You are on page 1of 27

GIÁC NGỘ LÀ GÌ ?

Thiện Gỉa: Phạm Doãn

Đây là câu hỏi và đề tài thật phức tạp luôn gây tranh cãi trong Đạo
Phật. Bởi vậy, khi tìm trong sách hoặc search trên mạng, quí vị sẽ
không tìm thấy câu trả lời thật rõ ràng và thật thỏa mãn cho mình.
Ngược lại các câu trả lời luôn luôn rất khác nhau, rất mơ hồ và rất
bế tắc! Nói theo kiểu Thiền Tông Trung Quốc là “không thể giải
bày” (bất khả ngôn thuyết).

Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là
“Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening” [1].
Khi sử dụng tiếng Anh nên gọi là “Buddhist enlightenment” hay
“Buddhist awakening” để rõ nghĩa và phân biệt giác ngộ của Đạo
Phật với các loại giác ngộ của các giáo phái hay tôn giáo khác.
Nếu hỏi giác ngộ là gì ? Nên biết rằng giữa các tôn giáo, giáo phái
có nguồn gốc từ triết học Bà La Môn hoặc các tông phái của Đạo
Phật phát triển và giáo pháp của Đạo Phật nguyên thủy đều có
những quan điểm và cách giải thích hoàn toàn khác nhau.

Như vậy: Giác Ngộ chỉ là một từ chung chung, mang những nội
dung khác biệt. Cùng nói đến một từ “giác ngộ”, nhưng nếu tìm
hiểu cặn kẽ thì rõ ràng cách hiểu về giác ngộ của từng tôn giáo,
pháp môn có khác biệt nhau rất nhiều. Phải nắm vững một điều
rằng: Từ những quan điểm triết học khác nhau đã dẫn đến những
phương pháp tu tập khác nhau và kết quả là những nội dung giác
ngộ …không giống nhau.

I. Có nhiều loại giác ngộ khác nhau:

1/ Giác ngộ của các tôn giáo thần khải (Do Thái, Thiên Chúa,
Hồi giáo) Trong các các tôn giáo thần khải (Do Thái, Thiên Chúa,
Hồi giáo) không có từ “Giác ngộ” (enlightenment).

Một người trở thành một vị Thánh là do sự ban phước (blessing) từ


Thiên Chúa (Đấng sáng tạo tối cao). Các bậc Thánh được gọi là
the “Blessed One” trong tiếng Anh.

Nhờ sự ban phước này, các vị Thánh có thể tiếp xúc với Thiên
Chúa thông qua sự “mặc khải” (revelation). Ví dụ: Đấng Christ
mặc khải trong sa mạc. Đấng Mohamed mặc khải trên núi Sinai.

Các tôn giáo thần khải đặt cơ sở trên niềm tin. Không có khái niệm
“giác ngộ” mà chỉ có khái niệm “được ban phước” từ Thiên Chúa.
Không có mục đích “giải thoát” mà chỉ có ước muốn đạt tới “thiên
đàng”. Thiên đàng này là duy nhất, do Chúa dựng lên và do chúa
ngự trị. Trong các thánh đường Hồi giáo (mosque), người ta thấy
cảnh giới thiên đàng được vẽ trên các bức vách mô tả cảnh hoan
lạc vui sướng, tương tự như khái niệm các cõi trời của dục giới.
2/ Giác ngộ của Ấn Giáo (gồm nhiều tông phái, đa số thuộc Bà La
Môn giáo) Giác ngộ của Ấn Giáo (gồm nhiều tông phái, đa số
thuộc Bà La Môn giáo) thường được tin là sự câu thông
(connection) và nhận biết các cõi trời.

Sự câu thông này được thực hiện bằng các kĩ thuật thiền định, yoga
hoặc thậm chí bằng sức mạnh của đức tin. Theo triết học Bà La
Môn, khi giác ngộ, bản ngã cá nhân (Atman) không còn thu thúc
trong cơ thể trần gian mà mở rộng đến những cõi to lớn hơn, cao
siêu hơn, tùy theo mức độ tu chứng.

Cuối cùng là sự “trở thành một” với Đại ngã (Bhraman).


Các đạo sư Ấn Độ nổi tiếng như Vivekananda, Krishnamurti,
Osho, Thakar Sing, v.v… thường ca ngợi về sự trở thành một với
thượng đế. Sự giác ngộ trong Ấn giáo thường được diển tả bởi cụm
từ “Một là tất cả, tất cả là một” (One is all and all is one), hoặc
“câu thông với thượng đế”.

Trên thực tế, theo các triết gia Ấn Độ đương đại, chưa có một tôn
giáo nào của Ấn giáo đã thực hiện được sự trở thành một với
Brahman. Một số giáo phái của Ấn Độ giáo lấy Brahma (Đại Phạm
Thiên), một vị thần trong sắc giới, làm hình tượng để thờ phụng.
Một số giáo phái thờ phụng các vị thần Vishnu và Shiva.

Còn lại rất nhiều giáo phái khác thờ các vị thần khác theo các
huyền thoại. Truyền thống Vedanta [2] thường đề cập đến tha lực,
lực gia trì trong quá trình tu tập đi đến giác ngộ.

Vedanta luôn nhấn mạnh đến sự cần thiết của minh sư còn sống
(living teacher). Minh sư (hay Guru) của giáo phái San Mat
(Sihkism) được tin là có thể truyền năng lực tâm để khai tâm
(initiate) cho đệ tử [3]. Mật tông của Phật giáo phát triển có các
nghi thức quán đảnh. Hiện nay có rất nhiều giáo phái mới phát
sinh. Rất nhiều guru, tổ sư, minh sư nói về giác ngộ.
Tuy nhiên các loại giác ngộ đó không có cùng bản chất với sự giác
ngộ của sa môn Gautama tại Bodhgaya. Đại Giác Ngộ của Đức
Phật là kì tích duy nhất và khác biệt hoàn toàn với mọi loại giác
ngộ của các giáo phái hay tôn giáo khác.

Tôi không hề phủ nhận giá trị của những loại giác ngộ khác (của
các tôn giáo hay giáo phái khác). Các con đường tu tập khác nhau
dẫn đến các loại giác ngộ, tức các đẳng cấp tâm linh khác nhau.

Tám vạn bốn ngàn pháp môn tại Ấn Độ đều có giác ngộ dựa trên
các loại kỹ thuật tu tập thiền định khác nhau.

Chỉ riêng có Đức Phật, sau khi đã giác ngộ bằng thiền định đã
không thỏa mãn với loại giác ngộ như vậy, ngài đã tìm ra và thực
hiện được một giác ngộ hoàn toàn khác biệt dựa trên các Tuệ giải
thoát. Các loại giác ngộ đều có giá trị riêng và có vai trò nhất định
của nó trong tiến hóa của loài người.

Điều muốn nhấn mạnh ở đây là sự phân biệt minh bạch giữa các
loại Giác ngộ khác nhau. Một số rất đông người đã chọn con
đường tu tập của các giáo phái Bà La Môn vì nhầm rằng đó là Đạo
Phật. Ví dụ, một guru San Mat ( Ching Hai) lại tự nhận mình là
một vị Phật (Buddha). Vị này dạy phương pháp tu tập theo truyền
thống San Mat (thuộc Sikhism) bằng những khái niệm và ngôn ngữ
quen thuộc của Đạo Phật để mọi người tin rằng đây là giáo pháp
của Đức Phật đã từng giảng dạy.

