Professional Documents
Culture Documents
(Trần Tế Xương)
Câu 2. Từ “lẫn” ở câu thơ thứ hai có ý nghĩa như thế nào?
Câu 3. Tìm và phân tích giá trị biện pháp tu từ trong câu luận (câu 5 – 6)
Câu 4. Theo anh/chị, tại sao khi quan tâm đến “cảnh nước nhà”, nhà thơ lại bắt đầu từ “nhân tài đất Bắc”?
Lời giải
Câu 1.
Chủ đề: Nhũng cảnh chướng tai, gai mắt ở trường thi phản ánh tình trạng suy đồi của Nho học và sự xâm nhập ồ sạt
của thứ văn hóa lai căng (lúc chế độ thuộc địa nửa phong kiến mới được thiết lập” và nỗi lòng đau xót, phẫn uất của tác
giả.
Câu 2.
Từ “lẫn” trong câu thơ phản ánh tình trạng lộn xộn, bát nháo ở trường thi – nơi vốn được coi là điển hình của sự tôn
nghiêm.
Câu 3.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ là “đối”. Hiệu quả, tác dụng một sự đối lập vừa chướng tai gai mắt,
vừa đau lòng, phản ánh một thực trạng “cười ra nước mắt”. Sự hiện diện của “quan sứ” và “mụ đầm” là quốc nhục.
Câu 4.
Sở dĩ Trần Tế Xương nhắc tới nhân tài đất BẮc là vì các cuộc thi được mở ra với mục đích tìm kiếm nhân tài cho đất
nước nhưng cảnh thi cử lộn xộn, bát nháo như thế này thì không thể tìm được nhân tài. Câu thơ vừa có màu sắc trào
phúng (châm biếm, chua chát) vừa đậm chất trữ tình (đau xót). Cũng có thể hiểu đó là tiếng gọi, là lời thức tỉnh của nhà
thơ đối với những nhân tài đất Bắc thực sự: hãy làm gì đó để mà thay đổi “cảnh nước nhà.
Đọc kĩ văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
(Trần Tế Xương)
Câu 1: Xác định bối cảnh giao tiếp rộng và bối cảnh giao tiếp hẹp trong bài thơ “Vịnh khoa thi hương”?
Câu 2: Hai câu thơ đầu cho thấy kì thi có gì đặc biệt?
Câu 4: Chỉ ra đặc sắc nghệ thuật trong hai câu thơ 5,6? Nêu tác dụng?
Câu 5: Viết đoạn văn phân tích tâm trạng, thái độ của nhà thơ trong hai câu thơ kết
Lời giải
Câu 1:
- Bối cảnh giao tiếp hẹp: Kì thi năm Đinh Dậu (1897) toàn quyền Pháp Pôn-đu-me cùng vợ đến dự.
Câu 2:
- Kì thi có sự xáo trộn thiếu nề nếp quy củ trường thi ở Nam Định thi lẫn với trường thi Hà Nội.
Câu 3:
- Quan trường ậm ọe âm thanh ú ớ, nói không rõ tiếng, la lối hách dịch, vênh váo.
Câu 4:
- Đối: lọng cắm rợp trời >< váy lê quét đất; quan sứ đến >< mụ đầm ra.
- Tác dụng: tác giả châm biếm mạnh mẽ hình ảnh quan sứ được đón tiếp trọng thể, mụ đầm ăn mặc diêm dúa, điệu
đáng. Tất cả đều phô trương hình, hình thức.
- Hai câu kết tác giả thức tỉnh các sĩ tử và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh mất nước.
- Thấy được tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của nhà thơ.
Đọc bài thơ”Vịnh khoa thi Hương” của Trần tế Xương và thực hiện các yêu cầu sau:
(Trần Tế Xương)
Câu 2: xác định và nêu tác dựng của phép tu từ trong 2 câu thơ sau: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ
đầm ra.”
