
dỏm của người lính Tây Tiến, dám trêu nghẹo cả tạo hóa gian khổ, nguy nan, rất
vất vả, người lính vẫn như được tinh thần lạc quan yêu mến, đó chính là phong
cách của anh bộ đội cụ Hồ mà nhà thơ Phạm Tiến Duật trong bài thơ “ Bài thơ về
tiểu đội xe không kính” cũng đã thể hiện:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt trắng lấm cười haha!”
Hay trong “ Nước non ngàn dặm” của Tố Hữu:
“ Mấy anh lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm xôi”
Quang Dũng tiếp tục nhớ về thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở
những cũng rất thơ mộng, trữ tình:
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Câu thơ ngắt nhịp 4/3 kết hợp với điệp từ “ ngàn” qua hai vế thơ và hai từ chỉ
tương phản “lên – xuống” tạo nên nét gấp gẫy đầy ấn tượng, đem đến cho ta
những hình dung: những con dốc đột ngột dựng đứng rồi đột ngột đổ xuống bất
ngờ đầy hiểm trở, ngàn thước lên cheo leo vất vả, ngàn thước xuống còn hiểm
nguy gấp bội phần. Âm điệu thơ Quang Dũng như một trò chơi bập bênh chóng
mặt giữa hai sườn núi dốc cheo leo. Câu thơ chia làm hai vế như thể câu thơ này
bị bẻ gãy làm đôi. Khi viết về những câu thơ này, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã
cho rằng: “ Câu thơ đọc lên nghe nhọc nhằn như tiếng thở nặng nhọc của
người lính Tây Tiến trên đường hành quân”. Đọc câu thơ trên gợi ta liên tưởng
đến câu thơ của thi tiên Lý Bạch trong “Thục Đạo Nan”:
“ Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên”
( Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên trời xanh)
Lý Bạch tả con đường nước Thục gian nan, Quang Dũng tả con đường Tây
Tiến hiểm trở nhưng cả hai nhà thơ đồng điệu, gặp gỡ nhau ở chỗ đều nói lên
được cái hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên, cái khó khăn của những con đường.
Như vậy, ta thấy trong vương quốc văn học, không có từ gọi là biên giới.
Đang chật chội giữa những thanh trắc, câu thơ sau đột ngột hạ xuống toàn
thanh bằng cùng với những âm tiết mở gợi ra một không gian mênh mông, nhẹ
nhàng, mềm mại, nhạt nhòa trong màn mưa:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Hình ảnh “ mưa xa khơi” cho thấy những bản làng mờ mịt như loãng tan trong
miền mưa, không gian bỗng trở nên mênh mông, hư ảo. Câu thơ gợi ra một cảnh
tượng quen thuộc của đời lính: người lính dừng chân trên một đỉnh núi nào đó,
phóng hết tầm mắt ra xa, thấy “ nhà ai” đang thấp thoáng trong mưa rừng sương
núi, mờ mịt như biển khơi. “ Nhà ai”- đại từ phiếm chỉ thể hiện sự vô định, bất cứ
mái nhà nào, bản làng nào đều trở thành những chặng nghỉ chân các cái anh, nơi
nào cũng được nhân dân đón tiếp tình cảm, thắm thiết tình quân dân cá nước. Như
trong bài thơ “ Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:
“ Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Ríu rít đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.”
Sự vất vả gian truân của người lính Tây Tiến trong cuộc hành trình được
nhà thơ thể hiện ít nhiều trong những câu thơ tả cảnh thiên nhiên miền Tây và
như thế chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua cuộc hành quân gập ghềnh gian khổ bởi
thế trên đường hành quân trong kí ức của tác giả có những người lính phải tạm xa
đồng đội:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Nhà văn người Pháp Đan Giắc đã khẳng định: “Văn chương là người thư ký
trung thành của thời đại. Tác phẩm của anh phải là tấm gương xê dịch quãng
đường đời.” Viết về cái chết bi thương nhưng Quang Dũng không sử dụng một từ
“chết, mất, hy sinh,…” nào, có lẽ đó là điều rất khéo léo trong việc sử dụng từ
ngữ của Quang Dũng.
Những gian khổ mà người lính phải nếm trải, phải chịu đựng vượt qua giới
hạn của sức chống chọi của con người. Có những người lính họ đã “dãi dầu mưa
nắng” ngã xuống khi đang bước chân bước đi hoàn thành nhiệm vụ, bước chân
hành quân, súng mũ vẫn bên mình.
Khi gọi về những người cùng chung lí tưởng chiến đấu, cùng chung một
chiến hào, người ta thường gọi bằng những từ quen thuộc: “đồng chí, đồng đội,
anh với tôi!” nhưng ở đây Quang Dũng lại gọi đồng đội của mình là “anh bạn”-
một cách gọi thân mật, chan chứa yêu thương, chứa đựng cả một tấm chân tình.
Từ láy “dãi dầu”- tất cả sức nặng của câu thơ như tập trung vào đó. Họ phải
trải qua biết bao khó khăn thử thách trên chặng đường hành quân, thậm chí họ
còn mắc phải những căn bệnh quái ác như bệnh phong, sốt rét rừng, chết đường
chết bệnh còn nhiều hơn cả chết trận. Không viết là “ngã xuống, gục xuống”,
Quang Dũng viết “không bước nữa” biến từ thế bị động chuyển sang thế chủ
động làm bật lên sự ngang tàn, ngạo nghễ bản lĩnh của các anh.
Ngòi bút của Quang Dũng không né tránh hiện thực của đời lính. Câu thơ ta
có thể hiểu người lính với bước chân mỏi mệt ngủ gục lên súng mũ và muốn quên
đi tất cả. Nhưng cũng có thể hiểu dùng từ “gục” để diễn tả sự mất mát, hy sinh.
Cái chết của người Tây Tiến vừa phản ánh vinh quang hào hùng, người lính Tây
Tiến ra đi trong tư thế tay không rời vũ khí. Tư thế ấy như muốn nói với chúng ta
rằng: đến giây phút cuối cùng, các anh vẫn nắm chắc tay súng. Vẻ đẹp này ta
không chỉ thấy trong thơ của Quang Dũng mà nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng
thể hiện:
“Bạn ta đó ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa hề rời xa báng súng
Chân lưng chừng như nửa bước xung phong”
Đó là nhà thơ Lê Anh Xuân cảm phục người chiến sĩ giải phong quân trong chiến
đấu chống giặc Mỹ:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.”
Trở lại với câu thơ của Quang Dũng, ta thấy ba chữ “bỏ quên đời” ở cuối
dòng thơ gợi ra sự ngang tàn, phong trần, giảm bớt nỗi đau thương mất mát, đem
đến cho ta cảm giác “anh bạn” ấy ra đi một cách thanh thản lặng thầm mà cao cả.
Những cái chết thơm đất thơm trời ấy chẳng khác nào giấc ngủ của người lính
Tây Tiến mà thôi. Nhìn qua lăng kính lãng mạn thì đích thị là giấc ngủ ngàn thu
của các anh chiến sĩ. Trong bài thơ “Trăng trôi”, Tố Hữu viết:
“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏa nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên kiếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngất lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng.”
Câu thơ vang một nỗi buồn nhưng các anh cũng không thoát lui chùn bước,
không đầu hàng gian khổ mà vẫn hành quân cho đến hơi thở cuối cùng. Đây là
hình ảnh bi hùng, phù hợp với không khí của thời đại. Đất nước đang bước vào
cuộc chiến đấu quyết liệt cận kề cái chết nhưng chiến sĩ của ta vẫn giữ trọn lời thề
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Chính những không khí chiến đấu ấy cũng gây
nên chất men cho âm nhạc để nhạc sĩ thăng hoa thành bản nhạc hào hùng một
thuở:
“Đoàn vệ quốc quân một lần ta đi
Ta thấy vinh quang ghi ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết không lui.”
Hiện thực khắc nghiệt được thể hiện qua bút pháp lãng mạn, Quang Dũng
khắc tả cả cái chết của người lính Tây Tiến nhẹ tựa lông hồng. Đó là vẻ đẹp bi
tráng hào hùng của người lính. Câu thơ dưng dưng khôn tả trong lòng độc giả bao
thế hệ.
Nét bút về cảnh sắc núi rừng miền Tây đã giúp Quang Dũng vẽ lên một Tây
Bắc hoang dã và bí hiểm để từ đó người đọc nhận ra con đường hành quân của
người lính Tây Tiến vô cùng gian nguy, vất vả:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”
Hai câu thơ này của Quang Dũng gợi ra âm hưởng ảnh bài thơ “Nhớ Rừng”
của Thế Lữ, đặc biệt là ở đoạn cuối khi Thế Lữ thể hiện nỗi nhớ rừng của con hổ.
Điều đó ta cũng dễ dàng lý giải trong một lần nói chuyện, Quang Dũng từng tâm
sự: “Tôi cũng say thơ mới như bất cứ học sinh nào thời đó nhưng tôi thích thơ
Thế Lữ hơn cả. Đặc biệt là bài thơ Nhớ Rừng bởi tâm trạng sơn dã của nó.”
Nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng hoàn toàn mang sắc thái riêng biệt với những
những địa danh rất Tây Bắc.
Từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” khiến ta hình dung rõ hơn sự
khắc nghiệt dữ dội lặp lại như một vòng quay bất biến. Đặc biệt là hai thanh trắc
“thác, thét” như mở ra hình ảnh ngọn thác đổ ào ào, mạnh mẽ, gợi ra sự khắc
nghiệt của chốn oai linh, rừng thẳm như muốn cuốn phăng đi tất cả. Nói về địa
danh trong bài thơ này nhà thơ Vũ Quần Phương có nói “địa danh Mường Hịch
đọc lên có cảm giác như tiếng cọp đi trong đêm”. Hơn nữa ở đây có sự kết hợp
hai chữ “hịch, cọp” liền kề có âm điệu thật ấn tượng với hai dấu nặng xoáy
xuống, ta nghe như rờn rợn có tiếng bước chân đường núi từ khí của chúa Sơn
Lâm. Âm điệu thơ của Quang Dũng như gõ lên dây thần kinh của người đọc.
Hoang dại là vậy, hiểm nguy là thế nhưng người lính Tây Tiến vẫn đùa tếu, tinh
nghịch “cọp trêu ngươi” gợi ra tiếng cười khúc khích làm tan biến bao hiểm nguy
chết chóc. Tiếng cười là năng lượng sống, một nụ cười là mười than thuốc bổ, là
năng lượng sức mạnh, đồng nghĩa với sự thắng thế của con người trước hoàn
cảnh. Qua đây Quang Dũng vừa nói được con đường Tây Tiến gian nan, vừa ca
ngợi người lính trong hành trình đối mặt với nhiệm vụ nguy nan, dữ dội cũng bật
lên tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Cũng là tinh thần lạc
quan ấy, nụ cười của người lính trẻ cũng được Chính Hữu khắc họa trong bài
“Đồng chí”:
“Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có những gian truân
vất vả mà còn có những kỷ niệm ấm áp thấm tình ân nghĩa. Miền Tây không chỉ
có núi cao, rừng sâu mà còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp
quyện bên sườn núi có hương thơm quyến rũ của nếp xôi, nhất là có những sơn
nữ tình tứ, xinh đẹp:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Hai câu thơ có những từ ngữ được nhà thơ xóa đi các yếu tố kết nối, dáng
dấp như một bức tranh ấn tượng, cả nghệ thuật sắp đặt trong đó đã ghi lại ấn
tượng của cả thị giác, thính giác, khứu giác và cả xúc giác. Nhà thơ mở đầu câu
thơ bằng cụm từ “nhớ ôi” bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mạnh mẽ, mãnh
liệt sau những chặng đường hành quân mưa rừng buốt lạnh . Trong đêm phải đối
diện với “thác gầm thét, cọp trêu ngươi” thì kỉ niệm tình quân dân ùa về, ấm áp
xum vầy bên nồi cơm vấn vương quấn quýt với làn sương khói bếp mong manh ở
Mai Châu là kỉ niệm khó phai mờ. Tất cả đem đến cảm giác thanh bình hiếm hoi,
quý giá trong chiến tranh. Nồi xôi tỏa hương dịu ngọt, cùng các sơn nữ xinh đẹp
đã xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt người lính. Đây phải chăng là hương vị của
tình người, của tình quân dân ấm áp? Câu thơ giàu sức gợi vì thế càng làm khắc
khoải thêm một nỗi nhớ da diết.
Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” thật đa nghĩa. Có thể hiểu các
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận bát xôi ngọt
ngào hương nếp và tình anh em thơm thảo. Cũng có thể hiểu theo một nghĩa thật
lãng mạn của cụm từ “mùa em” là mùa lễ hội quê em, cũng có thể là mùa
hoa,mùa quả, mùa căng tràn sung sức đầy ắp hương hoa. Quang Dũng tạo ra
những nét mới mẻ táo bạo tha thiết về “mùa em” khiến cho Mai Châu không chỉ
là một địa danh với những kỉ niệm đẹp mà còn gợi nhớ hình ảnh những sơn nữ
miền Tây duyên dáng, tràn về xuân sắc rạng rỡ nụ cười cùng ánh mắt sóng sánh
niềm vui. Câu thơ hầu như toàn thanh bằng gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh xao
xuyến nồng nàn tới đê mê của những chàng trai Hà Thành hào hoa lãng mạn.
Những bữa ăn thắm tình đồng chí, thân thương, dịu nhẹ, bình yên trong tâm hồn
cũng được bật lên trong nhạc phẩm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
“Mùa cốm xanh về
Thơm bàn tay nhỏ
Cốm giữa mùa hè
Thơm bước chân qua.”
Với sự kết hợp giữa chất họa và nhạc, bút pháp hiện thực cảm hứng, lãng
mạn…khổ thơ đầu đã trở thành khúc tráng ca của người lính trong kháng chiến
chống Pháp. Trên nền thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở đó là hình ảnh người lính Tây
Tiến với cuộc hành trình gian khổ, với vẻ đẹp lãng mạn, kiêu hùng và tinh thần
lạc quan. Khói lửa chiến tranh đi qua và những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến
năm xưa giờ đây người còn kẻ mất nhưng:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
( Giang Nam)
Tiếp nối cảm xúc về những kỉ niệm ấm tình quân dân, khổ thơ thứ hai tái
hiện kỷ niệm đẹp nhất, đáng nhớ nhất, sâu sắc nhất trong đời chiến binh, kỷ niệm
một đêm giao lưu văn nghệ với bản làng mênh mông hư ảo và cảm xúc dâng lên
trong lòng người chiến người Tây Tiến. Cảnh mở ra một thế giới khác lạ, thay vì
cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở là cảnh đẹp thi vị mỹ lệ duyên dáng bởi viết bút
mềm mại uyển chuyển.
Vẻ đẹp lung linh huyền ảo của núi rừng đã hấp dẫn Quang Dũng để rồi
khắc sâu trong tâm khảm nhà thơ hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ của người
lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến chung vui, vẻ đẹp tình quân dân thắm
thiết trong đêm liên hoan văn nghệ mang đậm màu sắc lãng mạn trữ tình, khắc
họa sinh động trong không khí êm đềm thâm u bỗng bừng sáng nhộn nhịp sôi nổi
hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man diệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Đêm liên hoan văn nghệ được miêu tả bằng những chi tiết giàu sức gợi với
hình ảnh “ Hội đuốc hoa”, Quang Dũng gọi đêm văn nghệ bằng cái tên rất đẹp, rất
thơ, rất đa nghĩa độc đáo, gợi nhiều cách hiểu thi vị, tính tứ bất ngờ mà vẫn hết
sức hợp lý. Theo tiếng Hán, “hội đuốc hoa” nghĩa là “động phòng hoa chúc”, đêm
hội giao duyên, là đêm tân hôm của các cặp tình nhân. Giữa màn đêm sương dày
đặc, mênh mông của núi rừng bỗng bừng sáng lung linh ánh lửa đuốc cùng âm
thanh rộn rã của tiếng khèn, tiếng nhạc vang dậy khắp núi rừng khiến lòng người
bừng dậy niềm hân hoan phơi phới, náo nức, rạo rực.
Đồng điệu với bài thơ "từ ấy" của Tố Hữu: " Từ ấy trong tôi bừng nắng
hạ". Ở đây tác giả Quang Dũng sử dụng cấu trúc đảo ngữ " bừng lên" vừa có
thần, vừa có hồn, vừa là điểm nhấn, điểm sóng cho cả câu thơ, cả không gian núi
đồi. Nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa đột ngột của lửa đuốc,
xua tan tăm tối, lạnh lẽo của núi rừng mà thể hiện niềm sướng rạo rực tưng bừng
trong lòng người. "Bừng lên" đa nghĩa, vừa diễn tả được cảnh, vừa thể hiện được
cảm xúc của con người.
Trung tâm của đêm liên hoan văn nghệ là những sơn nữ Tây Bắc trường
những bộ trang phục lộng lẫy, rực rỡ với duyên vẻ e thẹn, tình tứ, vừa duyên
dáng, vừa nồng nàn quyền rũ trong vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ phương xa. Họ là
linh hồn, nổi bật giữa đoàn quân xanh màu lá và duyên dáng trước những người
lính oai hùng. Tất cả hòa mình trong âm thanh tiếng khèn, thanh điệu múa xòe
uyển chuyển đầy màu sắc. Thú vị hơn là hai chữ "kìa em" vừa là lời chào vừa thể
hiện tâm trang ngỡ ngàng, ngạc nhiên, thoảng thốt say mê của những chàng trai
Tây Tiến trước vẻ đẹp của các cô sơn nữ phương xa, mơ màng trong man điệu
của núi rừng, có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của những sơn nữ, cũng có thể
hiểu là giai điệu say đắm ngọt ngào cùng tiếng khèn vừa mới mẻ, lạ lùng, vừa mê
hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sĩ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp,
người lính Tây Tiến say đắm và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm
thanh ngọt ngào của đêm lửa trại. Tâm hồn của những chàng trai Tây Tiến như
được thăng hoa, nên ngôn từ cũng có sự thay đổi, từ em chuyển sang nàng, vừa
diễn tả vẻ đẹp quyến rũ của những sơn nữ vùng Tây Bắc lộng lẫy, vừa giãi bày
tâm hồn phiêu diêu trong thế giới mộng mơ. Thiên nhiên và con người như hòa
cùng một nhịp, cùng tấu lên khúc nhạc tình ca Tây Bắc rạo rực để những chàng
trai Tây Tiến xây hồn thơ giữa những vũ điệu âm nhạc, những vẻ đẹp say lòng
người của phương xa đất lạ:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Câu thơ sáu thanh bằng gợi tiếng khèn, tiếng nhạc chơi vơi, huyền diệu như
cuốn say đắm lòng người trong điều kiện hành quân gian truân đầy hiểm trở. Đây
là những giây phút tuyệt vời hiếm có, là những sự kiện không thể nào quên tong
đời chiến binh, nó như cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội cụ Hồ. "Viên
Chăn" là một thủ đô của Lào, chiến sĩ của ta còn chiến đấu trên cả nước bạn Lào,
góp phần làm sâu sắc tình hữu nghị Việt Lào:
"Thắm tình hai đất nước"
Hai mái nhà một nóc Trường Sơn"
(Hồ Chí Minh)
Nếu cảnh ở bốn câu đầu mang niềm lạc quan say mê ngây ngất với đêm
liên hoan rực rỡ vui tươi thì cảnh ở bốn câu sau lại mang đến cảm xúc bâng
khuâng thơ mộng, cảnh nhuốm màu sắc cảm xúc, tâm trạng của con người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Theo dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Không gian sông nước huyền ảo một màn sương, cảnh sông nước lúc
chiều tà giăng mắc bởi sương mù là nét đặc trưng của miền Tây gợi tâm trạng
bâng khuâng, man mác, không gian sông nước ấy yên ắng, hoang dạ nhưng tất cả
hiện về trong hoài niệm của nhà thơ, một tâm hồn giàu cảm xúc, tâm hồn nhạy
cảm, cảm nhận tinh tế khung cảnh dòng sông một làn sương mỏng giăng mắc,
một bờ lau lặng lẽ hoang dạ, một dáng hoa nhẹ đong đưa. Khung cảnh sông nước
như có chút gì đó mưa hồ, phảng phất chút tâm tình của rừng núi. Bằng cảm xúc
lãng mạn, ông đã thổi hồn mình vào cảnh vật khiến sự vật rất đỗi bình thường,
thân thuộc ấy bỗng trở nên có hồn, có thần để mãi trong trái tim người đọc một
không gian mờ nhoà, huyễn hoặc, mơ mộng, tất cả như được phủ lên bởi một làn
sương bàng bạc. Hình ảnh “ bờ lau” vô tri bên sông phất phơ theo chiều gió qua
cảm nhận của người đi cũng chất chứa nỗi lòng quyến luyến như có hồn phảng
phất trong gió, trong cây. Phải chăng là linh hồn của tạo vật hay hồn người đã gửi
gắm, kí thác vào hồn cảnh vật? Lau là hình ảnh tượng trưng cho xứ sở Tây Bắc,
nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm nhận và miêu tả hình ảnh lau biểu tượng cho mùa
thu còn nhà thơ Hữu Hoàng hoài niệm hồn lau trong cảm giác buồn, vắng vẻ, lặng
lẽ, nhạt nhoà:
“ Trường vắng mưa mờ buông dốc xa
Dây leo nửa mái sắc rêu nhoà
Người xa pha phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha”
( Hoa lau trường cũ)
Trong bài thơ “ lau biên giới” của thi sĩ Chế Lan Viên:
“ Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chi trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cũng với gió giao tranh”
Ở đây, Quang Dũng đã miêu tả hồn lau không phải màu sắc, hình dáng của
lau mà tả sâu bên trong tạo vật bằng nét vẽ tinh tế, Quang Dũng đã nắm bắt được
cái mộng, cái mơ của cảnh, cái hư ảo của hoài niệm. Bởi thế, nhà thơ làm hiện lên
không gian sông nước Châu Mộc thật thi vị, thơ mộng nhuốm màu cổ tích huyền
thoại. Hai câu thơ đầu, tác giả phác hoạ lên bức trang vừa hoang sơ, thơ mộng.
Bút pháp chấm phá tinh tế, không gian sông nước rộng lớn, cảnh vắng người
thưa.
Câu thơ nhắn gửi người đi “ người đi Châu Mộc chiều sương ấy” nhưng thực
chất là hướng về Châu Mộc, về núi rừng miền Tây trong “ chiều sương ấy”.
Đại từ “ ấy” chuyển dịch không gian cụ thể xác định thành không gian xa xăm,
mờ ảo, vừa tạo độ lùi về thời gian. Câu thơ cất lên như những câu hỏi trong phép
điệp cấu trúc “ có thấy, có nhớ” nhằm nhấn mạnh, bật lên nỗi trăn trở khôn nguôi
trong lòng người lính cụ Hồ.
Nổi bật trong không gian sông nước ấy là hình ảnh con người chợt xuất
hiện trên con thuyền độc mộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ tả mà còn gợi về một kí
ức đã xa: “ Có nhớ dáng người trên độc mộc”. “ Độc mộc” là con thuyền làm
bằng cây gỗ to, khoét trũng để vượt thác leo ghềnh. Chính vì hình ảnh đó khiến
câu thơ vừa mang nét duyên dáng, vừa mang nét khoẻ khoắn, rắn rỏi của con
người Tây Bắc. Dáng người ấy có thể là hình dáng mảnh mai bé nhỏ nhưng cũng
có thể là dáng kiêu hùng cứng cỏi của những chàng trai, cô gái. Hẳn đây là một
dáng rất đẹp mới khắc sâu trong tâm khảm người lính Quang Dũng đến vậy. Ấn
tượng hơn nữa là hình ảnh những cách hoa đong đưa theo dòng nước gợi cảm
giác mềm mại, nhẹ nhàng làm cho lòng người thêm say đắm, bâng khuâng.
Chữ nghĩa của Quang Dũng thật tài hoa, tinh tế. Nhà thơ dùng từ “ đong
đưa” dễ tả chính xác sự lay động của hoa, vừa thể hiện cái tình tứ nên thơ mà
dùng từ “ đung đưa” không có được. Đung đưa chỉ miêu tả được cái dập dờn
nhưng âm hưởng cứng và thô, còn “ đong đưa” vừa diễn tả trạng thái đung đưa,
lại vừa có nét đa tình, dịu dàng, gợi cái quyến rũ của cảnh.
Bằng biện pháp chấm phá tài hoa, Quang Dũng đưa người đọc vào thế giới
của cái đẹp, thế giới của cõi mộng lung linh màu sắc, huyền ảo, réo rắt âm thanh,
tràn đầy ánh sáng. Tám câu thơ với hai khung cảnh khác song đều có chung một
ấn tượng thi vị, huyền ảo. Bốn câu đầu ngân nga như khúc nhạc được ngân lên từ
tâm hồn ngây ngất, say mê của người lính, bốn câu sau huyền ảo, huyễn hoặc
cảnh thưa thấp thoáng trong bóng mây, bóng hoa, cảnh không rõ nét mà mờ trong
làn sương bồng bềnh, nhà thơ chủ yếu phác hoạ vài nét thưa thoáng cốt ghi lấy
cái hồn của cảnh. Có thể nói, đây là những vần thơ đẹp nhất bởi hơn đâu hết chất
nhạc, chất thơ, chất hoạ hoà quyện với nhau đến mức khó có thể tách bạch. Đoạn
thơ để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ.
Các hình ảnh được miêu tả hết sức độc đáo, cảm hứng lãng mạn đan cài cảm
xúc trữ tình đã khắc hoạ nỗi nhớ da diết và tình yêu, sự gắn bó với thiên nhiên,
cuộc sống con người miền Tây. Đúng là “ thơ là tiếng hát của trái tim”. Như nhận
định của nhà giáo Chu Văn Sơn: “ Nhà thơ Quang Dũng đã có khả năng đánh
thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức con người”. Vì thế, đoạn thơ giúp
người đọc cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm tinh tế của Quang Dũng và tinh
thần lạc quan yêu đời, trân trọng những phút giây, những khoảnh khắc của thiên
nhiên, cuộc sống, cuộc hành trình gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn
cảnh khó khăn.
Sau nỗi nhớ về một Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội về đoàn quân Tây Tiến và
những kỉ niệm không thể nào quên của đêm lửa trại và bức tranh sông nước miền
Tây Bắc thì sang đến khổ ba này, nhà thơ xứ Đoài dành trọn vẹn để tái hiện chân
dung người lính Tây Tiến hào hùng, lãng mạn, hào hoa.
Hình tượng tập thể người lính Tây Tiến xuất hiện vừa chân thực, vừa có
phần kì lạ qua bốn câu thơ đầu:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Bức chân dung ngoại hình người lính Tây Tiến được khắc hoạ bằng thủ
pháp đối lập tương phản giữa ngoại hình ốm yếu và nội tâm mãnh liệt, ngang tàng
cũng nét vẽ gân guốc, lạ hoá được bắt nguồn từ hiện thực khốc liệt. Họ sẵn sàng
đối mặt với những chông gai, bệnh tật. Nếm trải muôn vàn khó khăn thử thách
nên thân hình tiều tuỵ vì căn bệnh sốt rét rừng đến mức trọc cả đầu, da xanh xao
như màu lá. Đó là hiện thực kháng chiến, Quang Dũng miêu tả chân thực, ông
không hề né tránh hiện thực. Chân dung người lính hiện lên với những nét vẽ kì lạ
khác thường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến gian khổ qua lăng kính lãnh mạn,
tâm hồn của nhà thơ thì trở thành cách nói có phần ngang tàng, khí phách người
lính, cũng có phần tinh nghịch, hóm hỉnh song đầy chủ động: “ Tây Tiến đoàn
binh không mọc tóc”. Hình ảnh “không mọc tóc” gợi lên đa nghĩa. Đó có thể là
người lính chủ động cạo tóc để thuận lợi trong việc chiến đấu. Cũng có thể hiểu,
đó chính là hậu quả của căn bệnh sốt rét rừng khiến cho họ bị rụng tóc. Quang
Dũng không miêu tả “ bị rụng tóc” mà “không mọc tóc”, biện pháp lãng mạn của
nhà thơ khiến người lính Tây Tiến hiện lên “ ốm mà không yếu”, khoẻ khoắn, chủ
động hơn rất nhiều. Họ toát lên một khí phách oai phong, lẫm liệt. Câu thơ để lại
ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả về khẩu khí ngang tàng của nó. Hình ảnh
những anh lính vệ trọc rất nổi tiếng một thời vì thế lắng đọng qua tâm hồn các
nhà thơ như Chính Hữu trong bài “ Đồng Chí” phản ảnh chân thực khốc liệt của
chiến tranh:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vừng trán ướt mồ hôi”
Sau này, một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về
căn bệnh sốt rét rừng của người lính với những vần thơ tê tái:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
Nghệ thuật đảo ngữ và cụm từ “ đoàn bình” gợi lên sự khỏe khoắn, hùng
dũng lạ thường của đoàn quân đi điệp điệp trùng trùng của “tam quân tì hổ khí
thôn ngưu”.
Câu thơ thứ hai cũng là bắt nguồn từ hiện thực khốc liệt ấy, nhà thơ miêu tả
vẻ xanh xao vì đói kém, sốt rét của người lính song bằng cách diễn tả độc đáo, họ
mang dáng vẻ oai phong, dữ dội tựa chúa sơn lâm. “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm”. Nếu ở đoạn thơ trên, người lính phải chịu sự đe dọa của cọp dữ thì ở đây
họ chiến đấu với tinh thần dũng cảm, can trường như những con hổ nơi rừng
thiêng núi bạc. Sắc “xanh màu lá” là màu của lá ngụy trang, quân trang của
những người lính cụ Hồ nhưng cũng có thể hiểu là màu da xanh xao xao, ốm yếu
bởi sốt rét rừng, thiếu thốn về vật chất. Song hình thức ấy được khúc xạ qua ngòi
bút lãng mạn của Quang Dũng, hình tượng người lính toát lên vẻ oai phong lẫm
liệt mang khí phách hào hình mạnh mẽ. Quang Dũng miêu tả hình ảnh hiện thực
gian khổ của người lính song ông không chú trọng vào hậu quả của nó mà
nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất phi thường, hào hùng lãnh mạn đem đến ấn
tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường vượt lên gian khó. “Dữ
oai hùm” là khí phách của đoàn quân ấy. Vẫn bằng cách diễn đạt ấy kết hiểu với
đảo ngữ tạo nên vẻ đẹp khỏe khoắn gân guốc cho người lính, nhất là dáng vẻ oai
phong lẫm liệt của người lính quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh.
Hai câu thơ bổ sung nâng đỡ cho nhau câu sau nâng đỡ cho câu trước
cùng bút lên tỏa sánh ánh hào quanh phẩm chất kiêu hùng, hiên ngang, oai phong
lẫm liệt của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ khác thường dáng vẻ bề ngoài mà
còn khác thường ở tư thế hiên ngang, oai hình chủ động trước hiện thực gian khó.
Nhớ cảm hứng lãng mãn đã xoá đi vẻ tiều tụy bi thương, thay vào đó là vẻ đẹp
kiêu hùng, họ mang dáng dấp, vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng của những tráng sĩ thời
xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, lẫm liệt,
oai phong trong dáng vẻ dữ dội uy nghi mà còn được tác giả thể hiện ở chiều sâu
tâm hồn giàu mộng mơ:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
“ Mắt trừng” là chi tiết cực tả dữ dội, sục sôi, ánh mắt mở to hướng thắng về
phía trước, ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi
mộng chiến trường của người con trai thời loạn. Hình ảnh thơ khắc họa nét đẹp
lãng mạn trong tâm hồn người lính có lý tưởng, khát vọng lớn, ra đi vì nghĩa lớn,
những người lính từ biệt phố xá Hà Nội, lung linh hoa lệ “ ra đi đầu không
ngoảnh lại” ( Nguyễn Đình Thi) với quyết tâm dứt khoát, coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Song họ cũng là những chàng trai giữa độ đôi mươi với bao ước mơ
hoài bão, lý tưởng nhưng sâu thẳm bên trong tâm hồn họ vẫn mơ về “ dáng kiều
thơm”, nhớ về những dáng hình yêu kiều, thiết tha của thiếu nữ Hà Thành hào
hoa, thanh lịch, là chất men say của cuộc sống như tiếp thêm sức mạnh giúp họ có
thể vượt lên và đứng vững giữa chiến trường mưa bom bão đạn, lập lên những
chiến công hiển hách cho quê nhà, cho Tổ Quốc thân yêu. Câu trên nói cái “
mộng qua biên giới” chính là mộng ước chiến thắng, mộng quét sạch kẻ thù ra
khỏi biên giới, câu dưới nói cái hào hoa, hai câu thơ khắc họa vẻ đẹp của những
chàng trai Hà Nội:
“ Chẳng thơm cũng thể hoa Nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”.
Kiêu hùng lãng mạn, gạt tình riêng để lại cho quê nhà, ra đi vì nghĩa lớn,
một tinh thần dứt khoát, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Ở đây,nhà thơ không đi
vào miêu tả cụ thể phẩm chất tốt đẹp của một chiến sĩ nào mà ông đã chọn những
nét tiêu biểu nhất của người lính để tạc nên bức tượng đài tập thể nhằm khắc họa
gương mặt chung của cả đoàn quân bằng chất liệu ngôn từ, Quang Dũng tạc vào
bức tượng đài ấy hai nét vẽ chủ đạo bị và hùng làm nên cái thần cái hồn cho bức
tượng đài bất tử người lính Tây Tiến. Hai nét vẽ ấy hòa nhập với nhau nâng đỡ
nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng cho hình tượng người lính.
Trong những chặng đường xa, heo hút, hiểm trở của rừng thiêng nước
độc, của đạn nạt tên rơi, biết bao chiến sĩ đã bỏ lại đồng đội khi cuộc đời còn rất
trẻ. Họ ra đi giữa tuổi đôi mươi đang tràn nhịp sống với bao khát vọng cao đẹp.
Câu thơ “ rải rác biên cương mồ viễn xứ” là hình ảnh thực, miêu tả hiện thực
chiến trường khi những người lính hy sinh trên đường hành quân, họ chôn cất rất
sơ sài, những nấm mồ rải rác biên cương, hằng ngày vẫn trải ra trên các cung
đường hành quân của người lính Tây Tiến. Tuy nhiên, sức nặng của câu thơ nằm
ở chữ “mồ”, mồ cũng có nghĩa là mộ nhưng nó không phải mộ theo đúng nghĩa
mà chỉ là những nấm đất đào vội, chôn mau, sơ sài, vội vã trên đường hành quân.
Đồng đội đã xót lòng để các anh nằm lại trong những nấm mồ rải rác trên từng
chặng đường hành quân thiếu thốn hơi ấm của gia đình, của quê hương. Các anh
khi sống chiến đấu gian khổ, hy sinh cũng thiếu thốn bội phần vì thế sự hy sinh ấy
cũng gợi lên nỗi bi thương trong lòng người ở lại. Đặt trong không gian bao la
mênh mông của miền biên giới hoang lạnh những nấm mồ ấy lại càng đơn lạnh,
lẻ loi khiến hình ảnh thơ trở nên dưng dưng khôn tả. Câu thơ gợi lên cái bị mà
không lụy, ảm đạm mà không yếu mềm.
Cái bi ấy đã được nâng đỡ bởi sử dụng hệ thống từ Hán- Việt mang màu
sắc cổ kính trang trọng thể hiện không khí thiêng liêng, lòng thành kính của nhà
thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Những từ ngữ ấy phải chăng là những nén tâm
nhang thắp lên tiễn đưa những người anh hùng đã ngã xuống. Chính hệ thống từ
ngữ ấy với những hình ảnh giàu sức sống khiến cho những nấm mồ rải rác nơi
biên cương không hoang lạnh mà trở nên hào hùng. Các anh như các dũng tướng
chấp nhận cảnh “ da ngựa bọc thây” đầy bi tráng. Những người lính ra đi rắn rỏi,
mạnh mẽ, dù hy sinh, chết chóc nhưng vẫn không làm họ nhụt chí. Ngược lại, họ
vẫn quyết tâm ra đi với một lý tưởng cao đẹp:
“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình ảnh thơ đã tô đậm lý tưởng cao đẹp và khí phách phi thường của
những chàng trai Tây Tiến. Họ đã không tiếc “ đời xanh”- quãng thanh xuân,
quãng thời gian đẹp nhất trong cả một đời người để hiến đang cho đất nước, đó là
lý tưởng của cả thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kháng chiến. Trong câu
thơ, nhà thơ sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “ chiến trường đi” để nhấn mạnh đích
đến của người chiến sĩ trong hoàn cảnh đất nước đang gặp loạn, vận mệnh đất
nước mong manh. Chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa chọn cao cả, đầy
trách nhiệm của cả một thế hệ. Cách nói “ chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt
khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian lao, hiểm nguy và cái chết. Họ sẵn sàng
hiến dâng cả đời xanh, độ xuân thì, sung sức nhất cho Tổ quốc. Hơn thế nữa, tính
mạng của họ vẫn sẵn sàng hy sinh để làm nên dáng hình đất nước, dáng hình xứ
sở, để cho đất nước trường tồn mãi muôn đời. Họ ra đi với một tinh thần của cả
thời đại "Người ra đi đầu không ngoảnh lại". Đó là lý tưởng sống cao đẹp, hào
hùng. Những chiến sĩ, kiên trung, quả cảm, chiến đấu hết sức mình xả thân vì
nghĩa lớn còn được thể hiện trong một bài thơ khác:
"Đầu bị thương không rời trận địa
Giáp mặt quân thù quên hết nỗi đau riêng"
Như vậy người lính Tây Tiến dù dáng hình tàn tạ nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lý
tưởng.
Hai câu thơ cuối của khổ ba, Quang Dũng đã tái hiện thành công vẻ đẹp
người lính, viết về cái bi nhưng không bi thương mà bi hùng, bi tráng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh “ áo bào” là hiện thực đến xót xa của chiến tranh. Người lính nằm
xuống nơi chiến trường không có một manh chiếu để khâm niệm nhưng cái thiếu
thốn về vật chất ấy lại được khoả lấp bằng tinh thần, bằng sự hiên ngang của
người lính. Đặc biệt qua cách nói mĩ lệ, hoa mĩ của cảm hứng lãng mạn về sự hy
sinh của người lính Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ là dịu đi nỗi đau mất mát
trước hiện thực tàn nhẫn mà còn trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng
hơn rất nhiều. Nhà thơ gợi lên sự thật chung của cả thời chống Pháp, là sự thiếu
thốn về vật chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội
phần. Người chiến sĩ ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy
một chiếc chiếu để niệm thân mà khi ngã xuống vẫn mặc nguyên tấm áo thường
mặc hàng ngày trên đường hành quân, có khi là tấm áo đã sờn vai bạc màu, tấm
áo có vài mảnh vá nhưng với thái độ trân trọng, biết ơn, cảm phục sâu sắc đồng
đội, nhà thơ Quang Dũng như thấy họ đang mặc tấm áo chiến bào của những
chiến tướng đi vào cõi vĩnh hằng bất tử cùng sông núi. Hình ảnh thơ liên tưởng
tới lý tưởng của bậc trượng phu, của những tráng sĩ xả thân vì nghĩa lớn, sẵn sàng
da ngựa bọc thây nơi chiến trường. Người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ “anh về đất”.
Cách nói “về đất” không chỉ là cách nói giảm nói tránh mà còn mang nghĩa biểu
tượng thiêng liêng. Cái chết không phải là đi vào cõi hư vô, bất định mà trở về
với đất mẹ yêu thương, tình cảm. Đất mẹ mở lòng đón đứa con đầy trách nhiệm
của mình trở về. Họ ra đi như thế đấy! Họ nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó
trên chằng đường hành quân đầy gian khổ, nhọc nhằn. Họ đã để mình lại nơi biên
cương hoang vu lạnh lẽo vì lý tưởng cao cả. Cái chết của họ dù nhiều xót xa quặn
thắt trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách thanh thản “chẳng tiếc đời
xanh”. Các anh chỉ là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ
không phải chết. Những người lính cụ Hồ ấy đã ngã xuống, đã hóa thân cũng
dáng hình xứ sở để rồi mỗi khi thấy núi hình sông, thấy tên đất tên làng đều có
bóng dáng các anh ở đó. Các anh hy sinh trở về trong lòng đất mẹ để cho “ cây
đời mãi mãi xanh tươi”, đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống bất
tận.
Câu thơ “sông Mã gầm lên khúc độc hành” nhằm diễn tả linh hồn
người tử sĩ hòa cùng sông núi. Con sông Mã tấu lên khúc độc hành, khúc nhạc
đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: âm hưởng dữ dội, hình
tượng sông Mã ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa tô đậm cái chết bi
hùng của người lính Tây Tiến. Đó là tình cảm- sự hy sinh làm lay động đất trời
khiến cho dòng sông gầm lên khúc độc hành đau đớn, tiếc thương. Câu thơ gợi
âm hưởng hào hùng vừa khiến cho sự hy sinh của các anh không bi lụy mà thấm
đậm tinh thần bi tráng, nâng cao lên tầm vóc sử thi hoành tráng, đưa linh hồn các
anh chiến sĩ vào cõi trường cửu.
Với nghệ thuật độc đáo, giàu chất nhạc, giọng điệu trang trọng, trầm buồn
cùng sự kết hợp cảm hứng lãng mạn với màu sắc bi tráng, nhà thơ không chỉ thể
hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự
ra đi của đồng đội mà còn làm nổi bật bức tượng đài người lính bất tử.
Bốn câu thơ cuối với chất giọng nhỏ nhẹ như lời tâm sự nhưng vẫn mang
âm hưởng hào hùng đầy khí phách đã khái quát lại những ngày Tây Tiến và
những kỉ niệm không thể nào phai nhòa trong tâm trí nhà thơ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Nhà thơ lại nhắc đến Tây Tiến với hình ảnh “ người đi không hẹn ước”. Ta
có thể hiểu là những người lính Tây Tiến ra đi không hẹn trước ngày về với tinh
thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Tinh thần ấy đã trở thành hào khí của cả
một thế hệ như lời bài hát “ đoàn về quốc quân một lần ra đi nào có xá chi ngày
trở về...” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh của tráng sĩ xưa:
“ Tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn”
Đồng thời, người đi không hẹn ước ta cũng có thể hiểu là những người lính
tuy không hẹn trước nhưng họ cùng chung lý tượng chiến đấu. Chính điều đó đã
khiến cho những con người không hẹn trước mà được quy tụ về đây trở thành
binh đoàn với cái tên hết sức đáng yêu mà kiêu hãnh: Tây Tiến.
Khi nhớ đến Tây Tiến, Quang Dũng lại nhớ đến hình ảnh:
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Từ láy “ thăm thẳm” vừa diễn tả không gian xa xôi, vừa diễn tả những thăm
thẳm trong lòng người một nỗi nhớ nhung, dù hiểu theo cách nào, người đọc đều
cảm nhận được một tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho đoàn binh Tây Tiến
vừa khơi lên mạch chảy xót xa, buồn thương trong lòng độc giả.
Bài thơ khép lại bằng tinh thần của thời đại Tây Tiến “ nhất khứ bất phục
hoàn” với lời thề son sắt, chắc nịch: dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, có khốc liệt
đến mấy đi chăng nữa thì những chiến sĩ Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với cuộc
chiến chống xâm lược:
“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Dường như nhà thơ đang thể hiện tâm nguyện âm thầm mà thủy chung son
sắt của tất cả những ai đến Tây Tiến. Trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung
đoàn, với miền Tây là quãng thời gian đẹp nhất, trân quý nhất. “Mùa xuân ấy” có
thể là mùa xuân của tuổi trẻ, của lòng người, của cách mạng, của ngày thành lập
trung đoàn (1947). Đó là khoảng thời gian quý giá nhất, đẹp nhất, khoảng thời
gian, không gian phơi phới, rạo rực xuân thì vời vợi nhớ thương, vậy mà đã phải
chia phôi để “hồn về Sầm Nứa”. Thế nhưng, dù chia xa nhưng linh hồn người
lính Tây Tiến mãi gắn bó với cuộc chiến hào hùng của dân tộc với Sầm Nứa,
Mường Hịch, Pha Luông.. quyết tâm thực hiện lý tưởng.
Hai câu thơ còn gợi lên trong lòng người đọc một cách hiểu khác là
người lính Tây Tiến họ đã vĩnh viễn nằm lại trong nấm mồ hoang lạnh “miền viễn
xứ”, họ lên Tây Tiến “ mùa xuân ấy” đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, song
hồn họ- những người tử sĩ vẫn nguyện theo bước chân đồng đội chiến đấu đến
cùng. Ý thơ để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi tái tê ngậm ngùi cho người ở lại.
Tình yêu và sự gắn bó này về sau cũng được Chế Lan Viên khẳng định:
“ Khi ta ở chỉ là nơi đất nở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Tóm lại, về nghệ thuật trong bài thơ Tây Tiến, thể hiện chủ yeeud bằng bút
pháp hiện thực và lãng mạn làm nên sự thành công cho bài thơ. Ngôn từ mới lạ,
các từ chỉ địa danh đan xen từ thuần Việt với Hán Việt, từ láy tạo nên âm hưởng
hào hùng, khí phách mạnh mẽ kiên cường. Hàng loạt các biện pháp tu từ được sử
dụng đa dạng và hiệu quả. Hơn hết là thể thơ thất ngôn trường thiên với giọng
điệu đa thanh lúc hào hùng, lúc lại trầm lắng, chất nhạc, chất họa hòa quyện cùng
chất thơ góp phần tạo nên ma lực hấp dẫn cho bài thơ.
Giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định: “ Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu,
nhạc điệu của cuộc sống và tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng,
vừa mạnh mẽ, vừa uyển chuyển khi người đọc về với những kỉ niệm xa, nên thơ
mà gợi cảm.” Có thể nói, Quang Dũng đã góp phần vào “Thiên sử vàng Tây
Tiến” cho văn học dân tộc thêm rạng rỡ với tất cả tấm lòng thương nhớ, sâu sắc.
Nhà thơ đã khắc hoạ thành công bức tượng đài bằng thơ, bằng nghệ thuật của
ngôn từ, qua đó gợi niềm tiếc thương vô hạn trong lòng người đọc trước những
tấm gương anh dũng của một dân tộc anh hùng. Đó chính là âm hưởng của thời
đại, là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của những con người:
“ Ôi tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi con sông...”
Nhà thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mỹ có viết:
“ Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”.
Không chỉ là người lính trong kháng chiến chống Mỹ, người lính từ thời
chống Pháp đã “ghi lấy cuộc đời mình” bằng cách uyển chuyển sử dụng
con chữ và sáng tạo qua các hình ảnh thơ. Và Quang Dũng- một nhà thơ
của thời đại đã xuất sắc làm nên điều đó khi chỉ dùng ngôn từ mà có thể
khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng
mạn mà đậm chất bi tráng trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây dữ
dội mà mỹ lệ.
Thật vậy, thơ ca không phải là tất cả nhưng thơ ca lại là chứng nhân
lịch sử ghi chép lại toàn bộ những gì đã qua .Nhờ có thơ ca, lịch sử trở
nên cụ thể, sinh động và làm cho mọi người luôn nhớ về một thời hào
hùng ấy. Đó là mùa xuân những năm 47- 48 của cuộc kháng chiến chống
Pháp trường kỳ, binh đoàn Tây Tiến được thành lập với nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt- Lào đánh tiêu hao sinh lực
địch. Họ đóng quân và hoạt động tại một địa bàn khá rộng trải dài từ Tây
Bắc tới Sầm Nưa ( Lào). Họ là phần lớn là các thanh niên Hà Nội gồm
học sinh, sinh viên, tri thức tự nguyện ra đi, chiến đấu trong hoàn cảnh
gian khổ, thiếu thốn vật chất, đối diện với sốt rét hoành hành nhưng vẫn
sống rất lạc quan, dũng cảm và anh hùng. Vậy nên, Quang Dũng đã sáng
tác “ Tây Tiến” như một bản nhạc họa ghi chép đầy đủ những gì đã xảy
ra trong thời gian mình và đồng đội cùng nhau làm người lính của binh