Như vậy là không chân thật và không công bằng! Tại sao đã gọi là
“minh sư” lại không đủ can đảm để cho tín đồ biết rõ sự thật về
nguồn gốc giáo phái của mình? Tại sao vị minh sư đó lại không
dám trình bày so sánh về những cứu cánh giải thoát khác nhau, để
những người “sơ cơ” chưa kịp hiểu biết, có thể chọn lựa con đường
mình muốn chọn. Để thu hút tín đồ, vị minh sư San Mat này đã cố
ý lập lờ đánh tráo khái niệm “khai ngộ” và “giác ngộ”.
Khi ngài nói “tức khắc khai ngộ, hiện đời giải thoát” thì đừng nên
tin rằng bạn sẽ giác ngộ ngay tức khắc trong lúc này.

Cẩn thận, vì sau đó ngài sẽ lại nói: “Khai ngộ rồi sẽ tu tiếp đến khi
giác ngộ”. Chiêu thức này cũng là cái trick, giống hệt khi Thiền
Tông Trung Quốc nói “Đốn Ngộ” rồi sau đó sẽ “Tiệm tu”.

Ở đây, vì phải trả lời câu hỏi “Giác ngộ là gì ? cho nên bất đắc dĩ
phải đề cập tới những khái niệm lập lờ như “đốn ngộ’ và “khai
ngộ” vốn xa lạ với kinh điển nguyên thủy.

Đối với nhiều giáo phái, có khi chỉ với một vài trải nghiệm tâm
linh không đáng kể trong các kỹ thật thiền định, đã được gọi là
giác ngộ! Ví dụ, các tín đồ San Mat khi trải nghiệm được ánh sáng
thì coi như đã thành công trong thiền định vì họ tin rằng ánh sáng
là bản thể của thế giới và là “Phật tánh”.

Có khi chỉ với vài ảo giác như nghe âm thanh lạ hay nhìn thấy
những cảnh giới lạ v.v…(cái mà Đạo Phật gọi là tưởng tri) họ cũng
nhận là thành quả của sự tu tập .

Osho, guru nổi tiếng đương đại, từng tuyên bố không thuộc trường
phái nào, cũng định nghĩa giác ngộ bằng ánh sáng bên trong. Đoạn
dưới đây trích từ tác phẩm “Osho tự truyện”:

” Giác ngộ không gì ngoài bạn trở thành ánh sáng, bản thể của bạn
trở thành ánh sáng. Có lẽ bạn nhận thức qua là các nhà vật lý học
thường cho rằng nếu bất cứ những gì vận chuyển với tốc độ ánh
sáng, nó trở thành ánh sáng, bản thể nội tại của bạn trở thành ánh
sáng… bởi vì tốc độ quá lớn đến mức sự ma sát đó tạo ra lửa.
Vật đó bốc lửa, chỉ còn ánh sáng mà thôi. Vật thể biến mất, chỉ còn
phần lại phần phi vật chất. Giác ngộ là kinh nghiệm của sự bùng
nổ ánh sáng trong bạn.
Có lẽ sở cầu được giác ngộ của bạn chuyển động với tốc độ ánh
sáng như một mũi tên, nên chính sở cầu đó, chính sự khao khát đó
trở thành ngọn lửa, sự bùng nổ của ánh sáng. Không ai trở nên giác
ngộ, chỉ có sự giác ngộ. Chỉ có mặt trời mãnh liệt sáng ngời lên
trong bạn. (Upan41)

Tôi đã gặp hàng trăm nhà thần bí giải thích giác ngộ như có hàng
nghìn mặt trời bừng sáng trong bạn. Đó là sự diễn đạt qua ngôn từ
của các nhà thần bí, trong mọi ngôn ngữ, tại nhiều quốc gia khác
nhau, với nhiều chủng tộc khác nhau.(Transm22)

“Giác ngộ đơn thuần là kinh nghiệm tâm thức của bạn không bị
nhiễm ô bởi vọng tưởng, cảm giác, tình cảm. Khi tâm thức hoàn
toàn trống rỗng, nó là một kinh nghiệm bùng nổ, sự bùng nổ
nguyên tử. Toàn bộ tuệ giác của bạn tràn trề ánh sáng không nguồn
gốc, không nguyên nhân. Và một khi nó diễn tiến, nó tồn tại,
không bao giờ rời bạn dù chỉ một sát na; ngay cả khi bạn say ngủ,
ánh sáng đó vẫn chói lọi bên trong. Và sau khoảnh khắc đó, bạn
có thể thấy biết vạn pháp một cách vô cùng khác lạ.

Sau thể nghiệm đó, không còn câu hỏi gì nữa trong bạn
(Last113)…” [4] Osho cũng như các guru San Mat đều nhấn mạnh
trải nghiệm ánh sáng và coi đây là dấu hiệu của giác ngộ, thậm chí
ngài Thanh Hải (Ching Hai) còn gọi là “Phật tánh”.

Thực đúng như vậy, đây là dấu hiệu giác ngộ thông qua các pháp
thiền thuộc truyền thống Ấn giáo. Đối với Đạo Phật, ánh sáng
được nhận biết trong suốt qua trình tu tập Định và Tuệ nhưng đó
không phải là dấu hiệu của giác ngộ.

Phật giáo hiểu biết rất sâu sắc về bản chất của ánh sáng bên trong
(inner light). Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật đã mô tả về hào
quang và ánh sáng và chỉ liên hệ “ánh sáng” với “trí tuệ” (chưa
phải sự hoàn toàn giác ngộ)
Này các Tỳ khưu, có bốn lại hào quang. Thế nào là bốn? Hào
quang của mặt trăng, hào quang của mặt trời, hào quang của lửa và
hào quang của trí tuệ (paññābhā).

- Này các Tỳ khưu, có bốn lại ánh sáng rực rỡ. Thế nào là bốn?
Ánh sáng rực rỡ của mặt trăng, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh
sáng rực rỡ của lửa, ánh sáng rực rỡ của trí tuệ (paññā pabhā).

- Này các Tỳ khưu, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh
sáng của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh
sáng của trí tuệ (paññā-āloko).

- Này các Tỳ khưu, có bốn loại sáng chói. Thế nào là bốn? Sự sáng
chói của mặt trời, sự sáng chói của mặt trăng, sự sáng chói của lửa,
sự sáng chói của trí tuệ (paññā-obhāso).

- Này các Tỳ khưu, có bốn loại rực rỡ. Thế nào là bốn? Sự rực rỡ
của mặt trăng, sự rực rỡ của mặt trời, sự rực rỡ của lửa, sự rực rỡ
của trí tuệ (paññā-pajjoto) [5]

Ngay khi thuyết giảng bài kinh đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân)
Đức Phật cũng đã nói tới ánh sáng trong trải nghiệm giác ngộ của
mình: “ Như vậy, này các Tỳ khưu, đối với các Pháp (dhamma)
trước đây chưa từng nghe, nhãn (cakkhu) đã khởi lên nơi Ta, trí
(ñāṇa) đã khởi lên nơi Ta, tuệ (paññā) đã khởi lên nơi ta, minh
(vijjā) đã khởi lên nơi Ta và ánh sáng (āloke) đã khởi lên nơi Ta.”

