Professional Documents
Culture Documents
QUỐC TỬ GIÁM PDF
QUỐC TỬ GIÁM PDF
Qua bộ môn Lịch Sử Kiến Trúc giúp mình hiểu hơn về lịch sử kiến
trúc đất nước,hiểu hơn về phong tục tập quán của con người Việt
Nam.Nét đẹp kiến trúc lâu đời qua các đình,chùa,miếu làm mình say
đắm.Cảm ơn thầy đã cho chúng em những kiến thức bổ ích.
MỤC LỤC
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
B. KIẾN TRÚC
PHẦN 1 : TỔNG THỂ KIẾN TRÚC
Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng Thịnh
Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông. Nay thuộc thành phố Hà Nội. Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam),
phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m2
bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao
cấp đầu tiên của Việt Nam .
PHẦN 1 : TỔNG THỂ KIẾN TRÚC
Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc cung đình thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường
xây bằng gạch vồ (đây là sản phẩm của nhà hậu Lê )
•Hiện nay quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được chia làm ba khu vực chính: 1 là Văn hồ, 2 vườn Giám và 3 là khu nội
tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám (khu chủ thể), bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu
Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Sươn Đông,Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn,kiến trúc đơn giản hơn
và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc Việt Nam (từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19).
PHẦN 2: TỪNG KHU VỰC
HỒ VĂN
Một trong những nguyên tắc cơ bản của thiết kế
cảnh quan môi trường trong kiến trúc truyền thống
của người Việt Nam là sự hài hoà giữa yếu tố nước
(âm) và các công trình xây dựng (dương), nên trước
Văn Miếu luôn có hồ nước tên gọi là Hồ Văn. Xưa
kia, Hồ Văn không bị tách rời với Văn Miếu bởi một
con đường tấp nập xe cộ như bây giờ, và cũng có
diện tích rất rộng, giữa hồ còn có đảo Kim Châu.
Đến thời Nguyễn, Văn Hồ Đình (đình Hồ Văn) được
dựng lên làm nơi sinh hoạt văn chương. Các văn
nhân thường tụ họp để bình văn, bình thơ tại Đình
này.
Năm 1883, nhà Nguyễn cho tu bổ, tôn tạo Hồ Văn và khu vực xung quanh hồ. Sau đó, Hồ Văn do chính quyền thành phố Hà Nội
trực tiếp quản lý. Đến năm 1940, hồ được trả lại cho Văn Miếu. Sau này, hồ bị thu hẹp do cây cối và bụi rậm mọc um tùm, cửa
hàng, nhà ở lấn chiếm. Từ năm 1990, những toà nhà mới mọc lên và vườn ươm cây đã gần như che kín Hồ Văn.
Do tầm quan trọng của Hồ Văn, năm 1998, Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã tiến hành tu bổ, tôn tạo khu vực này. Hiện
nay, Hồ Văn mở cửa cho công chúng tham quan và làm tăng thêm vẻ đẹp cho khu vực cổng chính Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Đây cũng là nơi tổ chức nhiều sinh hoạt văn hóa có ý nghĩa như: Hội chữ Xuân, Triển lãm thư pháp, Ngày thơ ...
Nhà bát giác
Vườn Giám
Trước đây do bị chiếm đóng nên vườn Giám có rất nhiều đường hào, hố sâu, xung quanh nhiều nhà tranh lụp xụp mọc lên, cảnh quan rất lộn xộn.
Để bảo vệ vườn Giám, tháng 12/1940, Tổng đốc Hà Đông Vi Văn Định đã thay mặt các Nhà Nho Hà Đông gửi công văn đề nghị Thành phố Hà Nội
cho cấp kinh phí cải tạo vườn Giám thành một công viên nhỏ không có tường bao quanh, trong trồng các hàng nhãn cách nhau 12m, giữa trồng thảm
cỏ. Tuy nhiên, đề nghị trên đã không được chấp thuận. Văn Miếu được phép quản lý và cải tạo khu vườn Giám nhưng Hội đồng quản lý Văn Miếu
phải trích quỹ ra để chi trả mọi kinh phí tu bổ. Có một khoảng thời gian dài, một phần Vườn Giám bị sử dụng làm chợ. Cổng chợ đề chữ : Chợ Giám.
Trong chợ là những lều quán dựng bằng cột gỗ, trên lợp mái tôn và không xây tường chung quanh.
Vườn Giám đã chính thức được bàn giao lại cho Văn Miếu – Quốc Tử Giám vào tháng 8/2002.
Ngày nay, Vườn Giám đã trở thành một phần không thể thiếu của khu di tích lịch sử Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Vườn Giám với nhiều cây xanh,
thảm cỏ, nhà Bát giác, không gian trong lành, thoáng đãng góp phần vào việc bảo tồn, gìn giữ cảnh quan, làm đẹp thêm cho khu di tích lịch sử gần
nghìn năm tuổi.
II. KHU NỘI GIÁM
Khu Tiền án là khoảng không gian mở rộng phía trước tạo dáng vẻ bề thế, uy nghiêm cho Văn Miếu, được bắt đầu bằng Tứ trụ (bốn cột trụ lớn)
và hai bia Hạ mã (xuống ngựa) hai bên.Tứ trụ xây bằng gạch, hai trụ giữa cao hơn, trên đỉnh có hình hai con nghê chầu vào. Hai trụ ngoài đắp nổi
bốn con chim phượng xoè cánh chắp đuôi vào nhau rất đẹp.
