You are on page 1of 27

ỦY BAN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT

HUYỆN BỐ TRẠCH NAM


Số: /UBND Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bố Trạch, ngày tháng 10 năm 2022

BÁO CÁO
Tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn huyện từ năm 2019-2020

Thực hiện Kế hoạch số 137/KH-ĐGS ngày 23/9/2022 của Đoàn giám


sát Hội đồng nhân dân tỉnh về việc ban hành kế hoạch giám sát tình hình thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình từ năm 2019-2020, UBND huyện Bố Trạch báo cáo kết quả
thực hiện từ năm 2019-2020 như sau:
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
Huyện Bố Trạch nằm ở phía Bắc tỉnh Quảng Bình, có diện tích tự
nhiên 211.549,10 ha, dân số trên 192.000 người, phân bố ở 28 xã, thị trấn
(25 xã, 3 thị trấn); có 11 xã, thị trấn miền núi (2 xã miền núi rẻo cao); 6 xã
miền biển; 8 xã, thị trấn có đồng bào có đạo; 4 xã có đồng bào dân tộc ít
người. Huyện có địa hình hẹp và dốc, bị chia cắt nhiều; vùng núi và gò đồi
chiếm 80% diện tích; nằm trong vùng khí hậu chuyển tiếp của hai miền, thời
tiết khá khắc nghiệt, thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai.
Trong những năm qua, trong bối cảnh gặp rất nhiều khó khăn: Dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp làm ngừng trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội; thiên tai, dịch bệnh diễn biến rất phức
tạp, khó lường; vào cuối năm 2020, xảy ra liên tiếp 2 trận lũ lớn, đặc biệt là đợt
mưa lũ lịch sử từ ngày 16-20/10 và bão số 13 gây thiệt hại về tài sản và ảnh
hưởng lớn đến đời sống Nhân dân.
Tuy nhiên, ngay từ đầu năm, với quyết tâm chính trị và tinh thần trách
nhiệm cao, Huyện ủy, HĐND, UBND huyện đã tập trung quán triệt, chỉ đạo các
ngành, các địa phương rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ Chương trình giai đoạn
2016-2020 để xây dựng cụ thể lộ trình, triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm
vụ, giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội; cùng với sự phối hợp chặt chẽ của Ủy
ban MTTQVN và các đoàn thể huyện, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn
dân, toàn quân chung sức, đồng lòng, nỗ lực khắc phục khó khăn, tập trung thực
hiện “mục tiêu kép” - vừa quyết liệt phòng chống dịch bệnh, vừa quyết tâm duy
trì, phục hồi, phát triển các hoạt động KTXH và bảo đảm đời sống nhân dân;
triển khai đồng bộ, kịp thời các giải pháp phòng chống và khắc phục hậu quả do
mưa lũ gây ra... ổn định và khôi phục sản xuất sau mưa lũ; kinh tế cơ bản duy trì
tăng trưởng; lĩnh vực văn hóa xã hội tiếp tục được quan tâm chăm lo và có nhiều
chuyển biến; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được
giữ vững. Cụ thể: Số xã đạt các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới năm 2020 là
15 xã/25 xã; thu nhập bình quân đầu người: 48,1 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo cuối
năm 2020 còn 3,1%; giải quyết việc làm cho 3.175 lao động, trong đó, xuất khẩu
2

lao động 538 lao động ; Số trường đạt chuẩn Quốc gia năm 2020: 4 trường, nâng
tổng số trường đạt chuẩn Quốc gia: 75 trường (trong đó có 03 trường bậc
THPT); có 27 xã, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia về y tế, 81,3 % dân số tham gia bảo
hiểm y tế; 92,8% hộ nông thôn dùng nước hợp vệ sinh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, phong trào xây dựng nông thôn mới
có phần chững lại, một số xã đạt chuẩn đã bị sụt giảm tiêu chí so với yêu cầu.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ và người dân về chương trình xây dựng nông
thôn mới chưa đầy đủ, còn tâm lý thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà
nước, chưa phát huy đầy đủ vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư. Do ảnh hưởng
dịch bệnh Covid-19, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của một số doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất công nghiệp gặp khó khăn; việc đăng ký xây dựng thương hiệu,
nhãn mác các sản phẩm có lợi thế của huyện còn hạn chế; mưa lũ liên tiếp trong
các tháng cuối năm 2020 ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư; việc triển khai
các dự án qua nhiều thủ tục nên chậm tiến độ; chất lượng một số công trình chưa
đảm bảo. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các cơ sở
vẫn còn xảy ra, chưa được xử lý triệt để. Hoạt động thu gom, xử lý rác thải sinh
hoạt còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc
gia ở một số đơn vị, trường học chưa được quan tâm đúng mức, nhiều trường sụt
chuẩn, chưa được công nhận lại. Chất lượng khám chữa bệnh, điều trị nội trú tại
một số trạm y tế vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế
tuyến cơ sở còn thiếu so với nhu cầu sử dụng. Vệ sinh an toàn thực phẩm tại một
số cơ sở sản xuất, kinh doanh còn hạn chế.
II. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH, TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH
1. Công tác chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của Ban Chỉ đạo các cấp
- Cấp huyện: Đã tổ chức quán triệt các văn bản 1 của cấp trên ban hành có
liên quan về Chương trình và xây dựng Kế hoạch 2 giai đoạn 2017-2020 nhằm
xác định lộ trình thực hiện cụ thể cho quá trình triển khai xây dựng NTM của
huyện.
Ngoài ra, UBND huyện, BCĐ huyện chủ động ban hành các văn bản
riêng, các cơ chế đặc thù của huyện phù hợp với tình hình thực tế, tạo sự linh
động, khuyến khích đầu tư xây dựng trong việc thực hiện Chương trình.
Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM, UBND
huyện, Ban Chỉ đạo huyện luôn xác định phải phát huy hơn nữa vai trò của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, vận động
nhân dân hiểu rõ về nông thôn mới, từ đó nâng cao ý thức và trách nhiệm để
người dân thực sự là chủ thể trong xây dựng NTM. Căn cứ vào văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp trên, Ban Thường trực UBMTTQVN huyện đã chủ động xây
1
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010-2020; Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt CTMTQG
xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ
về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 04
NQ/TU ngày 15/7/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng
Bình giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020
2
Kế hoạch số 712/KH-BCĐ ngày 28/4/2017 về việc xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình MTQG xây
dựng NTM giai đoạn 2017-2020
3

dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh”, xây dựng các mô hình điểm của cuộc vận
động trên địa bàn toàn huyện; phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng
nông thôn mới” nhằm nâng cao hiệu quả góp phần đẩy nhanh việc thực hiện
Chương trình xây dựng NTM.
Định kỳ Ban chỉ đạo cấp huyện tổ chức họp Ban chỉ đạo và làm việc tại các
địa phương để kiểm tra tiến độ triển khai, giải quyết khó khăn vướng mắc, đưa ra
giải pháp thực hiện hiệu quả. Các phòng, ban chủ động cao hơn trong việc soát
xét, đánh giá mức độ đạt các tiêu chí và hướng dẫn thực hiện các nội dung do
ngành mình phụ trách; hỗ trợ các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới hàng
năm. Quan điểm chỉ đạo theo hướng đi sâu vào nâng cao chất lượng các nội
dung của Chương trình, chú trọng thực hiện các nội dung trọng tâm, tác động
trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của người dân (như phát triển sản xuất, vườn
mẫu, khu dân cư kiểu mẫu, văn hóa, môi trường, an ninh trật tự xã hội,...); chỉ
đạo thực hiện xã nông thôn mới nâng cao, chương trình mỗi xã một sản
phẩm...Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng vốn và xử
lý nợ đọng trong chương trình Nông thôn mới.
- Cấp xã: Trên cơ sở chỉ đạo cấp trên, các địa phương đã kiện toàn Ban
chỉ đạo và Ban quản lý xã và Ban Phát triển thôn bản. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt
của các địa phương vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết, quyết liệt chỉ đạo thực hiện
các nội dung về huy động và bố trí nguồn lực, phát triển sản xuất. Nhiều địa
phương quyết liệt trong luân chuyển, bố trí cán bộ đủ năng lực để xây dựng
nông thôn mới; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ xây dựng nông thôn mới các cấp.
2. Về hoàn thiện cơ chế, chính sách và ban hành các văn bản hướng
dẫn thực hiện.
a, Cơ chế huy động vốn
Đối với Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn
2016-2020, trong đó quy định cơ cấu nguồn vốn trong đó vốn ngân sách (Trung
ương và địa phương: 30%; vốn tín dụng 45%, vốn doanh ngiệp 15%, huy động
đóng góp của người dân: 10%) nhưng thực tế tình hình thực hiện trên địa bàn
huyện không phù hợp với Quyết định này, bởi vì hầu như không có doanh
nghiệp nào đầu tư hỗ trợ, hầu hết vốn tín dụng dưới hình thức tỉnh cho huyện
vay (vốn vay tín dụng kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn, trạm bơm
điện phục vụ sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở
hạ tầng làng nghề nông thôn). UBND huyện thực hiện đa dạng hóa các nguồn
vốn để thực hiện. Cụ thể như: Vốn Lồng ghép từ Chương trình mục tiêu quốc
gia việc làm và dạy nghề đối với công tác đào tạo nghề cho người lao động;
Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững cho các xã khó khăn vùng bãi
ngang (Chương trình 135); Chương trình mục tiêu quốc gia Y tế về hỗ trợ đối
tượng được hưỡng bảo hiểm y tế và đầu tư trang thiết bị y tế; Chương trình mục
tiêu quốc gia văn hóa hỗ trợ xây dựng nhà văn hóa xã; Chương trình mục tiêu
quốc gia Giáo dục và đào tạo hỗ trợ xây dựng trường và trang thiết bị dạy học;
Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường….; Vốn ngân sách địa
4