đoàn Tây Tiến năm xưa bằng tất cả sự thương nhớ và kính trọng nhất.
Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Liêu Chanh và được in trong tập
“Mây đầu ô”.
Có lẽ vì quá nhớ, quá yêu nên Quang Dũng lúc đầu đã đặt tên cho
tác phẩm tên là “ Nhớ Tây Tiến” nhưng khi in lại chỉ còn vẻn vẹn hai
tiếng “ Tây Tiến”. Nếu để nhan đề là “ Nhớ Tây Tiến” như ban đầu, cảm
xúc chủ đạo bài thơ đã được nhắc tới ngay khi ta vừa đọc lên. Tuy nhiên,
nhan đề ấy không toát lên được hình tượng trung tâm của tác phẩm là
người lính Tây Tiến và núi rừng Tây Bắc dữ dội, thơ mộng. Hơn nữa,
thêm chữ “nhớ” còn khiến cho nhan đề thêm ủy mị, mềm mại, không
phù hợp với tinh thần hào hùng, bi tráng của bài thơ. Vì vậy, chỉ cần đơn
giản sử dụng hai chữ “ Tây Tiến” nhà thơ đã gói gém tất thảy. Vừa có
thể toát lên hình tượng nổi bật của tác phẩm vừa thể hiện đúng cái chất
nhà lính rắn rỏi, chắc khỏe, hào hùng. Đặc biệt còn khiến cho tên bài thơ
trở nên hàm súc, cô đọng tựa như tên của một khúc quân hành.
Khúc quân hành ấy mở đầu bằng14 câu thơ gợi lên chặng đường
gian khổ mà người lính Tây Tiến phải trải qua trong cái nền trời hùng vĩ
của cực Tây tổ quốc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ lại mở đầu bằng hình ảnh con sông
Mã. Đó là con sông trải dài trên miền đất Tây Bắc- miền đất hoạt động
chính của các anh. Là nơi các anh chiến đấu, hành quân hay có cả những
cuộc “chia tay” không có ngày trở về. Với người lính Tây Tiến họ coi “
sông Mã” như người bạn thân thiết, là chứng nhân lịch sự ghi lại mọi
chặng đường hành quân đồng thời chứng kiến mọi tội ác của kẻ địch.
Sông Mã như được Quang Dũng thổi vào cái hồn, luôn mang những cảm
xúc đa dạng như con người. Sự xúc động đó lại được kéo tiếp sang hai
từ “Tây Tiến”- chỉ đoàn binh Tây Tiến và cũng là nỗi nhớ tha thiết của
tác giả. Đỉnh điểm của cảm xúc được bộc lộ mạnh mẽ qua từ ‘‘ơi!” biến
câu thơ đầu tiên trở thành tiếng gọi đến da diết, não lòng về kỉ niệm, về
đồng đội, về thời huy hoàng rực lửa. Nhịp thơ 4/3 kết hợp dấu chấm than
tạo một cảm giác trống trải, mênh mông pha chút cô đơn .Chính vì vậy,
lòng người lính mới phảng phất một nỗi “nhớ chơi vơi”. Một nỗi nhớ
được điệp đi điệp lại qua hai vế thơ để nhấn mạnh nỗi niềm thường trực,
da diết và mãnh liệt. Một cái nhớ vô cùng quen thuộc trong thơ ca như
trong ca dao có viết:
“ Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm”.
Hay Xuân Diệu lại có những vần thơ:
“ Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi...’’
Tuy nhiên, cách viết của Quang Dũng lại sáng tạo hơn. ở chỗ ông đặt ba
từ “ơi”…“chơi”… ‘‘vơi” ngang nhau khiến cho câu thơ mang âm hưởng
vang dài , vọng ra từ vách đá ở núi rừng Tây Bắc, từ cõi nhớ ngàn trùng
của nhà thơ. Chỉ hai câu thơ ngắn, Quang Dũng đã thành công khơi dạy
nỗi nhớ không hình, không lượng , lúc hiện hình, lúc mơ hồ, luôn
thường trực ám ảnh trong lòng thi sĩ. Qua đó hình ảnh thiên nhiên Tây
Bắc hiểm trở hoang dại mới được tạc nên một cách rõ nét hơn:
‘‘Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát  hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Cuộc hành trình của đoàn quân Tây Tiến được gợi lên từ những vùng đất
lạ có lẽ là chưa bao giờ nghe tên, biết đến (Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu). Những địa danh ấy không những
chẳng quen thuộc mà lại còn sắp xếp vô ý không theo trình tự. Cách lý
giải cho điều bất thường này, cũng chỉ có thể là nỗi nhớ của Quang
Dũng quá mãnh liệt, khiến nhà thơ không kịp sắp xếp theo đúng trình tự
thời gian, không gian. Nỗi nhớ sâu sắc ăn sâu vào tâm trí khiến nhà thơ
buộc phải trải đều chúng ra toàn bài để có thể vơi bớt đi nỗi nhớ về
những kỉ niệm không thể nào quên. Hai từ ‘sương lấp’ sử dụng phương
pháp tả thực làm bật lên đặc điểm của mảnh đất Sài Khao khắc nghiệt
sương dày đến nỗi che lấp cả một đoàn binh. Còn ở Mường Lát “ hoa về
trong đêm hơi’’ lại sử dụng bút pháp lãng mạn gây nên sự tương phản
với mảnh đất khắc nghiệt Sài Khao . Hình ảnh “hoa về” có thể là những
bông hoa nở về đêm giống như ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm soi
chiếu cho bước đường người lính. Và “ đêm hơi’’ mà không phải đêm
sương gợi ra một không gian mơ hồ hư ảo, nhẹ nhàng,thanh thoát đến lạ!
Từ đó, Quang Dũng khắc họa một Tây Bắc tuy có khó khăn về thời tiết
khí hậu nhưng bằng một tâm hồn lãng mạn Tây Bắc trở thành một điểm
rất thơ, rất đẹp. Ấy vậy, ngay sau đó, tác giả lại tiếp tực dùng phương
pháp tả thực tạc lên bộ mặt thật của núi rừng Tây Bắc. Một câu thơ có
bảy chữ nhưng có đến năm thanh trắc ( dốc- khúc- khuỷu- dốc- thẳm)
mang đến một cảm giác chẳng lành. Với mật độ thanh trắc dày đặc, liền
kề nhau, Quang Dũng đã miêu tả thiên nhiên dữ dội, hoang vu và hiểm
trở mà không hề mơ mộng như trên nữa. Điệp từ ‘dốc’ lặp lại hai lần
trong câu thơ nhấn mạnh một địa hình mà chỉ có dốc và dốc, thẳng
đứng, đủ hình, đủ loại. Cái ‘dốc’ đáng sợ lênh đênh giữa không gian ba
chiều cheo leo. “Khúc khuỷu’’ là diễn tả địa hình bằng phẳng, gồ ghề,
gập ghềnh, cắt xé như răng cưa. “Thăm thẳm” lại là sự sâu hút của các
dốc núi . “Heo hút’ là mây nhiều tích tụ lại thành núi, diễn tả nơi yên
ắng, vắng lặng, hoang vu. Đó là không gian rợn ngợp, dữ dội nhằm thử
thách tinh thần thép anh dũng, quả cảm của người lính. Thật vậy, chỉ có
Quang Dũng mới có thể hóm hỉnh miêu tả cảnh vật Tây Bắc xen kẽ giữa
tả thực và lãng mạn hay đến thế. Hình ảnh đầy mơ mộng đó lại được
hiên ra trong cái oai hùng, tráng lệ của miền Tây Bắc. Ông đưa vào một
nét mạnh mẽ bẩy lên một nét lên thơ. Điệp từ “ngàn” kết hợp với hai
động từ “ lên- xuống” chính là nét mạnh. Nó đã tạo ra một nét gập gễnh
đầy ấn tượng, diễn tả những con dốc đột ngột dựng đứng và đột ngột hạ
xuống bất ngờ, đầy hiểm trở. Âm điệu câu thơ càng làm ta hoảng hốt
trước cái trò chơi bập bênh chóng mặt giữa hàng sườn dốc núi cheo leo
mà Quang Dũng vẽ nên. Tuy nhiên, tác giả đâu thể nào để người dọc
trong cái trạng thái như bị bẻ làm đôi thành hai nửa riêng biệt như vậy.
Ông đã tài tình tạo ra một nét chấm phá kéo ta lại sự du dương, êm ái
bằng một bản nhạc mưa rừng không lời. Cảnh mưa rừng tại Pha Luông
như một câu hát nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi cả câu thơ đều là thanh
bằng ( Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi). Đọc đến đây, ta đã hiểu tại sao
Xuân Diệu lại nhận xét “ Đọc thơ Quang Dũng ta như ngậm nhạc trong
miệng”.Từ thơ ra nhạc, từ nhạc ra họa chỉ có thể xuất hiện trong tác
phẩm của Quang Dũng. Bức tranh đó có một người lính đang dừng chân
tại một điểm núi lưng đèo nào đó mà đăm chiêu phóng tầm mắt ra xa.
Và tại đó, con người đã bắt gặp một hình ảnh lung linh- những mái nhà
đơn sơ của bản làng Pha Luông thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa
giăng, trắng xóa cả biển trời. Chúng thật giống những con thuyền bồng
bểnh nổi trôi trong biển mưa Tây Bắc. Thật vậy, phải có một tâm hồn
tinh tế và lãng mạn và văn chương lắm, mà có thể vượt lên cái gian khổ
mà dễ dàng tìm đến niềm vui, hạnh phúc.
Không chỉ ở sáu câu thơ ấy, cảnh thiên nhiên Tây Bắc mới hiện ra
một cách rõ nét, sinh động mà ở hai câu thơ:
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Tây Bắc lúc này mới thật sự trở nên hoang vu, bí hiểm là mảnh đất lành
ít dữ nhiều. Vẫn tiếp tục miêu tả cảnh thiên nhiên từ nỗi nhớ sâu sắc, địa
danh Mường Hịch khiến cho hai câu thơ nói riêng và toàn bộ bài thơ nói
chung phảng phất âm hưởng từ bài “ Nhớ rừng” của Thế Lữ bởi
Mường Hịch có cọp. Nói về điều này, có lần Quang Dũng tâm sự hồi
còn đi học, nhà thơ rất say mê thơ mới, Thế Lữ là người ông thích hơn
cả. Nhà thơ còn nói “ Tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực có pha
chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ mà sau này vô tình tôi mới nhận ra
( Vũ Văn Sĩ ghi lại theo lời kể của Quang Dũng). Ở hai từ láy “ chiều
chiều” và “ đêm đêm”, tác giả diễn tả những khoảng thời gian liên tiếp
từ chiều này sang chiều khác, từ đêm này qua đêm khác. Khi dó, cũng là
lúc Tây Bắc hiện ra với vẻ mặt rất thật của mình. Khi chiều về, tiếng
thác đổ từ trên cao xuống ập vào vách núi. Tiếng đổ ập ấy là sự “ gầm
thét” của thiên nhiên, của con thác, của những loài mãnh thú nơi đại
ngàn. Chiều Tây Bắc đó như thu hết tất thảy cái “ oai linh” của núi rừng.
Thật hùng vĩ và đáng sợ! Chuyển động lại bước tiếp tới ban đêm tại
Mường Hịch hẻo lánh. Ngay từ tên địa danh, nhà thơ Vũ Quần Phương
đã nhận xét “ địa danh Mường Hịch đọc lên có cảm giác cọp đi trong
đêm”. Dù ta không thực sự đứng trực tiếp tại đây, nhưng Quang Dũng
lại thành công khiến ta cảm nhận rõ rệt nhất cái khung cảnh ấy. Với sự
xuất hiện của hai thanh trắc liền kề “ Hịch- cọp” là hai dấu nặng
xoáy sâu xuống làm ta nghe như bước chân rờn rợn đượm mùi tử khí
của chúa tể rừng xanh. Cho thấy đây là mảnh đất dữ, cái chết nhẹ tựa
lông hồng có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đặc biệt, hình ảnh “ cọp trêu
người” tuy khiến ta bất ngờ, sợ hãi, lo lắng nhưng đối với người lính, đó
chỉ là một sự vui đùa, chẳng có gì phải sợ hãi. Họ tếu táo, hóm hỉnh, lạc
quan đối diện với hiện thực tàn khốc, khắc nghiệt bằng một tinh thần rất
lính: dũng cảm và hiên ngang.
Như vậy, từ bức tranh thiên nhiên rợp ngợp của Tây Bắc, hình ảnh
người lính Tây Tiến oai hùng nổi bật lên lặng lẽ nhưng đậm màu. Trong
ký ức Tây Tiến, người lính hiện lên vô cùng chân thực. Họ được miêu tả
là “ đoàn quân mỏi” để chỉ những bước chân nặng nề, vất vả vượt qua
địa hình “ sương lấp” cả khoảng không tại Sài Khao. Họ mệt mỏi, khó
nhọc kéo những bước chân nặng trịch mà leo dốc, trượt dốc, cố gắng
từng chút từng chút một mà tới nơi cần họ. Và khi đến nơi, sức lực của
họ gần như cạn kiệt, hết cả sinh khí:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Hai tiếng “anh bạn” mà Quang Dũng cất lên là để gọi đồng đội, đồng chí
Tây Tiến- những người bạn chung lý tưởng, chung chiến hào, cùng nhau
ra đi để bảo vệ Tổ Quốc. Hai tiếng gọi ấy giống như hai tiếng “ đồng
chí” mà Chính Hữu đã từng gọi. Nhưng với Quang Dũng, đồng chí lúc
này lại là anh bạn thân thiết, gần gũi chứa đựng trong đó là cả một trời
yêu thương. Vì lẽ ấy, nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Diệp đã phải
thốt lên “ Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút
pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi
cánh lãng mạn, đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình
tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn Tây Tiến cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp
toàn bích của nó”. Vẫn tiếp tục phong cách tả thực lãng mạn, tác giả đã
không né tranh hiện thực miêu tả người lính với bước chân mệt mỏi, “
dãi dầu” , “ngủ gục” lên súng mũ và muốn quên đi tất cả. Tuy nhiên
động từ “ gục” còn diễn tả sự mất mát, hy sinh. Cái chết của họ vừa
phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh , vừa phản ánh sự vinh quang, hào
hùng của người chiến sĩ Cách mạng. Họ chết trong tư thế không rời vũ
khí “ gục lên súng”- một tư thế thể hiện dù cho đến giây phút cuối cùng,
chúng tôi vẫn ở đây, tay nắm chắc vũ khí để bảo vệ tất cả. Liên hệ với
Lê Anh Xuân viết trong “ Dáng đứng Việt Nam”, nhà thơ cũng cảm
phục anh chàng vệ quốc bằng cách:
“ Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.”
Vậy, hình ảnh người lính không chỉ “gục”, mệt mỏi mà giờ đã trở nên “
bỏ quên đời”, máu phun theo lửa đạn mà hy sinh, ra đi trong âm thầm và
cao cả. Một ý thơ đậm buồn đau lại được tác giả sử dụng biện pháp nói
giảm nói tránh mà trở nên thiêng liêng và đẹp đẽ đến thế!
Nếu mười hai câu thơ đầu, Quang Dũng mang thiên nhiên Tây Bắc
lên chóp đình của sự hoang vu, lạnh lẽo, âm u cũng như hình ảnh gian
lao của người lính thì tại hai câu cuối cùng, câu thơ đột ngột mở vào thế
giới của tình người:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Ở thế giới ấy, thiên nhiên Tây Bắc lại đẹp đẽ, yên bình đến lạ lùng! Nỗi
nhớ nhung da diết của Quang Dũng đã được đẩy lên cao trào. “ Nhớ ôi”
để nhấn mạnh về cái nỗi nhớ da diết, mãnh liệt trào dâng trong lòng
người con xa xứ, xa quê. Đọc câu thơ, ta nhận có ba thanh trắc ( Nhớ-
Tiến- khói) cho ta thấy một sự cách quãng đều đặn, diễn tả nỗi nhớ nơi
chốn cũ ngày càng được dâng đầy và được đẩy lên ở cung bậc cao nhất.
Không chỉ vậy, tạo hình ba thanh trắc còn khiến ta liên tưởng tới ba tia
khói mảnh dẻ đang bay vút lên cao, lan tỏa hơi ấm, hương thơm cả một
vùng trời Tây Bắc. Vơi đi cái khắc nghiệt vốn có của núi rừng Tây Bắc,
hình ảnh đó thật mơ mộng, ấm áp từ thị giác bên ngoài đến tận cảm giác
trái tim bên trong. Có cơm, có khói lửa bốc hơi thì không thể không
nhắc tới mùi hương ngào ngạt của sản vật đặc trưng Tây Bắc- xôi nếp
Tây Bắc. Hình ảnh “ thơm nếp xôi” đâu chỉ tô điểm cho vẻ đẹp của Tây
Bắc mà còn dệt nên sự thơm thảo của tình nghĩa quân dân. Sau này, Chế
Lan Viên cũng có nỗi nhớ như thế trong bài “ Tiếng hát con tàu”:
“ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa mùi nhớ thương.”
Đặc biệt, ở chữ “ mùa em” ta lại càng chứng kiến cái tài hoa của Quang
Dũng. Nếu tách riêng từng chữ thì rất thường nhưng Quang Dũng đã tạo
nên một sự nhập nhòa của từng nét chữ đem đến một nét nghĩa mới lạ,
độc đáo. Chữ “ mùa” là chỉ thời gian ( mùa xuân, hạ, thu, đông) hay sự
ấm áp của thiên nhiên đồng nội ( mùa lúa, ngô, khoai, sắn). Còn chữ
“em” gợi đến hình ảnh cô gái trẻ miền sơn cước. Như vậy, chữ “mùa”
đứng trước chữ “em” phả vào em bao nhiêu linh hồn làm cho em dậy
hương thiếu nữ nồng nàn. Không chỉ trên mặt ngữ nghĩa, chữ “ em” còn
làm nên một mùa thương nhớ. Đây là cách gọi đầy lãng mạn thể hiện
bao trìu mến, trân trọng của người lính Tây Tiến dành cho những cô gái
miền sơn cước, một tình cảm thấm đượm tình quân dân. Sau những cuộc
hành quân thật dài, họ dừng chân tại một bản làng và được bao bọc, che
chở bởi chính nơi hậu phương cần họ bảo vệ bằng tình cảm nồng nàn,
quý mến. Tất cả hình ảnh gợi ra trong ý thơ đã làm tương phản, đối lập
với mọi chi tiết mà nhà thơ có nhắc tới ở những câu thơ trước. Thật vậy,
Tây Bắc nguy hiểm, oai hùng nhưng cũng đẹp tuyệt và mộng mơ lắm!
Người lính Tây Tiến dù có phải trải qua bao khói sương cực nhọc trên
chặng đường hành quân nhưng rồi sau tất cả, họ vẫn lạc quan, yêu đời
nhờ tinh thần thép cũng như tình cảm sâu sâu sắc, thơm thảo của người
dân vùng bản. Dù cho mọi người không quen biết, thân thuộc nhưng đều
chung một lòng đoàn kết giúp đỡ, tương trợ nhau để hướng đến cái đích
chung: mong ước về một ngày đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
Nhà thơ Vân Long đã từng nhận xét “ Nhà thơ Quang Dũng như
bóng mây qua đỉnh Việt và là một áng mây bay qua sông núi nước Việt.
Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn
theo đến đấy.” Một tài hoa của văn học Cách mạng Việt Nam có lẽ chỉ
cần một câu như vậy là đủ. Và để minh chứng điểu này ta sẽ tiến tiếp
đến khổ thơ thứ hai viết về đời sống tâm hồn và tình cảm của người lính
Tây Tiến.
Nếu ở khổ mười bốn câu thơ đầu, Quang Dũng tạc lên bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc oai hùng, rợn ngợp nhưng cũng không kém phần
lãng mạn, mộng mơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến kiên cường, hào
hoa nhằm đưa địa danh Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến sống lại trong
lòng người đọc. Thì tới tám câu tiếp theo, nhà thơ đã dùng kỷ niệm và
ký ức của mình để nhớ về đời sống tâm hồn và tình cảm vào khoảng
thời gian năm 48 hào hùng ấy. Dù chỉ gợi lên bằng một vài chi tiết, nét
vẽ đặc biệt nhưng bằng sự đa tài trong thơ có nhạc, có họa, tác giả đã
mang đến cho những người đã ở Tây Bắc hay chưa tới Tây Bắc một cái
nhìn rõ nét về tình đồng đội, quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ
cũng như vẻ đẹp ấn tượng của sông núi miền cực Tây Tổ quốc.
Trong đêm hội liên hoan tại doanh trại, vẻ đẹp của ánh sáng, con
người, âm nhạc Tây Bắc lần lượt hiện lên. Mở đầu của bữa tiệc là những
tia sáng đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất, ấm áp nhất:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”.
Hai chữ “doanh trại” gợi ta liên tưởng đến môi trường quân đội- nơi gắn
liền với mệnh lệnh của nhà binh, nơi có kỷ luật thép, quân lệnh như sơn.
Vậy mà nơi đây vẫn diễn ra đêm hội liên hoan, văn nghệ vui tươi, phấn
khởi như thế! Điều này chứng tỏ tâm hồn người lính đâu chỉ lạnh lẽo,
hiu quạnh dừng lại ở kỷ luật thép, súng thuốc mưa bom mà tâm hồn họ
cũng lãng mạn và thơ mộng lắm! Trong cái bầu không khí sẵn có, ánh
sáng lúc này đột ngột “bừng lên” qua cách tái hiện của tác giả. Ông sử
dụng cấu trúc đảo ngữ cho động từ mạnh này nhằm diễn tả ánh sáng bất
ngờ, không báo trước, chói rọi vào cả khoảng không tăm tối. Tại môt
khoảnh khắc, những ngọn đuốc hoa lửa cùng lúc thắp nên một bầu trời
sáng rực, lung linh khiến ai có mặt lúc ấy cũng khó lòng mà quên được.
Một chữ “bừng” duy nhất, lại diễn tả vô số ý nghĩa. Là bừng của ánh
sáng, bừng của rộn rã, bừng của mọi sự vật nơi Tây Bắc xa xôi. Thực
chất, ta có thể dễ dàng nhận thấy, đêm liên hoan văn nghệ của các anh
nghèo nàn, thiếu thốn đủ cả. Ấy vậy, cái thứ anh có nhiều nhất, vô số
nhất mà không bao giờ cạn kiệt đó chính là tinh thần, là cái nhìn lạc
quan, lãng mạn. Vì thế, đuốc hoa mới trở thành thứ ánh sáng đặc sắc của
người lính và của nghệ thuật văn chương. Văn học Pháp Victo Huy Gô
đã từng nói: “chữ nào đặt đúng chỗ đó là là chữ hay nhất”. Như vậy,
chữ “bừng” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của nó vừa gợi cảm vừa
gợi hình để nhờ đó tâm hồn người lính và cả người đọc trở nên sáng rực
hơn cả. Bên cạnh đó, Quang Dũng lại cố tình nhấn mạnh hơn cái sáng,
cái chói của đêm liên hoan khi ví mọi đốm lửa tạo nên “hội đuốc hoa”.
Khi xưa, ta luôn gọi mọi điều tốt đẹp trong ngày đại hỷ đám cưới sẽ bao
gồm kiệu hoa, phòng hoa và cả đuốc hoa. Vậy là, đối với Quang Dũng,
một đêm liên hoan văn nghệ nhờ những bông hoa lửa bỗng trở thành
một đêm đại hỷ, quan trọng và linh thiêng giữa rừng sâu Tây Bắc.
Tiếp nối cái ánh sáng rực lửa, con người Tây Bắc bắt đầu xúng
xính váy áo xinh đẹp bước đến thật vui tươi hạnh phúc:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”.
Quang Dũng mở đầu câu thơ bằng cách thốt lên “kìa” như một sự trầm
trồ, ngạc nhiên, ngỡ ngàng mà cũng tựa như một tiếng reo vui của người
lính khi bắt gặp được nét đẹp thi vị đời sống- “em” xuất hiện. Sự xuất
hiện của “em”, của một đóa hồng làm cho “hội đuốc hoa” mãi là kỉ niệm
đẹp của thời chinh chiến máu lửa. Đóa hoa nơi sơn cước hoang vu chính
là những cô gái dân tộc, con người bản địa với một vóc dáng “e ấp”,
ngượng ngùng, đáng yêu. Trong “xiêm áo” dân tộc kết hợp với nhạc
điệu cũng đậm chất dân tộc, người con gái nơi núi rừng khiến người lính
vì thế mà vô cùng phấn khích. Người lính Tây Tiến đa phần đều xuất
thân từ trai Hà Nội, luôn quen những cô gái Hà Thành năng động, cá
tính mà giờ đây lại bắt gặp một dáng vẻ nhỏ nhắn ngập ngừng nên họ
thấy lạ lùng và thú vị là một điều dễ hiểu. Nhờ nét đẹp bình dị, đơn sơ
của con người Tây Bắc, các chiến sĩ đã được vơi bớt phần nào cái khắc
nghiệt thật sự của chặng đường hành quân và tiếp thêm năng lượng, sức
mạnh vào tâm hồn, ý chí sắt thép của người lính Tây Tiến.
Và để mang bức tranh thiên nhiên Tây Tiến đạt đến đỉnh của sự
hoàn hảo, yếu tố âm nhạc chính là điều cuối cùng:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Không gian hội tự đầy đủ cả âm thanh, ánh sáng và con người. Thật thơ
mộng và đẹp đẽ. Bút pháp lãng mạn thi vị có lẽ tại đây mà trở nên đắt
giá nhất. Câu thơ tuy chỉ có bảy thanh nhưng lại có tới năm thanh bằng (
Khèn- lên- man- nàng- e) khiến nhạc thơ ngân lên nhẹ nhàng diễn tả tâm
hồn người lính đang bay bổng phiêu du theo điệu nhạc tiếng khèn. Ta
bắt gặp một hình ảnh rất lạ: trong bộ ‘‘xiêm áo” dân tộc đóa hồng Tây
Bắc đang đắm chìm nhảy múa trên nền nhạc cụ độc đáo “khèn” bằng vũ
điệu “man điệu”. Mọi hình ảnh tuy đơn giản nhưng lại thấm đượm
phong cách riêng của người dân tộc. Điều này chứng tỏ một tâm hồn
nhạy cảm, biến thái theo dòng cảm xúc liên hồi mới có thể nhận ra và
đưa vào được bài thơ một cách tài tình như thế! Tâm hồn người lính “về
Viên Chăn” trong mơ mộng và phiêu du, về với miền đất lạ để dệt nên
những mộng ước trong tâm hồn. Chính những đêm vui vẻ, tụ họp như
vậy những người lính mới có thêm nhiều động lực, tinh thần để chiến
đấu và đem về chiến thắng. Bằng tâm hồn của một thi sĩ lãng mạn lại vô
cùng am hiểu nhiều loại hình nghệ thuật nên khi tiếp xúc với nền văn
hóa xa lạ đã để lại những cảm xúc đặc biệt cho nhà thơ. Quang Dũng đã
thực sự thành công làm sống lại một không gian mang đậm bản sắc văn
hóa miền cao cũng như tình quân dân thắm thiết.
Bài thơ Tây Tiến được xây dựng bằng cấu tứ của một cuộc hành
quân. Vậy nên ở bốn câu còn lại của khổ hai, tác giả lại viết tiếp về cảnh
biệt ly của người lính, họ tiếp tục trường chinh trong khung cảnh Tây
Bắc chiều sương. Tứ thơ là hình ảnh kết tinh đặc sắc, ảo diệu và đầy tính
nghệ thuật về cảnh sông nước Tây Bắc trong một buổi chiều:
‘‘Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ ”.
Hình ảnh “người đi” trong buổi chiều Tây Bắc giàu sức gợi tả. Đó là một
đại từ phiếm chỉ nói đến đồng chí, đồng đội của Quang Dũng bước đi,
chạy tiếp trên bước đường trường chinh. Nếu ở khổ một, chặng đường
của ‘người đi” được thấy rõ nét qua Pha Luông một chiều mưa có những
mái nhà lấp ló sau làn mưa trắng xóa hay qua Mường Hịch đêm đêm có
chúa tể rừng xanh tới trêu đùa thì ở khổ hai địa danh “Châu Mộc ” lại
xuất hiện. Đây cũng là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến nhưng
lại hùng vĩ và có hồn hơn hẳn. Nơi “Châu Mộc” hiện lên có chút bâng
khuâng, xa vắng, huyền hồ. “Chiều sương” Tây Bắc gần giống hình ảnh
sương lấp về đêm- sương giăng mắc khắp không gian, cả núi rừng cảnh
vật đều chìm trong sương khói mờ mịt, bồng bềnh . Cảnh chiều lúc này
thật hoang vu, lạnh lẽo. Hiện thực tả ra mới thật cô đơn vậy nên Quang
Dũng đã lại gài vào một chi tiết lãng mạn thơ mộng “hồn lau” để họ khi
rời xa Tây Bắc sẽ không còn nhớ đến những nỗi buồn mà chỉ nhớ về
những điều “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”. Bông hoa lau là đặc trưng
của thiên nhiên vùng cao, lau ở khắp các triền sông, vách đá, thung lũng.
“Lau” nhiều đến nỗi làm cho thiên nhiên Tây Bắc càng hiu hắt, mênh
mông và vắng lặng. Chỉ là một loài hoa nhưng “lau” lại là một hình ảnh
quen thuộc trong thơ ca nên đã có rất nhiều câu thơ độc đáo tái hiện lên
hình ảnh của nó như trong bài “Lau biên giới” Chế Lan Viên có viết:
“Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn lau trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh.”
Hay với nhà thơ Hoàng Hữu, hình ảnh lau lại xuất hiện:
“Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha”.
Từ đó ta thấy hồn lau luôn có vị trí xứng đáng trong lòng các thi sĩ và
trong thơ ca. Nhưng đến với “hoa lau” mỗi nhà thơ lại có cách cảm nhận
riêng biệt. Với Quang Dũng “thấy hồn lau” là cái nhìn kết hợp nhuần
nhuyễn của thị giác kiểu hình và nội tâm vô hình. Ông không dừng lại ở
bề ngoài vẻ đẹp của lau mà ông còn thực sự nắm lấy cái tinh thần linh
khí của những bông hoa lau phất phơ trong chiều sương như mang trong
mình một sinh mệnh. Đây là lối viết đặc biệt độc đáo gần với bút pháp
cổ điển phương Đông.
Một bức tranh sẽ còn hoàn hảo hơn nữa khi có sự hòa hợp giữa con
người và cảnh vật. Nổi bật trên khung cảnh sông nước Châu Mộc, bóng
hình con người dần xuất hiện:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Con người xuất hiện trong bức tranh huyền bí, mơ hồ, không rõ nét. Một
dáng người cô độc một mình lạnh lẽo đứng trên con thuyền đọc mộc
“trôi dòng nước lũ”. Đại từ phiếm chỉ “dáng người” tạo nên không ít
cách hiểu xung quanh hình ảnh thơ. Có thể hiểu đó là dáng người cần
mẫn của người lao động Tây Bắc, cũng có thể là dáng vẻ của cô gái
miền sông cước uyển chuyển đưa con thuyền độc mộc di chuyển giữa
dòng nước. Con người và hình ảnh thuyền tự chế từ thân cây gỗ lớn
chính là những kỷ niệm đáng nhớ nhất, ấn tượng nhất về vùng đất vừa
thơ mộng lại vừa dữa dội Châu Mộc. Điều đó cũng từng được Quang
Dũng thể hiện trong một bài thơ khác :
“Đò ngang một chuyến qua mưa bụi
Nhớ mãi người đi bóng dáng người”.
Cùng với hình ảnh “dáng người”, ý thơ “hoa đong đưa” lại dấy lên trong
lòng người đọc nhiều cách hiểu khác. Hoa là những bông hoa, cánh hoa
nổi lên trên dòng nước lũ. Hay hoa là ám chỉ về “dáng người trên độc
mộc”- một cánh hoa xinh đẹp, mộc mạc mà lại mạnh mẽ, anh hùng một
thân chèo chống cả con thuyền to lớn. Tuy nhiên đến đây ta lại nhận
thấy sự bất hợp lý lạ lùng: giữa dòng nước lũ chảy xiết, khỏe khoắn, tại
sao bông hoa nhỏ bé ấy lại có thể đong đưa một cách nhẹ nhàng ? Hơn
nữa, hai chữ “đong đưa” còn là tính từ chỉ ánh mắt người con gái “cặp
môi hồng con mắt ướt đong đưa”. Vậy mà tác giả lại dùng từ láy này để
diễn tả sự chuyển động của bông hoa, của người con gái Tây Bắc ? Có lẽ
, ta chỉ có thể lí giải rằng đó là sự hồn nhiên trong tâm hồn nhà thơ. Vào
lúc cảm xúc dâng trào, bút pháp lãng mạn và chất thơ, nhạc, họa cứ thế
hòa vào nhau vô tình mà lại thành điểm nhấn độc! Nhờ đó người đọc
thêm phần nào khẳng định hơn về cái phong cách rất riêng, rất lạ trong
thơ Quang Dũng.
Thành công của khổ thơ con được lột tả qua hàng loạt các biện
pháp nghệ thuật. Sử dụng cách điệp cú pháp “có thấy…có nhớ” làm nên
âm điệu bâng khuâng, da diết khiến tứ thơ gợi bao ký ức về Tây Bắc.
Nghệ thuật đối lập được dùng để mô tả “dòng nước lũ” với cái mong
manh của hoa rừng cho thấy vẻ đẹp hào hùng mà không kém phần lãng
mạn trong thơ Quang Dũng. Cuối cùng là cách thổi nhạc vào thơ, từng
câu từng chữ láy lại tạo nên cái chất tinh tế, rất riêng của người nghệ sĩ.
Cuối cùng, sau cả một cuộc hành trình trải dài từ thiên Tây Bắc cho
những gì mà người lính Tây Tiến trải qua, tại mười hai câu thơ cuối,
Quang Dũng lúc này mới thực sự khắc họa lên tượng đài bất tử về người
lính vô danh ở nơi núi rừng Tây Bắc.
Khổ thơ gồm mười hai câu thơ khắc họa về chân dung người lính
cũng như tinh thần cảm phục của chúng ta trước lời thề bất tử của các
anh. Hình ảnh người lính cùng lời tuyên thệ của họ giữa những năm 48
ác liệt, giữa nơi rừng sâu hoang vu, giữa khoảng không cô quạnh lạc
lõng lại trở thành một ánh sao sáng chói trong lịch sử thơ ca Cách mạng
Việt Nam.
Bắt đầu bằng cách phác họa lên chân dung tập thể người lính Tây
Tiến, Quang Dũng đã gói gọn họ trong ba từ bi- hùng- lãng. Người lính
xuất hiện với vẻ ngoài rất bi:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.”
Bút pháp hiện thực mà Quang Dũng sử dụng đã thành công khắc họa
những gian khổ tàn khốc mà người lính phải trải qua. Họ bi bởi “không
mọc tóc”. Cái bi ấy có nghĩa là, tóc trên đầu của những người lính bây
giờ đã không còn mọc, mất hết. Họ muốn chủ động cạo trọc đầu nhằm
thuận tiện trong sinh hoạt và chiến đấu. Hành động này dù là rất nhỏ
nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn, giữa nơi vật chất thiếu thốn, bom đạn
chiến tranh họ giữ lại tóc cũng chẳng thể giữ được vệ sinh và cũng có
thể tạo cơ hội cho địch làm tổn thương ta tại một cự ly gần. Điều này
được minh chứng qua lời kể của Quang Dũng trong một lần nói về “ Tây
Tiến” do Vũ Văn Sỹ ghi chép “ … trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn,
mình lại không giữ được vệ sinh vả lại có giữ cũng chẳng được nên bộ
đội không những bi ốm mà còn chết vì sốt rét rất nhiều.” Và cũng từ lời
kể ấy, ta lại biết thêm hình ảnh “ không mọc tóc” còn là do căn
bệnh sốt rét hoành hành. Căn bệnh quái ác làm cho tóc họ rụng sạch.
Những người lính không chỉ đối diện với chiến tranh, khói lửa mà còn
phải đấu tranh với căn bệnh khủng khiếp thời bấy giờ. Trần Lê Văn- một
chiến sĩ trong bình đoàn đã khẳng định “ Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử
vong nhiều”. Cái bi thương, thảm khốc hiện thực mà chiến trường, thiên
nhiên Tây Bắc dành tặng cho các anh quả thực là vô cùng đáng sợ! Bên
cạnh “không mọc tóc”, người lính của chúng ta còn bi hơn tại ý thơ “
quân xanh màu lá”. Cứ ngỡ, “ quân xanh màu lá” là cái xanh của
lá rừng, của quân phục, nhưng thực chất, cái xanh này là cái xanh của sự
xanh xao, nhợt nhạt. Đó là màu da của các anh khi may mắn được căn
bệnh này tìm tới. Họ ốm yếu, thiếu sức sống tại chính nơi thiếu thốn đủ
cả Tây Bắc. Hình ảnh ám ảnh, hiện lên đầy đau buồn ấy lại vô cùng phổ
biến trong rất nhiều bài thơ chứng tỏ đó là điều mà bất cứ người chiến sĩ
kháng chiến nào cũng phải đối diện. Ở bài “ Cá nước”, Tố Hữu có viết
những vần thơ thương cảm về anh vệ quốc:
“ Giọt mồ hôi anh rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế.”
Hay đến tận kháng chiến chống Mỹ, căn bệnh quái ác kia vẫn giày xéo
chiến sĩ của chúng ta trong bài “ Áo lính sư đoàn” của Nguyễn Đức
Mậu:
“ Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân.”
Còn với Quang Dũng, viết về căn bệnh sốt rét bằng bút pháp tả thực
nhưng thật chất lại đan cài tài tình cái nét lãng mạn. Vì thế người lính
trong thơ ông, tuy ốm nhưng không yếu, ở thế bi mà vẫn hùng. Thế hùng
dũng mới là thế đúng nhất mà người vệ quốc sở hữu. Dù có khó khăn,
vất vả nhưng họ vẫn dùng giọng điệu chắc khỏe, mạnh mẽ mà gợi lên,
truyền đi ý chí xung trận hào hùng. Hai chữ “ đoàn binh” là âm Hán Việt
mang đến đúng cái sắc thái trang nghiêm, trang trọng, kỷ luật chất nhà
lính. Đoàn binh Tây Tiến chứ không phải đoàn quân Tây Tiến mỏi mệt
leo dốc thẳm, vượt núi cao ở Sài Khao. Họ lúc này mặc cho khó khăn
hơn, mệt nhọc hơn, nhưng cái nội tâm, ý thức, tinh thần lại mãnh liệt
hơn bất cứ lúc nào. Không chỉ vậy, vẫn tiếp tục là hình ảnh “ không mọc
tóc”, một cách nói chủ động- người lính không thèm mọc tóc cũng góp
sức vào cái tinh thần thép, ý chí sắt. Lối nói tinh tế lồng cái bi vào cái
hùng đã gợi lên một vẻ đẹp bất cần, ngang tàng, đậm chất khẩu khí bộ
đội cụ Hồ. Đỉnh cao của cái hùng ấy có lẽ là ở hai chữ “mắt trừng” . Đôi
mắt mở to, dữ dội hoặc có thể do đau đớn của căn bệnh hoặc là ý chí
căm thù ở chóp đỉnh. Đôi mắt bộc lộ toàn bộ nội lực của người lính, diễn
tả tận cùng cái oai phong, lẫm liệt của chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến cũng là những người con của Hà Nội, của
quê hương, đất nước thương mến. Vì vậy bên cạnh cái bi, cái hùng ở vẻ
bề ngoài, nội tâm bên trong của con người ấy lại có sự nên thơ, lãng mạn
thật đẹp:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Nếu nói người lính Tây Tiến còn có thêm vẻ đẹp tâm hồn thì hai chữ “
mắt trừng” còn mang ý nghĩa tươi đẹp, sáng chói, bừng lên trong suy
nghĩ. Họ mở to đôi mắt để mơ về một ngày không xa lập được chiến
công, chiến thắng mang vinh quang về cho nước nhà. Vinh quang ấy chỉ
đơn giản là kết thúc chiến tranh, hòa bình lập lại ở cả nước bạn Lào và
nước Việt mình. Chính vì mơ mộng về sự yên bình ở quê hương ấy,
trước mắt họ dường như mờ đi bởi hình ảnh Hà Nội. Hai tiếng “ Hà
Nội” hiên lên đầy tự hào và đong đầy yêu thương. Nhắc tới Hà Nội là
nhắc tới nơi họ sinh ra, lớn lên, học tập, ghi dấu cả một thời kỷ niệm. Hà
Nội còn là thủ đô, là trái tim hồng của Tổ quốc, ai đi xa cũng mang một
nỗi nhớ đong đầy. Và khi nhắc tới, nghĩ về Hà Nội thân yêu, tươi đẹp
một thời Quang Dũng cũng không ngần ngại bộc lộ một nỗi nhớ trực
tiếp về “dáng kiều thơm”. Hình ảnh mơ mộng nối tiếp mơ mộng trong
thơ Quang Dũng mới thật đẹp đến mấy. Giữa mảnh đất Hà Thành, “
dáng kiều thơm” là cô gái là cô gái xinh đẹp, thướt tha, yêu kiều, thanh
lịch. Qua bút pháp ước lệ, ta không tận mắt chứng kiến nhưng cũng có
thể cảm nhận dáng vẻ bên ngoài của nàng kiều tài sắc trong thơ Quang
Dũng. Nàng kiều ấy phải chăng là những bạn gái học cùng trường, là
người yêu, hay chỉ là một đóa hồng rạng ngời mà họ vô tình nhung nhớ.
Câu thơ mộng mơ, đẹp đẽ đến vậy nhưng một thời lại bị phê phán là
mộng rớt, buồn rớt, tiểu tư sản, không phù hợp với tác phong nhà lính.
Vào cái thời điểm năm 48 ác liệt, thơ ca có mục đích là truyền tải hào
khí, hào hùng cho chiến sĩ chống giặc ngoại xâm. Thơ Quang Dũng
cũng đi đúng lối chia sẻ cảm xúc qua từng lối thơ, con chữ, vì vậy thơ
ông vừa có đau thương, vừa có mơ mộng. Nhờ có mơ mộng, cái đau
thương mới vơi đi để từ đó làm sức mạnh cho người lính chiến đấu đến
cùng. Người lính của Quang Dũng mơ về “dáng kiều thơm” là để tin
yêu, tin tưởng , tạo nguồn ý chí và sức lực mạnh mẽ chứ đâu phải làm
cho họ thoái chí, nản lòng. Cái mơ, cái mộng tuyệt đẹp biểu diễn đúng
cái sắc thái tâm lý người lính trong suốt tháng ngày mưa bom bão đạn.
Qua đó, ta khẳng định câu thơ là một trong những hình ảnh đặc sắc nhất,
độc đáo nhất trong thơ ca Cách mạng và mang đậm phong cách lãng tử
của Quang Dũng.
Tiếp nối vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn, nhà thơ tiếp tục khắc họa
về vẻ đẹp lý tưởng, ý chí sắt thép của người lính vệ quốc. Họ lại quay trở
về đúng cái chất lính vốn có: sẵn sàng hy sinh bằng tinh thần cao cả và
tự nguyện nhất:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường kia chẳng tiếc đời xanh.”
Bút pháp bi tráng khiến nhà thơ không né tránh mà thực sự miêu tả chân
thật về cái chết. Từ láy “ rải rác” đứng ở đầu câu kết hợp với chữ “ mồ”
cho thấy Quang Dũng đang nói về cái chết nhưng không phải cái chết
của một người duy nhất, cái chết một lần là xong hết. Đó là cái chết dai
dẳng, rình rập các anh bất kỳ thời điểm nào, chỉ cần không cẩn thận,
thiếu may mắn đường ra biên cương cũng chính là đường tới nấm mồ.
Nấm mồ của người lính Tây Tiến khác hẳn nấm mồ của những người
khác. Chữ “ mồ” gợi ra những nấm mồ được chôn cất qua loa, vội vã bởi
những người ở lại dù có đau lòng, có xót xa, thương tiếc cũng vẫn tiếp
tục nhanh chóng hành quân, tiếp tục chinh chiến. Anh bạn, đồng chí thân
thiết nhất, gắn bó nhất ngã xuống vậy mà người ở lại cũng chẳng kịp đào
bới, chôn cất, khóc tang cho họ một cách nghiêm trang và thiêng liêng
nhất. Vì thế, các anh vệ quốc không may ra đi sẽ phải gửi mình lại nơi
biên cương xa xôi, nơi đất khách quê người, qua năm tháng bào mòn mà
trở nên vô danh, vô chủ. Đến đây, đoàn quân Tây Tiến không còn là vất
vả, ngủ gục trên súng mũ mơ mộng, đẹp đẽ mà đã đối diện cận kề với
cái chết, ra đi mãi mãi bỏ lại mọi ước mơ, hoài bão phía sau. Tuy nhiên
nếu ai hỏi họ có tiếc nuối khi phải hy sinh cả thanh xuân, mạng sống cho
Tổ quốc, quê hương hay không? Thì chắc chắn câu trả lời chỉ có một và
đồng thanh hô to “đi chẳng tiếc”. Lời khẳng định chắc nịch , kiên quyết
vang lên hào hùng, khỏe khoắn như lời tuyên thệ. Họ tự nguyện lên
đường chiến đấu, tự nguyện dâng hiến cả đời cho quê hương. Trong tâm
trí, họ ý thức rất rõ chiến trường là nơi mưa bom, lành ít dữ nhiều, hy
sinh là điều hiển nhiên nhưng vượt lên tất cả bằng ý chí, nghị lực, tinh
thần “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” họ không ngần ngại mà ra đi.
Hình ảnh người lính Tây Tiến của Quang Dũng nói riêng và tập thể
người lính Cách mạng chống Pháp nói chung đều mang dáng dấp của
một người tráng sĩ trong văn học cổ- coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn
sàng dấn thân vào cuộc trường chinh dù cho gian khổ đến nhường nào.
Và để khép lại cái chết của người lính, Quang Dũng chọn cách
đem tặng cho họ những vần thơ hào hùng nhất để xứng đáng với những
gì họ đã trải qua:
“ Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Món quà tác giả dành tặng cho người lính khi ngã xuống, về với đất mẹ
đó là tấm “ áo bào” thiêng liêng, rực rỡ. Tấm áo bào vốn là hình ảnh ước
lệ của văn học cổ, là tấm chiến bào của các chiến tướng khoác lên mình
ngày xưa mỗi khi ra trận. Tuy nhiên, tấm chiến bào của đoàn binh Tây
Tiến lại là những bộ quân phục thường ngày đã sờn vai, rách chỉ qua
năm tháng. Nhưng tấm áo ấy, lại ôm trộn lại thân thể của các anh khi
ngã xuống, khi về với đất mẹ bao la. “Về đất” là hai từ ý nghĩa chỉ đất
mẹ, đất nước, quê hương. Khi nói về sự hy sinh trên chiến trường của
các chiến sĩ ấy, nhà thơ thay vì dùng từ chết lạnh lẽo, khô khốc đã sáng
tạo sử dụng hai chữ “ về đất” nhằm giảm mức độ đau thương. Các anh
thực sự trở về với đất mẹ sau khi hoàn thành rực rỡ nhiệm vụ với Tổ
quốc. Sự hy sinh cao cả của các anh giờ không phải là mất mát mà là
hóa thân vào một kiếp sống mới- nơi chỉ có hòa bình và hạnh phúc, nơi
bù đắp lại tất cả cho các anh. Cách diễn đạt sáng tạo ấy làm cho ta cảm
nhận người lính Tây Tiến của Quang Dũng là không bao giờ chết, là
luôn bất tử, luôn sinh tồn, sống mãi. Cùng lúc các anh ngã xuống, ta
nghe đâu đây lẫn lộn cả tiếng khóc của đồng đội và của cả thiên nhiên
Tây Bắc. Đồng đội thương tiếc cho nhau là lẽ thường tình, dĩ nhiên, dễ
hiểu nhưng Quang Dũng còn mang cả nỗi niềm gửi gắm vào vạn vật
thiên nhiên. Ông chọn “ sông Mã” để khóc thương cùng con người.
Sông Mã lần đầu xuất hiện là để gợi nhớ về núi rừng Tây Bắc và hành
trình gian lao của đoàn binh Tây Tiến. Còn lần thứ hai, sông Mã xuất
hiện là để “gầm” lên một âm vang cuồn nộ, chất chứa bao tâm trạng nỗi
niềm . Thủ pháp nhân hóa “gầm ” khiến người đọc liên tưởng đến một
con chiến mã đang gầm thét khi phải chứng kiến tận mắt hình ảnh người
chủ tướng thân thiết hy sinh trên mặt trận. Do đó, nhà thơ Phan Quế đã
không tiếc lời ca ngợi hình ảnh con sông Mã “Câu thơ như một tuyệt bút
thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay
hơn thế,. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả
cảm và lòng dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên
chất hiệp sĩ của tứ thơ”.
Đến dây, người lính Tây Tiến đã thực sự trở thành một anh hùng
tráng sĩ qua mọi vẻ đẹp từ ngoại hình, tâm hồn, lý tưởng. Vậy nên tại
bốn câu thơ cuối , nhà thơ đã nâng họ lên tới đỉnh cao khuôn mẫu về
hình tượng người lính kháng chiến qua lời thề bất tử:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Lời thề bất tử nghĩa là dù họ phải có hy sinh, ngã xuống nhưng ý chí
ngọn lửa trong họ luôn luôn sục sôi, cao trào. Họ ra đi không hẹn ước
nhưng vẫn trở thành đồng đội vì họ có cùng chung chí hướng mục đích
khát vọng diệt giặc “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những người
lính ra đi không hẹn ngày trở về với tinh thần cao cả, hiên ngang, anh
dũng dù có hi sinh những cũng phải trong tư thế oai hùng nhất, vĩ đại
nhất. Và khi có thể trở về - khi quay về - là còn sống sốt thì người lính
Tây Tiến cũng không thể nguôi ngoai về ký ức Tây Tiến, về một thời
binh lửa hào hùng. Cụm “mùa xuân ấy” thể hiện năm lịch sử 1948 đáng
nhớ , năm thành lập đoàn binh , năm đánh dấu những công lao to lớn của
người anh hùng kiên cường, quả cảm. Năm 1948 cũng là năm các anh
tròn đôi mươi, có tuổi trẻ có tất cả nhưng lại chọn con đường ra đi để
bảo vệ bình yên đất nước . Tuổi trẻ thanh xuân của các anh nếu không
thể quay về thì ở lại với Sầm Nứa, hòa với núi rừng, sông nước mà trở
nên bất tử , sống mãi. Mà cũng có thể các anh bất cần, phiêu bạt, lãng tử
nên mới “chẳng về xuôi” chứ không phải không thể về . Một cách gợi tả
khiến sự hy sinh của người lính trở thành vẻ lãng mạn, bất diệt, hiện hữu
mãi mãi trong mỗi trái tim người ở lại hay người ra đi
Từ những hình ảnh nghệ thuật, ngôn từ, bút pháp Quang Dũng sử
dụng , ta thấy rằng Tây Tiến là một tuyệt tác nâng tên tuổi Quang Dũng
lên tầm cao của nghệ thuật . Bằng ngòi bút tài hoa độc đáo, uyển chuyển
tài tình giữa cái hiện thực khốc liệt và cái lãng mạn, thơ ca ông thực sự
thành cộng xây dựng hình ảnh người lính vừa bi tráng vừa tàn hoa.
Từ những phân tích trên, bản nhạc hoạ của Quang Dũng đã thành
công cho ta thấy được nét độc đáo giữa cái hiện thực khốc liệt với cái
lãng mạn đậm chất bi tráng. Cùng với rất nhiều những sáng tạo về hình
ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu. Cụ thể như hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc
thái thẩm mĩ phong phú, ngôn ngữ thơ đa sắc thái và phong cách, có
những kết hợp từ độc đáo với tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi
cảm giác lạ lẫm. Ngoài ra, khi phân tích bài thơ Tây Tiến ta còn thấy
được giọng điệu thơ khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi
bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi lại trầm lắng thiết tha... Có
thể thấy, đây được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự
toàn bích về nghệ thuật.
Tóm lại, Tây Tiến là một trong những bài thơ đặc sắc nhất góp
phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới. Kết hợp hài hoà
của chất nghệ sĩ đa tài cùng cái chất lính hiện thực, nhà thơ đã xây dựng
thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa bật lên trên
cái nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ. Vì vậy, ta có thể khẳng định giống
như lời ngợi khen của Trần Lê Văn: “Tây Tiến là đứa con đầu lòng tráng
kiệt và hào hoa của đời thơ Quang Dũng”.
Chỉ hai từ hoàn hảo và ấn tượng mới có thể khái quát rõ nhất về
bài thơ. Lẽ đó, bây giờ thì Tây Tiến được khắc vào bia tưởng niệm
người lính Tây Tiến ở Mai Châu, Hoà Bình, được đưa vào sách giáo
khoa, được lớp lớp thế hệ ngày sau biết đến. Hay ta nói rằng, một tác
phẩm khi đã thành kiệt tác thì chắc chắn sẽ trở thành bất tử.

