You are on page 1of 22

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Có thể nói, gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Gia đình có vai
trò quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Muốn có một xã hội
phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt. Trong các
xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng
trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của
gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa thuận trong gia
đình, thì mới có thể yên tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội
và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình
bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Xuất phát từ bối cảnh trên đặt ra câu hỏi: Thực trạng của gia đình Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới này như thế nào? Giải pháp xây dựng và phát triển
gia đình Việt Nam hiện nay? Với mục đích trả lời cho những câu hỏi trên, em
chọn đề tài: “ Lí luận chung về gia đình và thực trạng, giải pháp xây dựng, phát
triển gia đình ở Việt Nam hiện nay” cho tiểu luận của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài


Mục đích nghiên cứu của đề tài: giúp cho bản thân cùng với các bạn sinh viên
Học viện Ngân Hàng hiểu rõ hơn về gia đình cũng như thực trạng, giải pháp xây
dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu thì cần phân tích rõ ràng, làm sáng
tỏ cơ sở lý luận về gia đình, nêu ra thực trạng của gia đình Việt Nam hiện nay và
đưa ra được giải pháp xây dựng gia đình trong thời kì mới.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: Gia đình trên toàn Thế giới và gia đình ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Trên toàn thế giới và Việt Nam, đặc biệt là Việt Nam
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

4. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận:


Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phương pháp nghiên cứu: đề tài
sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các phương pháp như: thống
nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.

5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài


1
Đề tài khái quát được lý luận chung của chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn
đề gia đình và cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, phân tích sự biến đổi của gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam hiện nay và liên hệ với thực trạng, giải pháp xây dựng, phát triển gia đình
ở Việt Nam từ đó liên hệ với bản thân và gia đình.

2
PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ TRONG GIA ĐÌNH
1. Khái niệm gia đình
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp người sống chung thành một
đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng
máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”.
Cũng có định nghĩa khác: “Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng
đồng của con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành,
tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan
hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên”.
Điều 3, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho rằng: “Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định
của Luật này”.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình chính là “trường học” đầu tiên, quan trọng để
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của con người. Đây chính là tổ
ấm của mỗi người, vì chỉ có ở gia đình, con người mới có thể cảm nhận được
tình yêu thương và sự bao dung. Gia đình đồng thời là nơi bảo tồn, lưu giữ các
giá trị văn hóa của dân tộc, là thiết chế giữ được nhiều nhất những nét văn hóa
truyền thống tốt đẹp.
2. Các mối quan hệ trong gia đình
Trong xã hội hiện đại, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình là mối liên
kết tình cảm, tâm lý đặc biệt, gắn bó với nhau về quyền lợi và trách nhiệm trong
suốt cuộc đời, từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cuộc đời. Dưới cơn lốc của kinh
tế thị trường, cùng với những ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế trong thời kỳ công nghệ lên ngôi, mỗi chúng ta phải luôn tỉnh táo, phải
giữ một cái đầu lạnh và một trái tim nóng khi tiếp cận những luồng tư tưởng văn
hóa khác nhau sao cho lành mạnh, vừa tiếp thu vừa kế thừa những giá trị truyền
thống văn hóa gia đình vốn có từ bao đời của cha ông để lại.
Dù tiếp cận ở góc độ nào chúng ta không thể nào phủ nhận những giá trị
thiêng liêng cao đẹp trong các mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, ông bà
con cháu, anh chị em trong gia đình, đó là giá trị của lòng chung thủy, bình đẳng
bình quyền, tôn trọng tự do, đoàn kết, yêu thương vừa mang tính truyền thống và
hiện đại. Vì vậy, dù cuộc sống có bận rộn đến đâu chúng ta cũng phải dành thời
gian cho gia đình, mỗi người tự trách nhiệm cao với bản thân và gia đình để xây
dựng mối quan hệ gia đình ngày càng gắn bó, khăng khít và bền chặt; đồng thời

3
phải biết giữa gìn và phát huy giá trị chân thiện mỹ của các mối quan hệ của gia
đình truyền thống Viêt Nam nhưng cũng không kém phần hiện đại
II. CÁC HÌNH THỨC TRONG GIA ĐÌNH LỊCH SỬ
1. Gia đình huyết tộc:
Hình thái gia đình dựa trên cơ sở quần hôn. Mọi quan hệ hôn nhân bị cấm
giữa những người cùng dòng máu. Sau gia đình huyết tộc là gia đình Punalua,
quan hệ hôn nhân được tiến hành giữa một số chị em ruột(hoăc bàng hệ) lấy một
số đàn ông tương ứng không phải anh em ruột làm chồng chung, và một số anh
em ruột (hoặc bàng hệ) lấy một số phụ nữ tương ứng không phải chị em ruột làm
vợ chung.
2. Gia đình mẫu hệ (còn gọi: đại gia đình):
Hình thái gia đình mở rộng, xuất hiện ở giai đoạn mẫu quyền trong xã hội
nguyên thủy. Gồm những thành viên thuộc 3 thế hệ trở lên(chủ gia đình và
chồng bà ta, các con gái của chủ gia đình và chồng của họ, con cái của các con
gái bà chủ gia đình và chồng của họ, con cái của các con gái bà chủ gia đình).
Điều khiển mọi công việc do người đàn bà cao tuổi, có nhiều hiểu biết và có uy
tín nhất đảm nhận. Một gia đình mẫu hệ thường rất nhiều người (trên dưới 40
người) nên phải ở trong những chiếc nhà dài.
3. Gia đình gia trưởng:
Hình thức gia đình do sự điều khiển của người đàn ông, ra đời do chuyển từ
chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Gia đình gia trưởng gồm nhiều thế hệ cùng
sống chung, hoạt động theo kiểu kinh tế tự nhiên về trồng trọt và chăn nuôi. Gia
đình gia trưởng để lại hậu quả nặng nề trong phương pháp tư duy, lối sống, trong
quan niệm đạo đức, cản trở sự phát triển nhân cách và cá tính đặc biệt là ở phụ
nữ và trẻ em.
4. Gia đình phụ hệ:
Gia đình xuất hiện muộn trong xã hội nguyên thủy, khi xã hội đã chuyển từ
chế độ mẫu quyền sang phụ quyền. Gia đình phụ hệ có 2 giai đoạn phát triển: đại
gia đình phụ hệ và tiểu gia đình phụ hệ. Đại gia đình phụ hệ gồm hai thế hệ trở
lên (chủ gia đình và vợ ông ta, các con trai và vợ con của họ). Cả gia đình là một
đơn vị kinh tế, lao động tập thể và hưởng thụ tập thể thành quả của lao động.
Điều khiển gia đình là người cha của các con trai đã có vợ con hoặc chưa đến
tuổi trưởng thành. Khi xã hội đã phân hóa giàu nghèo và phát sinh tư hữu thì đại
gia đình phụ hệ tan rã, nhường chỗ cho tiểu gia đình phụ hệ, chủ yếu gồm hai thế
hệ (bố mẹ và con cái). Mỗi tiểu gia đình (gia đình hạt nhân) là một tế bào xã hội
và là một đơn vị kinh tế, trong gia đình có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ.