phương: Chủ yếu các xã lấy từ nguồn đấu giá quyền sử dụng đất; Vốn dân:
Đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện của nhân dân trong xã cho từng dự án cụ
thể, do hội đồng nhân dân xã thông qua - đặc biệt là hạng mục giao thông và
nguồn vốn khác: Huy động từ con em xa quê, các mạnh thường quân.
b, Ban hành thiết kế mẫu
UBND huyện phê duyệt Bộ thiết kế mẫu bãn vẽ thi công, dự toán về kiên
cố hóa kênh mương, cứng hóa đường giao thông nông thôn và công trình xây
dựng dân dụng bao gồm cổng, hàng rào, sân bê tông, nhà vệ sinh của trường học
cho từng xã làm cơ sở áp dụng vào việc thực hiện tốt các tiêu chí số 2, 3, 5 trong
chương trình xây dựng nông thôn mới vào năm 2011 cho tới nay vẫn còn áp
dụng. Các mẫu thiết kế vừa tạo được diện mạo mới về cơ sở hạ tầng của các xã,
vừa giải quyết được thủ tục giải ngân vốn xây dựng cơ bản, tiết kiệm được chi
phí đầu tư và thời gian lập hồ sơ thiết kế, dự toán; thực hiện tốt công tác quản lý,
nghiệm thu và thanh toán vốn theo quy định. Góp phần vào việc thực hiện xây
dựng chương trình nông thôn mới trên địa bàn huyện Bố Trạch đạt hiệu quả cao.
3. Thành lập, kiện toàn bộ máy chỉ đạo
Hệ thống tổ chức, bộ máy Chương trình xây dựng nông thôn mới từ
huyện đến xã, thôn (bản) đã được thành lập và kiện toàn theo hướng dẫn, bao
gồm Ban Chỉ đạo huyện, Ban Chỉ đạo và Ban Quản lý các xã, Ban phát triển
thôn. Một số xã thành lập bổ sung các tiểu ban giúp việc (XDCB, giám sát,
tuyên truyền…) để thực hiện một số nội dung cụ thể liên quan thực hiện Chương
trình. Hệ thống tổ chức, bộ máy chương trình đã đáp ứng yều cầu công tác chỉ
đạo, điều hành trong việc thực hiện các nội dung của Chương trình.
* Cấp hyện:
- UBND huyện đã kiện toàn Ban Chỉ đạo huyện3 để đảm bảo yêu cầu
công tác chỉ đạo theo Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2016 -
2020 gồm 47 thành viên do đồng chí Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng ban,
đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện làm Phó Trưởng ban, thành viên là thủ
trưởng các phòng ban, đơn vị có liên quan và Chủ tịch UBND 25 xã trên địa bàn
huyện. Tại các xã, BCĐ, BQL xây dựng nông thôn mới xã, Ban Phát triển thôn
đã được kiện toàn ổn định theo quy định.
- Văn phòng Điều phối NTM huyện đóng vai trò là cơ quan tham mưu
chính cho UBND huyện, Ban Chỉ đạo huyện, chịu trách nhiệm nắm bắt tình
hình, tổng hợp nội dung báo cáo cho UBND huyện, Ban Chỉ đạo huyện định kỳ
hàng tháng, hàng quý, hàng năm và báo cáo khi được yêu cầu; nội dung báo cáo
sẽ đánh giá, kết quả đạt được trong tháng, trong quý và trong năm thực hiện,
đồng thời chỉ rõ những khó khăn, vướng mắc đang gặp phải để từ đó sẽ đưa ra
nhiệm vụ, giải pháp cụ thể thời gian tới trong quá trình chỉ đạo, đôn đốc thực
hiện. UBND huyện, Ban Chỉ đạo huyện nắm rõ tình hình, kịp thời xử lý các vấn
đề phát sinh từ cơ sở.
* Ở cấp xã: Các xã đã thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý và Ban phát
triển thôn, Ban giám sát đầu tư cộng đồng theo quy định; ngoài ra nhiều xã

3
Kiện toàn BCĐ huyện tại Quyết định số 5271/QĐ-CT ngày 4/11/2020
5

thành lập thêm các tiểu ban giúp việc như XDCB, giám sát, tuyên truyền, vận
động xây dựng NTM,..
* Ở thôn: Thành lập Ban phát triển thôn; Ban Giám sát cộng đồng thôn.
Nhìn chung, bộ máy chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chương trình
MTQG được kiện toàn, bổ sung, điều chỉnh theo từng giai đoạn, ngày càng được
hoàn thiện, đổi mới và kiện toàn để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tình
hình thực tiễn; góp phần tăng tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các Chương
trình; tạo sự liên kết có tính hệ thống và sự phối hợp chặt chẽ giữa VPĐP cấp
huyện với BCĐ, BQL cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ được giao; cơ bản đáp
ứng yêu cầu công tác chỉ đạo điều hành. Tuy nhiên, công tác tham mưu, tổng
hợp báo cáo còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp xã, cán bộ làm bộ phận NTM chủ yếu
là kiêm nhiệm nên cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao, chưa chủ động tham
mưu cách làm hay, sáng tạo.
4. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xây dựng nông thôn mới.
UBND huyện, BCĐ huyện và các xã đã phát động phong trào thi đua “Cả
nước chung sức xây dựng nông thôn mới”; các tổ chức, đoàn thể thực hiện tốt
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đô thị văn minh”,
“Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với xây dựng nông thôn mới.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” tiếp tục được đẩy mạnh, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận TQVN huyện
đã tập trung chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc các xã, thị trấn, hướng dẫn Ban công tác
Mặt trận các khu dân cư vận động các tầng lớp nhân dân ở cộng đồng tích cực
hưởng ứng phong trào xây dựng nông thôn mới, chỉnh trang đô thị, xây dựng
“Khu dân cư kiểu mẫu”. Với phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm,
MTTQ các cấp và các tổ chức thành viên từ huyện đến cơ sở đã vận động Nhân
dân đóng góp trên 20,9 tỷ đồng và 2.052 ngày công lao động, hiến trên 22.744
m2 đất, 2.205 m hàng rào để xây dựng cơ sở hạ tầng, như đường giao thông nông
thôn, đình làng, cải tạo khuôn viên nhà văn hoá, kéo điện thắp sáng đường quê.
Đoàn Thanh niên phát động tổ chức đoàn nhiều xã thực hiện phong trào
thắp sáng đường quê, vệ sinh môi trường, tham gia làm đường GTNT, trồng cây
xanh và cắm móc quy hoạch; Hội CCB ; Hội LH Phụ nữ tổ chức phong trào xây
dựng đoạn đường kiểu mẫu, đường hoa…
Ngoài ra, bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phong phú đa dạng
như: Đưa tin bài, hình ảnh các hoạt động triển khai xây dựng nông thôn mới trên
Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện, Đài PT-TH Quảng Bình, Báo Quảng
Bình, cổng thông tin điện tử, qua các trang mạng xã hội như: facebook, zalo.. đã
từng bước nâng cao nhận thức, ý thức cho nhân dân trên địa bàn hiểu và nắm
được các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chương trình xây dựng
nông thôn mới. Qua đó, người dân tích cực tham gia các hoạt động tại địa
phương nhằm phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà.
5. Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn
mới ở các cấp.
UBND huyện, Ban Chỉ đạo huyện tập trung chú trọng công tác đào tạo,
tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ thực hiện Chương trình từ huyện đến xã,
6

thôn bản. Trong quá trình thực hiện Chương trình, luôn cử cán bộ các ngành cấp
huyện, xã tham gia các lớp tập huấn do Trung ương, tỉnh tổ chức; tham gia các
đoàn học tập kinh nghiệm tại các tỉnh khác. Thực hiện Quyết định số 115/QĐ-
UBND ngày 13/01/2017 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc ban hành kế hoạch
tập huấn, bồi dưỡng cán bộ xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2017-2020 thuộc Chương trình MTQG xây dựng NTM, từ 2019- tháng 12/2020
UBND huyện tổ chức được 14 lớp tập huấn về nông thôn mới với 1.112 người
tham gia, 2 lớp tham quan, nghiên cứu thực tế mô hình xây dựng các địa phương
trong và ngoài tỉnh với số lượng hơn 35 người tham gia. Qua các lớp tập huấn,
đội ngũ cán bộ, công chức tham gia thực hiện Chương trình đã được nâng cao
trình độ, nắm bắt kịp thời các văn bản, chính sách, cơ chế để áp dụng vào quá
trình xử lý công việc, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình. Đồng
thời góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền cho nhân dân biết và hiểu rõ
về Chương trình MTQGXD nông thôn mới.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai vẫn còn những hạn chế: Đội ngũ cán
bộ BCĐ, BQL, Ban phát triển thôn được thay đổi thường xuyên. Đội ngũ cán bộ
BCĐ, VP NTM cấp huyện và BCĐ, BQL các xã là kiêm nhiệm, công việc
nhiều, thời gian làm việc chuyên môn chiếm quá lớn nên ít có thời gian tập trung
cho nông thôn mới. Đội ngũ cán bộ thôn, xóm phần lớn đã nhiều tuổi, trưởng
thành trong phong trào cơ sở nên khả năng tiếp thu qua các lớp tập huấn nhiều
hạn chế, chủ yếu rút kinh nghiệm từ các đợt tham quan thực tế.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
Thực hiện Nghị quyết số 862/NQ-UBTVQH14 ngày 10/01/2020 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc
tỉnh Quảng Bình. Huyện Bố Trạch, số lượng đơn vị hành chính có thay đổi về số
lượng xã đạt chuẩn, số tiêu chí ở từng xã.
1. Kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới
- Số xã được công nhận: Tính từ năm 2019 đến năm 2020: có thêm 5 xã 4
đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn NTM lên 15/25 xã; đạt tỷ lệ
60%.
- Số tiêu chí bình quân/xã: Đạt 16,48 tiêu chí bình quân/xã.
- Số xã đạt theo nhóm tiêu chí:
+ Đạt 19 tiêu chí: 15 xã;
+ Đạt 15-18 tiêu chí: 3 xã;
+ Đạt 10-14 tiêu chí: 5 xã;
+ Đạt 5-9 tiêu chí: 2 xã.

2. Kết quả đạt được theo từng tiêu chí cụ thể (Theo nhóm tiêu chí)
Kết quả thực hiện các tiêu chí được tính lũy kế từ năm 2011 cho tới năm
2020.
a, Quy hoạch.
Công tác lập quy hoạch nông thôn mới được quan tâm lãnh đạo và tổ
chức thực hiện ngay khi khởi đầu Chương trình, là tiêu chí được các địa phương

4
2019: Nam Trạch, Hòa Trạch; 2020: Phú Định, Nhân Trạch, Lý Trạch.
7

hoàn thành sớm nhất. Bước sang giai đoạn 2016-2020, UBND huyện tăng cường
chỉ đạo việc rà soát, điều chỉnh và bổ sung quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu
phát trong điều kiện mới. Cùng với đó là chú trọng công tác quản lý quy hoạch
theo quy chế được ban hành nhằm tăng hiệu quả công tác quy hoạch.
- Việc xây dựng quy hoạch vùng xây dựng xã nông thôn mới được phê
duyệt và được công bố công khai đúng thời gian quy định. Số xã được xây dựng
quy hoạch vùng/tổng số xã: 25 xã
- Việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế -
xã hội - môi trường nông thôn. Số xã được rà soát, điều chỉnh 5 năm/lần; tổng số
xã có cụm dân cư có quy hoạch chi tiết được phê duyệt: 18 xã
- Số xã có ban hành quy định quản lý quy hoạch chung và tổ chức thực
hiện theo quy hoạch: 25 xã
- 25/25 xã đạt tiêu chí này, đạt 100%.
Tồn tại, hạn chế: Chất lượng Đồ án quy hoạch chưa cao, định hướng phát
triển của một số đồ án chưa sát đúng tình hình phát triển, tiềm năng thế mạnh
của địa phương. Công tác quản lý, thực hiện quy hoạch thiếu chặt chẽ, công tác
cắm mốc, công bố quy hoạch chưa đảm bảo theo quy định; quản lý phát triển hạ
tầng thiếu đồng bộ.
b, Nhóm Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội (08 tiêu chí)
- Tiêu chí giao thông:
Trong quá trình xây dựng NTM, UBND huyện xác định lấy xây dựng
giao thông làm khâu đột phá; tập trung ưu tiên nguồn lực và tranh thủ các nguồn
vốn lồng ghép khác vào xây dựng và hoàn thiện tiêu chí Giao thông trên địa bàn
huyện. Vì vậy, tỷ lệ cứng hóa ở các tuyến đường đạt tỷ lệ cao và được nhiều
người dân đồng tình, ủng hộ.
- Số km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa:
319,86/358,58 km đạt 89%.
- Số km đường trục thôn, xóm được cứng hóa: 579,57 km, trong đó có
434,38 km đường được bê tông hóa và nhựa hóa đạt chuẩn, đạt 75%.
- Số km đường ngõ xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa:
325,12/650,63 km, đạt 50%
- Số km đường trục chính nội đồng được cứng hóa đảm bảo vận chuyển
hàng hóa thuận tiện: 206,78/646,86 km, đạt 32%
- Kết quả thực hiện: 19/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 76%.
Tồn tại, hạn chế: Chất lượng một số công trình, dự án chưa cao, thiếu tính
đồng bộ (thiếu rảnh thoát nước, biển báo an toàn giao thông); công tác quản lý,
bảo trì, duy tu, bảo dưỡng một số công trình ở một số xã chưa được quan tâm
đúng mức dẫn đến một số công trình nhanh hư hỏng, xuống cấp.
- Tiêu chí Thủy lợi:
Tiêu chí Thủy lợi nhằm phục vụ công tác tưới tiêu, sản xuất của người
dân luôn được UBND huyện quan tâm chỉ đạo thực hiện. Qua hàng năm, UBND
huyện, các xã dành một nguồn ngân sách, đồng thời tranh thủ nguồn hỗ trợ của
cấp trên, huy động nguồn đóng góp của HTX, người dân để đầu tư, nâng cấp,
sửa chữa các công trình thủy lợi.
8