Bạch Anh Thơm-12V7

Chiến tranh luôn mang đến mất mát và đau thương vô kể. Quang Dũng là người đã sống trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, bản thân ông cũng từng là lính tham gia cách mạng, vì thế nên ông có rất nhiều bài thơ hay về đề tài
chiến tranh và người lính. Tiêu biểu là “Tây Tiến”, bài thơ không chỉ kắc hoạ rõ nét khó khăn gian khổ, không khí chiến
tranh ác liệt mà còn tái hiện bức chân dung người lính dũng cảm kiên cường nhưng cũng rất đỗi lãng mạn hào hoa.
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (1 làng
thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”. Cả bài
thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ,
thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp, nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng.
Trước hết, bài thơ mở ra với khúc dạo đầu của nỗi nhớ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Câu thơ vang lên như một lời bộc bạch, lại như lời gọi trong đó chứa đựng cả sự nhớ nhung, tiếc nuối. Câu thơ có 7
chữ, trong đó 4 chữ là tên địa danh, dường như chỉ cần nhắc tên địa danh bao kỉ niệm ùa về trong tác giả. Sông Mã là
con sông của miền Tây Bắc, kéo dài từ Thượng Lào tới đất Việt, là địa bàn hoạt động của Tây Tiến. Dòng sông ấy còn
là dòng sông cảm xúc, trở nặng bao nỗi niềm đầy vơi, là chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác của kẻ thù, đánh dấu những
chiến công hiển hách của đoàn binh Tây Tiến. Tác giả sử dụng biện pháp nhân hoá để gọi sông Mã và đoàn binh Tây
Tiến như người bạn, người đồng chí thân thiết. Nỗi nhớ trong trái tim những người lính Tây Tiến là nỗi nhớ đặc biệt
“nhớ chơi vơi”. Nỗi nhớ ấy không cụ thể mà chỉ chung chung, vô hình vô tượng mà lại hết sức ám ảnh, day dứt trong
lòng thi sĩ. Điều đó thể hiện rõ qua điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần, thấm đượm nỗi niềm da diết triền miên. Hai
câu thơ nhưng vần “ơi” lại được láy lại 3 lần tạo nên âm hưởng sâu lắng bồi hồi, ngân dài từ trong lòng người vọng
vào thời gian năm tháng, lan rộng ra không gian, cảm giác về một nỗi nhớ da diết mênh mang lan mãi đến từng nhịp
đập trái tim người đọc.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hai câu thơ trên vừa tả thực vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Sài Khao và Mường Lát đều là địa danh xa xôi hoang dã
mà người lính Tây Tiến đặt chân qua. Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” gợi nên sự buốt giá hoang vu của Sài
Khao, nhịp thơ 4/3 cùng động từ “lấp” gợi nên màn sương mù mịt, dày đặc cùng con đường hành quân vất vả gian
nan. Sương khói khiến “đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần lại chẳng hề “mỏi”, trong mỗi tâm hồn người lính là sức
sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc
nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính. Hình ảnh “hoa về
được sử dụng cùng lúc 2 thủ pháp nghê thuật là nhân hoá và ẩn dụ. “Hoa “ ở đây là những người lính Tây Tiến trở về
những đêm dài hành quân, nhưng “hoa” cũng là những bó đuốc cháy bập bùng soi đường chỉ lối cho anh bộ đội sau
cả ngày vất vả. Đồng thời, câu thơ với thanh bằng nhẹ nhàng cùng hình ảnh được thi vị hoá bởi cảm xúc lãng mạn làm
đậm thêm sự hư ảo của sương rừng, sự mộng mơ trong tâm hồn người chiến sĩ.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Cuộc hành quân của người lính còn khó khăn gian khổ còn bởi núi cao vực sâu. Câu thơ cùng 5 thanh trắc tạo âm
hưởng gập ghềnh cho câu thơ 7 chữ, thể hiện rõ nét cuộc hành quân gian truân vất vả. Điệp từ “dốc” đứng đầu 2 vế
và một loạt các từ láy tượng hình “ khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” nhấn mạnh sự trùng điệp nối tiếp vô tận với
hình thế quanh co gập ghềnh hun hút như đổ xuống vực sâu, từ đó càng làm nổi bật sự nhọc nhằn của người lính trên
đường hành quân. Hình ảnh “súng ngửi trời” được nhà thơ xứ Đoài nhân hoá lên một cách đầy mới mẻ, trẻ trung và
không kém phần táo bạo. Đó tựa như trung tâm của cả đoạn thơ, chữ “ngửi” đầy sự sống động, tự nhiên, lạ lẫm và
đậm chất lính. Hình ảnh gợi nên tầm vóc lớn lao sánh ngang cùng trời đất của người chiến sĩ, ẩn hiện trong đó là sự
tếu táo hóm hịn trong tâm hồn trẻ trung của người lính Tây Tiến. Với thủ pháp nghệ thuật điệp ngữ “ngàn thước”
cùng các từ ngữ tương phản đối lập mở ra không gian từ trên xuống hay từ dưới lên đều hết sức hùng vĩ, nhấn mạnh
độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng hiểm trở của thiên nhiên. Thế nhưng trong câu thơ tiếp theo, ta lại thấy
được sự bình yên của miền Tây: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Câu thơ với 7 thanh bằng của từng chữ trải ra,
mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa
trắng. Chữ “nhà” như một thoáng trầm lắng suy tư, gợi cảm giác bình yên ấm áp, trào dâng nỗi nhớ nhung xao xuyến.
Cả khổ thơ đầu là những hiểm nguy khó khăn của cuộc kháng chiến, để thành công những người lính đã phải sống hết
mình tựa như chẳng có ngày mai:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và
chiến đấu, có bao đồng đội đã "không bước nữa", vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo,
góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành
quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Người lính ra đi, đồng đội anh lại tiếp bước. Đó
là những con người dũng cảm gan dạ kiêu hùng, thà chết bệnh chết trận cũng quyết không trở thành kẻ hèn nhát đào
ngũ trở về. Họ đã hy sinh cả tuổi trẻ - điều tốt đẹp nhất của cuộc đời để giành lấy, bảo vệ sự hoà bình, tự do của dân
tộc ta ngày hôm nay. Hiện thực chiến tranh vốn là thế, xương máu đổ xuống để xây đài tự do, vần thơ tuy nói đến sự
mất mát hi sinh nhưng không hề bi luỵ thảm thương.

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mườg Hịch cọp trêu người”

Chỉ với hai câu thơ tg đã gieo vào lòng người đọc sự bí hiểm hoang sơ của núi rừng miền Tây. Từ láy “chiều chiều” và
“đêm đêm “ gợi về sự viên miễn của thời gian, sự tuần hoàn và thường xuyên lặp đi lặp lại. Mỗi ngày người lính phải
trải qua địa hình khắc nghiệt, những dốc núi thăm thẳm, những mưa lũ thác gầm và bóng cọp vờn người nơi rừng
thiêng nước độc. Khổ thơ khép lại với 2 câu thơ :

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Nhà thơ gói gọn mùa hương thơm lúa gạo trong hình ảnh “cơm lên khói” và “thơm nếp xôi”. Điểm đến của các cuộc
hành quân, cũng là nơi đoàn quân có thể dừng lại nghỉ ngơi, thường là những làng bản. Một bữa cơm nóng bốc khói,
hương vị ngọt thơm của xôi nếp, đó là niềm mong mỏi, niềm vui ấm áp của người lính sau một chặng dài hành quân,
xua tan đi bao mệt mỏi, vơi đi phần nào nỗi nhớ quê nhà của người chiến sĩ. Bây giờ nó hiện ra trong kí ức, trong nỗi
nhớ như có cả hương vị ngọt ngào ấm áp. Thay thế cho hình ảnh khung cảnh hoang vu hiểm trở, trong khổ thơ tiếp
theo, Tây Bắc hiện ra vô cùng diễm lệ, đầy duyên dáng và đậm chất trữ tình và rất đỗi nên thơ. Tác giả tựa như người
nghệ sĩ bị hấp dẫn bởi chính những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn quyến rũ của con người và cảnh vật nơi phương xa.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp


Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Doanh trại là môi trường quân đội, kỉ luật thép. Tưởng chừng tâm hồn người lính đã trở nên chai sạn, thế nhưng tâm
hồn họ lại rất lãng mạn nghệ sĩ. Ta bắt gặp động từ “bừng” mang nhiều trường ý nghĩa, nhưng cách hiểu nào cũng
hay và đặc sắc. “Bừng” là ánh sáng mạnh đột ngột, bất ngờ, nhưng “bừng” cũng là khoảnh khắc cả ngàn ngọn đuốc
bừng lên cháy rực rỡ giữa rừng đêm. Dù hiểu thế nào câu thơ cũng đều mang đến sự nhộn nhịp, sôi nổi. Bên cạnh đó,
hình ảnh “hội đuốc hoa” cùng bút pháp lãng mạn đã khẳng định vẻ đẹp tâm hồn người lính. Họ sống hôm nay không
biết ngày mai còn hay mất, nhưng họ vẫn luôn trẻ trung xuân sắc, lạc quan và tin tưởng vào thắng lợi. Người lính Tây
Tiến bị thu hút bởi linh hồn của buổi văn nghệ- những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc xuất hiện trong bộ xiêm áo lộng lẫy
“e ấp”, duyên dáng nữ tính. “Kìa em” như tiếng reo vui, vui mừng ngạc nhiên. Âm nhạc và vũ điệu của người dân tộc
hoang dã, bí ẩn nhưng đầy quyến rũ khiến tâm hồn người lính bay bổng phiêu du. Đó cũng là nguồn lực tinh thần dồi
dào, tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho các anh nơi đất khách quê người hung hiểm. Viên Chăn là thủ đô Lào, bởi
người lính Tây Tiến không chỉ chiến đấu ở Tây Bắc Việt Nam mà còn cả nhiều vùng thuộc các tỉnh Viên Chăn, Sầm Nứa
của Lào. Từ đó ta thấy dù ở bất cứ đâu cũng được đón tiếp bằng tình dân quân nồng thắm, mặt khác cũng thấy được
mối giao hảo lâu đời của Lào với Việt Nam.

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Không gian màu sương khói cứ thế hiện ra, chiều sương nhạt nhoà với từ “ấy” mang theo sự xa xôi mơ hồ cùng chút
bâng khuâng. Điệp cấu trúc “có thấy”, “có nhớ” thể hiện nỗi nhớ nhung trăn trở của tác giả dành cho nơi đây khôn
nguôi nghỉ. “Hồn lau” chứ không phải “cây lau” hay “hàng lau”, “bông lau”, cũng chính chữ “hồn” ấy khiến cho loài
cây lau bờ bụi vô tri vô giác ấy trở nên sinh động có hồn, tưởng như biết thương biết nhớ. Trên dòng sông đậm màu
cổ tích huyền ảo ấy, nổi bật dáng người mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc cầu độc mộc. Cảnh vật nên thơ
trữ tình, những bông hoa cũng “đong đưa “ mềm mại, như có tâm trạng có hồn, cũng biết làm duyên làm dáng như
người thiếu nữ. Đoạn thơ thứ ba tiếp nối lại hiện lên vẻ đẹp bi tráng của đoàn binh Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Chất bi tráng được thể hiện với khí thế ngút trời “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”, đây là một hình ảnh dữ dội và
hết sức mạnh mẽ của người lính, dù ở trong rừng sâu đối diện với căn bệnh sốt rét hoành hành, da có xanh nhợt đi vì
bệnh tật thì chưa bao giờ họ thôi quyết tâm, kiên cường chiến đấu. Người lính khoác trên mình bộ quân phục màu
xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Họ ốm nhưng chẳng hề yếu, dù trong hoàn
cảnh nào vẫn giữ được tâm thế oai nghiêm, uy nghi lẫm liệt, “ dữ oai hùm”. Ở hai câu thơ ngay sau đó, nhà thơ khắc
hoạ rõ nét tâm tư tình cảm của người chiến sĩ Tây Tiến, nét hào hoa của người lính Tây Tiến. “Mắt trừng “ và “gửi
mộng”, cả hai hành động ấy đều được xảy ra trong lòng các anh, mở to mắt hướng về phía trước cùng ý chí khát vọng
lòng căm thù với giặc ngoại xâm, nhưng đồng thời các anh cũng không quên gửi gắm yêu thương tâm tư của mình
cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành. Quang Dũng nhìn nhận ở nhiều chiều, khắc hoạ chân dung ng lính không
chỉ vẻ ngoài mà cả tâm hồn lãng mạn hào hoa của họ.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhà thơ tái hiện một không gian lạnh lẽo, heo hút với hình ảnh những nấm mồ hoang của những người con biên ải
tha phương, tuy không nhiều nhưng rải rác trên đường hành quân. Đó là điều nghiệt ngã mà các anh phải đối mặt,
tuổi trẻ của những người lính đã vĩnh viễn dừng lại tại nơi biên cương. Các anh tự nguyện, sẵn sàng xả thân ra chiến
trường, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, sự hi sinh của những người lính ấy đã tạo nên hoà bình độc lập của ngày
nay. Những năm đầu của cuộc chiến hết sức gian khổ, người lính Tây Tiến thiếu thốn rata nhiều về cơ sở vật chất.
Đến lúc ra đi, một manh chiếu liệm tử thi cũng chẳng có, bộ quần áo lúc còn sống chính là chiếc quan tài che kín thân
anh. Tác giả dùng từ “áo bào” để thể hiện sự thành kính, trang trọng và làm dịu đi phần nào nỗi mất mát đau thương.
Khi vĩnh viễn giã từ cuộc sống, chẳng có người thân nào khóc đưa, đồng đội cố nén dòng lệ phân li để giữ vững tinh
thần, chỉ có dòng sông Mã gầm lên đưa tiễn người con của dân tộc về với đất mẹ. Một lần nữa hình ảnh sông Mã hiện
lên và được nâng tầm để trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại chiến công của người lính Tây Tiến cũng như sự hi
sinh mất mát của họ. Cuối cùng, khổ thơ cuối khép lại trong lời thề gắn bó với Tây Tiến, ra đo không hẹn ngày về, tinh
thần quyết chiến cho tổ quốc, câu thơ nhịp điệu có phần chậm, giọng thơ buồn song linh hồn đoạn thơ vẫn toát lên
vẻ hào hùng.

Khơi nguồn cảm hứng từ thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một
cách đặc sắc, với tâm trạng thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội đã
khiến độc giả của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này. Có thể nói, Tây Tiến
là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã
góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mãi dư âm trong lòng người đọc.

TÂY TIẾN

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng để hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc :

“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”


Trong cuộc đời mỗi người ai cũng từng gắn bó với một mảnh đất mà cả đời không thể quên.
Mảnh đất ấy trở thành dấu ấn , trở thành những kỉ niệm không thể nào phai mờ. Nhà thơ
Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng
chiến , về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc và hình ảnh những người lính kiêu
hùng , dũng mãnh nhưng cũng đầy tài hoa , lãng mạn được ghi lại chân thực , sinh động
trong bài thơ “Tây Tiến”.

Bài thơ mở ra bằng nỗi niềm bâng khuâng , hoài niệm , gọi về những gì thân thuộc, đáng
nhớ nơi tâm tưởng bao quát toàn bộ cảm xúc chủ đạo của bài thơ :

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Sông Mã là con sông gắn liền với đoàn quân Tây Tiến là chứng nhân lịch sử của một thời .
Con sông Mã chạy suốt theo các chặng đường hành trình của người lính. Chứng kiến buồn ,
vui, mất mát , hy sinh cũng đã lùi xa .Quang Dũng đã chia tay sông Mã , chia tay với đoàn
quân Tây Tiến. Nhớ về Tây Tiến cất lên tiếng gọi người thân yêu như muốn thức dậy cả một
khung trời kỉ niệm.Tiếng gọi “ơi”đã xoa tan đi khoảng cách của không gian , thời gian để
người còn sống hoài niệm về một thời chinh chiến và nhớ cho cả phần của người đã khuất.
Các từ “xa rồi”, “nhớ về”, “nhớ chơi vơi”phủ lên bài thơ màu sắc hoài niệm . Hình như chính
sự xa rồi mới cho con người cơ hội hiểu rõ lòng mình hơn,nhận thấy mình nhớ sông Mã,nhớ
Tây Tiến, nhớ rừng núi miền Tây.Trong văn học có không ít nỗi nhớ đó là nỗi nhớ:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Đó có thể là nỗi nhớ bồi hồi , nỗi nhớ xót xa , nuối tiếc , căm giận của Hoàng Cầm khi nghe
tin giặc Pháp tàn phá quê hương . “nhớ chơi vơi”là kết quả của cách kết hợp từ độc đáo .
“nhớ”là một trạng thái cảm xúc của tâm hồn thuộc thế giới vô hình,vô ảnh.Còn“chơi vơi” là
từ láy tượng hình . Quang Dũng đã cụ thể hóa sắc điệu nỗi nhớ thành một nỗi nhớ ăm ắp ,
không gian bao la thăm thẳm khiến lòng người khắc khoải , hụt hẫng , trống vắng không có
gì khỏa lấp được . Nỗi nhớ vừa như có trạng thái , vừa như có dáng vẻ cụ thể . Hai câu đầu
đã xác định được điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ.Quang Dũng đã rời xa sông Mã nhớ
rừng núi bằng nỗi nhớ chơi vơi với bao cảm xúc nhớ nhung , hoài niệm. Cảm xúc ấy như đã
bắc một nhịp cầu nối liền quá khứ với hiện tại , nối liền Quang Dũng với binh đoàn một thời
gắn bó.

Nếu nhắc đến thiên nhiên miền Tây nét đặc sắc đầu tiên kể đến là màn sương rừng mờ ảo :
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Người Việt Nam yêu văn chương chắc hẳn rất quen với những địa danh thôn Đoài, thôn
Đông gợi nét bình yên của nông thôn Việt Nam . Còn những cái tên như : Sài Khao , Mường
Lát lại gợi ấn tượng về sự xa ngái , hoang vu của một vùng đất dữ , đất hiểm.Chốn rừng
thiêng nước độc ấy xa lạ với chúng ta nhưng lại rất quen thuộc , thân thương với người lính
Tây Tiến . Người lính Tây Tiến mải miết hành quân bước qua rừng sâu , đạp trên đá ghềnh
sương khuất chân người,sương lấp đường đi . Khung cảnh núi rừng thật hoang sơ , bước
chân mệt mỏi, nặng nề của người lính dường như được nâng đỡ bởi vẻ đẹp huyền ảo của
thiên nhiên.Hình ảnh : “hoa về trong đêm hơi” như được viết lên từ ấn tượng về những làn
hương hoa rừng lan tỏa trong đêm . Vẻ đẹp của thiên nhiên xua đi bao mệt mỏi trên con
đường hành quân đầy nhọc nhằn , thử thách.

Theo bước chân hành quân của những người lính phong cảnh núi rừng hiện ra như một
thước phim quay chậm:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nhớ đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Đoạn
thơ đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy qua đó làm hiện lên
cuộc hành quân gian lao, vất vả , ý chí bất khuất kiên cường và tinh thần lạc quan yêu đời
của người lính Tây Tiến.Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc tạo ra âm hưởng gập
ghềnh cho một câu thơ bảy chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành
quân đầy gian truân , khó nhọc của chiến sĩ Tây Tiến. Nhịp thơ bốn ba , từ “dốc”lặp lại ở đầu
hai vế câu thể hiện sự trùng điệp , chồng chất nối tiếp như tới vô tận của những con dốc gợi
ra sự nhọc nhằn của người lính trên chặng đường hành quân . Con dốc này chưa qua con
dốc khác đã lại đợi sẵn. Núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các
anh.Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra qua các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”.Từ ”khúc khuỷu”miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân người
chiến sĩ,với”thăm thẳm”lại gợi về độ cao hun hút , độ xa vời vợi khi đưa con mắt nhìn tiếp
chặng đường hành quân vẫn cheo leo,ngút ngàn, hiểm trở .Con đường lên miền Tây quả là
khó như lên trời xanh.Dốc núi miền Tây tiếp tục được gợi tả gián tiếp trong câu thơ:”Heo
hút cồn mây súng ngửi trời”.Từ láy “heo hút”vừa gợi cao,vừa gợi xa , vừa gợi vắng được đảo
lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ , xa vắng , thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền
Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai đến từ thủ đô hoa lệ.”cồn
mây”ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi bộn bề , chồng chất dựng lên thành cồn , thành dốc từ
đó câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mức con đường như lẫn vào
mây,mây bao phủ đường núi mờ mịt khiến con đường hành quân của người chiến sĩ càng
thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu, xa vắng vất vả của người lính trên chặng đường hành
quân nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh đầy chất lính. Hình ảnh nhân hóa “ súng ngừi
trời” Quang Dũng đã cho thấy cái tâm hồn trẻ trung của những người lính coi thường mọi
gian lao, vất vả. Câu thơ chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ , lạc quan của chiến sĩ
Tây Tiến. Nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng. Dốc núi miền
Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc “ ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống”. Câu thơ bị bẻ gập làm đôi tạo hình ngọn núi cao chót vót nhìn lên ngút tầm
mắt, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nhịp bốn ba, phép đối thanh, đối ý thể hiện cái hùng vĩ,
hiểm trở chứa đựng sức mạnh dữ dội, bí hiểm của thiên nhiên. Sau những câu thơ miêu tả
dốc núi thăm thẳm, heo hút câu thơ tả mưa miên man với rất nhiều âm tiết gợi tả một
không gian mênh mông, nhạt nhòa trong mưa. Câu thơ toàn thanh bằng tạo cảm giác nhẹ
nhàng, bay bổng thư thái như chưa từng có cuộc vượt dốc đèo nào trải qua. Người lính
dường như đã quên hết sự mệt mỏi, gian khổ phóng tầm mắt ra xa ngắm màn mưa phủ kín
đất trời.Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng
bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo giữa mưa rừng buốt lạnh, núi rừng mênh
mông ,hoang vu, heo hút hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên trào dâng nỗi nhớ
nhung, xao xuyến trong lòng người lính Tây Tiến.

Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “

Hai chữ “Mường Hịch”chỉ địa danh cụ thể nơi đặt sở chỉ huy của đoàn quân Tây Tiến trở
thành địa danh ám ảnh. Chỉ cần đọc hai chữ “Mường Hịch”ta thấy lởn vởn dấu chân cọp dữ
nơi đây không chỉ nghe thấy tiếng gầm của chúa sơn lâm mà còn cảm nhận được cái dữ dội
của thác dữ . Tiếng gầm của rừng núi , của chúa sơn lâm lúc chiều , lúc đêm chứng tỏ cái oai
linh tuyệt đối , dữ dội của thiên nhiên miền Tây. Tất cả bề cao, bề sâu, bề rộng, sự kỳ vĩ,
hoang sơ của địa hình Tây Tiến đã được chạm khắc bởi những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ,
khỏe khoắn. Hai câu thơ miêu tả ấn tượng về khung cảnh thiên nhiên miền Tây từ đó làm
nổi bật chân dung người chiến sĩ Tây Tiến hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã hành quân qua những
vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người. Họ đã in dấu chân mình trên những vùng
đất tưởng chỉ là vương quốc của mây trời heo hút của thiên nhiên bí ẩn. Họ đã vượt qua
những gian truân vất vả bằng những khí phách kiên cường, dũng cảm.

Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn binh Tây Tiến đã từng
phải đối mặt. Nhưng để có thể vượt qua được chặng đường ấy, họ đã phải sống hết mình,
sống như không có ngày mai :

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Không hề né tránh hiện thực khốc liệt với bao mất mát , hi sinh mà người lính Tây Tiến phải
chịu đựng . Ông đã viết nên hiện thực ấy bằng niềm xúc động chân thành và tiếng nói của
người trong cuộc . Trong kháng chiến chống Pháp có một sự thật không phải ai cũng biết đó
là người lính đã bị kiệt sức trên con đường hành quân vượt đèo, leo dốc đã phải ngã xuống
khi chưa hoàn thành nhiệm vụ , sứ mệnh . Song ở đây bi mà không lụy cách nói giảm , nói
tránh “không bước nữa”,”bỏ quên đời” diễn tả cái chết mờ đi sắc thái bi thương đồng thời
khắc sâu ấn tượng về sự ngang tàng , bướng bỉnh xem thường cái chết của người lính Tây
Tiến . Họ ra đi với lời thề “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”coi cái chết nhẹ tựa lông hồng
như đi vào giấc ngủ .

Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả
những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết , ân tình.Thiên nhiên miền Tây cũng không chỉ có núi
cao, rừng sâu , vực thẳm mà còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp . Có
hương thơm quyến rũ của xôi nếp nương nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Mở đầu bằng cụm từ cảm thán “Nhớ ôi”câu thơ bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh
liệt về bản làng “Mai Châu”về những chị , những em trong mùa lúa chín . Sau những chặng
đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh giữa núi cao , vực sâu, giữa những tiếng chân
thú dữ rình rập , đe dọa thì phút dừng chân bên một bản làng với bát cơm mới thơm ngọt
ngào cùng làn khói bếp ấm áp đã đem đến cho các anh cảm giác thanh bình hiếm hoi,quý giá
trong chiến tranh xua tan đi vẻ mệt mỏi trên gương mặt người lính. Hương thơm bát xôi
nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong cuộc
đời người lính.Câu thơ : “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu cho người
đọc . Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận
bát xôi thơm phức, hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng, mềm mại của những cô gái
Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn từ hai chữ “ mùa
em”. Người ta thường nói đó là mùa hoa, mùa quả là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp
sắc hương của hoa trái. Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo qua hai từ “ mùa em”
khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn liền với kỷ niệm của xôi nếp đầu mùa,
của tình quân dân sâu nặng. Mai Châu còn gợi đến hình ảnh cô gái miền Tây duyên dáng,
đằm thắm. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu khi nồng ấm xung
quanh là dân làng, sơn nữ sóng sáng trong ánh mắt rạng rỡ, nụ cười nồng nàn hương sắc.
Những thanh bằng trong câu thơ gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến tới ngất ngây trong tâm
hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn với con
người và cảnh vật. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong khoảng thời gian làm nổi rõ nhất
vẻ lung linh, huyền ảo của một đêm liên hoan văn nghệ có đồng bào địa phương tới góp vui:

“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Nhà văn hóa nước Pháp có viết : “ Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất.” Hiểu như vậy
chúng ta thấy chữ “ bừng” đặt rất đúng chỗ. Nó nằm ở giữa dòng thơ mang đến cảm nhận
cả doanh trại như bừng sáng rộn rã hẳn lên khi đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu. Ánh sáng
của cảm hứng lãng mạn đã đẩy lùi bóng tối của “ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
đầy hoang sơ, bí hiểm để thắp lên tâm hồn người lính Tây Tiến niềm lạc quan yêu đời.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa hay chính tâm hồn người lính đã bừng sáng lên trước tình
quân dân nồng cháy. Trong ánh sáng rạng ngời của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của
tiếng khèn cả cảnh vật và con người như ngả nghiêng, ngây ngất, rạo rực, bốc men say với
cái nhìn lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến. Ánh đuốc chiếu sáng buổi liên hoan văn
nghệ đã trở thành ngọn “ đuốc hoa”. “ đuốc hoa” là từ cổ để chỉ ngọn nến trong phòng cưới
đêm tân hôn. Hình ảnh này xuất hiện trong đêm liên hoan của người lính vừa hiện đại, vừa
thiêng liêng, vừa ấm áp tình quân dân. Cảnh đêm liên hoan lửa trại càng trở nên rộn rã,
tưng bừng khi có sự xuất hiện của “ em “ – nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm hội. Hai
chữ “ kìa em” vang lên như tiếng reo thích thú diễn tả sự ngạc nhiên sững sờ, đắm đuối
trước sự xuất hiện của những cô gái miền Tây. Bút pháp lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp đầy
tình tứ, quyến rũ. Các cô gái dân tộc hiện ra lộng lẫy trong xiêm y rực rỡ nhưng vẫn giữ
nguyên vẻ đẹp dịu dàng, e ấp. Tất cả vẻ đẹp ấy càng lôi cuốn, sống động trong tiếng khèn,
điệu nhạc đặc trưng của các dân tộc. Câu thơ: “ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” có sáu
thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, chơi vơi đưa tâm hồn người lính phiêu lãng về Viên Chăn
– Thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ. Địa danh này gắn liền với sứ mệnh của đoàn quân
Tây Tiến phối hợp với bộ đội Lào để tiêu diệt kẻ thù chung. Có lẽ những giây phút say sưa
cùng tiếng khèn, điệu múa và vẻ đẹp của những cô sơn nữ khiến tâm hồn người lính Tây
Tiến mơ về ngày mai chiến thắng. Đó là lúc người lính Tây Tiến sẽ xây tiếp ước mơ còn dang
dở, những khát vọng mà họ tạm gác để lên đường theo tiếng gọi non sông. Trong một lần
tâm sự người đồng đội của Quang Dung đã hồi tưởng lại: “ Đêm chuẩn bị vượt sông Mã để
sang đánh địch ở đồn Mai Hạ đội vũ trang tuyên truyền tổ chức uống rượu và múa lăm vông
không ngờ anh Quang Dũng múa rất dẻo, vừa múa vừa hát một bài hát Lào.” Những đêm
liên hoan như vậy phải chăng đã thăng hoa vào hồn thơ Quang Dũng để ngày hôm nay khi
hồi tưởng lại không khỏi bùi ngùi, xúc động, tha thiết nhớ. Thực tế chặng đường hành quân
có thể dừng lại là một địa bàn hoang sơ, hẻo lánh, heo hút, xa dân bản nhưng đoàn quân lại
chọn nơi gần dân tổ chức liên hoan và cũng là lúc các đồng đội tự thể hiện và tìm hiểu tài
năng của các thành viên trong đơn vị mình và giúp tình quân dân càng thêm khăng khít. Lính
Tây Tiến vốn là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn nên cũng có thể hóa trang trong
những xiêm y mới lạ để cho đêm biểu diễn được vui nhộn vì vậy câu thơ: “ Kìa em xiêm áo
tự bao giờ cũng có thể là xiêm áo lính tráng đấy nhưng trong Tây Tiến người đọc chỉ thấy cái
tình tứ, thướt tha, dịu dàng, yêu kiều của “ em” lướt đi với các vũ điệu và âm nhạc bước ra
từ một nền văn hóa xứ lạ, phương xa đầy quyến rũ, mê hoặc.Quang Dũng đã khắc họa một
bức trang phong phú màu sắc,đường nét vừa đa dạng về âm thanh ánh sáng với tâm hồn
lãng mạn , tài hoa. Tác giả không chỉ cho ta thấy vẻ đẹp đậm đà bản sắc văn hóa , phong tục
tập quán của đồng bào miền biên cương tổ quốc mà còn cho người đọc cảm nhận được tình
quân dân đằm thắm keo sơn, gắn bó bên nhau thủy chung , son sắt , ân tình và niềm lạc
quan yêu đời của người lính Tây Tiến. Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp , ta thường
chứng kiến những mối tình quân dân gần gũi, thắm thiết keo sơn và niềm lạc quan yêu đời
của người lính:

“Các anh về

Xôn xao làng tôi bé nhỏ

Nhà lá đơn sơ

Những tấm lòng rộng mở”

(“Các anh về” của Hoàng Trung Thông)


Cũng là một đêm liên hoan thấm đẫm tình quân dân nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng
lại đẹp như thế giới cổ tích. Những người lính Tây Tiến, những chàng vệ quốc của một đoàn
quân mỏi lại đẹp như những chàng hoàng tử đa tình còn những thiếu nữ vùng cao vừa được
giải phóng khỏi cuộc sống đọa đầy của bọn phong kiến thực dân, giải phóng khỏi cuộc đời
nô lệ lại đẹp rực rỡ trong xiêm áo như những nàng công chúa vừa bừng tỉnh sau một giấc
ngủ giữa rừng sâu. Ngắm nhìn những người lính vừa lãng mạn, vừa hào hoa trong đêm liên
hoan đốt lửa trại ai dám bảo họ chỉ biết nung nấu ý chí căm thù, ai dám bảo họ chỉ có một
trái tim thép với tâm hồn khô cứng.

Từ đêm liên hoan lửa trại Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền Tây Bắc đầy chất
thơ. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí say mê ngất ngây thì
cảnh sông nước miền Tây lại gợi cảm giác mênh mông mờ ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Đoạn thơ một lần nữa bộc lộ nét tài hoa lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. Hình ảnh “
chiều sương ấy” khiến cho thiên nhiên ở nơi vốn chỉ có bản sương giăng, đèo mây phủ càng
trở nên mờ ảo hơn không gian sông nước trong một buổi chiều như bảng lảng khói sương.
Câu thơ không xác định thời gian cụ thể nhưng lại gợi được thời khắc khó quên về một buổi
sương nào đó đã in đậm trong tim, trong nỗi nhớ của Quang Dũng và đồng đội Tây Tiến.
Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật bắt vần: “ chiều sương ấy – có thấy” diễn tả cảm xúc trào
dâng. Câu trước nối với câu sau, kỷ niệm lại gọi về kỷ niệm cứ như thế kí ức lần lượt hiện về
như một thước phim quay chậm. Một trong những hình ảnh khiến người lính Tây Tiến nhớ
mãi trong kí ức đó là : “ hồn lau nẻo bến bờ”. Đây là hình ảnh gợi cảm và nên thơ nhất của
Quang Dũng gọi là “ hồn lau” chứ không phải hoa lau, bông lau. Cách gọi nhân hóa ấy không
chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc những đồi lau trắng muốt trải dọc biên giới, phảng
phất trong gió mà còn gợi lên được cái phần thiêng liêng của cảnh vật. Phải chăng chính tâm
hồn đã hòa nhập vào thiên nhiên để thấy được hồn của cảnh trong mỗi bông lau khiến cho
thiên nhiên dù tĩnh lặng, buồn bã, hiu hắt song vẫn rất thi vị và giàu chất thơ. Cũng viết về
những kỷ niệm gắn bó với những hình ảnh bông lau nhưng mỗi nhà thơ lại có một cảm nhận
riêng biệt. Chế Lan Viên trong một bài thơ khác có viết:

“ Ai lên biên giới cho lòng ta theo với


Trăm ngàn lau chỉ trắng có một mình

Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi

Suốt một đời cùng với gió giao tranh”

Chế Lan Viên mang phong cách trữ tình – chính luận nên ẩn sau câu chữ là triết lý sâu xa nhà
thơ nhìn thấy những triền lau trắng muốt nơi biên giới mà nhận ra sức sống của cả một dân
tộc, nhận ra sau vẻ đẹp là những giao tranh. Còn trong “ Tây Tiến” những hồn lau xuất hiện
dưới làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ hoang sơ của miền Châu Mộc đã phần nào hé mở
tâm hồn của một thi sĩ tài hoa có một cái nhìn trẻ trung yêu đời và thơ mộng.

Trên bức tranh sông nước đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy nổi lên dáng hình mềm mại,
uyển chuyển của con người đang xuôi thuyền về Châu Mộc:

“ Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Đúng là : “ Thi trung hữu họa” ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chỉ chấm phá một vài nét
đơn sơ song đã gợi được cái hồn của những bông lau, cái dáng vẻ rất tạo hình trên chiếc
thuyền độc mộc, cái đong đưa rất tình tứ của những bông hoa rừng trên dòng nước lũ.
Quang Dũng không dùng từ “ đung đưa” bởi vì từ này chỉ tả cuộc đời đưa đi đưa lại có tính
chất vật lý còn từ “đong đưa” vừa tả cuộc đời vừa gợi được nét duyên dáng và rất có hồn
của hoa tạo cho thiên nhiên miền Tây một vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Trong bốn câu thơ
cảnh không rõ nét mà mờ ảo tất cả bao trùm trong màn sương với chiều khói sương bảng
lảng, hồn lau thì phảng phất còn người chỉ ẩn hiện trong một dáng, hoa chỉ thấy một điệu “
đong đưa”. Nét bút của Quang Dũng đã vẽ được cái mộng mơ của cảnh vật, hư ảo của hoài
niệm.

Ở đoạn thơ tiếp theo Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát chung được khuôn mặt của cả đoàn quân.
Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu hòa quyện, xâm nhập vào nhau để làm nổi bật vẻ
bi tráng – thần thái chung của bức tượng đài. Hai câu thơ đầu là những nét vẽ ấn tượng về
ngoại hình của người lính Tây Tiến:

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”


Cái bi được hiện ra trong hình ảnh những người lính Tây Tiến “ không mọc tóc” và “ quân
xanh màu lá”. Quang Dũng không hề che giấu những gian khổ, những căn bệnh hiểm nghèo
và sự hy sinh lớn lao của người lính. Hình ảnh “ không mọc tóc” của người lính Tây Tiến
chứa đựng một sự thật nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để
thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét hoành hành đến rụng tóc,
trọc đầu. Trong hồi ức của đồng đội Tây Tiến trở về, đoàn quân ấy đánh trận tử vong thì ít
mà sốt rét tử vong thì nhiều. Chốn rừng thiêng nước độc gian khổ, thiếu thốn, thuốc men
không có khiến thân hình họ trở nên tiều tụy, xanh xao, vàng vọt và hình ảnh” quân xanh
màu lá” đã chứa đựng sự thật khốc liệt ấy. Quang Dũng sử dụng lối diễn đạt dân gian “ xanh
màu lá” để cường điệu nước da xanh bủng vì thiếu ăn, bệnh tật, sự khắc nghiệt của thiên
nhiên và sự ác liệt của chiến tranh. Thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp khi viết về người
lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài “Đồng chí” đã viết:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Còn Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “ Cá nước” đã viết :

“ Giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!”

Ẩn sau ngoại hình gợi nhiều khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua là sức mạnh nội
tâm. Người lính xem chiến tranh là gian khổ, hy sinh, mất mát nên họ chủ động đối mặt với
nó không mọc tóc chứ không phải tóc không mọc vì sốt rét đó chính là cách nói mang khẩu
khí lính Tây Tiến có cái gì dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi mặc dù gian khổ thiếu thốn làm cái
đầu trọc lộc, nước da xanh bủng màu lá lính Tây Tiến vẫn toát lên tư thế dữ oai hùm. Hai vế
của câu thơ có quan hệ tương phản nếu “quân xanh màu lá” đặc tả diện mạo bên ngoài
thì “ dữ oai hùm” gợi ra cái chí khí, phong thái sức mạnh bên trong của người lính Tây Tiến
bất chấp hình hài ốm yếu, sức vóc gầy gò, bất chấp cuộc sống chiến trường gian khổ, thiếu
thốn ở họ vẫn toát lên phong thái lẫm liệt, oai phong của chúa sơn lâm.

Bức tượng đài chiến sỹ Tây Tiến chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy
nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu tâm hồn:

“ Mắt trừng gửi mộng của biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

“ mắt trừng” đôi mắt mở to với tốc độ tập trung đến căng thẳng đằng sau đôi mắt mở trừng
là ý chí gan góc của người lính lòng căm thù sục sôi đối với quân xâm lược. Ánh mắt ngời lên
ý chí chiến đấu, khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của
những chàng trai thời loạn. Đây thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn
nhằm tô thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ nét kiêu hùng ngạo nghễ của một đoàn
binh không mọc tóc với những gương mặt “ dữ oai hùm”. Khắc họa nét đẹp lãng mạn trong
tâm hồn những người lính có lý tưởng khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như những tráng
sĩ thuở xưa:

“Giã nhà đeo bức chiến bào

Thét roi Cầu vị ào ào gió thu”

( Chinh phụ ngâm)

Những chàng trai Hà Nội ra đi vì lý tưởng, khát vọng song trái tim họ vẫn dành một góc lưu
luyến, nhớ nhung về “ Hà Nội dáng kiều thơm”. Nỗi nhớ quê hương vốn là một cảm xúc
thường gặp trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Hồng Nguyên đã dành hẳn một bài mang
tên “ Nhớ” trong bài hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân luôn nhớ về :

“ Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya”

Còn trong “ Đồng Chí” của Chính Hữu thì:

“ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Người lính trong những bài thơ ấy đều ra đi từ vùng quê nghèo khó và nỗi nhớ của họ cũng
là nhớ về những gì bình dị, gắn bó với làng quê Việt Nam. Còn trong “ Tây Tiến” là nỗi nhớ
của những chàng trai Hà Thành về một Hà Nội tao nhã, lịch lãm hiển hiện qua dáng hình của
những cô thiếu nữ Hà Nội yêu kiều, duyên dáng, thướt tha, thanh lịch – một cái đẹp hội tụ
sắc nước hương trời. Những giấc mơ chấp chới “ dáng kiều thơm” trở thành động lực giúp
người lính vượt qua mọi khó khăn gian khổ là lời thúc giục họ tiến lên phía trước, là sợi dây
thiêng liêng của niềm tin vượt qua bom đạn trở về. Dáng kiều thơm nơi Hà Nội là hậu
phương đối với những người lính Tây Tiến. Họ vào Tây Tiến bằng trách nhiệm công dân
nhưng cũng bằng hành trang sách vở, bút nghiên cho nên giấc mơ “ dáng kiều thơm” là giấc
mơ ít nhiều thơm mùi sách vở học trò. Nỗi nhớ “dáng kiều thơm” làm nên cái hào hoa trong
chất lính Tây Tiến, làm nên cái bay bổng lãng mạn. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về người
lính Tây Tiến bên cạnh cái gian khổ trèo đèo lội suối, bên cạnh nhiệm vụ tuyên truyền chính
trị gắn kết quân dân khăng khít như cá với nước, bên cạnh tinh thần sôi sục chiến đấu họ
vẫn có một khoảng trời tâm tưởng đi về. Mộng ước với dáng hình người đẹp nó không hề
làm nao núng, vơi nhạt ý chí chiến đấu của người lính. Ngược lại nó khiến các anh thêm chắc
tay súng. Chính những mộng mơ ấy sẽ nâng đỡ tinh thần vượt qua được những thử thách
khốc liệt của chiến tranh. Mỗi người lính đều hiểu một cách sâu sắc mình chiến đấu không
phải chỉ vì một đất nước to lớn thiêng liêng mà còn chiến đấu vì “ dáng kiều thơm” thân
thương gần gũi.

Là cảm hứng bi tráng về những mất mát hy sinh mà Quang Dũng là nhân chứng sống. Đây là
những kí ức rất chân thật, sống động mà đoàn quân Tây Tiến đã trải nghiệm và Quang Dũng
thấy mình phải có trách nhiệm dựng lên một bức tượng đài tập thể:

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ đầu đem đến một cảm giác ảm đảm, buồn tẻ về cái chết. Nhịp ngắt bốn ba khiến
trọng tâm rơi vào chữ “ mồ” một âm tiết mang thanh bằng đem đến cảm giác trầm buồn,
ảm đạm. Trong một câu thơ Quang Dũng dùng rất nhiều từ Hán Việt thì “ mồ” là một từ
thuần Việt có giá trị biểu đạt và biểu cảm thật xúc động. Không sử dụng từ “ mộ” trang trọng
“mồ” là một danh từ miêu tả chính xác thực tế chiến trường lúc đó. Khi các anh hy sinh trên
đường hành quân việc chôn cất sơ sài, vội vã, đồng đội xót lòng để các anh lại trong những
nấm đất hoang lạnh, hiu hắt, đơn sơ trên đường. Bản thân cái chết đã gợi lên sự buồn bã,
lạnh lẽo hơn khi các anh không được nằm bên nhau. Những nấm mồ cứ rải rác trên từng
chặng đường hành quân gian khổ, những nấm mồ thiếu hơi ấm của gia đình, quê hương,
đất nước. Nhớ về một thời đã qua Quang Dũng không hề né tránh khi viết về sự mất mát hy
sinh đó là một thái độ trung thực với lịch sử với đồng đội với chính mình. Nhà thơ không cho
phép tô hồng hiện thực vốn rất đau thương. Với trách nhiệm của người cầm bút tác giả thấy
mình phải thể hiện một sự thật về chiến tranh để những người còn sống thấu hiểu, hàm ơn
và trân trọng những người đã khuất. Câu thơ gợi lên một hình ảnh có phần bi thảm bởi lẽ nó
không chỉ viết về một cái chết đơn lẻ mà rất nhiều cái chết với những nấm mồ rải rác khắp
nơi ở vùng núi hoang vu, heo hút. Tuy nhiên “Tây Tiến” bi mà không lụy, ảm đảm mà không
yếu mềm. Cảm hứng bi tráng đã trở thành âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ.
Một trong những yếu tố đầu tiên đem đến sắc thái mạnh mẽ, hào hùng cho đoạn thơ là
Quang Dũng sử dụng hàng loạt các từ Hán Việt “ biên cương, viễn xứ, chiến trường” khiến
sự hy sinh của chiến sĩ Tây Tiến được đặt vào không khí thiêng liêng, trang trọng và cảm giác
ngậm ngùi, ảm đạm trong câu một đã nhanh chóng bị xóa đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi:

“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh tráng sĩ thuở xưa đó là khí phách
của những con người dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng gạt tình riêng, ôm chí lớn. Câu thơ tô
đậm lý tưởng cao cả và khí phách kiên cường của những người chiến sĩ anh hùng : “ Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”. “ đời xanh” đó là một hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân – thời
gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời, quãng thời gian một đi không trở lại. Câu thơ cho thấy ý
chí quyết tâm cao độ của những người thanh niên ưu tú sẵn sàng dâng hiến cuộc đời và tuổi
thanh xuân cho đất nước. Đó cũng là tâm nguyện, là ý chí cao đẹp của những người thanh
niên Việt Nam thời chống Mỹ đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chân
thành, thấm thía xúc động:

“ Chúng tôi ra đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”

Như vậy sau câu thơ đầu nói về cái chết , về những nấm mồ câu thơ tiếp theo đã khẳng định
ý trí, lý tưởng , khí phách của chiến sĩ Tây Tiến. Phải chăng đây là hàm ý sâu xa của nhà thơ
các anh đã nằm lại trong những nấm mồ miền viễn xứ nhưng khí phách tinh thần vẫn sống
mãi tuổi hai mươi với Tổ quốc , với nhân dân và vẻ đẹp hào hùng toát ra từ ý chí, tâm
nguyện.

