You are on page 1of 70

GIỚI THIỆU CHUNG

1. Tên môn học


- Tên tiếng Việt: Chủ nghĩa xã hội khoa học
- Tên tiếng Anh: Science socialism
2. Số tín chỉ: 02
3. Phân bổ thời gian
- Lý thuyết:
- Thảo luận:
TT Tên chương Tổng Lý Thảo
số giờ thuyết luận
Chươn
g

1 Nhập môn CNXHKH 04 02 02

2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 07 04 03

3 CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH 05 03 02

4 Dân chủ XHCN và nhà nước XHCN 06 03 03

5 Cơ cấu xã hội giai cấp và liên minh giai cấp 04 02 02


trong thời kỳ quá độ lên CNXH

6 Vấn đề dân tộc và tôn giáo trong thời kỳ quá 07 04 03


độ lên CNXH

7 Vấn đề gia đình trong thời kỳ quá độ lên 06 03 03


CNXH

4. Mục tiêu về môn học


4.1. Kiến thức: Sinh viên nắm được những tri thức cơ bản, cốt lõi nhất về
Chủ nghĩa xã hội khoa học, một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác –
Lênin.
4.2. Kỹ năng: Sinh viên nâng cao được năng lực hiểu biết thực tiễn và khả
năng vận dụng các tri thức nói trên vào việc xem xét, đánh giá những vấn đề chính
trị - xã hội của đất nước liên quan đến chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi
lên CNXH ở nước ta.
4.3. Thái độ: Sinh viên có thái độ chính trị đúng đắn về môn học CNXHKH
nói riêng và nền tảng tư tưởng của Đảng ta nói chung..
5. Điều kiện tiên quyết: Đã học xong môn Triết học Mác – Lênin và Kinh tế chính
trị Mác – Lênin
6. Mô tả vắn tắt nội dung môn học:
Nội dung của môn học gồm 7 chương: Chương 1 trình bày những vấn đề cơ
bản có tính nhập môn của CNXHKH (Quá trình hình thành, phát triển của
CNXHKH); từ chương 2 đến chương 7 trình bày những nội dung cơ bản của
CNXHKH theo mục tiêu môn học.
7. Hướng dẫn thực hiện
- Giảng viên thực hiện theo kế hoạch giảng dạy
- Sinh viên tham gia đầy đủ các buổi lý thuyết và thảo luận, chuẩn bị các nội
dung theo đề cương môn học.
8. Tài liệu học tập
8.1. Tài liệu bắt buộc
- Chương trình môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành.
- Giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo
biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản.
8.2. Tài liệu tham khảo
Giáo trình môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ
chức biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007; các tài liệu
phục vụ dạy và học Chương trình Lý luận chính trị do Bộ Giáo dục và Đào tạo trực
tiếp chỉ đạo, tổ chức biên soạn.
9. Tiêu chuẩn đánh giá
- Điểm chuyên cần: 10%
- Điểm thảo luận: 10%
- Điểm giữa kỳ: 20%
- Điểm cuối kỳ: 60%
Chương 1:
NHẬP MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
(Tổng số: 04 tiết, trong đó 02 tiết lý thuyết; 02 tiết thảo luận)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Giúp sinh viên hiểu được những vấn đề cơ bản của môn CNXHKH trước khi
đi vào những nội dung cụ thể là học cái gì?(đối tượng của môn học), học để làm gì
(mục đích của môn học), làm thế nào để đạt được những mục đích đó? (những yêu
cầu về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu môn học).
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Sinh viên nắm được những vấn đề chung về môn
CNXHKH: sự ra đời, đối tượng, phương pháp nghiên cứu môn học.
- Về kỹ năng: Sinh viên có khả năng luận chứng được khách thể và đối
tượng nghiên cứu của một môn khoa học và một vấn đề nghiên cứu; phân biệt được
những vấn đề chính trị - xã hội trong đời sống hiện thực.
- Về tư tưởng: Sinh viên có thái độ tích cực với việc học tập môn học; có
mục tiêu vào mục tiêu, lý tưởng và sự thành công của công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Sự ra đời của CNXHKH
1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời Chủ nghĩa xã hội khoa học
- Khái niệm CNXHKH:
Chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác- Lênin, luận
giải từ các giác độ triết học, kinh tế và chính trị- xã hội về sự chuyển biến tất yếu
của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. (Chủ nghĩa Mác)
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành chủ nghĩa Mác- Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin gồm 3 bộ phận cấu thành:
triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong đó, mỗi bộ phận có đối tượng nghiên cứu cụ thể nhưng đều nằm trong một
hệ thống lý luận khoa học thống nhất – đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến đến
giải phóng con người.
Trong khuôn khổ môn học này, chủ nghĩa xã hội khoa học được nghiên cứu
theo nghĩa hẹp.
- Điều kiện kinh tế- xã hội:
+ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp phát
triển mạnh mẽ tạo nên nền đại công nghiệp. Nền đại công nghiệp cơ khí làm cho
phương thưc sản xuất tư bản chủ nghĩa cơ bước phát triển vượt bậc. Cùng với sự
phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp, sự ra đời hai giai cấp cơ bản đối lập lợi
ích, nhưng nương tựa vào nhau: giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
+ Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị, áp bức
của giai cấp tư sản nổ ra, bước đầu có tổ chức và có quy mô rộng khắp. Sự phát
triển nhanh chóng có tính chính trị công khai của phong trào công nhân đã minh
chứng, lần đầu tiên giai cấp công nhân đã xuất hiện như một lực lượng chính trị độc
lập, bắt đầu phản kháng thẳng thắn vào giai cấp tư sản. Sự lớn mạnh của phong trào
công nhân đặt ra một nhu cầu bức thiết cần có một lý luận dẫn đường, cần có một
kim chỉ nam cho hành động.
+ Điều kiện kinh tế- xã hội ấy không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư
tưởng mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
với tư cách là một lý luận tiến bộ.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:
Đầu thế kỷ XIX, những phát minh khoa học quan trọng có tính chất vạch
thời đại đã xuất hiện: Thuyết tế bào, thuyết tiến hóa, định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng. Thành tựu của những phát minh này là cơ sở khoa học cho sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử - cơ sở phương
pháp luận để nghiên cứu những vấn đề lý luận chính trị- xã hội của các nhà sáng lập
chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề tư tưởng lý luận
Trong khoa học xã hội cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có 3
thành tựu là tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học:
+ triết học cổ điển Đức với tên tuổi của các nhà triết học vĩ đại: Friedrich
Hêghen (1770 -1831) và Lutvich Phoiơbắc (1804 - 1872)
+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh với Adam Smith (1723-1790) và David
Ricardo (1772 -1823)
+ Chủ nghĩa không tưởng phê phán với các đại biểu tiêu biếu nhà không
tưởng Pháp: Xanh Ximông (1769-1825), Sáclơ Phuriê (1772-1837) và nhà không
tưởng người Anh Rôbớt Ô oen (1771-1858) đã tạo ra những tiền đề lý luận trực tiếp
nhất để C.Mác và Ph.Ănghen kế thừa, cải biến và phát triển thành chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã có những giá trị nhất định:
1) Thể hiện tinh thần phê phán, lên án mặt trái của chế độ quân chủ chuyên chế và
chế độ tư bản chủ nghĩa; 2) Đã đưa ra nhiều luận điểm có giá trị về xã hội tương
lai: tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội; 3) đã nêu ra vai trò của công
nghiệp và khoa học - kỹ thuật, về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao
động trí óc, về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; …; 4) thức tỉnh phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân và người lao động.
Tuy nhiên, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán cũng còn
không ít hạn chế: 1)không phát hiện ra được quy luật vận động và phát triển của xã
hội loài người nói chung, quy luật vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản nói
riêng; 2) không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện cuộc
chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản; 3)không chỉ ra
được những biện pháp hiện thực cải tạo xã hội cũ áp bức, bất công, xây dựng xã hội
mới tốt đẹp.
C.Mác và Ph.Ănghen kế thừa những hạt nhân hợp lý, lọc bỏ những bất hợp
lý, không tưởng của các nhà lý luận trước đó, xây dựng và phát triển CNXHKH
1.2. Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ănghen
- Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị:
Thoạt đầu, khi bước vào hoạt động khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen là hai
thành viên tích cực của Câu lạc bộ Hêghen trẻ và chịu ảnh hưởng của quan điểm
triết học của Hêghen và Phoiơbắc. Với nhãn quan khoa học uyên bác, các ông đã
sớm nhận thấy những mặt tích cực và hạn chế trong triết học của Hêghen và
Phoiơbắc.
Sau khi thâm nhập vào phong trào cách mạng cũng như hoạt động khoa học
sôi nổi, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã có một sự chuyển biến từ tập trường triết học
duy vật sang duy tâm, chuyển biến từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập
trường chủ nghĩa cộng sản.
Đối với lập trường triết học: kế thừa “cái hạt nhân hợp lý” của triết học
Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục những hạn chế trong triết
học của họ để xây dựng nên phép biện chứng duy vật.
Đối với lập trường chính trị: Trong một số tác phẩm (“Tình cảnh nước Anh”,
“Lược thảo khoa kinh tế - chính trị” ) các ông vạch rõ những hạn chế của kinh tế
chính trị cổ điển Anh, vạch trần tội ác của giai cấp thống trị, cảm thông với tình
cảnh của người dân bị áp bức.
- Ba phát kiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen:
+ Chủ nghĩa duy vật lịch sử: vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên
cứu lịch sử xã hội, tìm ra quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
+ Học thuyết về giá trị thặng dư: Vận dụng phương pháp luận và thế giới
quan triết học vào nghiên cứu nền kinh tế TBCN đi tới khẳng định bản chất của chủ
nghĩa tư bản, nguyên nhân nảy sinh những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản là giá trị
thặng dư, khẳng định sự diệt vong tất yếu của CNTB và sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội.
+ Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: Trên
cơ sở vừa phê phán, vừa tiếp thu,vừa bổ sung, vừa phát triển chủ nghĩa xã hội
không tưởng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến khẳng định thắng lợi của cách mạng
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo sẽ thực hiện việc thủ tiêu chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới: CNXH.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của CNXHKH:
Trong số các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội
thì tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848) được coi là tác phẩm quan
trọng, đánh dấu sự ra đời của CNXHKH. Bởi tác phẩm đã nêu và phân tích một