Tâm thuộc minh sát trí hiệp thế tạo ra “ánh sáng giác ngộ” mạnh
mẽ (vipassanobhāso), nhưng tâm thuộc minh sát trí siêu thế tạo ra
ánh sáng được xem là cực kỳ mạnh mẽ, chẳng hạn Ánh Sáng Giác
Ngộ của Bậc Giác Ngộ tỏa khắp mười ngàn thế giới.
Ánh sáng ấy phát sanh như thế nào? Tâm khi lắng sâu trong định
được kết hợp với Tuệ (paññā), tâm ấy sẽ tạo ra nhiều thế hệ sắc
cực sáng do tâm sanh (cittajarūpa). Dùng ánh sáng ấy, chúng ta có
thể thâm nhập vào thực tại cùng tột hay chân đế (paramattha sacca)
để thấy các pháp như chúng thực sự là. Điều này cũng giống như
khi đi vào một căn phòng tối, chúng ta cần phải có ánh sáng để
thấy mọi vật ở đó vậy. [6]

Rõ ràng hai nhận thức rất khác biệt nhau. Nếu ánh sáng trong thiền
là cứu cánh của San Mat thì ánh sáng trong thiền của Đạo Phật chỉ
là phương tiện tu tập. Với một số người, khi ngồi thiền rồi thấy cái
này, nghe cái nọ, thì rất vui mừng.

Nếu đã gọi là thiền định thì đây phải là nổ lực dừng tâm vọng động
lại, cho nên nghe và thấy các âm thanh lạ hay những hình tướng
nào đó v.v…có khi đó lại là dấu hiệu của thất bại trong tu tập thiền
định! Khi tọa thiền, hệ thống sinh lý thần kinh dễ bị xáo trộn, tâm
rất dễ rơi vào các trạng thái “ảo giác”[7].

Tất cả các giáo phái Bà La Môn không có pháp quán nào có thể tạo
ra “tuệ giác ngộ” (wisdom for enlightenment) để chấm dứt luân hồi
sinh tử. Phật giáo nguyên thủy có pháp Tuệ Quán (Vipassana)
dùng để tu tập các Tuệ cần thiết để giải thoát khỏi sự tái sinh vào
tam giới, tức các Tuệ giúp nhận biết Níp Bàn (Nibbana).

Các thiền định Bà La Môn chỉ có thể phát sinh ra các tuệ gọi là
“tuệ của Định”. Tuệ phát sinh từ các loại Định Bà La Môn chỉ giúp
đạt tới các cảnh giới thiên đàng trong tam giới, tức Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới. Các loại tuệ này (phát sinh từ thiền định)
không có khả năng giúp nhận biết Níp bàn, nghĩa là không có khả
năng chấm dứt luân hồi sinh tử.

Tuy nhiên vẫn có các đạo sư Bà La Môn, trong vỏ bọc của Đạo
Phật, khi thuyết giảng vẫn luôn đề cập đến một giác ngộ chấm dứt
luân hồi sinh tử! Cách giảng thuyết này chỉ là nhằm để các tín đồ
có truyền thống Đạo Phật dễ thấy gần gũi và tin tưởng hơn.

3/ Giác ngộ của Đạo Phật phát triển


Hơn hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, đạo Phật thoái trào.
Các triết gia xuất phát từ cái nôi Bà La Môn đã giải thích và qui
kết minh triết của Đức Phật với các giá trị thuộc triết học Bà La
Môn. Từ đó hình thành các tông phái Phật giáo mà về sau này các
học giả gọi là Đạo Phật “phát triển”.

Phát triển về đâu? Khi cứu cánh giác ngộ của Đức Phật đã là mức
cùng tột. Chỉ có một hướng phát triển duy nhất là kéo giáo pháp
cao vời của Đức Phật Gautama xuống tầm vóc tư tưởng của các
triết gia trần thế. Ví dụ như các khái niệm “Đạo Phật thỏng tay vào
chợ”, “Đạo Phật đi vào cuộc đời”, “Đạo Phật cho doanh nhân”,
“Đạo Phật phù hợp với các hình thái xã hội” v.v và v.v…

Rõ ràng là các triết lý như vậy, rất phù hợp với cấu trúc tâm lý và
khuynh hướng của số đông. Ngược lại, giáo pháp nguyên thủy, vì
quá cao siêu, nên chỉ được số ít người thấu hiểu!

Trong tình hình Đạo Phật thoái trào hiện nay, ít có tu sĩ thuộc Đạo
Phật phát triển (Đại Thừa) nào đặt ra lý tưởng giác ngộ như ngày
xưa Đức Phật đã đề ra. Kinh điển Đại Thừa nói chung không đưa
ra “Pháp Hành” (practice) và cũng không nhắc đến bốn mức giác
ngộ (bốn quả thánh) như Đạo Phật lúc còn nguyên thủy.

Ngay cả một thiền sư Đạo Phật phát triển nổi tiếng hiện nay, cũng
ngừng giáo pháp lại ở mức Chánh Niệm Tĩnh giác!

Tịnh Độ Tông:
Trong khi “phát triển”, các tông phái của Đạo Phật phát triển đã
thay đổi cứu cánh giác ngộ vô thượng của Đức Phật thành một cứu
cánh tạm bợ như khả năng tái sinh nơi cõi cực lạc của A Di Đà
Phật. Lý do thì ai cũng hiểu. Vì sự thích hợp với trình độ của số
đông. Ở đây không thể đặt câu hỏi “Giác Ngộ là gì?” đối với Tịnh
Độ tông, tức pháp môn niệm Phật. Vì pháp môn Tịnh Độ không có
chủ trương tu để thực hiện giác ngộ.
Thiền Tông Trung Quốc
Khi Thiền tông Trung Quốc xuất hiện, người ta nói đến một kỹ
thuật hay nghệ thuật gì đó, có thể làm cho phàm phu tức khắc
thành thánh nhân. Đó là khái niệm về đốn ngộ, tức chứng ngộ một
cách đột ngột phi thường! Suzuki, một thiền sư học giả, đã viết
trong cuốn sách Thiền Luận của ông như sau:

- “…vậy nội dung của Giác Ngộ là gì? Ta có thể mô tả nó bằng


cách nào dễ hiểu để trí thức hiếu biện của ta có thể nắm lấy và đặt
thành đề tài suy tư không? Bốn Diệu Đế không phải là nội dung
của Giác Ngộ, cả đến Mười Hai Nhân Duyên, cả đến Tám Chánh
Đạo. Chân lý nhoáng lên trong tâm Phật không phải như một tư
tưởng có thể luận giải bằng lý trí.”

- “Thế nghĩa là gì? Chắc vậy, chứng La Hán không phải là vấn đề
chuyên học, mà đó là một cái gì hốt nhiên xảy đến, trong chớp mắt,
sau bao năm tinh chuyên tu tập. Thời gian chuẩn bị có thể kéo dài
nhiều năm dài dẳng, nhưng đến một lúc nào đó thì chớp nhoáng
cơn khủng hoảng vỡ bùng và người ta thành La Hán, hoặc thành
Bồ Tát, hoặc thành Phật luôn nữa.

Có thể lắm, nội dung của Giác Ngộ giản dị vô cùng ở bổn thể,
nhưng sức chấn động thì thực là kinh khủng. Tôi muốn nói, về trí
giải, nó phải vượt qua tất cả thế kẹt thuộc phạm vi nhận thức và
ngôn ngữ văn tự; về tâm giải, nó phải là sự tái thiết toàn thể phẩm
cách con người.”

- “…Rồi nay bỗng dưng cái Ngộ chụp lấy họ, một cách hoàn toàn
bí mật, không ngờ trước, ấy thế là tất cả được giải quyết một lần;
họ thành La Hán, hoặc Phật nữa.” [8].