4
5. Gia đình hạt nhân:
Hình thái gia đình xuất hiện từ thời đại cách mạng công nghiệp và đô thị
hóa, gồm có bố, mẹ và con cái còn nhỏ tuổi. Nhiều người, đặc biệt thanh niên
chưa có gia đình rời làng mạc quê hương đến các trung tâm đô thị và trở thành
những công nhân. Trong gia đình hạt nhân, chế độ gia trưởng đã nhường dần
cho sự bình đẳng giữa nam và nữ, vợ và chồng.
6. Gia đình một vợ một chồng (còn gọi: tiểu gia đình):
Hình thái gia đình quy định một người đàn ông chỉ được lấy một người đàn
bà làm vợ và họ cùng nhau sinh ra con cái, phát sinh trong xã hội phụ quyền thời
kì tan rã của xã hội nguyên thủy và đã trở thành hình thái gia đình chủ yếu của
loài người hiện nay. Hình thái gia đình này khá bền vững là do được bảo đảm
bằng cơ sở kinh tế chung của đôi vợ chồng và con cái của họ. Gia đình một vợ
một chồng thực hiện hai chức năng chủ yếu là tái sản xuất nòi giống, giáo dục
con cái và sản xuất kinh tế

III. MỐI QUAN HỆ CỦA GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI


1. Sự tác động của gia đình đối với sự phát triển của xã hội
 Gia đình là tế bào của xã hội
- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò của gia đình.
Người khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại
mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt
hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”.
- Gia đình là một nhân tố không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam. Cùng
với làng, nước (Quốc gia), gia đình tạo thành cái trục bền vững của cộng đồng
Việt Nam. Với ý nghĩa cao đẹp, từ năm 2001, ngày 28/6 được xem là ngày Gia
đình Việt Nam nhằm nhấn mạnh vai trò quan trọng của gia đình và tôn vinh
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
- Gia đình là tế bào của xã hội, nơi thực hiện đồng thời hai loại tái sản xuất:
tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất ra bản thân con người, làm cho xã
hội tồn tại và phát triển lâu dài. Gia đình là tổ ấm đem lại hạnh phúc cho mỗi cá
nhân trong suốt cuộc đời. Bởi vì, trong gia đình, mọi thành viên được chăm sóc
chu đáo với trách nhiệm và tình yêu thương. Gia đình là nơi sinh đẻ và nuôi dạy
con cái, góp phần quyết định vào sự trường tồn của gia đình và xã hội, có con
người thì có gia đình, còn tồn tại gia đình thì còn con người, xã hội càng phát
triển cao thì gia đình càng phát triển theo. Ngoài ra, gia đình cũng là đơn vị tiêu

5
dùng mà những yêu cầu đa dạng, phong phú của nó thúc đẩy quá trình sản xuất,
kinh doanh ngày càng phát triển.
- Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển
với những chuẩn mực và giá trị rất tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa
dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu
quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần
cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mỗi khó khăn, thử
thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, mặc dù cấu trúc và quan
hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi nhưng chức năng cơ bản của gia
đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng không thể thiếu trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Gia đình là “tế bào của xã hội”. Điều này chúng ta luôn luôn khẳng định
và dù trong hoàn cảnh nào, xã hội nào nó vẫn luôn luôn đúng. Nó nói lên mối
quan hệ mật thiết giữa gia đình và xã hội, quan hệ đó giống như sự tương tác
hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống của cơ thể. Xã hội (cơ thể)
lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh phúc
góp phần cho sự phát triển hài hòa của xã hội.
 Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
- Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự
hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công
dân của xã hội. Vì vậy muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia
đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì
làm cho xã hội tốt hơn”. Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu
thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát
triển của xã hội.
- Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn
là thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình
đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
- Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi
cá nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng,
đạo đức, lối sống.

6
 Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội

- Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Chỉ
trong gia đình mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa
vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau mà không cộng đồng
nào có thể thay thế.
- Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia đình với xã hội. Nhiều
thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Xã hội nhận
thức đầy đủ và toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hoàn cảnh gia đình của
người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các
thiết chế xã hội, mà còn thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến con
người; nghĩa vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự hợp
tác chung của các thành viên trong gia đình. Qua đó ý thức công dân được nâng
cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã hội có ý nghĩa thiết thực.
- Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người
sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất
quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng
chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung
quanh và xã hội.
- Ngoài ra gia đình còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay ngày càng đòi hỏi trình độ và yêu
cầu cao, đó phải là những người “giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa
tình; có tinh thần quốc tế chân chính”. Gia đình chính “là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” để hình thành nên
những phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân, mỗi con người, góp phần đắc lực vào
chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Có thể thấy rằng, trong sự phát triển chung của xã hội hiện nay, gia đình
luôn đóng một vai trò quan trọng. Không thể có một xã hội giàu mạnh, văn
minh nếu như không dựa trên cơ sở xây dựng những gia đình ấm no, hạnh phúc,
tiến bộ. Vì vậy, xây dựng và phát triển gia đình với những giá trị tốt đẹp trong
xã hội hiện đại là một trong những yếu tố cốt lõi trong mục tiêu chung của xây
dựng nền văn hóa mới XHCN.