Ngay tại cổng chính di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, phía bên trái có trang trí bức phù điêu “Mãnh hổ hạ sơn”. Bức phù
điêu thể hiện khung cảnh giữa núi rừng mây nước nổi bật hình ảnh một con
hổ đang xuống núi với những đường chạm khắc tinh xảo tới từng chi tiết.
Con hổ được khắc họa với dáng dấp hùng dũng tựa như các bậc thức giả
tràn đầy khí thế bước vào đời giúp dân, giúp nước.
CỔNG VĂN MIẾU MÔN
Cổng lớn của Văn Miếu được xây vào đầu thế kỷ XX. Cổng xây
bằng gạch theo kiến trúc dạng tam quan hai tầng, tám mái.
Cửa giữa to cao, tầng trên đề ba chữ “Văn Miếu Môn” (Cổng
Văn Miếu). Hai cánh cổng bằng gỗ lim mở vào trong, phía trên
trang trí chạm nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt.
Khu nội tự của Văn Miếu-Quốc Tử Giám tôn nghiêm được ngăn cách với không gian ồn
ào bên ngoài bởi lớp tường gạch vồ và được chia thành năm lớp không gian, mỗi lớp đều
được giới hạn bởi những bức tường gạch và có cửa thông sang nhau. Khu Nhập đạo là lớp
không gian thứ nhất. Qua cổng Văn Miếu, du khách sẽ bước vào khu Nhập đạo. Nhập đạo
với ý nghĩa tượng trưng quá trình bắt đầu học đạo Nho. Quan niệm xưa kia của cha ông ta
là con người khi đi học thì đầu tiên phải học lễ nghi, đạo đức rồi mới đến kiến thức.
Khu Nhập đạo là không gian cây xanh và thảm cỏ, hai bên có hai hồ nước, và ba con
đường lát gạch Bát Tràng dẫn vào khu thứ hai. Bước vào khu Nhập đạo, như bước vào một
thế giới khác không còn cảm thấy cái nóng oi bức của mùa hè. Du khách như được hòa
mình vào không gian xanh mát của cây cối, thảm cỏ và hồ nước. Không gian tĩnh lặng,trong
lành, mặt hồ yên ả mang lại cho du khách cảm giác thư thái, bình an.
2. KHU THÀNH ĐẠT
Dãy tường gạch vồ bao quanh khu nội tự di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19. Cùng với quá
trình đô thị hóa từ thời Pháp thuộc, tổng thể Di tích đã thay đổi nhiều: Hồ Văn bị ngăn cách khỏi di tích bởi đường Quốc Tử Giám, một phần
nền cũ của trường Quốc Tử Giám sử dụng làm đường (phố Nguyễn Thái Học hiện nay)... Đến đầu những năm 1990, Di tích bị xuống cấp
nghiêm trọng, dãy tường gạch vồ, chân sụt lún, nhiều chỗ đổ nghiêng, mặt tường rạn nứt từng khoảng rộng... Năm 1995, trong khuôn khổ
của Dự án tu bổ, tôn tạo Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, toàn bộ những bức tường này đã được tu bổ lại với chiều cao thống nhất là 1,98m.
Ngày nay, những bức tường gạch vồ bao quanh Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn thâm trầm nằm đó, ngăn cách Di tích với phố xá ồn ào,
ngăn cách từng lớp không gian Di tích như dẫn dắt du khách bước vào thăm lại từng chặng đường phát triển của Văn Miếu – Quốc Tử Giám
theo những thăng trầm của lịch sử dân tộc.
3. KHU VƯỜN BIA TIẾN SĨ
Năm 1994, các dãy nhà che bia được xây dựng để
bảo vệ bia Tiến sĩ. 8 dãy nhà che bia có kích thước
nhỏ, hài hòa với hai tòa đình bia ở giữa. Hệ thống
cột chống mái bằng gỗ, mái lợp ngói mũi hài truyền
thống. Sự bổ sung của tám dãy nhà che bia còn
khiến lớp không gian thứ ba trở thành quần thể
kiến trúc hoàn chỉnh và gắn bó với nhau.
4. KHU ĐIỆN ĐẠI THÀNH
Cổng Đại Thành mang phong cách kiến trúc thời Hậu Lê). Công trình bằng gỗ ba gian. Mái lợp ngói mũi hài. Rồng được trang trí trên cánh
cổng theo chủ đề “Long vân khánh hội” – thể hiện sự phồn thịnh của đất nước đối với đạo học nước nhà. Dưới chân cổng Đại Thành có 6 con
Nghê cối cửa được tạo tác tinh tế với chất liệu bằng gỗ và đá.
Hai bên cổng Đại Thành có hai cổng nhỏ Kim Thanh (tiếng chuông vàng) và Ngọc Chấn (tiếng khánh ngọc) dẫn vào phía sau hai dãy nhà
Đông Vu và Tây Vu.
5. KHU THÁI HỌC
Hình ảnh chiếc trống Sấm tại khu Thái Học của di tích
luôn nhận được sự quan tâm, yêu mến của du khách,
đặc biệt là các đoàn chính khách của Đảng, chính phủ
Việt Nam khi đến thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Trống Sấm – Trống lớn nhất Việt Nam năm 2000,
được đặt trang trọng tại khuôn viên Thái Học, Văn Miếu
– Quốc Tử Giám