Câu 3: Nêu suy nghĩ của bản thân về lời nhắn gửi của Tế Xương trong 2 câu thơ cuối
II.Làm văn:
“Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc,người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng 1 bức tượng
đài nghệ thuật bất tử”
Anh /chị hãy làm rõ ý kiến trên bằng việc cảm nhận bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (chủ yếu là từ câu 1 đến câu 15)
Lời giải
I, Đọc hiểu
1. Thái độ và tâm sự của tác giả trước cảnh thi cử buổi đầu chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Phản ánh hiện thực
nhốn nháo, ô hợp của quang cảnh trường thi dưới ách thực dân và thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ
thi cử đương thời.
2. Nghệ thuật đảo ngữ: nhấn mạnh sự chấm biếm về cảnh thi cử đáng ra phải trang nghiêm mà lại nhốn nháo không
khác gì trò hề
Nghệ thuật đối" "lọng cắm rợp trời" >< "váy lê quét đất"
=> Tác dụng: Phản ánh hiện thực nhốn nháo chốn quan trường và thái độ châm biếm của tác giả.
3. Trước thực tại đất nước oái oăm nhục nhã, Tú Xương đã bật ra tiếng kêu than. Đất Bắc ở đây là chỉ Hà Nội - mảnh
đất hội tụ nhân tài nước nhà. Câu thơ là tiếng kêu đầy đau đớn của Tú Xương với chính bản thân mình hay là một lời kêu
gọi đến những ai còn nghĩ tới sự vinh nhục của đất nước. Âm điệu câu thơ thể hiện sự xót xa, xốn xang của nhà thơ.
Nhân tài ở đây không ai khác chính là những người trí thức của thời đại.
II.Làm văn:
I. Mở bài
- Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn trong nền thơ văn Việt Nam, nổi bật với tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc"
- Trích lại câu nói: thể hiện chủ yếu ở 15 câu đầu
- Mở đầu là lời than của đồ Chiểu, nó chính là tiếng khóc cho linh hồn những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc anh
dũng, chết vẻ vang
- Câu thơ thứ nhất đã thể hiện được hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ: giặc xâm lược với vũ khí hiện đại, còn ta chỉ
có tấm lòng và ý chí giữ nước
- Câu thơ thứ 2 nói về hình ảnh người nông dân trước khi có chiến tranh và trong khi có chiến tranh
- Họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ chất phác hiền lành . Nhà thơ đã nhấn mạnh bản chất của những
người dân nghèo khổ
- Khi giặc tới họ đã không nề hà đứng lên trở thành anh hùng cứu nước
- Tinh thần chống giặc bảo vệ đất nước hừng hực cháy trong họ
- Họ căm thù bọn giặc hoành hành , sự giả nhân giả nghĩa của chúng
- Người nông dân đã tự nguyện đầu quân ra trận. Tuy không có kĩ thuật đánh giặc và không được tập dượt nhưng họ
rất chủ động
- Người nghĩa sĩ lao trong mưa bom bão đạn của kẻ thù, họ xông xáo lập nhiều chiến công vang dội
Tiến sĩ giấy
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Advertisements
Powered by GliaStudio
( Nguyễn Khuyến)
Câu 1: Bài thơ trên được viết theo thể loại nào?
Câu 2: Chỉ ra nội dung của bài thơ
Câu 3: Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ
sau: "Cờ đương dở cuộc không còn nước/ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng"
Câu 4: Qua bài thơ, anh/ chị cảm nhận được điều gì về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn
Khuyến.
Đáp án
Câu 1 : Thất ngôn bát cú đường luật
Câu 2 : Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh đồ chơi để nói về thời cuộc. Đội ngũ tiến sĩ
lúc này như chia làm hai loại. Hạng thứ nhất, có tài chữ nghĩa thực sự, nhờ chính tài năng
của mình mà đỗ đạt. Nhưng họ là là những con người có lòng tự trọng dân tộc. Khi nhận
thấy bản thân không xoay chuyển được tình thế bằng sức lực của mình nên họ buồn chán,
quay về ở ẩn lánh đời. Hạng thứ hai, đỗ đạt nhờ đồng tiền. Đó là những kẻ bất tài nhưng
lại tìm mọi cách để làm quan, để vơ vét của cải, để hưởng vinh hoa phú quý.