7
2. Trình độ phát triển của xã hội quy định hình thức tổ chức, quy mô và
kết cấu của gia đình

Quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản
ánh đặc thù của trình độ phát triển kinh tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các
phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ
chức, quy mô và kết cấu gia đình. Từ gia đình tập thể – với hình thức quần hôn,
huyết thông; gia đình cặp đôi với hình thức hôn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá
thể với hình thức hôn nhân một vợ một chồng. Từ gia đình một vợ một chồng
bất bình đẳng sang gia đình một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Tất cả
những bước tiến trong gia đình đều phụ thuộc vào những bước tiến trong sản
xuất, trong trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại
lịch sử.

3. Tính độc lập tương đối của gia đình

Mặc dù, gia đình và xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng gia
đình vẫn có tính độc lập tương đối của nó. Bởi vì gia đình và quan hệ gia đình
còn bị chi phối bởi các yếu tố khác như tôn giáo, truyền thống, pháp luật … vì
vậy, mặc dù xã hội có nhưng thay đổi nhưng một số gia đình vẫn lưu giữ những
truyền thống của gia đình.

IV. CẦU NỐI GIA ĐÌNH GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI


1. Cá nhân với gia đình:
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh
ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan
trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính
trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã
hội.
2. Tác động của xã hội ảnh hưởng đến gia đình:
Có thể thấy, giá trị gia đình Việt gắn liền với đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội qua hàng ngàn năm lịch sử, và hiện nay, gắn liền với sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Gia đình không chỉ là cái nôi sinh
thành, nuôi dưỡng, giáo dục các thế hệ trẻ, mà còn là một chủ thể trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị nhân văn được giữ gìn và phát huy, thì gia
đình Việt cũng đang đối mặt với những vấn đề biến đổi giá trị. Thay vì vun đắp,
giữ gìn gia đình thì ly hôn trở thành hiện tượng phổ biến, không chỉ một lần mà

8
có người còn qua vài ba lần, không chỉ ở gia đình trẻ mà cả những cặp đôi từng
gắn bó nhiều chục năm, không chỉ ở một vài nhóm cư dân mà có ở tất cả các
nhóm, thành phần xã hội.
Thay vì vun đắp tổ ấm bằng việc giữ gìn tình yêu thương, sự tôn trọng, sẻ
chia thì không ít cặp đôi biến gia đình thành địa ngục bởi bạo lực tinh thần và
thể xác, bởi sự thiếu tôn trọng, vô trách nhiệm với nhau và với con cái, cha mẹ.
Thay vì chung tay lao động, đảm bảo thu nhập chân chính để phụng dưỡng cha
mẹ, chăm sóc con cái thì có gia đình chồng lười biếng, vợ ỉ lại, con phá phách,
kinh doanh trái pháp luật, sa vào tệ nạn, dẫn đến con cái bất hiếu với cha mẹ,
anh em mâu thuẫn, tranh chấp của cải…
Những biểu hiện phản giá trị nói trên được hình thành bởi chính các thành
viên gia đình và bởi những tác động tiêu cực trong xã hội. Trong gia đình, khi
hôn nhân không xuất phát từ tình yêu thương mà từ những tính toán vật chất tầm
thường, thì chính sự không thỏa mãn về vật chất trong quá trình sống chung sẽ
khiến gia đình nhanh chóng tan vỡ. Khi cha mẹ không gương mẫu, vợ chồng
thiếu sẻ chia, con cái vô trách nhiệm thì việc sống chung sớm muộn cũng nảy
sinh mâu thuẫn. Thật đau lòng trước một thực tế, có một tỷ lệ khá cao các vụ bạo
lực gây thương tích, các vụ tự tử hay sát hại nhau, nạn nhân và bị can lại là
người một nhà.
Về phía xã hội, nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó tác động lên
nhiều mối quan hệ, trong đó có gia đình. Không còn “Một túp lều tranh hai trái
tim vàng” để có một gia đình hạnh phúc khi đồng tiền quá được coi trọng.
Quan niệm gia trưởng, phụ quyền, phụ nữ phải “tam tòng”, con cái thì “cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy” bao đời ghi dấu ấn sâu đậm trong ý thức, tư tưởng
nhiều thế hệ, nay bị đả phá; thay vào đó là giải phóng phụ nữ, bình đẳng giới,
bảo vệ quyền trẻ em.
Sự thay đổi hệ giá trị gia đình tạo nên những cú “sốc” tâm lý dẫn đến những
phản ứng, hành vi trái ngược. Với người lớn tuổi và thủ cựu, một số giá trị mới
bị coi là trái “thuần phong mỹ tục”, nếu ai đó đưa vào đời sống gia đình sẽ bị
“trừng phạt”, và đòi hỏi phải “đóng cửa bảo nhau”. Với người trẻ tuổi và cấp
tiến, một bộ phận vận dụng giá trị mới bằng quan niệm lệch lạc, như: “con lớn
rồi, bố mẹ không có quyền…”; “vợ chồng bình đẳng, anh không làm việc nhà thì
tôi sẽ bỏ mặc”…
Không thống nhất về nhận thức dẫn đến không cùng nhau nhìn về một
hướng để giải quyết các mâu thuẫn gia đình, đó là nguyên nhân căn bản nhất
khiến gia đình Việt hiện nay luôn đối mặt với nguy cơ thiếu bền vững, không
hạnh phúc, có thể đổ vỡ.