Quan niệm về giác ngộ cũng như con đường tu tập dẫn đến giác
ngộ của thiền tông Trung Quốc là hoàn toàn khác với giáo pháp
của Đức Phật. Khác cả về hình thức tu tập cũng như về nội dung
giác ngộ.
Sự thực là Thiền Tông Trung Quốc cũng không có sự thống nhất,
cũng bị phân phái thành các kiểu tu tập khác nhau. Sau đây là một
trình bày vắn tắt về một quan điểm tu tập nổi bật của Thiền Tông
Trung Quốc:

- Một số trường phái của Thiền Tông Trung quốc còn giữ sự tu tập
về thiền định. Các trường phái này thực hành thiền bằng các bức
tranh trâu [9]. Phương pháp thực hành và tiêu chuẩn đắc thiền khi
tu tập trên các bức tranh trâu này hoàn toàn không có trong giáo
pháp của Đức Phật. Sự giác ngộ của các thiền sư Trung Quốc, theo
pháp tu mười bức tranh trâu, cũng không có chuẩn mực của bốn
quả thánh như trong giáo pháp của Đức Phật.

- Có trường phái Thiền Tông Trung Quốc nhấn mạnh vào cái bất
lực của ngôn ngữ nói và chữ viết vì nó chỉ là cái vỏ hình thức
“chật chội” không chuyên chở được toàn vẹn cái nội dung thực mà
con người muốn chuyển tải cho nhau. Nhất là trong sự chuyển tải,
trao đổi các khái niệm triết học hay đạo học. Đây là lý do Thiền
tông TQ đã đề xuất ra khẩu hiệu “bất lập văn tự”. Các trường phái
này đả kích thiền định và chế tác ra một số phương pháp tu tập gọi
là Công án (koan) và Thoại đầu.

Với lý luận như sau:


Con người nhận biết thế giới bên ngoài bằng tư duy bên trong đầu
óc. Đó là dòng chảy của những suy nghĩ miên man bất tận trong
óc. Các suy nghĩ này cũng thể hiện bằng ngôn ngữ y hệt như bên
ngoài. Nói cho dễ hiểu đó là những lời nói thầm (kiểu độc thoại)
không dứt trong trí óc con người.

(Inner speech or inner verbalization). Khi đối tượng xuất hiện ở


ngoại cảnh, bên trong trí óc sẽ có liền một nhận thức, kèm theo các
phán đoán vận hành bởi ngôn ngữ bên trong. Dù là lời nói bên
ngoài hay suy nghĩ bên trong con người không thể nào không dùng
đến các khái niệm của ngôn ngữ, cái vốn không thể chuyển tải
chân lý trọn vẹn.
Ngôn ngữ bên ngoài miệng hay lời nói thầm (dùng để suy nghĩ hay
nhận thức) bên trong trí óc, đều là cái làm cản trở, làm sai lệch cái
biết “như thực”. Thiền tông Trung Quốc gọi cái BIẾT qua tư duy
ngôn ngữ này là cái Bị Sanh (be born). Khi tư duy ngôn ngữ bên
trong trí óc bị chấm dứt thì cái BIẾT NHƯ THỰC xuất hiện.

Cái biết “như thực” từ cõi “vô ngôn” này được tin là cái biết của
Tánh giác. Thiền tông Trung quốc cũng tin rằng Tánh giác này là
cái Vô Sanh trong kinh điển Đạo Phật!

Khi nhận ra cái chỗ Vô sanh tức Tánh Giác, Thiền Tông gọi đó là
Kiến Tánh. Vào giai đoạn đầu của lịch sử Thiền Tông, với sự hưng
phấn quá mức, thiền tông Trung Quốc chẳng ngần ngại tuyên bố
rằng kiến tánh (nhìn thấy cái được cho là “vô sanh”) là đắc quả vô
sanh, là thành Phật.

Tuy nhiên, ngay trong thời đó một số tu sĩ đã thấy sự tin tưởng vào
việc thành Phật ngay trong tích tắc là một niềm tin “không cơ sở”
và “quá mức ngây thơ”. Rồi qua thời gian dài chịu đựng sự công
kích vào hiện tượng thành Phật “tức khắc” này, thiền tông TQ
buộc phải dịu giọng mà chấp nhận khẩu hiệu “Đốn Ngộ, Tiệm Tu”.

Nghĩa là sau khi giác ngộ kiểu “ngay tức khắc”, các thiền sư phải
tu tập lâu dài hơn nữa mới có thể thực sự chứng cái quả gọi là “Vô
Sanh”, cái mà họ cho rằng tương đương với A La Hán hoặc là hơn
A La Hán. Tiệm tu bằng phương pháp nào để được giác ngộ hoàn
toàn hiện vẫn còn là điều Thiền Tông Trung Quốc chưa rõ!

Các thiền sư Trung Quốc đã chế tác ra nhiều kỹ thuật thiền, trong
đó có một số kỹ thuật rất ấn tượng như la, hét đấm, đá v.v..
(Ví dụ: Thiền Sư Đức Sơn [10]). Có lẽ các thiền sư Trung Quốc
nghĩ rằng khi la hét đánh đá thiền sinh có thể gây ức chế dòng
ngôn ngữ bên trong của thiền sinh? Nhưng trước đó hàng ngàn
năm Đức Phật đã giải quyết vần đề một cách thật đơn giản.
Đó là phương pháp Chánh Niệm trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ
niệm xứ) . Chỉ vậy thôi. Chưa cần có các bậc thiền, khi có Chánh
Niệm trên bốn niệm xứ, các dòng tư duy ngôn ngữ trong trí óc
đương nhiên đã dừng lại!

Đức Phật là người tài giỏi cũng phải mất bao năm trời lăn lóc khổ
hạnh mới thực hiện được Đại Giác Ngộ. Biết bao tu sĩ ngày nay đã
bỏ cả đời người đi tìm giác ngộ mà còn mịt mù chưa thấy tăm hơi!

Nhưng trên đất Trung Hoa vĩ đại thì sự việc lại khác!
Chỉ với các thuật như Tham công Án, Khán thoại đầu, đấm, đá,
đánh và hét v.v… thậm chí chỉ cần nhìn chiếc lá rơi, nghe âm
thanh một mảnh sành vỡ v.v…các thiền sư Trung Quốc cũng đã
thực hiện được giác ngộ ngay trong tức khắc!

Thiền Trung Quốc nói bằng ẩn dụ rằng đó là “một cú nhảy thẳng


vào trong sự giác ngộ”! Nhưng tại đây, câu hỏi là cái “giác ngộ
ngay tức khắc” của cú nhảy tuyệt vời đó có phải là cái giác ngộ mà
Đức Phật đã thực hiện hay không?

Mật tông Phật giáo


Mật tông Phật giáo (tức Kim cương thừa) tại Ấn Độ xuất hiện rất
muôn, khoảng một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập diệt.

Không bị suy thoái như Thiền Tông, hiện nay Mật Tông phát triển
rất mạnh với vô số các chi phái khác nhau.

Đây là truyền thống tu tập bí mật có rất nhiều kĩ thuật tu tập.


Trong rất nhiều kỹ thuật đó, có thể phân tích ra rất nhiều nguyên lý
tu tập để dẫn tới giác ngộ [11].

Khi sử dụng Yoga (một trường phái của Ấn giáo) với các kỹ thuật
tu tập trên các luân xa, trên luồng hỏa hầu kundalini, Mật Tông
Phật Giáo đã đi lại con đường tu tập và giác ngộ theo Ấn Giáo.
Khi sử dụng năng lực tính dục để thực hiện giác ngộ thì Mật Tông
đã không còn mối liên hệ nào với Đạo Phật nguyên thủy nữa.
Đây không phải chỉ nói đến mối liên hệ về phương pháp tu tập mà
nói đến mối liên hệ về bản chất của Giác ngộ.