Sự hy sinh của người lính Tây Tiến tiếp tục được miêu tả qua hai câu thơ:

“ Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Áo bào là một hình ảnh ước lệ góp phần tạo ra vẻ oai phong lẫm liệt. Mượn hình ảnh này
Quang Dũng đã gợi lên sắc thái trang trọng cho sự hy sinh của đồng đội. Trên thực tế người
lính Tây Tiến ngã xuống chỉ có manh chiếu sơ sài bó tạm thậm chí chiếu cũng không đủ đồng
đội phải đan những tấm lứa, tấm tranh. Họ phải về đất trong những trang phục sơ sài, rách
rưới hằng ngày thế nhưng hiện thực khắc nghiệt ấy đã được Quang Dũng xóa đi bằng chiếc
áo bào sang trọng chính là thể hiện cái nhìn trân trọng, thành kính của nhà thơ trước sự hy
sinh của đồng đội. Các anh đã từ biệt gia đình, quê hương, ra đi về miền viễn xứ với mộng
chiến trường cao đẹp. Các anh đã chiến đấu kiên cường , hy sinh anh dũng vì tổ quốc nay tổ
quốc trìu mến, yêu thương, mở rộng vòng tay đón nhận những người con thân yêu trở về
thanh thản yên nghỉ trong lòng đất mẹ tựa như chiến sĩ trong thơ Tố Hữu:

“ Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng

Lòng khỏe nhẹ, anh dân quê vui sướng

Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành”

Người lính Tây Tiến hy sinh lớn lao mà thầm lặng, càng thầm lặng vô danh bao nhiêu lại
càng lớn lao đáng kính phục bấy nhiêu. Sự mất mát hy sinh đó như thấu động cả đất trời:

“ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sông Mã là con sông gắn liền với hành trình Tây Tiến chia sẻ mọi gian khổ, buồn vui, mất
mát, hy sinh của họ. Con sông Mã – chứng nhân của một thời hào hùng giờ đây giữ vai trò là
người đứng tế. Nghệ thuật nhân hóa trong cụm từ “ gầm lên” đã thể hiện trọn vẹn tính chất
dữ dội trong những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc nhất với những bi phẫn, xót đau,
những tiếc thương, cảm phục. Sông Mã từng gắn bó với các anh trong suốt đường hành
quân gian khổ nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên, trời đất, núi
sông gầm vang “ khúc độc hành” , bi tráng đưa tiễn những người con yêu quý yên nghỉ
trong lòng đất mẹ cũng có thể thấy ý nghĩa “ khúc độc hành” vừa mạnh mẽ vừa hào tráng vì
nó là khúc ca dành cho các chiến sỹ anh hùng.

Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến. Nhớ những chặng đường
hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hy sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỷ niệm đẹp, thú
vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng. Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công
hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên
nhiên miền Tây tổ quốc. Với bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng cùng
nhiều sáng tạo về hình ảnh , ngôn ngữ tạo nên những ấn tượng mạnh , mang sắc thái thẩm
mỹ phong phú , tuyệt mĩ hay trở nên gân guốc dữ dội , kỳ vĩ phi thường . Ngôn ngữ thơ đa
sắc thái , phong cách , tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm lạ lẫm. Giọng điệu bài
khi tha thiết bồi hồi , khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng , khi
trầm lắng.

Đi dọc theo suốt mạch cảm hứng của bài thơ, băng qua các chặng đường hành quân gian
khổ, chìm đắm trong thiên nhiên hùng vĩ miền Tây ta thấy được con người Tây Tiến, núi
rừng Tây Tiến đã khắc sâu nơi tâm tưởng của Quang Dũng để rồi cứ thế đến với người đọc
thật tự nhiên. Đó là cái vừa đa tình, vừa lãng mạn lại đầy bi tráng, là cái lạ để người đọc có
thể cảm nhận hết vẻ đẹp của toàn bài. Nhưng có lẽ, vẻ đẹp của Tây Tiến một lần nữa vang
vọng lại chính là tính thời đại và dân tộc của nó, bởi hình ảnh về bức tượng đài những người
lính Tây Tiến “ người đi không hẹn ước” đã làm nên sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc
kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống Thực dân Pháp. Đây chính là âm hưởng của thời đại, là
tình đồng chí, đồng đội, là tình yêu quê hương đất nước tha thiết của những con người:

“ Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta, như vợ như chồng Ôi! Tổ quốc nếu cần ta
sẽ chết cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Lương Thị Thùy Linh lớp onl

Nhà phê bình Phạm Xuâ n Nguyên đã từ ng nhậ n định : “ Tâ y Tiến giố ng như mộ t viên ngọ c. Ngọ c cà ng mà i cà ng
sá ng , cà ng lấ p lá nh và hấ p dẫ n. Đó là mộ t bài thơ kì diệu và có mộ t vị trí đặc biệt trong lò ng cô ng chú ng ... Mộ t
bà i thơ làm số ng dậ y cả mộ t trung đoà n, khiến địa danh Tâ y Tiến trườ ng tồ n trong lịch sử và kí ứ c mỗ i ngườ i”.
Thậ t vậ y, sự đờ i “thương hải tang điền” , rồ i mộ t ngà y kia dò ng sô ng nă m thá ng sẽ cuố n đi tấ t cả nhữ ng thà nh
quách , lâ u đài, nhữ ng kì quan củ a tạ o hó a. Nhưng nhữ ng gì là giá trị đích thự c thì luô n luô n số ng mã i dướ i sự
sà ng lọ c nghiệt ngã củ a thờ i gian. Giữ a dò ng chả y khố c liệt ấ y , ngườ i đờ i vẫ n luô n nhớ đến mộ t Quang Dũ ng đa
tà i , hồ n hậ u , phó ng khoá ng , mộ t tiếng thơ bi trá ng , lã ng mạ n . Và “ Tâ y Tiến” chính là mộ t viên ngọ c sá ng lấ p
lá nh làm rạ ng rỡ cho nền vă n họ c Việt Nam thờ i kì chố ng Phá p lú c bấ y giờ .

Nhà thơ xứ Đoà i Quang Dũ ng là mộ t ngườ i nghệ sĩ đa tà i : sá ng tá c nhạ c , vẽ tranh và làm thơ. Ô ng luô n
nhìn nhậ n sự việc , hiện tượ ng thô ng qua lă ng kính lã ng mạ n. Chính vì vậ y mà trong nhữ ng nă m thá ng khố c liệt ,
rự c lử a củ a cá ch mạ ng, hà o khí quyết chiến , quyết thắ ng đã thổ i và o thơ ca Việt Nam , trà n và o tâm hồ n lã ng
mạ n củ a Quang Dũ ng , ô ng viết nên bả n hù ng ca “Tâ y Tiến”. Toà n bộ bài thơ là nỗ i nhớ da diết , khô n nguô i củ a
tá c giả về đơn vị bộ độ i Tâ y Tiến - nơi có nhữ ng ngườ i đồ ng chí , đồ ng độ i cù ng chung lưng đấ u cậ t , về mộ t thờ i
gian khổ , hà o hù ng khô ng thể nà o quên củ a dâ n tộ c.

Nếu như ban đầu Hoà ng Phủ Ngọ c Tườ ng gọ i tác phẩ m củ a mình bằ ng mộ t cái tên rấ t Huế “ Hương ơi , e
phải mà y chă ng?” nhưng sau đó lạ i đổ i thà nh “ Ai đã đặ t tên cho dò ng sô ng ?” thì Quang Dũ ng cũ ng đã đặ t tên
đứ a con đầ u lò ng củ a mình là “ Nhớ Tâ y Tiến” nhưng sau đó , ô ng lạ i đổ i thà nh “Tâ y Tiến”. Khô ng phả i ngẫ u
nhiên mà cá c nhà vă n , nhà thơ thay đổ i tên tác phẩ m củ a mình, tấ t cả đều có dụ ng ý nghệ thuậ t sâu sắc củ a nó . “
Nhớ Tâ y Tiến” tứ c là chỉ nó i đến nỗ i nhớ về binh đoà n Tâ y Tiến . Trong khi ở đâ y, thô ng qua nỗ i nhớ ấ y, nhà thơ
cò n gử i gắm nỗ i nhớ về thiên nhiên và con ngườ i Tâ y Bắ c. Chính vì thế , Quang Dũ ng lượ c bỏ từ “nhớ ” để tá c
phẩm rú t ngắ n lạ i vừ a cô đọ ng , vừ a hàm sú c . Hai chữ “ Tâ y Tiến” vớ i âm điệu chắ c khỏ e, rắ n rỏ i đưa ta về miền
Tâ y rộ ng lớ n, thẳ m thăm, hù ng vĩ , đồ ng thờ i khiến cho “ Tâ y Tiến” sá nh ngang vớ i khú c quâ n hà nh “Tiến quâ n
ca” hà o dù ng củ a dâ n tộ c .

Vố n là mộ t ngườ i lính củ a binh đoà n Tâ y Tiến, Quang Dũ ng đã có nhữ ng kỉ niệm gợ i nhớ , gợ i thương về mộ t
quã ng đờ i binh lử a chứ a đự ng mộ t lượ ng thô ng tin rấ t thậ t. Bướ c và o trong trang thơ củ a ô ng , ngườ i đọ c như
cảm nhậ n đượ c mộ t nỗ i nhớ dạ t dà o , đong đầ y hiện lên trướ c mắ t. Nỗ i nhớ ấ y châ n thự c , số ng độ ng , trở thà nh
nỗ i niềm khắ c khoải , đau đá u , khó phai nhò a trong tâm trí củ a mỗ i chú ng ta. Mở đầ u bà i thơ là tiếng gọ i từ hiện
tạ i vọ ng về quá khứ :

Sô ng Mã xa rồ i Tâ y Tiến ơi !

Nhớ về rừ ng nú i nhớ chơi vơi

Sô ng Mã - dò ng chả y vắ t ngang qua mả nh đấ t Thượ ng Là o và cá c địa danh ở phía Tâ y củ a dải đấ t Việt Nam -
mộ t trong nhữ ng con sô ng đã từ ng chứ ng kiến biết bao lịch sử hà o hù ng củ a lính Tâ y Tiến . Nơi đâ y cò n từ ng là
địa bà n hoạ t độ ng lớ n củ a đơn vị. Chính vì lẽ ấ y, khi phải rờ i xa sô ng Mã , Quang Dũ ng đã cấ t lên thà nh tiếng gọ i
tha thiết : “ Tâ y Tiến ơi !” . Theo tiếng gọ i ấ y , tấ t cả đều hiện lên cù ng vớ i nỗ i nhớ da diết , khô n nguô i lan tỏ a
khắ p khô ng gian và thờ i gian. Khô ng phải ngẫ u nhiên khi Quang Dũ ng mấ t , hộ i nhà vă n Việt Nam đứ ng trướ c
linh cữ u củ a ô ng mà thố t lên rằ ng :

Sô ng Mã xa rồ i sô ng Mã ơi !

Ngườ i yêu sô ng Mã cũ ng qua đờ i

Nỗ i nhớ đầ u tiên hướ ng về Tâ y Tiến là “nhớ về rừ ng nú i” , về khô ng gian , địa bà n hoạ t độ ng đầ y khắc nghiệt
, gian truâ n nhưng cũ ng chính là nơi bao bọ c , chở che cho đoà n binh Tâ y Tiến. Điệp từ “nhớ ” đượ c lặ p lạ i hai lầ n
cù ng vầ n “ơi” ngâ n dài như mở ra mộ t khô ng gian ngâ n vang củ a mộ t thờ i để thương , để nhớ . Nỗ i nhớ ấ y đượ c
diễn tả mộ t cá ch cụ thể vớ i cảm xú c bâ ng khuâ ng ,miên man – “ nhớ chơi vơi” . Ta đã từ ng bắ t gặ p biết bao nỗ i
nhớ như thế trong thơ ca Việt Nam :

Ra về nhớ bạ n chơi vơi

Nhớ chiếu bạ n trả i nhớ nơi bạ n nằ m

Hay :

Nhớ ai bổ i hổ i bồ i hồ i

Như đứ ng đố ng lử a như ngồ i đó ng than

Nhưng ở “Tâ y Tiến’’ , ngườ i đọ c bắ t gặ p mộ t nỗ i nhớ khô ng đầ u , khô ng cuố i , bồ ng bềnh, khô ng thể nà o
đong ,đo ,câ n ,đếm đượ c nhưng lại có sứ c nặ ng vô cù ng. Nỗ i nhớ cứ thế đong đầ y , cồ n cà o , luô n thườ ng trự c, len
lỏ i trong từ ng ngó c ngá ch tâ m hồ n củ a Quang Dũ ng . Nó như đượ c thu phó ng thà nh mộ t thướ c phim về bứ c
tranh thiên nhiên hù ng vĩ , hoang sơ nhưng rấ t đỗ i trữ tình ,dầ n dầ n hiện lên qua lă ng kính lã ng mạ n củ a tác giả :

Sài Khao sương lấ p đoà n quâ n mỏ i

Mườ ng Lá t hoa về trong đêm hơi

Dố c lên khú c khuỷu dố c thăm thẳm

Heo hú t cồ n mâ y sú ng ngử i trờ i

Ngà n thướ c lên cao ngà n thướ c xuố ng

Nhà ai Pha Luô ng mưa xa khơi

Nhà thơ tá i hiện lạ i cá c địa danh mà ngườ i lính đã từ ng đặ t châ n qua . Đó là Sà i Khao , là Mườ ng Lá t , là Pha
Luô ng , là Mườ ng Hịch ... Dù cho Sài Khao mớ i nghe thô i đã “ mỏ i gố i , chù n châ n ” nhưng đú ng như Chế Lan Viên
từ ng khẳ ng định “ Nơi nao qua lò ng lại chẳ ng yêu thương”. Chính vì vậ y mà Sà i Khao hiện lên trong hồ i ứ c củ a
nhà thơ rấ t đỗ i châ n thự c :

Sài Khao sương lấ p đoà n quâ n mỏ i

Sài Khao , Mườ ng Lá t là nhữ ng địa danh , bả n là ng xa xô i , hẻo lá nh , sương mù dà y đặ c bao phủ cả khô ng
gian . Sương như tấ m á o choà ng bả ng lả ng trù m lên con sô ng , ngọ n suố i , sườ n đèo , khiến nhữ ng bướ c châ n củ a
ngườ i lính trở nên nặ ng nhọ c , vấ t vả hơn gấ p bộ i phầ n . Bướ c châ n củ a ngườ i lính trong đêm sương nặ ng nhọ c,
mệt rã rờ i , nhưng ý chí củ a họ vẫ n kiên cườ ng , bấ t khuấ t , đá nh thứ c trá i tim nhạ y cả m củ a thanh niên trí thứ c
Hà Nộ i . Để rồ i từ đó , họ cảm nhậ n đượ c từ ng cá i trở mình khe khẽ củ a cỏ câ y hoa lá khi mà n đêm đã bao phủ
khắ p cả nú i rừ ng. Bằ ng cá i nhìn thi vị củ a mình , Quang Dũ ng đã phá t hiện ra vẻ đẹp lung linh , lã ng mạ n ẩ n dấ u
sau mà n đêm u tịch trên chặ ng đườ ng hà nh quâ n gian khổ :

Mườ ng Lá t hoa về trong đêm hơi

Trong cù ng mộ t câu thơ , hai hình ả nh độ c đá o , đầ y sự liên tưở ng phong phú hiện lên vô cù ng rõ nét . Quang
Dũ ng viết “ hoa về “ chứ khô ng phải là “ hoa nở ” . Ô ng cũ ng viết “ đêm hơi” chứ khô ng phả i “đêm sương”. Phả i
chă ng “ hoa về” chính là hình ả nh ngườ i lính Tâ y Tiến-nhữ ng bô ng hoa củ a nú i rừ ng Tâ y Bắc, trở về vớ i bó đuố c
trên tay soi sá ng đườ ng đi . Nhữ ng bó đuố c ấ y đã gó p phầ n tô điểm cho “đêm hơi ” bồ ng bềnh sương phủ . Đú ng
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ ng viết :

Con ngườ i ta là đẹp nhấ t

Con ngườ i ta là hoa đấ t

Khó khă n đâ u chỉ dừ ng lạ i ở đó . Nhữ ng đoạ n đườ ng chô ng chênh , nguy hiểm vẫ n cò n chự c chờ ngườ i lính
vớ i nhữ ng con dố c gậ p ghềnh , quanh co , hiểm trở , lú c lên , lú c xuố ng đầ y thử thá ch :

Dố c lên khú c khuỷu dố c thăm thẳm

Heo hú t cồ n mâ y sú ng ngử i trờ i

Ngà n thướ c lên cao ngà n thướ c xuố ng

Bứ c tranh nú i non miền Tâ y hiểm trở hiện đầ y đe dọ a , thá ch thứ c. Ta như nghe thấ y từ ng bướ c châ n nặ ng
nhọ c ,cảm nhậ n đượ c từ ng nhịp đậ p , hơi thở mệt mỏ i củ a nhữ ng chà ng trai đấ t Hà Thà nh trong bộ quâ n phụ c
củ a ngườ i lính. Các câu thơ toà n thanh trắ c : “ Dố c lên khú c khuỷu dố c thă m thẳ m “ và “ Ngà n thướ c lên cao ngà n
thướ c xuố ng” gọ i nên sự gian nan , trắ c trở , hiểm nguy củ a con đườ ng hà nh quâ n mà ngườ i lính Tâ y Tiến phả i
vượ t qua. “Điệp từ “dố c” và “ngà n thướ c” lặ p lạ i hai lầ n trong mộ t câ u thơ cù ng tiểu đố i “ lên - xuố ng” gợ i tả độ
cao hiểm trở , nú i tiếp nú i , đèo nố i đèo , hết lên cao lạ i xuố ng thấ p , trậ p trù ng , hiểm nguy vô cù ng . Câ u thơ
dườ ng như có sự chuyển độ ng , đẩ y sang hai bên : mộ t bên là nú i cao chó t chó t , mộ t bên là cồ n mâ y heo hú t , để
lại khoả ng ở giữ a là khoả ng trố ng về mộ t Tâ y Bắc dữ dộ i và đầ y thử thách. Nhưng trong hoà n cả nh khó khă n ,
gian truâ n ấ y , hình ả nh ngườ i lính hiện lên vui tươi và vô cù ng hó m hỉnh :

Heo hú t cồ n mâ y sú ng ngử i trờ i

Bên cạ nh cá i “heo hú t” vắ ng vẻ , là hình ả nh khẩ u sú ng trên lưng ngườ i lính . Cồ n mâ y cao chấ t ngấ t , khiến
nò ng sú ng như chạm đến lưng trờ i . Quang Dũ ng gọ i nò ng sú ng ấ y là “sú ng ngử i trờ i” vừ a là hình ả nh nhâ n hó a ,
vừ a là hình ả nh ẩ n dụ – mộ t cá ch nó i tếu tá o và dí dỏ m . Hình ả nh ấ y gợ i cho ta nhớ đến nò ng sú ng trong thơ
Chính Hữ u :
Đầu sú ng tră ng treo.

Hiểm nguy là thế , trắ c trở là thế , nhưng ý chí , lò ng quyết tâ m củ a nhữ ng ngườ i lính trẻ chưa bao giờ suy
giảm . Thậ t đú ng là :

Đèo cao thì mặ c đèo cao

Trèo lên tớ i đỉnh ta cao hơn đèo

Giữ a nhữ ng thanh điệu trắ c trở , gồ ghề khi miêu tả con đườ ng hà nh quâ n Tâ y Bắ c , câ u thơ tiếp theo lạ i đượ c
vẽ bằ ng nét bú t mềm mạ i củ a nhữ ng thanh bằ ng . Quang Dũ ng đưa ngườ i đọ c trở về vớ i trạ ng thá i cảm xú c câ n
bằ ng khi đọ c đến câ u thơ :

Nhà ai Pha Luô ng mưa xa khơi

Có mộ t cả m giá c rấ t đỗ i bình yên cứ thế trà n và o từ ng kẽ hở trá i tim và tâm hồ n ngườ i đọ c . Nhữ ng cơn mưa
đã khiến nơi đâ y chìm trong biển nướ c . Nhưng Quang Dũ ng khô ng chỉ thấ y mộ t biển nướ c bình thườ ng như
thế . Ô ng phó ng tầ m mắ t xa hơn , để trô ng thấ y bó ng dá ng củ a nhữ ng ngô i nhà ẩ n hiện trong khô ng gian mịt mù
củ a rừ ng mưa . Đạ i từ phiếm chỉ ‘’ai’’ chính là bấ t kì ai , bấ t kì mái nhà nà o , bấ t kì bả n là ng nà o . Và “ Nhà ai ”
chính là địa điểm nghỉ châ n củ a ngườ i lính Tâ y Tiến . Hình ả nh nà y gợ i cho ta nhớ đến sá u câu thơ trong bài thơ
“ Bao giờ trở lạ i” củ a Hoà ng Trung Thô ng :

Cá c anh về má i ấm nhà vui

Tiếng há t câu cườ i rộ n rà ng xó m nhỏ

Cá c anh về tưng bừ ng trướ c ngõ

Ríu rít đà n em hớ n hở theo sau

Mẹ già bịn rịn á o nâ u

Vui đà n con nhỏ rừ ng sâu mớ i về

Dườ ng như rừ ng mưa kia đã khô ng cò n nữ a , mà thay và o đó , nhữ ng ngô i nhà , ngô i là ng củ a đồ ng bà o dâ n
tộ c đang trô i bồ ng bềnh giữ a biển khơi . Từ cá i khó khă n , hiểm trở , nhà thơ đã biến nó trở thà nh mộ t hình ả nh
vô cù ng độ c đá o và sá ng tạ o.

Trên nền bứ c tranh chặ ng đườ ng hà nh quâ n đầ y gian lao vấ t vả ấ y , hình ả nh ngườ i lính hiện lên đầ y bi
hù ng , bi trá ng :

Anh bạ n dã i dầu khô ng bướ c nữ a

Gụ c lên sú ng mũ bỏ quên đờ i !

Quang Dũ ng khô ng hề né trá nh hiện thự c khố c liệt củ a chiến tranh . Chiến tranh gắ n liền vớ i hi sinh và mấ t
má t . Ngườ i lính Tâ y Tiến xuấ t thâ n từ nhữ ng tri thứ c Hà Thanh ra đi khô ng hẹn ngà y trở lại , trả i qua chặ ng
đườ ng hà nh quâ n đầ y gian khổ , có ngườ i ngã xuố ng , có ngườ i vẫ n tiếp tụ c bướ c đi . Nhưng dù cho hô m nay có
mộ t ngườ i , ngà y mai lạ i có mộ t ngườ i khác khô ng thể bướ c tiếp nữ a , nhưng họ vẫ n luô n truyền cho nhau ngọ n
lử a nhiệt huyết , đem lí tưở ng cách mạ ng soi sá ng con đườ ng đấ u tranh dà nh độ c lậ p , dẫ n đườ ng , chỉ lố i cho
đồ ng độ i hiên ngang nhịp bướ c quâ n hà nh . Cà ng cảm độ ng hơn biết bao nhiêu khi tác giả sử dụ ng cụ m từ “
khô ng bướ c nữ a” – chuyển từ thế bị độ ng sang thế chủ độ ng – nó i về sự hi sinh nhưng khô ng chết. Ngườ i lính
như chỉ đang chìm và o giấc ngủ , vớ i tư thế ngang tà ng , cứ ng cỏ i : “ gụ c lên sú ng mũ ”. Cho dù họ phải bỏ mạ ng
nơi rừ ng nú i hiểm trở khi độ tuổ i cò n rấ t trẻ , nhưng họ quyết khô ng bỏ đi “sú ng mũ ” – quâ n trang gắ n bó cả đờ i
vớ i ngườ i lính . Lại mộ t lầ n nữ a , tá c giả chuyển tư thế củ a ngướ i lính Tâ y Tiến từ bị độ ng sá ng chủ độ ng – “ Bỏ
quên đờ i” . Chính vì lẽ ấ y , mà Lê Bá Vương đã từ ng thố t lên rằ ng :

Đò xuô i Thạ ch Hã n xin chèo nhẹ


Đá y sô ng cò n đó bạ n tô i nằ m
Có tuổ i hai mươi thà nh só ng nướ c
Vỗ yên bờ mãi mãi ngà n nă m.

Ngườ i lính hoà n toà n đi và o giấc ngủ nồ ng say giữ a hai trờ i sú ng nổ , tạm quên đi gian khổ chiến trườ ng
tưở ng chừ ng như mộ t lú c nà o đó , cá c anh sẽ lạ i tỉnh giấ c và hoà n thà nh chặ ng đườ ng hà nh quâ n củ a chính mình.
Quang Dũ ng viết về sự hi sinh , viết về cá i chết nhưng khô ng hết .

Tâ y Bắc trong tiềm thứ c củ a mỗ i ngườ i lính là nơi “ rừ ng thiêng nướ c độ c” , vừ a hoang sơ , vừ a huyền bí
vớ i biết bao hiểm nguy rình rậ p :

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mườ ng Hịch cọ p trêu ngườ i

Tâ y Bắ c hiện lên ở hai câu thơ làm cho ta liên tưở ng đến vù ng rừ ng nú i âm u đầ y chướ ng khí , vớ i nhữ ng âm
thanh ghê rợ n . “ Chiều chiều” và “ đêm đêm” là hai từ lá y gợ i tả thờ i gian tuầ n hoà n lặ p đi lặ p lạ i . Ngườ i lính Tâ y
Tiến phả i đố i mặ t vớ i liên tiếp nhữ ng khó khă n dai dẳ ng khô ng dứ t . Ban ngà y , cá c anh phả i lộ i suố t , rẽ bụ i ,
vượ t đèo , buổ i chiều lạ i nghe tiếng thá c đổ như “ gầ m thét” , oai linh ngự trị cả nú i rừ ng . Về đêm , các anh lại
phải đố i diện vớ i tiếng kêu ghê rợ n củ a thú dữ - nhấ t là ở Mườ ng Hịch . Sứ c nặ ng đổ và o từ “ Hịch” đã thể hiện rõ
nhữ ng bướ c châ n nặ ng trịch củ a bó ng cọ p vờ n ngườ i . Nhưng đố i vớ i ngườ i lính Tâ y Tiến , đó chẳ ng khá c nà o
mộ t trò đù a trẻ con . Cọ p và ngườ i trở thà nh đô i bạ n “trêu” nhau , chọ c ghẹo nhau giữ a thiên nhiên nú i rừ ng Tâ y
Bắ c. Nỗ i sợ dầ n nguô i ngoai , khi hai câu thơ sau , Quang Dũ ng tiếp tụ c sử dụ ng cá c câ u thơ nhiều thanh bằ ng ấ m
tình quâ n dâ n :

Nhớ ô i Tâ y Tiến cơm lên khó i

Mai Châ u mù a em thơm nếp xô i

Ngườ i lính Tâ y Tiên tuy cứ ng cỏ i , dũ ng cảm , kiên cườ ng là thế , nhưng tâm hồ n họ lạ i vô cù ng hà o
hoa ,nhạ y cảm trướ c vẻ đẹp củ a thiên và con ngườ i Tâ y Bắ c. Hai câ u thơ khô ng cò n xuấ t hiện hình ả nh củ a thiên
nhiên mà hoà n toà n là hình ả nh ấm cú ng , đằ m thắm củ a tình ngườ i . Nhữ ng sinh hoạ t đờ i thườ ng củ a ngườ i dâ n
tộ c miền Tâ y bướ c và o trong câu thơ củ a Quang Dũ ng đã gó p phầ n làm sá ng lên toà n bài thơ . Quang Dũ ng đã
thể hiện tài nă ng sử dụ ng ngô n từ củ a mình qua hai từ “mù a em” đầ y đặc sắ c và sá ng tạ o. Ta từ ng biết đến Hà
Nộ i vớ i nhữ ng đêm thu buố t giá :

Đêm mù a thu, Hà Nộ i lạ nh khô ng em

Hay vẫ n cơn mưa, thêm buồ n lã ng đã ng

Gó c phố kỷ niệm em cò n lã ng mạ n

Nhớ về anh chá y bỏ ng mộ t bờ mô i.

(Đêm thu Hà Nộ i – Bù i Thế Uyên)


Hay “mù a xuâ n trên thà nh phố Hồ Chí Minh quang vinh” đầ y trâ n quý :
Mù a Xuâ n nà y về trên quê ta
Khắ p đấ t trờ i biển rộ ng bao la
Câ y xanh tươi ra lá trổ hoa
Chà o mù a Xuâ n về vớ i mọ i nhà

Nhưng đố i vớ i Quang Dũ ng , “mù a” ở đâ y khô ng phả i chỉ là mù a trong nă m như mù a


xuâ n , mù a hạ mà lạ i là mộ t mù a gợ i thương gợ i nhớ củ a ngườ i lính Tâ y Tiến. Cá ch sử dụ ng
từ mớ i lạ tạ o nên mộ t hình ả nh thơ số ng độ ng đầ y sứ c hấ p dẫ n. Em cũ ng trở thà nh mộ t mù a
, là mù a thứ nă m gâ y xao xuyến trong lò ng anh. “Mù a em” là mù a củ a lò ng ngườ i là mù a củ a
hương vị Tâ y Bắ c tinh tú y. Nếu có dịp lên Mai Châ u, Hò a Bình, ngắ m nhìn nhữ ng cô gá i
Thá i vớ i dá ng đi só ng sá nh và ngẫ m về câ u thơ Quang Dũ ng, ta sẽ cả m thấ y có mộ t cá i gì
rấ t gầ n gũ i, thâ n thương, tưở ng như có thể vò ng tay mà ô m lấ y đượ c, nhưng lạ i bả ng
lả ng xa vờ i như nhữ ng đá m mâ y nhẹ trô i.
Hai hình ả nh quen thuộ c “cơm lên khó i” , “thơm nếp xô i” thấm và o từ ng là n da thớ thịt củ a ngườ i lính . Mù i
thơm củ a lú a gạ o trắ ng ngầ n , củ a tình quâ n dâ n nồ ng đượ m ấ m á p :

Vắ t xô i nuô i quâ n em giấu giữ a rừ ng

Đấ t Tâ y Bắc thá ng ngà y khô ng có lịch

Bữ a xô i đầu cò n tỏ a nhớ mù i hương

Hay trong nhạ c phẩm củ a Trịnh Cô ng Sơn , ta đã từ ng bắ t gặ p hương thơm củ a cố m sữ a :

Mù a cố m xanh về thơm bà n tay nhỏ

Cố m sữ a vỉa hè thơm bướ c châ n qua

Tâ y Bắc – nẻo đườ ng hà nh quâ n gian khổ nhưng cũ ng thậ t ấ m á p tình ngườ i. Giờ đâ y , con đườ ng hà nh
quâ n, chiến đấ u gian khổ tạ m gá c lại mộ t gó c để nhườ ng chỗ cho nhữ ng hoạ t độ ng giao lưu vă n hó a vă n nghệ vui
tươi , ná o nhiệt . Ngườ i chiến sĩ anh dũ ng trong chiến đấu là thế , nhưng lạ i vô cù ng lã ng mạ n , tình tứ trong đêm
hộ i :

Doanh trạ i bừ ng lên hộ i đuố c hoa


Kìa em xiêm á o tự bao giờ
Khèn lên man điệu nà ng e ấ p
Nhạc về Viên Chă n xâ y hồ n thơ

Hình ả nh doanh trạ i ấ m cú ng hiện lên giữ a vù ng rừ ng nú i hẻo lá nh đẹp như mộ t câ u chuyện cổ tích làm say
đắ m lò ng ngườ i . Đêm giao lưu vă n hó a vă n nghệ vớ i ngọ n lử a bậ p bù ng chá y , soi bó ng ngườ i lính và ngườ i dâ n
bả n là ng quâ y quầ n xung quanh thà nh mộ t vò ng trò n lớ n . Nhữ ng cái bó ng ấ y đan chéo và o nhau , chồ ng lên
nhau , khă ng khít thà nh mộ t thể , khô ng phâ n biệt đượ c là củ a ai . Tình dâ n quâ n thắm thiết như cá vớ i nướ c, xua
tan đi là n sương lạ nh giá củ a mộ t chiều sơn cướ c , làm thay đổ i tâm trạ ng củ a đoà n binh Tâ y Tiến. Nhà thơ đã
khéo léo sử dụ ng độ ng từ mạ nh “ bừ ng” – độ ng từ quen thuộ c ta từ ng bắ t gặ p trong thơ Tố Hữ u :

Từ ấ y trong tô i bừ ng nắ ng hạ
Mặ t trờ i châ n lí chó i qua tim

Độ ng từ “bừ ng” đã là m bừ ng sá ng lung linh , bừ ng tỉnh sự ngạ c nhiên trướ c khô ng khí tưng bừ ng rộ n rà ng
củ a đêm hộ i. Cà ng đặc biệt hơn khi lử a đuố c bậ p bù ng – vă n hó a củ a đồ ng bà o biên cương , qua lă ng kính lã ng
mạ n củ a Quang Dũ ng đã trở thà nh “ hộ i đuố c hoa” . Đuố c hoa chỉ là mộ t ngọ n đuố c bình thườ ng đượ c thắ p trong
đêm tâ n hô n ,nhưng lại mang đậm vẻ đẹp củ a con ngườ i Việt Nam trong chiến tranh . Á nh sá ng củ a ngọ n đuố c
soi tỏ bó ng dá ng củ a nhữ ng cô gá i dâ n tộ c miền cao . Từ “ Kìa” thể hiện sự ngạ c nhiên , trầ m trồ đến ngỡ ngà ng
củ a ngườ i lính trẻ tuổ i khi nhìn thấ y bó ng dá ng thướ t tha củ a ngườ i con gá i trong “ xiêm á o” lộ ng lẫ y . Giọ ng thơ
êm đềm , tha thiết đắ m say thố t ra qua từ “em” â n cầ n tình tứ . Nhưng ẩ n chứ a sau đó là tiếng cườ i dí dỏ m , lạc
quan củ a nhữ ng anh bộ độ i đến từ thủ đô Hà Nộ i hoa lệ . “Em” ở đâ y đâ u phả i chỉ là nhữ ng cô gá i dâ n tộ c Thá i
xinh đẹp , duyên dá ng , mà cò n là nhữ ng ngườ i lính cả i trang trong xiêm y củ a con gá i cù ng nhả y mú a , gó p vui
vớ i bả n là ng . Ngườ i lính Tâ y Tiến gâ n guố c là thế , phong trầ n nắ ng mưa vấ t vả là thế , nhưng khi diện nhữ ng bộ
xiêm y lộ ng lẫ y , cũ ng “e ấ p” , đá ng yêu mộ t cá ch đá o để , khiến đồ ng độ i phải ngẩ n ngơ , ngỡ ngà ng ngắ m nhìn .
Họ hò a nhịp và o tiếng khèn , tiếng phách cù ng nhữ ng điệu mú a , điệu nhả y thướ t tha , nhịp nhà ng như mờ i gọ i cả
nú i rừ ng Tâ y Bắc cù ng thứ c trọ n đêm để say sưa ngả nghiêng , chìm và o nhịp điệu vui tươi , rộ n rà ng . Tâ y Bắ c là
thế , biết giữ châ n ai đã mộ t lầ n đến , biết đá nh thứ c khá t khao . Khú c nhạ c củ a vù ng nẻo cao như lan tỏ a đến thủ
đô Là o – nơi nhữ ng ngườ i lính Tâ y Tiến khô ng chỉ chiến đấ u trên đấ t nướ c ta mà cò n chiến đấ u ngay trên đấ t
bạ n . Trong âm thanh trong trẻo ,củ a tiếng khèn , trong nhữ ng “man điệu” xứ lạ , ngườ i lính Tâ y Tiến cù ng dệt
nên giấc mộ ng về mộ t tương lai tươi sá ng : “ Nhạc về Viên Chă n xâ y hồ n thơ”.

Kết thú c đêm giao lưu vă n hó a , vă n nghệ rộ n rà ng , ná o nhiệt , đoà n binh Tâ y Tiến lạ i tiếp tụ c cuộ c hà nh
trình gian truâ n, đầ y vấ t vả củ a mình. Nếu như hình ả nh doanh trạ i cù ng ngườ i dâ n nẻo cao là hình ả nh vừ a thự c
, vừ a mộ ng ,thì đến bố n câ u thơ tiếp theo , thiên nhiên sô ng nướ c miền Tâ y hiện lên vớ i vẻ đẹp huyền hồ , xa
vắ ng :

Ngườ i đi Châ u Mộ c chiều sương ấ y

Có thấ y hồ n lau nẻo bến bờ

Có nhớ dá ng ngườ i trên độ c mộ c

Trô i dò ng nướ c lũ hoa đong đưa

Quang Dũ ng lạ i mộ t lầ n nữ a nhắ c đến tên củ a mộ t địa phương trự c thuộ c địa bà n hoạ t độ ng củ a đoà n
quâ n Tâ y Tiến - Châ u Mộ c . Nơi đâ y có nú i sô ng diễm lệ , có thung lũ ng lú a chín và ng , có gió cuố n mâ y bay , có
nắ ng và ng rự c rỡ .Chính vì vậ y mà Châ u Mộ c đi và o thơ ca củ a Bù i Quố c Thái như mộ t lẽ tấ t yếu:

Ai có đến cao nguyên Châ u Mộ c

Mớ i thấ y sương mù lã ng đã ng bay

Nắ ng mai dá t và ng trên thảm cỏ

Hoa cả i, hoa mơ trắ ng ngú t ngà n

Buổ i chiều Châ u Mộ c phủ mộ t lớ p sương lặ ng tờ hoang dại . Ta cứ ngỡ như ‘’buổ i chiều sương ấ y’’ trở
thà nh mộ t khu vườ n cổ tích ẩ n hiện, lậ p lờ sau lớ p sương huyền ả o. Nhà thơ sử dụ ng hai cụ m từ “ có thấ y” ,”có
nhớ ’’ như mộ t điệp khú c làm xố n xang tâ m hồ n ngườ i lính Tâ y Tiến. Quang dũ ng đã khiến cho ngọ n cỏ , bờ lau
trở thà nh mộ t sinh thể có hồ n . Nhữ ng ngọ n lau phấ t phơ trong gió , bá m cả và o á o củ a ngườ i chiến sĩ hà nh quâ n
như níu kéo , như khô ng nỡ rờ i xa. Hình ả nh ngọ n lau trắ ng đơn thuầ n , giả n dị cứ xà o xạc khô ng nguô i trong
tâ m hồ n nhữ ng ngườ i lính đã đến , đã đi . Ta cũ ng đã từ ng bắ t gặ p mộ t hồ n lau như thế tại thơ củ a Chế Lan Viên :
Ai đi biên giớ i cho lò ng ta theo vớ i

Thăm ngà n lau chỉ trắ ng có mộ t mình

Bạ t ngà n lau trắ ng ở tậ n cù ng bờ cõ i

Suố t mộ t đờ i cù ng vớ i gió giao tranh

Ngườ i lính Tâ y Tiến khô ng chỉ nhớ về hồ n lau bên bến bờ xưa cũ , mà trong tâ m trí họ cò n luô n tồ n tại hình
bó ng củ a dá ng ngườ i trên độ c mộ c. Độ c mộ c – mộ t con thuyền đơn sơ khoét bằ ng gỗ câ y rừ ng chỉ chứ a đượ c duy
nhấ t mộ t ngườ i ngồ i trở thà nh tâm điểm trên dò ng sô ng Tâ y Bắ c cổ kính , huyền thoạ i. Hình ả nh con ngườ i miền
Tâ y vớ i dá ng đứ ng đẹp , khỏ e khắ n , dẻo dai trên con thuyền “độ c mộ c” đã trở thà nh mộ t nỗ i nhớ luô n thườ ng
trự c trong trá i tim củ a mỗ i đồ ng chí , đồ ng độ i Tâ y Tiến. Hò a điệu cù ng con ngườ i là nhữ ng cá nh hoa đong đưa
theo dò ng nướ c lũ . Tá c giả khô ng sử dụ ng từ “ đung đưa” mà sử dụ ng từ “đong đưa” – Hoa cỏ miền Tâ y như
cũ ng biết là m duyên làm dá ng , như bịn rịn , vẫ y chà o tạm biệt ngườ i lính lên đườ ng .Nhữ ng bô ng hoa ấ y đã xuấ t
hiện trong biết bao nhiêu câu thơ khi viết về ngườ i lính :

Cả vườ n hoa đã ngậ p trà n nắ ng xế


Nhữ ng cá nh hoa đỏ vẫ n cò n rung nhè nhẹ
Gió nó i tô i nghe nhữ ng tiếng thì thà o
"Khi tổ quố c cầ n, họ biết số ng xa nhau..."

Cả nh và ngườ i tuy hai mà mộ t , tuy mộ t mà hai , hò a quyện gắ n bó khă ng khít vớ i nhau. Đoà n binh Tâ y
Tiến đã trở thà nh mộ t bến đậ u dừ ng châ n củ a nghệ thuậ t, là điểm dừ ng châ n khơi nguồ n sá ng tạ o củ a Quang
Dũ ng . Ta bắ t gặ p nhữ ng anh bộ độ i “châ n khô ng đi lù ng giặc đá nh” trong thơ Tố Hữ u , hay cá c anh chiến sĩ
“miệng cườ i buố t giá châ n khô ng già y” trong thơ củ a Chính Hữ u. Cù ng viết về đề tài anh bộ độ , Quang Dũ ng cho
ra đờ i bài thơ “Tâ y Tiến” mà thà nh cô ng nhấ t, tiêu biểu nhấ t phả i kể đến bứ c tượ ng đài bấ t hủ về anh bộ độ i
đượ c nhà thơ trạ m trổ bằ ng cảm xú c lã ng mạ n từ sâ u thẳ m trá i tim củ a chính mình :

Tâ y Tiến đoà n binh khô ng mọ c tó c

Quâ n xanh mà u lá dữ oai hù m

Mắ t trừ ng gử i mộ ng qua biên giớ i

Đêm mơ Hà Nộ i dá ng kiều thơm

Quang Dũ ng mộ t lầ n nữ a phơi bà y sự thậ t nghiệt ngã , tà n khố c củ a chiến tranh ở vẻ đẹp bứ c tượ ng đà i về anh
bộ độ i. Ô ng đưa sự thậ t ấ y bướ c và o trong trang vă n thô ng qua lă ng kính thi vị và lã ng mạ n :

Tâ y Tiến đoà n binh khô ng mọ c tó c

Quâ n xanh mà u lá dữ oai hù m

Đoà n binh Tâ y Tiến hiện lên vớ i ngoạ i hình vô cù ng dữ dộ i , lẫm liệt. Nhà thơ sử dụ ng cụ m độ ng từ “khô ng
mọ c tó c” – mộ t lầ n nữ a , ô ng biến ngườ i lính Tâ y Tiến từ thế bị độ ng sang thế chủ độ ng. Nhữ ng anh bộ độ i phải
cạ o trọ c đầ u để phù hợ p vớ i điều kiện và hoà n cả nh nơi chiến trườ ng gian lao khắ c nghiệt . Nhưng mộ t phầ n lại
là do că n bệnh số t rét rừ ng nguy hiểm gâ y ra . Bệnh tậ t, ố m đau khiến các anh rụ ng tó c , nhưng khô ng vì thế mà
các anh đá nh mấ t đi vẻ đẹp củ a chính mình . Ngườ i lính Tâ y Tiến trở thà nh nhữ ng anh vệ trọ c đá ng yêu - ố m
nhưng khô ng hề yếu :

Giọ t giọ t mồ hô i rơi


Trên má anh và ng nghệ

Anh vệ quố c quâ n ơi

Sao mà yêu anh thế !

Tạ i nú i rừ ng Tâ y Bắ c, cá c anh dắ t ngọ n cỏ , nhá nh cây xung quanh mình để ngụ y


trang , trá nh khỏ i sự phá t hiện củ a quâ n giặ c . Nú i rừ ng Tâ y Bắ c che chở cá c anh , bả o vệ
cá c anh , để cá c anh hò a cù ng mộ t mà u xanh , trở thà nh mộ t phầ n củ a thiên nhiên , nú i
rừ ng.
Nú i giă ng thà nh lũ y sắ t dày           
Rừ ng che bộ độ i, rừ ng vâ y quâ n thù rừ ng .
Hoạ t độ ng trong địa hình rừ ng nú i hiểm trở ,ngườ i lính khô ng thể trá nh khỏ i việc mắ c că n bệnh số t rét
rừ ng . Màu xanh bấ y giờ khô ng cò n là mà u xanh củ a lá rừ ng ngụ y trang nữ a , mà chính là màu xanh nhợ t nhạ t
củ a là n da bệnh tậ t. Tuy vậ y ,các anh vẫ n kiên cườ ng cầ m sú ng , uy nghi lẫm liệt như hù m hổ “ dữ oai hù m” chố n
rừ ng thiêng. Tình yêu nướ c như cuồ n cuộ n chả y qua từ ng thớ thịt , ngấ m sâu và o trá i tim củ a mỗ i ngườ i lính.
Các anh ố m , nhưng khô ng yếu , can trườ ng , dũ ng mã nh quyết tâm bả o vệ biên giớ i Việt - Là o , bả o vệ Tổ quố c.
Thế nhưng , tấ t cả sự kiên cườ ng và vẻ ngoà i bấ t khuấ t , bi trá ng ấ y chỉ là lớ p vỏ bao bọ c cho viên ngọ c tâ m hồ n
hà o hoa , lịch lãm, lã ng mạ n và giàu đứ c hi sinh củ a thanh niên trí thứ c Hà Thà nh thờ i kì khá ng chiến chố ng Phá p
:

Mắ t trừ ng gử i mộ ng qua biên giớ i

Đêm mơ Hà Nộ i dá ng kiều thơm

Á nh ”mắ t trừ ng” chứ a chan cảm xú c , nộ i tâ m . Phả i chă ng đó chính là á nh mắ t căm phẫ n , uấ t nghẹn như
muố n nuố t chử ng quâ n thù . Đó cũ ng có thể là á nh mắ t đau đáu hướ ng về quê hương , đấ t nướ c , hướ ng về ngà y
Việt Nam độ c lậ p , tự do. Nhưng ngay lú c ấ y , chiến sĩ Tâ y Tiến vẫ n khô ng quên “ gử i mộ ng” , gử i đi nhữ ng yêu
thương về Hà Nộ i – dải đấ t thiêng liêng ngà n nă m vă n hiến , nơi có “dá ng kiều thơm” . Nếu ở đâ y , ta nó i Quang
Dũ ng nhớ quá n Kiều ở phố Hà ng Bô ng thì chỉ đú ng mộ t phầ n , nếu nó i tá c giả nhớ ngườ i yêu lại chưa hoà n toà n
chính xá c . “ Dá ng kiều thơm” ở đâ y chính là dá ng vẻ củ a Hà Nộ i – dá ng hình xinh đẹp , đá ng yêu , dịu dà ng củ a
ngườ i con gá i mà ngườ i lính Tâ y Tiến nhớ thương đêm ngà y. Hà Nộ i trở thà nh nỗ i nhớ đau đáu , thườ ng trự c ,
đồ ng hà nh cù ng ngườ i lính trẻ mỗ i lầ n ra trậ n . Bở i lẽ :

Nhớ đêm ra đi đấ t trờ i bố c lử a

Cả kinh thà nh nghi ngú t khó i sau lưng

Nhữ ng chà ng trai chưa trắ ng nợ anh hù ng

Hồ n mườ i phương phấ t phơ cờ đỏ thắm

Có cuộ c chiến tranh nà o mà khô ng phải đổ máu , hi sinh và mấ t má t ? Nhữ ng anh vệ trọ c đá ng yêu trong
màu xanh củ a nú i rừ ng , nhữ ng vị chú a tể oai linh củ a nú i rừ ng Tâ y Bắ c - kẻ ở , ngườ i đi . Bứ c tranh thả m khố c
về hiện thự c chiến tranh đượ c Quang Dũ ng tá i hiện vô cù ng rõ nét qua bố n câu thơ tiếp theo :

Rả i rá c biên cương mồ viễn xứ


Chiến trườ ng đi chẳ ng tiếc trờ i xanh

Á o bà o thay chiếu anh về đấ t

Sô ng Mã gầ m lên khú c độ c hà nh

Giọ ng thơ bỗ ng nhiên trầ m lắ ng da diết khắ c sâ u và o cõ i lò ng củ a ngườ i đọ c vớ i hình ả nh “ mồ viễn xứ ” nằ m


“rả i rác” khắ p ‘’biên cương’’ . Tác giả sử dụ ng biện phá p đả o trậ t tự cú phá p để nhấ n mạ nh sự thậ t khố c liệt , bi
thương củ a chiến tranh. Cá c anh bộ độ i ngã xuố ng , đem thâ n xác mình gử i gắ m nơi vá ch nú i , sườ n đèo. Mỗ i mộ t
nấ m mồ là mộ t nỗ i đau , là mộ t vết dao vô tâ m lạ nh nhạ t cứ a sâ u và o tim nhữ ng ngườ i cò n số ng. Quang Dũ ng đã
rấ t khéo léo trong việc sử dụ ng hà ng loạ t các từ Há n Việt : “ biên cương” ,“ mồ ’’, “ viễn xứ ” là m tô n lên vẻ trang
trọ ng , cổ kính , vĩnh hằ ng và bấ t tử củ a ngườ i lính Tâ y Tiến. Nhữ ng nấm mồ khô ng tên ấ y đã gó p phầ n làm nên
quê hương , dá ng hình , xứ sở . Thanh niên trí thứ c Hà Thà nh dũ ng cả m dâ ng hiến tuổ i xuâ n củ a mình để “ Tổ
quố c bay lên bá t ngá t mù a xuâ n” . Họ lấ y cá i chết để làm tiền đề cho nhữ ng ngườ i đồ ng độ i nhằm thẳ ng về phía
quâ n thù mà bắ n. Nhà thơ đã vẽ nên bứ c tranh tà n khố c , á c liệt củ a chiến tranh , nhưng đố i vớ i ngườ i yêu vă n
chương cả nướ c , cá c anh nằ m xuố ng nhưng khô ng mấ t đi mà hó a hồ n mình và o tả ng đá , nú i sô ng để số ng muô n
đờ i vớ i dâ n tộ c – mộ t cá i chết nhưng khô ng bao giờ hết. Quang Dũ ng viết về sự ra đi củ a ngườ i lính nhưng
khô ng hề sử dụ ng đến mộ t từ “chết” từ “hi sinh” nà o . Nhưng từ “chết” và sự hi sinh ấ y , ta lạ i gặ p rấ t nhiều trong
thơ thờ i binh lử a :

     Anh ngã xuố ng đườ ng bă ng Tâ n Sơn Nhấ t

     Nhưng anh gượ ng đứ ng lên tì sú ng trên xác trự c thă ng

     Và anh chết trong khi đang bắ n

     Máu anh phun theo lử a đạ n cầu vồ ng

Hai câ u thơ khép lạ i là nét mự c đậm nhấ t , rõ rà ng nhấ t , tiêu biểu cho đứ c hi sinh củ a ngườ i lính Tâ y
Tiến :

Á o bà o thay chiếu anh về đấ t

Sô ng Mã gầ m lên khú c độ c hà nh.