Việc rà soát đánh giá tiêu chí Thủy lợi được phòng Nông nghiệp&PTNT
chủ trì, phối hợp với phòng Tài chính - Kế hoạch, Kinh tế & Hạ tầng, các xã.
Đánh giá về khả năng chủ động tưới tiêu cho các loại cây trồng trong sản xuất
cần tưới, việc đánh giá tiêu chí này qua tầng vụ sản xuất và kết quả sản xuất cuối
năm.
Việc quản lý khai thác sử dụng các công trình thủy lợi tương đối hiệu quả,
đáp ứng nhu cầu tưới tiêu phục vụ cho sản xuất. Vào mỗi đầu vụ sản xuất,
UBND huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn vận động nhân dân tu sửa, nạo vét
kênh mương, sửa chữa các công trình thủy lợi bị hư hỏng để phục vụ sản xuất.
Các công trình hư hỏng phải sửa chữa lớn ngoài khả năng của các địa phương,
huyện chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành kiểm tra, khảo sát đề xuất cấp
có thẩm quyền hỗ trợ khắc phục.
- Diện tích đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện tưới, tiêu chủ động:
8.855 ha, đạt 90% so với diện tích cần tưới.
- Đã kiên cố hóa 171/385,3 km (đạt 44,41%) kênh mương nội đồng để
đảm bảo phục vụ tưới, tiêu.
- 23 xã có hệ thống công trình thủy lợi cơ bản đảm bảo đủ điều kiện đáp
ứng yêu cầu dân sinh và quy định về phòng chống thiên tai tại chổ.
- Có 18/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 72%.
Tồn tại, hạn chế: Hệ thống kênh mương của các xã được kiên cố hóa đã
lâu và xuống cấp, do đó đòi hỏi nguồn kinh phí lớn để nâng cấp, sửa chữa, đầu
tư mới, tuy nhiên nguồn kinh phí huy động của các xã còn hạn chế. Các xã biển
không nhất thiết đòi hỏi cao về tiêu chí thủy lợi, do đó rất khó đánh giá mức độ
hoàn thành của tiêu chí này. Các xã miền núi đạt tiêu chí thủy lợi khó khăn do
có quy mô sản xuất nhỏ, trong khi đó phải đầu tư hệ thống thủy lợi với nguồn
kinh phí rất lớn. Việc huy động nguồn đóng góp của người dân để xây dựng
kênh mương, đê nội đồng và một số công trình thủy lợi khác khó khăn, nhất là ở
những nơi không có Hợp tác xã sản xuất kinh doanh DVNN.
- Tiêu chí Điện:
UBND huyện chỉ đạo các phòng ban, đơn vị liên quan phối hợp với Công
ty Điện lực đảm bảo xây dựng, cải tạo hệ thống lưới điện trên địa bàn huyện
đồng bộ, phủ khắp các địa bàn trong huyện. Nhờ đó, hệ thống điện lưới trên địa
bàn huyện đã được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp đạt chuẩn theo quy định
của ngành điện. UBND huyện đã chỉ đạo các xã chọn những thôn có điều kiện
để phát động Phong trào Thắp sáng đường quê bằng biện pháp xã hội hóa; từ đó
đến nay, phong trào này tiếp tục được hưởng ứng rộng khắp các xã đạt chuẩn
NTM; các thôn của các xã chưa về đích NTM cũng hưởng ứng mạnh mẽ.
Có 23/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 92%.
Tồn tại, hạn chế: Hai xã Tân Trạch, Thượng Trạch chưa có nguồn điện
lưới quốc gia (dùng điện năng lượng mặt trời).
-Tiêu chí Trường học:
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các trang thiết bị phục vụ
công tác dạy và học để trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm đúng mức.
Hằng năm, UBND huyện giành tối thiểu 20% nguồn ngân sách huyện để đầu tư
cho các trường học. Đồng thời, UBND huyện chỉ đạo các xã tranh thủ các nguồn
9

thu, nguồn xã hội hóa, nguồn hỗ trợ từ các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp để
đầu tư hoàn thiện các trường học. Sau hơn 10 năm triển khai xây dựng nông
thôn mới, hệ thống cơ sở vật chất các trường học đã có sự chuyển biến rõ nét,
các trường ngày càng xanh - sạch - đẹp, cảnh quan môi trường sư phạm ngày
càng tốt, chất lượng công tác dạy và học nhờ đó cũng được nâng cao. Số trường
đạt chuẩn quốc gia mức độ I, mức độ II ngày càng tăng. Công tác xây dựng
trường đạt chuẩn quốc gia được đẩy mạnh, nhất là các trường thuộc các xã xây
dựng nông thôn mới cơ bản kịp theo tiến độ đề ra. Các nhà trường, địa phương
đã tích cực chủ động làm tốt công tác xây dựng, tu sửa CSVC, mua sắm trang
thiết bị phục vụ dạy và học, cơ bản đáp ứng đủ chỗ ngồi và các điều kiện thiết
yếu khác cho học sinh. Năm 2020, toàn huyện có 71/108 trường đạt chuẩn quốc
gia, đạt tỷ lệ 66.4%.
Có 15/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 59,0%.
Tồn tại, hạn chế: Một số xã chưa có giải pháp tích cực để huy động nguồn
lực trong đầu tư xây trường đạt chuẩn Quốc gia. Một số trường đã đạt chuẩn
Quốc gia sau 5 năm còn gặp khó khăn trong việc kiểm tra để công nhận lại do
cơ sở vật chất xuống cấp chưa được đầu tư kịp thời.
- Tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa:
Đã cơ bản hoàn thiện các nhà văn hóa đa năng, khu thể thao thôn, bản
nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. UBND huyện đã lồng ghép
nhiều nguồn vốn để hỗ trợ, đồng thời chỉ đạo các xã huy động đa dạng các
nguồn lực để đầu tư hoàn thiện nhà văn hóa đa năng xã, khu thể thao xã, nhà văn
hóa - khu thể thao thôn xóm, nhằm giải quyết được nhu cầu sinh hoạt văn hóa,
thể thao của người dân. Hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở có vai trò quan trọng
đem lại hiệu quả thiết thực trong việc xây dựng đời sống văn hóa, là một trong
19 tiêu chí xây dựng Nông thôn mới. Cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, UBND huyện xây dựng kế hoạch, quy hoạch quỹ đất để xây dựng Trung
tâm Văn hóa và Thể thao, Nhà văn hóa thôn, bản, tiểu khu, đồng thời tập trung
xây dựng và tranh thủ huy động các nguồn lực xã hội hóa lồng ghép nguồn vốn
từ các chương trình, dự án để đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa.
Có 19/25 xã đạt tiêu chí này, đạt 76%.
Tồn tại, hạn chế: Nhà văn hóa một số xã, thôn, bản đã bị xuống cấp do sự
khắc nghiệt của thời tiết, một số thiết chế chưa đủ tiêu chuẩn so với quy định
của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, không đảm bảo về diện tích, quy mô, đặc
biệt là trang thiết bị đang còn lạc hậu...một số xã chưa bố trí cán bộ trực tiếp phụ
trách các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở.
- Tiêu chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn:
Cơ sở hạ tầng chợ nông thôn được nâng cao, đáp ứng nhu cầu mua bán,
trao đổi hàng hóa ở khu vực nông thôn. Mạng lưới chợ nông thôn được chú
trọng đầu tư, nâng cấp, góp phần thúc đẩy thương mại, dịch vụ ở nông thôn phát
triển. Toàn huyện có 21 chợ trong đó có 19 chợ ở khu vực nông thôn.
Đã có 22/25 xã đạt tiêu chí chợ nông thôn, đạt 88%.
Tồn tại, hạn chế: Chất lượng hạ tầng thương mại chưa đảm bảo, nhiều
chợ hư hỏng, xuống cấp chưa đảm bảo theo quy định về tiêu chuẩn an toàn
PCCC, vệ sinh ATTP.
10

- Tiêu chí thông tin và truyền thông:


Công tác thông tin và truyền thông luôn được UBND huyện quan tâm chỉ
đạo thực hiện. Chất lượng hoạt động của Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện
ngày càng được nâng cao, đã chuyển tải được chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước, các chủ trương, chính sách, hoạt động của tỉnh, huyện đến
với người dân.
Các xã đã chủ động nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, lắp đặt,
sửa chữa các đài truyền thanh cấp xã, các trạm thu phát sóng FM, hệ thống máy
tính kết nối internet ở các nhà văn hóa thôn, lập các trang thông tin điện tử cấp
xã, ứng dụng quản lý hành chính, quản lý văn bản điện tử từ đó đảm bảo phục
vụ có hiệu quả cho người dân nông thôn, nâng cao năng lực quản lý nhà nước
của chính quyền cấp xã.
Có 25/25 xã đạt tiêu chí này, đạt 100%.
Tồn tại, hạn chế: Hệ thống đài, trạm truyền thanh cơ sở ở một số xã bị
xuống cấp do thời gian sử dụng đã lâu, gây ảnh hưởng đến việc truyền tải thông
tin cho người dân.
- Tiêu chí nhà ở dân cư:
Nhà ở dân cư được UBND huyện, Ban chỉ đạo huyện xác định là vấn đề
cơ bản đảm bảo an sinh xã hội cả trước mắt và lâu dài. Do đóUBND huyện
thường xuyên chỉ đạo chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp quan tâm hỗ trợ
để thực hiện thật tốt việc này. Vì vậy không có số lượng nhà tranh, nhà tạm trên
địa bàn.
Có 25/25 xã đạt tiêu chí này, đạt 100%.
Tồn tại, hạn chế: Đời sống, thu nhập của các hộ nghèo còn gặp nhiều khó
khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số của 2 xã miền núi Tân Trạch và Thượng
Trạch nên tỷ lệ nhà đạt tiêu chuẩn còn hạn chế.
c) Nhóm Kinh tế và tổ chức sản xuất (04 tiêu chí)
- Tiêu chí thu nhập:
Xác định mục đích cơ bản của tiến trình xây dựng nông thôn mới là để
nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người dân khu vực nông thôn.
Huyện tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp toàn diện, theo
hướng hiện đại, đồng thời phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Từng
bước xây dựng liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, thúc đẩy, kêu gọi đầu tư phát
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu
cơ gắn với chế biến và thị trường.
Chỉ đạo rà soát quy hoạch nông nghiệp gắn với quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của địa phương; xác định các lĩnh vực ưu tiên làm cơ sở lựa
chọn hình thành các chương trình, dự án để tập trung chỉ đạo triển khai thực
hiện. Bước đầu huyện đã xây dựng các vùng sản xuất cây dược liệu, cây công
nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa hàng hóa tập trung, trước hết là các vùng nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến thông qua Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Trong chăn nuôi, huyện ban hành Đề án chăn nuôi giai đoạn 2015-2020 nhằm
phát triển ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an
toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế từng vùng; chú trọng phát triển chăn nuôi gia
súc ăn cỏ ở các xã vùng miền núi. Tập trung cải tạo và nâng cao chất lượng
11

giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng và
hiệu quả; tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh; tổ chức lại và đẩy
mạnh xây dựng các cơ sở giết mỗ gia súc, gia cầm tập trung. Trong thủy sản,
huyện tiếp tục khuyến khích và nâng cao hiệu quả đánh bắt xa bờ, kiểm soát
chặt đánh bắt ven bờ; hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề để có thu nhập và cuộc
sống ổn định hơn. Nâng cao năng suất, hiệu quả nuôi trồng thủy sản chủ lực trên
cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, quản lý chặt chẽ giống, phòng
chống dịch bệnh; đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng thủy sản nhất là hạ tầng
vùng nuôi. Tăng cường chuyển giao các công nghệ khai thác, bảo quản chế biến
thuỷ sản hiện đại nhằm giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch cho ngư dân. Trong
lâm nghiệp, thực hiện chủ trương dừng khai thác chính từ rừng tự nhiên, tăng
cường phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu
rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái.
Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hóa
công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát
triển lâm sản ngoài gỗ.
Bên cạnh đó, huyện cũng chú trọng đẩy mạnh phát triển các ngành công
nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thúc đẩy
các loại hình dịch vụ du lịch gắn với nông nghiệp, nông thôn (home stay, farm
stay...) trên cơ sở phát huy lợi thế di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ
Bàng. Phát triển các ngành nghề truyền thống trong đó tập trung xây dựng các
sản phẩm mang thương hiệu của huyện Bố Trạch nhằm tăng giá trị gia tăng và
phục vụ phát triển du lịch.
Cuối năm 2020 thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 48.2
triệu đồng/người. Có 19/25 xã đạt tiêu chí thu nhập; đạt 76%.
Tồn tại, hạn chế: Thu nhập người dân một số xã đạt chuẩn theo quy định
nhưng thiếu bền vững, sự chênh lệch thu nhập bình quân giữa các xã còn cao;
Thu nhập bình quân hàng năm tăng nhưng chưa tương xứng với sự biến động về
giá, nhu cầu xã hội.
- Tiêu chí hộ nghèo:
UBND huyện, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện chỉ đạo các xã thực
hiện việc xây dựng kế hoạch giảm tỷ lệ hộ nghèo qua các năm; khuyến khích, hỗ
trợ, hướng dẫn các hộ gia đình ở các xã miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số
chủ động xây dựng các mô hình làm ăn có hiệu quả, cải thiện đời sống, thoát
nghèo vươn lên trong cuộc sống. Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện năm 2020 đã giảm
còn 4%. Có 18/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 72%.
Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững đã giúp cho người dân thuộc
đối tượng hộ nghèo cải thiện cuộc sống, cụ thể:
Năm 2019: Phân bổ vốn hỗ trợ phát triển sản xuất đa dạng hoá sinh kế và
nhân rộng mô hình giảm nghèo năm cho các xã, bản với vốn kế hoạch giao:
1.676 triệu đồng tại Quyết định số 2905/QĐ-UBND ngày 11 tháng 7 năm 2019
của UBND huyện về việc bổ sung nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia
năm 2019 và tổng vốn thực hiện: 1.919,085 triệu đồng. Trong đó, vốn từ chương
trình 135: 1.676 triệu đồng; vốn nhân dân đối ứng: 243,085 triệu đồng. Hỗ trợ
cho 900 hộ (590 hộ nghèo, 215 hộ cận nghèo, 95 hộ mới thoát nghèo).
12

Năm 2020: Phân bổ vốn hỗ trợ phát triển sản xuất đa dạng hoá sinh kế và
nhân rộng mô hình giảm nghèo năm cho các xã, bản với vốn kế hoạch giao:
1.768 triệu tại 2390/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 của UBND huyện Bố Trạch về
việc cấp kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền
vững năm 2020. Tổng vốn thực hiện: 2.110,78 triệu đồng. Trong đó, vốn từ
chương trình 135: 1.768 triệu đồng; vốn nhân dân đối ứng: 342,78 triệu đồng.
Hỗ trợ cho 1.061 hộ (819 hộ nghèo, 138 hộ cận nghèo, 104 hộ mới thoát nghèo).
Tồn tại, hạn chế: Công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách giảm
nghèo ở một số xã nhất là các xã miền biển, miền núi chưa sâu rộng, quyết tâm
giảm nghèo chưa quyết liệt và thiếu kịp thời nên vẫn còn một bộ phận nhân dân
còn tư tưởng ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, “xin ở lại hộ nghèo”. Trình độ
chuyên môn kỹ thuật hoặc nắm bắt khoa học kỹ thuật của hộ nghèo còn chậm;
một số hộ nghèo còn thiếu lao động, đông người ăn theo... chưa có ý chí vượt
khó vươn lên thoát nghèo, tạo sức ỳ lớn trong công tác giảm nghèo của huyện.
- Tiêu chí lao động có việc làm:
Huyện luôn quan tâm công tác phối hợp với các doanh nghiệp để nắm bắt
nhu cầu nguồn lực lao động, hàng năm phòng LĐTB&XH tham mưu văn bản
triển khai thực hiện đăng ký nhu cầu đào tạo nghề để các đơn vị thực hiện; chỉ
đạo các xã, thị trấn, các cơ sở đào tạo, Trung tâm Giáo dục - Dạy nghề huyện
khảo sát người lao động trong độ tuổi có nhu cầu tham gia học nghề hoặc chưa
qua đào tạo nghề để thực hiện công tác tuyển sinh và tổ chức lớp đào tạo nghề
đạt hiệu quả; làm việc với các đơn vị, doanh nghiệp để giải quyết việc làm cho
người lao động sau khi học nghề. Năm 2019-2020, đào tạo 1098 lao động, trong
đó 528 lao động nông nghiệp và 570 lao động phi nông nghiệp.
- Số người có việc làm trên dân số trong độ tuổi lao động có khả năng
tham gia lao động đạt 95%. Trong các năm tới phấn đấu giảm tỉ lệ lao động
trong ngành nông lâm thủy sản và tăng số lượng lao động ở các ngành như
thương mại, du lịch.
- Có 23/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 92%.
Tồn tại, hạn chế: Số lượng doanh nghiệp trên địa bàn còn ít, phần lớn là
doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động gia công là chủ yếu nên chuyển dịch cơ cấu
lao động còn chậm, đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ thu hút lao động còn thấp. Chất lượng nguồn lao động trên
địa bàn còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ, tay nghề của người lao động tham gia
chương trình XKLĐ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao
động đặc biệt là thị trường lao động của các nước phát triển.
- Tiêu chí tổ chức sản xuất:
Triển khai có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
liên kết chuỗi giá trị để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trên địa
bàn; tăng cường công tác khuyến nông; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Nguồn vốn phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm từ Chương trình được chú trọng tập trung từ năm 2018 tới
năm 2020 (năm 2018: 2 tỷ, năm 2019: 2 tỷ, năm 2020: 3.2 tỷ).
13

Năm 2018: Mới bắt đầu triển khai thực hiện theo Chuỗi nên các hướng
dẫn cụ thể chưa rõ ràng, còn chồng chéo vì thế nguồn vốn này không thực hiện
trong năm 2018 và kết chuyển nguồn vốn sang năm 2019 để triển khai .
Năm 2019: Huyện đã phê duyệt được 02 dự án phát triển sản xuất liên kết
theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm đó là dự án “Chuỗi liên kết
sản xuất ngô làm thức ăn gia súc, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm”tại xã Nam
Trạch với tổng mức đầu tư: 2.887.830.000 đồng, trong đó Ngân sách nhà nước
hỗ trợ: 403.710.000 đồng, vốn đối ứng của đơn vị chủ trì và hộ dân là
2.484.120.000 đồng và dự án“Xây dựng chuỗi giá trị cà gai leo” tại xã Cự Nẫm
với tổng mức dự toán đầu tư: 2.247.477.000 đồng, trong đó Ngân sách nhà nước
hỗ trợ: 508.900.000 đồng và Đối ứng của đơn vị và các hộ dân tham gia dự án:
1.738.577.000 đồng.
Năm 2020: Huyện đã tiến hành nghiệm thu 6 chuỗi 5 và đã giải ngân
nguồn vốn trên với số tiền là 3.143 triệu đồng.
Có 21/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 84%.
Tồn tại, hạn chế: Chuyển đổi sản xuất các xã vùng gò đồi chưa mạnh.
Chương trình chăn nuôi của huyện thực hiện gặp nhiều khó khăn do giá cả thị
trường bấp bệnh và dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm thường xuyên xảy ra,
nhất là dịch tả lợn Châu phi. Một số mô hình khuyến nông chưa được nhân rộng
hiệu quả. Công nghệ cao bước đầu được ứng dụng ở một số cơ sở sản xuất, tuy
nhiên còn khó khăn do điều kiện khí hậu khắc nghiệt, kinh phí đầu tư lớn, lao
động biết sử dụng công nghệ cao còn ít. Doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn còn ít. Một số HTX mặc dù đã chuyển đổi theo Luật HTX 2012, tuy
nhiên hoạt động hiệu quả chưa cao.
d, Nhóm Văn hóa – Xã hội – Môi trường (04 tiêu chí):
- Tiêu chí Giáo dục và Đào tạo:
Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, xây dựng trường đạt chuẩn quốc
gia được chú trọng đúng mức. Chú ý đưa ra những giải pháp cụ thể và quyết liệt
trong công tác chỉ đạo, đặc biệt là các hoạt động chuyên môn được đẩy mạnh
nên nền nếp dạy học ổn định, nghiêm túc. Toàn huyện có 100% (25/25 xã) trên
địa bàn huyện đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về chống mù chữ, PCGD
MN cho trẻ 5 tuổi, PCGD TH, PCGD THCS;
Chất lượng giáo dục toàn diện ngày càng được nâng cao, môi trường giáo
dục thân thiện, tạo được uy tín niềm tin đối với xã hội; cơ sở vật chất trường lớp
khang trang, không còn trường, lớp học tạm bợ… trang thiết bị dạy học được
quan tâm đầu tư; đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên không ngừng được nâng
cao về số lượng và chất lượng.
- Có 2.165 lao động6 được đào tạo nghề theo QĐ 1956 của Thủ tướng
chính phủ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 52%, trong đó lao động qua đào tạo
nghề đạt 45%.
- Có 21/25 xã đạt tiêu chí này; đạt 84%.
5
1. Chuỗi liên kết sản xuất, kinh doanh, chế biến các sản phẩm từ cà gai leo; 2. Chuỗi liên kết sản xuất và kinh
doanh Dầu lạc’ 3. Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ Măng tây; 4. Chuổi liên kết sản xuất và kinh doanh Dê núi
Xuân Trạch; 5. Chuỗi liên kết sản xuất, kinh doanh Miến gạo Sông Son; 6. Chuỗi liên kết sản xuất, kinh doanh
tinh dầu sả
6
Trong đó nghề phi nông nghiệp: 1.140 người, nghề nông nghiệp: 1025 người
14