9
Mặt khác, trong gia đình Việt Nam ngày nay, sự hình thành các gia đình trẻ,
với hôn nhân tự do, tự nguyện, tính độc lập cao, vị thế phụ nữ tăng lên đã tạo
nên những chuyển đổi từ các giá trị và phong tục cũ sang những giá trị và phong
cách khác theo xu hướng mới.
Phụ nữ đơn thân có con xem như không phải chịu sức ép của dư luận như
trước. Ly thân, ly hôn không phải là vấn đề bị nhòm ngó như xưa. Tuổi kết hôn
tăng lên… Những chủ nhân gia đình trẻ với tính độc lập cao (cả trong tư duy và
điều kiện tài chính) sẽ chủ động lựa chọn các giá trị cho gia đình mình.
Những gia đình trẻ, quy mô nhỏ song song tồn tại với các gia đình truyền
thống đa thế hệ. Tất cả những thay đổi đó dẫn đến một thực tế phổ biến đan xen
cái mới chưa hoàn thiện và cái cũ vẫn còn ý nghĩa và chưa thể mất; cùng lúc tồn
tại các mức độ khác nhau của các giá trị gia đình truyền thống và gia đình hiện
đại. Ở đây rất cần một định hướng có sức thuyết phục, phù hợp với thực tế, theo
hướng kết hợp các giá trị truyền thống và hiện đại. Những định hướng này phải
tính tới thực tế là gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị
truyền thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại.
Những định hướng này phải nhằm xây dựng gia đình vẫn là một đơn vị cơ
bản của xã hội Việt Nam, gia đình Việt Nam vẫn là trung tâm của các mối quan
hệ giữa các cá nhân với cộng đồng.
Mặt khác, bản thân Nhà nước với công cụ pháp lý và bộ máy thực thi pháp
luật cũng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong điều chỉnh, xử lý các vấn
đề tiêu cực của gia đình. Nên Nhà nước với các cơ quan chức năng, chuyên trách
về vấn đề gia đình cần tiếp tục nghiên cứu thực tiễn đời sống gia đình đang trong
sự vận động, biến đổi để xây dựng luật pháp, các nghị định, các chính sách xã
hội thích hợp nhằm phát huy vai trò to lớn của gia đình trong điều kiện mới của
đất nước, trong điều kiện chịu các tác động nhiều chiều từ công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Gạt đi những cái vốn được coi là giá trị trong gia đình truyền thống nay
không còn phù hợp nữa; ngăn chặn những phản giá trị xuất hiện do tác động tiêu
cực của các mặt trái trong đời sống hiện đại; nghiên cứu, định hình các tiêu chí
gia đình mới, đảm bảo kết hợp được các giá trị truyền thống và hiện đại, là
những việc cần làm để vun đắp giá trị gia đình Việt Nam hiện nay.
V. CHỨC NĂNG
Gia đình đóng vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của loài người.

10
- Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển có sứ mệnh đảm đương những
chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã giao cho, không thiết chế xã hội nào
có thể thay thế được.
- Chức năng của gia đình là một khái niệm then chốt của xã hội học gia
đình, các nhà nghiên cứu xã hội học gia đình trên cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô
đều khẳng định những chức năng cơ bản của gia đình.
- Gia đình có các chức năng cơ bản: Chức năng sinh đẻ; Chức năng giáo
dục; Chức năng kinh tế. Bên cạnh các chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải
thực hiện chức năng quan tâm và chăm sóc người cao tuổi.

1. Chức năng kinh tế


- Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải, vật
chất, là chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình, đảm bảo cho gia đình được
ấm no, giàu có làm cho dân giàu, nước mạnh
- Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “dân có giàu thì nước mới
mạnh “. Chức năng này bao quát về nhu cầu ăn, ở, tiện nghi, là sự hợp tác kinh
tế giữa các thành viên trong gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống.
- Để có kinh tế của mỗi gia đình ngày càng được cải thiện và nâng cao,
ngoài những thành viên đang còn ở độ tuổi trẻ em thì những thành viên đang ở
độ tuổi lao động cần có một công việc, một mức thu nhập ổn định.
- Ngoài ra còn cần có nguồn thu nhập thêm để có thêm nguồn thu chi trả
cho những chi phí lặt vặt hàng ngày.

2. Chức năng sinh sản và duy trù nồi giống


- Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội.
- Chức năng này sẽ góp phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến
tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo.
- Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của xã hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân
con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác
nhau.

3. Chức năng giáo dục


Đây là chức năng hết sức quan trọng của gia đình, quyết định đến nhân
cách của con người, dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người
công dân có ích cho xã hội bởi gia đình là trường học đầu tiên và ở đó cha mẹ là
những người thầy đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người:” Cha mẹ có nghĩa vụ
và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích
11
hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để
con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu
thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.. ”
- Mỗi gia đình đều hình thành tính cách của từng thành viên trong xã hội
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của con người và là chủ thể của sự
giáo dục.
- Như khoa học đã xác định rõ ràng, cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân
thường hình thành ngay từ thời thơ ấu.
- Gia đình trang bị cho đứa trẻ những ý niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự
vật, hiện tượng, những khái niệm về cái thiện và cái ác, dạy cho trẻ con hiểu rõ
đời sống và con người, đưa trẻ con vào thế giới của những giá trị mà gia đình
thừa nhận và thực hiện trong đời sống của nó
- Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và
lối sống thuần phong mĩ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú
ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý
thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức…

• Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố
khách quan và chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội,
những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh
nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh
hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình
• Để chức năng này được thực hiện một cách có hiệu quả thì gia đình phải có
phương pháp giáo dục, răn đe một cách đúng đắn. Ai sai thì nhận sai và sửa chữa
chứ đừng vì cái tôi, cái sĩ diện và tính bảo thủ của mình mà cố chấp không thay
đổi. Có nhiều gia đình dạy dỗ con cái bằng những trận đòn roi, những cái bạt tai
đến tối mặt mũi.. Liệu đó có phải là biện pháp hiệu quả? Những biện pháp ấy
chẳng những không đem lại tác dụng gì mà càng khiến con cái trở nên chai lì,
tâm lí tiêu cực và mất đi tình cảm thân thiết, niềm tin vào những người trong
cùng một mái nhà.
• Thay bằng những trận đòn roi đến nhừ người thì những bậc cha mẹ nên
dạy dỗ, chỉ bảo con cái mình nhẹ nhàng, phân tích rõ đúng sai để con trẻ hiểu.
Hơn nữa những bậc cha mẹ, ông bà nên là một tâm gương để thế hệ trẻ noi theo.
Các thành viên trong gia đình sống thuận hòa, vui vẻ, cùng nhau chia sẻ những
khó khăn trong cuộc sống.
• Lại có nhiều những gia đình cha mẹ mải kiếm tiền mà không biết hài hòa
giữa vật chất và tinh thần nên không có thời gian quan tâm sát sao đến con cái

12
khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có
những hành vi đi ngược lại với thuần phong mĩ tục và truyền thống đạo đức của
dân tộc…
Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc,
con người sẽ trở nên hoàn thiện hơn khi có sự kết hợp giáo dục cả ở gia đình,
nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi
người…
• Thông qua việc thực hiện chức năng giáo dục, gia đình thực sự trở thành
cầu nối không thể thay thế được giũa xã hội và cá nhân.