cách có hệ thống lịch sử và lôgic hoàn chỉnh về những vấn đề cơ bản nhất, đầy đủ,
xúc tích và chặt chẽ nhất thâu tóm hầu như toàn bộ những luận điểm của chủ nghĩa
xã hội khoa học. Những luận điểm cơ bản: Sự hình thành chính đảng của giai cấp
công nhân, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội, vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân… đã được phân tích trong tác phẩm này.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của CNXHKH
2.1. C.Mác và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
- Thời kỳ từ 1848 – Công xã Pari 1871
+ Bộ “Tư bản” ra đời đã chứng minh những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
lịch sử một cách khoa học
+ Các tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapactơ (1852),
Chiến tranh nông dân ở Đức (1850), Cách mạng và phản cách mạng ở Đức(1851)
… đã tiếp tục làm rõ những luận điểm của CNXHKH được phác thảo trong “Tuyên
ngôn của Đảng công sản”: tư tưởng cách mạng không ngừng, vai trò của giai cấp
công nhân trong giành chính quyền, thiết lập chính quyền, thực hiện liên minh giai
cấp công – nông….
- Thời kỳ sau công xã Pari đến 1895
+ Nêu ra nhiệm vụ của CNXHKH: nghiên cứu sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, cách thức để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh đó.
+ Dự đoán về tương lai của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
+ CNXHKH không phải học thuyết “nhất thành bất biến” mà là một học
thuyết mở, cần được bổ sung và phát triển. (công lao của C.Mác và Ph. Ăngghen là
đưa CNXH từ không tưởng trở thành khoa học.
2.2. V.I.Lênin vận dụng và phát triển CNXHKH trong điều kiện mới
Nếu như công lao của C.Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa xã hội
không tưởng thành khoa học thì công lao của Lênin là biến chủ nghĩa xã hội khoa
học từ lý luận trở thành hiện thực, được đánh dấu bằng sự ra đời của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – Nhà nước Xô Viết 1917. Những đóng góp to
lớn của Lênin trong sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
có thể khái quát ở hai thời kỳ cơ bản:
- Thời kỳ trước cách mạng Tháng 10 Nga
+ Đấu tranh chống các trào lưu phi mác xít nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác, mở
đường cho chủ nghĩa Mác thâm nhập mạnh mẽ vào Nga;
+ Kế thừa những di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính đảng,
V.I.Lênin đã xây dựng lý luận về đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân,
về các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung hoạt động của
đảng;
+ Hoàn chỉnh lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản,
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất yếu cho sự chuyển biến
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc, đoàn kết
và liên minh của giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác;
những vấn đề về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng
xã hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc.
+ V.I. Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị
của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc và đi đến kết luận: cách mạng
vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước thậm chí một nước riêng lẻ, nơi chủ
nghĩa tư bản chưa phải là phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây
chuyền tư bản chủ nghĩa.
+ Biến chủ nghĩa xã hội từ khoa học trở thành hiện thực: sự ra đời của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới- nhà nước Xô viết 1917. Lênin đã dành
nhiều tâm huyết để luận giải về chuyên chính vô sản; phân tích mối quan hệ giữa
chức năng thống trị và chức năng xã hội của chuyên chính vô sản.
+ Gắn hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng, Lênin trực tiếp lãnh đạo
Đảng của giai cấp công nhân Nga, tập hợp lực lượng để đấu tranh chống chế độ
Nga hoàng, tiến tới giành chính quyền về tay nhân dân lao động Nga.
- Thời kỳ sau cách mạng tháng 10 Nga (giai đoạn có chính quyền nhà nước
của giai cấp công nhân)
+ Giai đoạn này Lênin bàn nhiều đến vấn đề chuyên chính vô sản. Chuyên
chính vô sản là một hình thức nhà nước mới – nhà nước dân chủ, nhà nước dân chủ
với đại đa sốgồm công nhân và nhân dân lao động, chỉ chuyên chính với giai cấp tư
sản.
+ Thời kỳ quá độ: để tiến lên chủ nghĩa xã hội cần phải trải qua những bước
quá độ nhỏ, cải tiến chế độ sở hữu cũ, cách mạng văn hóa, trong thời kỳ quá độ cần
thiết phải trải qua nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Chuyên chính vô sản là
tất yếu trong thời kỳ quá độ. Chuyên chính vô sản là một cuộc đấu tranh kiên trì,
bạo lực và hòa bình, bằng quân sự và bằng kinh tế, bằng giáo dục và bằng hành
chính, chống những hủ tục của xã hội cũ.
+ Vấn đề dân chủ: không có dân chủ thuần túy hay dân chủ chung chung, chỉ
có dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.3. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau
khi V.I.Lênin qua đời cho đến nay
- 1924 đến năm 1953, có thể gọi là “Thời đoạn Xtalin” trực tiếp vận dụng và
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. “Thời đoạn Xtalin” trực tiếp lãnh đạo, về cơ
bản, vẫn trung thành, vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa
Mác - Lênin. Trong mấy thập kỷ bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, với những
thành quả to lớn và nhanh chóng về nhiều mặt để Liên Xô trở thành một cường
quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên và duy nhất trên toàn cầu, buộc thế giới phải thừa
nhận và nể trọng.
- Những năm cuối của thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, do
nhiều tác động tiêu cực, phức tạp từ bên trong và bên ngoài, mô hình của chế độ xã
hội chủ nghĩa của Liên Xô và Đông Âu lần lượt sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa
tan rã, Chủ nghĩa xã hội đứng trước một thử thách cần phải vượt qua.
- Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ, chủ nghĩa Mác- Lênin
nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng bước vào thời kỳ thử thách nghiêm
trọng. Song từ bản chất khoa học, sáng tạo và cách mạng, chủ nghĩa xã hội mang
sức sống của quy luật lịch sử đã và tiếp tục có bước phát triển mới: những đổi mới
và thành tựu mới của Trung Quốc, Việt Nam.
3. Đối tượng, phương pháp và ý nghĩa của việc nghiên cứu CNXHKH
3.1. Đối tượng nghiên cứu của CNXHKH
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là một khoa học, một trong ba bộ phận cấu
thành của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Nếu như triết học, kinh tế chính trị Mácxít luận
giải về phương diện triết học, kinh tế học tính tất yếu, những nguyên nhân khách
quan, những điều kiện để thay thế CNTB bằng CNXH, thì CNXHKH đưa ra câu trả
lời cho câu hỏi: bằng con đường nào để thực hiện bước chuyển đó.
- CNXHKH có những nhiệm vụ cơn bản:
+ Luận chứng một cách khoa học tính tất yếu về mặt lịch sử sự thay thế của
CNTB bằng CNXH gắn liền với sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN.
+ Luận giải một cách khoa học về phương hướng, nguyên tắc của chiến lược
và sách lược về vai trò, nguyên tắc và hình thức thích hợp tổ chức hệ thống chính
trị của giai cấp công nhân; những điều kiện, tiền đề của công cuộc cải tạo xã hội để
xây dựng thành công CNXH.
+ Phê phán, đấu tranh bác bỏ những trào lưu tư tưởng chống chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành quả của cách
mạng XHCN.
- Đối tượng nghiên cứu của CNXHKH là là những qui luật, tính qui luật
chính trị- xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của hình thái kinh
tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội; những nguyên
tắc cơ bản, những điều kiện, những con đường và hình thức, phương pháp đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm hiện thực hóa sự
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
3.2. Phương pháp nghiên cứu của CNXHKH
Chủ nghĩa xã hội khoa học sử dụng phương pháp luận chung nhất là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin.
Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng đặc biệt
chú trọng sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể hơn và những phương
pháp có tính liên ngành, tổng hợp. Các phương pháp cơ bản:
+ Phương pháp kết hợp lịch sử - logic: trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của
các sự thật lịch sử mà phân tích để rút ra những vấn đề có tính quy luật, logic của
lịch sử.
+ Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội: Chính trị là
một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ tới sự vận động và phát triển của xã
hội. Vì vậy, khảo sát thực tiễn chính trị xã hội để có nhạy bén chính trị, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tri thức khoa học
+ Phương pháp so sánh: làm sáng tỏ những điểm tương đồng và khác biệt
trên phương diện chính trị - xã hội giữa PTSX TBCN và XHCN, giữa các loại hình
thể chế chính trị và giữa các chế độ dân chủ, giữa các lý thuyết và mô hình CNXH.
+ Các phương pháp có tính liên ngành như phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, điều tra xã hội học, sơ đồ hoá, mô hình hoá, v.v.
3.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu CXHKH
- Về mặt lý luận:
Trang bị những nhận thức chính trị - xã hội và phương pháp luận khoa học
về quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng xã hội, giải phóng con người... Vì vậy, chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung được
coi là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó trong quá trình
giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình.
Góp phần định hướng chính trị - xã hội cho hoạt động thực tiễn của Đảng,
Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học giúp chúng ta có căn cứ nhận
thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận
thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản
động đối với Đảng ta, nhà nước, chế độ ta.
- Về mặt thực tiễn:
Giáo dục, củng cố niềm tin khoa học, hình thành niềm tin vững chắc niềm
vào con đường đi lên CNXH. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, đất nước thực hiện
công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tiến hành hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri
thức đang vừa tạo ra những vận hội lớn nhưng cũng đặt ra vô vàn những thách thức
đòi hỏi mỗi người cần có bản lĩnh, niềm tin khoa học, ý thức chính trị đúng đắn.
Lý giải nhiều vấn đề cấp bách của thực tiễn: nền kinh tế, vấn đề dân tộc, dân
chủ, văn hóa trong trong thời kỳ quá độ, gắn học tập với thực tiễn công cuộc xây
dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay, chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao
động, thoái hóa biến chất trong Đảng và cả xã hội.