Phái thiền Dzogchen của Mật tông Tây Tạng có quan niệm giác
ngộ rất giống với Thiền tông Trung Quốc. Mật tông có những kỹ
thuật nhằm đồng hóa thân tâm của người đệ tử chưa giác ngộ với
thân tâm một vị thày đã giác ngộ hoặc với biểu tượng của một vị
hóa thần (yidam).

Do vậy, có thể thấy sự “giác ngộ” của Mật tông bắt đầu bằng sự tu
tập dựa trên “tha lực”, tức những năng lực đến từ bên ngoài.
Ít ra, trên các phương tiện thông tin hiện nay, chưa có bài viết nào,
với các lý luận dẫn ra, cho thấy Giác ngộ của các giáo phái Mật
Tông là giống với giác ngộ của Đức Phật.

Một điều phải nhắc lại ở đây rằng, mọi phương pháp tu tập đều có
những giá trị riêng của nó. Bài viết ngắn này chỉ nhằm phân biệt
rằng các loại giác ngộ khác nhau đến từ các con đường tu tập khác
nhau.

II. Giác ngộ theo giáo pháp của Đức Phật Gautama

Rất nhiều những tôn giáo, những pháp môn, những đạo sư đã nói
đến giác ngộ, nhưng thường không nói rõ những trạng thái giác
ngộ đó có bền vững hay không? Có các đạo sư ca ngợi trải nghiệm
“sống trong hiện tại” như một trải nghiệm giác ngộ.

Thực ra, trải nghiệm “sống trong hiện tại” chỉ là kết quả của Chánh
niệm (mindfulness). Trải nghiệm này không bền, nghĩa là chánh
niệm có thể mất đi rất nhanh bất cứ lúc nào. Ngay cả khi đạt được
thiền định, những trải nghiệm trong định cũng mất đi rất nhanh khi
xuất ra khỏi định. Một số đạo sư thuộc Ấn Độ giáo chỉ nhấn mạnh
vào cái “giác ngộ” trong đời sống này.
Họ không bàn về sự chấm dứt tái sanh hoặc không chứng minh
được khả năng chấm dứt tái sanh. Theo giáo pháp của Đức Phật,
nếu không chấm dứt được tái sinh thì cái giác ngộ nhất thời trong
đời sống ngắn ngủi này sẽ trở thành vô nghĩa. Tất cả các tôn giáo,
giáo phái của Ấn Độ giáo đều không xem việc chấm dứt tái sanh là
cứu cánh của giải thoát. Chỉ có hai tôn giáo sinh ra trên đất Ấn Độ
đặt cứu cánh giải thoát là sự chấm dứt vòng luân hồi (samsara), đó
là Đạo Phật và Đạo Jain.

Trong kinh điển hệ Pali, Đức Phật không quan tâm đến các phạm
trù Thượng Đế, Brahman, Tánh giác hay Phật tánh.

Ngài từ chối không bàn bạc nhiều về Brahman của Bà La Môn


giáo, cũng không bàn bạc nhiều về cái Tánh Giác hay Phật Tánh
như các luận sư của Phật giáo Phát triển về sau này.

Đức Phật không dính mắc vào tranh cãi triết học. Giáo pháp của
Đức Phật không nhằm phát hiện hết tất cả quy luật vận hành của
thế giới vật chất hay của thế giới tâm linh.

Giáo pháp của Đức Phật chỉ nhắm vào mục đích làm cho con
người hết đau khổ trong cuộc sống, và sau khi chết, người giác ngộ
có thể an trú tại Nibbana mà không phải tái sanh.

Giáo pháp của Đức Phật giúp con người không phải lập lại những
chu kỳ vô tận của đời người mong manh và ngắn ngủi bởi sinh-lão-
bệnh-tử. Ly tưởng của Đạo Phật là thành tựu quả vị A-La-Hán.

Trước khi giác ngộ, A La Hán vốn là con người bình thường đã
được sanh vào cõi người. Ngài tu tập giới, định, tuệ theo đúng giáo
pháp của Đức Phật để chấm dứt sự tái sanh. A La Hán là vị thực sự
thực hiện được Vô Sanh. Khi giác ngộ, các vị A La Hán thường
nói:
- “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm v.v…”
Đối với Đạo Phật, một cách khái quát, giác ngộ là khi:
- Tâm đạt được trạng thái định tĩnh, an lạc, thanh thản và vô sự vì
không còn ô nhiễm (lậu hoặc) bởi tham sân si,
- Vượt thoát khỏi tất cả những đau khổ vốn có của đời sống vì
chấm dứt được quá trình sinh tử luân hồi.

Giác Ngộ trong giáo pháp thực sự của Đức Phật do nổ lực hoàn
toàn tự thân. Sự giác ngộ này không nương nhờ tha lực hay sự ban
phúc của một vị thày. Sự giác ngộ này không bám víu vào hạnh
phúc của các cõi trời (thiên đàng), không tồn tại như một Đại Ngã
mà hoàn toàn “Vô Ngã”.

Chỉ riêng Đạo Phật nguyên thủy mới có các pháp Tuệ quán
(Vipassana) hiểu như các pháp thiền quán để tạo ra các “tuệ giác
ngộ”. Chỉ riêng Đạo Phật mới có bốn mức độ giác ngộ(còn gọi là
bốn tầng thánh trí) [12].

Bốn mức độ giác ngộ trong Đạo Phật đều có tiêu chuẩn để nhận
biết. Các bậc thiền định của Đạo Phật được mô tả rất chi tiết và có
các tiêu chuẩn để hành giả xác nhận được mình đang ở bậc thiền
nào. Các bậc thiền định hay tuệ quán của Đạo Phật nguyên thủy
đều được mô tả rõ ràng, đồng thời cũng có những chuẩn mực, tiêu
mốc để xác định và còn ghi lại trong các bộ Nikaya.

Ví dụ: Sơ thiền là trạng thái định với năm thiền-chi (tầm, tứ, hỉ,
lạc, định nhất tâm). Các giáo phái khác không bao giờ biết đến
những chuẩn mốc này. Có giáo phái khi ngồi thiền thấy ánh sáng
bèn cho mình đã đạt tới bản thể của thế giới, đã chứng ngộ Phật
tánh. Có người khi ngồi thiền thấy các hình ảnh của chư thiên, thấy
rồng bay phượng múa, bèn vui mừng cho rằng mình đã đắc thiền!
Nếu hỏi đó là thiền gì? Định gì? Cấp độ gì? Giác ngộ gì? thì chắc
chắn các giáo phái đó khó có câu trả lời minh bạch và thuyết phục!
Bởi vì nội dung giác ngộ có khác nhau nên phương cách tu tập và
thực hành phải khác nhau.
Một tu sĩ bà La Môn giữ phạm hạnh tuyệt đối để thực hành thiền
định (samadhi), nếu thành công (đắc định) người tu sĩ này sẽ đạt
đến cõi trời (thiên đàng) tương ứng của mức độ định mà mình tu
tập được. Đối với Ấn giáo Bà La Môn, cõi trời cao nhất là giác ngộ
cao nhất. Đức Phật cũng từng chứng đắc đầy đủ tám định của Bà
La Môn nhưng Ngài không thấy cõi trời tối cao là Giác Ngộ tối
thượng. Không thỏa mãn với các tầng trời, và bằng sự tự tin mãnh
liệt, đã khiến ngài thực hành một phương pháp riêng và đã tạo nên
một kì tích tại cội Bồ Đề. Kinh điển có ghi lại diễn tiến tâm thức
của Đức Phật dưới cội Bồ Đề trong khi Ngài thực hiện giác ngộ.