=> Ngoài ba chức năng cơ bản trên thì gia đình còn có chức năng thoả mãn
nhu cầu tinh thần, tình cảm và chăm sóc sức khỏe. Đây là chức năng có ý nghĩa
quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của
gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi.
+ Tổ ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững
tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi cho mỗi cá
nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời.
+ Càng về cuối đời, con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về
sự bình ổn, thoả mãn nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự
chăm sóc, đùm bọc của gia đình; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo cho việc chăm
sóc sức khỏe của các thành viên tron gia đình.

VI. XÂY ĐỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY


 Thực trạng gia đình Việt Nam
Thực trạng gia đình luôn là vấn đề được giới nghiên cứu và các nhà quản lý,
hoạch định chính sách quan tâm theo dõi. Việc nắm bắt thực trạng gia đình trong
từng giai đoạn gắn liền với những biến đổi kinh tế, xã hội của đất nước là cơ sở
quan trọng để đề xuất các đề tài, dự án nghiên cứu tiếp theo và xây dựng các
chính sách mới về gia đình.
Nước ta hiện nay đang ở chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện được nhiều chiến lược đổi mới toàn diện.
Đặc biệt nền kinh tế chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường. Cùng với sự phát triển của kinh tế, gia đình Việt Nam đã có sự đổi mới
so với trước kia.
 Gia đình Việt Nam trong lịch sử:
Gia đình truyền thống Việt Nam gắn với xã hội cũ: nền kinh tế nông nghiệp,
tự cung, tự cấp, xã hội chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Nho giáo... Do đó nó

13
mang nặng tính chất phụ quyền và gia trưởng: “trọng nam khinh nữ”, người đàn
ông nắm quyền chỉ huy.
Gia đình được xây dựng theo kiểu tôn ti trật tự rõ ràng và mọi người đều
phải ý thức về phân vị, xử sự theo đúng thân phận của mình. Ví dụ: người phụ
nữ tề gia nội trợ, người đàn ông quyết định mọi việc trong gia đình, tham gia vào
các hoạt động của làng xóm, dòng tộc. Như vậy, gia đình gia trưởng có nề nếp,
nhưng các thành viên trong gia đình có quan hệ bất bình đẳng với nhau (chồng -
vợ, đàn ông - đàn bà, người trên - kẻ dưới...).
Gia đình gia trưởng rất coi trọng mối quan hệ chiều dọc giữa các thế hệ trên,
dưới. Nó chi phối các mối quan hệ ngang như vợ-chồng, mối quan hệ giữa chị -
em. Dựa trên quan hệ chiều dọc mà người trên bảo thì người dưới phải nghe.
Cha mẹ có quyền quyết định và chi phối mọi hoạt động của con cái và ngược lại,
con cái phải phục tùng mọi sự chỉ bảo, sai khiến của cha mẹ. Đây là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ép duyên: “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” tồn tại
trong xã hội cũ.
Trong khi coi tọng mối quan hệ chiều dọc, mối quan hệ theo chiều ngang bị
coi nhẹ đi: cái tôi cá nhân bị chìm ngập trong gia đình, họ tộc.
Bên cạnh những mặt hạn chế trên, gia đình truyền thống Việt Nam cũng có
nhiều yếu tố tích cực, được lưu truyền đến tận ngày nay. Đó là tình cảm yêu
thương gắn bó lẫn nhau giữa các thành viên, đạo vợ - chồng phải thương yêu
nhau, đạo làm con phải hiếu thảo với cha mẹ; rồi tình cảm yêu quê hương, đất
nước, dân tộc, tinh thần đoàn kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Những nét đẹp truyền
thống này được gìn giữ và kế tục, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá đậm đà của
dân tộc
Ở Việt Nam, gia đình kiểu cũ kéo dài hàng ngàn năm đã không thể tự bảo
tồn trước sự đổi thay của đất nước. Hoàn cảnh một nước phương Đông bị phong
kiến bên trong và thực dân bên ngoài áp bức, đòi hỏi nhân dân ta phải vượt ra
khỏi sự kìm hãm và ràng buộc của gia đình cũ.
Thời cuộc quyết định thái độ của mỗi người đối với đất nước, với nhà, với
bản thân. Lợi ích của quốc tế, thắng lợi của cách mạng Việt Nam không cho
phép duy trì sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng trong gia đình. Tình cảm
con người phải vượt qua cái ngưỡng cửa gia đình để vươn tới những tình cảm
lớn hơn của tổ quốc, không cho phép bo bo giữ lấy những gì là hẹp hòi, là thiển
cận, phản tiến bộ trong những phép nhà, phép nước của Nho giáo.
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lớn trong lịch sử. Cách mạng
không chỉ giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ
nói chung, mà còn giải phóng cho gia đình. Các tầng lớp thanh niên và phụ nữ

