You are on page 1of 28

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

(Dành cho sinh viên không chuyên ngành LLCT thuộc Đại học Huế)

Câu 1: Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI (2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của
con người với thế giới xung quanh. Khái niệm “tư tưởng” trong “tư tưởng
Hồ Chí Minh” có ý nghĩa tầm khái quát triết học. Nó không dùng với ý nghĩa tinh
thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là hệ
thống quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học
(thế giới quan và phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, quyền lợi,
nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn và
tác động trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Nhà tư tưởng là người biết nắm bắt và giải quyết trước người khác tất cả
các vấn đề thuộc về chính trị - sách lược, tổ chức, tập hợp lực lượng, về những yếu
tố vật chất của phong trào cách mạng không phải một cách tự phát. Theo đó, từ cổ
chí kim, từ Đông sang Tây, lịch sử có trăm nghìn nhà tư tưởng lỗi lạc,
đóng góp to lớn cho lịch sử phát triển của loài người, trong đó có Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Khái niệm trên đây chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
hình thành và ý nghĩa của tư tưởng đó. Cụ thể:
− Bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh: là hệ thống
- Bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh: là hệ thống các
quan điểm lý luận, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam.
− Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác - Lênin; giá trị
văn
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác – Leenin; giá trị văn
hóa dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân loại.
− Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh: tài sản tinh thần to lớn của
Đảng,
- Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh: tài sản tinh thần to lớn của Đảng, dân tộc
Việt Nam và nhân loại, soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Câu 2: Phân tích vai trò của Chủ nghĩa Mác – Leenin đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin là bộ phận tinh túy nhất của văn hóa nhân loại, là đỉnh
cao của tư tưởng loài người, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp tiến tiến
nhất. Nó là học thuyết tổng kết quá khứ, giải thích và cải tạo hiện tại, chuẩn bị
hướng dẫn tương lai. Hồ Chí Minh nhận thức rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ
là “chiếc cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam” mà còn là mặt trời soi sáng
cho chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận, quyết định bước phát triển
mới về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh vì:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đem lại cho Người phương pháp đúng đắn để tiếp
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đem lại cho Người phương pháp đúng đắn để tiếp cận
văn hóa dân tộc, truyền thống cha ông cũng như tinh hoa, trí tuệ nhân loại. Nhờ có thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc mới có
thể tiếp cận, chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân
tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên hệ tư tưởng của mình.
- Nhận thấy được quy luật tất yếu của nhân loại dù sớm hay muộn các dân
- Nhận thấy được quy luật tất yếu của nhân loại dù sớm hay muộn các dân tộc
trên thế giới sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Chính nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết
kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước
của cách mạng Việt Nam.

- Từ thế giới quan và phương pháp luận Mácxít, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy
con đường dân tộc Việt Nam phải đi và đích phải đến. Đó là con đường
cách mạng vô sản và đích của nó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước không
đối lập mà gắn bó mật thiết với nhau. Điều này làm cho Hồ Chí Minh thành
người Việt Nam yêu nước chân chính nhất, nâng chủ nghĩa yêu nước của
Việt Nam lên một tầm cao mới; giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin mà Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường giai
công nhân, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Hồ Chí Minh
đã tiếp cận, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin theo phương cách
riêng của mình, cụ thể là:
- Khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã không rơi
vào sao chép, giáo điều, rập khuôn mà biết tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo
những nguyên lý đó phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt
Nam.

- Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó
là phương pháp biện chứng duy vật cốt để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước
giải phóng dân tộc và để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt
Nam.

- Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp nhận
thức mác-xít, đồng thời theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nhằm
nắm lấy cái tinh thần, bản chất chứ không bị trói buộc vào ngôn từ, tự tìm
ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với những hoàn cảnh cụ thể của
cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong kinh điển.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, những tác phẩm, bài viết của H ồ Chí
Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng của Người theo thế giới quan,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người luôn khẳng định rằng:
“chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, khoa học
nhất, cách mạng nhất”. Và, như vậy có thể nhận thấy rằng Tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, có tính cách mạng, khoa học,
rất sâu sắc và triệt để.