“Chánh pháp” của Đạo Phật là tất cả những gì Đức Phật đã thực
hành 49 ngày dưới cội Bồ Đề tại Bodhgaya. Bởi vì giác ngộ là
đỉnh điểm cuối cùng cho một quá trình tu chứng, là trải nghiệm
duy nhất và riêng biệt trong tâm của người tu chứng, cho nên
không dễ dàng gì để nói hay mô tả về trạng thái này.

Tuy nhiên dù sao ta vẫn có thể hình dung gián tiếp “trạng thái giác
ngộ” qua con đường tu tập dẫn đến giác ngộ. Ta sẽ thấy giác ngộ
của Đạo Phật nguyên thủy là kết quả của một quá trình tu tập rất
khoa học để nhận biết tâm, làm trong sạch tâm, để phát triển các
loại trí (wisdom) và cuối cùng nhận ra Níp bàn (như một đối tượng
đặc biệt của tâm).

Hoàn toàn không có tính thần bí trong sự giác ngộ, không có sự


ban phúc từ thượng đế hay một vị thày nào cho người tu tập. Các
giáo phái thuộc hệ tư tưởng Bà La Môn hoặc các giáo phái bí mật
như Sanmat cho rằng Thầy có thể truyền tâm, khai ngộ (initiate)
cho đệ tử (cẩn thận chữ “khai ngộ” ở đây không phải là giác ngộ
hoàn toàn). Điều này cũng đúng, vì tâm của tất cả các chúng sanh
đều nằm trong một thể thống nhất (continuum) cho nên có những
mối liên hệ nhất định với nhau. Tuy nhiên “initiation” chỉ là những
tương tác thuận lợi (trong tam giới) để cố giúp sự tương đồng giữa
tâm đệ tử với tâm người thày. Initiation không thể thay thế cho nổ
lực tu tập tự thân của người đệ tử. Hai nữa, initiation là kĩ thuật
trong sự tu tập thiền của các giáo phái Bà la Môn, tức những thiền
đưa đến giác ngộ các cõi trời (thiên đàng) trong tam giới.
Điều này khác hẳn với việc tu tập tuệ quán (Vipassana), mà Đạo
Phật nhằm mục đích là một giác ngộ vượt thoát sự tái sinh trong tất
cả các cõi trời. Sự tu tập của từng cá nhân có tiến bộ hay không
còn tùy thuộc vào nghiệp người đó tốt hay xấu.

Lịch sử Đạo Phật còn biết rõ Anan vốn là thị giả, người thân cận
nhất, đồng thời cũng là người anh em cùng cha khác mẹ với Đức
Phật, nhưng mãi tận đến sau khi Đức Phật nhập diệt ngài mới
chứng quả A La Hán. Rõ ràng Đức Phật không thể gánh nghiệp
cho Anan hoặc cho bất cứ ai, cũng như không thể gia trì cho Anan
hoặc cho bất cứ ai sớm chứng đắc đạo quả được.

Trong khi có các giáo chủ Bà La Môn tuyên bố “gánh nghiệp”,


“xóa nghiệp” cho các tín đồ! Nhưng Đức Phật trong qúa khứ đã
không gánh nghiệp, xóa nghiệp cho bất cứ ai! Điều này quả không
làm phấn khởi cho sự mong ước của đa số Phật Tử, nhưng thực sự
Giáo Pháp nguyên thủy là như vậy! Chân lý là như vậy!

Ai cũng muốn sự tu tập của mình được nhanh chóng, ai cũng muốn
tìm được con đường tắt, nhưng cũng nên hiểu rõ tính gian khó của
việc tu tập qua lịch sử của Đạo Phật còn để lại. Cái nào cũng có cái
giá của nó! Rất khó để tin rằng một người có thể bất ngờ, tự nhiên
hay “hốt nhiên” mà đại ngộ được! Nếu có, thì đó là một nội dung
giác ngộ hoàn toàn khác với giác ngộ của Đức Phật dười cội Bồ đề.

Đạo Phật thời Đức Phật còn tại thế đã mô tả một đạo lộ Giới-Định-
Tuệ rõ ràng cho sự tu tập. Dùng chữ “Đạo lộ” là ý muốn nói đến
một chương trình tu tập theo thứ tự (step by step) để người tu biết
cách rèn luyện để chuyển biến một tâm thức phàm phu đến các
tầng bậc chứng ngộ ( đạo quả) và cuối cùng giác ngộ Níp-bàn.

Bốn mức giác ngộ của Đạo Phật nguyên thủy:


1. Tầng thánh trí thứ nhất: Sơ quả hay Tu đà hoàn (Sotàpatti, Dự
lưu), còn được gọi là Thất lai, người không thể tái sinh quá 7 lần

2. Tầng Thánh trí thứ hai: là Nhị quả Tư đà hàmcòn được gọi là
Nhất lai (Sakadàgàmì) chỉ tái sinh trong Dục giới một lần nữa

3. Tầng Thánh thứ ba: là Tam quả A na hàm (Anàgàmi), nghĩa là


bậc Bất lai, người không còn trở lui các cõi dục giới nữa

4. Tầng Thánh trí thứ tư: chính là quả vị A La hán, người chấm
dứt toàn bộ phiền não, không còn tái sanhnữa.

Trong kinh Sư Tử Hống, Đức Phật đã thuyết pháp mạnh mẽ, như
tiếng rống của Sư tử, rằng chỉ có bốn quả Sa Môn (bốn bậc thánh)
mới là đặc thù của Chánh Pháp mà ngài đã thuyết giảng.

– Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có


Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn
thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo,
các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy. (MN 011-
Tiểu kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ Kinh)

III. Niết bàn (Nibbana)

Giác ngộ của Đạo Phật gọi là Niết Bàn. Niết bàn không phải là một
thực tại tuyệt đối cao nhất, không phải Brahman, không phải God,
không phải đấng sáng tạo. Giác ngộ trong Đạo Phật là trạng thái
tâm đoạn tận được các ô nhiễm (lậu-hoặc, taints), không còn bị
tham ái, sân, si khống chế. Con người giác ngộ hoàn toàn tự do,
không tái sanh, vô sanh (Ajāti), không ‘trở thành”, không già,
không bệnh, không chết.
Niết Bàn không phải là trạng thái đoạn diệt và hư vô (annihilation).
Niết Bàn được ví như khi ngon lửa tắt đi nhưng thực sự nó không
mất đi đâu, giống như khi nó sanh ra, nó chẳng từ đâu đến. [11].
Các bậc Thánh thường mô tả trạng thái giác ngộ như sau:
Tâm định tĩnh, an lạc, thanh thản, vô sự. Tâm giải thoát này kiên
cố, không lay chuyển được (akuppa cetovimutti).
Sau khi giác ngộ, các ngài thường nói: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc cần làm đã làm, nay không thối lui nữa!”

Niết Bàn là một phạm trù đặc biệt, không thuộc danh
(consciousness) hay thuộc sắc (matter), không phải đoạn diệt và
hư vô (annihilation).

Thực sự với đầu óc phàm phu chúng ta không thể hình dung trực
tiếp nội dung Niết bàn là gì! Vì đây là lãnh vực trải nghiệm riêng
của các bậc thánh. Tuy nhiên, quy trình đi đến giác ngộ để trải
nghiệm Niết bàn thì hoàn toàn có thể mô tả được!

Trong Vi diệu pháp (abhidhamma), Phân tích đạo


(patisambhidamagga), rải rác trong các bộ Nikaya, có những phần
mô tả về Đạo Lộ đến Niết Bàn cũng như lộ trình tâm khi giác ngộ.