Chương 2:
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
(Tổng số: 07 tiết, trong đó 04 tiết lý thuyết; 03 tiết thảo luận)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Giúp sinh viên nắm vững được những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác
– Lê nin về giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nội dung,
biểu hiện và ý nghĩa của sứ mệnh đó trong bối cảnh hiện nay.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Hiểu được khái niệm giai cấp công nhân, nội dung và đặc
điểm của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những đặc điểm của giai cấp
công nhân Việt Nam, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Về kỹ năng: Biết vận dụng phương pháp luận và các phương pháp chuyên
nghành chủ nghĩa xã hội khoa học vào việc phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam trong tiến trình cách mạng Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới
và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Về tư tưởng: Góp phần xây dựng và củng cố niềm tin khoa học, lập trường
giai cấp công nhân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới cũng
như ở Việt Nam.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….

IV. Nội dung


1. Quan niệm về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp
công nhân
1.1. Quan niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân
- Xem xét dưới góc độ kinh tế - xã hội:
Về nguồn gốc: GCCN là sản phẩm, là con đẻ của nền sản xuất đại công
nghiệp. “Nếu các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của
đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: họ là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại, tính xã hội hóa cao. Giai câ
Về vị trí của giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, họ
là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê
cho nhà tư bản, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối lập với nhà tư bản, công
nhân là những người lao động tự do, những người phải bán sức lao động của mình
để kiếm sống.
- Xem xét dưới góc độ chính trị - xã hội:
GCCN là những người lao động làm thuê. Họ không có tư liệu sản xuất chủ
yếu nên buộc phải bán sức lao động của mình để tồn tại.
GCCN là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
tiên tiến, quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Bởi mâu thuẫn
cơ bản phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa LLSX xã hội hóa
ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu
thuẫn cơ bản này thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản.
Từ những phân tích về đặc điểm kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị - xã
hội có thể hiểu:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa, trí tuệ hóa ngày càng cao; là lực lượng sản
xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất các
tư liệu sản xuất hiện đại cũng như của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội vì
lợi ích của mình; là lực lượng chủ yếu xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; xây dựng
chế độ xã hội mới tốt đẹp - xã hội xã hội chủ nghĩa.
* Đặc điểm của GCCN:
- GCCN lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc trưng công cụ lao
động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính xã
hội hóa.
- GCCN là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất hiện đại, đại diện của PTSX tiên tiến.
- Nền sản xuất đại công nghiệp và PTSX tiên tiến đã rèn luyện cho giai cấp
công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần
hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công
nhân có vai trò lãnh đạo cách mạng.
1.2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN:
Nội dung cơ bản trong sứ mệnh lịch sử của GCCN là xóa bỏ chế độ TBCN,
xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột, nghèo nàn và lạc hậu; xây dựng thành công chế
độ cộng sản chủ nghĩa văn minh. Giai cấp công nhân sẽ thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể với tư cách là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng
xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
+ Trong lĩnh vực kinh tế: GCCN là chủ thể quá trình sản xuất, xây dựng tiền
đề vật chất cho sự ra đời của CNXH. GCCN là đại biểu của quan hệ sản xuất mới,
đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch
sử.
+ Trong lĩnh vực chính trị - xã hội: Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
GCCN cùng với NDLĐ tiến tới lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, xóa bỏ áp
bức bóc lột, xây dựng nhà nước kiểu mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng
nền chính trị dân chủ - pháp quyền, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng xã
hội theo mục tiêu của CNXH
+ Trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng: thực hiện cuộc cách mạng văn hóa tư
tưởng đấu tranh khắc phục ý thức hệ tư sản và tàn dư của còn sót lại của hệ tư
tưởng cũ, xây dựng một hệ giá trị tiến bộ với nội dung chính là phát triển văn hóa
và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ
nghĩa.
- Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của GCCN:
+ Sứ mệnh đó xuất phát từ những xung đột của mâu thuẫn cơ bản trong lòng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực
lượng sản xuất và tính chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Chính mâu thuẫn
trong lòng xã hội TBCN đã sản sinh, rèn luyện GCCN trở thành chủ thể thực hiện
sứ mệnh lịch sử ấy.
+ Cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo là cuộc cách mạng đem
lại lợi ích cho đại đa số nhờ việc hướng tới xây dựng xã hội dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất.
+ Cuộc cách mạng do giai cấp công nhân thực hiện là cuộc cách mạng triệt
để nhất trong lịch sử: xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột.
+ Mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân thực hiện là
giải phóng con người.
1.3. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
- Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN:
+ Địa vị kinh tế - xã hội:
GCCN là giai cấp đại diện cho sự phát triển của LLSX tiến bộ vì vậy nó trở
thành lực lượng quyết định trong việc phá vỡ QHSX TBCN. Giai cấp công nhân
trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ
điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách một kiểu
xã hội mới không còn chế độ áp bức, bóc lột người.
GCCN là giai cấp có mâu thuẫn đối kháng trực tiếp về mặt lợi ích kinh tế với
giai cấp tư sản. Vì vậy họ trở thành giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
Họ phải đấu tranh để đòi những quyền lợi chính đáng cho mình. Bởi lẽ, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có phát triển đến đâu thì giai cấp công nhân về cơ
bản vẫn không có tư liệu sản xuất chủ yếu, phải bán sức lao động cho giai cấp tư
sản. Họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư
bản chủ nghĩa.
+ Địa vị chính trị - xã hội của GCCN:
GCCN được nền sản xuất đại công nghiệp rèn luyện cho những phẩm chất
cách mạng cần thiết để trở thanh giai cấp lãnh đạo, đại biểu tiên tiến cho xu thế
tương lai của thời đại: tính tổ chức và kỷ luật, tính tự giác và đoàn kết... Giai cấp
công nhân có đực những phẩm chất chính trị ấy là vì họ lao động trong nền sản
xuất đại công nghiệp mang tính chất dây chuyền và nhịp độ khẩn trương buộc giai
cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; họ tự giác và kỷ luật cũng do
cuộc sống đô thị tập trung.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng chính mình và giải phóng toàn xã hội,
GCCN có hệ tư tưởng của CN Mác – Lênin soi đường, dẫn lối. Đây là vũ khí lý
luận quan trọng, khẳng định hệ tư tưởng, lập trường cách mạng của giai cấp công
nhân khi họ trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Nhân tố chủ quan để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử:
+ Sự phát triển bản thân GCCN cả về số lượng và chất lượng đảm bảo cho
giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Trong đó sự phát
triển về chất lượng của giai cấp công nhân đặc biệt quan trọng. Chất lượng giai cấp
công nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của một giai
cấp, ở năng lực làm chủ khoa học và kỹ thuật hiện đại.
+ Đảng Cộng sản là đội tiên phong của GCCN, là nhân tố chủ quan quan
trọng để GCCN thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng mang bản chất
giai cấp công nhân trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp.
Đảng Cộng Sản là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc.
+ Liên minh giai cấp giữa GCCN với giai cấp nông dân và tầng lớp lao động
khác để tạo thành một khối thống nhất về ý chí và hành động cũng là điều kiện chủ
quan quan trọng dẫn tới sự thắng lợi của cuộc cách mạng do GCCN lãnh đạo
2. Giai cấp công nhân và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay.
2.1. Quan niệm về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay
- Những điểm tương đồng của GCCN hiện nay so với thế kỷ XIX:
Giai cấp công nhân vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại.
Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa
ngày càng cao. Ngày nay, công nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để giai cấp
công nhân hiện đại phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp bị bóc lột giá trị thặng dư bởi
các nhà tư bản. Xung đột về lợi ích giữa giai cấp công nhân vẫn tồn tại, vẫn là
nguyên nhân cơ bản của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Phong trào cộng
sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu
tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ và chủ nghĩa
xã hội.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân vẫn mang giá trị
khoa học và cách mạng, vẫn có giá trị thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách
mạng hiện nay của giai cấp công nhân, phong trào đấu tranh chống CNTB và lựa
chọn con đường xây dựng CNXH trong thế giới ngày nay
- Những biến đổi và khác biệt của GCCN hiện nay so với thế kỷ XIX:
Xu hướng trí tuệ hóa: Gắn liền với cách mạng và khoa học công nghệ hiện
đại, với sự phát triển của kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ
hóa. Do đòi hỏi của nền sản xuất công nghiệp, của xu hướng hội nhập và toàn cầu
hóa, bộ phận công nhân có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp đang
ngày càng gia tăng (công nhân trí thức, công nhân áo trắng…)
Xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ nghĩa
tư bản đã có một số điều chỉnh nhất định về phương thức quản lý, các biện pháp
điều hòa mâu thuẫn xã hội. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu tư liệu
sản xuất của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa. Về mặt hình thức, họ không còn
là giai cấp vô sản nhưng về mặt bản chất họ vẫn là giai cấp bị bóc lột.
GCCN hiện nay là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, Đảng cộng sản giữ vai trò
cầm quyền trong quá trình xây dựng chủ nghĩa ở một số quốc gia.
Tính chất xã hội hóa trong lao động của công nhân có xu hướng mở rộng và
nâng cao. Lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, dân tộc
và mang tính chất quốc tế, trở thành lực lượng sản xuất của thế giới toàn cầu. Khác
với truyền thống, trong nền sản xuất hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và công nghệ cao đã xuất hiện những hình thức liên kết, những kiểu mô
hình lao động mới như” xuất khẩu lao động”, “chuyên gia quốc tế”, “quốc tế hóa
các tiêu chuẩn sản xuất công nghiệp khiến tính chất xã hội hóa của lao động hiện
đại càng được mở rộng và nâng cao.
2.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay
- Về nội dung kinh tế - xã hội: trên cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả,
đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, GCCN đấu tranh chống chế độ áp
bức, bóc lột trên phạm vi thế giới, phấn đấu cho việc xác lập một trật tự xã hội mới
công bằng và bình đẳng.
- Về nội dung chính trị - xã hội: mục tiêu trực tiếp là đấu tranh chống bất
công và bất bình đẳng xã hội. Mục tiêu lâu dài là giành chính quyền về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, thực hiện
thành công các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Về nội dung văn hóa tư tưởng: thực hiện việc chỉ đạo, định hướng trong
cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã
hội. Cuộc đấu tranh này đang diễn ra phức tạp và quyết liệt, nhất là trong nền kinh
tế thị trường phát triển với những tác động và mặt trái của nó.
Nhiệm vụ của GCCN là đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
cộng sản, giáo dục nhận thức và củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giáo dục và
thực hiện chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân trên cơ sở phát huy
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
3.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
- Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời gắn liền với chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời
trước giai cấp tư sản , là giai cấp trực tiếp đối kháng tư bản thực dân Pháp và bè lũ
tay sai của chúng. Giai cấp công nhân Việt Nam chậm phát triển vì nó sinh ra và
lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới ách thống trị của thực dân Pháp.
+ GCCN Việt Nam là lực lượng chính trị tiên phong lãnh đạo cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
thực dân và phong kiến thống trị, mở đường cho sự phát triển của dân tộc trong thời
đại cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ thể hiện đặc tính
của mình ở ý thức giai cấp và lập trường cách mạng mà còn thể hiện ở tinh thần
dân tộc: gắn với truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất
+ Gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lợi ích GCCN và
lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn
liền với đoàn kết dân tộc hướng tới thực hiện thành công những nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam.
+ Đại bộ phận công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân và các tầng lớp
lao động khác, cùng chung lợi ích, cùng chung nguyện vọng và khát vọng đấu tranh
cho dân tộc. Chính đặc điểm này khiến giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó máu
thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động trong xã hội. Đó là điểm thuận
lợi để giai cấp công nhân xây dựng khối liên minh giai cấp với nông dân và đội ngũ
trí thức làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đặc điểm của GCCN Việt Nam hiện nay (từ 1986 - hiện nay)
+ GCCN Việt Nam đã tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là giai cấp đi
đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ GCCN Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt trong
mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước là
tiêu biểu, đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.
+ GCCN hiện nay là công nhân tri thức, nắm vững khoa học – công nghệ
tiên tiến, công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn và
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất, thực tiễn xã hội.
+ Hiện nay để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện
nay cần phải phát triển GCCN lớn mạnh và gắn với công cuộc xây dựng và chỉnh
đốn Đảng. Đó là điểm then chốt để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
3.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong các thời kỳ cách
mạng
Thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám (1945): Giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sôi sục của phong trào yêu nước
và các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. GCCN nước ta đã lãnh đạo
thành công cách mạng Tháng 8 năm 1945 – cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đạt được hai mục tiêu quan trọng của cách
mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân và lật đổ chế độ phong kiến. Từ đó, giai cấp
công nhân là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám (1945): Sau khi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu chuyển sang giai đoạn
cách mạnh xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước
ta lần thứ hai và sau đó thay thế thực dân Pháp là đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta
đã kiên quyết, kiên trì, bền bỉ đấu tranh chống quân xâm lược suốt 30 năm (1946-
1975), giải phóng hoàn toàn đất nước.
Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Từ năm 1975 đến
nay, giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lãnh đạo nhân dân lao động hàn gắn
chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đất
nước hiện nay:
+ Về kinh tế: phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Về chính trị - xã hội: Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của Đảng,
sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường xây dựng Đảng, chống suy thoái về tư tưởng
chính trị và đạo đức lối sống.
+ Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc mà nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục
đạo đức cách mạng, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam.
3.3. Định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
- Định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
+ Phát triển đội ngũ công nhân cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp công
nhân có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa
của dân tộc, nhạy bén trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
trong nước.
+ Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế.
+ Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân bằng các
chế độ phúc lợi phục vụ công nhân, sửa đổi bổ sung các chính sách về bảo hiểm,
pháp luật, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho công nhân.
- Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
+ Một là, nâng cao nhận thức kiên định quan điểm GCCN là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Hai là, gắn xây dựng GCCN với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên
minh giai cấp công- nông – trí thức và đội ngũ doanh nhân.
+ Ba là, gắn xây dựng GCCN với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
+ Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt của công nhân,
không ngừng trí thức hóa đội ngũ công nhân.
+ Năm là, xây dựng GCCN là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, của
toàn xã hội và nỗ lực của mỗi công nhân, sự đóng góp của người lao động.
Chương 3:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(Tổng số: 05 tiết, trong đó 03 tiết lý thuyết; 02 tiết thảo luận)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Giúp sinh viên nắm được những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, có khả năng vận dụng vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Sinh viên nắm được những kiến thức cơ bản về những quan
điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam
- Về kỹ năng: Sinh viên bước đầu biết vận dụng những tri thức có được vào
phân tích những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Về tư tưởng: khẳng định niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa và ủng hộ
đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Chủ nghĩa xã hội
1.1. Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra tính tất yếu sự thay thế hình thái kinh tế xã
hội TBCN bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là quá trình lịch
sử tự nhiên. Sự thay thế này được thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp đến cao qua
hai giai đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao. Giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội,
mở đầu là thời kỳ chuyển biến từ CNTB lên CNXH gọi là thời kỳ quá độ lên
CNXH. Giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản – kế tục một cách lịch sử tự nhiên từ
thành quả và xu thế của CNXH hoàn thiện.
1.2. Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội
- Điều kiện khách quan:
+ Về mặt kinh tế: Một xu hướng có tính tất yếu trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản là lực lượng sản xuất càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa, càng mang
tính xã hội hóa cao thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn ấy đòi hỏi phải được
giải quyết nhằm xây dựng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất. PTSX mới ra đời, một hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời.
+ Về mặt xã hội: mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp công nhân hiện đại với
giai cấp tư sản ngày càng gay gắt dẫn tới những cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản.
- Nhân tố chủ quan:
+ Sự trưởng thành về mặt chính trị của giai cấp công nhân, đặc biệt là từ khi
nó có Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
+ Sự liên minh các giai cấp, tầng lớp dưới sự lãnh đạo của GCCN được hình
thành và phát triển.
1.3. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Căn cứ vào những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan điểm
của V.I.Lênin về CNXH ở nước Nga Xô – Viết, có thể khái quát những đặc trưng
cơ bản của CNXH như sau:
- CNXH giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
- CNXH là xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đây là đặc tính thể hiện
bản chất của CNXH là chế độ xã hội vì con người, do con người.
- CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng về phương diện kinh
tế của chủ nghĩa xã hội: giải phóng con người trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển.
- CNXH có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu
cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động. Đây là công cụ, phương tiện
để giai cấp công nhân sử dụng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
- CNXH có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của
văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.
- CNXH đảm bảo bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và quan hệ hữu nghị,
hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện, triệt để,
sâu sắc và lâu dài trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo ra tiền đề
vật chất, tinh thần cần thiết cho sự ra đời của một xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Có hai hình thức quá độ: quá độ trực tiếp từ những nước tư bản phát triển lên
CNXH. Quá độ gián tiếp từ những nước tư bản trung bình hoặc chưa trải qua chủ
nghĩa tư bản, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
2.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Một là, giữa chủ nghĩa tư bản (và các chế độ xã hội bóc lột khác…) và chủ
nghĩa xã hội là hai kiểu chế độ xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư bản
được xây dựng và phát triển dựa trên chế độ kinh tế lấy sở hữu tư nhân làm chủ
yếu, trái lại chủ nghĩa xã hội là xã hội được xây dựng và phát triển dựa trên chế độ
kinh tế lấy sở hữu công cộng làm chủ yếu. Do đó, thời kỳ quá độ là tất yếu để cải
biến, xây dựng những yếu tố của xã hội mới.
Hai là, chủ nghĩa xã hội không phải là một lý tưởng hiện thực phải tuân theo
mà là kết quả của phong trào hiện thực. Vì vậy tất yếu tồn tại thời kỳ quá độ để các
nước lạc hậu có thể rút ngắn được quá trình phát triển lên CNXH, tránh được
những đau khổ, những cuộc đấu tranh.
2.2. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Trên lĩnh vực kinh tế: tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở
hữu. Trong đó có những thành phần kinh tế và những hình thức sở hữu đối lập
nhau.
- Trên lĩnh vực chính trị: là sự thiết lập, củng cố, hoàn thiện của nhà nước xã
hội chủ nghĩa nhằm mở rộng và phát huy dân chủ, bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trấn áp những thế lực phản cách mạng.
- Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng: bên cạnh hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đang được hình thành và phát triển trong
sự đấu tranh với những tàn dư của xã hội cũ, hệ tư tưởng cũ.
- Trên lĩnh vực xã hội: Xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt
giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội. Các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh
với nhau. Xã hội vẫn còn sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động
chân tay và lao động trí óc.
3. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản
Việt Nam tiến lên CNXH trong điều kiện vừa thuận lợi, vừa khó khăn đan
xen, có những đặc trưng cơ bản:
- Xuất phát từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp.
Đất nước trải qua chiến tranh kéo dài, hậu quả chiến tranh để lại còn nặng nề. Các
thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và nền
độc lập dân tộc của nhân dân ta.
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đang diễn ra mạnh mẽ, quá trình
quốc tế hóa đang ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia. Những xu thế đó vừa tạo ra
những thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
- Quá độ lên CNXH là lựa chọn đúng đắn phù hợp với quy luật phát triển
khách quan của cách mạng Việt Nam và với xu thế phát triển của thời đại cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
- Quá độ lên CNXH, bỏ qua chủ nghĩa tư bản được Đảng ta xác định: bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa; tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
3.2. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Những đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng (1991), những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
Việt Nam xây dựng được phác thảo trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH với 6 đặc trưng.
Từ thực tiễn xây dựng CNXH và đổi mới, do bối cảnh trong nước và quốc tế
có nhiều thay đổi, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011), trong đó nêu rõ 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam
cần xây dựng:
+ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (đặc trưng khái quát
về mục tiêu của cả thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa)
+ Do nhân dân làm chủ (Đặc trưng về bản chất chính trị )
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Đảm bảo vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Đại hội XII của Đảng đã tổng kết những thành tựu của 30 năm đổi mới và
quán triệt phương hướng xây dựng CNXH ở Việt Nam với 12 nhiệm vụ cơ bản:
+ Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng nền kinh tế độc lập và tự
chủ.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
+ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ;
phát huy vai trò của giáo dục đào tạo, của khoa học công nghệ đối với sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt
Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ
vững chắc tổ quốc XHCN.
+ Quản lý tốt sự phát triển xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi
xã hội…
+ Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
+ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Hoàn thiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ
máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa.
+ Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn.
Chương 4:
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(Tổng số: 06 tiết, trong đó 03 tiết lý thuyết; 03 tiết thảo luận)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Giúp sinh viên có được hiểu biết đúng đắn về bản chất của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó có sự liên hệ với quá
trình xây dựng nền dân chủ và nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: sinh viên nhận thức đúng về bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng
- Về kỹ năng: Sinh viên có khả năng vận dụng lý luận về dân chủ xã hội chủ
nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa vào việc phân tích những vấn đề thực tiễn liên
quan, trước hêt là công việc, nhiệm vụ cá nhân.
- Về tư tưởng: Sinh viên khẳng định bản chất tiến bộ của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa; có thái độ sai trái, phủ nhận tiến bộ của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Dân chủ và dân chủ XHCN
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
- Quan niệm về dân chủ
+ Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII – VI trước công
nguyên. Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà
chính trị gọi giản lược là quyền của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.
Cách hiểu này về dân chủ cơ bản được giữ nguyên cho đến thời đại ngày nay.
+ Dân chủ là sản phẩm và thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho
những giá trị tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp
cầm quyền, là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị xã
hội.
+ Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ có một số những nội
dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là một quyền của công dân -
quyền dân chủ. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước
thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội. Bộ máy của nhà nước vì nhân dân, vì xã hội
mà phục vụ. Và do vậy, chỉ khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì khi
đó mới có thể đảm bảo về căn bản việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư
cách một quyền lợi.
Ví dụ ở Việt Nam: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.
Và người dân có quyền ứng cử, bầu cử đại biểu quốc hội. Thậm chí việc bãi miễn
đại biểu quốc hội cũng trên tinh thần dân chủ, do các đại biểu quốc hội - người đại
diện của nhân dân đề xuất, thảo luận, bỏ phiếu.
Ví dụ: Đối với sinh viên, quyền dân chủ trong môi trường học tập ở đại học:
Các em có đội ngũ các thầy cô cố vấn, các thầy cô phòng Công tác HSSV, Phòng
đào tạo để các em có thể bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề liên
quan tới học tập, quan hệ trong môi trường học tập.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trng lĩnh vực chính trị, dân chủ là
một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Ví dụ: trong lịch sử chúng ta đã từng thấy có sự xuất hiện của các hình thái
nhà nước như dân chủ chủ nô, dân chủ quý tộc trong xã hội chiếm hữu nô lệ. Ở
Việt Nam, Cách mạng Tháng 8-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời.
Hiện nay, có nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Triều Tiên
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên
tắc – nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình
thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Ví dụ: Trong sinh hoạt Đoàn hay hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
đều phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ: mọi người đều có quyền
phát biểu, bày tỏ chính kiến cá nhân. Dân chủ: bày tỏ chính kiến cá nhân một cách
dân chủ trên cơ sở thống nhất ý kiến tập thể, tập trung vì lợi ích của tập thể.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh, dân chủ với những nội dung nêu trên