Tồn tại, hạn chế: Chất lượng Phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 ở một số
xã vùng khó khăn chưa cao, vẫn còn tình trạng học sinh bỏ học. Công tác phân
luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS và THPT hàng năm còn hạn chế. Tỷ lệ lao
động nông thôn được tuyên truyền, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật,
cung cấp thông tin trong sản xuất, kinh doanh còn thấp, nhất là các xã miền núi,
miền biển. Tỷ lệ lao động có việc làm qua đào tạo đạt chưa cao, chất lượng đào
tạo nghề cho lao động nông thôn còn thấp, ngành nghề đào tạo chưa phong phú
chưa phù hợp với thực tế sản xuất, kinh doanh tại địa phương, kiến thức được
đào tạo áp dụng vào sản xuất còn ít.
- Tiêu chí y tế:
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được UBND
huyện quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong xây dựng nông thôn mới, khi đời sống
người dân được nâng cao sẽ đi kèm với nhu cầu được chăm sóc y tế cao hơn,
chính vì vậy các cơ sở y tế được đầu tư mua sắm các trang thiết bị phục vụ công
tác khám chữa bệnh như: máy siêu âm, máy điện tim, máy oxi,...và các thiết bị y
tế hiện đại khác. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 81%; Tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi là 10.2%.
Có 24/25 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; đạt 96%.
Tồn tại, hạn chế: Công tác đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Tỷ lệ
người dân phải chuyển viện lên tuyến trên vẫn còn cao. Công tác đảm bảo chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên ý thức chấp
hành của một số người dân vẫn chưa cao, nên trong sản xuất, chế biến và lưu
thông vẫn còn những thực phẩm chưa đảm bảo chất lượng. Công tác tham mưu,
chỉ đạo kiểm tra, kiểm soát về CLVS ATTP của một số xã vẫn chưa được coi
trọng.Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt cao nhưng chưa bền vững.
- Tiêu chí văn hóa:
Xây dựng thôn, bản, tiểu khu văn hóa, xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn
mới được nhân dân đồng tình hưởng ứng và tham gia thực hiện, đa số các gia
đình tham gia phong trào đều thực hiện tốt các tiêu chí xây dựng thôn, bản văn
hóa, có ý thức tự giác trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nước.
Có 22/25 xã đạt tiêu chí này, đạt 88%.
Tồn tại, hạn chế: Một số xã chưa thật sự quan tâm đầu tư các thiết chế
văn hóa, thể thao cơ sở. Các hoạt động văn hóa, thể thao chưa được tổ chức liên
tục, còn mạng tính mùa vụ. Nhiều người dân chưa được tạo điều kiện để tham
gia các hoạt động văn hóa, thể thao nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa, miền
biển.
- Tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm:
Xác định tiêu chí môi trường (tiêu chí số 17) là tiêu chí khó thực hiện, để
từng bước hoàn thành tiêu chí này tại các địa phương, ngay sau khi triển khai
chương trình xây dựng NTM, UBND huyện chỉ đạo các xã triển khai xây dựng
kế hoạch, chương trình về thu gom rác thải, xử lý ô nhiễm môi trường và thành
lập các mô hình, tổ thu gom rác thải vệ sinh môi trường phù hợp với điều kiện
15

của địa phương, khuyến khích xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Kết quả
đạt được như sau:
- Tỷ lệ các hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh đến năm 2020 trên địa
bàn huyện tương đối cao, đạt 92,54 (%). Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch
đáp ứng Quy chuẩn Việt Nam: 51,62 (%);
- Tỷ lệ cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm
bảo quy định về bảo vệ môi trường.
Toàn huyện, có khoảng 596 cơ sở sản xuất kinh doanh và nuôi trồng thủy
sản đảm bảo các quy định về bảo vệ môi trường. Riêng đối với các làng nghề,
do quy mô đầu tư còn nhỏ lẻ, tự phát nên hầu hết các làng nghề chưa thực hiện
việc lập phương án bảo vệ môi trường làng nghề chưa thực hiện.
- Tổ chức các hình thức tự quản và hoạt động giữ gìn vệ sinh môi trường
của cộng đồng dân cư như: Tuyến đường Phụ nữ tự quản, Tuyến đường Thanh
niên tự quản... có hiệu quả, đảm bảo cảnh quan môi trường chung. Cụ thể: địa
bàn xã Đồng Trạch, các đường làng, ngõ xóm trên địa bàn xã được các tổ chức
chính trị xã hội đăng ký cắm biển quản lý 30 tuyến đường.
- Trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới, các xã thực hiện quy hoạch
đất nghĩa trang, nghĩa địa theo đúng quy định, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất. Xã Đồng Trạch đã quy hoạch được 2 khu nghĩa địa với diện tích 5
ha và hiện tại các dòng họ, hộ gia đình từng bước có định hướng quy tập mồ mã
về các khu nghĩa trang theo quy hoạch.
- Chất thải và nước thải ở khu dân cư tập trung
Về chất thải: Kết quả bước đầu đã khuyến khích các Công ty, HTX, tổ,
đội hoạt động trong công tác thu gom, xử lý rác thải, góp phần nâng cao chất
lượng môi trường trên địa bàn. Đến nay toàn huyện đã có 24/28 xã/thị trấn đã
thành lập các tổ thu gom rác thải theo mô hình Công ty, HTX hoặc tổ đội. Trong
đó có 7/24 tổ đội có xe ép rác chuyên dụng để chở rác, số còn lại sử dụng các
loại xe tự chế để vận chuyển rác đi xử lý. Nhìn chung, hoạt động của các tổ đội
thu gom rác thải đã cơ bản thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt trong khu dân cư,
được người dân đồng tình ủng hộ. Tổng khối lượng chất thải sinh hoạt được các
đơn vị trên thu gom xử lý khoảng 65,17 tấn/ngày đạt 70,86%. Hầu hết lượng rác
thải được thu gom bằng xe chuyên dụng vận chuyển đến Nhà máy phân loại, xử
lý rác thải sản xuất Bioga, điện, phân bón khoáng hữu cơ tại xã Lý Trạch của
Công ty TNHH Phát triển Việt Nam.
Về nước thải sinh hoạt: Hiện tại chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước
thải sinh hoạt tập trung. Nước thải sinh hoạt của các hộ gia đình chủ yếu cho tự
chảy ra môi trường và một phần được thu gom, xử lý thông qua các nhà vệ sinh
tự hoại. Tỷ lệ hộ gia đình có sử dụng nhà vệ sinh tự hoại đạt 77%.
- Có 23/25 xã đạt tiêu chí; đạt 92%.
Tồn tại, hạn chế:
Một số xã công tác vệ sinh môi trường trên một số xã đang còn nhiều hạn
chế, rác thải sinh hoạt chưa được thu gom triệt để, vẫn còn một sô hộ sản xuất,
kinh doanh xả thải trực tiếp ra môi trường, cảnh quan môi trường chưa được
xanh, sạch đẹp.
16

Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch của một số xã chưa
đạt theo yêu cầu, người dân đang chủ yếu sử dụng nước hợp vệ sinh (giếng
khoan, giếng đào) nước sạch ít, một số công trình nước sạch đầu tư chưa đồng
bộ nên nhanh xuống cấp hoặc đầu tư nhưng không sử dụng được.
Một số xã tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh
môi trường chưa cao, còn hiện tượng chuồng trâu, bò gần nhà ở, trâu bò thả
rông.
Các xã miền núi, miền biển tỷ lệ hộ gia đình có nhà xí và nhà xí hợp vệ
sinh còn thấp.
e, Nhóm Hệ thống chính trị và Quốc phòng, an ninh (02 tiêu chí):
- Tiêu chí hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật:
Hệ thống chính trị cơ sở được củng cố và tăng cường, công tác quy hoạch,
đào tạo cán bộ được quan tâm cao, từng bước được trẻ hóa, chuẩn hóa. Các tổ
chức trong hệ thống chính trị được giữ vững và ngày càng hoàn thiện về chất
lượng. Các tiêu chí tiếp cận pháp luật đã được các xã quan tâm thực hiện như:
Tổ chức nghiêm túc việc công khai và thực hiện các văn bản tiếp cận pháp luật;
các thủ tục hành chính được quan tâm giải quyết sớm; đội ngũ hòa giải cơ sở
được tập huấn, nâng cao chất lượng,... Công tác bảo đảm bình đẳng giới và
phòng chống bạo lực gia đình, bảo vệ và hỗ trợ người bị tổn thương được quan
tâm. Đến nay, toàn huyện có 25/25 xã đạt tiêu chí Chính trị và tiếp cận pháp
luật.
Số cán bộ, công chức đạt chuẩn/tổng số cán bộ xã: 174/249 người
- 25 xã có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định.
- 7/25 đảng bộ xã đạt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 15/25 xã đạt chính
quyền cơ sở vững mạnh.
- Số xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo quy định/tổng số xã: 23/25 xã
- 25/25 xã có Quy chế dân chủ được triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm
túc. Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát cộng đồng có chương trình, kế hoạch
hoạt động, phát huy tính hiệu quả. Xây dựng hương ước, quy ước của các thôn,
bản. Số xã có Tổ tư vấn pháp luật, chính sách cho người dân.
- Đảm bảo bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình; bảo vệ và hỗ
trợ những người bị tổn thương trong các lĩnh vực của gia đình và đời sống xã
hội.
Tồn tại, hạn chế: Một số xã còn buông lõng trong công tác quản lý đất đai
nên dễ sai phạm. Chưa thật sự quan tâm toàn diện đến các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, quốc phòng – an ninh nên nhiều xã chưa đạt chính quyền cơ sở vững mạnh.
Phong trào ‘‘ Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới – đô thị văn minh“ có
nơi chưa tích cực, mặt trận đoàn thể cấp xã chưa thật sự vào cuộc trong xây
dựng nông thôn mới.
- Tiêu chí Quốc phòng và an ninh:
Triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng đảm bảo đúng quy
định, tổ chức tốt công tác tuyển quân, ra quân và triển khai huấn luyện dân quân
tự vệ đạt kết quả khá; các chỉ tiêu về quốc phòng được hoàn thành.
Tình hình an ninh trật tự xã hội nông thôn cơ bản ổn định, không xảy ra
điểm nóng; các phong trào, mô hình bảo vệ an ninh tiếp tục được củng cố, đẩy
17

mạnh nhân rộng như phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc gắn với
phong trào XDNTM", mô hình “Tổ liên gia tự quản”, “Trường học an toàn thân
thiện”.
Có 25/25 xã đạt chuẩn về an ninh trật tự xã hội được giữ vững, đạt
100%.
Tồn tại, hạn chế: Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện ở một số

nơi chưa thật sự ổn định, còn tiềm ẩn sự phức tạp nhất là tệ nạn ma túy, cờ bạc,

trộm cắp, lô đề... Cấp ủy, Chính quyền một số xã chưa quan tâm đúng mức đến

công tác truyên truyền vận động người dân chấp hành pháp luật. Một số vụ việc

như đất đai, địa giới hành chính, bồi thường sự cố môi trường biển do

FORMOSA gây ra chưa đầy đủ quy trình, chưa đảm bảo dân chủ, một số cán bộ,

đảng viên thiếu gương mẫu do đó làm cho tình trạng đơn thư kéo dài, vượt cấp

chưa giải quyết dứt điểm được.