Chính sự mô tả quy trình của tâm khi Giác Ngộ còn lưu giữ trong
kinh điển là những tài liệu quý giá nhất giúp ta thấu hiểu Giác Ngộ
là gì?

IV. Lộ Trình Tâm khi giác ngộ

Vi Diệu Pháp (abhidhamma), một bộ luận được Theravada xếp vào


Chánh tạng, đã phân tích chi tiết tâm thức của con người thành các
tâm (citta) và các lộ trình tâm (citta vithi). Đối với một người bình
thường, ý môn lộ trình tâm vận hành theo một kiểu nhất định. Khi
một người đạt giác ngộ, ý môn lộ trình tâm lại vận hành theo một
kiểu khác:
1. Ý môn lộ trình tâm
“bình thường” của tất cả mọi người (phàm phu)
Bắt đầu và theo thứ tự như sau:
- Tâm “Hộ kiếp rúng động” (một sát na)
- Tâm “Hộ kiếp dứt dòng” (một sát na)
- Tâm “Ý môn hướng” (một sát na)
- Tâm “Đổng Tốc” (7 sát na)
- Tâm “Thập Di” (2 sát na)

Cuối cùng, ý thức rơi trở vào dòng Hộ kiếp còn gọi Tâm Hữu phần
(life continuum). Nếu kể cả tâm Hộ kiếp, thì một lộ trình tâm của ý
thức của một người bình thường trong đời sống hàng ngày gồm có
12 sát-na tâm.

Khác với cách giải thích mù mờ, thần bí và huyễn hoặc về sự giác
ngộ của tất cả các tôn giáo thần khải cũng như các giáo phái Bà la
môn, Sanmat, Thiền Tông Trung Quốc v.v…và kể cả các Đạo Phật
gọi là “phát triển”, giác ngộ trong Đạo Phật nguyên thủy là một sự
kiện minh bạch.

Với sự hổ trợ của năng lực Thiền định, người thực hành Tuệ quán
(Vipassana) có thể nhận biết rõ ràng từng tâm (citta) và các lộ trình
tâm (citta vithi) của mình, trong lúc chưa giác ngộ cũng như trong
lúc giác ngộ. Đây không phải chỉ là một lý thuyết trên kinh điển.
Trong quá khứ các vị A-La-Hán đã mô tả các tâm, lộ trình tâm
bằng trải nghiệm của mình và ghi lại trong tạng Vi Diệu Pháp.

Trong hiện tại, đang có các vị sư thực hiện thành công pháp tuệ
quán này. Khi giác ngộ, người tu có thể tự nhận biết sự giác ngộ
của mình bằng một lộ trình tâm giác ngộ với 11 tâm như sau:

2. Ý môn lộ trình tâm của người “Giác Ngộ”


Với kí hiệu cụ thể như sau:
- Đối với người có trí tuệ chậm lụt (Mandapanna)
Na – Da – Ma – Pa – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Bh –
- Hoặc đối với người có trí tuệ nhạy bén (Tikkhapana)
Na – Da – Ma – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Phala –
Bh -
Giải thích các kí hiệu :
Na = bhavaṅga-calana– hữu phần (hộ kiếp) rúng động, – vibrating
life-continuum
Da = bhavaṅgu-paccheda– hữu phần (hộ kiếp) dứt dòng – arrested
life-continuum
Ma = manodvārāvajjana– ý môn hướng tâm -door adverting
consciousness
Pa = parikamma– chuẩn bị của Đạo (magga) – preparation of the
Path (magga)
U = upacāra– cận hành của Đạo (magga) – proximity of the Path
(magga)
Nu = anuloma– thuận thứ cho cái đi trước và cái theo sau –
conformity to what preceeds and to what follows
Go = gotrabhu– chuyển tộc – change-of-lineage
Magga = sotāpattimagga – Đạo Nhập Lưu – the Path of stream-
entry
Phala = sotāpatti-phala– Quả Nhập Lưu – the Fruition of stream-
entry
Bh = bhavaṅga– hữu phần (hộ kiếp) – life-continuum

Chỉ trừ một số người, mà Pháp Học chưa được nắm vững, thì có
thể không nhận biết được các tâm trong tiến trình giác ngộ (nhập
lưu). Một người thuần thục về Pháp học, với tuệ quán đúng cách,
sẽ nhận biết rõ các tâm trong tiến trình giác ngộ, thấy được sát-na
của tâm chuyển tộc, ngay lúc chuyển phàm thành thánh.

Kể từ khi Đức Phật đại giác ngộ và tuyên thuyết giáo pháp của
Ngài cho tới ngày nay, chưa có một tôn giáo hay tông phái nào có
khả năng mô tả “lộ trình tâm” của một người khi giác ngộ.

Qua sự mô tả chi tiết lộ trình tâm giác ngộ, Đạo Phật có cái nhìn về
sự giác ngộ rất rõ ràng, rất minh bạch và rất chuẩn mực so với sự
mơ hồ đầy thần bí trong sự giác ngộ của tất cả mọi tôn giáo khác.
Một điều phải khẳng định ở đây là để có một lộ trình tâm giác ngộ,
phải có một sự tu tập bài bản theo một đạo lộ nhất định.
Đây là một một con đường duy nhất, một phương pháp duy nhất,
một chánh pháp rất quí giá, xứng đáng gọi là Pháp-Bảo.

V. Đạo lộ đưa đến giác ngộ của Đạo Phật Theravada

Theravada chưa hẳn là Đạo Phật nguyên thủy, nhưng là một phái
của Đạo Phật xưa cổ nhất, duy nhất còn tồn tại ngày hôm nay với
Luật, Kinh, Thắng Pháp (vi Diệu Pháp) và các bộ chú giải
(commentaries) khá đầy đủ.

Phương cách tu tập của Theravada phần lớn dựa trên bộ luận
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của ngài Buddhaghosa. Bộ
Thanh Tịnh Đạo không phải là quan điểm riêng của ngài
Buddhaghosa. Đây là qui trình tu tập dựa trên Kinh-điển và
Vi Diệu Pháp của Theravada.

- Hành giả trước tiên thanh lọc thân tâm bằng giới(sila),
- Sau đó thực hành thiền định(samadhi) để hỗ trợ Giớivà hỗ
trợ Tuệ quán(vipassana) sau này.
- Sự giác ngộ được thực hành tuần tự qua 16 tầng thiền tuệ từ thấp
lên cao. Thiền tuệ là phương pháp quan sát thế giới (vật chất và
tinh thần) bằng cách quan sát thân tâm của chính hành giả. Bằng
năng lực của Định, hành giả thấy rõ từng tâm phát khởi, thấy rõ
quá trình tâm duyên hợp phát sinh rồi hủy diệt. Sự biết và thấy rõ
các tâmphát sinh ra các trí. Qua mười một tầng tuệ đầu tiên hành
giả sẽ bắt đầu trực nhận Niết bàn:

“…Sau khi chứng đắc các tuệ này, hành giả vẫn tiếp tục công việc
thấy sự trôi qua và diệt mất của mỗi hành khi chúng khởi lên, với
ước muốn thoát khỏi chúng, hành giả sẽ thấy ra rằng cuối cùng tất
cả các hành đều diệt. Tâm hành giả trực tiếp biết và thấy Niết-bàn
– đó là ý thức trọn vẹn về (vô vi) Niết-bàn kể như đối tượng.
Khi tâm thấy Niết-bàn, hành giả kinh qua năm tuệ còn lại cùng
với sự khởi lên của tiến trình tâm đạo (maggavīthi).
Năm tuệ đó là:
12. Tuệ Thuận Thứ (Anulama ñāṇa)
13. Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhù ñāṇa)
14. Tuệ Đạo (Magga ñāṇa)
15. Tuệ Quả (Phala ñāṇa)
16. Tuệ Phản Khán (Paccavekkhana ñāṇa)

Như vậy hành giả đã đạt đến chánh trí về Tứ Thánh Đế và đã tự


mình chứng ngộ Niết-bàn. Với sự chứng ngộ này, tâm hành giả đã
được tịnh hóa và thoát khỏi mọi tà kiến. Nếu hành giả cứ tiếp tục
theo cách này, có thể hành giả sẽ đạt đến A-la-hán Thánh quả và
nhập Vô Dư Niết-bàn…” [14]

Đạo lộ tu tập Theravada hoàn chỉnh được tìm lại căn cứ theo các
bộ Nikaya, theo Vi diệu pháp, theo Phân tích đạo, theo Thanh Tịnh
đạo luận (Visudhimagga). Ngay vào lúc giác ngộ, người giác ngộ
sẽ trực tiếp nhìn thấy lộ trình tâm giác ngộ của chính mình.