phải được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là phương tiện để vươn tới tự do, giải
phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
+ Trên cơ sở của Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm về dân chủ:
Thứ nhất, dân chủ trước hết là một giá trị xã hội manng tính toàn nhân loại
chung. Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Đối với cơ quan của nhà nước, quyền
địa vị tối cao là ở người dân.
Thứ hai, dân chủ được coi như một thể chế chính trị, một chế độ xã hội. Hồ
Chí Minh từng nói “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,
chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Dân làm chủ: làm chủ nhà
nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình, sở hữu mọi năng lực sáng tạo của
mình với tư cách chủ thể đích thực của xã hội.
+ Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của người dân. Trong toàn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của người dân.
 Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con
người; là một phạm trù chính trị gắn với các hình thúc tổ chức nhà nước của giai
cấp cầm quyền, là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của lịch
sử nhân loại xã hội.
- Sự ra đời và phát triển của dân chủ:
+ Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của
dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay “dân chủ quân sự”. Đặc
điểm của hình thức dân chủ này là nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại
hội nhân dân” bằng cách giơ tay hoặc hoan hô.
+ Dân chủ chủ nô: xuất hiện khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời. Sự
xuất hiện của giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã. Nền dân
chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham gia bầu nhà
nước. Tuy nhiên dân chủ chủ nô chỉ thực hiện quyền làm chủ cho một thiểu số
người vì trong xã hội chiếm hữu nô lệ người được cho là dân chỉ bao gồm giai cấp
chủ nô và phần nào thuộc về công dân tự do (tăng lữ, thương gia và một số trí
thức). Đa số còn lại không phải dân mà là nô lệ. Họ không được tham gia vào công
việc của nhà nước.
+ Dân chủ trong xã hội phong kiến: chế độ chủ nô bị xóa bỏ thay vào đó là
chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Ở thời kỳ này sự thống trị của giai cấp được
huyễn hoặc bằng cách viện đến các lực lượng siêu nhiên. Và việc tuân theo ý chí
của giai cấp thống trị là bổn phận của mỗi người trước sức mạnh của đấng tối cao.
Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh cho quyền làm chủ của người dân không có
bước tiến nào đáng kể.
+ Dân chủ tư sản: xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với những
tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng do giai cấp tư sản khởi xướng. Dân chủ tư sản
là một bước tiến lớn của nhân loại. Tuy nhiên nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân
chủ cho một thiểu số người vì được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa: bắt đầu được xây dựng từ sau thắng lợi của
cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dân – tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực
sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
 Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì
trong lịch sử nhân loại, cho đến nay có ba nền dân chủ: dân chủ chủ nô gắn với chế
độ chiếm hữu nô lệ; dân chủ tư sản gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; dân chủ xã hội
chủ nghĩa gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa.
 Các nền dân chủ, hình thái dân chủ đã có trong lịch sử chỉ phục vụ cho
một thiểu số giai cấp thống trị nhưng nền dân chủ XHCN phục vụ cho đại đa số
nhân dân.
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu ra đời bởi đấu tranh cho dân chủ là một
quá trình lâu dài, phức tạp. Mặt khác, giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là
hoàn thiện nhất. Vì vậy sự xuất hiện một nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ
nghĩa, cao hơn nền dân chủ tư sản là hoàn toàn khách quan.
+ Nền dân chủ XHCN được phôi thai từ thực tiễn đấu tranh giai cấp Pháp và
công xã Pari 1871, chính thức được xác lập khi cách mạng Tháng 10 Nga thành
công và xuất hiện nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới – Nhà nước Xô Viết
(1917)
Năm 1870, nhân dân lao động và công nhân ở Pari (Pháp) đã tiến hành cuộc
khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền tư sản Pháp. Sau đó tổ chức bầu cử công
xã, lập ra nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản. Dù chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn (từ tháng 3- tháng 5/1871) nhưng công xã Pari đã đề ra các chính sách tiến bộ
phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động: Tách nhà thờ ra khỏi hoạt động của nhà
nước, giáo dục cũng tách khỏi nhà thờ; quy định tiền lương tối thiểu, giảm lao động
ban đêm, cấm cúp phạt vô cớ, đánh đập công nhân; thực hiện chế độ giáo dục bắt
buộc và miễn học phí. Đây là những chính sách của một chế độ xã hội mới, cổ vũ
nhân dân lao động thế giới đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn.
+ Nền dân chủ XHCN vận động theo quy luật phát triển từ thấp đến cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các
nền dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản..
+ Xây dựng nền dân chủ XHCN là điều kiện để thực hiện thành công cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể duy trì và thắng lợi nếu
không thực hiện đầy đủ dân chủ.
+ Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN là nâng cao mức độ giải phóng
cho những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý của
nhà nước, quản lý xã hội.
+ Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tự tiêu vong khi nó đã hoàn thiện. Khi
hoàn thiện, nền dân chủ XHCN đạt đến nguyên tắc cao nhất là làm cho dân chủ trở
thành một thói quen, một tập quán trong xã hội và đến lúc đó nó không còn tồn tại
như một thể chế nhà nước, một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó. Khi ấy xã
hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, không có phân chia giai cấp, dân chủ XHCN
với tư cách một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, không còn nữa.
 Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư
sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân
làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng, được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Bản chất của nền dân chủ XHCN
Như mọi loại hình thái dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo Lênin không phải
là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; nó chỉ là dân chủ với quần chúng lao động
và bị bóc lột; dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đại đa số. Dân chủ
XHCN bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế là cơ sở.
+ Bản chất chính trị: dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về
chính trị. Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo của đảng cộng
sản đối với toàn thể xã hội. Đây cũng là yếu tố quan trọng đảm bảo quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng cộng sản đại biểu cho lợi ích, trí tuệ của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân lao động là người làm chủ những quan
hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy
chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
chính sách pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà nước.
Dân chủ XHCN là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao
động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc của
nhà nước.
+ Bản chất kinh tế: Nền sân chủ XHCN dựa trên chế độ sở hữu xã hội về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội để đáp ứng sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày
càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ thông qua việc đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu, quyền làm chủ trong quá
trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người
lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
--> Bản chất kinh tế của nền dân chủ XHCN dù khác về bản chất kinh tế của
các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công.
+ Bản chất tư tưởng – văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác –
Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo với mọi hình thái ý thức xã
hội khác (tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức…)
Nền dân chủ XHCN cũng kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền
thống của các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa, văn minh, tiến bộ xã
hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc.
Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa
tinh thần, được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện phát triển cá nhân. Dưới
góc độ này, dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể
hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển con người
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước XHCN)
Bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào cũng là sự thống nhất giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Tức là có sự thống nhất giữa đời sống kinh tế với đời
sống chính trị, tư tưởng. Trong đó, đời sống kinh tế quyết định đời sống chính trị,
tư tưởng. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, kinh tế là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất nên tương ứng với nó là kiến trúc thượng tầng nhà
nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo.
+ Xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trở nên gay gắt dẫn tới khủng hoảng kinh tế và mâu thuẫn sâu sắc
giữa giai cấp vô sản và nhân dân lao động với giai cấp tư sản đã làm xuất hiện các
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, sự ra đời lý luận của Chủ nghĩa Mác, sự
hình thành chính đảng của giai cấp công nhân và tất yếu cách mạng vô sản xảy ra.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Khi giai cấp công nhân giành được chính quyền sẽ tiến hành xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa của giai cấp mình.
+ Tùy theo đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của nhà nước
xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc
điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà nước là ở
chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan đại diện cho ý chí
của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản lý xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
 Nhà nước XHCN là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị thuộc về giai
cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ tất cả các
mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
+ Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công
nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao
động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao
động.
+ Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của
cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Do đó, nó không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nó là nhà nước
“không nguyên nghĩa”, nhà nước “nửa nhà nước”.
+ Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và những giá trị văn hóa tiên
tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự
phân hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp
bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
+ Đến một trình độ phát triển nhất định, tính chất xã hội của nhà nước xã hội
chủ nghĩa ngày càng được mở rộng, cơ sở cho sự tồn tại nhà nước không còn thì
nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ tự tiêu vong, các hoạt động quản lý của nhà
nước sẽ được chuyển giao cho các tổ chức tự quản, dựa trên cơ sở quyền lực nhân
dân rộng rãi.
- Chức năng của nhà nước XHCN:
Tùy theo góc độ tiếp cận, nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các
chức năng khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi tác động của nhà nước chia thành chức năng đối nội và
chức năng đối ngoại
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước chia thành chức năng
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được
chia thành chức năng trấn áp (giai cấp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng)
Đối với các nhà nước bóc lột, chức năng chủ yếu của nó là chức năng trấn
áp, bạo lực của thiểu số giai cấp bóc lột đối với đa số nhân dân. Thực hiện chức
năng trấn áp nhằm duy trì địa vị thống trị của giai cấp thống trị đối với tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội. Ví dụ: trong nhà nước phong kiến, mọi quyền bính đều
thuộc về vua và quan lại. Chính vì vậy người tiếp tục được chọn để nắm giữ quyền
lực nhà nước thường phải là có huyết thống, dòng dõi vương tộc. Điều này được
thực hiện như một truyền thống của chế độ phong kiến với mục đích là bảo vệ
quyền lực của giai cấp cầm quyền.
+ Trong nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn còn chức năng trấn
áp, nhưng đó là bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để
trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những phần tử chống đối để bảo vệ thành quả
cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế - xã hội. Sự trấn áp vẫn còn tồn tại nhưng nó là sự trấn áp của đa số đối với
thiểu số và không còn nguyên nghĩa.
+ Khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, xác lập được địa vị thống
trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì chức năng chính của nhà nước
không phải là trấn áp, bạo lực mà là chức năng tổ chức, xây dựng kinh tế, nâng cao
năng suất xã hội, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng
lớp nhân dân lao động.
+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và
mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là là một sự nghiệp vĩ đại
nhưng đồng thời cũng là một công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài.
Như vậy, chức năng cơ bản và chủ yếu nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
là chức năng xã hội - tổ chức, xây dựng để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ
nghĩa.
2.2. Mối quan hệ giữa dân chủ XHCN và nhà nước XHCN
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
+ Chỉ trong xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân mới có đầy đủ các
điều kiện tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động quản lý của nhà
nước, khai thác và phát huy một cách tốt nhất sức mạnh trí tuệ của nhân dân cho
hoạt động của nhà nước.
+ Với những tính ưu việt của mình, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ kiểm
soát một cách có hiệu quả quyền lực của nhà nước, ngăn chặn được sự tha hóa của
quyền lực nhà nước.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực
thi quyền làm chủ của người dân:
+ Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phương thức
thể hiện và thực hiện dân chủ.
+ Nhà nước XHCN là công cụ bạo lực để ngăn chặn có hiệu quả các hành vi
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người dân, bảo vệ nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
+ Nhà nước XHCN đánh mất bản chất của mình sẽ tác động tiêu cực đến nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, sẽ dễ dẫn tới vệc xâm phạm quyền làm chủ của người
dân, dẫn tới chuyên chế, độc tài, thủ tiêu nền dân chủ hoặc dân chủ chỉ còn là hình
thức.
3. Xây dựng chế độ dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam
3.1. Dân chủ XHCN Việt Nam
- Sự ra đời, phát triển của nền dân chủ XHCN Việt Nam:
+ Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
ra đời, đánh dấu sự xác lập chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta.
+ Từ 1945 đến trước Đại hội Đảng VI năm 1986, nhiều vấn đề liên quan đến
dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra và giải quyết: bản chất của dân chủ
XHCN, mối quan hệ giữa dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN, thực
hiện dân chủ như thế nào trong thời kỳ quá độ lên CNXH cho phù hợp với đặc
điểm của Việt Nam…
+ Đại hội Đảng VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
đã nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra động lực mạnh mẽ cho phát triển đất
nước.
+ Qua 30 năm đổi mới, nhận thức về dân chủ XHCN, vị trí, vai trò của dân
chủ ở nước ta đã có nhiều điểm mới, ngày càng được nhận thức, phát triển và hoàn
thiện đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta.
- Bản chất của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam:
+ Bản chất của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam là dựa vào Nhà nước xã hội
chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là
thành viên trong xã hội với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ.
+ Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Đảng luôn xác định
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
xã hội.
+ Bản chất của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam được thực hiện thông qua
các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức
mà nhân dân thông qua hành động trực tiếp của mình thực hiện quyền làm chủ nhà
nước và xã hội. Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ đại diện, nhân dân ủy
quyền, giao quyền lực của mình cho tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra.
+ Thực tiễn xây dựng đất nước cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể
hiện ở việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo hướng ngày
càng mở rộng và hoạt động có hiệu quả, hướng tới phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Dân chủ công dân gắn liền với kỷ cương của đất nước,
được thể chế hóa bằng luật của nhà nước pháp quyền, trong các nguyên tắc hoạt
động của các cơ quan, tổ chức.
3.2. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Theo quan niệm chung thì nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn
pháp luật, nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều
kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của chính mình.
Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan của nhà nước được
phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng.
Ngày nay, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân
đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp
luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt động của các cơ quan nhà nước,
phải có sự kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
Quan niệm về nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam từng bước được
hoàn thiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn quản lý đất nước của nhà nước pháp quyền,
được cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng.
Quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân: “Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân”
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức và mọi cá
nhân đều phải tuân thủ pháp luật.
- Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam:
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, chúng ta có thể rút ra được một số đặc điểm cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta như sau:
+ Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
+ Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến
pháp và pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí
tối thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
+ Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ
chế phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hoạt động của nhà nước được giám sát bởi nhân dân:
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá nhân được
nhân dân ủy nhiệm.
+ Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng
quyền con người, coi con người là trung tâm của sự phát triển.
+ Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng
bảo đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
3.3. Phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
- Phát huy dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay:
+ Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với tư
cách điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư
cách điều kiện để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa.
+ Ba là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
+ Bốn là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản
biện xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN:
+ Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đây là phương hướng nhằm đảm bảo bản chất giai cấp công nhân của
nhà nước ở Việt Nam.
+ Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Đây là
điều kiện quan trọng đảm bảo nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cơ quan
quyền lực cao nhất của nhân dân.
+ Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực nhằm
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước, nâng cao khả năng phục vụ nhân
dân.
+ Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Phòng, chống tham nhũ, lãng
phí và tiến hành tiết kiệm là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài của quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Chương 5
CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(Tổng số 04 tiết, trong đó 02 tiết lý thuyết; 02 tiết thảo luận, bài tập)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Giúp sinh viên có hiểu biết về cơ cấu xã hội giai cấp và liên minh giai
cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó có thể liên hệ vào
thực tiễn Việt Nam hiện nay.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Sinh viên nắm được những kiến thức nền tảng: cơ cấu xã
hội – giai cấp, liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
- Về kỹ năng: Sinh viên có kỹ năng nhận diện những biến đổi trong cơ cấu
xã hội – giai cấp và nội dung liên minh giai cấp ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
- Về tư tưởng: sinh viên có nhận thức về tầm quan trọng và thấy được sự
cần thiết phải góp sức tăng cường xây dựng khối liên minh giai cấp vững mạnh
trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Cơ cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ
xã hội do sự tác động lẫn nhau của những cộng đồng ấy tạo nên.
Cơ cấu xã hội có nhiều loại như cơ cấu xã hội - dân cư, cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn giáo
- Khái niệm cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại
khách quan trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, về địa vị chính trị - xã
hội…giữa các giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng
thể các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội - giai cấp thời kỳ quá độ lên
CNXH bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp
doanh nhân, tầng lớp thanh niên, phụ nữ….
Mỗi giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có những vị trí và vai trò xác
định song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công
nhân cùng hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện những mục tiêu, nội dung,
nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa
cộng sản với tư cách một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế hình thái kinh tế -
xã hội cũ đã lỗi thời
- Vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trò xác
định và giữa chúng có mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó, cơ cấu xã hội –
giai cấp là loại hình cơ bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ
cấu xã hội khác bởi:
Cơ cấu xã hội – giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước;
đến các yếu tố khác nhau trong một hệ thống sản xuất nhất định: vấn đề quản lý tổ
chức lao động, vấn đề sở hữu TLSX, vấn đề phân phối sản phẩm của sản xuất. Với
ý nghĩa như vậy, nó có vai trò và tính chất quyết định trong hệ thống xã hội.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi
của các loại cơ cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã
hội, cũng như tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, cơ cấu
xã hội – giai cấp là căn cứ cơ bản để từ đó xây dựng chính sách phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của mỗi xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu xã hội – giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường
xuyên có những biến đổi mang tính qui luật như sau:
- Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều này được thể hiện trong mọi thời đại
lịch sử nói chung và thời kỳ quá độ nói riêng. Cụ thể là khi có những biến đổi về
phương thức sản xuất, cơ cấu ngành nghề, cơ chế kinh tế… thì tất yếu sẽ dẫn tới
những biến đổi trong cơ cấu xã hội giai cấp, cả trong cơ cấu tổng thể cũng như biến
đổi trong nội bộ từng giai cấp, tầng lớp lớp xã hội, nhóm xã hội.
- Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng
lớp xã hội mới. Thời kỳ quá độ còn tồn tại đan xen các yếu tố của xã hội cũ chưa
mất đi và các yếu tố của xã hội mới đang hình thành, hoàn thiện. Về mặt kinh tế, xã
hội thời kỳ quá độ tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với kết cấu
kinh tế đa dạng và phức tạp ấy là tồn tại các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.
- Xu hướng tất yếu và là biện chứng của sự vận động, phát triển của c ơ cấu
xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ là biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh,
vừa liên minh dẫn đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong
xã hội. Trong cơ cấu xã hội – giai cấp ấy, giai cấp công nhân, lực lượng tiêu biểu
cho phương thức sản xuất mới giữ vai trò chủ đạo, tiên phong trong quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1. Xét từ góc độ chính trị - xã hội
- Chính cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân và các giai cấp có lợi ích đối
lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan phải thực hiện liên minh giai cấp thực
hiện những nhu cầu và lợi ích chung. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo cho
thắng lợi của cuộc cách mạng này.
- Việc thực hiện tốt khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là với trí thức là
điều kiện đảm bảo để xây dựng, củng cố cơ sở kinh tế vững mạnh và chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa.
2.2. Xét từ góc độ kinh tế
- Trong thời kỳ quá độ, liên minh giai cấp, tầng lớp được hình thành xuất
phát từ yêu cầu khách quan của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp là chính sang
sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công nghệ…,
xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội.
Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ
cho nhau để cùng phát triển và tạo thành nền cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Chính những biến đổi trong cơ cấu knh tế này đã và đang từng bước tăng cường
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và
các tầng lớp xã hội khác
- Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ
cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất. Chính vì vậy, người lao động trong các thành phần
kinh tế, các lĩnh vực kinh tế buộc phải liên kết hình thành khối liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cũng đảm bảo chính nhu cầu và
lợi ích kinh tế của họ.
 Thực chất liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau…giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện
nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực
hiện thắng lợi mục tiêu của CNXH.
3. Cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam
3.1. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
- Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp vừa đảm bảo tính quy luật phổ
biến, vừa mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam:
Tính phổ biến: sự biến đổi của cơ cấu, xã hội giai cấp ở Việt Nam cũng bị
chi phối những biến đổi trong cơ cấu kinh tế. Khi nền kinh tế chuyển mình từ một
nền kinh tế bao cấp, mệnh lệnh hành chính sang một nền kinh tế theo cơ chế thị
trường gồm nhiều thành phần kinh tế thì cơ cấu xã hội giai cấp cũng lập tức biến
đổi. Đó là sự hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng thay thế cho cơ cấu xã
hội - giai cấp giản đơn bao gồm giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, tầng lớp trí
thức.
Tính đặc thù: Từ những đặc thù của kinh tế - xã hội, của lịch sử Việt Nam
mà trong thời kỳ quá độ mà dẫn tới sự biến đổi phức tạp trong nội bộ từng giai cấp,
tầng lớp cơ bản trong xã hội; sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp ấy.
- Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp, vị trí, vai trò của các giai
cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định
+ Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vị trí tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội
+ Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
+ Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
+ Đội ngũ doanh nhân ở Việt Nam đang đóng góp tích cực vào việc thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động
và tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
- Nội dung của liên minh:
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc tổ chức khối liên minh được thực hiện
trên ba phương diện cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa.
+ Nội dung kinh tế của liên minh:
Về vai trò: Đây là nội dung cơ bản có tính chất quyết định nhất, là cơ sở vật
chất kỹ thuật của liên minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất: Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức ở nước ta thực chất là sự hợp tác giữa họ, đồng thời
mở rộng liên kết hợp tác với các lực lượng khác, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân…
để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa hiện đại.
Nhiệm vụ xuyên suốt trong nội dung kinh tế của liên minh là phát triển kinh
tế nhanh và bền vững, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Nội dung chính trị của liên minh:
Về vai trò: Thực hiện liên minh giai cấp về mặt chính trị nhằm tạo cơ sở
chính trị - xã hội vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh
tổng hợp để đi tới mục tiêu là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất: nội dung chính trị của liên minh là giữ vững lập trường chính
trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với khối liên minh và đối với toàn xã hội để xây dựng và
bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ để thực hiện được liên minh giai cấp, tầng lớp cần
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
+ Nội dung văn hóa của liên minh:
Về vai trò: Thực hiện liên minh giai cấp về mặt văn hóa nhằm hướng tới xây
dựng một nền tảng tinh thần vững chắc, tạo ra sức mạnh quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về bản chất: Tổ chức liên minh để các lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng
cùng nhau xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu những tinh hoa, giá trị văn hóa của nhân loại và thời đại.
Nhiệm vụ cụ thể của liên minh văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã
hội, nâng cao dân trí…
- Phương hướng của liên minh:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp theo hướng tích cực.
+ Xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội tổng thể nhằm tác động
tạo sự biến đổi tích cực cơ cấu xã hội, nhất là các chính sách liên quan đến cơ cấu
xã hội – giai cấp
+ Tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất giữa các lực
lượng trong khối liên minh và toàn xã hội.
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh phát triển khoa học và công nghệ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để
phát huy vai trò của các chủ thể trong khối liên minh
+ Năm là, đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam nhằm tăng cường khối liên minh và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Chương 6:
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
(Tổng số 07 tiết, trong đó 04 tiết lý thuyết; 03 tiết thảo luận, bài tập)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Giúp sinh viên có được hiểu biết cơ bản về vấn đề dân tộc và tôn
giáo. Từ đó nhận thức rõ vai trò của vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Sinh viên nắm được quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác –
Lênin về vấn đề dân tộc, tôn giáo; mối quan hệ dân tộc, tôn giáo và nội dung chính
sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và nhà nước Việt Nam; tầm quan trọng của vấn đề
dân tộc, tôn giáo đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Về kỹ năng: Sinh viên rèn luyện kỹ năng tư duy và năng lực vận dụng
những nội dung trong bài học để phân tích , giải thích những vấn đề trong thực tiễn
một cách khách quan, khoa học.
- Về tư tưởng: Sinh viên thấy rõ tính khoa học trong tư tưởng và cách thức
giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo của Chủ nghĩa Mác- Lênin, của Đảng Cộng Sản
Việt Nam; từ đó xác định trách nhiệm của bản thân góp phần tuyên truyền và thực
hiện chủ trương, chính sách pháp luật về dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
- Khái niệm, đặc trưng cơ bản của dân tộc:
+ Khái niệm dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
 Nghĩa thứ nhất, dân tộc là toàn bộ nhân dân của một quốc gia - quốc gia
dân tộc, đó là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất
quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế và truyền thống.
 Nghĩa thứ hai, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, đó là một cộng đồng
người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ
riêng, có nét văn hoá đặc thù và có ý thức tự giác tộc người.
Khái niệm dân tộc cần được hiểu theo hai nghĩa khác nhau đó. Thực chất hai
vấn đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể tách
rời.
+ Đặc trưng cơ bản của dân tộc:
 Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế: Đây là đặc trưng quan trọng
nhất của dân tộc và là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc,tạo nên
nền tảng vững chắc của dân tộc.
 Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt: là đại bàn sinh tồn và phát
triển của cộng đồng dân tộc. Lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển, hải đảo
thuộc chủ quyền của quốc gia, dân tộc và được thể chế hóa thành luật.
 Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước dân tộc độc lập.
 Có ngôn ngữ chung của quốc gia làm công cụ giao tiếp trong xã hội và
trong cộng đồng
 Có nét tâm lý riêng biểu hiện kết tinh trong nền văn hoá dân tộc. Đối với
những quốc gia có nhiều dân tộc thì tính thống nhất trong đa dạng văn hóa là đặc
trưng của nền văn hóa dân tộc.
- Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:
+ Xu hướng thứ nhất: Các cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành các
cộng đồng dân tộc độc lập. Nguyên nhân của xu hướng này là do sự thức tỉnh, sự
trưởng thành về ý thức dân tộc và ý thức về quyền sống trong các cộng đồng dân
tộc. Từ đó họ muốn tác ra để thành lập dân tộc độc lập.
+ Xu hướng thứ hai: các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc
trong nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này nổi lên trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, thực hiện sự bóc lột đối
với các nước thuộc địa. Do sự phát triển của khoa học công nghệ, của giao lưu kinh
tế, văn hóa trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào
ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lạ gần nhau hơn.
Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiện rất đa
dạng và phong phú. Trong đó có những biểu hiện chủ yếu như: các dân tộc nhỏ đấu
tranh để thoát khỏi sự đồng hóa và cưỡng bức của các nước tư bản chủ nghĩa, đấu
tranh để thoát khỏi kỳ thị dân tộc, khẳng đinh quyền tự quyết; hoặc xu hướng xích
lại gần nhau thể hiện ở sự liên minh của các dân tộc trên cơ sở lợi ích chung về
kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự.
- Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin:
+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc:
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Các dân tộc không phân biệt lớn
hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp đều được đối xử ngang nhau, đều có
quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau; không một dân tộc nào được hưởng đặc quyền
đặc lợi và càng không có chuyện dân tộc này áp bức, nô dịch dân tộc khác;
Quyền bình đẳng phải được ghi nhận về mặt pháp lí nhưng quan trọng hơn
phải được thực hiện trong cuộc sống.
Thực hiện quyền bình đẳng trước hết là xoá bỏ áp bức giai cấp, dân tộc.,
khắc phục được sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân
tộc.
+ Quyền dân tộc tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là quyền tự làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận
mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị-xã hội và con đường
phát triển của dân tộc mình, quyền được tự do phân lập thành quốc gia độc lập và
quyền liên hiệp với các dân tộc khác.
Khi xem xét quyền dân tộc tự quyết, điều quan trọng là cần đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân.
Giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết phải gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
từng quốc gia.
+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Đây là một tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-
Lênin và các đảng cộng sản, nó phản ánh tính chất quốc tế của giai cấp công nhân,
đồng thời phản ánh sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp.
Nó còn là cơ sở đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành
thắng lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là nội dung vai trò liên kết cả ba nội
dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
Tóm lại: Cương lĩnh dân tộc là một bộ phận hợp thành trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là cơ sở lí luận cho chính sách
dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.2. Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
- Đặc điểm dân tộc Việt Nam:
+ Có sự chênh lệch về dân số giữa các tộc người: Việt Nam là một quốc gia
có 54 dân tộc thống nhất được phân bố rải rác trên lãnh thổ cả nước. Dân tộc đông
nhất là dân tộc Kinh (85,7%) dân số, còn lại là 53 dân tộc dân tộc thiểu số (14,3%).
+ Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau: Ở Việt Nam không có một dân tộc nào chỉ
cư trú và tập trung duy nhất trên một địa bàn. Đặc điểm này một mặt tạo điều kiện
để các dân tộc tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nhưng
mặt khác, nó cũng dễ làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc.
+ Các dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở các địa bàn chiến lược quan trọng:
dù chỉ chiếm 14,3 % dân số nhưng các dân tộc thiểu số lại phân bố trên ¾ diện tích
lãnh thổ ở các vị trí trọng yếu của quốc gia về kinh tế, chính trị, an ninh quốc
phòng.
+ Các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển không đều: Đại bộ phận các
dân tộc Việt Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ nhưng vẫn có một
số ít các dân tộc duy trì hình thức kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào chiếm đoạt tự
nhiên.
+ Các dân tộc có truyền thống đoàn kết, gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân
tộc, quốc gia thống nhất. Đặc trưng này được hình thành là kết quả của quá trình cố
kết các dân tộc trong chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm.
+ Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần hình thành nền văn hóa
Việt Nam vừa thống nhất, vừa phong phú đa dạng.
- Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam
+ Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan
hệ dân tộc:
 Thực hiện nhất quán nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân
tộc.
 Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
 Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển, cùng phấn đấu thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam.
 Phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh – quốc
phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, giải quyết tốt chính sách dân tộc,
quan tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc, phát huy bản sắc của các dân tộc trong sự
nghiệp chung.
 Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng các dân tộc và miền núi,
tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và của các địa phương trong cả
nước.
 Công tác dân tộc và thực hện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các nghành và toàn bộ hệ thống chính trị.
+ Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam:
 Về chính trị: thực hiện bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển
giữa các dân tộc.
 Về kinh tế: thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc
phục khoảng cách, chênh lệch giữa các vùng miền.
 Về văn hóa: phát huy giá trị truyền thống văn hóa của các tộc người, nâng
cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc.
 Về văn hóa xã hội: thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù của từng
vùng, mỗi dân tộc.
 Về an ninh quốc phòng: tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở
đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn
diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, xé đến đặc thù mỗi
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia.
2. Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo
- Bản chất, nguồn gốc, và tính chất của tôn giáo:
+ Bản chất của tôn giáo
 Khái niệm: Tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo,
hoang đường hiện thực khách quan, qua sự phản ánh đó những hiện tượng tự nhiên
và xã hội trở nên thần bí.
 Giữa các khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng, mê tín dị đoan thường đi liền với
nhau song có sự khác biệt.
Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức
thể hiện niềm tin của con người trước các sự vật, các hiện tượng, lực lượng có tính
thần thánh, linh thiêng để cầu mong sự chở che, giúp đỡ.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu tự nhiên,
thần thánh đến mức độ mê muội, cuồng tín dẫn đến những hành vi cực đoan, sai
lệch quá mức, trái với các giá trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại đối với cá
nhân, xã hội và cộng đồng.
 Bản chất của tôn giáo:
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Nó phản ánh một cách thần
bí, hư ảo những hiện tượng khách quan vào đầu óc con người.
Tôn giáo còn là một thực thể xã hội. Mỗi tôn giáo cụ thể sẽ có niềm tin tôn
giáo, giáo lý tôn giáo, giáo luật tôn giáo, giáo dân và tín đồ của tôn giáo đảm bảo tổ
chức, hoạt động của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa do con người sáng tạo ra. Mọi
quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được được sinh ra từ
những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện kinh tế và thay đổi theo những điều
kiện ấy.
+ Nguồn gốc của tôn giáo:
 Nguồn gốc kinh tế-xã hội của tôn giáo: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình
độ con người thấp kém, con người bất lực trước các hiện tượng tự nhiên nên đã gán
cho thiên nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Xã hội nguyên thủy tan dã, loài người
chuyển sang xã hội có giai cấp. Và trong xã hội có giai cấp, trước các hiện tượng xã
hội (bất công, đói nghèo, …) con người cảm thấy bất lực, bất an, đó là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo.
 Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Nhận thức của con người về hiện thực
khách quan không ngừng vận động nhưng rong các thời kì lịch sử cụ thể, vẫn tồn
tại những vấn đề mà khoa học chưa giải thích được. Những vấn đề ấy nếu con
người khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo sẽ có khả năng xa rời hiện
thực, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan. Từ đó dẫn đến sự xuất hiện và tồn tại
của tôn giáo.
 Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo: Từ sự sợ hãi trước các sức mạnh tự nhiên,
xã hội; từ tâm lí, tình cảm tích cực (lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ, vui sướng do may
mắn…) khiến con người có tâm lý sùng bái, nhờ cậy, tin tưởng và thờ phụng thần
linh.
+ Tính chất của tôn giáo:
 Tính lịch sử: Tôn giáo là một phạm trù lịch sử. Nó ra đời, tồn tại trong
những giai đoạn lịch sử nhất định, vận động và biến đổi, thích nghi với điều kiện
kinh tế - xã hội ở mỗi thời đại. Khi nào những nguyên nhân về mặt kinh tế, nhận
thức, tâm lý cho sự ra đời và tồn tại của tôn giáo mất đi thì khi ấy tôn giáo cũng sẽ
mất đi.
 Tính quần chúng: Tôn giáo là nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của một
bộ phận nhân dân. Tính quần chúng của tôn giáo thường được thể hiện ở tính nhân
văn, tính nhân đạo và tính hướng thiện.
 Tính chính trị: Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị thường sử
dụng tôn giáo làm công cụ, phương tiện để đạt được những mục đích chính trị.
- Nguyên tắc giải quyết tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có
sự biến đổi trên nhiều mặt. Vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
+ Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân: Tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng là thuộc quyền tự do của nhân
dân. Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với
quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Bên cạnh những mặt tích cực, tôn
giáo cũng còn những mặt tiêu cực cần được hạn chế trong đời sống xã hội. Quá
trình khắc phục những tiêu cực của tôn giáo phải xuất phát từ việc thay đổi, cải tạo
tồn tại xã hội, gắn liền với công cuộc cải tạo, kiến thiết để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
+ Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Tôn
giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch
sử cụ thể. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và
ứng xử đối với những vẫn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ
thể.
2.2. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay
- Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
+ Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo
+ Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và không có
xung đột, chiến tranh tôn giáo .
+ Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc .
+ Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội,