3. Kết quả thực hiện xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Năm 2020, huyện đăng ký xã Thanh Trạch đạt chuẩn nông thôn mới nâng
cao, VPĐP tỉnh đã có văn bản số 122/VPĐP ngày 29/11/2021 về việc trả lời kết
quả thẩm định mức độ đạt các tiêu chí của xã đăng ký năm 2020. Kết quả như
sau: Xã Thanh Trạch: đã đạt chuẩn 12/14 tiêu chí; còn 2 tiêu chí chưa đạt chuẩn:
Quy hoạch, Môi trường. Trong đó:
+ Tiêu chí Quy hoạch: chưa đạt chuẩn chỉ tiêu 1.2 “Có 100% cụm dân cư
của xã có quy hoạch chi tiết được phê duyệt”.
+ Tiêu chí Môi trường: chưa đạt chuẩn chỉ tiêu tỷ lệ người dân sử dụng
nước sạch; đạt 99,1% (yêu cầu bộ tiêu chí 100% số hộ dân).
4. Kết quả thực hiện các chương trình nổi bật, tiêu biểu trong quá
trình triển khai Chương trình.
Thực hiện Đề án mỗi xã mỗi sản phẩm (OCOP), UBND huyện ban hành
kế hoạch số 558/KH-UBND ngày 08/4/2019 về việc thực hiện Chương trình
Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) huyện Bố Trạch giai đoạn 2019 - 2020, định
hướng đến năm 2030; đồng thời tiến hành kiện toàn, bổ sung chức năng nhiệm
vụ cho các thành viên trong Ban chỉ đạo Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới để triển khai thực hiện Đề án OCOP; thành lập Hội đồng, tổ giúp việc
để đánh giá, xếp hạng các sản phẩm cấp huyện. Quá trình thực hiện, Huyện đã
tranh thủ sự hướng dẫn, hỗ trợ và giúp đỡ của các cơ quan liên quan, đặc biệt là
Sở Nông nghiệp và PTNT để tích cực tuyên truyền vận động, hỗ trợ kỹ thuật
đến các cơ sở có sản phẩm tiềm năng tiến hành chu trình tạo sản phẩm theo
18

hướng OCOP. Năm 2019-2020, toàn huyện đã có 19 sản phẩm OCOP được
công nhận7 đạt chuẩn từ 3 sao trở lên.
5. Tình hình và kết quả thực hiện các nguồn lực thực hiện Chương
trình
Nguồn huy động trên địa bàn huyện chủ yếu từ ngân sách trung ương
được tỉnh phân bổ, nguồn ngân sách huyện; ngân sách xã chủ yếu được thu từ
quỹ đấu giá quyền sử dụng đất hàng năm và dân đóng góp.
Tổng nguồn vốn thực hiện từ năm 2019-2020: 534.449 triệu đồng, trong
đó:
- Ngân sách Trung ương: 112.807 triệu đồng
- Vốn lồng ghép: 15.706 triệu đồng
- Ngân sách địa phương (tỉnh, huyện, xã): 358.211 triệu đồng.
- Dân đóng góp: 47.725 triệu đồng
6. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán của cơ quan có
thẩm quyền tại địa phương.
Để đánh giá kết quả thực hiện Chương trình một cách chính xác, đúng với
thực tế, đồng thời phát hiện những sai sót, tồn tại cần khắc phục, từ đó đốc thúc
triển khai Chương trình quyết liệt hơn. UBND huyện, Ban Chỉ đạo huyện luôn
tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương
trình nông thôn mới.
Trong quá trình thực hiện công tác sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực
hiện Chương trình MTQGXDNTM được UBND huyện duy trì đều đặn, kịp thời,
đã đánh giá những kết quả đạt được, chỉ rõ những hạn chế, vướng mắc chưa
thực hiện, tìm ra nguyên nhân để khắc phục và giải quyết các vấn đề còn tồn tại.
Kịp thời đề nghị khen thưởng các cá nhân, tổ chức có thành tích nổi bật. Đồng
thời nghiêm túc kiểm điểm, xử lý những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm,
tạo sự răn đe, quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Năm 2020, UBND huyện được Đoàn kiểm toán Nhà nước kiểm toán về
Chuyên đề chương trình hỗ trợ thực hiện hai chương trình MTQG xây dựng
NTM và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 theo Thông báo số 442/TB-
KTNN ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Kiểm toán Nhà nước. UBND huyện đã
ban hành công văn số 2095/UBND ngày 24/12/2020 về việc thực hiện Kết luận
của Kiểm toán và Báo cáo số 89/BC-UBND ngày 6/5/2021 (Có Văn bản kèm
theo).

7
Năm 2019: Được công nhận tại Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 8/1/2020 về việc công nhận kết quả đánh giá, phân hạng
sản phẩm OCOP cấp tỉnh. Gồm 7 sản phẩm. Trong đó: 6 sản phẩm đạt 3 sao ( 1. Cao cà gai leo Thanh Bình -HTX sản xuất
cây dược liệu sạch và kinh doanh Nông nghiệp xã Cự Nẫm; 2. Sản phẩm Trà túi lọc Cà gai leo HNT - Công ty TNHH Nông
Nghiệp Xanh Quảng Bình; 3.Hạt tiêu Phú Quý -HTX Nông nghiệp Phú Quý; 4.Sản phẩm rau sạch An Nông -HTX Nông
nghiệp An Nông; 5. Rượu sim Xuân Hưng - HTX sản xuất – kinh doanh nấm sạch và rượu Xuân Hưng, chủ thể sản xuất
Sản phẩm; 6. Sản phẩm Trà rau Má - HTX sản xuất nấm sạch và kinh doanh nông nghiệp Tuấn Linh; và 1 sản phẩm đạt 4 sao
(Trà nấm Linh chi Tuấn Linh - HTX sản xuất nấm sạch và kinh doanh nông nghiệp Tuấn Linh)
- Năm 2020: Đã được tỉnh công nhận đạt 3 sao tại Quyết định số 563/QĐ-UBND ngày 9/2/2021 gồm 12 sản phẩm. Bao gồm:
1. Tinh dầu sả Như Oanh – Nam Trạch 2; Miến gạo sâm Bố Chính – Mỹ Trạch ;3. Hải sản Quảng Bình- Thanh Trạch; 4. Dầu
lạc Phong Nha - Hưng Trạch; 5. Muối Kosal- Vạn Trạch; 6. Nước mắm chay Tuấn Linh, 7. Cao Linh Chi Tuấn Linh, 8. Trà
cà gai leo Linh Chi Tuấn Linh, 9. Các loại nấm ăn Tuấn Linh, 10. Các sản phẩm chế biến từ nấm ăn Tuấn Linh,11. Nấm Linh
Chi Tuấn Linh, 12. Trà xanh Linh Chi Tuấn Linh - Sơn Lộc.
19

7. Tình hình nợ đọng và kết quả xử lý nợ đọng trong xây dựng nông
thôn mới.
Hiện tại, trên địa bàn huyện không có nợ đọng trong xây dựng nông thôn
mới, chỉ có nợ trong xây dựng cơ bản.
Thực hiện Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 30/4/2015 của Thủ tướng Chính
phủ; Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 13/5/2015 của UBND tỉnh Quảng Bình về
tăng cường các biện pháp xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn vốn đầu tư
công, UBND huyện đã thực hiện nhiều giải pháp để giảm thiểu nợ đọng XDCB
trên địa bàn huyện.
Số nợ XDCB công trình hoàn thành trong 02 năm 2019-2020 là 49,6 tỷ
đồng, chiếm 61,6% tổng số nợ. Trong đó, ngân sách TW, tỉnh nợ 4,4 tỷ đồng,
ngân sách huyện nợ 3,9 tỷ đồng và ngân sách xã nợ 41,3 tỷ đồng.
So với số nợ XDCB tại thời điểm 31/12/2019, năm 2020 các địa phương
có số nợ XDCB giảm mạnh như: Đại Trạch giảm 4,1 tỷ đồng, Tây Trạch giảm
2,2 tỷ đồng, Nam Trạch giảm 3,6 tỷ đồng, Phong Nha giảm 3,4 tỷ đồng, Mỹ
Trạch giảm 6,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương để
phát sinh nợ tăng cao như: Trung Trạch 9,5 tỷ đồng, Hạ Trạch tăng 4,8 tỷ đồng,
Cự Nẫm tăng 3,5 tỷ đồng, Nhân Trạch tăng 4,3 tỷ đồng, Hưng Trạch tăng 4,0 tỷ
đồng;
Riêng đối với số nợ XDCB thuộc ngân sách huyện, năm 2020 UBND
huyện sẽ bố trí trả xong nợ đối với các công trình hoàn thành đã hoàn thành
nghiệm thu đưa vào sử dụng.
Như vậy, số nợ XDCB đến 31/12/2020 có giảm so với thời điểm
31/12/2019 (giảm 1,5 tỷ đồng, giảm 1,9%), tuy nhiên, nhiều địa phương ngân
sách xã vẫn còn nợ cao như: Trung Trạch 10,6 tỷ đồng, Hạ Trạch 10,3 tỷ đồng,
Đức Trạch 6,3 tỷ đồng, Cự Nẫm 5,1 tỷ đồng, Phú Định 5,1 tỷ đồng, Hưng Trạch
4,9 tỷ đồng, Nhân Trạch 4,9 tỷ đồng, Hòa Trạch 3,8 tỷ đồng.
Một số nguyên nhân chủ yếu:
- Nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng của các địa phương đòi hỏi cần
nguồn vốn khá lớn, trong khi nguồn ngân sách địa phương còn hạn hẹp, việc
huy động sức dân còn hạn chế, đặc biệt là áp lực về việc hoàn thành các chỉ tiêu
xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương đăng ký về đích nông thôn mới.
- Một số công trình do UBND xã làm chủ đầu tư hoàn thành đưa vào sử
dụng đã lâu nhưng chưa được quyết toán do thiếu hồ sơ, thủ tục dẫn đến nợ
đọng XDCB của những công trình này chưa thể xử lý dứt điểm.
- Năng lực chuyên môn quản lý của một số chủ đầu tư còn hạn chế, dẫn
đến tình trạng một số địa phương phê duyệt nhiều dự án, không tính đến khả
năng cân đối vốn khiến việc đầu tư dàn trải, phân tán; hồ sơ về thiết kế xây dựng
- dự toán lập không đảm bảo yêu cầu phải điều chỉnh, bổ sung khối lượng; quản
lý thi công chưa chặt chẽ, tiến độ thi công kéo dài phải điều chỉnh tổng mức đầu
tư, gây phát sinh nợ đọng XDCB.
- Việc thực hiện các dự án tạo quỹ đất còn chậm nên một số địa phương
thu ngân sách chưa đạt kế hoạch, không bố trí đủ vốn để trả nợ. Bên cạnh đó
một số chủ đầu tư thiếu sự quan tâm chỉ đạo, chưa chủ động, tích cực trong công
tác thanh toán xử lý nợ đọng XDCB.
20