Khi đã “hữu duyên” biết đến những thông tin này, những ai tha
thiết với sự truy tìm giác ngộ sẽ phải bật khóc khi biết đến tính
minh bạch và tầm vóc vĩ đại của giáo pháp mà Đức Phật đã giảng
dạy. Đạo Phật của Đức Phật Gautam được giảng dạy công khai,
không dấu diếm, không bí truyền [15].

Tính thần bí và bí truyền cũng như tính luôn đề cao vai trò của
giáo chủ hay của tha lực là một đặc diểm của Ấn giáo.
Sự truyền tâm (initiation) chỉ là một kỹ thuật hổ trợ loại giác ngộ
trong tam giới. Kỹ thuật truyền tâm không có tác dụng gì trong
Giác Ngộ Tối Thượng của Đạo Phật Phật (ý nói Đạo Phật chính
thống và nguyên thủy). Nguyên lý trong sự giác ngộ của Đạo Phật
là sự phát tiển các Tuệ (wisdom) tức sự hiểu biết hướng đến giải
thoát. Tuệ giác ngộ không phải là phạm trù mơ hồ hay thần bí.
Tuệ để thực hiện giác ngộ có thể liệt kê, đếm và mô tả được [16].
Mười sáu tuệ trong sự thực hành Vipassana là những tuệ căn bản
nhất. Có đầy đủ tuệ giác ngộ mới có được lộ trình tâm giác ngộ.

Lời cuối:

Trên con đường tu tập tâm linh, ta nhất thiết phải hình dung về cái
đích đến của mình. Nghĩa là, phải xác định loại giác ngộ nào mà
mình muốn nhắm đến. Tức phải tìm câu trả lời thật chính xác cho
câu hỏi “Giác Ngộ là gì?”.

Như trên đã trình bày, có rất nhiều loại giác ngộ do các minh sư,
guru, giáo chủ đã từng thuyết giảng qua nhiều thời đại.

Tu tập loại giác ngộ nào, đó sự lựa chọn của riêng của từng mỗi cá
nhân. Đối với những ai ngưỡng mộ giáo pháp của Đức Phật, tất
yếu phải nhận biết loại “giác ngộ” rất đặc thù của Đạo Phật.

Giác Ngộ trong Đạo Phật không hề có tính thần bí mơ hồ.

Đó là một trạng thái tâm đã được mô tả rõ ràng, minh bạch.

Người giác ngộ sẽ sống trong hiện kiếp này với trạng thái định
tĩnh, thanh thản, an lạc, vô sự; sẽ không còn có sự tái sanh để chịu
lại khổ đau.

BS. Phạm Doãn


Chú Thích:
[1] Với một số người, chữ “enlightenment” có thể làm liên tưởng
đến phong trào triết học gọi là thời kì khai sáng ở giữa thế kỉ 19.
Chữ “awakening” cũng vậy, từ lâu chữ này đã mang một ý nghĩa
phục sinh, phục hưng, phục dựng cho các phong trào tôn giáo hay
văn hóa của phương Tây
[2] Vedanta là một trường phái triết học Ấn Độ phát triển dựa trên
Upanisad.
[3] Đạo của ngài Thanh Hải (một nhánh của Sanmat) dùng chữ
“truyền tâm ấn”. Xem phả hệ dòng Sanmat của ngài Thanh Hải tại
link này: http://santmat.livingcosmos.org/surat-shabd-yoga/ssy-
navtree.html
[4] Trích từ tác phẩm “Osho Tự Truyện”, chuyển ngữ: Minh
Nguyệt, tác giả: OSHO
[5] Tăng Chi bộ kinh, chương nói về hào quang ( AN. 11.139)
[6] Trích từ Biết và Thấy, tác giả Pa Auk Sayadaw
[7] tham khảo thêm tại link này:
http://bsphamdoan.wordpress.com/cac-bai-vi%E1%BA%BFt-
cu/psychological-view-of-meditative-experiences/
và http://bsphamdoan.wordpress.com/cac-bai-vi%E1%BA%BFt-
cu/th%E1%BB%83-nghi%E1%BB%87m-kundalini/
[8] Thiền Luận, quyển thượng, luận hai, đoạn: Thiền và Ngộ
[9] Mười bức tranh trâu http://www.budsas.org/uni/u-tranh-
chantrau/ix.htm
[10] Đức Sơn Tuyên Giám(zh. déshān xuānjiàn德山宣鑒,
ja. tokusan senkan), 782-865, là Thiền sư Trung Quốc, một trong
những Thiền sư lỗi lạc nhất đời Đường. Sư có 9 môn đệ được ấn
khả, trong đó hai vị Nham Đầu Toàn Hoát và Tuyết Phong Nghĩa
Tồn đứng hàng đầu. Sư nối pháp Long Đàm Sùng Tín thuộc dòng
Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hi Thiên. Nhân duyên ngộ
đạo của Sư là một trong những câu chuyện thường được nhắc lại
nhất trong giới Thiền. Sư nổi danh về việc sử dụng cây gậy để giáo
hoá (đập) thiền sinh, từ đó mà sinh ra danh từ Bổng hát, chỉ cây
gậy (bổng) ngang dọc của Sư và tiếng hét (Hát) vọng vang của
Lâm Tế Nghĩa Huyền. (Wikipedia)
[11] Giới thiệu mật tông Việt Nam:
http://bsphamdoan.wordpress.com/cac-bai-vi%E1%BA%BFt-
cu/gi%E1%BB%9Bi-thi%E1%BB%87u-m%E1%BA%ADt-tong-
vi%E1%BB%87t-nam/
[12] Bốn tầng thánh trí: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-
kh%E1%BA%A3o-references/b%E1%BB%91n-
t%E1%BA%A7ng-thanh-tri/
[13] Nibbana: http://bsphamdoan.wordpress.com/tham-
kh%E1%BA%A3o-references/nibbana-nip-ban/
[14] Biết và Thấy (Knowing and Seeing), đoạn: Biết và thấy niết
bàn, tác giả: Pa-Auk Tawya Sayadaw (U Acinna), Tỳ khưu Pháp
Thông dịch.
[15] “…Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta!
Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong
ngoài (mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với
các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Ðạo sư còn nắm tay (còn
giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy). (Kinh Đại Bát Niết bàn,
đoạn 25)

Nguyện đem công đức này đến Phật Tử và cùng khắp tất cả
chúng sanh đều trọn thành Phật Đạo .

NewEditor: Quảng Phước Thắng

You might also like