Câu 3 : Biện pháp ẩn dụ . Lấy thế cờ để chỉ thế sự quốc gia. Từ đó cụ thể hóa lên thực
trạng đáng buồn của triều đình, nước đi này đã chẳng thể có đường lui nên vận nước xem
như đến hồi đã tận. "Đã chạy lang" là lời tự trách của tác giả, khi đã về ở ẩn bỏ lại thế sự,
bỏ lại công vụ và trách nhiệm với nhân dân
ADVERTISEMENT
Câu 4 : Nguyễn Khuyết từng là một nhà nho từng bao năm dùi mài kinh sử, từng ôm
mộng khoa danh để phò vua giúp đời. Nhưng từ khi nhận thấy bản chất rẻ rúng đồi bại và
xảo trá nơi thi cử quan trường của những kẻ bá nhơ mua danh bán tước, thì ông đã thật sự
ngán ngẩm, đấy là sự ngán ngẩm của một nhà nho có lòng tự trọng đã nhận ra và thấm
thía nỗi chua xót của một trí thức bất lực trước thời cuộc. Một nhân cách đẹp, một lý
tưởng đẹp và cũng là một nhà nho lỗi lạc, thấu đời.
Tiến sĩ giấy vốn là một thứ đồ chơi rất quen thộc của trẻ con thời xưa. Các bậc cha mẹ
mua tiến sĩ giấy cho con để mong muốn bọn trẻ học hành đỗ đạt và ra làm quan. Nguyễn
Khuyến đã mượn hình ảnh đồ chơi này để nói về thời cuộc. Triều đình vẫn mở các khoa
thi để tuyển chọn nhân tài giúp nước. Vẫn có nhiều người đỗ tiến sĩ, nhưng họ đã giúp gì
được cho đất nước. Đội ngũ tiến sĩ ấy có thể chia làm hai hạng. Hạng thứ nhất, có tài chữ
nghĩa thực sự, nhờ chính tài năng của mình mà đỗ đạt. Nhưng họ là là những con người
có lòng tự trọng dân tộc. Họ không xoay chuyển được tình thế bằng sức lực của mình nên
họ buồn chán, quay về ở ẩn lánh đời. Từ đó cảm thấy mình vô dụng như một thứ đồ chơi.
Hạng thứ hai, đỗ đạt nhờ đồng tiền. Đó là những kẻ bất tài nhưng lại tìm mọi cách để làm
quan, để vơ vét của cải, để hưởng vinh hoa phú quý. Đó là một đám tiến sĩ giấy không
những vô dụng mà còn có hại cho dân tộc. Hình ảnh tiến sĩ giấy trong tác phẩm của
Nguyễn Khuyến, có bóng dáng của cả hai hạng tiến sĩ ấy.
Bốn câu thơ đầu phác hoạ nên hình ảnh ông tiến sĩ:
Nhưng đến hai câu tiếp thì tính chất nửa vời ấy tăng tiến với sự xuất hiện của hai cặp
đối lập:
Vườn nhà Khải có một hòn non bộ lớn dựng giữa một hồ nước rộng, cảnh trí rất xinh.
Trên non bộ, có đặt một ông phỗng sành đứng trầm mặc, đăm đăm nhìn xuống mặt nước
hồ. Nguyễn Khuyến thường hay tha thẩn quanh đó.
Một hôm, Khải dạo vườn, bất chợt gặp Nguyễn Khuyến đang tần ngần đứng ngắm ông
phỗng. Hắn mời ông thử vịnh một bài. Ông ứng khẩu đọc:
Nghe nói sau đó, Khải phải để Nguyễn Khuyến về quê. Hắn không thể chịu đựng được
Nguyễn Khuyến lâu hơn nữa.
Skip in 6
C2 MÁT LÀNH, SAO PHẢI GẮT
shopee.vn
Tìm Hiểu Thêm
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:.
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.