14
thoát khỏi sự coi thường và áp chế của bậc bề trên cao tuổi và của nam giới.
Cách mạng khơi dậy ở họ những suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ sức
mạnh để vùng lên, để đứng thẳng với tư thế con người.
Hai cuộc kháng chiến đã thu hút những lực lượng vật chất và tinh thần to lớn
của cả dân tộc và của mỗi gia đình. thanh niên không còn chỉ ở trong nhà, dưới
sự sắp đặt của cha mẹ, mà đã tự khẳng định mình, đứng lên gánh vác sự mệnh
thiêng liêng là bảo vệ tổ quốc và chủ động tham gia những công việc chung. Phụ
nữ không chỉ còn quẩn quanh làm nội trợ và tham gia sản xuất vì lợi ích gia đình
mà phải đảm đang việc nước, việc nhà, cầm cày, cầm súng, không chịu thua kém
nam giới.
 Gia Đình Việt Nam Hiện Nay:
Nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta đã từng bước thực hiện chiến lược đổi mới toàn diện về kinh tế, chính
trị, xã hội.... mà trọng tâm là chuyển nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh
tế nhiều thành phần. Trong đó kinh tế gia đình có vị trí rất quan trọng và được
Đảng và Nhà nước khuyến khích giúp đỡ. Theo Nghị quyết của Đảng: “Phát
triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế cách mạng chủ
nghĩa”. Gia đình trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, không còn tình trạng thụ
động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước như thời kinh tế bao cấp.
Ngày xưa ở nước ta đại gia đình truyền thống với tôn ti trật tự cũng là mẫu
mực và chuẩn mực của xã hội. Dưới uy quyền của người gia trưởng, gia đình
truyền thống đã quy tụ các con cái đã có chồng, có vợ cùng với con cháu họ.
Điều được nhấn mạnh trong hoàn cảnh gia đình này là vấn đề dòng dõi, vấn đề
chuyển giao tài sản vật chất và tinh thần, chuyển giao truyền thống, chuyển giao
những giá trị từng tồn tại trong quá khứ.
Ngày nay thì khác, ngày nay trong gia đình thu hẹp, hai vợ chồng cùng với
con cái chỉ nghĩ đến tương lai của họ và họ tự làm ra lịch sử của họ. Trong gia
đình gọi là gia đình hạt nhân này, những quan hệ về dòng máu, ngày càng
nhường chỗ cho mối quan hệ về tình yêu.
Gia đình truyền thống nơi chứa đựng những giá trị quá khứ của gia đình, nơi
thiêng liêng mà ở đó củng cố và tái hiện mối quan hệ thân tộc thì đã dần dần bị
chọc thủng trong mạng lưới đô thị hoá.
Với sự biến động thường xuyên của xã hội hiện đại, sự phụ thuộc của cặp vợ
chồng vào quá khứ ngày càng giảm bớt. Họ ít nghĩ tới ngôi nhà thời thơ ấu, nơi
họ đã sống với cha mẹ của họ. Ngày nay, họ chỉ mong ước xây dựng được một
ngôi nhà phù hợp với họ trong một nơi mà họ lựa chọn lấy.

15
Chế độ hôn nhân ở nước ta là chế độ hôn nhân một vợ một chồng thật sự
trọn vẹn và được pháp luật ghi nhận. Vợ và chồng có quyền lợi và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong đời sống xã hội. Vợ và chồng được tự do lựa chọn
những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và
một số nhu cầu khác... Khác hẳn với xã hội cũ, gia đình một vợ - một chồng chỉ
là hình thức, chỉ là một chồng đối với phụ nữ, còn đối với đàn ông là chế độ đa
thê, người vợ không có tiếng nói trong gia đình. Vì vậy, thực hiện chế độ một vợ
- một chồng là thực hiện giải phóng phụ nữ.
Hiện nay, các gia đình vẫn phát huy được truyền thống yêu nước. Họ coi bảo
vệ tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng. Họ đã động viên con em mình thực hiện tốt
nghĩa vụ quân sự. Còn trong lao động các gia đình hăng say lao động, sản xuất,
kinh doanh đúng pháp luật. Thực hiện đầy đủ bổn phận và trách nhiệm với Nhà
nước Nhìn chung các gia đình luôn luôn có ý thức bảo vệ tài sản Nhà nước, tuân
thủ pháp luật.
Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới. Gia đình cũng đang
tiếp tục chuyển biến. Cái mới và cái cũ còn đan xen nhau. Không còn chữ Hiếu
mù quáng như xưa. Nhưng trong gia đình lại có không ít hiện tượng cha mẹ thờ
ơ với việc nuôi dạy con cái còn con cái thì hỗn láo, bạc đãi cha mẹ. Cũng không
ít những hiện tượng bất hoà và tranh chấp giữa anh em, chị em.
Sự biến đổi trong quan hệ gia đình diễn ra khá phức tạp. Mấy năm gần đây
lại xuất hiện khuynh hướng trở lại với những nền nếp của gia đình xưa. Người ta
xây dựng nhà thờ, sửa sang lại mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả, đi lại thăm hỏi lẫn
nhau, bày tỏ tình cảm sẵn sàng cưu mang lẫn nhau trong nội bộ gia đình và dòng
họ.
Tuy nhiên, khôi phục truyền thống không có nghĩa là quay trở lại những cái
tiêu cực của gia đình kiểu cũ, trong đó có nhiều nguyên tắc đã lỗi thời của đạo
đức Nho giáo.
Trong xã hội ta hôm nay và ngày mai, gia đình vẫn tiếp tục giữ một vai trò
quan trọng trong sự nghiệp chung của đất nước. Đạo đức cũ của dân tộc trong đó
có những nhân tố đạo đức. Nho giáo còn tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều
điều bổ ích nhưng chúng ta lại không thể tiếp thu toàn bộ những quy tắc sinh
hoạt của gia đình kiểu cũ. Chúng ta cũng không thể bắt chước nước này hay
nước khác trong cách thức họ tiếp thu những quan điểm Nho giáo về gia đình để
phục vụ cho chế độ xã hội của họ, cho lợi ích giai cấp của giới cầm quyền. Sự
khác nhau giữa ta với họ là sự khác nhau giữa hai chế độ.
Khi giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản còn nắm quyền điều hành đất
nước thì sinh hoạt và đạo đức gia đình ở những nước này không giống như sinh