có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ.
+ Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo
ở nước ngoài .
+ Các tôn giáo ở Việt Nam thường bị các thế lực thực dân, đế quốc, phản
động lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” ở nước ta.
- Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo, tín ngưỡng
hiện nay:
+ Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
+ Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Đoàn kết tôn giáo trên cơ sở đó để đoàn kết dân tộc
thành một khối thống nhất.
+ Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc.
+ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Bởi công tác
tôn giáo không chỉ liên quan đến đồng bào tôn giáo mà còn có liên quan đến nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn, liên quan đến chính
sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.
+ Vấn đề theo đạo và truyền đạo được thực hiện trên cơ sở đảm bảo quyền
tự do và hợp pháp theo quy định và được bảo hộ bởi pháp luật Việt Nam.
3. Quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
3.1. Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
- Quan hệ dân tộc và tôn giáo là sự liên kết, tác động qua lại, chi phối lẫn
nhau giữa dân tộc và tôn giáo trong nội bộ một quốc gia, hoặc giữa các quốc gia
với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc giải quyết mối quan hệ này có
ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia đa dân tộc và tôn giáo.
- Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan hệ dân tộc và tôn
giáo được thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng quốc gia - dân tộc thống nhất.
Trong lịch sử cũng như hiện tại, các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống gắn bó
chặt chẽ với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, gắn đạo với đời.
- Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự phối mạnh mẽ bởi tín
ngưỡng truyền thống. Trong đó, tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc,
những người có công với dất nước và nhân dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong đời sống tâm linh của người Việt.
- Khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện chính sách kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn cầu hóa thì đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
của người dân cũng phát triển. Trong đó có những hiện tượng tôn giáo mới đang có
những ảnh hưởng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tác động tiêu cực
đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nhiều vùng dân tộc.
- Các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc và vấn đề tôn
giáo nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình”, nhất là tập trung ở bốn khu vực trọng
điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung.
3.2. Định hướng giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay
- Tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo
+ Đây là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt
Nam.
+ Mục đích của việc thực hiện định hướng này là tạo động lực to lớn thúc
đẩy công cuộc kiến tạo đất nước phồn vinh, phát triển bền vững,bảo vệ nền độc lập,
chủ quyền của quốc gia.
- Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đặt trong mối quan hệ với
cộng động quốc gia – dân tộc thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề nhạy cảm trong đời sống xã hội. Vì vậy,
khi giải quyết những vấn đề liên quan đến dân tộc và tôn giáo cần phải được thực
hiện một cách thỏa đáng.
+ Mục đích: thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo ổn định chính trị, an
toàn trật tự xã hội vì mục đích chung xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền của các dân tộc thiểu số, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo vào mục đích chính trị.
+ Dân tộc và tôn giáo có mối quan hệ nhạy cảm với vấn đề nhân quyền. Do
đó khi giải quyết quan hệ dân tộc và tôn giáo cần đảm bảo cho con người những
quyền cơ bản.
+ Mục đích: Thực hiện nguyên tắc này nhằm ngăn chặn việc lợi dụng tôn
giáo, dân tộc, nhân quyền để kích động quần chúng, chia rẽ đoàn kết dân tộc, đoàn
kết tôn giáo.
Chương 7
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
(Tổng số 06 tiết, trong đó 03 tiết lý thuyết; 03 tiết thảo luận)
I. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
Giúp sinh viên nắm được những kiến thức cơ bản của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình, xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Yêu cầu
- Về kiến thức: sinh viên hiểu được khái niệm, chức năng, vị trí của gia
đình; vấn đề xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Về kỹ năng: Có kỹ năng, phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu
những vấn đề có liên quan đến gia đình.
- Về tư tưởng: Sinh viên có thái độ và hành vi đúng đắn trong nhận thức về
gia đình, quan hệ gia đình.
II. Phương pháp: Sử dụng tổng hợp các phương pháp. Trong đó chủ yếu sử dụng
phương pháp thuyết trình, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp……..
III. Phương tiện hỗ trợ
- Giáo trình và các loại tài liệu tham khảo
- Đề cương bài giảng
- Máy chiếu, bảng phấn, máy tính….
IV. Nội dung
1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình
1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một
thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở
những quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng cùng với những
quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
- Gia đình là tế bào của xã hội: Với việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, tái sản
xuất ra con người, gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên
cơ thể - xã hội.
- Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội: Gia đình là cộng đồng xã hội
đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Trong gia đình, mỗi cá
nhân được học và thực hành các quan hệ xã hội. Đó chính là cơ sở để hình thành
nhân cách cá nhân, là cơ sở để mỗi cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội khác.
- Xã hội là môi trường tồn tại và phát triển của gia đình: Ở mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau, sự phát triển của xã hội quy định hình thức, tính chất, quy mô và
kết cấu của gia đình đồng thời cũng quy định đặc điểm của mối quan hệ gia đình.
Trong đó, đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, của xã hội sẽ tác động trực tiếp đến
gia đình.
1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người: Đây là chức năng cơ bản, đặc thù của
gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản là tái sản xuất con người,
duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn
lao động và sức lao động cho xã hội. Khi thực hiện chức năng này cần chú ý tới
điều kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia để có một kế hoạch phát triển dân số hợp
lý.
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục: Gia đình là một môi trường giáo dục
quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình thể hiện ở tình cảm thiêng liêng,
trách nhiệm của những thành viên trong gia đình với nhau, đồng thời thể hiện trách
nhiệm của gia đình đối với xã hội.
- Chức năng kinh tế: Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và tư liệu tiêu
dùng. Tuy nhiên, điểm đặc thù của gia đình so với các đơn vị kinh tế khác là ở chỗ
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
- Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình: Gia
đình không chỉ là nơi nương tựa về mặt vật chất mà còn là nơi nương tựa về mặt
tinh thần của con người. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong
gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi
người.
Ngoài những chức năng cơ bản trên, gia đình còn có chức năng văn hóa,
chức năng chính trị…
2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xây dựng sở
hữu XHCN đối với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra cơ sở kinh tế cho việc xây dựng
gia đình:
Một là, xóa bỏ sở hữu tư nhân để xây dựng hôn nhân tiến bộ trên nền tảng
của tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội.
Hai là, xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở để xây dựng quan
hệ bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội.
2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động – nhà nước xã hội chủ nghĩa
Vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với việc xây dựng gia đình trước
hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách xã hội để đảm bảo lợi ích của
công dân, các thành viên trong gia đình; đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân
số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội.
Đồng thời hệ thống pháp luật và chính sách xã hội của Nhà nước còn có vai
trò định hướng, thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
2.3. Cơ sở văn hóa
Trong quá trình xây dựng CNXH, sự phát triển giáo dục và đào tạo, phát
triển khoa học - công nghệ được coi là quyết sách hàng đầu, tạo ra những điều kiện
nâng cao dân trí, phát huy đầy đủ khả năng của mỗi công dân, mỗi gia đình. Dân trí
cao là một tiền đề xã hội quan trọng để xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc.
Các giá trị văn hoá của gia đình truyền thống cũng là những điều kiện, tiền
đề quan trọng để xây dựng gia đình trong CNXH.
2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
- Hôn nhân tự nguyện là hôn nhân được xuất phát từ tình yêu giữa nam và
nữ. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng trên cơ sở tình yêu thì chừng đó,
trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế.
- Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng kết quả tất yếu của hôn
nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm
bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với
tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
- Hôn nhân được bảo vệ về pháp lý: Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn
nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách
nhiệm của cá nhân với gia đình, xã hội và ngược lại. Thủ tục pháp lý trong hôn
nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược
lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.
3. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH
3.1. Những yếu tố tác động đến gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan
tác động đến gia đình Việt Nam:
+ Tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức.
+ Tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại.
+ Tác động của chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình.
3.2. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH
- Biến đổi quy mô, kết cấu gia đình: Trong bước chuyển từ xã hội nông
nghiệp cổ truyền sang xã hội công nghiệp hiện đại, sự giải thể của cấu trúc gia đình
truyền thống nhiều thế hệ sang gia đình hạt nhân đang trở nên phổ biến ở các đô thị
và cả ở nông thôn Việt Nam. Sự biến đổi này một mặt tạo ra những thích ứng cần
thiết với nhu cầu và điều kiện của thời đại mới. Mặt khác nó cũng gây ra những khó
khăn, cản trở trong việc giữ gìn tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống
của gia đình.
- Biến đổi các chức năng của gia đình:
+ Biến đổi chức năng tái sản xuất con người: Trước kia trong gia đình Việt
Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiện trên ba phương diện: phải có con,
càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì ngày nay, nhu cầu
ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiện ở việc giảm mức sinh của phụ nữ, giảm
số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp vợ
chồng. Việc sinh đẻ cũng được các gia đình tiến hành một cách chủ động, tự giác
khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh con.
+ Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng: Do những biến đổi của
kinh tế thời đại mà chức năng kinh tế của gia đình Việt Nam cũng có những biến
đổi: chuyển từ kinh tế khép kín đáp ứng nhu cầu của gia đình sang đơn vị kinh tế
sản xuất chủ yếu đáp ứng nhu cầu của xã hội; chuyển từ đơn vị kinh tế sản xuất đáp
ứng nhu cầu trong nước sang đáp ứng nhu cầu toàn cầu.
+ Biến đổi chức năng giáo dục: Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo
dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội thì ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên
giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, những yêu cầu của giáo dục xã hội cho
giáo dục gia đình2. Điểm tương đồng giữa giáo dục gia đình truyền thống và giáo
dục của xã hội mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh của cá nhân cho cộng đồng.
+ Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm: Trong
xã hội hiện đại, nhu cầu thỏa mãn tâm lý, tình cảm đang tăng lên do gia đình có xu
hướng chuyển đổi từ đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn vị tình cảm. Độ bền vững
của gia đình không chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa
các thành viên trong gia đình mà còn bị chi phối bởi các mối quan hệ hòa hợp tình
cảm , sự hạnh phúc cá nhân, sự tự do sinh hoạt của mỗi thành viên trong cuộc sống
chung.
- Sự biến đổi quan hệ gia đình:
+ Biến đổi quan hệ hôn nhân và quan hệ vợ chồng:
Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, của toàn
cầu hóa, quan hệ vợ chồng trở nên lỏng lẻo, gia tăng tỉ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình,
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân… Cũng từ đây mà giá trị truyền thống trong gia
đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ, lung lay.
Bên cạnh đó không chỉ tồn tại duy nhất mô hình người đàn ông làm chủ gia
đình mà còn có mô hình người vợ làm chủ gia đình, mô hình cả vợ và chồng cùng
làm chủ gia đình.
+ Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia
đình: Trong gia đình hiện đại, sự giáo dục của gia đình đối với trẻ em ít hơn; mâu
thuẫn giữa các thế hệ về mặt tuổi tác, quan niệm sống ngày càng lớn; sự bền vững
của gia đình cũng suy giảm đi….
3.3. Phương hướng cơ bản để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ quá độ lên CNXH
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây
dựng và phát triển gia đình Việt Nam: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền để
nâng cao nhận thức của các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến địa phương về vai
trò của gia đình. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải đưa nội dung và mục tiêu xây
dựng, phát triển gia đình vào kế hoạch công tác hàng năm của bộ, ngành, địa
phương.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ
gia đình: xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, có chính
sách hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, hỗ trợ các gia đình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế để vươn lên làm giàu chính đáng.
- Kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
- Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình
văn hóa. Mô hình xây dựng gia đình văn hóa đã có nhiều tác động tích cực đối với
gia đình Việt Nam: phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình, phát huy
những ứng xử, tình cảm tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình. Vì vậy, để phát
triển gia đình Việt Nam hiện nay cần tiếp tục nhân rộng việc xây dựng mô hình gia
đình văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

You might also like