Câu 3: Hãy nêu những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của Người. Vì
sao?
* Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản
* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh
* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa vào lực lượng đại đoàn kết toàn dân,
lấy liên minh công – nông làm nền tảng
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa vào lực lượng đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh công - nông làm nền tảng
* Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng
* Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo
lực cách mạng
* Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sáng tạo lý luận của Người. Vì sao?
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc là luận điểm sáng tạo nhất
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc là luận điểm sáng tạo nhất.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo:
Do Quốc tế cộng sản chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn
của cách mạng thuộc địa nên Quốc tế cộng sản đã xem nhẹ vai trò của cách
mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa là “hậu bị quân”, phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc. Đại hội VI của Quốc tế cộng sản (1928) đã thông
qua. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa với nhận thức rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công
cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo
của nhân dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế
quốc để giảnh độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng,
ngang nhau chứ không phải là quan hệ phụ thuộc, quan hệ chính - phụ. Từ năm
1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc
địa”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người viết:
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính
quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con
vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái
vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản con vật vẫn tiếp tục sống và
cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”.
- Cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và
sức mạnh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng
tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn; là một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được phong trào cách mạng giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn. Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa
đế quốc, là nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc nhưng cũng là khâu yếu nhất trong hệ
thống các nước đế quốc. Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế
đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà
máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao
động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách
mạng của nó”, “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa”.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân,
cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả năng cách mạng to lớn, đó là tinh thần cách mạng hết sức quyết liệt, một lực
lượng vô cùng to lớn khi được tập hợp, giác ngộ. Theo Hồ Chí Minh, phải “làm cho
các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và
đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, kh ối
liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1/7/1924), Hồ Chí Minh
phê phán các đảng cộng sản ở Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở
các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách tích cực trong vấn đề thuộc địa.
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách
mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa
chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Vận dụng công thức của C.
Mác, Hồ Chí Minh rút ra luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực
hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Tháng 8/1945, khi thời cơ cách mạng
xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”. Kháng chiến trường kỳ gian khổ phải trông vào sức
mình, không được trông chờ người khác; đồng thời, phải tự lực cánh sinh vì
“một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống
hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế
giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam, phát huy tinh thần độc lập tự chủ đó, ta không cần sự giúp đỡ
bên ngoài nhưng Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) vẫn
thành công; Cách mạng Tháng Tám anh hùng diễn ra ngay trước khi quân Đồng minh
vào giải giáp quân Nhật; đánh bay đế quốc Pháp với trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu”; cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng giành thắng lợi vẻ
vang, đánh dấu bằng Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Ngày nay, công cuộc đổi mới càng là
minh chứng cho tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần sáng tạo đó.

Câu 4: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về một só đặc trưng cở bản của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

* Quan niệm Hồ Chí Minh về đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội

Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
cũng trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ
yếu trên những điểm sau đây:
- Về chính trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có chế độ dân chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và
làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết dân tộc mà
nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mọi quyền
lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là người quyết định vận
mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực.
Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào
sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
- Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao
hơn chủ nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền
kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ
nghĩa xã hội biểu hiện ở công cụ lao động, phương tiện lao động trong quá trình sản
xuất “phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong
chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là “lấy nhà máy, ngân hàng, xe lửa… là của
chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân”.

- Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội
phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan
hệ xã hội
Sự phát triển cao của văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở chỗ
chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người. Điều này được hiểu
rằng chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi, không
còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên
nguyên tắc công bằng, hợp lý.
Sự phát triển cao về văn hóa, đạo đức còn thể hiện ở chỗ chủ nghĩa xã hội
là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng,
không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và
nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài
hòa trong sự phát triển của xã hội và tự nhiên. Hồ Chí Minh chó rằng chỉ có chủ
nghĩa xã hội thì “mỗi người mới có điều kiện cải thiện đời sống riêng, phát huy được
cái riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là cơ sở, là tiền đề đi tới chế độ xã hội
hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, không còn gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu
nhau và yêu thương nhau.
- Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một công trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trong chủ nghĩa xã hội - chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích cá
nhân gắn liền với lợi ích tập thể, lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ
thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa
xã hội.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định “cần có
sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới thể đưa cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công.

Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa
các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử
nhân loại; là sự tổng hợp hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội,
đó là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con
người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị... Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì loài
người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do của
những người lao động”. Ở đó, cá tính của con người được phát triển đầy đủ, năng lực
con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện. Nhưng
theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu dài, dần dần
và không thể nôn nóng.
* Ý nghĩa của các đặc trưng đó đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta
hiện nay: Bốn đặc trưng trên có giá trị lý luận và thực tiễn, soi đường dẫn lối cho công
cuộc đấu tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là những nền tảng, cơ sở
khoa học cho việc xây dựng CNXH ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Câu 5: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại hội đoàn kết dân tộc đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành
công của cách mạng
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng,
trong thời đại mới, để đánh bại chủ nghĩa đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người thì phải tập hợp tất cả lực lượng, xây dựng khối
đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại
đoàn kết dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị, mà là một chiến lược
cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có
chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Nhờ tư
tưởng nhất quán và chính sách Mặt trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xây dựng thành công khối đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng cách mạng giành được
nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân
dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng
lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn
kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có
tính chân lý về vai trò của khối đoàn kết: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”.
* Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, là nhu cầu khách quan của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn của Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định
mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”.

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của của Đảng và của mọi giai
đoạn cách mạng. Cách mạng muốn thành công Đảng phải cụ thể hóa đường lối, chủ
trương thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách
mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ
hàng đầu của dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp quần
chúng, chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân
và hạnh phúc cho con người.
Câu 6: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của
Mặt trận dân tộc thống nhất.
* Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên
minh công-nông-trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình tập hợp, phát triển lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
cho rằng, Đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà phải
là một tập hợp bền vững các lực lượng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo. Đây là nguyên
tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chỉ rõ “lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng”, vì công nông là “người trực tiếp sản
xuất tất cả mọi phú tài làm cho xã hội sống. Vì họ đông đảo hơn hết, mà cũng bị áp
bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của
mọi tầng lớp khác.”

Ngoài ra, phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là tầng lớp trí thức
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người nói : “trong sự nghiệp cách mạng, trong
sự nghiệp xây dựng CNXH, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và
công nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể
được củng cố và phát triển vững chắc khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì chỉ có
Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi CN Mác-leenin mới đánh giá đúng vai
trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn
kết toàn dân.
* Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xuất phát tù mục tiêu vì
nước, vì dân, đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân và
các quyền con người.
Hồ Chí Minh cho rằng để tập hợp lực lượng vào khối đại đoàn kết phải xác
định rõ lợi ích chung và quyền lợi riêng của mỗi thành phần, giai tầng, mỗi người.
Trong đó, lợi ích tối cao là độc lập, tự do. Đó là ngọn cờ đoàn kết, là mẫu số chung để
quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, tôn giáo vào Mặt trận.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi căn bản của
các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước VN dân
chủ cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được cụ thể hóa trong từng
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với mọi tầng lớp, đối tượng trong
mỗi thời kỳ cách mạng.
* Thứ ba, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là một tổ chức chính trị-xã hội rộng lớn của dân
tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận thống nhất phải theo nguyên
tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả vấn đề của Mặt trận đều được
đưa ra để tất cả các thành viên của Mặt trận bàn bạc công khai, đi đến thống nhất, loại
trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Để thực hiện nguyên tắc này, Mặt trận phải
đứng trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mqh giữa lợi ích giai cấp
với lợi ích dân tộc, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt,

* Thứ tư, Mặt trận dân tộc thống nhất phải đoàn kết chặt chẽ, thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên
cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi
đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có nhuững nhân tố tiêu cực cần phải
khắc phục.
Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau,
phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
Câu 7: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề nguyên tắc trong hoạt
động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Một là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động
Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chủ nghĩa ấy là
chủ nghĩa Mác - Lênin, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý
việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù
hợp với từng đối tượng. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng
hoàn cảnh, tránh giáo điều, đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình hoạt động, Đảng phải tổng kết kinh
nghiệm những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mác
- Lênin. Đồng thời, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại ch ủ nghĩa
Mác - Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-
Lênin.
- Hai là, tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” và “dân chủ”
có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải
đi đến tập trung. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải làm cho mọi đảng viên bày tỏ
hết ý kiến của mình ở trong Đảng, tức là khơi dậy tinh thần trách nhiệm và
tính chủ động của tất cả đảng viên. Khi đã thảo luận, bày tỏ ý kiến rồi đi đến tập
trung, tức là thống nhất ý chí, hành động. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ
dân, tư tưởng phải được tự do. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân
lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý” .