16
hoạt và đạo đức trong gia đình ở những nước mà nhân dân đã nắm chính quyền
làm chủ đất nước như ở Việt Nam.
Gia đình Việt Nam ngày nay không nằm trong khuôn khổ của chế độ phong
kiến và tư sản mà lại ra đời trên cơ sở đánh đổ những chế độ ấy. Cái gắn bó
trong quan hệ gia đình cũ là quyền lợi kinh tế của mỗi thành viên do người gia
trưởng chi phối. Cái gắn bó trong quan hệ gia đình mới là tình cảm trong sáng và
sâu sắc giữa các thành viên trên cơ sở quyền lợi chung của dân tộc và quyền tự
do hạnh phúc của mỗi con người.
Tình cảm gia đình hiện nay phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng và tự
nguyện chứ không phải do sự áp đặt của quyền lực chính trị và sự trói buộc của
quyền lợi kinh tế.
VII. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH HIỆN NAY.
1. Vấn đề đặt ra:
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực đạo đức có giá trị tốt đẹp. Những truyền thống quý báu như
lòng yêu nước, yêu quê hương, kính già, yêu trẻ, tình nghĩa, thuỷ chung, cần cù
và sáng tạo trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử
thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong
gia đình có thay đổi, nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn được gìn
giữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của
xã hội là gia đình". Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quán
triệt trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và trong các bộ luật liên quan,
với các nội dung hướng tới việc củng cố vị trí, vai trò và chức năng của gia đình.
 Một gia đình hạnh phúc, hoà thuận sẽ tác động tới cộng đồng, thúc đẩy xã
hội vận động tạo ra sự biến đổi và phát triển. Gia đình hạnh phúc bền vững
không chỉ có sự "no ấm, bình đẳng, tiến bộ" mà còn là nơi hội tụ tổng thể những
nét đẹp văn hoá của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Nó được thể hiện qua
thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình, trong đó phải đảm bảo các nguyên
tắc: Đối với người trên phải tôn kính, lễ độ, khiêm tốn và quan tâm, chăm sóc;
đối với người dưới phải biểu lộ thái độ thông cảm, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha;
đối với người cùng thế hệ phải hết sức tôn trọng, chân thành, bác ái; trong quan

17
hệ vợ chồng phải hoà thuận trên cơ sở tình yêu thương chung thuỷ và sự hiểu
biết lẫn nhau.
Thực tiễn đã chứng minh, gia đình yên ấm hạnh phúc là điều kiện, tiền đề
quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao động
sáng tạo đạt hiệu quả cao nhất. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm vun đắp,
tham gia xây dựng tổ ấm gia đình, trong đó người vợ, người mẹ có vai trò rất
quan trọng. Trong giáo dục con cái phải kết hợp chặt chẽ giữa môi trường "Gia
đình - nhà trường - xã hội " thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. Tuy nhiên, chúng
ta không nên "tuyệt đối hoá" giáo dục trong gia đình mà xem nhẹ giáo dục ở nhà
trường và xã hội, hoặc "phó mặc" sự giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội...
Cùng với những thành tựu chung của đất nước, sau khi có đường lối đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trên lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng có
nhiều tiến bộ tích cực như: ý thức xây dựng gia đình được nâng cao, các chức
năng gia đình từng bước thực hiện đầy đủ; lợi ích gia đình dần được đảm bảo.
Hoạt động kinh tế gia đình từng bước được phát triển, đời sống vật chất và tinh
thần gia đình được cải thiện rõ rệt, trong đó có một bộ phận gia đình trở nên giàu
có. Các mối quan hệ trong gia đình ngày càng được tôn trọng, bình đẳng và dân
chủ. Quyền trẻ em, quyền tự do và bình đẳng trong hôn nhân của các thành viên
được khẳng định và tôn trọng. Kết cấu và quy mô gia đình ngày càng thu hẹp để
hình thành các gia đình "hạt nhân" và sinh đẻ ít con hơn, tạo cơ hội chăm sóc và
nuôi dạy con tốt hơn...
Xây dựng gia đình mới XHCN trên cơ sở kế thừa những giá trị tốt đẹp nhất
của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại về gia
đình đó là, phải biết "gạn đục khơi trong" gạt bỏ và hạn chế những yếu tố tiêu
cực nhằm tạo sự phát triển của từng gia đình và xã hội, phải dựa trên cơ sở "Hôn
nhân tiến bộ" coi tình yêu chân chính là cơ sở tinh thần chủ yếu. Hôn nhân "một
vợ một chồng" đồng thời phải xây dựng mối quan hệ bình đẳng, thương yêu, có
trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Xây dựng mối quan hệ giữa gia
đình và cộng đồng với các tổ chức chính trị, xã hội khác, đảm bảo các quyền lợi
cho phụ nữ và bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, gia đình ở nước ta hiện
nay còn bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục như: mặt trái của cơ chế thị
trường đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội, nhiều tệ nạn xã hội "tấn
công" vào các gia đình, ảnh hưởng lớn đến lối sống, đến việc hình thành nhân
cách của con người và các mối quan hệ trong gia đình; quan hệ vợ chồng, anh
em, họ hàng, làng xóm bị phai mờ, giá trị tinh thần bị xem nhẹ; những thay đổi
18
của xã hội đã kéo theo sự thay đổi của gia đình, khiến cho các quan hệ trong gia
đình trở nên lỏng lẻo; nhiều gia đình có điều kiện, cha mẹ mải lo làm ăn, công
tác, không có thời gian quan tâm giáo dục con cái dẫn đến con cái hư hỏng, sa
vào tệ nạn xã hội.
Tình trạng ly hôn, ly thân ngày càng gia tăng kéo theo những hệ lụy không
nhỏ đối với từng gia đình và toàn xã hội: trẻ em hư hỏng, tiếp thu văn hóa phẩm
tiêu cực, bỏ học lang thang kiếm sống, vi phạm pháp luật… Bạo lực gia đình có
xu hướng tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ,
người già, trẻ em. Một trong những nguyên nhân đó là: do sự tác động của mặt
trái xu thế toàn cầu hoá, nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình chưa đầy đủ vì
thế mà những giá trị của gia đình truyền thống chưa thật sự được quan tâm, chưa
thấy hết và khai thác tốt tiềm lực kinh tế gia đình.
2. Giải pháp:
Xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững là trách nhiệm chung của mỗi cá
nhân, của các gia đình và của toàn xã hội. Trong đó cần chú ý một số giải pháp
sau:
Thứ  nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo của
chính quyền các cấp đối với công tác gia đình. Cấp uỷ Đảng và chính quyền các
cấp cần xác định công tác gia đình là một trong những nội dung quan trọng trong
các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xem
đây là nhiệm vụ thường xuyên; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể giải
quyết những thách thức khó khăn về gia đình và công tác gia đình; xoá bỏ các hủ
tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; phòng chống các tệ nạn xã hội,
bạo lực trong gia đình; đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ; tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung, nhất là trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và
phát triển của gia đình. Quan tâm một cách thiết thực và toàn diện hơn nữa đối
với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện
bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người để xây dựng gia
đình "No ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc bền vững".
Thứ  hai: Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm nâng
cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên gia đình về
vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hôn nhân và gia