Về cuộ c đờ i củ a lính Tâ y Tiến , Quang Dũ ng đà từ ng tâ m sự : “ Lính Tâ y Tiến ngã xuố ng, manh chiếu khô ng
đủ che thâ n, đồ ng chí, đồ ng độ i và o nhữ ng bả n là ng xa xô i để xin chiếu, khi hiểu rõ mụ c đích củ a việc sử dụ ng
chiếu, già là ng khô ng cầ m đượ c nướ c mắ t, họ cù ng nhau đan nhữ ng phên nứ a cho cá c anh bó gố i thi hài đồ ng
độ i”. Đọ c dò ng tâ m sự , ngườ i đọ c khó e mắ t cũ ng cay như già là ng thuở ấ y. Bở i lẽ , mọ i ngườ i hiểu ra tấ m “á o
bà o” mà nhà thơ đề cậ p đến chẳ ng phả i là long bà o sang trọ ng , quyền uy củ a vua chú a mà chỉ là mộ t tấ m chiếu
đơn sơ , mộ t “tấm á o mỏ ng mà ngườ i lính cở i ra để bọ c đồ ng độ i” . Hình ả nh “á o bà o” đượ c lí tưở ng hó a, xua tan
đi cái bi thương , bi lụ y củ a sự hi sinh . Hình ả nh manh á o mỏ ng , tấm chiếu đơn sơ cũ ng đi và o thơ ca Chế
LanViên mộ t cách sâ u lắ ng :

Chiếc á o nâ u anh mặ c đến cô ng đồ n

Chiếc á o nâ u suố t cuộ c đờ i vá rá ch

Đêm cuố i cù ng anh cở i lạ i cho con


Tấm chiếu mỏ ng , tấm chă n mỏ ng củ a đồ ng bà o dâ n tộ c miền cao tặ ng cho ngườ i lính trở thà nh kỉ vậ t vô giá
, đưa ngườ i đồ ng chí, đồ ng độ i trở về vớ i cá t bụ i . Cho dù cơ thể lạ nh lẽo củ a các anh đượ c khâm liệm bằ ng manh
chiếu, phiến nứ a , nhưng các anh sẽ luô n đượ c sưở i ấm bằ ng tình đồ ng độ i , bằ ng tình quê hương nơi các anh
sinh ra và mấ t đi :

Ở đâ y khô ng gỗ vá n

Vù i anh trong tấm chă n

Củ a đồ ng bà o Cử a Ngà n

Tặ ng tô i ngà y phâ n tá n

Hình ả nh sô ng Mã vớ i cấu trú c mạ ch vò ng đầ u- cuố i tương ứ ng mộ t lầ n nữ a hiện lên như mộ t chứ ng nhâ n
củ a lịch sử : hù ng vĩ , oai linh , á t hẳ n đi cá i chết bi thương củ a ngườ i lính Tâ y Tiến bằ ng tiếng gà o thét , vang
vọ ng củ a “khú c độ c hà nh” giố ng như mộ t khú c trá ng ca tiễn đưa ngườ i anh hù ng về vớ i đấ t mẹ. Sự hi sinh ấ y
đượ c đặ t giữ a đấ t trờ i , thiên nhiên , có đấ t mẹ dang tay chà o đó n , có sô ng Mã dạ o lên khú c trá ng ca tiễn biệt , đó
là sự hi sinh đá ng quý và cao cả nhấ t.

Viết về cá i chết mà khô ng hết, viết về sự hi sinh nhưng khô ng hề bi quan , bi lụ y mà lạ i vô cù ng bi hù ng , bi


trá ng , Quang Dũ ng đã thà nh cô ng trong việc khắ c họ a bứ c tượ ng đà i về ngườ i lính Tâ y Tiến vớ i nhữ ng phẩm
chấ t và tâ m hồ n tố t đẹp, cao quý . Chứ ng kiến sự hi sinh anh dũ ng củ a ngườ i đồ ng chí , đồ ng độ i , nhà thơ đã thố t
lên tiếng lò ng củ a chính mình và cũ ng là thay lờ i đoà n binh Tâ y Tiến ở bố n câ u thơ mộ chí củ a Tâ y Tiến:

Tâ y Tiến ngườ i đi khô ng hẹn ướ c

Đườ ng lên thă m thẳm mộ t chia phô i

Ai lên Tâ y Tiến mù a xuâ n ấ y

Hồ n về Sầ m Nứ a chẳ ng về xuô i

Giố ng vớ i lờ i thơ “ Tố ng biệt hà nh” củ a nhà thơ Thâ m Tâm :

Chí nhớ n chưa về bà n tay khô ng

Thì khô ng bao giờ nó i trở lạ i

Ba nă m mẹ già cũ ng đừ ng mong

Quang Dũ ng đã thay ngườ i lính Tâ y Tiến nó i nên lờ i thề “ngườ i đi khô ng hẹn ướ c” vớ i nhâ n dâ n , vớ i Tổ
quố c . Họ khô ng hẹn ngà y trở về, quyết tâm đó ng gó p sứ c lự c củ a mình để bả o vệ biên cương , bả o vệ dả i đấ t
hình chữ S mến thương . Đồ ng điệu vớ i nhà thơ Quang Dũ ng , Nguyễn Đình Thi cũ ng đã đô i lầ n bộ c bạch :

Ngườ i ra đi đầ u khô ng ngoả nh lại

Sau lưng thềm vắ ng lá rơi đầ y

Nhà thơ sử dụ ng từ lá y “thă m thẳm” gợ i cả m giá c đoà n binh Tâ y Tiến cà ng đi cà ng khô ng có ngà y trở về ,
nhưng họ vẫ n khô ng chù n bướ c , vẫ n tiến lên phía trướ c , tay ô m chắc sú ng bả o vệ biên cương , bả o vệ đấ t nướ c.
Nhữ ng thanh niên yêu nướ c Hà Thà nh trở thà nh trá ng sĩ vớ i ý chí kiên cườ ng , đanh thép “quyết tử cho Tổ quố c
quyết sinh”. Đại từ phiếm chỉ “ai” đượ c tác giả sử dụ ng như mộ t phép ẩ n dụ cho ngườ i lính Tâ y Tiến. Hình ả nh
ngườ i lính dướ i mù a xuâ n nở hoa củ a đấ t trờ i , như mộ t bứ c tranh ngọ t ngà o ,ấ m á p củ a tuổ i xuâ n , tuổ i trẻ Hà
Thà nh ngậ p trà n tình yêu quê hương , tình yêu đấ t nướ c. Địa danh cuố i cù ng mà Quang Dũ ng đề cấ p đến là Sầ m
Nứ a thuộ c địa phậ n củ a Là o. “Hồ n về Sầm Nứ a” - chí nguyện củ a các chiến sĩ là  sang nướ c bạ n hợ p đồ ng tá c
chiến vớ i quâ n dâ n Là o chố ng Phá p, họ quyết tâ m thự c hiện lí tưở ng ấ y đến cù ng , bấ t chấ p hiểm nguy , gian khổ .
Mặc dù mả nh hồ n nhỏ bé củ a họ “chẳ ng về xuô i” nữ a , nhưng sự cố ng hiến và hi sinh củ a họ thì vẫ n cò n in đậ m
mãi trong lò ng mỗ i con ngườ i Việt Nam , để lịch sử đau thương mấ t má t củ a dâ n tộ c thờ i kì sú ng nổ khô ng bao
giờ lặ p lạ i mộ t lầ n nữ a. Chính vì vậ y mà nhà thơ Chế Lan Viên đã từ ng viết :

Đấ t hỏ a tuyến nhữ ng chà ng trai lớ p bả y

Lại ngâ m kiều sau mộ t cuộ c giao tranh

Nhữ ng tuổ i xuâ n phơi phớ i – tuổ i xuâ n củ a trí thứ c Hà Thà nh mãi mãi là mộ t phầ n tươi đẹp nhấ t củ a đấ t
nướ c cả trong quá khứ , hiện tạ i và mãi mãi về sau.

Tâ y Tiến- mộ t khú c trá ng ca vang dộ i củ a dò ng chả y lịch sử Việt Nam thờ i kì khá ng chiến chố ng Phá p
đượ c nhà thơ Quang Dũ ng phá c họ a bằ ng ngò i bú t tà i hoa , lã ng mạ n , kết hợ p cù ng vớ i cá c biện phá p nghệ thuậ t
như : nhâ n hó a , điệp ngữ , ẩ n dụ ... Cách xâ y dự ng hình ả nh ngườ i lính Tâ y Tiến vừ a tà i hoa, vừ a bi trá ng đã trở
thà nh hai mạ ch nguồ n cả m xú c hò a quyện cù ng nhau tạ o thà nh tác phẩ m. Quả thậ t đú ng như mộ t ngườ i nà o đó
từ ng nhậ n định:” Ai nó i rằ ng Tâ y Bắc là xứ rừ ng thiêng nướ c độ c xin hã y mộ t lầ n để cho tâ m, hồ n mình lắ ng lại
để chấ t thơ Tâ y Bắ c ngấ m và o hồ n” . “Tâ y Tiến” củ a Quang Dũ ng sẽ luô n số ng mã i trong tim ngườ i yêu vă n
chương cả nướ c như mộ t khú c hù ng ca vang dộ i về ngườ i lính Tâ y Tiến củ a đấ t trờ i Tâ y Bắc, củ a non sô ng Việt
Nam mến thương.

TÂY TIẾN

“Có gì quí hơn độ tuổi thanh xuân

Vì độc lập ta hiến dâng tất cả

Những nét riêng tư cũng không còn nữa

Tất cả hòa chung nhịp bước xuân hành”

Khi những âm thanh chiến tranh làm choáng ngợp lòng người, bao quân dân đã đổ máu bồi đắp non sông thì Quang
Dũng với sự đặc tả, tập trung cao độ đã trau chuốt những mảnh vỡ kí ức ngày xưa. Đóa hoa ấy bỗng chốc nở rộ trong
thiên đường thơ ca với những cánh hoa kì lạ mang dáng dấp của cái chết nơi chiến trường. Bằng tài năng của mình,
ông đã chắt lọc nỗi nhớ, cứu rỗi tình yêu và cái đẹp thoát khỏi sự tàn phá dữ đội của chiến tranh trong kí ức, tạc lại
hình ảnh những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. “Tây tiến” đã ra đời, ứ đầy những tâm tư cảm xúc dạt
dào này của Quang Dũng.

Khi người con Hà Thành cất tiếng gọi tổ quốc thân yêu thì cũng là lúc những chất lãng mạn và trữ tình tuôn ra theo
dòng thơ. Hồn thơ đa tài ấy khiến người khác nể phục vì đã dậy lên được chất men say ngây ngất lòng người trong
các tác phẩm của mình. Trong những năm tháng rực lửa khốc liệt, hòa theo khí thế ngút trời của thời đại, tác phẩm
“Tây Tiến” ra đời, như một chiếc lưu bút, ghi lại tâm tư của chính tác giả. Đứa con đầu lòng hào hoa, tráng kiệt này
không chỉ mang âm hưởng hùng hồn của tinnh thần quyết chiến quyết thắng mà còn là chiếc ly đầy nước làm tràn ra
đời chất lãng mạn khôn tả. Phù Lưu Chanh năm 1948 vọng về như nỗi nhớ xa xăm chất chứa trong bài thơ. Bài thơ ra
đời vào lúc ấy và nó tựa như một nỗi nhớ dài, trải ra rồi thấm đẫm những hồi ức tuy gian nan nhưng vô cùng mĩ lệ.
Khi một nhà thơ viết nên tác phẩm của mình, dường như họ vô thức trở thành một họa sĩ tài ba cùng các nét vẽ
điêu luyện khắc họa nên những bức tranh cùng sắc màu riêng biệt. Cái “tôi” thoát li khỏi thực tại bằng trí tưởng
tượng, Quang Dũng gọi “hồn” dòng sông ngày ấy về trong nỗi nhớ xa xăm:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”

Dòng sông thiêng ấy chạy dọc núi rừng, không khí hào hùng bao trùm cả bài thơ. Dòng sông gắn liền với cuộc
chiến xa xưa, thấm nhuần máu thịt của núi rừng. Như bản trường ca vọng về, chảy vào trong thơ những kí ức mãnh
liệt, cuộc trào như con sóng ùa vào lòng người đọc. Nỗi nhớ lan rộng tìm về nơi rừng cây với sự cô độc rồi bỗng chốc
thốt lên tiếng “ơi”. Gọi về đoàn binh Tây Tiến, gọi về một thời đã qua. Nỗi nhớ tiếp tục bao trùm người chiến sĩ rời xa
đoàn quân của mình, đó là nỗi chơi vơi dai dẳng. Cảm xúc ấy như kéo Quang Dũng vào hố sâu của nỗi lòng buồn tẻ,
xót xa. Không vì ngẫu nhiên mà tác phẩm này lại đổi tên từ “nhớ Tây Tiến” thành “Tây Tiến”. Vì nỗi nhớ đã tràn ngập
và tràn ra bên ngoài, hòa vào tâm trí người đọc và không từ ngữ nào có thể diễn tả được. Như Trần Đăng Khoa từng
nhận xét: ‘’Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”. Chỉ vài vần ngắn nhưng ý thơ thì vô hạn, tâm tình xiết chảy
tựa suối nguồn đổ ra từ thác lớn, kéo theo vô vàn những bụi thời gian dưới đáy sông.

Khi nỗi nhớ ấy bỗng quặn thắt lại từ nơi cõi lòng, như đưa Quang Dũng miên man với những hồi ức xưa:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Điệp từ “nhớ” dường như được lặp trong vô thức vì đó là cảm xúc chủ đạo đang chiếm lấy cả tâm trí tác giả. Nó là
cảm giác vô hình nhưng lại khiến tác giả như đang đứng giữa ranh giới của hai bờ vực hư ảo, mênh mang, giày vò. Có
gì đó cồn cào, nhộn nhạo không thể kể thành tên, cứ chơi vơi vô định như vậy mãi:

‘’Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

“Hồn’’ Quang Dũng như cô liêu tìm về núi rừng rồi vô thức lạc lỏng nơi ấy. Khi đó, như dạo một vòng về dòng thời
gian, hình ảnh ngày xưa hiện về như một thước phim cũ kĩ nhưng không kém phần bi tráng. Các anh ra đi khi trời tờ
mờ sáng, khi những làn sương che lấp khung cảnh xung quanh và trở về trong những đêm dài hành quân nung nấu.
Khi các địa danh được liệt kê, dường như ta cũng phần nào hiểu được chặng đường hành quân gian nan như thế nào.
Thiên nhiên không hề đơn giản, ẩn sau vẻ đẹp hoang dại ấy là những hiểm nguy không thể gọi thành tên. Rồi có
những đêm như thế, vẫn là làn sương mờ không thể nhìn thấy rõ mặt nhau:

‘’Nhớ bản sương giăng

Nhớ đèo mây phủ”

Dù ‘’sương lấp’’ phủ đầu nhưng khi ‘’hoa về’’ nhẹ nhàng, tinh tế, đêm sương trở thành ‘’đêm hơi’’, bồng bềnh, lung
linh, huyền ảo. Bó đuốc trên tay các anh sáng lên xua tan u tối bờ cõi âm u, tĩnh mịch. Theo đó, không gian lại càng
mở rộng ra theo ngòi bút của Quang Dũng:

‘’Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi’’


Các anh đối mặt với núi non hiểm trở, từ’’dốc’’ nhấn mạnh vào độ cao mà các anh phải đi lên. Các từ láy quanh
quẩn trong câu làm người đọc choáng ngợp và liên tưởng ngay đến cảnh các anh phải treo mình trên các vách đá,
môt bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là vách đá thẳng đứng. Các câu chữ như bị bẻ gãy và ngắt nhịp 3\4, trở thành
giao điểm phân định rạch ròi hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân:

‘’Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây’’

(xa ngắm thác núi Lư- Lí Bạch)

Qua đôi mắt với cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng, quang cảnh này tựa bức tranh thủy mặc sống động và vô cùng
độc đáo bên cạnh những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo: ‘’Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc’’. Nỗi nhớ ấy,
không chỉ đầy ắp chất thơ, hội họa mà còn mang âm hưởng đẹp đẽ đến lạ: ‘’Đọc ‘Tây Tiến’ như ngậm âm nhạc trong
miệng’’. Nó len lỏi vào từng mạch máu, làm bừng thức tâm hồn mỗi người. Tiếng chuông khẽ ngân, làm rung động
dây đàn, chạm vào cõi lòng của thi nhân, là say, là thương, là nhớ. Rung động ấy ngẫu nhiên lại là nốt trầm, là ‘’thanh
bằng’’ sau những ‘’thanh trắc’’ thăng hoa đầy trắc trở. Cảm giác sau những ‘’khúc khuỷu, thăm thẳm’’ lại trở nên
mênh mang, bâng khuâng. Người chiến sĩ phóng tầm mắt ra xa để cảm nhận vẻ đẹp của chốn này. Núi non điệp
trùng, những ngọn đồi liền nhau đều được thu vào trong ánh mắt. Rồi bất chợt, trong làn mưa lất phất hơi sương
lạnh giá, đẹp đẽ, ướt át nhưng thật tê tái, cái rét run từng đợt ẩn sau cơn bão sắp ập đến. Ngôi nhà ai đó mà họ
không biết tên cứ ẩn hiện, bồng bềnh. Ngôi nhà trong bản làng xa xa như ngôi nhà nhỏ thân thương mà các anh luôn
muốn quay về. Ta cũng đã bắt gặp những hình ảnh đó trong’’Bao giờ trở lại’’ của Hoàng Trung Thông:

‘’Các anh về mái ấm nhà vui

Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ

Các anh về tưng bừng trước ngỏ

Ríu rít đàn em hớn hở theo sau

Mẹ già bịn rịn áo nâu

Thương đàn con ở rừng sâu mới về’’.

Các anh là thế, dù có dũng cảm, kiên cường nhường nào vẫn mong muốn chốn bình yên. Vì ra đi là muốn sau này hòa
bình và an yên sẽ là mãi mãi. Chính vì thế, hình ảnh các anh đứng nơi cao ấy, với dáng đứng hiên ngang hiện lên vô
cùng đẹp đẽ. Giống như các anh đồng chí trong tác phẩm ‘’Đồng chí’’ của Chính Hữu với hình tượng ‘’đầu súng trăng
treo’’. Trăng là biểu tượng của hòa bình, là khát vọng trường tồn trong lòng mỗi người lính dù cho họ xuất thân là
nông dân từ mọi miền tổ quốc hay là những trí thức Hà Thành:

‘’Đèo cao thì mặc đèo cao

Ta leo lên núi, ta cao hơn đèo’’.

Những người lính Tây Tiến mang hào khí vinh quang với tầm vóc và khát vọng lớn lao tựa như những người lính thời
Trần- hào khí Đông A:

‘’Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu’’


Vẫn là một Quang Dũng mải mê chìm ngập, vùng vẫy trong bể kí ức, thổn thức với nỗi nhớ ngày xưa. Rồi những hình
ảnh hào nhoáng bị dập tắt, chính tác giả đã phô bày cho mọi người nhìn thấy hình ảnh chân thực và khốc liệt của
chiến tranh:

‘’Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời’’

Muốn thuyết phục người đọc bằng ngôn từ thì trước tiên phải chân thực. Viết về những đau thương mất mát
trong chiến tranh có lẽ là điều mà Quang Dũng phải làm. Dù ‘’dãi dầu’’ mưa gió, bao gian khổ đè nặng lên đôi vai gầy
của những chàng trai tuổi thơ được cầm bút, lớn lên lại vác trên vai súng đạn đầy mùi ghỉ sắt. Nhưng các anh chưa
bao giờ quay lưng với kháng chiến, bóng anh đầy ngạo nghễ, hiên ngang. Người hùng thật sự không cần đến chiếc áo
choàng đỏ rực mà là những phút giây được nghỉ ngơi. Có lẽ khi vô thức gục xuống cũng là lúc các anh thật sự có phút
giây yên bình cho chính mình. Thế là họ đã không thể bước tiếp nữa. Không phải vì bản thân hèn nhát mà là không
còn sức lực để mà tiếp tục. Núi rừng, chiến tranh giày vò các anh và từ “gục’’ lúc ấy tựa như có sức nặng ngàn cân đổ
vào câu thơ một cách nhanh chóng. Đôi chân mỏi mệt đành không bước nữa. Sau những phút giây mệt mỏi, các anh
không kìm được mà chìm vào ‘’giấc ngủ’’, giấc ngủ bình yên sau tiếng súng đạn. Cái chết ấy là bất tử, là cái chết của
những người chưa bao giờ khất. Mong một lần bỏ quên đời:

‘’’Những người ra đi không để lại tuổi tên

Lúc ngã xuống tôi chỉ kịp nhìn nấm đất’’.

Cũng như trong nhật kí của Nguyễn Văn Thạc có viết: ‘’Ai đấy nắm tay người bạn thân yêu của mình, chỉ cho họ cánh
buồm xanh đi về, cánh cửa chân trời rộng mở, chớ quên dưới chân mình là cát sỏi, là đất thấm máu của biết bao thế
hệ, bao con người mà cuộc sống của họ đã xa xôi’’. Họ ngã xuống để nâng đất nước đi lên, viết về cái chết nhưng lại
không dùng từ ‘’chết’’ mà nhìn nhận qua sự bản lĩnh của người lính. Cái chết nhẹ tựa lông hồng, vút bay theo đôi
cánh của mẹ thiên nhiên chốn núi rừng Tây Bắc. Thời gian cứ thế lặp đi lặp lại nư một vòng tuần hoàn, ngày rồi lại
đêm đến không một hồi kết. Thiên nhiên Tây Bắc không chỉ thơ mộng huyền ảo trong màn mưa lạnh lẽo hay hùng vĩ
với núi non chập chùng mà lúc này, ngày đêm vén lên bức màn về rừng thiên nước độc. Thử thách với con người đâu
phải chỉ ở thế núi đứt rồi lại nối, thấp đà rồi lại cao. Trong bức tranh này, ta còn nghe thấy tiếng thác nước gầm thét
thị uy sức mạnh ngàn năm của rừng già từ thuở sơ khai, tiếng gầm của cọp dữ và dấu chân của Ông Ba Mươi thấp
thoáng trong đêm vắng. Đó là âm thanh dữ dội, đáng sợ như khúc hòa tấu man rợ của chốn oai linh. Từ ‘’Mường
Hịch’’ như đệm thêm cho bản hòa tấu ấy vài nốt trầm đục, tạo âm hưởng kì lạ, có thể nuốt lấy hơi thở của những
người lính bất kì lúc nào. Nhưng nhìn nhận qua bản lĩnh của người lính thì đó tựa như trò đùa của trẻ con, thể hiện rõ
qua từ ‘’trêu’’. Bài thơ thành công nhờ sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Đó là cái tài của
Quang Dũng, dẫn dắt hiện thực đi trên con đường của thơ ca và gột rửa trong làn mưa của sự lãng mạn.

Qua một vài ánh nhìn thăng trầm về chặng đường hành quân và thiên nhiên núi rừng thì đến cuối khổ thơ, thứ ám
ảnh Quang Dũng vẫn chỉ là nỗi nhớ:

‘’Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi’’

Nỗi nhớ cứ được thốt lên thành lời và cứ âm vang mãi. Hình ảnh ‘’cơm lên khói’’ cùng mùi nếp xôi thơm nồng nàn,
lảng vảng trong cái lạnh thấu xương đột nhiên trở thành nỗi nhớ dịu dàng, chờn vờn trong tâm trí người lính. Nhớ cái
ấm nóng của bữa ăn giản dị và nhớ luôn những bóng hồng miền Sơn Cước: ‘’Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng’’


(tiếng hát con tàu- Chế Lan viên)

Phải nhớ những hình ảnh ấy, chúng quí giá vô cùng trong hoàn cảnh như thế. Vì đó có thể là những bữa cơm hiếm hoi
các anh được dùng trong yên bình bên những cô gái thôn quê hồn hậu:

‘’Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn!’’

Núi rừng miền Tây hiện lên vừa đẹp đẽ, vừa mang hơi thở của sự chết chóc đáng sợ. Theo đó, nổi bật lên hình ảnh
các anh lính dãi dầu sương gió, bất chấp tất cả mà hành quân. Thấp thoáng đâu đó vẫn vương chút tinh nghịch lính
tráng của họ. Dốc cứ dốc, đèo cứ đèo, họ vẫn cứ lạc quan và yêu đời, cùng nhau hướng về trời Tây.

Tây Tiến là khúc ca chiến trận của anh vệ quốc năm xưa, những anh hùng buổi đầu kháng chiến ‘’áo vải chân không,
đi lùng giặc đánh’’, những tráng sĩ ấy ra đi vì tổ quốc với những lời thề nặng nghĩa ân tình. Viết ‘’tây tiến’’ bằng nỗi
nhớ, không chỉ viết về thiên nhiên và con người mà Quang Dũng còn viết về những đêm liên hoan, cùng tiếng nhạc cứ
âm vang mãi về sau:

‘’Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ’’

Ấn tượng mà những câu thơ này đem lại cho người đọc là sự vui vẻ, nhộn nhịp và cái nhìn chăm chú, say đắm của lính
Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa xứ lạ. Doanh trại được thắp sáng bằng những đuốc hoa, những cô gái khoác lên
những bộ xiêm áo đẹp đẽ và lộng lẫy, e ấp cười đùa trong điệu nhạc như câu hồn. Hai chữ ‘’kìa em’’ như lời chào đón
đầy ngạc nhiên sung sướng và ngỡ ngàng. Lời nói như mang tính phát hiện, em lạ mà quen, quen mà lạ. Dù vậy, tất cả
vẫn hòa chung một niềm vui chốn núi rừng. Chính trong không khí và âm nhạc ấy như chắp cánh cho tâm hồn người
lính ngất ngây trước người và cảnh. Những đêm liên hoan như vậy tựa chất men say làm tâm hồn tác giả thăng hoa,
mộng mơ da diết nhớ, biến Tây Tiến gai góc trở nên mềm mại, trữ tình và thơ mộng.

Sau những rộn ràng tiếng cười thì lấp ló cái gì đó man mác trong cảnh miền Tây sông nước:

‘’Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa’’

Vẫn là những làn sương lảng bảng trong không gian như cõi mộng huyền ảo. Cái dữ dội khốc liệt bị đẩy lùi, thay vào
đó là sự nhẹ nhàng, thơ mộng. Nhưng dù thế nào chăng nữa, kí ức đều sẽ trở thành những hoài niệm mà Quang
Dũng dành cả một đời cố chấp mang theo. Nung nấu nỗi nhớ thành những nỗi bâng khuâng, có chút gì đó man mác.
Bút pháp chấm phá thật tinh tế, chỉ vài nét đơn giản mà cảnh sông nước rộng lớn hiện ra, cảnh thì thưa thớt, dáng
người thì hắt hiu, cô độc, dưới dòng nước lũ cuồn cuộn lại có bông hoa nhỏ trôi trôi. Cảnh không rõ nét mà chỉ mờ
nhạt, tất cả bị phủ trong màn sương. Nét bút mờ nhạt ấy đã vẽ lên được cái hư ảo của hoài niệm, cái tinh tế của tình
cảm. Nhớ bông lau trắng xóa một vùng, nhớ ai đó cô độc trên chiếc cầu nhỏ… dường như nỗi buồn và tâm trạng của
thi nhân đang khếch tán ra cả không gian: ‘’người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’.

‘’Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay’’.

Nếu ở đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng những nét vẽ mềm mại tinh tế và cái tinh tế toát ra từ cốt cách hào hoa
phong nhã của mình để gợi nhắc về kỉ niệm chốn miền Tây sông nước trong lòng người lính thì khi qua đoạn thơ này,
ông lại thắp lên hào khí rực lửa của thời đại cách mạng thông qua vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ:

‘’ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùng’’

Anh lính tây tiến hiện lên với ngoại hình gân guốc và gai góc. Nhưng đó là cái lạ hóa, bắt nguồn từ thực tế khốc liệt.
Những trận sốt rét rừng hành hạ làm cho đầu họ rụng hết tóc. Trong hồi ức ngày xưa ấy, họ tử vong vì chiến trận thì ít
mà mất vì sốt rét rừng lại nhiều. Rừng thiên nước độc làm gì có thuốc men, gian khổ thiếu thốn là kẻ thù của anh lính
hành quân xa:

‘’Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi’’

Căn bệnh là nỗi ám ảnh của một thời văn chương kháng chiến chống Pháp. Nhưng khó khăn là vậy, các anh vệ trọc
đáng yêu vẫn hiên ngang, lạc quan. Họ ốm nhưng không hề yếu dù cho làn da có vàng vọt, xanh xao, bủng beo.
Những hình ảnh này như đồng điệu với bài thơ ‘’Cá nước’’ của Tố Hữu:

‘’Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế’’

Cái nhìn lãng mạn, vui tươi của thi nhân thật đáng khâm phục. Màu xanh tựa như màu lá cây ngụy trang của các anh,
ngụy trang cho hoàn cảnh khó khăn bằng những nụ cười tinh nghịch, xá chi những hiểm nghèo. Chính vì họ có những
khát vọng về tình yêu, như một ngọn nến thắp lên trong tim họ những hy vọng, neo đậu tâm hồn họ để nó không sa
vào những sợ hãi, hèn nhát tầm thường:

‘’Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm’’

Đây là một nét vẽ bay bổng, lãng mạn đã từng cùng Quang Dũng trải qua không biết bao thăng trầm. Vì lúc đó, đây
được xem là tư tưởng yếu đuối của tiểu tư sản, ủy mị và không nên có ở người lính khi ra trận. Nhưng sự trải nghiệm
lịch sử đã đem lại cho ta cái quí giá vẹn nguyên của những câu thơ như thế. Khi cảm nhận bằng tâm thế của con
người yêu nghệ thuật và tôn vinh chất trữ tình đẹp đẽ hiếm hoi của thi sĩ thời ấy, ta mới có thể suy ngẫm và hiểu
được cái hay của câu thơ. Đôi mắt anh nhìn thẳng vào kẻ thù không khoan nhượng nhưng giấc mộng mà anh hằng
mong mỏi lại ở bên kia biên giới, nên anh đành gửi tấm lòng đi, để đêm về lại thăm cô gái Hà Nội trong giấc mơ.
Những giấc mơ chấp chới dáng kiều thơm yểu điệu thục nữ ấy trở thành động lực giúp người lính vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ. Những tác phẩm gây nên nhiều cuộc tranh luận rồi cuối cùng lại ghi tạc vào lòng người đọc những dấu
ấn đậm sâu là những tác phẩm hay như Vũ Quần Phương có viết: ‘’Cái độc đáo của Quang Dũng đã giúp ông không
lẫn vào đâu được. Ngay cả trong bài thơ ‘Tây Tiến’ có những bấp bênh, nhưng rồi chính những chỗ ngỡ như khác lạ
một thời lại sống mãi với mọi thời’’.

Không những viết về vẻ đẹp tâm hồn của người lính với xuân xanh mơ mộng về người thương, mà tác giả còn viết về
cái bi nhưng không bi quan, bi lụy mà lại trở nên bi tráng, hào hùng:

‘’ Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh

Áo bào thay chiếc anh về đất’’

Vẫn không dùng từ “chết, mất..’’ nào nhưng vẫn diễn tả được cái chết của người lính Tây Tiến đeo bám các anh như
thế nào. Khi ra đi, dù vui vẻ lạc quan nhưng bất cứ ai trong họ cũng đều nghĩ về cái chết. Không phải là do họ hèn
nhát mà trái ngược lại, họ thật đáng khâm phục. Những người dám đứng lên bước tiếp cùng nỗi sợ là những người
thật sự quả cảm. Vì những con người ấy cũng chẳng phải thần thánh gì, mà chỉ là những người chân trần mắt thịt. Họ
đối mặt với thiên nhiên, bệnh tật, hòa mình vào dòng mưa bom bão đạn mà quên thân mình. Họ thà chết chứ không
bao giờ đào ngũ trở về. Lấy cái chết của mình làm tiền đề để đồng đội nhằm thẳng quân thù mà bắn:

‘’Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn’’

(chinh phụ ngâm)

Tấm áo mỏng manh được cởi ra để đắp lên thân xác người đồng đội mới trở về với đất mẹ, hồn hóa gió theo mây
trời. Tựa như tấm áo bào của nhà vua, chiếc áo đáp xuống thân hình quá cố ấy một cách trang trọng, như chút hơi ấm
cuối cùng mà các anh cố gắng trao cho đồng đội của mình. Chẳng còn tiếc chi nữa, giây phút cuối cùng trút xuống là
giành cho kháng chiến, bên cạnh các đồng chí, vậy là đã vui lắm rồi. Các anh ra đi nhẹ nhàng, câu văn thanh thản kìm
nén. Nhưng dường như kìm nén mãi chẳng được, thiên nhiên bỗng dữ dội gào thét: ‘’Sông Mã gầm lên khúc độc
hành’’. Còn con người thì câm lặng trước nỗi đau mất mát. Sông Mã khởi nguồn cho nỗi nhớ Tây Tiến, hành quân
cùng người lính trên những chặng đường rồi đến cuối cùng, cũng chính dòng sông ấy cuồn cuộn đổ về xuôi tấu lên
khúc nhạc chiêu hồn tử sĩ.

Sau những chặng đường người lính đi qua với bao thăng trầm, đến cuối, Quang Dũng ngâm nga nhẹ nhàng những
câu từ tha thiết. Đây là ‘’mộ chí’’ của bài thơ:

‘’Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi’’.

Khi ra đi, các anh cũng chẳng mong ngày trở về nữa, không hẹn ước và càng đi càng lạc mất ‘’đường’’ về nhà. Càng đi
thì càng ‘’thăm thẳm’’, hút người lính vào trận chiến không biết bao giờ mới kết thúc, một vòng xoáy không tiếng oán
than, đó là tự nguyện ‘’quyết tử cho tổ quốc quyết sinh’’. Họ dâng hiến cho cuộc đời cả tuổi xuân và những năm
tháng tuổi trẻ để đổi lại hai chữ ‘’bình yên’’:

‘’Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi

Nào có xá chi đâu ngày trở về

Ra đi ra đi bảo tồn sông núi

Ra đi ra đi thà chết không lùi’’.

Hiện thực và lãng mạn đan xen, nỗi nhớ vọng về với Quang Dũng như câu chuyện cũ tái hiện trước mắt. Thiên
nhiên, núi rừng, con người, đồng chí… Từ ngữ như chứa nhạc, âm vang mãi không thôi. Thơ như những nét vẽ của
họa sĩ tài ba, cứ khắc họa lần lượt nỗi nhớ qua từng nét vẽ nhẹ nhưng sắc xảo và mang sức nặng vô hình mà chính
ông là người hiểu rõ nhất. Đến cuối cùng, dường như ở lại với ông là tiếng thở dài trong nỗi buồn man mác về một
‘’Tây Tiến’’ xa xưa.

Như shelly từng khẳng định rằng: ‘’thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử”. Chính vì
thế, bức tượng đài người lính Tây Tiến sẽ sống mãi. Cảm hứng lãng mạn nhưng là cái gốc, là hiện thực- hiện thực của
thiên nhiên đất nước và của người lính. Những đóa hoa ngày ấy sẽ tỏa hương mãi về sau, là tiền đề để đất nước đi
lên và phát triển. Các anh ra đi khi tuổi xuân vẫn còn xanh ngắt nhưng các anh luôn hiện hữu đâu đó trong tim của
những con người biết ơn về một thế hệ cha ông đã hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kì.

‘’Tây Tiến kiên cường mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông’’.

Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “nghĩ lại về pau xtop xki’’ của nhà thơ Bằng Việt từng
viết:

‘’Những trag sách suốt đời đi vẫn nhớ

Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu’’

Vâng! Có những tác phẩm ra đời rồi chìm khuất vào phiên chợ văn chương đầy náo nhiệt của thời đại nhưng cũng có
những tác phẩm như ‘’những dòng sông đỏ nặng phù sa’’, như ‘’bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn’’ để rồi
in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm ta những gì đẹp nhất để suốt đời đi vẫn nhớ. Đó phaỉ chăng là tác phẩm đã
‘’vượt qua mọi băng hoại’’ của thời gian trở thành bài ca đi cùng năm tháng, để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ
những dư vang không thể quên. ‘’Tây Tiến’’ thật sự đã hoàn hành được sứ mệnh đó của mình.
ĐỀ BÀI: Phân tích toàn bộ bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

BÀI LÀM

           Nhận định về bài thơ “Tây Tiến” của mình, Quang Dũng đã từng nói:
“...Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội được mọi người
hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy.
Tôi chả có chút lí luận nào về thơ cả…”. Phải chăng chính nhờ những kỷ niệm
chân thực nhất của một người đại đội trưởng trên mặt trận kháng chiến, chính nhờ
những trải nghiệm giản dị, đời thường nhưng trĩu nặng ân tình này của Quang
Dũng xuyên suốt những tháng ngày “vai kề vai súng kề súng” cùng binh đoàn
Tây Tiến thân thương thì thơ ông mới có thể “trào ra” nhanh đến vậy? Và rồi như
một lẽ tự nhiên, “Tây Tiến” đã dựng lên sừng sững trong trái tim hàng vạn độc
giả Việt Nam và thế giới bức tượng đài những người chiến sĩ, những người anh
hùng một thời “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” mang trong mình không chỉ khí
chất anh dũng, kiên cường mà còn cả vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa rất riêng, rất tiêu
biểu cho hồn thơ nhà thi sĩ đại tài Quang Dũng.

          Nói Quang Dũng đại tài là bởi bên cạnh phong cách thơ độc đáo - sự kết
hợp khéo léo giữa chất lãng mạn trữ tình và chất bi tráng sử thi thì ông còn đa tài
ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau như vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn. Nói về sự
nghiệp thơ ca của Quang Dũng ta không thể không nhắc đến bài thơ “Tây Tiến” -
được ra đời không lâu sau khi đơn vị Tây Tiến chuyển sang đơn vị khác vào cuối
năm 1948. Tại làng Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ mênh mang, rợn ngợp, Quang
Dũng đã đặt bút vẽ nên bức tranh hùng vĩ, thơ mộng nơi núi rừng Tây Tiến, đây
cũng là nơi mà ông và những người lính Hà Thành đã cùng nhau vượt qua từng
khó khăn, gian khổ trên bước đường hành quân chiến đấu vì nền độc lập dân tộc
của Tổ Quốc Việt Nam anh hùng. Trước khi được in trong tập “Mây đầu ô”
(1986) nhan đề bài thơ được đặt là “Nhớ Tây Tiến”, sau này mới được Quang
Dũng đổi lại thành “Tây Tiến”. Lược bớt chữ “nhớ”, tác giả đã thể hiện thành
công sự cô đọng, hàm súc xúc cảm chất chồng của người con kháng chiến trong
chiếc nôi núi rừng Tây Bắc.

          Đến với tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã gửi gắm trọn vẹn tất cả
những nỗi nhớ thương vơi đầy, những nỗi buồn chênh chao của một người con
kháng chiến đối với mảnh đất đã từng một thời là quê hương, là mái nhà, là chốn
ăn, chỗ ngủ của ông cùng những người đồng đội trẻ tuổi trong cuộc trường kỳ
kháng chiến đầy gian khổ nhưng cũng đầy dư vị lãng mạn, hào hoa. Thật vậy, nối
tiếp nhan đề “Tây Tiến” là địa danh “Sông Mã” cùng nỗi nhớ đã thốt lên thành lời
trong tiếng gọi da diết “Tây Tiến ơi”:
                                “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Mở đầu bài thơ bằng hai tiếng “Sông Mã” tức là nhà thơ muốn người đọc như
cùng mình nhìn lại được một hình ảnh quen thuộc gắn liền với bước đường hành
quân của người lính binh đoàn Tây Tiến năm xưa. Câu thơ gợi cho người đọc
cảm giác rằng, mặc dù Quang Dũng đã rời xa Tây Tiến nhưng nỗi nhớ của ông
tha thiết đến mức có thể thấy được hình ảnh mình song hành cùng đoàn binh để
rồi bỏ lại sau lưng những gì thân thuộc nhất - dòng sông Mã “xa rồi”. Và hòa
cùng xúc cảm với Quang Dũng, trong bài thơ “Đất nước” nhà thơ Nguyễn Đình
Thi cũng đã từng một lần nối tiếp những bước chân tâm trạng của kẻ ra đi:
                                “Người ra đi đầu không ngoảnh lại
                                  Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Với nhịp ngắt 4/3 ở câu thơ thứ hai, Quang Dũng đã cất bước nối dài thêm nỗi
nhớ “chơi vơi” của mình:
                                “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Điệp từ “nhớ” đứng đầu các nhịp ngắt như nhấn mạnh, như muốn làm đứt gãy
không - thời gian để nỗi nhớ ấy có thể quay ngược về quá khứ, có thể mở rộng
đôi cánh bao trùm lấy toàn bộ “rừng núi” Tây Bắc trong ký ức kẻ ra đi. Nhà thơ
đã sử dụng cụm từ “nhớ chơi vơi” - đây là một nỗi nhớ không có hình dáng cụ
thể, chỉ biết nỗi nhớ ấy không thể đong đếm được, lửng lơ nhưng lại lấp đầy cả
không gian, thời gian. Hơn thế nữa, từ láy “chơi vơi” tuy là từ tượng hình song lại
vẫn có thể khéo léo diễn tả được tâm trạng, tình cảm con người mà cụ thể ở đây
chính là chàng lính Hà Thành. Không chỉ trong “Tây Tiến” mà thơ ca từ xưa đến
nay đã có không ít lần từ “chơi vơi” len lỏi vào những dòng thơ, dòng tâm trạng,
dòng hoài niệm của những nhà thi sĩ tài hoa xưa khi miêu tả về nỗi nhớ khôn
nguôi của mình:
                                “Gió sương mờ mịt nhớ chơi vơi”
                                                  (“Nhớ Thường Xuyên” - Hàn Mặc Tử)
Nếu “nhớ chơi vơi” của Hàn Mặc Tử là nỗi nhớ về người bạn thơ tri âm, tri kỷ
mà “gió sương mờ mịt” đã che khuất bóng hình thì “nhớ chơi vơi” của Quang
Dũng lại gợi lên cảnh núi rừng gắn với tình đồng chí, đồng đội trong đoàn quân
Tây Tiến. Và dù “nhớ chơi vơi” hiểu theo sắc thái nào đi nữa thì người đọc khi
nghe điệp vần “ơi” ở cuối câu thơ này đều không khỏi man mác một nỗi buồn
mênh mang, chấp chới một nỗi nhớ như có âm vang, có dư ba trải dài khắp chiều
cao, chiều sâu, chiều rộng của không - thời gian.

          Chỉ với hai câu thơ đầu tiên, Quang Dũng đã gửi gắm trọn vẹn cảm hứng
chủ đề của toàn bài thơ. Đó chính là dòng hoài niệm về mảnh đất Tây Bắc của Tổ
quốc, về binh đoàn Tây Tiến với những kỷ niệm không thể nào phai và chính ở
nơi ấy, Quang Dũng cũng đã từng gắn bó, từng chiến đấu và từng biết yêu lấy vẻ
đẹp thiên nhiên, con người miền Tây Bắc giữa lòng cuộc kháng chiến muôn trùng
khó khăn, thử thách. Trong giai đoạn thơ ca 1945 - 1975 người ta thường viết
xuôi cùng dòng hoài niệm về những năm tháng chiến đấu, chẳng hạn như Tố Hữu
nhớ về Việt Bắc trong tác phẩm cùng tên, Hoàng Cầm nhớ về Kinh Bắc trong
“Bên kia sông Đuống” hay Chế Lan Viên với nỗi nhớ về Tây Bắc trong “Tiếng
hát con tàu”. Và bình về dòng cảm xúc chung ấy trong giai đoạn này không thể
không nhắc đến hai dòng thơ của Chế Lan Viên trong thi phẩm “Tiếng hát con
tàu”:
                                “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
                                  Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”

          Nếu những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là những
chàng trai nông dân xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, vốn đã quen với
khắc nghiệt, gian khổ nên cuộc đời trận mạc cũng vì thế mà nhẹ nhàng, dễ dàng
hơn thì những người lính trong “Tây Tiến” lại là những chàng thư sinh sống trên
mảnh đất Hà Nội nghìn năm văn hiến, vậy nên cuộc kháng chiến vô vàn khó khăn
tưởng như vượt khỏi sức chịu đựng của họ. Thật vậy, nối tiếp hai câu thơ đầu, ở
những câu thơ tiếp sau nhà thơ đã liệt kê một loạt những khó khăn, thử thách mà
binh đoàn Tây Tiến phải đối diện trên bước đường hành quân của mình. Trước
hết, đến với hai câu thơ:
                                “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
                                  Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
ta thấy được hai hình ảnh “sương” và “hoa” vừa đăng đối lại vừa hài hòa, vừa là
hiện thực nhưng lại vừa là lãng mạn, hai gam màu đối lập như hòa quyện vào
nhau song đồng thời cũng làm nổi bật cho nhau - một nét bút xuất thần rất Quang
Dũng. Hai chữ “Sài Khao” hiện lên mang theo hình ảnh một đỉnh núi thơ mộng,
vời vợi quanh năm được mây che phủ nhưng đồng thời cũng khắc họa được thời
tiết khắc nghiệt nơi đây. Tuy nhiên, bên cạnh làn sương dày lạnh giá quanh năm
đang bao phủ lấy từng bước chân “mỏi” khó nhọc của những chàng lính Hà Nội
thì nhà thơ lại khắc họa họ bằng cụm từ “đoàn quân”. Đây chính là dụng ý nghệ
thuật của tác giả, chính là ý muốn được đặc tả sự hùng hậu, sự đông đảo và ý chí
quyết tâm của những lớp thanh niên trai tráng dám dứt áo ra đi từ chốn phồn hoa
đô thị để hành quân trên những đỉnh núi mờ sương buốt, để cống hiến tuổi xuân
và thậm chí là cả tính mạng mình cho nền độc lập Tổ quốc. Và nếu từ “mỏi”
mang thanh trắc đứng cuối dòng thơ như muốn bằng sức nặng của mình kéo cả
câu thơ xuống hố sâu mỏi mệt, gian nan thì đến với câu thơ sau, Quang Dũng đã
mang hương hoa về khắp chốn nơi rừng núi Mường Lát. Đây là một hình ảnh rất
thơ, rất lãng mạn bởi trong không gian tối tăm, lạnh giá của màn đêm những
chàng lính tuy không thể nhìn được sắc hoa, màu lá nhưng vẫn có thể ngửi được
hương hoa, khiến cho không gian núi rừng về đêm tưởng đáng sợ mà lại vô cùng
lãng mạn. Có lẽ bởi binh đoàn Tây Tiến giờ đây đã có hương hoa bầu bạn, đã có
hương hoa làm bừng lên niềm vui, sự lạc quan trong trái tim những người lính
trên bước đường hành quân mỏi mệt.