Để tiếp tục tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả công tác quyết toán
vốn đầu tư, sớm giải quyết dứt điểm các dự án còn tồn đọng, tránh tình trạng
kéo dài công tác quyết toán và xử lý nợ đọng XDCB, UBND huyện thực hiện
một số giải pháp sau:
* Đối với các công trình tồn đọng chưa quyết toán
- Yêu cầu các chủ đầu tư khẩn trương lập và nộp hồ sơ quyết toán công
trình hoàn thành của năm 2019 (05 công trình nêu trên) gửi về Phòng Tài chính -
KH (nếu công trình do cấp huyện quyết định đầu tư) để thẩm tra phê duyệt theo
quy định. Đồng thời báo cáo giải trình làm rõ trách nhiệm và nguyên nhân chậm
báo cáo quyết toán gửi về UBND huyện (qua Phòng Tài chính - KH).
Đối với các công trình hoàn thành chưa quyết toán phát sinh năm 2020,
các chủ đầu tư khẩn trương lập báo cáo quyết toán gửi cơ quan tài chính cùng
cấp để thẩm tra, trình phê duyệt. Chấp hành đúng các quy định hiện hành về
trình tự thủ tục đầu tư XDCB, ký kết hợp đồng và nghiệm thu thanh quyết toán,
đặc biệt lưu ý các trường hợp thanh quyết toán vốn đầu tư các công trình trong
giai đoạn biến động đột biến về giá vật liệu xây dựng. Nghiêm cấm các trường
hợp chủ đầu tư thông đồng với nhà thầu làm thất thoát vốn đầu tư.
- Đối với các phòng ban chuyên môn của huyện tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên đối với các chủ đầu tư, các
nhà thầu thi công, các đơn vị tư vấn trong việc chấp hành quy định về thiết kế,
tổ chức thi công, nghiệm thu và lập hồ sơ quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn
thành theo đúng quy định.
* Về công tác xử lý nợ XDCB
- Xác định việc xử lý nợ xây dựng cơ bản là một trong những nội dung
quan trọng phải tập trung chỉ đạo, xử lý dứt điểm các khoản nợ đọng từ những
năm trước để lại. UBND huyện yêu cầu các phòng, ban, đơn vị, địa phương tiếp
tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp mà các ngành, đơn vị phụ trách.
- Kiểm soát chặt chẽ việc lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư và
quyết định đầu tư các dự án đầu tư công. Thực hiện nghiêm các quy định về
thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; tuyệt đối không phê duyệt chủ
trương đầu tư và quyết định đầu tư nếu không xác định rõ nguồn vốn và khả
năng cân đối vốn.
- Đẩy mạnh công tác thu ngân sách, thực hành tiết kiệm chi. Chủ động rà
soát, khai thác quỹ đất hợp lý đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất hàng năm nhằm
tạo nguồn thu để trả các khoản nợ XDCB. Cân đối, bố trí ngân sách và các
nguồn vốn hợp pháp để xử lý nợ xây dựng cơ bản.
8. Công tác phối hợp giữa UBND cấp huyện, cấp xã với các sở, ngành
trong thực hiện Chương trình.
Bộ máy chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chương trình đã được kiện toàn đi vào
hoạt động có hiệu quả.
Ngoài ra, để xây dựng các xã đạt chuẩn theo kế hoạch đề ra, ngay từ đầu
năm, Văn phòng điều phối đã tham mưu cho UBND huyện ban hành Công văn 8,
8
CV số 38/UBND ngày 7/1/2019 về việc triển khai thực hiện ở các xã dự kiến đạt chuẩn năm 2019;
CV số 05/VPĐP ngày 6/3/2020 về việc chỉ đạo thực hiện chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới
21

đồng thời đề nghị UBND các xã phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan
để có hướng chỉ đạo cho từng xã. Các tiêu chí chưa đạt ở các địa phương chủ
yếu là các tiêu chí: Giao thông, Trường học, Tổ chức sản xuất, cơ sở vật chất
văn hóa…Ngoài việc, UBND tỉnh phân công phụ trách cho các Sở hướng dẫn
các xã chỉ đạo điểm, UBND huyện cũng phân công trách nhiệm cụ thể cho các
ngành như sau: Phòng Tài chính - Kế hoạch, Kinh tế - Hạ tầng hướng dẫn xã
trong việc hoàn thành hồ sơ, thủ tục về đầu tư xây dựng các công trình phục vụ
cho việc xây dựng các tiêu chí nông thôn mới đúng tiến độ. Đồng thời phối hợp
với Phòng Tài nguyên và môi trường, Trung tâm phát triển quỹ đất hỗ trợ địa
phương trong việc rà soát, lập hồ sơ bán đấu giá quyền sử dụng đất. Sử dụng
tiền đấu giá đất đúng quy định để đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ xây dựng nông
thôn mới. Phòng Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cấp trường và địa
phương rà soát, đánh giá lại các hạng mục cần đầu tư để đạt chuẩn quốc gia về
trường học. Phòng Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn các mô hình phát triển sản
xuất nhằm đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn với tiêu chí tổ chức sản xuất (tiêu chí số
13)…..
9. Công tác thẩm tra, đánh giá công nhận xã đạt chuẩn nông thôn
mới, xã NTM nâng cao.
Sau khi UBND xã có tờ trình đề nghị UBND huyện thẩm tra kết quả thực
hiện các tiêu chí đạt được theo quy định tại Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày
17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành bộ tiêu chí Quốc gia về
xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. UBND huyện tiến hành thành lập Đoàn
thẩm tra; thành viên Đoàn là đại diện lãnh đạo các phòng, ban, phụ trách các tiêu
chí thuộc Bộ tiêu chí.
Quá trình đánh giá, thẩm tra xã đạt chuẩn nông thôn mới đảm bảo đúng
yêu cầu, quy định tại Quyết định số 2540/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ
xét, công nhận và công bố địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, địa phương
hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Đồng thời,
phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện tổ chức lấy ý kiến về sự hài lòng
của người dân đối với kết quả xây dựng xã nông thôn mới theo Hướng dẫn số
52/HD-MT-BTT ngày 04/8/2017 của Ban Thường trực UBMTTQVN tỉnh về
nội dung, cách thức, quy trình lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân đối với
kết quả xây dựng nông thôn mới.
10. Đánh giá mức độ phát huy hiệu quả, tính bền vững của các công
trình cơ sở hạ tầng nông thôn mới; đánh giá mức độ hài lòng của người
dân; đánh giá chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của người dân đối với
các xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới so với trước khi triển
khai thực hiện Chương trình.
Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2019-
2020, bên cạnh những kết quả đạt được, huyện Bố Trạch còn gặp nhiều khó
khăn do đại dịch COVID- 19 xảy ra, nên công tác đầu tư để xây dựng nông thôn
mới gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các UBND tỉnh, các
cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của chính quyền địa phương, huy động
nguồn lực từ trong dân cho đầu tư xây dựng nông thôn mới, nên nhiều dự án,
22

nhiều công trình có tổng mức đầu tư lớn được đầu tư xây dựng trên địa bàn.
Việc tiếp tục thực hiện mẫu thiết kế các công trình có kết cấu không phức tạp
xây dựng trên địa bàn nông thôn để người dân tự thực hiện đã thực sự đưa lại
hiệu quả to lớn, bộ mặt toàn huyện đã thay đổi đáng kể mà nhất là khu vực nông
thôn.
Gắn chương trình phát triển hạ tầng kinh tế- xã hội vào công tác chỉ đạo
chương trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện nhằm tập trung đầu mối để lãnh
đạo, chỉ đạo sâu sát đến các xã và các phòng, ban chuyên môn thực hiện, nhất là
những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình. Các xã, thị trấn đã xác định vai trò
trách nhiệm, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, làm tốt công tác tuyên
truyền vận động nhân dân tham gia nên bước đầu đã làm thay đổi đáng kể về
nhận thức của người dân, về ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong toàn
hệ thống chính trị mà nhất là ở cơ sở trong tiến trình xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội nói riêng và xây dựng nông thôn mới nói chung.
Nhiều xã, Ban phát triển thôn đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động
đến từng người dân, nên nhận thức của người dân về vai trò trách nhiệm của
mình trong việc đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng tại địa bàn dân cư, bộ máy
hoạt động có hiệu quả trong quá trình triển khai thực hiện các phần việc cụ thể,
thể hiện rõ ở việc vận động nhân dân tham gia đóng góp xây dựng nông thôn
mới như: xây dựng đường giao thông nông thôn, hệ thống kênh mương và các
công trình phúc lợi công cộng khác.
 Lợi ích các hộ nhận được khi đóng góp xây dựng CSHT trong chương
trình NTM ở xã ngày càng được nâng cao, nhất là vấn đề đi lại được thuận tiện,
an sinh xã hội tăng lên, vấn đề vệ sinh môi trường đảm bảo.
Năm 2019: Trong quá trình tổ chức lấy ý kiến sự hài lòng của người dân
về kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Hòa Trạch được thực hiện 1.271 hộ.
Số hộ dân tham gia lấy ý kiến: 1.061 hộ  đạt  83,47%. Xã Nam Trạch thực hiện
ở 833 hộ, số hộ dân tham gia lấy ý kiến 799 hộ  đạt  95,9%.
Năm 2020: Trong quá trình tổ chức lấy ý kiến sự hài lòng của người dân
về kết quả xây dựng nông thôn mới của xã Lý Trạch được thực hiện tại 10/10
thôn. Tổng số hộ dân trên địa bàn xã: 1.203 hộ, số hộ dân tham gia lấy ý kiến
1.040 hộ đạt tỷ lệ 86,45%. Xã Phú Định thực hiện ở 787 hộ, số hộ dân tham gia
lấy ý kiến: 735 hộ đạt  93 %. Xã Nhân Trạch thực hiện ở 2.100 hộ, số hộ dân
tham gia lấy ý kiến:2.000 hộ đạt 95.2%.
Nhìn chung các hộ dân được lấy ý kiến đều hài lòng với kết quả xây dựng
nông thôn mới của các xã đạt nông thôn mới. Việc tổ chức lấy ý kiến về sự hài
lòng của người dân đối với kết quả xây dựng nông thôn mới đã được MTTQ chủ
trì, triển khai thực hiện nghiêm túc theo đúng hướng dẫn, kế hoạch đã đề ra. Các
nội dung được thực hiện dân chủ, khách quan khi lấy ý kiến của người dân. Từ
đó phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác giám sát thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. 
Tuy nhiên, qua việc tổ chức lấy ý kiến, Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ
huyện cũng đề nghị UBND, Ban chỉ đạo chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng NTM huyện Bố Trạch lưu ý tỷ lệ một số nội dung chưa hài lòng của
người dân vẫn còn cao như Qua việc tổ chức lấy ý kiến, Ban Thường trực Ủy
23