19
đình; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động phòng chống sự
xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, kế thừa và phát huy những giá trị
văn hoá truyền thống  tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị
tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
Thứ  ba: Quan tâm đến phát triển kinh tế gia đình, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống dịch vụ có liên quan để góp phần củng cố, ổn định và phát triển kinh tế gia
đình; có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình
chính sách, gia đình các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình đang sinh
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Thứ  tư: Xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia
đình và cộng đồng; tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức pháp
luật, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội.... 
Để từng gia đình là hạt nhân tốt của xã hội, thiết nghĩ bên cạnh sự chăm lo
của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội thì vai trò của từng gia đình và các
thành viên trong gia đình là hết sức quan trọng và có tính quyết định. Toàn xã
hội quan tâm đến công tác xây dựng gia đình, nhưng từng gia đình và các thành
viên biết quan tâm đến nhau, sống có trách nhiệm mới là xây dựng gia đình hạnh
phúc bền vững.
VIII. KẾT LUẬN:
“Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng, xã
hội. Gia đình giữ vai trò trung tâm trong đời sống của mỗi con người, là nơi bảo
đảm đời sống vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá trị
xã hội quan trọng bậc nhất của người Á Đông, trong đó có Việt Nam. Đối với
mỗi quốc gia thì gia đình được coi là “một tế bào xã hội có tính sản sinh”. Do
vậy sức mạnh trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại
và phát triển của gia đình.”
Đối với sự phát triển của xã hội trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, sự
vững vàng bền bỉ của nền tảng gia đình cũng sẽ là yếu tố quyết định đến sự giàu
mạnh, thịnh vượng của đất nước. Cho nên, việc quan tâm coi trọng đến yếu tố
gia đình chính là hướng đi đúng đắn cho việc tạo dựng một xã hội phát triển ổn
định và bền vững. Điều này càng thấy rõ khi chúng ta nhìn nhận đầy đủ vị trí,
vai trò, chức năng của gia đình trong xã hội hiện nay.
Đúng như C.Mác đã nói: “…hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở – đó là quan
hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cho nên yếu tố huyết
thống và tình cảm là nét bản chất nhất của gia đình. Nhưng, xét rộng hơn và đầy
20
đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ
chức kinh tế – tiêu dùng, một môi trường giáo dục – văn hóa, một cơ cấu – thiết
chế xã hội đặc biệt. Với tất cả những đặc biệt đó, cho thấy gia đình có một vị trí
vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của xã hội nói chung.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và
phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn
hóa dân tộc.
Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo
trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được
gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ
nước của dân tộc và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy rằng, trong sự phát triển chung của xã hội hiện nay, gia đình
luôn đóng một vai trò quan trọng. Không thể có một xã hội giàu mạnh, văn minh
nếu như không dựa trên cơ sở xây dựng những gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến
bộ.
Vì vậy, xây dựng và phát triển gia đình với những giá trị tốt đẹp trong xã hội
hiện đại là một trong những yếu tố cốt lõi trong mục tiêu chung của xây dựng
nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO

http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/ly-luan-va-khai-niem-ve-gia-dinh-gia-tri-va-gia-tri-
dao-duc-truyen-thong/
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/moi-quan-he-giua-cac-thanh-vien-gia-dinh-trong-
thoi-ky-hien-dai/ https://sotttt.camau.gov.vn/wps/portal/?
1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/sottttlibrary/siteofsotttt/
tintucsukien/cactinkhac/chaomungngaygiadingvietnam
http://nghean.edu.vn/tin-tuc-su-kien/cac-bai-viet/gia-dinh-la-te-bao-cua-xa-hoi.-
gia-dinh-co-hoa-thuan-hanh-ph.html
https://hocvalam.edu.vn/2021/12/06/gia-dinh-la-gi-phan-tich-vai-tro-vi%CC
%A3-tri-va-moi-quan-he%CC%A3-bie%CC%A3n-chung-giu%CC%83a-gia-
dinh-va-xa%CC%83-ho%CC%A3i-ket-m/#:~:text=Gia
%20%C4%91%C3%ACnh%20l%C3%A0%20t%E1%BA%BF%20b
%C3%A0o,%C4%91%E1%BB%83%20t%E1%BA%A1o%20n%C3%AAn
%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i.
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/gia-dinh-va-vi-tri-vai-tro-cua-gia-dinh-trong-xa-
hoi-hien-dai/
https://hocvalam.edu.vn/2021/12/06/gia-dinh-la-gi-phan-tich-vai-tro-vi%CC
%A3-tri-va-moi-quan-he%CC%A3-bie%CC%A3n-chung-giu%CC%83a-gia-
dinh-va-xa%CC%83-ho%CC%A3i-ket-m/#:~:text=Gia
%20%C4%91%C3%ACnh%20l%C3%A0%20t%E1%BA%BF%20b
%C3%A0o,%C4%91%E1%BB%83%20t%E1%BA%A1o%20n%C3%AAn
%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i
https://hocvalam.edu.vn/2021/12/06/gia-dinh-la-gi-phan-tich-vai-tro-vi%CC
%A3-tri-va-moi-quan-he%CC%A3-bie%CC%A3n-chung-giu%CC%83a-gia-
dinh-va-xa%CC%83-ho%CC%A3i-ket-m/#:~:text=Gia
%20%C4%91%C3%ACnh%20l%C3%A0%20t%E1%BA%BF%20b
%C3%A0o,%C4%91%E1%BB%83%20t%E1%BA%A1o%20n%C3%AAn
%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i

22

You might also like