          Và nói đến núi rừng thiên nhiên Tây Bắc ta không thể không nói đến hình
ảnh những dốc núi xen lẫn cồn mây - đây cũng chính là điều mà tác giả đã khắc
họa trong ba câu thơ kế tiếp:
                                “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
                                  Heo hút cồn mây súng ngửi trời
                                  Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Đứng đầu các nhịp ngắt nhà thơ lại một lần nữa sử dụng biện pháp điệp từ mà cụ
thể ở đây là điệp từ “dốc” lặp lại hai lần. Dường như Quang Dũng muốn đặc tả sự
trùng điệp, nối tiếp của những dãy núi, những đường gấp khúc của thái sơn. Đến
đây người đọc không khỏi không gợi nhớ đến hai câu thơ của Đặng Trần Côn
trong “Chinh phụ ngâm”:
“Hình khe, thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.”
Như để nhấn mạnh hơn thế núi miền Tây Bắc Tổ quốc nhà thơ đã sử dụng hai từ
láy “khúc khuỷu” và “thăm thẳm”. Đây là hai từ láy có nghĩa đối ngược nhau ý
muốn vẽ ra trước mắt người đọc những hai mối hiểm nguy mà người lính Tây
Tiến phải đối diện với địa hình nơi đây: một bên thì là đỉnh núi cao chót vót, rợn
ngợp, một bên lại là miệng vực thăm thẳm, hiểm trở. “Heo hút” là vậy, hiểm họa
là thế nhưng sự hóm hỉnh, lạc quan sẽ không bao giờ ngừng cháy trong đôi mắt
người lính Hà Thành. Ngay trên thế núi muốn đi cũng khó, muốn lùi cũng chẳng
xong ấy, vẫn hiện lên hình ảnh “súng ngửi trời”. Chi tiết nhân hóa này không chỉ
đơn thuần muốn khắc họa độ cao chót vót như chạm được đến trời xanh của ngọn
núi mà còn thấm thía trong đó cả cái tình, cả cái tếu trong câu nói đùa rất Hà Nội
của chàng lính Tây Tiến. Cùng viết về chất hiện thực xen lẫn phong vị lãng mạn,
đã có rất nhiều nhà thơ trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp sử dụng
những hình ảnh thơ tương tự:
                                “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
                                                                                (Tố Hữu)
                                “Đầu súng trăng treo”
                                                              (Chính Hữu)
Đến với câu thơ kế tiếp, điệp từ lại một lần nữa đi liền với nhịp ngắt 4/3 và ở đây
với từ “ngàn thước” câu thơ cũng có tính chất tạo hình cho độ gấp khúc và hiểm
trở của núi. Nhưng thay vì sử dụng hai từ láy mang nghĩa đối xứng như phía trên,
tác giả đã sử dụng cặp từ đối lập “lên” - “xuống” khiến người đọc như chiêm
nghiệm được thế núi non hùng vĩ nhưng cũng đầy hiểm nguy xuyên suốt chặng
đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến.

         Như một nốt nhạc ngân dài, như một quãng nghỉ êm ái giữa bản nhạc đứt
gãy, dồn dập những khó khăn, hiểm trở nơi địa hình núi rừng Tây Bắc, câu thơ
thứ tám được nhà thơ sử dụng toàn bộ bằng thanh bằng đã hiện lên trong bài thơ
với vẻ đẹp vừa dữ dội chất hiện thực, vừa nhẹ nhàng nét lãng mạn. Sau một chặng
đường hành quân vất vả, dừng lại nơi lưng chừng dốc, những người lính tựa thấy
ngôi nhà ai đó chốn Pha Luông đang hòa mình trong làn mưa rừng hay cụ thể hơn
là một cơn “mưa xa khơi”. Từ “xa khơi” vốn là từ chỉ sự mênh mang của biển cả,
sử dụng từ này ở nơi núi rừng tưởng vô lý mà lại vô cùng hợp lý. Bởi mưa đầu
nguồn luôn rất cuồn cuộn và dữ dội, cơn mưa đầu nguồn chính là cơn mưa sẽ
cuốn trôi đi tất cả và để lại ngập lụt những nơi nó đi qua. Và đối với một người
lính xuất thân từ Hà Nội, chốn đô thị tấp nập, hiếm có khi nào chàng lính trẻ ấy
được chiêm ngưỡng cảnh tượng một trận mưa rừng bao phủ lên vạn vật một màu
trắng hư ảo như thế. Sự trầm trồ và ngưỡng mộ vẫn còn chưa ngớt thì giữa bức
tranh thủy mặc ấy lại thấp thoáng xuất hiện những gam màu vàng xám của những
mái nhà những dân tộc thiểu số nơi đây hòa lẫn trong màn sương mờ ảo mà thơ
mộng, trữ tình. Nếu nói “cầu vồng sẽ xuất hiện sau cơn mưa” thì có lẽ đối với các
chàng lính, sau bao hiểm nguy, gian khổ mà các anh đã vượt qua, cơn “mưa xa
khơi” này chính là “cầu vồng” của các anh, bức tranh thủy mặc này chính là phần
thưởng của các anh, là món quà tinh thần cho những người lính trẻ tuổi nạp lại
năng lượng và sự lạc quan, yêu đời của mình trên cuộc hành quân trường kỳ
kháng chiến đầy khó nhọc và hiểm nguy này.

          Nhưng hồn thơ Quang Dũng sẽ không bao giờ để dư vị lãng mạn và làn
sương khói thơ mộng của một cơn mưa rừng che mờ đi tính hiện thực của cuộc
kháng chiến gian khổ và khắc nghiệt này. Thật vậy, ông đã từ chối việc né tránh
sự thật và thậm chí còn nhìn thẳng vào nó để rồi dưới nét bút của mình, nhà thơ
đã khéo léo vẽ nên những mảng màu buồn đau, thương tiếc của hiện thực chiến
trường khốc liệt vào bức tranh “Tây Tiến” của mình trong hai câu thơ tiếp theo:
                                “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
                                  Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Nhà thơ đã sử dụng cách xưng hô “anh bạn” đầy thân tình nhưng đồng thời cũng
khắc sâu sự đau xót của mình trước sự hy sinh anh dũng của một người đồng đội,
một người đồng chí một thời “vai kề vai súng kề súng” với Quang Dũng. Đi liền
sau đó là cụm từ “dãi dầu” thể hiện những gian khổ, vất vả của mỗi người lính
Tây Tiến phải đối diện trên bước đường hành quân tìm lại độc lập, tự do cho Tổ
quốc. Đây là từ láy vừa có ý nghĩa biểu tượng cho những tháng năm dãi nắng
dầm mưa của người lính vừa biểu thị cho khoảng thời gian dài đằng đẵng của
cuộc chiến tranh khốc liệt này. Bằng bút pháp nghệ thuật nói giảm nói tránh kết
hợp cùng ngôn ngữ ngạo nghễ, bay bổng, sự hy sinh của anh lính Hà Thành đã
được tô đậm với tinh thần không chịu khuất phục “bỏ quên đời” cùng tư thế chủ
động “không bước nữa”, “gục lên súng mũ”. Câu thơ tuy miêu tả hiện thực đau
buồn nhưng vẫn phảng phất chất nghệ sĩ tài tử, nét kiêu hùng trong tư thế khi giã
từ cuộc đời của những chàng lính kháng chiến anh dũng. Chính nhờ vậy mà dù
thể hiện nỗi niềm xót thương, đau buồn, dòng thơ này của Quang Dũng vẫn tuyệt
đối không hề bị lụy. Văn học 1945 - 1975 đã không ít lần miêu tả chân thực hiện
thực chiến tranh thông qua vẻ đẹp xót thương nhưng bi tráng, kiêu hùng của
người lính kháng chiến khi giã từ cuộc đời:
                                “Hôm qua còn theo anh
                                  Đi ra đường quốc lộ
                                  Hôm nay đã chặt cây
                                  Đắp cho người dưới mộ.”
                                                      (“Viếng bạn” - Hoàng Lộc)
Những hiểm nguy mà người lính Tây Tiến phải đối mặt không chỉ là những trận
sốt rét rừng, những cơn mưa nguồn suối lũ hay địa hình hiểm trở nơi sườn dốc
khúc khuỷu mà còn cả thiên nhiên, động vật nơi đây:
                                “Chiều chiều oai linh thác gầm thét
                                  Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Ở đây từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” đã được sử dụng khéo léo gợi cho người
đọc một ấn tượng khó phai về thời gian chốn rừng thiêng nước độc. Nếu sông Mã
gắn với chặng đường hành quân, Mường Lát gắn với “hoa về trong đêm hơi”, Sài
Khao gắn với “mưa xa khơi” nghe đều rất lãng mạn, nên thơ thì Mường Hịch lại
gắn với “cọp trêu người”, với “thác gầm thét”, với sự dữ dội, hiểm nguy hay
chính là hiện thực chiến tranh khốc liệt. Dù đối diện với những thanh âm dữ dội
của núi rừng Tây Bắc, với tiếng gầm thét của thác nước hòa cùng tiếng thét gầm
của vị chúa sơn lâm chốn rừng xanh sâu thẳm, nhưng những người lính Tây Tiến
vẫn không hề chùn bước. Phải chăng với khát vọng và niềm tin về một tương lai
tất thắng, tiếng bước chân hành quân của binh đoàn Tây Tiến có lẽ đã lấn át hoàn
toàn được tiếng hiểm nguy nơi núi rừng Tây Bắc oai linh, hùng vĩ?

          Và không chỉ tình đồng đội đồng chí mà Quang Dũng còn khắc hoạ cả tình
quân dân Việt Bắc tựa như một món quà, một điểm tựa tinh thần cho mỗi bước
chân hành quân của người lính Tây Tiến xuyên suốt quá trình chiến đấu khốc liệt
trên mảnh đất Tây Bắc thân thương:
                                “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
                                  Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Với âm hưởng “ôi”, “oi” nhẹ nhàng, êm ái hai câu thơ trên đã gọi về trong tâm trí
người lính binh đoàn Tây Tiến cảnh sắc những bản làng thân thuộc chìm trong
sương khói, trong mùi lúa chín thơm trên bàn tay những cô gái xứ lạ. Ở đây
Quang Dũng còn sáng tạo một cụm từ rất lạ “mùa em”. Nếu đất trời có xuân hạ
thu đông, có bốn mùa bất biến trong dòng luân chuyển vô thường của thời gian
thì trong thơ Quang Dũng lại có “mùa em” ấm áp tình người. “Mùa em” phải
chăng chính là mùa lúa chín, mùa tràn đầy sức sống, sắc xuân của không chỉ con
người mà bao trùm lên cả thiên nhiên, cảnh vật miền Tây Bắc, ấm áp tình quân
dân? Câu thơ đã gợi nhắc tận sâu trong trái tim những người lính vốn là thanh
niên trí thức Hà Thành biết bao nỗi nhớ, niềm thương nay đã kết thành mùi vị của
“cơm lên khói”, thành hương “thơm nếp xôi” hay nói cách khác chúng chính là
những gì đặc trưng nhất của núi rừng Tây Bắc, của tình nghĩa quân dân cao cả
thấm đẫm yêu thương. Cùng khắc họa tình quân dân này, Chế Lan Viên đã từng
viết:
                                “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
                                  Vắt cơm nuôi quân em giấu giữa rừng
                                  Đất Tây Bắc tháng ngày không có dịch
                                  Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.”
                                                                      (“Tiếng hát con tàu”)

          Tiếp bước dòng hoài niệm về tình nghĩa quân dân miền Tây Bắc, Quang
Dũng đã khắc hoạ huyền ảo, lung linh, nhưng cũng chân thực, rõ nét kỷ niệm ấm
áp đêm liên hoan văn nghệ của những chàng lính trẻ với con người, với dân tộc,
bản làng nơi đây:
                                “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
                                  Kìa em xiêm áo tự bao giờ
                                  Khèn lên man điệu nàng e ấp
                                  Nhạc lên Viên Chăn xây hồn thơ”
“Doanh trại” vốn là nơi đóng quân của binh đoàn Tây Tiến, là nơi gợi cho người
ta một không khí trầm mặc, uy nghiêm và mang chút vẻ khô khan, cứng nhắc.
Tuy nhiên “doanh trại” trong thơ Quang Dũng lại là “doanh trại bừng lên hội
đuốc hoa”. Từ “bừng” vừa là ánh sáng của bó đuốc, vừa là niềm vui, niềm hân
hoan của những người lính Hà Thành trước sự hấp dẫn của màu sắc phương xa,
xứ lạ miền Tây Bắc. Ngoài ra, từ “bừng” cũng gợi ra cảm giác ấm áp, niềm vui
lan tỏa, khiến đêm đen núi rừng heo hút bỗng trở nên lung linh ánh lửa đêm hội.
Để miêu tả thi vị hơn, tinh tế hơn buổi liên hoan đêm hội giữa những tán lá, rừng
cây nhuốm ánh trăng bạc miền Tây Bắc, nhà thơ đã sử dụng từ “đuốc hoa” gợi sự
lộng lẫy và niềm reo vui hạnh phúc. Ánh sáng ngọn đuốc vốn đã là hình ảnh quen
thuộc với cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp vì trong bài thơ “Việt Bắc”,
nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng viết:
                                “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”
Và giữa khung cảnh đêm hội lãng mạn lung linh sắc màu và rộn rã thanh âm bỗng
thốt lên tiếng reo vui ngỡ ngàng của người lính Tây Tiến “kìa em”. Có lẽ trong
khoảnh khắc ánh mắt anh lính bắt gặp những gam màu rực rỡ trên “xiêm áo”
người con gái vùng cao e thẹn, yêu kiều, anh đã không thể kìm được niềm thán
phục và sự say mê của mình mà thốt lên lời reo vui, tiếng lòng hân hoan “Kìa em
xiêm áo tự bao giờ”. Dường như nhân vật “em” đã trở thành điểm sáng của bức
tranh với vẻ đẹp phương xa, xứ lạ. Bởi đối với một chàng lính trẻ vốn quen với tà
áo dài thướt tha, tinh tươm của những thiếu nữ thủ đô Hà Nội thì màu sắc rực rỡ
trên “xiêm áo” người thiếu nữ Mường, Thái hay những cô gái Lào xinh đẹp há
chẳng phải là sức lôi cuốn mãnh liệt nhất đối với một chàng trai mới tuổi đôi
mươi hay sao? Và trên nền âm thanh réo rắt của tiếng “khèn lên”, của “man điệu”
đặc trưng cho văn hoá dân tộc thiểu số nơi đây, từng chuyển động dịu dàng, e ấp
nhất của dáng người thiếu nữ vùng cao kiều diễm hiện lên trước mắt chàng lính
trẻ Hà Thành. Để rồi dù chỉ trong một quãng ngắn nhưng những người lính binh
đoàn Tây Tiến khi ấy đã thực sự được nghỉ ngơi, thực sự được thả tâm hồn mình
theo tiếng nhạc, hoà mình vào từng bước chân, điệu múa của người dân bản xứ
nơi đây. Và trong khoảnh khắc dư âm tàn khốc của chiến tranh bị đẩy lùi thì đó
cũng là lúc câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” bảy chữ nhưng chứa đến
sáu thanh bằng ngân dài xao xuyến niềm hy vọng, niềm lạc quan luôn phập phồng
cháy trong tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Tây Tiến. Cảnh vật,
con người trong đêm hội ngày ấy hiện về tựa những thước phim quay chậm, có lẽ
vì vậy mà khi đọc bốn dòng thơ này của Quang Dũng, người đọc như đã sống lại
được những men say trong phút giây ngắn ngủi được bình yên giữa lòng chiến
trường khắc nghiệt.

          Giữa thước phim hoài niệm, hiện lên bên cạnh ánh sáng rực rỡ, lung linh
sắc màu, rộn ràng thanh âm của đêm hội liên hoan là khung cảnh sông nước đầy
chất thơ:
                                “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
                                  Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
                                  Có nhớ dáng người trên độc mộc
                                  Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Chiều sương ấy” trước hết là một khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng
dường như lại vẫn có thể khắc sâu thành nỗi nhớ niềm thương trong tâm trí nhà
thơ. Buổi chiều ấy có thể là khoảnh khắc khi đoàn quân chia tay bản làng Tây
Bắc, hay cũng có thể chỉ là một buổi chiều bình dị từ quá khứ vọng về, huyền ảo
mà lung linh. Và ở đây với hình ảnh“sương”, Quang Dũng không chỉ muốn khắc
hoạ chân thực nhất nét đặc trưng nơi núi rừng Tây Bắc mà còn muốn từ không
gian sương khói ấy để mà gợi lên trong lòng người man mác một nỗi buồn “chơi
vơi” - đây chính là cảm hứng lãng mạn trong tâm hồn của kẻ dứt áo ra đi, bỏ lại
phía sau một biển trời thương nhớ. Thật vậy, chữ “ấy” đi liền phía sau buổi chiều
giăng mờ sương khói đã nhấn mạnh được sức nặng của chiều sương ấy, để rồi nó
đã trở thành một kỷ niệm bâng khuâng khó phai trong tâm hồn thơ mộng, tài hoa
của người thi sĩ trẻ Quang Dũng. Và giữa tâm trạng nhớ nhung chất chồng nhung
nhớ ấy, tác giả đã sử dụng điệp từ “có” và điệp cấu trúc “có thấy”, “có nhớ” khiến
hai câu thơ kế tiếp bỗng trở nên dồn dập, vội vã. Có lẽ cũng là bởi lòng người
đang trào dâng nỗi nhớ thì vội vàng gặng hỏi cũng là lẽ hiển nhiên. Không chỉ
vậy, cách cảm nhận về hoa lau của Quang Dũng cũng rất khác người. Ông không
sử dụng cây lau hay hoa lau mà lại sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá “hồn
lau” khiến cho cảnh bến bờ mênh mang bỗng trở nên thơ mộng, trữ tình hơn. Nếu
cụm từ “có thấy”, “có nhớ” mở ra những tầng bậc cảm xúc thì “hồn lau” lại là nét
chấm phá tinh tế thể hiện xác đáng sự tài hoa, tinh tế của hồn thơ Quang Dũng.
Cây lau vốn đã là biểu tượng lãng mạn về tâm hồn người lính:
                                “Ngàn lau cười trăm nắng
                                  Hồn của mùa thu về
                                  Hồn của mùa thu đi
                                  Ngàn lau xao xác trắng”
                                                  (“Lau mùa thu” - Chế Lan Viên)
Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người cũng thấp thoáng trở về trong hồi ức
của Quang Dũng “trên độc mộc” - chiếc thuyền được làm bằng thân gỗ lớn mang
bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng. Cách hiểu đầu tiên là dáng hình
kiêu dũng của những người lính chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền
vượt sông siết, vượt thác dữ tiến về phía trước. Còn cách hiểu thứ hai chính là
dáng người mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, cô gái Mèo đang chèo
thuyền đưa các chiến sĩ vượt sông. Và dù hiểu theo cách hiểu nào đi chăng nữa
thì bóng dáng con người trên thuyền độc mộc mang vẻ đẹp vừa kiêu hùng vừa tài
hoa kia cũng đã khắc sâu trong tâm tư, tâm tưởng nhà thơ. Để rồi kết lại trong trái
tim ông là một chi tiết nhân hóa vô cùng đắt giá “hoa đong đưa”. Tương phản
hoàn toàn với sự dữ dội của thiên nhiên, của “dòng nước lũ” từ những trận mưa
bạc trắng rừng, cánh hoa hiện lên với cử chỉ rất đỗi nhẹ nhàng “đong đưa”. Đây
chính là ý thơ tả thực khung cảnh thiên nhiên sau những trận “mưa xa khơi” mà
cụ thể ở đây chính là cánh hoa dứt cành để rồi hòa mình cùng giọt mưa đầu nguồn
mà sà xuống “dòng nước lũ”. Mặc có là đang “trôi” cùng dòng nước xiết nhưng
hoa rừng vẫn tựa như là đang muốn “đong đưa”, muốn làm duyên trên lòng sông
cuồn cuộn chảy trôi. Đặt trong hoàn cảnh, trong mạch trữ tình lãng mạn của bài
thơ chi tiết này còn được hiểu như là cử chỉ đôi mắt người con gái dân tộc nơi núi
rừng Việt Bắc. Phải chăng chỉ với một ánh mắt tình tứ, chỉ với một cái nhìn
“đong đưa”, lúng liếc của “dáng người trên độc mộc” mà đã có thể thâu tóm và
khắc sâu được trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên, con người Tây Bắc vào trái tim chàng
lính trẻ Quang Dũng này?

          Nếu như ở những khổ thơ trước tâm tình và trái tim vị đại đội trưởng binh
đoàn Tây Tiến một lòng hướng về bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây
Bắc của Tổ quốc thì đến với hai khổ thơ cuối này, nhà thơ đã dựng lên những nét
vẽ đầu tiên trên bức chân dung kỳ lạ của những người lính Tây Tiến. Trước hết
người lính Hà Thành xuất hiện với một vẻ đẹp đậm chất bi tráng mà nhà thơ Vũ
Quân Phương đã một lần từng nhận xét “một đoàn quân ốm mà không yếu”:
                                “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
                                  Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, hình tượng người lính
hiện lên trong thơ ca thường đi liền với những thiếu thốn vật chất vô cùng gian
nan, khổ cực, chẳng hạn như hình ảnh người lính trong “Đồng chí” đã được
Chính Hữu khắc họa với đường nét:
                                “Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá
                                  Miệng cười buốt giá chân không giày”
 Hay hình ảnh những anh lính gặp nhau từ thuở không biết chữ, quen nhau trong
buổi tập quân sự đầu tiên:
                                “Lột sắt đường tàu rèn thêm đao kiếm
                                  Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”
                                                                   (“Nhớ” - Hồng Nguyên)
Tuy đều thiếu thốn về mặt vật chất nhưng bù lại là sự giàu có, đủ đầy về mặt tinh
thần, về ý chí quyết tâm chiến đấu và niềm tin vững vàng về một tương lai tất
thắng phía trước. Và bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng vậy. Đối lập với
vẻ bề ngoài  chính là tinh thần bất khuất “dữ oai hùm” ẩn sâu bên trong trái tim
những người lính binh đoàn Tây Tiến. Nhà thơ đã sử dụng đảo ngữ “Tây Tiến”
lên đầu dòng thơ như một tiếng hô ra trận vang vọng sự tự hào, vang dội niềm
kiêu hãnh của một vị đại đội trưởng một thời đã từng “quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh” trên mảnh đất Tây Bắc oai linh, hùng vĩ mà thơ mộng, trữ tình này. Và đi
theo tiếng hô vị đại đội trưởng của mình là “đoàn binh” Tây Tiến. Cụm từ “đoàn
binh” ở đây chính là dụng ý nghệ thuật của tác giả, bởi nó gợi ra trước mắt người
đọc sự đông đảo, nườm nượp của quân đoàn Tây Tiến để rồi những bước chân
tràn ngập sức trai, tràn ngập ý chí và sự lạc quan của họ dường như có thể làm
xáo động được cả một miền Tây Bắc hùng vĩ, bao la. Hơn thế nữa, thay vì nói
rằng những người lính Tây Tiến bị rụng tóc, bị xanh xao sau mỗi trận sốt rét rừng
khốc liệt, tác giả đã khéo léo sử dụng hai cụm từ “không mọc tóc” và “xanh màu
lá” như để tô đậm sự bướng bỉnh, ngang tàn và phong thái chủ động, sẵn sàng
trong mỗi người lính trẻ Hà Thành. Và đi cùng với đó là tư thế “dữ oai hùm” - tức
tư thế oai phong, lẫm liệt của vị chúa sơn lâm có thể thích ứng và chế ngự được
hoàn cảnh khắc nghiệt và dữ dội nơi núi rừng Tây Bắc. Trước sóng biển Trường
Sa, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã từng viết những câu thơ về hình ảnh người
lính “trọc đầu”:
                                “Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
                                  Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
                                  Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
                                  Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau”
                                                                    (“Lính đảo hát tình ca”)
Và để có thể chịu đựng mà vượt qua được những khó khăn, gian khổ trên bước
đường hành quân của mình thì tâm hồn những người lính kháng chiến phải mang
vẻ lãng mạn cùng kỳ vọng lý tưởng bởi hiện thực chiến tranh đau thương và tình
yêu lãng mạn luôn là những hình ảnh bổ sung, nâng đỡ cho nhau. Lấy ví dụ cho
điều này ta không thể không nhắc đến một ý thơ mà Nguyễn Đình Thi từng viết
trong bài “Đất nước”:
                                “Những đêm dài hành quân nung nấu
                                  Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Có lẽ vì vậy mà nối tiếp những nét vẽ thấu tình đạt lý về ngoại hình trên bức chân
dung chàng lính trẻ Hà Thành,  Quang Dũng đã vẽ ra từng đường nét, từng dáng
hình vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ của họ trong hai câu thơ kế tiếp:
                                “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
                                  Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Từ “trừng” là một động từ mạnh thể hiện rõ nét nhất nội lực, dũng khí và ý chí
quyết tâm chiến đấu của người lính Tây Tiến. Dù có đối diện với bao nhiêu gian
nan, khổ cực thì người lính vẫn luôn “mắt trừng” nhìn thẳng vào kẻ thù - đây
chính là đôi mắt của nội tâm sục sôi tình yêu Tổ quốc và niềm căm phẫn với
những kẻ dám xâm lăng, mạo phạm chủ quyền dải đất hình chữ S bé nhỏ mà kiên
cường này. Và cũng chính đôi mắt ấy đã “gửi mộng qua biên giới” - đó là giấc
mộng lập chiến công, giấc mộng của chiến thắng, của hòa bình và trên hết đôi
mắt ấy cũng chính là đôi mắt đã ngày ngày, đêm đêm thao thức nhớ về Hà Nội
hiện về thấp thoáng trong bóng dáng người thiếu nữ Hà Thành. Trước đây khi đọc
đến cụm từ “dáng kiều thơm” đã có rất nhiều ý kiến phê phán câu thơ này nhưng
những ý kiến đánh giá của tầng lớp tiểu tư sản đã không còn giá trị nữa khi thời
gian trả câu thơ này về vẻ đẹp đích thực của nó - đó chính là tâm hồn lãng mạn
của những chàng lính trẻ binh đoàn Tây Tiến. Thật vậy, đoàn quân Tây Tiến đã
gác bút để cầm súng bước ra mặt trận chiến đấu không chỉ bằng đạn dược, vũ khí
mà còn bằng cả lý tưởng cách mạng cao đẹp, bằng cả những mộng mơ giản dị,
đời thường nhất về Hà Nội, về mối tình thiên thu mặn nồng tràn trề sức trẻ. Có lẽ
tình yêu cá nhân và tình yêu đất nước vốn dĩ vẫn luôn hòa quyện vào nhau, cùng
nhau nâng đỡ, chở che cho tinh thần người lính kháng chiến chống Pháp vượt qua
mọi khó khăn, nguy hiểm để giành được độc lập cho Tổ quốc. Nỗi nhớ nhà của
người đi lính đã không ít lần đi vào thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp:
                                “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
                                  Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
                                                                (“Đồng chí” - Chính Hữu)
hay như trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên:
                                “Ít nhiều người vợ trẻ
                                  Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
Dù có khác nhau về cách thể hiện nỗi nhớ nhưng nỗi nhớ nhà, nhớ những gì thân
thương nhất với mình vẫn sẽ mãi mãi là động lực để người lính vượt qua những
khó khăn, gian khổ này và hoàn thành nhiệm vụ của mình.

          Và nếu chỉ có cảm hứng lãng mạn thì bức tranh tâm hồn chàng lính trẻ Hà
Thành sẽ không bao giờ có thể trọn vẹn, viên mãn được. Về điều này, có lẽ nhà
thơ Quang Dũng đã sớm ý thức rõ hơn ai hết và để rồi bốn câu thơ tiếp theo lần
lượt hiện lên trước mắt người đọc cuồn cuộn cảm hứng bi tráng, hào hùng âm
hưởng sử thi mà vẫn khéo léo ẩn sau sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến
trên chiến trường khắc nghiệt:
                                “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
                                  Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
                                  Áo bào thay chiếu anh về đất
                                  Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Chặng đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến vốn dĩ đã luôn là một miền biên
cương xa xôi, hẻo lánh và cũng chính tại nơi rừng hoang núi thẳm này, những
người chiến sĩ Tây Tiến đã anh dũng ngã xuống, dâng linh hồn mình về lại đất
mẹ, về lại quê hương Tổ quốc Việt Nam. Có lẽ vì thế mà hình ảnh những nấm mồ
của họ trải dài trên suốt con đường hành quân, “rải rác” dọc theo đường biên giới
Việt - Lào càng trở nên cô đọng và chân thực hơn nữa. Tuy nói về cái chết nhưng
thơ Quang Dũng tuyệt nhiên không hề bị lụy mà ngược lại còn khắc sâu trong
tâm trí độc giả một cái nhìn bi tráng, mạnh mẽ. Người xưa từng nói:
                                “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
Nghĩa là xưa nay đi chiến trận có mấy ai có thể trở về. Trên trận mạc khắc nghiệt,
gian khổ người thấu hiểu được lẽ này không ai khác chính là những người lính
Tây Tiến. Thật vậy, với cách sử dụng hai từ Hán Việt “biên cương” và “viễn xứ”,
một khung cảnh bi tráng, một bầu không khí thiêng liêng, trang trọng bỗng ngập
tràn trong niềm hoài niệm người đại đội trưởng. Để rồi sống giữa bức tranh ấy là
hình ảnh những người lính tay lăm lăm súng trường đạn dược, chân nối chân,
hàng nối hàng tiến về phía trước với đôi “mắt trừng” nhìn thẳng vào cái chết, vào
kẻ địch. Dường như chất Hán Việt đã đậm tô vẻ đẹp động cơ anh hùng binh đoàn
Tây Tiến để rồi trong âm hưởng sử thi hào hùng, bức chân dung ấy gợi nhớ cho
người đọc chúng ta hình ảnh những người anh hùng trong quá khứ, trong văn
chương xưa cũ mang dáng dấp quen thuộc của bút pháp lãng mạn trong thơ cổ:
                                “Hồn sĩ tử gió ù ù thổi
                                  Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo.”
Hơn thế nữa, Quang Dũng nói đến cái chết là còn để ngợi ca lẽ sống cao đẹp của
người chiến sĩ Tây Tiến. Họ đã đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, đã dám
đứng lên thề một lòng “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Tư thế ngang tàn, ý chí
quyết tâm sục sôi sức mạnh, gân guốc sức trai ấy đã được thể hiện rõ nét qua bốn
chữ “chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” ở đây chính là tuổi trẻ, tuổi đôi mươi - lứa
tuổi bấp bênh, dấu mốc trọng đại một đi không trở lại của một đời người ấy vậy
mà lại dám “chẳng tiếc”, dám gác bút mà cầm súng ra mặt trận biển lửa, đây há
chẳng phải là lý tưởng sống, phong thái sống cao đẹp nhất hay sao? Ngoài ra đây
cũng còn chính là lý tưởng chung của cả một giai đoạn lịch sử thời bấy giờ, vậy
nên âm hưởng hào hùng ấy đã hơn một lần vang lên khẳng khái, hào sảng trong
những bài thơ, bài văn biết bao cây bút thời chiến mà tiêu biểu là bài thơ “Khúc
Bảy” của Thanh Thảo:
                                “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
                                  Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc
                                  Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Nối tiếp âm hưởng hào hùng, lãng mạn, mang chất trượng phu của thời đại,
Quang Dũng đã vẽ ra hiện thực đau buồn hay chính là sự mất mát, hy sinh không
thể tránh khỏi trên mọi mặt trận kháng chiến gian nan, khắc nghiệt: “Áo bào thay
chiếu anh về đất”. Hình ảnh “áo bào” chính là cách nói khác cho trang phục chiến
bào của những tướng lĩnh thời xưa. Thực tế những người lính Tây Tiến - những
chàng thư sinh trên mảnh đất Hà Thành đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ vì
thế nên khó ai có thể có được những bộ áo quần lộng lẫy, đẹp đẽ. Khi chôn cất
các anh, những người đồng đội, đồng chí đã trân trọng, nâng niu bộ quần áo bình
thường, giản dị bằng cách gọi chúng bằng cái tên hoa mĩ “áo bào”. Phải chăng đó
là những chiếc áo đo được quãng đời trai trẻ, đo được những nhọc nhằn, vất vả,
đo được sức mạnh của người lính khi ra trận như trong những câu thơ xưa từng
viết:
                                “Chiếc áo họ mặc chưa một lần thay
                                  Trải lên trời rộng làm mây la đà
                                  Trải vào mặt đất cây mọc thành hoa
                                  Trải trên mặt giấy bài ca ra đời.”
                                                           (“Áo trận” - Nguyễn Đức Mậu)
Và để sự hy sinh trở nên đẹp hơn, nhẹ nhàng, thanh thản hơn, tác giả đã sử dụng
từ “về đất”. Họ ra đi là về với đất mẹ, là trường tồn mãi mãi với non sông, với
gấm vóc và với cả trái tim hàng triệu con người Việt Nam. Họ đã hoàn thành
được trọn vẹn nhiệm vụ của mình và giờ đây họ đã hóa thân vào đất nước, mang
dáng hình quê hương xứ sở, mang vẻ đẹp bất tử của một đất nước Việt Nam anh
hùng. Và như để khóc thương trước cái chết chàng lính trẻ đã anh dũng hy sinh vì
một nền độc lập, tự do cho Tổ quốc, câu thơ “sông Mã gầm lên khúc độc hành”
hiện lên vang dội âm hưởng bi hùng của khúc “chiêu hồn tử sĩ”. Tiếng “gầm” của
dòng sông thân thuộc miền Tây Bắc nghe tựa tiếng nhạc bi ai, vừa dữ dội, vừa oai
hùng nhưng cũng vừa trầm lắng, vừa tha thiết tiễn đưa linh hồn người lính vào cõi
bất tử. Khúc độc hành của sông Mã này phải chăng cũng chính là tiếng lòng của
những người đồng đội, đồng chí đã một thời cùng họ “vai kề vai, súng kề súng”
xông pha trên chiến trường mưa bom bão đạn. Nhưng cái chết của họ không hề
làm những người ở lại nhụt chí hay nhún nhường mà thậm chí còn “gầm” lên
phong thái, tư thế “dữ oai hùm” đầy quả cảm, đầy quyết tâm của những tâm hồn
chiến sĩ Tây Tiến.

          Nối tiếp dòng hoài niệm chất chồng bao niềm thương nhớ của nhà thơ đối
với người đồng đội, đồng chí, đối với cả những người ra đi lẫn những người đã
khuất, khổ cuối bài thơ ngân lên giai điệu tha thiết sâu lắng mà bổi hổi bồi hồi.
Bốn câu thơ kết thúc được viết lên trang giấy bên bờ sông Đáy mà tựa như những
dòng chữ khắc ghi lên tấm bia mộ người chiến sĩ vô danh bên dòng sông Mã thuở
nào:
                                “Tây Tiến người đi không hẹn ước
                                  Đường lên thăm thẳm một chia phôi
                                  Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
                                  Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Hai chữ “Tây Tiến” mở đầu khổ thơ gắn liền với hình ảnh “người đi” và “đường
lên” nhưng đi liền sau đó lại là những tính từ, động từ “không hẹn ước”, “thăm
thẳm”, “chia phôi”. Phải chăng vì mang trên mình sứ mệnh bảo vệ non sông gấm
vóc mà những “người đi” với lẽ sống lớn, với tình yêu quê hương cao cả bất diệt
ấy đã không ngại “đường lên thăm thẳm”, không ngại những cơn sốt rét rừng
hiểm ác, không ngại thiên nhiên khắc nghiệt, thú dữ cầm chân mà tiến đều bước
về phía trước, mặc cho một tương lai “không hẹn ước”, mặc cho một ngày “chia
phôi” mấy ai nào có thể tránh được? Tên gọi miền đất thân thương “Tây Tiến” lại
xuất hiện một lần nữa, nhưng lần này đã có thời gian cụ thể: “mùa xuân ấy” - mùa
xuân của “Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí Minh), của sự ra
đời binh đoàn Tây Tiến, của những bước hành quân đầu tiên của những chàng trai
Hà Thành. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “Nhất khứ bất phục hoàn”. Đó
cũng là lời thề, là tiếng lòng quyết tâm của cả một thế hệ “Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh” thời bấy giờ. Bên cạnh đó, “mùa xuân ấy” còn là mùa của tuổi trẻ,
của sức trẻ sục sôi mà những người lính Hà Nội đã mang theo suốt cuộc hành
quân gian nan, khó nhọc. Có lẽ “mùa xuân ấy” của các anh hiện lên đẹp nhất,
lung linh và sáng tỏ nhất là khi chúng được hòa cùng “mùa xuân” của đất nước, là
khi chúng đâm hoa kết trái trên chiến trường, trên mặt trận máu lửa bốn bề gian
truân. Để rồi khi “ai” - đại từ phiếm chỉ thay thế cho toàn bộ binh đoàn Tây Tiến
ngã xuống trên mảnh đất Sầm Nứa thân thương này, quê hương sẽ ôm ấp dáng
hình anh, đất mẹ sẽ đưa tiễn linh hồn anh về trời xanh, về những trang thơ bất tử,
trường tồn mãi với thời gian và trên hết là về nơi con tim hàng triệu đồng bào
Việt Nam đã, đang và sẽ mãi mãi hướng về anh.

          Bình về “Tây Tiến” Đinh Minh Hằng từng nhận xét: “ … Con người Tây
Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban
đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng
chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng… Tất cả đều gợi ấn
tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”. Thật vậy, viết về bài
thơ này tuy vị đại đội trưởng Quang Dũng đã gác bút từ rất lâu nhưng đường nét,
ý thơ của ông sẽ mãi còn đó, âm hưởng hào hùng, lãng mạn này sẽ mãi vang vọng
trong tâm hồn người đọc và dòng hoài niệm kia dù có biết bao nhiêu thế hệ mai
sau đi chăng nữa cũng sẽ không khỏi bồi hồi, da diết biết ơn những công lao to
lớn, cao đẹp của đoàn binh Tây Tiến - những thanh niên Hà Thành một thời
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thời dâng hiến mồ hôi, nước mắt và cả
dòng máu của mình để tưới cho hoa rừng Tây Bắc được bung nở trên dải đất Việt
Nam kiêu hùng, tự do, độc lập ngày hôm nay.

Đề: Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng.

Bài làm:

B.Shelly đã từng nhận định rằng: “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để
làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Và nhà thơ Quang Dũng cũng là một chú chim sơn ca ấy. Ngồi trong bóng tối,
ông nhớ về những chặng đường hành quân băng qua vùng núi Tây Bắc hiểm trở, vất vả, nhớ những người đồng đội
thân yêu cùng với mình trải qua biết bao trận mạc vào sinh ra tử trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm nào đầy
gian khổ, khó khăn, để rồi từ nỗi nhớ ấy cùng với phong cách thơ đặc sắc của một nghệ sĩ đa tài khi ông luôn nhìn
nhận mọi sự vật hiện tượng thông qua lăng kính lãng mạn, Quang Dũng đã viết thành công một kiệt tác văn chương
mang tên “Tây Tiến”. Bài thơ đã dựng lên một bức tượng đài bất tử nói về người lính cách mạng xuất thân từ tầng
lớp trí thức nơi Hà thành viết huyết tâm thư bỏ nhà đi lính, ra đi không hẹn ngày trở lại, họ vừa gan dạ, dũng cảm
nhưng cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa, mang trong mình một lí tưởng cao cả của các anh bộ đội cụ Hồ: “Quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh” mang ba vẻ đẹp ốm mà không yếu, chết mà không hết, bi nhưng không bi quan bi lụy mà còn trở
nên bi hùng, bi tráng. Và điều đó được thể hiện rất rõ qua toàn bộ bài thơ “ Tây Tiến”:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

……………………………...
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông - Tây Tiến. Có lẽ do
nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, với nhiệm vụ
phối hợp với Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam.
Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến năm 1984, Tây Tiến giải thể, thành lập Trung đoàn
52, Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về đơn vị
cũ của mình, ông sáng tác thành công bài thơ với cái tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời gian sau, khi in lại
trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ,
một nỗi nhớ da diết, cồn cào, chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ để gợi lên cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, đó là nỗi
nhớ.

Bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đổi thơ mộng, trữ tình của
một thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh sông Mã. Và ta cũng thấy rằng, sông Mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và
gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện một điều rằng
sông Mã gắn liền với suốt đoạn đường hành quân của người lính Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn
khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm để trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ
thù và những chiến công vẻ vang của người lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một
tuyết bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí
tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ tứ
thơ”. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỉ” để nhà thơ có
thể giãi bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào
trong tâm trí Quang Dũng, khiến cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh như một dãi lụa, vương vấn trong lòng người đọc mãi
không nguôi. Nỗi nhớ ấy đâu chỉ riêng về dòng sông Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà
thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ, nỗi nhớ ấy cũng đồng thời là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” dã khắc họa nên cái
hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bân khuân, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đã xa, về những khoảng thời
gian, những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi những điều ấy sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. “Chơi vơi” là trạng
thái trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là một mình
giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối, không có thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da
diết, miên man, bâng khuâng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi”
đó là tiếng gọi tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ hư
thực, nỗi nhớ không nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể
của nỗi nhớ - nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thể giới mênh mông của những hoài
niệm. Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là
những nơi họ từng đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, những địa danh ấy đã in đậm dấu chân
của đoàn binh Tây Tiến. Càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo
cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.

Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân gian nan, vất vả. Tuy thời tiết sương mù lạnh lẽo,
khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi
đây chắc chắn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân Tây Tiến đang ngày
đêm vượt núi, băng sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ “lấp” làm ta như có cảm giác chính sương đã
khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống trong mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh
thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở nên kiên
cường, bất khuất hơn. Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên
vùng Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, Chế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

Nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân, vất vả ấy vẫn có nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”,
đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính. Nhưng ta cũng có
thể hiểu “hoa” ở đây chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác Hồ đã từng nói: “Con người ta là hoa đất, con
người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chờn,
lung linh, huyền ảo mà người lính cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái
hay của nhà thơ là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ ngữ đã
chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

Ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên nhiên miền Tây Bắc.
Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng
cũng rất thư mộng, huyền ảo:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng người trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


Tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với hàng loạt những từ láy tượng
hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của núi rừng,
những chặng đường hành quân luôn có sự nguy hiểm đang rình rập. “Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, nhiều gấp
khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo
khi không sử dụng từ “chót vót”, bởi như thế thì người đọc có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng
“thăm thẳm” thì khó ai có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một cảm giác chân thật như thế
thì điểm nhìn của anh phải ở từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu thăm
thăm, mà để có được cái nhìn như vậy thì buộc các anh phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn núi, con
dốc đầy nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc hình dung các anh đang phải treo mình
trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì đã
tận 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác chênh vênh, gập ghềnh, vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc
của người lính khi vượt qua đèo dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ Quang Dũng, làm ta liên tưởng đến
tiếng nhạc trong bài hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có bóng
người. Quang Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay “đụng” thì ý câu thơ
sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm
lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới. Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi,
mũi súng của các anh dường như đã chạm đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa
súng và trời, đó là hiên thực những qua cách nói này làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng
thời đây cũng là những giây phút đùa vui, tếu táo, có nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau. Quang Dũng sử
dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cách đột ngột
tạo thành hai vế đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay
lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất
như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, những người lính vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy,
phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt vỡ òa vui sướng trước cảnh thôn quê êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Trong làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển
khơi của mưa và sướng đọng lại. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc nét
những cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người vùng cao,
các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng
bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về mái ấm nhà vui


Tiếng hát câu cười

Rộn ràng xóm nhỏ

Các anh về tưng bừng trước ngõ

Lớp đàn em hớn hở theo sau

Mẹ già bị rịn áo nâu

Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”

Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. Và vui hơn nữa khi
các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.

Bốn câu thơ này được phối hợp với nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét gân guốc thì câu thơ thứ tư
lại được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội họa của Quang Dũng lại được mọi
người yêu mến đến vậy. Bởi quy luật sử dụng những gam màu trong hội họa là giữa những gam màu nóng phải pha
chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đây nhà thơ cũng sự dụng đúng như vậy trong thơ ca của
mình từ các thanh bằng – trắc. Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt
trầm thấp, bởi vậy nói như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là một nhận xét
thật tinh tế.

Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc nhưng ta vẫn thấy ở các anh
có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực của thiên nhiên như
bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh
của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

“Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã đề cập đến đề tại
nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh, đó là viết về cái chết, viết về sự hi sinh. Chúng ta biết rằng,
văn chương muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù là viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng
không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà “Tây Tiến” được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy
như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh bạn” cất lên như một tiếng nấc ngẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn
vào từ lấy “dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác giả không viết “bị gục
xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết, coi nó
chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng dù có ra đi, các anh
vẫn không quên mình vẫn là một ngươi lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy
xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng
đứng Việt Nam”:

“Và anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm của Quang Dũng, của đoàn quân
Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng chiến. Họ đã hi sinh trên chặng đường hành quân, đã có những người
lính nằm xuống, rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có người ra
đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên
đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể.
Cách nói giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hi sinh thầm lặng của những người lính Tây Tiến.
Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình
khi miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa,
thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm cảm “!” cuối câu như một nén nhang tâm tình gửi lại.

Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử
thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là
để thử thách bước chân của người lính :

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”


Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy
hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với
những khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng nước
độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó
hăn như tăng thêm bội phần. “Mường Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng
cọp vờn người, cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người lính thì
bóng hổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ bền
gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.

Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này, chúng ta vẫn chưa
từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được
gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ,
nỗi nhớ ấy phả vào bảng làng Tây Bắc thân yêu:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá những gian khổ, kỉ niệm gắn bó
với các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi
Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại ở một bản
làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho
các anh, cùng các anh quay quần ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung
cảnh đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt
vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào Mai
Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Quang Dũng đã dùng từ “mùa
em”thể hiện sự gần gủi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các anh bộ đội cụ Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm
nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước. Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế
Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng
bào Tây Bắc thân yêu.

Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong những năm
tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh
và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của
Giang Nam:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy, con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”


Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước cho một thế giới hoàn
toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng
cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp
huyền hồ của thiên nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc
hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến.
Trên con đường hành quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình của người
dân. Đối với Quang Dũng cũng như những người lính, không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân
dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những kỉ niệm khó có thể quên:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian ở bốn câu thơ không
còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ đây được thu hẹp lại thành “doanh trại” – một không gian bình
yên, được coi là mái nhà của người lính. Ở đây, những người lính không phải gồng mình lên để chiến thắng những
khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng
bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng”
cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã có cách ví von đầy nghệ
thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của
các đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chằng mai xưa” (Truyện Kiều).
Nhưng thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường trong những đêm giao lưu văn nghệ của người
lính Tây Tiến, khi có gió thôi qua làm cho những bó đuốc ấy phát ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn
của tác giả thì lại trở thành đuốc hoa, khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời
thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết
sức yêu đời, tinh nghịch, phong độ và tài hoa của người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là những bộ trang phục đẹp
của người con gái miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh nghịch của người lính khi các
anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ cùng nhay vui đùa, nhảy múa xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, những chiếc
khèn bè đã được dùng làm nhạc đệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múa
lăm vông, hát đối, giao duyên, trong các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình đêm khuya của những
chàng trai cô gái Lào khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên
ắng. Khi tiếng khèn cất lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát,
hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã không khỏi say sưa và quyện vào tiếng
nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính sơ khai mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác giả
sự dụng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Trong
những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có cả âm nhạc, có những điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đây
là không khí say mê ngây ngất. Điều đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ
“nàng”. Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên với một không
khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm áo rực
rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng khuâng trong lòng những người lính trẻ.
Địa danh Viên Chăn không phải là địa danh của Việt Nam, mà đó là thủ đôi của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt
trong địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn
Lào. “Nhạc về” tạo nên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi
đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn
trên con đường hành quân phía trước.

Ở đoạn thơ này, tác giả đã làm xuất hiện một thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên giờ đây không còn khốc liệt,
dữ dội nữa mà nó hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ
mạnh mẽ, khỏe khắn thì vẫn có những đường nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh thiên
nhiên và con người miền Tây hiện lên rất rõ.

So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ
trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đưa người đọc đến với hình ảnh
của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương. Một không gian bẳng làng khói sương như trong cõi
mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiên lên theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dôi, khốc liệt được đẩy lùi thay
vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

“Người đi” chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh
của một “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương lúc này không phải là
sương lấp, sương che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình thường mở ảo, nó gợi màu sắc bảng làng, khói
sương và có chút man mác buồn. Địa danh duy nhất trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc thiên
nhiên rất đẹp, nơi đây có nuí sông diệu lệ, có lung lũng lúa chín vàng, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở
ra ở đó là một không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như một miền cổ tích, chính
vì vậy mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho
từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên
tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm
điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nốt nhấn. Nữ thi sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”,
nay Quang Dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những cây lau giăng khắp
mọi nẻo bến bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong văn chương Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô
giác, bởi đó là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng khuếch tán vào
cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ Chế Lan Viên:

“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với

Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình

Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi

Suốt một đời với gió giao tranh”

Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy, có nhớ” mở
ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như một
bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi
trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến
láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ cây gỗ lớn
dài, dáng người trên chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo
đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang
chèo chống con thuyền vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng Quang Dũng
một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai nói rằng đất Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin
hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Câu thơ cuối được tác giả dùng từ rất tinh tế, ông đã
dùng từ láy hoa “đong đưa” chứ không phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở
đây vô tri vô giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô khăn, còn “hoa đong đưa” thì lại có hồn người, thể hiện
sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên
mặt nước sóng sánh, chòng chềnh. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến còn người, cánh hoa ấy như bàn tay vẫy
chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm đà màu
sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn thủy hữu
tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất
miền Tây trong tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến
trước cái đẹp.

Tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất
nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng
nét vẽ của tác giả đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang
Dũng trong bài tổng thể bài thơ.

Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh người lính Tây Tiến với
những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ ba. Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân
mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến gian khổ, hi sinh và địa bàn hoạt động thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên
với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi với lý tưởng sống cao
đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người lính Tây Tiến, mang vẻ đẹp ở
đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả một tập thể của mình, những con người anh
hùng được tác giả gọi bằng cái tên khá thú vị - “Đoàn binh không mọc tóc”, cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ
Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân ấy” nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định
một lực lượng đông đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái
tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất
lính dí dỏm hài hước.

Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những
vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, có những con suối khiến họ rửa chân
rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc đầu trở
thành những anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc
đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập đến một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì
kháng chiến chống Pháp, căn bệnh khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh nguy hiểm đã
hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca kháng chiến đã
từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hiểm của căn bệnh này, không
chỉ người lính trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu cũng có nhắc đến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không mọc tóc” được ông
sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo ngễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lính
nhưng có nét hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn của tác giả chuyển từ thế bị động
sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc
đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng hề yếu.

Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này
ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước” của nhà thơ Tố Hữu:

“Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế”

Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh ác liệt này. Thế
nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng, màu xanh ấy không còn là màu của làn da đang bị
ốm nữa mà nó trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh lũy tre làng.
Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất sáng tạo, tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho câu thơ khiến người
đọc cảm nhận được sức mạnh tinh thần, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh
người lính Tây Tiến trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ mọi gian khổ, khó khăn
để tiến về phía trước, họ mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ
thứ hai tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khăn gian
khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên một âm
hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt
nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét: “Quân xanh màu lá, màu áo hay màu da?
Chắc cả hai! Chỗ này tả lính rất khéo, nói được lính ôm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng
lưu lại là dữ oai hùm”. Mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc
đáo, có một không hai tròn cuộc đời cũng như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên
đường chinh chiến”.

Dưới ngòi bú lãng mạn của Quang Dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủ động, ngạo
nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là để thích nghi với hoàn cảnh chiến đấu. Vũ Quần Phương có nhận xét:
Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm mà không hề yếu. Đầu không mọc tóc không phải là hình ảnh gây cười hay
nói chính xác hơn là cười mà xót xa, không cầm được nước mắt, bởi răng tóc là gốc con người, ai cũng muốn
chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ biệt Hà Thành ra đi chiến đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng
hào. Vậy mà giờ đây họ chấp nhận hi sinh mái tóc, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân
vĩnh viễn của Tổ quốc.

Khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn. Nếu
hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của tác giả để tạo nên bức tượng đài với ngoại hình ốm
mà không yếu, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói về vẻ đẹp tâm hồn của họ. Và tâm hồn chính là sức mạnh nội
tâm, là khí phách của những người lính Tây Tiến. Dù cuộc sống có vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ
bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây Tiến đồng thời xảy ra. Đó là
“mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. Hai câu thơ nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của người lính Tây Tiến.
Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt
trừng đã gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to nhắm thẳng về phía quân thù mà bắn với chí khí thề
sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Ban
ngày các anh gửi ánh mắt trừng đầy căm thù tới kẻ địch. Hình ảnh “mắt trừng” là ánh mắt mở to, đầy dữ dằn
hướng về phía trước, ánh lên sự quyết tâm, khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua
biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình . Một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong lẫm
liệt, kiêu hùng của đoàn binh như trong bài thơ “Bài ca chim Chơrao” của Thu Bồn từng viết:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ


Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.

Nhiều người cho rằng : “ dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều trên phố Hàng Bông, nơi mà ông
hay lui đến để đàm đạo văn chương. Hay có người cho rằng đó là những người lính đang nhớ về những thiếu nữ Hà
Thành, nhớ người yêu của mình với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư
thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất vả, chứ không phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ
cao cả, nhớ để mà thối chí nản lòng. Vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng man”như thế này đã khiến cho tác
giả của nó và chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực
ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên một nét tương
phản hết sức đặc sắc. Những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời
sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà
còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực
vừa lãng mạn. Tại sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi
những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân của họ. Vấn
đề là nỗi nhớ ấy có ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ hay không? Hay họ vẫn hiên ngang chấp
tay súng tiêu diệt kẻ thù.  Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều là học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà
trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang mang theo khi ra chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là một
thế giới tâm hồn đầy mộng mơ. Nỗi nhớ ấy cũng được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong bài “Đất nước”:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ ấy, ta phải truy theo
nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như Quang Dũng, dù có nhớ dáng hình yêu kiều của người con gái đi chăng
nữa thì tất cả những người lính đều nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nôi với những con đường nồng nàn hoa sữa:

“Từ thuở mang gươm đi mở cõi

Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”

Điều đó cho ta thấy, các anh bộ đội cụ Hồ không chỉ biết cầm súng bảo vệ Tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng
mạn. Ban đêm họ buông bỏ một vài gánh nặng để nhớ về Hà Nội, nhớ những con phố, góc nhỏ thân quen, nhớ
về hình bóng giai nhân của mảnh đất Hà Thành. Những giấc mộng tưởng như đơn giản nhưng lại chính là động
lực để họ vững tin chiến đấu trong những tháng ngày gian khổ.

Hai câu thơ tiếp theo là ý chí của người lính, sáng ngời vẻ đẹp lí tưởng của thời đại: “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”


Quang Dũng không hề né tránh hiện thực, né tránh đau thương mất mát mà ông lại nhìn thẳng vào những bi
thương ấy để viết nên những vần thơ của mình. Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” nếu tách
riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về những nấm mồ nơi “viễn xứ”, nơi xa
xôi. Tác giả dùng phép đảo và đưa từ láy “rải rác” lên đầu câu để nhấn mạnh sự ít ỏi, thưa thớt, gợi sự hoang
lạnh của những nấm mồ người lính Tây Tiến.  Cả một đoàn quân đang đi trên đường dài thỉnh thoảng sẽ có một
người ở lại, họ ra đi không một tiếng khóc than, không một lời từ biệt. Những nấm mồ ấy nằm rải rác không một
nén hương, không một vòng hoa, cũng không có giọt nước mắt tiễn đưa của người thân. Thật sự quá cô đơn, côi
cút khi họ ngã xuống và lại yên nghỉ ở nơi nào đó trên con đường diệt giặc, ở đỉnh đèo, góc núi, dưới tầng sâu,
nơi đất lạnh đều có bóng dáng của họ. Câu thơ như đưa người đọc vào cõi tê tái, nghẹn lòng như trong bài thơ
“Chinh phụ ngâm” của “Đặng Trần Côn”:

“Hồn sĩ tử gió về ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”

Yếu tố bi tráng, hào hùng được nâng lên, yếu tố bi lụy đau thương được giảm bớt khi Quang Dũng sử dụng từ
Hán Việt “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” thì tăng tính trang trọng cho câu thơ, gợi không khí cổ kính, biến những
nấm mồ hoang lạnh nơi rừng sâu thành những ngôi mộ trang nghiêm nơi vĩnh hằng. Lúc bấy giờ, ít ai viết bạo
tay như Quang Dũng và đưa hình ảnh ảm đạm, thê lương, chết choc vào thơ ca nhưng nhà thơ đã làm và tạo
nên nét riêng của mình. Các anh bộ đội cụ Hồ chiến đấu trên mọi mặt trận, mọi địa bàn núi non hiểm trở, thậm
chí phải hi sinh tính mạng của mình. Thế nhưng đó lại là bản lĩnh của người lính Tây Tiến, họ thà bám riết vào
trận địa chứ quyết không đào ngũ bỏ về, lấy cái chết của mình làm tiền đề cho những người đồng đội nhắm
thẳng về phía quân thù mà bắn. Nếu như câu thơ trước tạo nên cái bi thì vần thơ sau lại vẽ lên nét tráng, câu
thơ nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ
còn lại nét ngang tàn, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. “Chiến trường” là nơi mưa bom bão đạn dữ dội,
khốc liệt và nguy nan, là nơi cái chết cận kề như một định mệnh. Bảo “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người
thanh niên trí thức Hà Nội mang cả quan niệm lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ!
Chẳng phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao? Nhưng cao hơn cả “mùa xuân” ấy, họ còn có tự do, quê hương, còn
người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó cũng là lí do tại sao người lính không tiếc đời xanh, họ chỉ tiếc
nếu như tuổi trẻ này không được cầm súng bảo vệ quê hương đất nước thì sẽ vô nghĩa biết nhường nào! Cụm
từ “chẳng tiếc” là một cách nói hết sức ngang tàn, khí phách của người lính, đây là thái độ tự nguyện, không
gượng ép mình, họ ra đi với tâm trạng thanh thản, và cũng khẳng định rằng đời xanh, tuổi xuân nhiều hy vọng,
hoa mộng sẽ không có ý nghĩa gì nếu không xông pha nơi trận mạc, góp mình bảo vệ quê hương Tổ quốc. Người
lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, là lí tường quên mình chói sáng “Chết vinh còn hơn sống nhục”, thà hi sinh
anh dũng chứ quyết không sống dưới tay kẻ thù. Người lính Tây Tiến mang dáng vẻ của người anh hùng “Kinh
Kha” sang mưu sát Tần Thủy Hoàng trong bài “Sông Dịch”, người chinh phu thời xưa một đi không trở lại:

“Gió thổi hiu hắt, nước sông Dịch lạnh,

Tráng sĩ một khi ra đi, sẽ không trở về nữa”

Hay lí tưởng của người đi trong bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:

“Li khách, li khách con đườn nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không”

Mãi sau này, nhà thơ Thanh Thảo cũng viết:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”

Vậy là người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính đượm màu hiệp sĩ
xa xưa. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến trang, miêu tả cái chết một cách không né tránh.
Đúng như những gì nhà thơ Trần Lê Văn nhận xét: “Tây Tiến phảng phất nét buồn đau, nhưng buồn đau mà
không hề bi lụy”. Quang Dũng thật tài tình khi nói về cái chết nhưng không bao giờ hét của người lính Tây Tiến ở
hai câu thơ trên

Và hai câu thơ sau, nhà thơ đã viết về vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua sự hi sinh cao đẹp của những người lính
Tây Tiến:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


Cách nói “Áo bào thay chiếu” có thể hiểu là chiếu không có, những có áo bào vì theo ý kiến của Quang Dũng: Tôi
muốn nói thêm cái phần gian khổ, thiếu thốn của miền Tây. Khi nằm xuống, người chiến sĩ không có manh chiếu
để liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách ước lệ đểan ủi đồng chí của mình đã
nằm xuống. Người lính Tây Tiến ra đi từ những năm 1946, 1947 của thời kì trước, những năm đầu của cuộc
kháng chiến, họ thiếu thốn đủ bề về cơ sơ vật chất. Vậy áo bào là điều không thể có, muốn hiểu hình ảnh này ta
đến với cách hiểu cua Trần Lê Văn: “ Không có áo bào, mà chỉ đơn giản là những tấm áo mỏng và người lính cởi
ra để bọc người đồng đội của mình trở về với đất mẹ”. Vẻ đẹp này ta bắt gặp trong thơ của Chế Lan Viên:

“Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”

“Áo bào” là một từ Hán Việt, thực ra đó là tấm áo choàng bên ngoài của các anh bộ đội nhưng qua cái nhìn của
tác giả, dù nó đã bạc, sờn hay rách vì bom đạn của kẻ thù nhưng nó vẫn trở thành chiếc áo bào sang trọng tiễn
đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Cách dùng từ “áo bào” làm cho câu thơ trở nên cổ kính hơn, trang trọng hơn
cho cái chết người lính. Gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc
thây”. Nhà thơ Hoàng Lộc trong bài thơ “Viếng Bạn” cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:

“Ở đây không manh ván

Chôn anh bằng tấm chăn

Của đồng bào Cứa Ngàn

Tặng tôi ngày sơ tán”

Hoặc “áo bào” này Trần Lê Văn khẳng định: “Đôi khi là những tấm chiếu mỏng, những tấm chăn mỏng của đồng
bào dân tộc miền cao. Họ tặng cho người lính, các anh sử dụng tấm chiếu này để đưa người đồng đội của mình
trở về với cát bụi”. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhóm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết. “Anh về
đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về
trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội và đây cũng là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt đau
thương. Quang Dũng muốn vĩnh viễn hóa sự hi sinh cao đẹp, với người lính thì chết không phải là hết mà là về
với đất mẹ, được đất mẹ ôm vào lòng để hóa thân mình cho dáng hình xứ sở, để còn mãi với núi sông này. Dù
hôm nay chưa có bảng vàng, bia đá để khắc tạc công ơn nhưng trong lòng người ở lại, các anh được tôn vinh
như những anh hùng dân tộc, được xứng đáng tiễn đưa trang trọng nhất. Quang Dũng nói về cái chết nhưng lại
bất tử hóa người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Các anh ra đi mãi mãi nhưng ra đi là
cho lẽ sống của mình còn sống mãi nên cái chết của các anh nhẹ nhàng như về đất. Trong bài “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nói:

“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Mở đầu bài thơ ta găp hình ảnh sông Mã gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến mọi gian khổ, chiến
công của ta, nhìn thấy tội ác của quân thù và giờ đây, cũng chính con sông Mã ấy lại chứng kiến sự hi sinh của
người lính. Nó như “gầm” lên khúc độc hành bi phẫn, đau thương làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ
đề cập đến đau thương nhưng vẫn hùng tráng. Sông Mã “gầm lên” đây là âm vang của sông núi, là điệu khèn
vĩnh quyết, là khúc ca bi tráng của thiên nhiên miền Tây và quê hương đất nước đang quặn lòng, nghiên mình
tiễn đưa các anh về nơi yên nghỉ cuối cùng.  Khi các anh ngã xuống về cõi vĩnh hằng, sông Mã như con chiến mã
trung thành gầm lên một tiếng kêu đầy đau đớn tiếc thương cho tướng sĩ của mình , đây chính là biểu hiện cao
độ của nỗi đau. Và sông Mã oai hùng qua biện pháp nhân hóa đã trở thành một sinh thể biết đau đớn, như thay
cho cả dân tộc kịp tấu lên những âm thanh bi tráng để tiễn đưa những anh hùng dân tộc. Tiếng gầm ấy là khúc
tráng ca - khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về điểm dừng chân
cuối cùng, nó đã nâng cao cái chết của người lính lên tầm sử thi hoành tráng, cái chết của người trai thời loạn
đầy hào sảng. Không hề có tiếng khóc, không có những giọt nước mắt tang thương, chỉ có núi sông, đất mẹ
chứng kiến cái chết của các anh. Người lính ra đi nhưng hình ảnh của các anh sẽ không bao giờ phai nhòa trong
tâm trí mọi người. Hình ảnh người lính và những kỉ niệm vẫn đậm mãi trong lòng Quang Dũng nói riêng và trong
mỗi chúng ta nói chung. Trong bài “Bài thơ ấy”, Giang Nam có viết:

“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa


Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
Từ sự lết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dưng lên một bức tượng
đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình
yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước mình, mang ba vẻ đẹp ốm mà không yếu,
chết nhưng không hết, bi nhưng không bi quan bi lụy mà còn bi hùng bi tráng. Nói như Vũ Thu Hương: “…Tây
Tiến – bức tượng đài bất tử về người lính vô danh…”.

Đoạn thơ cuối thể hiện tình cảm của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, tình đồng chí đồng đội trong những năm
kháng chiến gian khổ, đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Bốn câu thơ này được xem là mộ chí của người lính Tây
Tiến, là lời thề gắn bó sâu sắc, ý chí còn đến muôn đời sau của các anh bộ đội cụ Hồ:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm vị chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắt đá, có chí lớn, không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước quyết lập
được chiến công như những người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:

“Li khách! Li khách con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong”

Hay giống như trong thơ ca của Nguyễn Đình Thi:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại


Sau lưng thềm nắng là rơi đầy”

Từ láy “thăm thẳm” ý chỉ các anh bộ đội càng đi thì càng không có cơ hội trở về. Bởi lẽ, họ ra đi trong những
ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và đây là lúc thế giặc thì mạnh còn quân ta thì yếu. Đó là hoàn cảnh
lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải hi sinh xương máu mới mong có ngày độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của
người lính cụ Hồ, làm nổi bật phảm chất yêu quê hương, yêu đất nước của họ. “Ai” là đại từ phiếm chỉ chỉ đoàn
binh Tây Tiến ra đi trong mùa xuân năm ấy, mùa xuân khi “tiếng kèn vang dậy khắp non sông”, đoàn binh Tây
Tiến xuất quân lên đường với hành trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. “Mùa xuân” ấy ta có thể hiểu đó là thời
điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến, mùa xuân năm 1947. Hoặc đây chính là mùa xuân của tuổi trẻ, của các chiến
sĩ đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Câu thơ cuối với sự kết hợp linh hoạt từ
các thanh bằng như một bài hát đầy cảm xúc. “Sầm Nứa” là địa danh ở phía đông Thượng Lào, “chẳng về xuôi”
nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân. Chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với
quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên dù ngã xuống trên đường hành
quân, nhưng hương hồn vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng của “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”:

“Sống cũng đánh giặc, thác cũng đánh giặc”

Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng của núi
rừng Tây Bắc. Đặc biệt là cảnh sông nước mênh mang, mờ sương khói của Tây Bắc càng làm cho bức tranh thiên
nhiên ở đây hiện lên đầy ấn tượng và trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của những người lính Tây Tiến. Hình tượng
của những người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa mang tinh thần bi tráng. Những chặng đường
hành quân dài qua núi non gập ghềnh, trắc trở và những trận chiến hùng tráng, sự hi sinh mất mát cũng không
làm hình ảnh của các anh mờ nhòe đi mà chỉ là những nét bút tô đậm hơn vẻ kì vĩ của những bức tượng đài ấy
mà thôi. Qua bài thơ, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang
Dũng. Với những sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng cùng bút pháp tạo hình đa dạng đã dựng nên bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những đường nét khỏe khoắn,
mạnh mẽ. Sử dụng ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ, bút pháp lãng mạn
kết hợp với tinh thần bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng.
Những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính chống Pháp nói chung đã để lại cho thế hệ trẻ hôm
nay một bài học, một sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò và sứ mệnh của bản thân trong thời đại mới. Ngày hôm
nay, khi chúng ta ở trong thời bình, những tiếng súng, những hình ảnh hành quân, những khó khăn gian khổ của
người lính chỉ còn ở trong những trang sách, vần thơ mà thôi. Nhưng mà đó là thời đại có thật, thời oanh liệt
của cha ông chúng ta cho nên ta phải trân trọng nó và từ đó trân trọng cuộc sống của mình hôm nay, để có ý
thức phát triển bản thân, giữ gìn và phát huy lòng yêu nước của mình, có nhiều cống hiến cho quê hương, đất
nước Việt Nam thêm phát triển bền vững và ngày càng lớn mạnh, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu
như những lời mà Bác đã dặn.

Nhà thơ Vân Long đã khẳng định rằng: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một các hồn nhiên, ông cứ sống tự
nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ Tây Tiến hội tụ được cả cái bi, cái trang của
thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn
nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”. Đọc Tây tiến, cái ta cảm nhận được không chỉ là vẻ đẹp hào
hùng, hòa hoa, sự hy sinh bi tráng của người lính Tây Tiến mà vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền
Tây. Tất cả hiện lên thật rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương chưa khi nào nguôi dứt. Có
thể nói, với Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến
chống Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang mới, nhiều người thuộc
đoàn quân Tây Tiến năm xưa giờ đây đã trở thành thiên cổ, trong đó có cả nhà thơ Quang Dũng hào hoa. Cả bài
thơ mang âm hưởng cuả thời đại, là tình đồng chí, đồng đội, là tình yêu quê hương đất nước tha thiết của
những con người:
“Ôi Tổ quốc ta, yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi! Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
PHÂN TÍCH TÂY TIẾN – Nguyễn Huyền

“ Ngày tử thần gõ cửa nhà anh


Anh sẽ có món chi làm tặng vật
Trước vị khách đến thăm tôi sẽ đặt
Cái li tràn đầy cuộc sống của tôi dâng ” – Tagore
Một tác phẩm nghệ thuật sinh ra đều mang trong mình sứ mệnh cao cả nhất,
đó là phản ánh hiện thực cuộc sống, hướng độc giả tới những giá trị chân- thiện –
mĩ. Nhưng đó không phải chỉ là sự sao chép khô khan, trần trụi, cứng nhắc của
thế giới hiện thực, mà qua lăng kính chủ quan của mỗi người nghệ sĩ, tác phẩm
hiện lên như một bức tranh pha trộn đầy đủ sắc màu. Nếu ví nghệ thuật như một
vườn hoa rộng lớn, thì chính thơ ca lại là một bông hoa rực rỡ vươn mình lên
khoe sắc cho cuộc đời. Thơ ca Việt Nam qua mỗi thời kì lại mang một dấu ấn,
một vẻ đẹp riêng không thể trộn lẫn. Nhắc đến thơ ca kháng chiến, ta không thể
nào quên đi hình ảnh của một thi sĩ “ Xứ Đoài mây trắng” – Quang Dũng, tài hoa,
tinh tế với một “ Tây Tiến” tuôn trào trong nỗi nhớ. Dẫu cuộc chiến tranh có
khốc liệt, có mất mát, hi sinh, nhưng dưới cái nhìn lạc quan của một người chiến
sĩ làm thơ, tác phẩm như một đóa hoa thơm ngát tỏa hương giữa mảnh đất cuộc
đời. “ Tây Tiến ” được xem là một kiệt tác, một nét chấm phá đặc sắc trong mảnh
vườn địa đàng của thơ ca kháng chiến Việt Nam, đọng mãi dư âm trong lòng độc
giả.
“Thơ ca không phải là thứ rượu quỳnh tương nấu lâu, cất kĩ, rót ra chén
ngọc rồng mà như nước nuối thiên nhiên chảy ra trong mát nơi khe suối ”. Quang
Dũng đã dựng lầu thơ của mình trên đất trần gian, cạnh bên những khói lửa, tang
thương, những khó khăn khốc liệt của cuộc đời. Là một người nghệ sĩ đa tài, giàu
xúc cảm, thơ ông viết ra mang trong mình một “ hơi thở ” mới mẻ, là ngọn gió
mát lành thổi qua thi đàn văn học Việt Nam. Nếu ta đã quen với hình ảnh của
những người chiến sĩ chân chất, thật thà, lam lũ trong thơ của Chính Hữu :
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tựa phương trời chẳng hẹn quen nhau ”
Những anh bộ đội Cụ Hồ xuất thân là nông dân chất phác, cần cù. Hay nụ cười
hiên ngang, vượt lên nghịch cảnh, những chàng trai kiên gan, dũng cảm trong “
Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Họ hiện lên qua trang thơ là
những con người coi thường bom đạn, dẫu cái chết có cận kề trước mặt, vẫn hiên
ngang, bất khuất, anh hùng…. Có thể nói, đề tài về người lính là mảnh đất màu
mỡ, mà mỗi nhà thơ chính là người nông dân cần cù, lượm nhặt những hạt giống
quý giá, gieo vào “luống cày” của mình, rồi từ đó, nở ra những bó hoa thơ tuyệt
đẹp. Cũng là một nhà thơ, một ngòi bút tài hoa trong phiên chợ văn chương ồn
ào, náo nhiệt, Quang Dũng đã tài tình dẫn dắt hồn người đọc đến với những vùng
trời cảm xúc rất riêng. Bởi lẽ những người chiến sĩ trong bức họa muôn màu của
tác giả mang một màu sắc rất mới, một vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn, tràn ra khỏi bờ
cõi của hiện thực khốc liệt, của chiến tranh. Đó là một hồn thơ phóng khoáng, tha
thiết, dạt dào. “ Thơ Quang Dũng nằm giữa biên giới của thật và mơ, như khói
mây mờ mờ ảo ảo, như tiếng vọng từ chân trời nào xa vắng ”. Bài thơ Tây Tiến
mang đậm những nét hào hùng, lãng mạn, là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong
cách thơ Quang Dũng, cả trang thơ như chảy trôi trong miền nhớ, miền thương
tha thiết vô bờ. Tác phẩm được viết ở Phù Lưu Chanh năm 1948, in trong tập “
Mây đầu ô ”, khởi nguồn từ niềm nhớ thương da diết về đồng đội, về mảnh đất
miền Tây sâu nặng, nghĩa tình.
Thơ tiếng Hán có nghĩa là thi, theo nhà phê bình văn học Dương Thụ Đạt, “ thi là
cái gốc và cái mầm mọc ở trái tim ”. Có lẽ chính nơi mảnh đất tâm hồn, nỗi nhớ
đã khắc khoải, đã cuộn trào vô bờ vô bến, nên tác giả mới có thể viết nên những
vẫn thơ mang cả lòng người, mang cả những suy tư, nhớ mong dạt dào, thiết tha
đến thế ! Dẫu chỉ gắn bó với trung đoàn Tây Tiến trong một quãng thời gian
ngắn ngủi, thế nhưng đối với Quang Dũng, nó như một mảnh kí ức quý giá,
không thể xóa nhòa. Bài thơ lúc đầu được đặt tên là “ Nhớ Tây Tiến”, sau đó
được đổi thành “Tây Tiến”, bởi lẽ nỗi nhớ đã nhuốm màu cả bài thơ, như dải lụa
đào phủ lên bức tranh tuyệt mĩ, không có ngôn từ nào bao quát và diễn tả được
hết nỗi lòng của thi sĩ. “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn
cao cả, đa cảm”, đọc tác phẩm, ta như được thả hồn mình trôi về mảnh đất miền
Tây bao la, nơi có núi rừng mênh mông, hùng vĩ, và còn có cả những người lính,
những bức tượng đài bất tử, can trường.
Bài thơ gồm bốn phần, hòa hợp, đặc sắc, như những gam màu độc đáo tạo
nên bức tranh lấp lánh ánh sáng – thứ ánh sáng diệu kì của nghệ thuật. Mở đầu
bài thơ là nỗi nhớ chơi vơi trên cái nền cảnh thiên nhiên Tây Bắc. Thơ ca trước
hết phải bắt rễ từ cuộc đời nhưng cuộc đời trong thơ phải được chạm khắc theo
một cách riêng, thơ ca phải được gọt giũa, là kết tinh của tất cả xúc cảm dạt dào,
là thế giới nghệ thuật được viết nên từ cảm nhận chủ quan của người cầm bút.
Tây Tiến rung động lòng người bởi những câu thơ dạt dào xúc cảm, với những
hình ảnh độc đáo, lãng mạn, trong mười bốn câu thơ đầu – những câu thơ như con
sóng mạnh mẽ đang ập tới, rồi từ đó đưa ta đến với biển khơi xa xăm, chơi vơi
trong cõi nhớ.
Chỉ bằng một vài hình ảnh, không dài dòng, Quang Dũng đã tinh tế vẽ nên
một Tây Tiến vô cùng chân thực hiện ra trước mắt độc giả.Trong kí ức nhà thơ,
cả vùng trời, cả thiên nhiên chốn ấy như còn nóng hổi, tươi nguyên, cái nặng
nhọc, vất vả còn chưa tan hẳn, còn rành rành trong tâm trí :
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đê hơi

Nhớ ôi tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”
Hai câu thơ đầu là khúc dạo nhẹ nhàng của nỗi nhớ nhung, gọi về những hoài
niệm của một thời xa vắng :
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”
Bằng tiếng gọi thân thương, gần gũi, Tây Tiến hiện lên trước mắt người đọc qua
hình ảnh dòng sông Mã chảy trôi giữa mảnh đất núi rừng hoang sơ, hùng vĩ. Đó
là con sông chảy dọc biên giới Việt Lào, dòng sông như một chứng nhân lịch sử
chứng kiến hết những gian lao, khó nhọc, những kỉ niệm thân thương, và thậm
chí còn là những đớn đau, mất mát. Trong kí ức nhà thơ, tất cả đều vẹn nguyên
nhưng thực tế, thời gian lạnh lùng đã đẩy nó vào trong miền kí ức, tất cả đã “ xa
rồi”. Chỉ với một câu thơ, ta như thấy được cả cảnh và người, dòng sông Mã thân
thương chảy nơi chốn núi rừng xa xăm, và cả binh đoàn Tây Tiến một thời anh
dũng, kiên cường. Câu thơ cùng với vần “ơi” như được ngân dài ra, tha thiết,
nghe sao nghẹn ngào đến thế ! “ Khi tình cảm chọn cho mình một hình thức để
bộc lộ ra ngoài, khi đó ta có thơ ”. Có lẽ vì thế mà từ “ ơi ” như đọng lại tất cả nỗi
nhớ, tất cả những xúc cảm mênh mang, dạt dào. Người chiến sĩ ấy đã dốc cạn
lòng mình, dốc hết thương yêu gửi vào từng câu chữ, một nỗi nhớ như được trải
dài : “ Tây Tiến ơi ! ”
Nếu như câu đầu tiên, ta đắm mình trong dòng sông Mã thân thương, với
tiếng gọi thiết tha thì đến câu thơ thứ hai, nỗi nhớ ấy như đã vang vọng, lan tỏa
khắp cả bức tranh thiên nhiên miền Tây sơn cước:
“ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”
Thơ là nghệ thuật sử dụng ngôn từ, mỗi câu chữ đều mang thiên chức cao cả của
nó, Quang Dũng đã vô cùng tinh tế khi sử dụng tới sáu thanh bằng, khiến câu thơ
nhẹ tựa lông hồng, bay cao, bay xa trong khoảng trời hoài niệm. Từ láy “ chơi vơi
” cùng điệp từ “ nhớ ” khiến cảm xúc bây giờ không chỉ còn dồn nén, bộc bạch,
tâm tình, nó đã bay cao, lan tỏa trong cả không gian bao la của rừng núi xa xăm,
nỗi nhớ chơi vơi khiến lòng người quay cuồng, xúc động, nghẹn ngào. Xuân Diệu
cũng đã từng dùng nó để miêu tả nỗi nhớ trong tình yêu :
“ Sương nương treo trăng ngừng lưng trời
Tương tư lòng lên chơi vơi ”
Còn đối với Quang Dũng, tác giả đã ý nhị sử dụng nó để nói một cảm xúc cao cả
hơn, vượt lên cả những xúc cảm cá nhân, đó là nhớ về thiên nhiên, nhớ về con
người, nhớ về một thời dĩ vãng, đã xa nhưng chẳng thể nào phai nhòa trong tâm
trí. Quả thật để tạo nên sức sống cho thơ, người nghệ sĩ phải tỉ mỉ, tinh tế trong
từng câu từ :
“ Phải tốn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hang triệu năm dài ”
Dẫu cát bụi thời gian có tàn khốc chảy trôi không ngừng, “ Tây Tiến ” vẫn giống
một viên pha lê rực rỡ, lấp lánh ánh sáng giữa sa mạc cuộc đời. Cách sử dụng từ
ngữ vô cùng khéo léo, tinh tế nhưng cũng không kém phần sáng tạo, độc đáo. Khi
ý thơ đã hết nhưng trong sâu thẳm vẫn còn động lại nỗi nhớ mênh mang, đó chính
là thành công của người cầm bút, các vần “ ơi, chơi, vơi ” đã tạo ra một sự lan tỏa
rộng khắp, khiến cảm xúc trở nên dạt dào và da diết hơn.
Bức tranh thiên nhiên mới đầu hé mở bằng địa danh sông Mã và núi rừng
Tây Bắc, đó là những đặc trưng của mảnh đất này, là thứ mà tác giả nhớ đến đầu
tiên khi gọi về những hoài niệm. Hai câu thơ đầu như một nốt nhạc da diết, du
dương, khiến độc giả cũng đắm chìm trong miền nhớ cùng thi sĩ. Nó đã thể hiện
vô cùng rõ nét cảm hứng chủ đạo của bài thơ, là nỗi nhớ vô hạn vô hồi, thiết tha
của người lính Tây Tiến hướng về miền Tây, về trung đoàn với những xúc cảm
dạt dào, và với những vẻ đẹp hào hùng, bi tráng, không thể nào quên.
“ Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Mười hai câu thơ tiếp
theo chính là tình cảm, những hồi ức của Quang Dũng khi nhớ tới những chặng
đường hành quân gian khó, đầy ắp kỉ niệm. Một bức tranh thiên nhiên miền Tây
không hào nhoáng, rực rỡ mà gian nan tận cùng, ở đó là sự heo hút, hiểm trở
nhưng qua ngòi bút tài hoa, lãng mạn của tác giả, miền Tây sơn cước hiện ra độc
đáo, với rất nhiều kì thú:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi ”
Thật độc đáo khi Quang Dũng đã lựa chọn hình ảnh màn sương giăng kín cả vùng
trời để vẽ nên bức tranh phong cảnh hoang sơ và bí hiểm. Màn sương ấy không
nhẹ nhàng như “ Sang thu ” của Hữu Thỉnh :
“ Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Cũng không “ bàng bạc” như trong thơ Chế Lan Viên : “ Nhớ bản sương giăng
nhớ đèo mây phủ ”. Sương trong thơ của Quang Dũng là sương “ lấp”, sương bao
trùm cả núi rừng, cả cỏ cây, cả vạn vật, và ở đó hình ảnh con người như bị che lấp
đi, hiện lên vẻ mệt mỏi , cô đơn. Tinh tế và khéo léo trong cả cách lựa chọn từ
ngữ, chỉ có như thế chúng ta mới có thể cảm nhận được những vất vả, gian lao
của người lính, họ mệt mỏi trong cái lạnh giá của núi rừng. Từ “ lấp ” giống như
một điểm nhấn cho toàn bộ câu thơ, khắc họa rõ nét những khó khăn trên chặng
đường hành quân vất vả, tái hiện một cách chân thực nhất “những sự thực ở đời ”
- đó cũng chính là khả năng tuyệt vời của thơ ca. Giữa màn sương lấp đầy các lối,
ta bắt gặp hình ảnh những con người nhỏ bé, như ẩn hiện trong bức tranh thiên
nhiên. Đó là một “ đoàn quân mỏi ”, nhưng tuyệt nhiên ở đó không có sự bỏ
cuộc, không có sự thở than cho số phận của mình. Họ vẫn sáng ngời niềm tin,
những niềm tin mãnh liệt, kiên cường.
Câu thơ trên là bức tranh hiện thực gian khổ, khó khăn thì ở câu thơ tiếp
theo, Quang Dũng đã dùng ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình để viết nên một
hình ảnh thơ vô cùng đặc biệt:
“ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“ Một câu thơ hay là một câu thơ có nhiều sức gợi ”. Hoa về ở đây phải chăng là
những ngọn đuốc soi sáng chặng đường hành quân gian nan, khốn khó của những
người chiến sĩ, họ lấp lánh trong đêm đen tĩnh mịch? Hay là những hương hoa
thơm ngào ngạt mùi của núi rừng, kí gửi chút thương yêu gửi vào trong gió?
Hoặc cũng có thể là nụ cười của những cô gái miền Tây xinh đẹp, dịu dàng?...
Dẫu hiểu theo nghĩa nào thì hình ảnh “ hoa về trong đêm hơi” cũng gợi nên biết
bao suy ngẫm, bao vẻ đẹp ngọt ngào, lãng mạn, như điểm sáng trong bức tranh
khói lửa mịt mờ. Có mấy ai trong hiện thực khốc liệt vẫn có thể viết nên những
vần thơ nhẹ nhàng, lãng mạn đến thế? Một người chiến sĩ làm thơ, nhưng thơ ông
không gân guốc, mà phảng phất dư vị của những nét đẹp nhẹ nhàng, tinh tế, đó là
một hồn thơ vượt lên cả trên những khó khăn, gian khổ bằng tài năng của mình.
Người chiến sĩ cụ Hồ đứng giữa màn sương lấp hết lối đi, cái lạnh lẽo của không
gian núi rừng mênh mông, rợn ngợp, nhưng họ không bỏ cuộc, vẫn dùng cả lòng
mình để tận hưởng, để tìm thấy những vẻ đẹp tuyệt vời nhất.
Tây Tiến in dấu trong tâm hồn bạn đọc không chỉ với những ý thơ, câu chữ,
mà còn là tính nhạc hào hùng, bi tráng. Tái hiện lại cảnh núi rừng, thiên nhiên
hiểm trở qua ba câu thơ nhưng không gợi lên chút sợ hãi, mà càng làm bừng lên ý
chí kiên gan của những người chiến sĩ Hà Nội can đảm, kiên cường :
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Thiên nhiên thật lắm khó khăn, những dãy núi cứ nối đuôi nhau, bất tận, trùng
điệp. Các thanh trắc được sử dụng như nhằm tạo ra cho người đọc một cảm giác
trắc trở, gập ghềnh, một địa thế gồ ghề, hiểm trở. Với cách sử dụng từ láy tinh tế :
“ khúc khuỷu” , “ thăm thẳm”, câu thơ ngắt nhịp 4/3 như bị bẻ gập tạo ra thế núi
hoang dã, những con dốc cứ liên tiếp nhau không dừng lại. Người lính phải vượt
qua tất cả, có mỏi mệt nhưng ý chí vẫn cao hơn núi non trập trùng, vẫn tràn ngập
niềm tin, hăng hái và không bao giờ bỏ cuộc. Cả thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
hiện lên thật khó khăn, như chực chờ quật ngã những anh Vệ quốc quân kiên
cường. Nhưng trái lại, những người chiến sĩ ấy lại đối mặt với thử thách bằng tâm
thế vững vàng nhất, quyết chí, bền gan. Ý chí anh cao hơn cả dốc, lòng tin anh
vượt lên cả màn sương, vì một lòng hướng về đất nước, về cách mạng chắc chắn
sẽ thành công.
Điểm vào những câu thơ khó nhọc là một hình ảnh vô cùng thú vị và độc
đáo :
“ Heo hút còn mây súng ngửi trời ”
Tác giả sử dụng từ “ cồn mây” chứ không phải áng mây hay chòm mây, sự mạnh
mẽ, sâu sắc thể hiện qua từng hình ảnh. Đó là từ chính xác nhất để miêu tả thiên
nhiên hùng vĩ, rộng lớn, dữ dội chốn núi rừng Tây Bắc. Những người lính họ tựa
như vĩ nhân, cưỡi trên cồn mây cao vút. Với từ láy “ heo hút ” được đảo lên đầu
câu, thiên nhiên như được bao trùm bởi hơi thở hoang sơ, bí hiểm. Đối với những
chiến sĩ - những chàng trai Hà Nội hoa lệ, khung cảnh ấy thật lạnh lẽo, cô đơn.
Con đường hành quân gian khó bởi dốc núi cheo leo, bởi màn sương lấp cả con
đường, bởi cái lạnh lẽo, hoang sơ, khó nhọc, nhưng lấp ló nơi chốn rừng thiêng
nước độc đó là hình ảnh “ súng ngửi trời ” vô cùng táo bạo, tinh nghịch . Một tư
thế hiên ngang, bất khuất như trong bài thơ “ Thuật Hoài ” của Phạm Ngũ Lão:
“ Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
Những chàng trai vững vàng ý chí, luôn giữ vững tư thế dũng mãnh, áp đảo quân
thù, những cây súng vươn mình chạm tới trời xanh. Họ nắm trong tay vận mệnh
của dân tộc, mang trong mình khí thế, quyết tâm giành lại độc lập cho Tổ quốc,
non sông. Và ta cũng đã từng bắt gặp một hình ảnh thú vị như thế trong thơ Chính
Hữu : “ đầu súng trăng treo ” hay “ Ánh sao đầu súng ” của Tố Hữu.Trên cồn mây
cao vút, những cây súng như chạm thấu trời xanh, nổi bật lên bản lĩnh người làm
chủ, vừa toát lên được sự lạc quan, trẻ trung, yêu đời của những người chiến sĩ.
Súng tượng trưng cho cuộc chiến tranh khốc liệt, trời là biểu tượng của hòa bình,
của ấm êm, như khát vọng vô bờ của những người lính về một ngày đất nước sẽ
được tự do, độc lập. Giữa cái khó khăn có cái lãng mạn, bay bổng, khiến câu thơ
không bi thương, bi lụy mà trở nên bi hùng, bi tráng.
Trở về với hiện thực gian khó, câu thơ tiếp theo lại là một nét vẽ vô cùng
sống động :
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống ”
Thơ ca là một bức họa nghệ thuật, Quang Dũng đã vô cùng thành công khi tái
hiện nên một vùng đất cheo leo, ghập ghềnh. “Ngàn thước” là một hình ảnh ước
lệ, một nửa câu đầu lên cao thấu trời xanh, nửa còn lại gập xuống vô cùng, câu
thơ như bị tách thành hai nửa, giống như thiên nhiên khúc khuỷu, chênh vênh.
Núi rừng miền Tây dữ dội là thế, khó khăn là thế, nhưng chẳng thể nào cản được
bước chân của những người chiến sĩ gan dạ, quyết tâm, những “ Thạch sanh của
thế kỉ hai mươi ”. Câu thơ đối xứng, bổ sung ý nghĩa cho nhau, tái hiện lên trong
tâm trí của những người thưởng thức về một khung cảnh đầy hiểm trở khó khăn,
qua đó làm bật lên ý chí bền gan của người lính Tây Tiến, không bao giờ bỏ cuộc,
không khuất phục dẫu hiện thực có gian khổ muôn trùng.
Giữa không gian của núi rừng, ngòi bút của Quang Dũng lại đưa người đọc
đến với những xúc cảm mênh mang, của một cơn mưa xa khơi nhuốm màu tâm
trạng :
“ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ”
Cả đất trời miền Tây như chìm vào trong màn mưa trắng xóa, đâu đó thấp thoáng
những ngôi nhà ấm cúng, gợi lên trong tâm hồn những người chiến sĩ nỗi nhớ quê
hương vô bờ, nhớ về Hà Nội hoa lệ, huyên náo, nhớ về mái nhà thân thương.
Nhưng họ tạm gác lại những xúc cảm , những nỗi niềm cá nhân của mình, để ra đi
vì sự nghiệp lớn lao hơn, là bảo vệ và giữ gìn đất nước. Những mái nhà đó gợi lên
bao suy ngẫm, là nơi ấm áp, là nơi sẵn sàng bao bọc, chở che những người chiến
sĩ sau những chặng hành quân mỏi mệt. Nhà ai nghe sao da diết quá, nghe sao
nghẹn ngào và bồi hồi, nhớ thương! Nhìn cả đất trời trong cơn mưa xa khơi ấy,
những người chiến sĩ Hà Nội mang trong mình những nỗi buồn man mác, về một
cuộc sống yên lành, tự do, nỗi nhớ như trải dài, thấm ướt cả trang thơ, câu chữ,
len lỏi vào tận sâu ngõ ngách tâm hồn của người thưởng thức.
Nhưng những cảm xúc ấy sẽ được cất giấu một góc trong trái tim, để họ -
những người chiến sĩ Tây Tiến tiếp tục chiến đấu, tiếp tục đấu tranh vì bình yên
cho dân tộc. Thiên nhiên đã điệp trùng dốc thẳm, phủ bởi lớp sương lạnh lẽo,
nhưng những sự vật, những thú dữ nơi đây còn ghê sợ hơn nhiều. Đó là hình ảnh
của thác nước đang gầm thét dữ dội, là chúa sơn lâm đang chực chờ nuốt chửng :
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người ”
Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, con thác như một sinh thể vô cùng dữ dội,
đang gào thét, đổ từ trên cao xuống. Hay hình ảnh cọp đang vồ vập, len lỏi từng
bước chân đe dọa những người lính bé nhỏ. Trạng từ “ chiều chiều” song hành
với “ đêm đêm ” như đang nhấn mạnh sự lặp lại của thời gian, nối tiếp nhau. Núi
rừng Tây Bắc như muốn cản trở bước chân người lính, nhưng làm sao hạ gục
được ý chí bất khuất ngút trời? Dẫu ngặt nghèo, khó khăn, nhưng những người
chiến sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, vui vẻ, cọp dữ dằn đến thế nhưng cũng chỉ là đang
“ trêu người ”. Sự độc đáo không chỉ thể hiện qua nội dung, mà nghệ thuật cũng
làm nên điểm nhấn.Ở câu thơ trên là những câu từ mang thanh trắc ở âm vực cao
như đang mô phỏng tiếng nước chảy nơi vòm cao thăm thẳm. Ở câu thơ dưới là là
những thanh trắc ở âm vực thấp, miêu tả bước chân nặng nề của thú dữ chốn núi
rừng. Quang Dũng tinh tế, tài hoa trong việc lựa chọn hình ảnh thơ, và ngay cả
trong các âm tiết cũng là sự chắt lọc vô cùng kĩ lưỡng.
Giữa bức tranh thiên nhiên, hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến hiện lên như
một đóa hoa điểm tô hương sắc, trở thành một điểm nhấn, một chi tiết độc đạo,
sáng ngời câu thơ :
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời ”
Nơi chốn thiên nhiên khó khăn hiểm trở, người lính đã phải chiến đấu, phải dùng
hết sức mình để bảo vệ Tổ quốc. Khó khăn, vất vả, gian truân, tất cả cô đọng lại
trong từ láy “ dãi dầu”, được sử dụng vô cùng tinh tế. Cũng bởi lẽ khó khăn cản
bước chân anh, nên trên chặng đường ấy, các anh đã mỏi mệt, đã “ không bước
nữa”. Cách nói ý nhị, khéo léo, người chiến sĩ đang dừng chân tạm nghỉ, hay đó
chính là sự chấm dứt của một kiếp người? Nhưng thơ Quang Dũng chưa bao giờ
mang lại cho ta cảm giác bi thương, bi lụy, câu trước miêu tả hiện thực, câu sau
lại nâng hồn ta chiêm nghiệm về những hình ảnh vô cùng độc đáo: “ Gục lên súng
mũ bỏ quên đời”. Dẫu anh có dừng chân, mỏi gối, có hi sinh trên chiến trường ác
liệt, nhưng trái tim anh vẫn luôn hướng về đất nước, ý chí anh vẫn một lòng quyết
tâm. Với khí phách hiên ngang, tư thế chủ đông “ không bước nữa ”, “ bỏ quên
đời” , câu thơ như không mang những nét tang thương của thời cuộc, mà thay vào
đó là sự ngang tàn, dứt khoát, đầy chủ động. Cho đến giây phút cuối cùng của
cuộc đời mình, những người chiến sĩ ấy vẫn chưa một lần bỏ cuộc, vẫn giữ vẹn
nguyên lời thể với non sông : “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh ”. Hình bóng anh
đã hóa mình thành dáng hình đất nước, phảng phất đâu đây tiếng gọi oai hùng,
tiếng bước chân hùng dũng của những người đã cống hiến hết sức mình cho Tổ
quốc, quê hương. Quang Dũng đã tinh tế, ý nhị khi sử dụng bút pháp lãng mạn để
nói về những nốt trầm của cuộc chiến, khiến nó không mang màu sắc tang
thương, mà bi tráng, hào hùng.
Song miền Tây đối với tâm trí Quang Dũng không chỉ là chốn núi rừng cheo
leo, mây mờ phủ kín, hay dốc thẳm đèo cao, đó còn là mảnh đất thân thương với
những vẻ đẹp bình dị, thân thương, ấm áp của bản làng với mùi nếp xôi thơm
lừng :
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”
Lại một tiếng gọi thiết tha tận đáy lòng đưa ta trở về với cõi nhớ mênh mang. Tây
Tiến hiện lên trước mắt độc giả là mùi thơm ngào ngạt của nếp xôi, ánh khói len
lỏi bên những mái nhà thân thương, ấm áp. Với Mai Châu, tác giả nhớ đến món
xôi nếp trứ danh, đặc biệt. Hai chữ “ mùa em ” nghe sao thân thương, da diết quá!
Đó là mùa của lúa chính, mùa của “ em ” – những cô gái Mai Châu xinh đẹp, dịu
dàng. Đâu đó ta cũng từng bắt gặp trong thơ của Chế Lan Viên :
“ Anh nắm tay em vào cuối mùa chiến dịch
Bát xôi nuôi quân em nấu giữa rừng ”
Nhớ về Tây Bắc, không chỉ có thiên nhiên, người chiến sĩ còn nhớ về những cô
gái thân thương, bồi hồi trong tâm trí, với vắt xôi thơm, ấm nóng tình người.
Những vất vả chốn núi rừng heo hút, mỏi mệt được xua tan hết đi bằng bát cơm
nóng, nếp xôi thơm lừng. Ở đó còn có tình người, những con người chân phương,
mộc mạc sẵn sang bao bọc, chở che cho những người chiến sĩ, san sẻ bớt những
chuỗi ngày khó khăn. Người chiến sĩ không cô đơn, không lạc lõng, bởi giữa núi
rừng mênh mang, còn có tình người, còn có những “ mùa em ” mộc mạc, chân
phương, tiếp cho các anh sức mạnh, ý chí, nghị lực để vượt qua khó khăn, gian
khổ.
“Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ dễ sâu. Rơi vào cái vực
nhạc thì thơ dễ làm say đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn” . Một bài thơ
hay phải trung hòa được giữa thanh âm cùng nội dung, tạo nên một bản nhạc hài
hòa, có âm vang, có giá trị. Và “ Tây Tiến “ chính là một trong những bài thơ như
thế, vừa mang trong mình thứ âm nhạc du dương, say đắm lòng người, vừa là sự
kết tinh quý giá của vẻ đẹp ý tứ, nội dung. Quang Dũng là một ngòi bút tài hoa
của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến, mỗi tác phẩm hiện lên dưới ngòi bút của
nhà thơ đều mang một vẻ đẹp rất riêng, có hiện thực khốc liệt, nhưng cũng có
những rung cảm dạt dào, những vùng trời lãng mạn mà khi thưởng thức, người
đọc phải đem cả lòng mình để cảm nhận, để thấu hiểu hết ý thơ.
Nếu khổ thơ đầu tiên, người đọc như được đắm mình trong tình thương mến
với khúc ca chiến trận của anh vệ quốc quân năm xưa, những anh hùng buổi đầu
kháng chiến, “ áo vải chân không đi lung giặc đánh ” ( Nhớ - Hồng Nguyên ) ,
những tráng sĩ quyết tâm, anh dũng thì đến với khổ thơ thứ hai, Quang Dũng đã
hướng ngòi bút của mình sang những gam màu tươi sáng và ấm áp hơn. Đó là
đêm hội rực rỡ, vui tươi, để rồi mai này khi rời xa, nó trở thành một phần trong kí
ức, một kí ức đẹp đẽ và ấm cúng.
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ”
Giữa bom đạn của cuộc chiến tranh khốc liệt, giữa chốn núi rừng hoang vu,
những đèo cao, dốc thẳm, ấy vậy mà tâm hồn thi sĩ vẫn thăng hoa, vẫn tràn đầy
cảm xúc. Một khung cảnh đêm hội hiện lên với ảnh lửa bập bùng, tiếng khèn ,
điệu múa như đưa tâm hồn những chàng trai “ Tây Tiến ” được trở về với những
dáng vẻ bình yên nhất, xua tan đi hiện thực đau thương, vất vả, gian truân. Tác
giả đã sử dụng một động từ mạnh – “ bừng ” như một điểm sáng cho toàn bộ khổ
thơ, lung linh diệu kì. Trong thơ ca kháng chiến, ta đã từng bắt gặp nó trong giây
phút tìm được lí tưởng cách mạng soi đường của “ cánh chim đầu đàn của thơ ca
cách mạng Việt Nam ”– Tố Hữu , đó như là một tiếng hò reo, vui mừng, hạnh
phúc :
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Động từ bừng mang nhiều lớp nghĩa, có thể bừng sáng lung linh, bừng tỉnh, hay
bừng lên vui sướng… Nhưng dù hiểu theo cách nào thì nó cũng phần nào lột tả
được hết niềm hạnh phúc, sự vui sướng, bồi hồi trong tâm hồn mỗi người chiến
sĩ.Thơ là rượu của quỷ sa tăng, là địa hạt huyền bí thần thánh, thơ là lửa, là sung
mãn của tình cảm mãnh liệt. Tình cảm lớn ấy hòa vào từng câu chữ, từng âm
thanh, khơi dậy trong lòng người đọc những xúc cảm khôn nguôi. Một đêm hội
rực rỡ ánh sáng đã hiện ra dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, thật đẹp, thật
vui tươi.
Một hình ảnh vô cùng độc đáo, thú vị được sử dụng một cách tài tình – đuốc hoa.
Nếu như trong “ Truyện Kiều” Nguyễn Du đã từng viết rằng:
“ Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai sau”
Vốn là một từ cổ được sử dụng cho tình yêu đôi lứa, nhưng ở Tây Tiến, Quang
Dũng lại dùng nó đi với tình quân dân. Đó là một sự sáng tạo đặc biệt, là tình yêu
chốn núi rừng miền Tây nghĩa nặng tình sâu, yêu những con người miền Tây ấm
áp, thân thương. Một sự tài hoa, tinh tế, sáng tạo, đưa người đọc đến những chân
trời mới lạ, vượt ra khỏi những chuẩn mực thông thường. Song, dù hình ảnh ấy có
mới lạ đến đâu thì vẫn luôn hướng tới đích đến duy nhất, đó là đưa con người tới
những xúc cảm đẹp đẽ, khắc họa một bức tranh thơ say đắm lòng người.
“ Một câu thơ hay là một câu thơ có nhiều sức gợi ”. Nhà thơ sinh ra vốn
không để nói những điều đơn giản, hình ảnh đuốc hoa bừng sáng trong đêm gợi
lên cho ta nhiều trường liên tưởng. Ở khổ thơ đầu tiên của tác phẩm, ta đã từng
bắt gặp hình ảnh “ hoa về trong đêm hơi ” mở ra nhiều dòng suy nghĩ. Thì đến
khố thơ thứ hai, hình ảnh “ đuốc hoa” đã được Quang Dũng sử dụng một cách tài
tình đầy ẩn ý. Những ngọn lửa sáng bừng lên, tỏa sáng lung linh, rực rỡ như
những “ đuốc hoa” khiến cho mỗi chàng trai Hà thành phải say đắm, phải yêu
thương. Song đằng sau mỗi câu thơ chính là một khao khát, một ước muốn mãnh
liệt của người cầm bút. Phải chăng ánh sáng đó không chỉ để miêu tả bức tranh
sinh động chốn núi rừng về đêm, mà chính là sự “ bừng lên”, sự rực cháy trong
trái tim người cầm bút về một tương lai tươi sáng, niềm hi vọng hòa bình, hạnh
phúc. Những người chiến sĩ Tây Tiến, họ ra đi rời xa Hà Nội thân thương để
chiến đấu quên mình vì Tổ quốc. Giờ đây, dưới ảnh lửa trại ấm áp, họ cởi bỏ
những bộ áo hành quân ướt đẫm mồ hôi, quây quần bên ánh lửa ấm áp, ru hồn
mình bằng tiếng khèn vang vọng núi rừng.
Hòa cùng mạch cảm xúc lãng mạn và nên thơ ấy, ta đột nhiên bắt gặp hình
ảnh người con gái miền Tây sơn cước dịu dàng, duyên dáng :
“ Kìa em xiêm áo tự bao giờ ”
Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ ( Mai-a-cop-xki). Mỗi ngôn
từ được sử dụng trong thơ đều mang một giá trị, vẻ đẹp riêng, có điểm sáng, có từ
giúp khai mở chủ âm toàn bài, có từ bộc lộ cảm xúc… Chung quy lại, mỗi từ ngữ
đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, được chắt lọc một cách khéo léo và đầy
tinh tế. Giữa bức tranh lễ hội có ánh sáng ấm áp, hình ảnh con người hiện lên như
một nét chấm phá làm bức tranh thơ trở nên sinh động và độc đáo hơn bao giờ
hết. Chỉ với một từ “kìa” đã gói gọn hết dòng cảm xúc, sự hào hứng, ngạc nhiên
của những người chiến sĩ Tây Tiến. Họ say mê trước điệu nhạc, tiếng khèn, và ở
đó, hình ảnh những cô gái đằm thắm, “ xiêm áo” lộng lẫy khiến cho sự khốc liệt
của cuộc chiến tranh như được xoa dịu, những người chiến sĩ ấy dường như cởi
bỏ hết gánh nặng thường ngày, đắm mình trong niềm hạnh phúc, vui tươi.
“ Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim, xưa nay thơ
vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi để con người quay về bản chất thực của
mình để vươn tới cái chân, thiện, mĩ, tới tầm cao của khát vọng sống, tới tầm cao
của giá trị sống ”. Thơ ca không đơn giản chỉ nằm trên trang giấy, nó là sợi giây
kết nối giữa tâm hồn thi sĩ với độc giả, rung lên những xúc cảm sâu sắc. Và thơ
không chỉ nằm ở ý tứ, mà hình thức thơ cũng phản ánh rất nhiều cảm xúc của
người cầm bút. Một tác phẩm chân chính không thể nào tách biệt giữa hình thức
và nội dung. Trước hết ngôn từ phải lắng động, phải đa màu thì người đọc mới có
cơ hội “ chìm sâu ” vào trong những dòng suy nghĩ. Ở “Tây Tiến”, Quang Dũng
không chỉ đơn giản đã tái hiện một lễ hội nơi chốn nối rừng, mà tác giả đã vô
cùng tài tình khi chỉ bằng một vài từ ngữ, một vài câu thơ đã có thể đưa người
đọc như đang đắm mình vào bức tranh thơ tuyệt đẹp, như đang được nghe, được
nhìn, được cảm nhận thứ không khí náo nhiệt và ấm áp. Những cô gái Tây Bắc
như làm cho tâm hồn những chàng trai Hà thành thêm nhiều rung cảm. Một cuộc
gặp gỡ, chuyện trò, múa hát đậm tình quân dân, xua tan đi cái cô độc, cái vất vả
khó khăn ở những chặng đường hành quân gian khó.
Một khung cảnh có ánh sáng “ bừng lên”, có những cô gái xiêm áo rực rỡ,
tác giả lại đưa lòng mình hướng về những giai điệu tuyệt vời, xây nên “ hồn thơ “
thế kỉ:
“ Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Âm nhạc giúp lòng ta vơi đi những mệt mỏi, và với những người chiến sĩ Tây
Tiến, nó như một dòng suối mát lành chảy qua một tâm hồn khô cằn, chai sạn,
xua đi những chán chường, nhọc nhằn, vất vả. Như một thứ thanh âm tuyệt diệu
đưa hồn người trở nên nhẹ nhàng và bay bổng, nên thơ. Không phải hiển nhiên
Quang Dũng được nhắc đến như một ngòi bút lãng mạn, tài hoa. Bởi trong hiện
thực bom đạn, khó khăn của cuộc chiến tranh, mà người thi sĩ ấy vẫn có thể viết
nên những vần thơ đẹp đẽ và say người đến như thế! Đó như là tiếng nói hồn
nhiên nhất giữa cuộc đời trần trụi, là “ liều thuốc” tốt nhất xoa dịu những tâm hồi
mỏi mệt chốn chiến trường. Viết về cuộc kháng chiến, tác giả không che dấu đi
những khó khăn trên chặng đường cách mạng, nhưng chưa bao giờ ta thấy trong
thơ của Quang Dũng có những sự chán chường, bỏ cuộc. Những người chiến sĩ
ấy đứng lên trên cả hoàn cảnh, là bức tượng đài vững chãi, “ quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho độc lập của đất nước.
Tất cả thanh âm trong trẻo, du dương của tiếng đàn cùng những điệu múa được
tác giả gói gọn rồi thốt lên những cảm xúc chực chờ tuôn trào :
“ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ “
Một hồn thơ từ lâu tưởng chừng đã bị vùi mình trong cát bụi, khói bom, nhưng
rồi khi được những thứ ánh sáng ấm áp, âm nhạc diệu kì ấy thức tỉnh, nó như một
mạch cảm xúc tuôn trào với nỗi nhớ thiết tha.Dù cho dòng chảy thời gian có trôi
đi một cách tàn nhẫn, đưa những kỉ niệm ấy dần lãng quên vào một miền kí ức xa
vời, nhưng đối với Quang Dũng, tác giả vẫn chơi vơi trong nỗi nhớ da diết, khao
khát níu giữ những hoài niệm đã xa . “ Thơ ca làm cho những điều tốt đẹp nhất
thế gian trở nên bất tử”. Và chính Quang đũng đã sử dụng ngòi bút của mình, đưa
hết những gì đẹp đẽ nhất của hồn thiêng Tây Bắc, của con người nơi đây để “xây
hồn thơ ”, khiến nỗi nhớ thiết tha về núi rừng miền Tây sơn cước như đọng lại
mãi cùng những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể nào quên. Viên Chăn cũng giống
như Hà Nội, người lính đã kí thác hết nỗi lòng, gửi vào trong gió những mơ mộng
xa xôi, những lãng mạn, rung cảm dạt dào. Chính nó là nguồn dinh dưỡng quý
giá, ru hồn người ta về với những hoài niệm, là đôi cánh nâng đỡ tâm hồn người
lính những lúc mỏi mệt, khó khăn.
Người con gái Tây Bắc e thẹn trong bộ xiêm áo dân tộc, múa những điệu
múa của núi rừng, hòa vào đó một ít thanh âm trong trẻo, du dương của tiếng
khèn, tiếng nhạc. Một khung cảnh lãng mạn, bay bổng, đối nghịch với những vất
vả của những dãy núi cao triền miên, những chốn rừng thiêng nước độc mà những
người chiến sĩ Tây Tiến phải đối mặt trên chặng đường hành quân của mình. Một
chút mộng mơ, khao khát như đang cháy rực lên trong tâm hồn những người
chiến sĩ về những khát vọng hòa bình, một tương lai tự do, độc lập cho dân tộc.
Giống như trong bài thơ “ mùa sim tím ” :
“ Đêm hành quân trên Trường sơn lộng gió
Chiếc khăn em thêu theo suốt cuộc hành trình
Anh ước nguyện - Ngày Hòa bình trở lại
Một mái nhà đỏ lửa - Giữa đồi sim ”
Hiện thực khốc liệt của chiến tranh vẫn đang còn tiếp diễn, ở đó sẽ còn những
mất mát, đau thương… Chặng đường hành quân sẽ còn nhiều núi cao, dốc thẳm,
chênh vênh và nhiều mệt mỏi. Nhưng giờ đây, đắm mình giữa không khí ấm áp
của núi rừng Tây bắc, những người chiến sĩ cụ Hồ như đang hừng hực khí thế,
sẵn sang hiến dâng thân mình để đất nước được yên bình, độc lập.
Những dòng kí ước như đang tuôn trào trong trái tim thi sĩ,một hồn thơ
được xây đắp từ bức tranh lãng mạn – đã dần trôi về miền kí ức. Quang Dũng như
đang chơi vơi giữa nỗi nhớ thiết tha về miền Tây sơn cước… bản tình ca của
thiên nhiên, con người như tiếp thêm cho người chiến sĩ những động lực, sức
mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Mỗi trang thơ đều phản ánh thời đại mà nó ra đời. Nghệ thuật chân chính
không bao giờ tách biệt với cuộc đời. Cho dù ở trong thời đại nào, mối quan hệ
giữa văn học và đời sống cũng là mối quan hệ cơ bản, sâu sắc. Như Beelinxkin đã
từng nói rằng : Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Hay Chế Lan
Viên : “ Dẫu tuyệt bút thì thơ cũng là con đẻ của người ”. Tây Tiến không xa rời
hiện thực, không vượt ra khuôn khổ của thơ ca chân chính. Ở đó ta thấy được
cuộc chiến tranh khốc liệt, gian truân và đầy mất mát. Nhưng Quang Dũng đã rất
tài tình khi miêu tả nỗi đau bằng một giọng điệu nhẹ nhàng và chân thực nhất. Cả
nỗi nhớ da diết cũng được lãng mạn hóa, làm cho thơ không nặng nề, không nhọc
nhằn, mỏi mệt, mà còn làm nổi bật lên khí thế hiên ngang, lạc quan, thơ mộng của
những người chiến sĩ Tây Tiến.
Nếu ở ba câu thơ đầu, tác giả miêu tả về khung cảnh lễ hội tràn ngập âm thanh,
ánh sáng cùng nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền tây thì ở bốn câu thơ sau, nhà
thơ lại tài tình thể hiện sâu sắc nỗi nhớ trào dâng về cảnh sắc và con người miền
Tây như đang hiện ra trước mắt :
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa ”
Lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh của màn sương. Trong khổ thơ đầu tiên,
hình ảnh “ sương lấp ” lột tả những khó khăn, gian khổ thì đến đây, màn sương
chiều hiện lên một lần nữa khiên độc giả không khỏi bồi hồi, xúc động, thương
xót cho những gian truân của người chiến sĩ. Hiếm có một nhà thơ nào có thể chỉ
bằng một vài hình ảnh lại tái hiện được rõ nét khung cảnh mờ ảo, khó khăn, vất
vả của con người nơi chốn núi rừng hiểm trở. Ở Tây Tiến, Quang Dũng không thi
vị hóa tất cả ý thơ, ta có thể dễ dàng nhận ra được sự nhọc nhằn, vất vả của
những người chiến sĩ. Nói như Sóng Hồng : “ Thơ cũng giống như nhạc, có thể
trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần
chúng nhân dân ”. Tây Tiến đã khơi dậy trong lòng độc giả biết bao dòng cảm
xúc, có thương xót, có trân trọng, biết ơn… Mỗi vần thơ như đang đưa người đọc
đắm chìm theo nỗi nhớ thiết tha, trào dâng mãnh liệt :
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy “
Hình ảnh “ Người đi “ phải chăng tác giả ngỏ ý chỉ mình, hướng lòng mình về
Châu Mộc thân thương, gắn bó sâu nặng, nghĩa tình. Nỗi nhớ như đang ngưng
đọng trong chiều sương Tây Bắc, nhớ về những kỉ niệm đã rời xa…
Một nét độc đáo trong thơ ca Quang Dũng chính là sự sáng tạo mới mẻ.
Giữa khung cảnh thiên nhiên đắm mình trong chiều sương mờ ảo, hình ảnh một
loài hoa độc đáo hiện lên như một điểm nhấn, một cách thể hiện mới mẻ của tác
giả. Hồn lau xám buồn bên bờ sông hoang dại , như chứng kiến hết chặng đường
vất vả, gian truân của người chiến sĩ. Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, ta thấy được
hình ảnh của dòng sông Mã hòa trong nỗi nhớ chơi vơi của thi sĩ :
“ Sông Mã xa rồi TâyTiến ơi “
Dòng sông từ lâu đã gắn bó với đoàn bình Tây Tiến, nhìn thấy được nỗi vất
vả, khó nhọc suốt cả chặng đường, như một chứng nhân lịch sử của một thời khói
lửa, bom đạn mịt mờ. Thì đến đây, ta lại bắt gặp hình ảnhdòng sông với hoa lau
mọc ở hai bên bờ như đang xào xạc, đu đưa trong chiều sương Tây Bắc. Nó
không đơn giản chỉ là một loài hoa dại, một loài hoa mọc ven bờ… Hoa lau như
có hồn ở trong đó, chia sẻ cùng người chiến sĩ những mỏi mệt, khó khăn, những
buồn vui trên con đường đèo cao, dốc thẳm… Nhưng tất cả cũng đã lùi vào dĩ
vãng, hoa lau vẫn đu đưa trong gió núi, vẫn lặng yên ở đó chờ “ người ”. Nỗi nhớ
như đang tràn ngập trái tim thi sĩ, nhấn chìm hết tất cả không gian, nỗi nhớ ấy
được bộc lộ rõ nét trên từng câu chữ : “ có nhớ ”. Đây chẳng phải là một câu hỏi,
mà chính là một lời khẳng định thiết tha của trái tim người chiến sĩ. Dù rời xa núi
rừng Tây Bắc, nhưng nỗi nhớ về cảnh vật miền Tây như vẫn hằn sâu trong tâm
trí, trở thành một khoảng trời kí ức không thể nào quên. Tới đây, ta càng cảm
nhận được tài năng của của tác giả khi sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế. Không
phải là hàng lau, bờ lau mà lại là hồn lau, phải chăng tác giả cảm thấy mỗi sự vật
nơi miền Tây sơn cước như có hồn ở trong đó? Keo sơn, gắn bó, sẵn sàng chia sẻ
buồn vui, mỏi mệt với những chàng trai chiến sĩ Hà thành. Giờ đây khi chia xa,
nghĩ về hồn lau cô đơn giữa dòng sông trầm mặc, nỗi nhớ ấy lại càng mênh
mông, da diết, ám ảnh trong tâm trí của mỗi con người. Chỉ với một vài hình ảnh,
tác giả đã khơi dậy trong lòng độc giả biết bao cảm xúc, xót xa, nhung nhớ vô bờ.
Từ xưa, hình ảnh hoa lau xuất hiện trong thi ca luôn mang trong mình một nỗi
buồn man mác, như trong thơ của Chế lan Viên :
“ Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một lần
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời với gió giao tranh ”
Hay Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã từng viết rằng:
“ Đó là loài hoa nở vào cuối năm

Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất

Đó là loài hoa đợi nơi cuối đời ”

Hồn lau giống như mảnh hồn mà người chiến sĩ Tây Tiến đã gửi lại chốn núi
rừng, là một phần tuổi trẻ tươi xanh, gắn liền với núi non Tây Bắc. Như quy luật
tình cảm diệu kì mà Chế Lan Viên đã thổi vào trong thơ của mình :

“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn ”

Thiên nhiên núi rừng như đã hóa thân vào từng ngọn gió, cỏ cây, trên mỗi chặng
đường hành trình của người lính, như có cái hồn thiêng Tây Bắc, có tiếng xào xạc
của hoa lau bên dòng sông êm ả, nhẹ nhàng trôi.
“ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm ”
( Voltaire). Thơ ca chân chính phải xuất phát từ tiếng nói của trái tim, của tâm
hồn, khơi dậy trong lòng đọc giả những cảm xúc mãnh liệt, sự đồng cảm, rung
động khôn nguôi. Hình ảnh loài hoa ven bờ sông như gợi lên biết bao suy tưởng,
về một thời đại bom đạn, khói lửa mịt mù, những người chiến sĩ anh dùng hành
quân trên chặng đường gian khó. Và đôi khi, các anh đã nằm lại, gửi cả tuổi trẻ
của mình vào đất mẹ thân thương, những bông lau như xao xác tiễn đưa những
con người vĩ đại.Hình ảnh thơ trở nên vô cùng đẹp đẽ qua lăng kính lãng mạn của
nhà thơ, nhưng không vì thế mà xa rời thực tại. Đọc mỗi câu thơ, độc giả vẫn có
thể cảm nhận, tưởng tượng nên thực tại khó khăn, gian khổ nơi chốn núi rừng
cheo leo, hiểm trở, thử thách con người

Xuôi theo dòng cảm xúc, ta lại được chứng kiến dòng sông miền Tây với những
nét chấm phá vô cùng đặc sắc.

“ Có nhớ dáng người trên độc mộc

Xuôi dòng nước lũ hoa đong đưa “

Điểm xuyến cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc chính là những con người
thân thương, gắn bó với những người chiến sĩ suốt cả chẳng đường hành quân
gian khó. Dòng sông miền Tây đã chứng kiến biết bao kỉ niệm, từ những ngày
đầu vất vả, đến khi chia xa ngậm ngùi luyến tiếc. Ở đó, hình ảnh những con người
miền Tây hiện lên mờ ảo, giăng mình trong làn sương hoài niệm, trong nỗi nhớ da
diết, chơi vơi. Tuyệt nhiên đó chỉ là những dáng người, nhưng toát lên sự rắn rỏi,
mạnh mẽ, kiên cường. Thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có những núi cao, vực
thẳm, mà còn có những dòng sông dềnh dàng, những thác lũ rợn ngợp. Con người
Tây Bắc có lẽ vì thế nên mang trong mình một sức mạnh diệu kì, trên chiếc
thuyền độc mộc, vượt qua muôn trùng khó khăn. Hình ảnh ấy qua ngòi bút tài
hoa, lãng mạn của Quang Dũng lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ vô cùng! Thơ ca
mang trong mình âm nhạc của tâm hồn, chính vì thế khi đọc những vần thơ Tây
Tiến, ta cảm nhận được một hồn thơ bay bổng, nhẹ nhàng, một kiệt tác muôn đời
của thi sĩ xứ Đoài Mây Trắng .
“ Như cốm mùa thu nằm mát giữa tờ sen

Màu xanh của cốm nắng trời chừng dịu lại

Những yêu thương của lòng tôi, tôi gói

Trong lá thơ vừa hái ở đời lên ”

( Chế Lan Viên )

Quang Dũng đá gói trọn nỗi nhớ thiết tha của mình vào Tây Tiến, xuyên suốt cả
bài thơ, nỗi nhớ ấy như len lỏi vào từng ngõ ngách, khuấy động từng mảnh kí ức
nhạt nhòa, gợi lại biết bao suy nghẫm, nhớ thương. Tiếp tục lặp lại cấu trúc “ có
nhớ”, tác giả như đang đắm mình trong những lien tưởng về núi rừng và con
người Tây Bắc, trên dòng sông thân thương, có dáng người từ lâu trở nên thân
thuộc với những người chiến sĩ Hà thành. Nhưng độc đáo và thú vị ở chỗ, tác giả
lại tài tình miêu tả :

“ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa ”

Quả thực tây Tiến chính là sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn, bay bổng.
Giữa dòng nước lũ ấy lại hiện lên hình ảnh “ hoa đong đưa” mang nhiều lớp
nghĩa. Không chỉ khai mở nên ý tứ, mà nó còn gợi ra âm thanh cho câu thơ, một
âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu hòa mình vào dòng nước lũ. Thơ vừa là nhạc, vừa là
họa, vừa là một sự kết tinh nghệ thuật của cảm xúc. Bức tranh núi rừng Tây Tiến
được Quang Dũng vẽ nên không chỉ có sự hình ảnh, âm thanh, có nỗi nhớ da diết
vô bờ. Mà ở đấy còn có những nốt nhạc trầm bổng, như một bản tình ca về núi
rừng Tâ Bắc, hòa cùng nỗi nhớ chơi vơi, thiết tha của người nghệ sĩ

Hình ảnh hoa đong đưa làm bức tranh thơ không tĩnh tại, mà trở nên sống
động và lãng mạn hơn. Lại một câu thơ mang nhiều trường liên tưởng, chỉ có một
hồn thơ tài hoa, lãng mạn như Quang Dũng mới có thể viết nên những câu thơ
độc đáo và hay đến như thế! “ Hoa đong đưa ” ở đây có thể cảm nhận là những
cánh hoa trôi dạt giữa dòng nước lũ, hay những cánh hoa nhỏ bé mọc ở đôi bờ,
tĩnh lặng nhưng đẹp đẽ. Hoặc xa hơn, ta có thể liên tưởng đến những cô gái Tây
Bắc dịu dàng, đằm thắm, mềm mại như những cánh hoa. Câu thơ như hướng
người đọc đi đến những dòng suy nghĩ khác nhau, nhưng chung quy lại, bức tranh
ấy vẫn vô cùng đẹp đẽ, lãng mạn, là một kiệt tác của ngòi bút hào hoa, tài năng
Quang Dũng.

Nhà thơ như người thợ lặn lành nghề, lặng sâu vào “ đáy ô nề ”, nhặt nhạnh
những viên ngọc trai quý giá, là kết tinh của loài trai nhẫn nại cần cù rồi “đính”
nó lên trang thơ của mình. Quang Dũng đã đào sâu vào hiện thực khốc liệt của
cuộc chiến tranh, nơi có những hiểm nguy rình rập, người chiến sĩ đã phải ngã
xuống, phải dừng chân trên chuyến hành trình chiến đầu… Trong khói bom, bão
đạn, trong bệnh tật, hiểm nguy, những chàng trai can trường đã ngã xuống nơi đất
mẹ thân thương, nhưng cả khi anh đã hóa mình thành dáng hình xứ sở, thì ý chí,
quyết tâm cho thắng lợi dân tộc vẫn luôn luôn thường trực ở đó. Người chiến sĩ
hiện lên qua trang thơ của Quang Dũng mang những nét đẹp tinh tế, hào hùng,
đầy lãng mạn, những người lính đứng trên cả nghịch cảnh, vẫn quyết chí bền gan
bảo vệ Tổ quốc. Bút pháp lãng mạn xen lẫn với hiện thực khốc liệt đã tạo nên một
màu sắc rất riêng cho thơ Quang Dũng. Chỉ bằng những dòng thơ ngắn gọn, tác
giả đã vẽ nên một bức tranh vô cùng rõ nét về núi rừng Tây Bắc, nơi các anh –
những người chiến sĩ phải chiến đấu, phải bảo vệ. Giữa những khó khăn, thiếu
thốn đến cùng cực, các anh vẫn kiên cường bước tiếp, hùng dũng hiên ngang :

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm ”

Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, ta bị ấn tượng bởi hình ảnh người chiến sĩ “ gục lên
súng mũ bỏ quên đời ” thì đến đây, khí phách hiên ngang như được tăng thêm gấp
bội phần. Có lẽ vì thơ bắt nguồn, nảy sinh nơi mảnh đất cuộc đời nên những ý thơ
cũng phảng phất hơi thở của thời đại. Đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh,
thiếu thốn, bệnh tật, người chiến sĩ đã bị rụng tóc vì căn bệnh sốt rét, khiến họ có
một vẻ ngoài đặc biệt,ta đã từng bắt gặp trong thơ của Chính Hữu : “ Sốt run
người vầng trán ướt mồ hồi ”. Không chỉ có những khó khăn là núi đèo chênh
vênh, mà họ còn phải đối mặt với bệnh tật, với sự thiếu thốn trăm bề. Cùng với
cụm từ “ không mọc tóc”, Quang Dũng đã phần nào thể hiện được khí phách hiên
ngang, chủ động, các anh đứng trên cả nghịch cảnh, mạnh mẽ, kiên cường,
không khuất phục, không bỏ cuộc. Một câu thơ giản đơn nhưng gợi lên cho ta biết
bao cảm xúc, là sự xót xa, sự khâm phục, ngưỡng mộ với những người anh hùng
đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả thân mình để bảo vệ non sống. Một “ binh đoàn ” Tây
Tiến hiện lên với những đặc điểm khác biệt, là những con người không mọc tóc,
nhưng ở đó là thấy lóe lên một ánh sáng rực rỡ, đó là ánh sáng của ý chí, của
niềm tin, không khuất phục trước khó khăn, trước bệnh tật. Nó đã trở thành một
biểu tượng của đoàn quân Tây Tiến, một đoàn quân anh hùng, hiên ngang, bất
khuất, một nét đẹp được vẽ nên bởi sự lạc quan, coi thường cái chết.

Câu thơ trước như nhấn mạnh vào vẻ ngoài đặc biệt, câu thơ sau lại toát lên
khí thế của những anh hùng :

“ Quân xanh màu lá dữ oai hùm ”

Hình ảnh “ quân xanh màu ” lá gợi ra cho ta nhiều nét nghĩa. Đó có thể là những
tấm lá ngụy trang để che mắt quân thù, hay đó chính là sụ xanh xao của những
người chiến sĩ khi phải chống chọi với bệnh tật, thiếu thốn đủ bề? Nhà thơ đã
khắc họa chân dung của những người lính vớivẻ ngoài khác lạ, gợi lên trong lòng
ta những nỗi niềm xót xa, khắc khoải, rung lên sợi dây đồng điệu, về một thời quá
khứ đã xa nhưng oai hùng, khốc liệt. Tác giả sử dụng từ ngữ tinh tế, khéo léo, làm
người thợ lặn lành nghệ lặn sâu vào đáy địa dương để kiếm tìm những viên ngọc
trai quý hiếm, tạo nên sự lung linh, huyền diệu cho thơ của mình. Sự tương phản
mới lạ giữa “ quân xanh màu lá ” và “ dữ oai hùm ”đã thể hiện được ý chí kiên
cường của đoàn binh Tây Tiến. Dẫu có khó khăn, có đối mặt với những hiểm
nguy, gian khổ, nhưng ở những người chiến sĩ ấy vẫn luôn mang dáng vẻ kiêu
hùng, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, “ dữ oai hùm ”. Quang Dũng không đem gấm
vóc để phủ lên hiện thực khốc liệt, mà bóc tách, diễn tả nó một cách chân thực
nhất. Song người lính trong thơ Quang Dũng không mang những nét bi lụy, bi
thương, mà lại phập phồng hơi thở của đất nước, bi hùng, bi tráng, sống và cống
hiến hết mình cho Tổ quốc thân yêu. Họ trở nên bất tử trong trang thơ, họ trở
thành tượng đài trong lòng những người con đất mẹ, một bức tượng đài về những
người anh hùng đã hiến dâng cả tuổi trẻ, luôn kiên cường, bền gan để chiến đấu,
để bảo vệ non sông.
Thơ ca không đơn giản là sự sắp xếp ngôn từ, mà đó còn là tiếng nói của
trái tim, là sự sung mãn của tình cảm mãnh liệt. Quang Dũng không đơn giản chỉ
tái hiện lại cuộc chiến tranh với vẻ đẹp oai hùng nơi người lính, àm còn phác họa
những nét đẹp trong chiều sâu tâm hồn :

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ”

Những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn người chiến sĩ được Quang Dũng tài tình
thổ lộ, những đường nét tưởng chừng như đối nghịch nhưng lại hòa hợp lạ kì.
Anh ra đi vì Tổ quốc, bỏ lại sau lưng những đôi mắt ngóng trong, bỏ lại quê nhà,
bè bạn, các anh là những chàng trai thanh niên tri thức Hà thành, mang trong
mình mộng lớn, khoác lên mình bộ quân phục nghiêm trang. Họ ra đi, họ hi sinh
cả những năm tháng non xanh của đời mình cho đất nước, một lòng hướng về
phía trước, quật cường, hiên ngang. Hình ảnh “ mắt trừng” hướng thẳng về phía
trước, với khát khao hòa bình cháy bỏng, quyết tâm. Họ - những chàng trai mười
tám đôi mươi, không vui tươi cười đùa , họ làm công việc thiêng liêng hơn, cao
cả hơn hết, là bảo vệ mảnh ddaats thân thương. Họ tạm gác lại những nỗi niềm
sâu lắng, cất giữ những mảnh tình riêng tận đáy trái tim mình. Bởi giờ đây, thứ
tình cảm lớn lao hơn cả, sâu sắc hơn cả là tình yêu Tổ quốc cùng khao khát độc
lập, tự do. Những ánh “ mắt trừng” dữ dội nơi biên ải xa xôi, gửi gắm những giấc
mộng lớn lao hay nhỏ bé, đâu đó còn có cả niềm tin về một tương lai “ rũ bùn
đứng dậy sáng lòa ” của dân tộc. Các anh bỏ lại những nỗi niềm riêng tư, chôn
chặt trong trái tim mình, nhưng đôi lúc cũng vọng về những nỗi nhớ mênh mang.
Bởi vì trong trái tim người lính còn là quê nhà, là Hà Nội hoa lệ, là những mái
nhà thân thương đang chờ mong họ trở về, là bóng dáng “ kiều thơm ” nơi mảnh
đất thủ đô. Đó là những tình cảm đáng trân quý, đang được tôn vinh. Khoác lên
mình màu áo xanh non, bước đi trên những chặng đường gian khó, chiến trường
ác liệt lấy đi của họ cả tuổi thanh xuân, thậm chí cả sự sống, biết bao luyến tiếc,
dang dở về những mối tình mãi mãi chẳng vẹn tròn. Trong gian khổ, các anh nhớ
về Hà Nội thân thương, như một nguồn dinh dưỡng vực dậy tâm hồn sau những
mỏi mệt, khó khăn. Ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng không yếu mềm, ủy mị,
làm nhụt chí, làm mềm lòng những người lính, mà đó là nguồn động lực để họ
tiếp tục chiến đấu, tiếp tục cống hiến cho Tổ quốc thân yêu. Thơ ca là chuyện
đồng điệu, mỗi trang thơ, ta như thấy được nỗi lòng của người cầm bút. Dẫu viết
về hiện thực chiến tranh khô khan, khốc liệt, nhưng thơ Quang Dũng lại khơi gợi
tận sâu tâm khảm độc giả điều gì đó sâu sắc và khắc khoải lắm! Nó gợi lên sự
thương xót, đồng cảm, tiếc thương và còn cả sự biết ơn vô hạn đối với những
người lính đã dấn thân vào chốn đạn bom, “ hóa thân thành dáng hình xứ sở ”.
Những xúc cảm, những mơ mộng của những chàng trai Hà thành được thổ lộ đầy
tinh tế, họ “ ra đi vì nghĩa lớn ”, và điều đó càng xứng đáng được ca ngợi và tự
hào.

Nhưng chặng đường chiến tranh có bao giờ bình lặng ? Trong tác phẩm “
Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải, khi cô Hiền – một người phụ nữ Hà thành
chính gốc, đã phải để nước mắt chảy ngược, đồng ý cho con mình ra trận. Bởi đó
là “ cửa tử”, chưa chắc một mai có thể vẹn nguyên trở về : “ Tao đau đơn mà
bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám ào sự hi sinh của bạn, nó dám đi cũng
là biết tự trọng ”. Chiến trường kia lấy đi của họ những năm tháng tuổi trẻ, họ
phải chiến đấu, phải bền gan vững chí, và đôi khi trên chặng hành trình đó, có rất
nhiều người phải ngã xuống nơi đất mẹ thân thương :

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ”

Quang Dũng đã vô cùng ý nhị và khéo léo khi sử dụng từ Hán Việt để tạo nên sự
trang trọng, bớt đi cảm giác tang thương, chết chóc cho trang thơ. Những dẫu có
giảm nhẹ thì những mất mát, đau thương vẫn còn nguyên ở đó. Những “ nấm mồ
” nằm lại nơi đất mẹ, nơi các anh đã dùng hết cả đời mình để bảo vệ và giữ gìn :

“ Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

( Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc ”
Ra đi, dâng trọn cuộc đời mình, và ngã xuống nơi mảnh đất quê hương. Từ “ mồ
” như gợi lên những mất mát, tang thương của một chặng đường, một cuộc chiến
tranh tàn khốc, những nấm mồ vô danh khắp mọi nẻo đường, họ ngã xuống thật
đẹp, thật cao quý và vinh quang. Nhưng những người lính có bao giờ than trách,
có bao giờ hối hận, có bao giờ tiếc nuối đời mình :

“ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ”

Câu thơ như là một lời khẳng định, thể hiện ý chí, quyết tâm cao độ của người
lính. “ Đời xanh ” – đó là khoảng thời gian đẹp đẽ, rực rỡ nhất của mỗi người,
nhưng người lính họ đã dành tất cả để chiến đấu, để cống hiến cho Tổ quốc thân
yêu. Bởi lẽ đối với họ, sự hi sinh, sự ra đi ấy là lí tưởng cao đẹp nhất, là sứ mệnh
thiêng liêng nhất. Họ ngã xuống trên chặng đường gian khó, bởi bệnh tật, đạn
bom,… nhưng trong trái tim, trong ý chí của những người chiến sĩ ấy chưa bao
giờ bỏ cuộc, chưa bao giờ nhụt chí, sứ mệnh của họ là chiến đấu, là bảo về và gìn
giữ non sông.

Đất nước chắc chắn sẽ độc lập, nhưng sự tàn khốc của cuộc chiến đã ngăn
chân anh chạm đến lá cờ tự do, không hòa chung vào không khí náo nức, hạnh
phúc của cả dân tộc. Các anh đã ngã xuống, đã hóa thân mình vào dáng hình xứ
sở :

“ Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành ”

Quang Dũng sử dụng hình ảnh “ áo bào ” vốn là một từ Hán Việt, khiến câu
thơ trở nên thiêng liêng và trang trọng, nỗi đau như được vơi bớt đi nhưng những
mất mát chưa bao giờ thôi cuộn trào trong trái tim người lính. Cả một không gian
nhuốm màu tâm trạng, sự tiếc thương, xót xa cho những con người còn quá trẻ,
lại phải gác súng, trở về với đất mẹ thân thương. Câu thơ không chỉ thể hiện được
sự mất mát tột cùng, mà qua đó, bức tranh về cuộc chiến được tái hiện vô cùng rõ
nét, tàn khốc, đau thương. Ở chốn rừng núi xa xăm, ở nơi người ta chết vì bệnh
tật, đói khát, vì chiến tranh, làm sao có được “ áo bào ” xa xỉ để chon cất, tiễn
đưa? Đó là một lối nói ý nhị, đôi khi chỉ là manh chiếu, hoặc bộ quân phục đã sờn
vai để tiễn người lính về giấc ngủ ngàn thu. Cách nói ấy như giảm nhẹ được bội
phần sự thiếu thốn, đau thương, một nỗi đau khắc khoải trong tâm hồn con người.
Câu thơ viết về cái bi nhưng không bi lụy, yếu đuối mà trái lại, nó thể hiện được
tinh thần, khí phách của những người chiến sĩ cụ Hồ. Anh ra đi, “ về ” với đất mẹ,
nằm lại đó nơi chốn núi rừng, nhưng hình bóng của các anh vẫn còn vẹn nguyên
trong tâm trí của những thế hệ mai sau, là những tấm gương bất khuất, kiên
cường. Bút pháp lãng mạn khiến cho câu thơ không trầm buồn, bi thương, mà
khiến cho bức tranh thơ trở nên bi tráng, bi hùng.

Câu thơ cuối cùng như một bản nhạc, một khúc hát du dương của núi rừn,
của dòng sông Mã thân thương cất lên tiễn anh về với đất mẹ :

“ Sông Mã gầm lên khúc độc hành ”

Nếu như ở câu thơ đầu, ta bắt gặp hình ảnh sông Mã chơi vơi trong nỗi nhớ thì
đến đây, dòng sông ấy đang “ gầm ” lên khúc hát bi tráng, tiễn đưa những người
chiến sĩ đã ngã xuống vì non sông. Biện pháp nhân hóa đã khiến cho sự vật như
có hồn ở đó, dòng sông chứng kiến bao kỉ niệm, bao buồn vui, khó nhọc của
người lính, và còn thấy được cả những mất mát, đau thương. Nỗi đau, nỗi mất
mát ấy như thấm đẫm vào núi rừng Tây Bắc, vào cỏ cây, hoa lá, … những địa
danh mà các anh đã đi qua. Sự thương xót, tự hào cùng niềm cảm phục đã được
gói gọn trong tiếng “ gầm ” da diết ấy, đó không chỉ là nỗi đau đối với sự hi sinh
anh dũng, mà đó còn là nỗi đau của dân tộc, của những vết thương chưa kịp chữa
lành. Nhưng các anh – những con người quả cảm, kiên cường, không bao giờ
thấy tiếc nuối, hối hận về quãng thời gian chiến đấu hào hùng. Họ tự hào vì đã
làm tròn trách nhiệm với Tổ quốc, đã chiến đấu anh dũng, hết mình :

“ Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng

Lòng khỏe nhẹ, anh dân quê vui sướng

Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành ”

Quang Dũng đã phác họa những nét vẽ chân thực nhất về cuộc chiến tranh
khốc liệt, biết bao máu xương đã đổ xuống vì độc lập non sông. Như một nốt
nhạc ngân vang kết thúc bài thơ, khổ thơ cuối là những lời hứa vô cùng kiên gan ,
vững vàng của người lính Tây Tiến :

“ Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai đi Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi ”

Các anh ra đi, gác lại những mộng mơ thuở thiếu thời, gác lại mái nhà cần anh
chăm bẵm, đề vì sứ mệnh cao cả hơn, thiêng liêng hơn và chiến đấu vì hòa bình
dân tộc. Cụm từ “ không hẹnh ước ” là một lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ.
Ra đi, tham gia vào cuộc chiến, có hay không ngày trở về?

“ Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say ”

Chặng đường gian khổ, càng “ thăm thẳm” nhưng lời thề đanh thép, sắt son của
người chiến sĩ như cao hơn cả hoàn cảnh. Họ quyết ra đi, họ quyết hiến dâng cả
máu xương của mình để một mai hào bình lặp lại, chiến thắng reo vui, dẫu chắc
rằng đường trở về sẽ còn nhiều gian khó, bởi đồng đội đã ngã xuống, đã hi sinh
nơi mảnh đất này. Hai câu thơ cuối cùng như một lời tâm tình, thủ thỉ của Quang
Dũng đã kí thác cả nỗi lòng mình vào từng câu chữ. Đoàn binh Tây Tiến đã hiến
dâng cả sức trẻ của mình nơi núi rừng Tây Bắc, với những địa danh Sài Khao,
Mường Lát, Sầm Nứa,…. Để chiến đấu, và nhà thơ đã vô cùng nhớ thương, tự
hào về một kí ức vàng son, anh dũng, dẫu vất vả nhưng cuối cùng, họ đã chiến
đấu hết mình để giành lại non sông.
Cả bài thơ, người đọc như chìm đắm trong miền cảm xúc vô hạn, trong
những suy tư, trăn trở, những cảnh vật , những màn sương giăng mờ ảo….. cùng
các địa danh Sài Khao, Mườn Lát, Mường Hịch.. như vang vọng trong miền kí
ức. Nhưng nổi bật lên trên nền cảnh thiên nhiên ấy chính là bức tượng đài bất tử
của những người lính, những chàng trai Hà thành anh dũng, kiên cường nhưng
cũng mang những vẻ đẹp tâm hồn, những tâm hồn lãng mạn, đa sầu, đa cảm.
Quang Dũng đã thốt lên những câu thơ từ chính đáy lòng mình, khiến tác phẩm
như chảy trôi trong vùng trời cảm xúc. Sự đan cài, song hành giữa bút pháp hiện
thực, lãng mạn khiến cho bài thơ mang nhiều vẻ đẹp, viết về cái bi nhưng không
bi quan, bi lụy mà bi hùng, bi tráng. Viết về cuộc chiến khốc liệt nhưng vẫn có
những đêm lửa trại ấm áp tình quân dân, những bóng dáng “ kiều thơm ” nơi Hà
Nội hoa lệ… Cả bức tranh thơ rực rỡ sắc màu, hiện lên chân thực và độc đáo qua
ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng. Có lẽ vì thế mà cát bụi thời gian có
chảy trôi khốc liệt, thì vẻ đẹp của “Tây Tiến” vẫn vẹn nguyên trong lòng người
thưởng thức, như một đóa hoa thơm ngát giữa đất trời.

 “ Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả
thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng. Cũng
khơi nguồn cảm hừng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước
nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với
một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm
thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng
đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng
chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…”  ( Vũ Thu Hương) . So sánh với
những tác phẩm cùng thời, Tây Tiến mang trong mình một cảm hứng lãng mạn,
vượt lên trên hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến tranh. Nhưng chưa bao giờ
Quang Dũng dùng nghệ thuật để lấp đi những mỏi mệt, gian lao. Đọc Tây Tiến, ta
có thể cảm nhận rõ nét những vất vả của người chiến sĩ chốn núi rừng Tây Bắc.
Cái tài tình của nhà thơ là viết về cái bi nhưng không bi thương, yếu mềm, mà
toát lên trước khí phách hiên ngang của người lính – những chàng trai kiên
cường, người chiến sĩ Tây Tiến đứng lên trên hoàn cảnh, lạc quan, yêu đời, vững
tin về một tương lai tươi sáng đầy hi vọng. “Người xưa trong ý có giấu những
điều không thể nói ra, mới mượn vần thơ để truyền đi những điều mình muốn nói.
Nếu trong lòng không cảm xúc mà chỉ vẽ vời lòe loẹt thì làm sao mà có thể có
những vần thơ tuyệt diệu” (Thẩm Đức Tiềm). Dường như nỗi nhớ ở trong tim quá
lớn, nên Quang Dũng phải dồn hết lòng mình để đưa nó vào thơ. Mỗi câu chữ
như một bản nhạc đượm buồn, đượm tình, say đắm lòng người, hòa vào trong nỗi
nhớ chơi vơi vô bờ của người chiến sĩ. Đối với Tây Tiến, lấy cảm hứng lãng mạn,
hào hoa, mỗi trang thơ như một khúc ca máu lửa, ở đó có vất vả, nhọc nhằn,
nhưng được lãng mạn hóa một cách đầy tinh tế, khiến cho bài thơ không nặng nề,
bi lụy mà bay bổng, du dương. Tây Tiến không đơn giản chỉ là một tác phẩm viêt
về thời kì kháng chiến, đó còn là viên ngọc quý giá, là kết tinh của nội dung và
nghệ thuật. Giữa thực tại khó khăn, người lính như coi thường mọi hiểm nguy,
vất vả. Người thi sĩ ấy như dâng cả lòng mình, dâng cả nỗi nhớ da diết về một
thời kì khói lửa, đạn bom, thổi hồn vào cho Tây Tiến, khiến nó trở thành một viên
ngọc quý báu, tỏa sáng lung linh giữa thi đàn văn học Việt Nam. Như Raxun
Gamzatop từng nói : “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một
nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải
đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm
cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ”. Tây Tiến không chỉ đẹp,
mà nó còn phảng phất những âm thanh hào hùng, bi tráng của thời đại, đánh dấu
một thời kì khói lửa , vất vả của dân tộc, nhưng lại lãng mạn và nên thơ .
Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang trong mình một câu chuyện đằng sau nét
chữ. Thơ ca không giản đơn chỉ là bộc lộ cảm xúc, thơ ca chân chính phải mang
lại cho độc giả những cảm xúc mãnh liệt, những sự rung cảm sâu sắc. “ Vạt áo
của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi.Hãy nhặt lấy chữ của đời mà
góp nên trang”. “Tây Tiến” là kết tinh của những xúc cảm dạt dào, là bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc vô cùng chân thực và rõ nét. Người lính trong trang thơ của
Quang Dũng không bi lụy, ủy mị, yếu mềm, họ toát lên khí phách hiên ngang, ý
chí, quyết tâm sắt đá, kiên quyết đấu tranh cho nền hòa bình, tự do của dân tộc.
Tác phẩm là một bông hoa đẹp đẽ, rực rỡ cùng với những nét chấm phá mới lạ
trong thi đàn văn học Việt Nam, tỏa ngát hương giữa khu vườn thơ ca mênh
mông, rộng lớn, giữ vẹn nguyên giá trị trong lòng độc giả, như viên ngọc vàng
lấp lánh giữa sa mạc cuộc đời với những anh hùng bất khuất, hiên ngang :
“ Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi, ra đi, thà chết không lùi ”

You might also like