ban MTTQ huyện thấy rằng có một số nội dung sự hài lòng của người dân chưa
được hài lòng cao so với các nội ung khác như: Về quy hoạch bố trí các công
trình hạ tầng, khu sản xuất, khu dân cư tại xã tỷ lệ 12,12%; hệ thống tưới tiêu
phục vụ sản xuất, phòng, chống thiên tai tại xã tỷ lệ 2,4%; tạo nghề và tạo việc
làm cho nhân dân ở khu dân cư trong xã tỷ lệ 6,73%; việc người dân được sử
dụng nước hợp vệ sinh và nước sạch cho sinh hoạt hằng ngày tỷ lệ 4,52%; Kết
quả xử lý, hạn chế ô nhiễm môi trường ở địa phương và ý thức tham gia của
người dân 2,6%....
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những mặt đạt được
Việc triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
đã thu được nhiều kết quả tích cực, Chương trình MTQG xây dựng NTM tiếp
tục được quan tâm chỉ đạo tích cực của các cấp từ huyện đến xã, thôn và được
sự đồng thuận và hưởng ứng của người dân.
Bộ máy tổ chức, điều hành Chương trình đã được kiện toàn, ổn định, đáp
ứng yêu cầu chỉ đạo, triển khai thực hiện Chương trình.
Ban Chỉ đạo huyện và các xã đã làm tốt công tác tuyên truyền tạo sự đồng
thuận cao trong cả hệ thống chính trị và người dân để xây dựng nông thôn mới;
công tác lập quy hoạch và xây dựng đề án của các xã sớm hoàn thành; thực hiện
tốt việc lồng ghép các chương trình, dự án vào xây dựng nông thôn mới; phong
trào hiến đất, tài sản, GPMB, chung tay xây dựng nông thôn mới được phát
động và hưởng ứng rộng khắp.
Việc triển khai thực hiện 19 tiêu chí gắn với 5 nội dung lớn của Chương
trình được triển khai sâu rộng tại các xã, trong đó đã tập trung chỉ đạo các khâu
quan trọng, nhất là giao thông và các công trình phúc lợi gắn với đời sống người
dân, phát triển sản xuất; các đoàn thể từ huyện đến các xã đã tích cực vào cuộc
với các hoạt động thiết thực.
Các tiêu chí và số xã đạt chuẩn nông thôn mới tăng qua từng năm, đến
nay không có xã dưới 05 tiêu chí.
Các xã đã về đích nông thôn mới luôn duy trì sự ổn định của các tiêu chí
đã đạt, đồng thời tiếp tục hoàn thiện nâng cao hơn mức độ đạt chuẩn của các tiêu
chí để xây dựng xã đạt chuẩn NTM nâng cao và kiểu mẫu.
Công tác đào tạo, tập huấn luôn được quan tâm, hằng năm UBND huyện,
BCĐ huyện xây dựng kế hoạch tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao
nhận thức cho cán bộ, người dân; tổ chức các đoàn học tập kinh nghiệm cho đội
ngũ cán bộ vận hành Chương trình xây dựng nông thôn mới từ huyện đến xã đã
được triển khai kịp thời nhằm học hỏi những mô hình mới, những cách làm sáng
tạo của các địa phương khác.
Công tác chỉ đạo phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, số mô hình sản xuất có hiệu quả xuất hiện ngày
càng nhiều, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
Xây dựng các mô hình mẫu: khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu, đoạn đường
tự quản kiểu mẫu ngày càng được cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực hưởng
ứng, bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực, đã có một số mô hình được
nghiệm thu, công nhận.
24

2. Những tồn tại, hạn chế


Công tác chỉ đạo, điều hành của một số BCĐ, BQL cấp xã chưa thực sự
quyết liệt, hiệu quả chưa cao. Cá biệt một số xã chưa thực hiện đúng các quy
định, hướng dẫn về triển khai, quản lý, kiểm tra việc thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng NTM.
Công tác thông tin, tuyên truyền ở một số xã còn thiếu quan tâm, nhất là
các xã vùng sâu, vùng xa.
Thực hiện quy hoạch Nông thôn mới còn hạn chế, một số xã chưa tổ chức
rà soát lại Đề án và điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phù hợp với tình hình thực tế.
Một số xã chậm chuyển biến trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện
Chương trình (còn trong chờ, ỷ lại nguồn sách cấp trên, thiếu chủ động huy
động các nguồn lực khác để đầu tư thực hiện) nên một số tiêu chí NTM chưa đạt
so với kế hoạch đặt ra.

Cuộc vận động ‘‘Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới - đô thị văn

minh” có nơi chưa tích cực, mặt trận, đoàn thể cấp xã chưa thật sự vào cuộc trong

xây dựng nông thôn mới.


Đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu thực hiện Chương trình
MTQGXDNTM của huyện và các xã đều là cán bộ, công chức kiêm nhiệm,
chưa có biên chế để bố trí cán bộ, công chức chuyên trách do đó công tác tham
mưu đôi lúc chưa kịp thời, hiệu quả.
Phát triển sản xuất nhìn chung vẫn còn manh mún, tự phát, việc hình
thành các chuỗi liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
3.1. Nguyên nhân khách quan
Tình hình kinh tế cả nước nói chung và huyện Bố Trạch nói riêng còn gặp
nhiều khó khăn, xuất phát điểm của huyện thấp. Tình hình thiên tai, dịch bệnh
xảy ra thường xuyên trong khi giá cả vật tư đầu vào tăng nhưng giá đầu ra thấp
và không ổn định.
Nguồn kinh phí đầu tư hỗ trợ của Trung ương, tỉnh về xây dựng NTM còn
hạn chế. Nguồn lực huy động tại chỗ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là nguồn vốn
từ quỹ đất và đóng góp của nhân dân.
Thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM với khối lượng công việc
nhiều, đa ngành, đa lĩnh vực với hệ thống các tiêu chí đạt chuẩn cao và bền vững
trong khi thời gian, lộ trình thực hiện sớm hoàn thành; mặt khác hệ thống các cơ
chế chính sách, nội dung các tiêu chí chưa hoàn chỉnh, vừa triển khai chương
trình vừa ban hành văn bản bổ sung, điều chỉnh làm khó khăn trong công tác chỉ
đạo thực hiện.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về Chương trình MTQG xây
dựng nông thôn mới còn hạn chế, đặc biệt là mục đích, nội dung, cách làm; còn
có tư tưởng trong chờ, ỷ lại.
25

Công tác chỉ đạo, điều hành của một số BCĐ các xã chưa thực sự quyết
liệt, có nơi thực hiện chưa đúng theo quy định của Chương trình.
Công tác chỉ đạo của một số phòng ban, đơn vị đối với tiêu chí phụ trách
chưa đạt hiệu quả cao. Công tác kiểm tra, đôn đốc các xã thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới của một số ngành còn thiếu thường xuyên.
4. Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình xây dựng nông
thôn mới, BCĐ huyện đã rút ra những kinh nghiệm thực tiễn đó là:
Thứ nhất: Để xây dựng NTM, cần có sự tập trung chỉ đạo cụ thể, liên tục,
đồng bộ và huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị. BCĐ xây dựng
NTM phải xây dựng chương trình và quy chế làm việc, phải phân công mỗi cá
nhân, tập thể chịu trách nhiệm từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể; tăng cường kiểm
tra, sơ kết, tổng kết, thúc đẩy thực hiện chương trình. BCĐ phải thường xuyên
kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ đã giao đối với từng thành viên và các tổ
chức đoàn thể.
Thứ hai: Tiến hành xây dựng NTM, trước tiên phải làm tốt công tác tuyên
truyền để nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân cư về nội dung, phương
pháp, cách làm, cơ chế chính sách của Nhà nước về xây dựng NTM... để cả hệ
thống chính trị ở cơ sở và người dân hiểu rõ. Phải xác định đây là chương trình
phát triển kinh tế - xã hội tổng thể, toàn diện, lâu dài trong nông thôn, không
phải là một dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng NTM phải do cộng
đồng dân cư làm chủ; huy động nội lực là chính với sự hỗ trợ một phần của Nhà
nước thì công cuộc xây dựng NTM mới thành công và bền vững. Để xóa bỏ tư
tưởng trông chờ Nhà nước, cần có sự phân công đăng ký nhiệm vụ đối với từng
tổ chức, từng nghành, tăng cường kiểm tra đôn đốc, đánh giá phân loại vào thi
đua khen thưởng.
Thứ ba: Xây dựng NTM cấp xã phải có cách làm chủ động, sáng tạo, phù
hợp với điều kiện và đặc điểm của mỗi xã, tránh rập khuôn, máy móc. Thực hiện
nghiêm túc các hướng dẫn của trên, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn của Ban chỉ đạo, Ban quản lý từ xã đến thôn. Xây dựng nội quy, quy chế
hoạt động, phân công rõ trách nhiệm cho từng bộ phận, từng thành viên, phân
cấp, quản lý, cụ thể, rõ ràng, không để tình trạng né tránh, tập trung lãnh đạo,
không nóng vội, càng không để mất cơ hội.
Thứ tư: Xây dựng NTM phải dựa theo Bộ tiêu chí Quốc gia để định
hướng hành động, mỗi địa phương phải căn cứ vào đặc điểm, lợi thế và nhu cầu
thiết thực của người dân để lựa chọn nội dung nào làm trước, nội dung nào làm
sau, mức độ đến đâu cho phù hợp. Phải tạo điều kiện để mỗi địa phương tự chủ
trong xác định nhu cầu thiết thực và việc phân bổ nguồn lực cũng tập trung ưu
tiên hơn cho các nhu cầu thiết thực này.
Thứ năm: Phát huy tốt quy chế dân chủ công khai; minh bạch, thực hiện
tốt công tác kiểm tra giám sát, kịp thời chấn chỉnh, điều chỉnh, uốn nắn những
lệch lạc tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
26

- Đề nghị UBND tỉnh có tiếp tục hỗ trợ thực hiện xây dựng xã đạt chuẩn
NTM kiểu mẫu, xã đạt chuẩn NTM nâng cao; thôn (bản) đạt chuẩn NTM tại các
xã đặc biệt khó khăn; khu dân cư kiểu mẫu, vườn mẫu.
- Hiện nay, trong Bộ tiêu chí NTM giai đoạn 2021-2025 có yêu cầu về
tiêu chí nước sạch. Theo quy định đối với xã NTM phải đạt >=20% số hộ sử
dụng nước sạch từ công trình nước tập trung, đối với xã NTM nâng cao phải đạt
>=55% số hộ sử dụng nước sạch từ công trình nước tập trung. Tuy nhiên, hiện
nay kinh phí để thực hiện mục tiêu này còn nhiều hạn chế; nhiều địa phương xa
nguồn nước. Vì vậy, trong thời gian tới đề nghị HDND tỉnh xem xét hỗ trợ kinh
phí từ 10% kinh phí đầu tư phát triển để thực hiện Chương trình, Chuyên đề để
hỗ trợ đầu tư công trình nước sạch cho các xã đăng ký đạt chuẩn NTM giai đoạn
2022-2025 và các xã có điều kiện ngân sách khó khăn. Đồng thời, đề nghị
HĐND tỉnh có ý kiến với Công ty cổ phần cấp nước Quảng Bình thực hiện xây
dựng đường ống nước kéo dài từ Đồng Hới ra Hoàn Lão để giảm tải cho công
trình cấp nước Hoàn Lão.
- Hiện nay, toàn huyện có 265 thôn, trong đó: có 49 NVH thôn đạt chuẩn
theo quy định, 133 NVH thôn xuống cấp nghiêm trọng cần xây mới, 59 NVH
cần nâng cấp sửa chữa, 24 thôn chưa có NVH. Đề nghị HĐND tỉnh bố trí ngân
sách hỗ trợ các địa phương xây dựng nhà văn hóa thôn để người dân có nơi sinh
hoạt cộng đồng.
- Đề nghị có chính sách hỗ trợ xã Sơn Lộc (xã đạt chuẩn năm 2021) đối
với nguồn vốn đầu tư phát triển được hỗ trợ như các xã đăng ký đạt chuẩn giai
đoạn 2021-2025.
- Có một số tiêu như: tiêu chí 13 về Tổ chức sản xuất, tiêu chí số 14 về Y tế
quy định ở Bộ tiêu chí nông thôn mới nâng cao và tiêu chí số 2 về mô hình thông
minh ở Bộ tiêu chí NTM kiểu mẫu, khó có thể đạt được ở các địa phương. Đề
nghị cấp trên xem xét, hướng dẫn cụ thể và hỗ trợ một phần kinh phí để địa
phương triển khai thuận lợi hơn./.
Nơi nhận: TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
- Đoàn giám sát; KT. CHỦ TỊCH
- Chủ tịch; các PCT UBND huyện;
PHÓ CHỦ TỊCH
- Các phòng ban đơn vị thuộc UBND huyện;
- Uỷ ban MTTQ VN huyện;
- UBND các xã;
- Lưu: VTUB; NN.

Nguyễn Văn Thủy


27

You might also like