Đối với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng phải tập thể
lãnh đạo vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến
đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trong thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có
nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, xem xét rõ nhiều mặt hơn. Góp kinh
nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà
có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Tuy nhiên, cần phải có cá nhân phụ trách thì mới có chuyên trách, công việc
mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho
người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì
cũng không xong.
Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, phải chú
ý khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình
trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.
- Ba là, tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần
đi, tức là vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu trong
quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể của xã hội, Đảng bao
gồm các tầng lớp xã hội, đội ngũ của Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết
điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều có
cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc
tốt nhất là tự phê bình và phê bình. Phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ
Chí Minh xác định là phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng
ngày. Thái độ phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nan, không
giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm; phải có tình thương yêu lẫn
nhau.

- Bốn là, kỷ luật nghiêm minh, tự giác


Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi
tất cả mọi tổ chức Đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ
Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đả ng. Đồng
thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và
đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải gương mẫu trong
cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể
nhân dân.
- Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị
quyết của tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong
Đảng, phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải sống với nhau có tình,
có nghĩa. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý chí và
hành động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là
một người”.
- Sáu là, thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
giao phó. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo
và xây dựng xã hội nhưng cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị
thoái hóa, ham muốn quyền lực, tranh giành quyền lực. Trong khi đó, Đảng không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc. Vì vậy, Đảng phải đặc biệt
quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy
trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính
quyền nhà nước. Người chỉ rõ “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại
Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao
phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.

- Bảy là, liên hệ mật thiết với nhân dân


Đảng Cộng sản Việt Nam “không phải trên trời sa suống. Nó ở trong xã hội mà
ra”, là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quan hệ đó được hình thành từ đòi
hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt: Đảng vừa
là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác
đồng tình với sự lãnh đạo của Đảng, lại là chủ nhân của đất nước. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Để xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Hồ Chí Minh
nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên không được “vác mặt quan cách mạng”,
không được ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau; không phải cứ dán lên trán hai chữ
“cộng sản” là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục, mà phải trong công tác hằng ngày
cố gắng học dân, làm cho dân tin, tức là cọi trọng chữ tín.
- Tám là, đoàn kết quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ giữ vai trò lãnh đạo chính quyền Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội, mà còn giữ vững và tăng cường mối quan hệ
quốc tế trong sáng. Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân
trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn từ quan điểm “cách mạng Việt
Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới” của Hồ Chí Minh.
Do đó, Người mong Đảng “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
* Nguyên tắc quan trọng nhất: Tập trung dân chỉ là nguyên tắc cơ bản,
quan trọng nhất trong hoạt động của Đảng. Đây chính là yếu tố quyết định sức mạnh
của Đảng. Để phát huy được sức mạnh tối đa của một tập thể, cần phải có các cá nhân
xuất chúng, họ có trách nhiệm tập hợp lại một cách chặt chẽ, đồng đều, muôn
người như một. Đảng viên có quyền dân chủ, tư tưởng tự do trong khuôn khổ. Mọi
người cùng nhau đóng góp ý kiến, góc nhìn của mình để đi đến một thống nhất, tìm ra
chân lý. Nếu không có dân chủ thì trong nội bộ Đảng sẽ âm u, lúc đó tập trung sẽ
không tạo ra sức mạnh vì Đảng và các cá nhân bên trong Đảng đã bị suy yếu từ bên
trong; ngược lại, nếu không có sự thống nhất thì nội bộ Đảng sẽ rời rạc, chia tách,
kéo bè kết phái. Một khi nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm sẽ làm Đảng
suy yếu, mất đoàn kết nội bộ, gây ra những sai lầm về chủ trương đường lối, làm
giảm uy tín của Đảng và mất dần đi vai trò lãnh đạo với nhân dân. Vì thế, phát huy
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng, đoàn kết thống nhất, đóng góp ý
kiến trong Đảng, nâng cao tính đảng và sức chiến đấu là nhiệm vụ quan trọng
trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời nhiều vấn
đề mang tính hệ thống trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc hoạt động Đảng.
Câu 8: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
- Nhà nước của dân
+ Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân là
người có địa vị cao nhất. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn
cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”.
+ Nhà nước của dân thì “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”2, “tất cả
mọi quyền lực đều là của nhân dân”, nhân dân có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Nhân dân
thực thi quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ
gián tiếp.
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn những đại biểu
mà họ đã bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo
Hồ Chí Minh, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra, đồng thời
có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
+ Dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán bộ công chức nhà
nước chỉ là người được uỷ quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải quyết
những công việc chung của đất nước. Hồ Chí Minh gọi người cầm quyền, cán bộ
công chức nhà nước là “đầy tớ”, “công bộc” của dân. Người cho rằng, làm công bộc
của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng rất khó khăn, nặng nề. Muốn vậy,
người cầm quyền phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân và biết sức mạnh của
dân. Tác phong của người cầm quyền phải là: “óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm”.
- Nhà nước do dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước phải
tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộng:
+ Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ
phiếu kín bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước...
+ Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiên chế độ bãi
miễn theo ba mức độ từ thấp đến cao: bãi miễn đại biểu, bãi miễn các cơ
quan nhà nước, bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu, các cơ quan nhà
nước không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Người viết:
“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.

+ Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ,
sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
+ Nhà nước do dân còn bao hàm nội dung quan trọng là nhân dân có quyền
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
- Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân
dân. Điều này được Người giải thích rõ trên các phương diện:
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất và duy
nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với
phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
phải hết sức tránh”. Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở hàng đầu đánh
giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước.
+ Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các
nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân được học hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc
sức khoẻ. Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay dân mà hướng dẫn
dân tự chăm lo đời sống của mình.
+ Nhà nước biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn luôn được mọi người dân ủng hộ,
xây dựng. Đồng thời là người hướng dẫn dân, nhà nước phải còn biết kết hợp giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung ương và địa phương, lợi ích của các
ban, ngành, các chủ thể xã hội, làm sao để bất kỳ ai cũng thấy được nhà nước là
người đại diện cho lợi ích chân chính của họ.

+ Nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà nước.
Câu 9: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam
a. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng. Văn hóa
là mục tiêu thể hiện ở chỗ văn hóa là quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do, quyền mưa cầu hạnh phúc và thụ hưởng các giá trị văn hóa; là khát
vọng về các giá trị chân - thiện - mỹ của nhân dân; là một xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh; một xã hội đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn được
quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện phát triển
toàn diện.
Văn hóa là động lực được Hồ Chí Minh lý giải rất cụ thể. Văn hóa là một
động lực cho sự phát triển của đất nước, các thiết chế văn hóa góp phần xây
dựng và phát triển đất nước, con người Việt Nam. Trong đó, văn hóa chính trị
soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo toàn dân thực hiện độc lập, tự chủ, tự
cường; văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin thắng lợi của cách mạng; văn hóa
giáo dục góp phần nâng cao dân trí, mở rộng vốn hiểu biết cho nhân dân,
thực hiện sứ mạng trồng người, đào tạo con người mới, nguồn nhân lực cho cách
mạng; văn hóa đạo đức góp phần nâng cao phẩm giá con người Việt Nam; văn hóa
pháp luật đảm bảo dân chủ, trật tự kỷ cương, phép nước.
b. Văn hóa là một mặt trận chiến đấu
Văn hóa là một mặt trận được hiểu văn hóa là cuộc đấu tranh cách
mạng trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa rất phong
phú, bao gồm các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, các hoạt động văn nghệ, báo
chí, công tác lý luận.
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh văn hóa, văn nghệ sĩ là những
chiến sĩ, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật là những vũ khí chiến đấu. Để làm tròn
nhiệm vụ, chiến sĩ trên mặt trận này phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi bút
là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”; phải bám sát cuộc sống thực
tiễn, đi sâu vào quần chúng, đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, nghiêm khắc phê bình
những thói hư tật xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu…
Vì văn hóa là mặt trận, văn nghệ sĩ là những chiến sĩ nên các chiến sĩ văn hóa
văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng
Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ, là chất
liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ phải
xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của
sinh hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ các giá trị tinh thần đó. Văn
hoá văn nghệ thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải:
+ Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân dân.
Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.
+ Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí... phải
thể hiện tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn vậy thì trong hoạt
động văn hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi sau về: đối tượng,
mục đích và phương pháp.
Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân thì phải đánh giá cho
đúng quần chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân dân như sau:
+ Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật chất,
mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò, vè” là “những hòn ngọc
quý” mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của mình.
+ Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên anh
ta”.
+ Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn hoá một
cách trung thực, chính xác nhất.
+ Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời
đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng
của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác phẩm
miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng c ủa nhân dân. Tác phẩm
đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân
yêu thích. Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp
nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ nhưng sản phẩm “loại hai”, những món
ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật
cao, tinh tế, có giá trị nhân văn cao.
Câu 10: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng
“Trung với nước, hiếu với dân”
Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với
cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối các phẩm
chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng.
“Trung với nước, hiếu với dân” là một phẩm chất tạo nên một cuộc cách mạng sâu
sắc về lính vực đạo đức vì bác Hồ đã đảo ngược phạm trù “trung”, “hiếu”.
Tiêu chuẩn này được xem là thức đo đánh giá cán bộ Đảng viên. Lòng trung,
hiếu rộng lớn ấy thể hiện ở ý chí và quyết tâm phấn đấu cho nước nhà được hoàn toàn
độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đã đưa thêm vào nội dung mới,
cách mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu
với cha mẹ như quan niệm Nho giáo cũ mà “trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ cái cốt lõi nhất
trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong
kiến. “Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội;
thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và đi lên của đất nước.
Nước ở đây là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác định
“bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, Đảng và Chính
phủ là “đầy tớ của nhân dân” chứ không phải là “quan nhân dân để “đè đầu cưỡi cổ
nhân dân”.
Trung với nước là:
- Trong mối quan hệ cá nhân với cộng đồng và xã hôi, phải biết đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước mắt
- Phải quyết tâm phấn đấu thưc hiện mục tiêu. cách mạng
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước,
hiếu với dân” là một sự đảo lộn mang tính cách mạng trong quan niệm đạo
đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã lật ngược lại học thuyết của Nho giáo như
Mác đã làm với học thuyết Hêghen. Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất, chân ngửng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa so phía trước.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị -
đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta từ trước đến nay mà còn lâu dài mãi mãi về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng: điều chủ chốt nhất của
đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là
“trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà còn phải
hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa
hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân tình, hiểu
rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí để hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Hiếu với dân thể hiện ở:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân
- Tin dân, học dân, sẵn sàng lắm nghe ý kiến dân, gắn bó mật thiết với dân
- Tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước
- Hết lòng vì dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Theo
Hồ Chí Minh, người cách mạng phải nắm vững và thực hành đạo đức trung với nước,
hiếu với dân thì sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo ra được
sức mạnh to lớn và đưa cách mạng đến thành công.
Câu 11: Phân tích quann điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Phẩm chất này gắn liền và là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung
với nước, hiếu với dân”. Phẩm chất này lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng
điều chỉnh. Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên vì nó diễn
ra hàng ngày, hàng giờ, trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cả khi thuận
lợi và lúc khó khăn. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến phẩm chất này,
từ tác phẩm Đường Cách mệnh cho đến Bản Di chúc cuối cùng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương
Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh giữ lại những yếu tố tốt
đẹp, cải biến nội dung, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” năm 1949, Hồ Chí Minh giải
thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau:
+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, khai
thác hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và hiệu quả thực tế, lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta”. Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy cũng làm được. Siêng học
tập thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng làm nhất định thành
công”.
Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều
phải cần, cả nước đều phải cần. “Người siêng năng thì hay tiến bộ. Cả nhà siêng
năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước
siêng năng thì nước giàu mạnh”.
+ Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của
của dân, của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không
phô trương hình thức.

Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà
không Kiệm thì như thùng không đáy, Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm,
không phát triển.
+ Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”;
phải “trong sạch, không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Theo Hồ Chí Minh, Liêm là thước đo bản chất con
người. Có Kiệm mới có Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam, tham tiền của, tham
địa vị, tham ăn ngon... đều là những hành động bất liêm. Người dạy: “ai
cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
+ Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Điều gì không đứng
đắn, không thẳng thắn tức là Tà Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời
sống mới, là những đức tính không thể thiếu được của mỗi con người cũng như trời
có bốn mùa, đất có bốn phương - đó là quy luật tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp
nào cũng cần phải giữ 3 mối quan hệ: Đối với mình: không tự cao, tự đại,
luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay,
sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc
tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì giải quyết cho kỳ được, cho đến nơi,
đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm,
việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho
dân.
+ Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính nhưng
nó cũng có nội hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham làm những việc ích
quốc lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Đó là nội
dung của chủ nghĩa tập thể. Người chí công vô tư thì lòng dạ thảnh thơi, đầu
óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được chủ nghĩa tập thể, loại
trừ chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt được đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là
lợi ích cá nhân, Người chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ
chủ trương xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Người nói: “Chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân con ngườ i”. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt; nó khéo
dỗ dành người ta đi xuống”, “là một thứ vi trùng rất độc” đẻ ra hàng trăm thứ bệnh:
tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao
tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, quan liêu, mệnh lệnh,....
Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi
chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy.
Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của kẻ địch khác.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, phải quyết
tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại rất lớn
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Người cho rằng: chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân
tộc. “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có
sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau; có
khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của con người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư
một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính và có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh những đức tính tốt
ấy gồm có năm điều: “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con
người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
*Liên hệ bản thân: Bản thân cần thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư” vì chuẩn mực này rất quan trọng đối với sinh viên. Mỗi người trước hết cần
phải luôn luôn học tập để từng ngày tiến bộ; siêng năng, chăm chỉ, cần cù rèn luyện
tác phong, đạo đức để trở thành công dân có ích, góp phần phát triển đất nước. Tuổi
trẻ phải biết tiết kiệm thời gian, tiền bạc, đặc biệt là tiết kiệm sức khỏe. Hơn nữa, phải
biết xây dựng kế hoạch cụ thể cho bản thân để đạt được các mục tiêu, hoàn thiện
bản thân.
Câu 12: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người.
* Ý nghĩa: Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa
lâu dài của cách mạng.
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa quan trọng của chiến lược xây dựng con người
mới. Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người
đề cập tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan
điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài nhưng cũng rất cấp bách. Con người
phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục -
đào tạo theo nghĩa hẹp.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên
phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này về mặt
lôgic không hề mâu thuẫn, cần hiểu là phải đặt ra ngay từ đầu nhiệm vụ xây dựng con
người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm
gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng
hoàn thiện, nâng cao và phụ thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia
đình và cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc
thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng
chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa có nhiều biện pháp nhưng theo Hồ Chí Minh
giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Người luận giải: giáo dục tốt sẽ tạo ra
tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh
hưởng xấu đến thế hệ trẻ. Bác rất đề cao vai trò của giáo dục: một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt cũng
như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.
*Nội dung và phương pháp xây dựng con người
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải
đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu.
Trong việc đào tạo và sử dụng con người, Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả tài năng
và đạo đức. Hai mặt Đức và Tài luôn luôn thống nhất với nhau, không tách rời nhau,
tạo điều kiện cho nhau, giúp cho con người hoàn thành được nhiệm v ụ cách
mạng của mình. Trong hai mặt ấy “Đức” giữ địa vị là nền tảng. Trong việc “trồng
người”, Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức, Người thường xuyên bồi
đắp cái nền tảng ấy cho con người. Người yêu cầu tất cả mọi người không trừ một
ai, không trừ cấp nào đều phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh coi sự nghiệp “trồng người” là công việc “trăm năm”,
không thể nóng vội một sớm một chiều, không tuỳ tiện, sao nhãng sự nghiệp
giáo dục. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải theo tinh thần của Khổng Tử: “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”, của Lênin: “Học! Học nữa! Học mãi”.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.

You might also like