You are on page 1of 57

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC

BÀI THẢO LUẬN

ĐỀ TÀI: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN


CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Học phần : An Sinh Xã Hội

Nhóm :5

Mã lớp học phần : 2310HRMG2011

Giảng viên : TS. Bùi Thị Thu Hà

Hà Nội – 2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
XÃ HỘI............................................................................................................................. 2
1.1. Các khái niệm cơ bản.............................................................................................2
1.1.1. Bảo hiểm xã hội.................................................................................................2
1.1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội...............................................................................2
1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội................................................................................3
1.3. Chức năng và vai trò của bảo hiểm xã hội.............................................................4
1.3.1. Chức năng của bảo hiểm xã hội........................................................................4
1.3.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội...............................................................................4
1.4. Các chế độ bảo hiểm xã hội....................................................................................6
PHẦN 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM.................................................................................................................................. 9
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới thực hiện chính sách BHXH................9
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế...........................................................................................9
2.1.2. Một số vấn đề xã hội..........................................................................................9
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam..........................10
2.2.1. Các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành............................................................10
2.2.2. Tổ chức bộ máy triển khai chính sách.............................................................34
2.2.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội....39
2.2.4. Phối hợp triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội..............................41
2.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát.........................................................45
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam.........47
2.3.1. Thành công và những kết quả đạt được...........................................................47
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.................................................................................47
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI................................................................49
3.1. Định hướng mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam.................49
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội....50
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội....51
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................54
DANH MỤC VIẾT TẮT

BHXH Bảo hiểm xã hội


TNLĐ & BNN Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
ASXH An sinh xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BHTN Bảo hiểm
LỜI MỞ ĐẦU

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao
động, nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời đảm bảo
mục tiêu của hệ thống an sinh xã hội mà bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính, lớn nhất
không thể tách rời. Chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta được thực hiện ngay từ những
ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hơn 60 năm qua, trong quá trình
tổ chức thực hiện, chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng được hoàn thiện và không
ngừng đổi mới, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cùng với quá
trình đổi mới của nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986), chính sách bảo hiểm xã hội và tổ chức quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội
cũng có nhiều đổi mới tích cực như: bảo hiểm xã hội không những góp phần ổn định đời
sống của người lao động mà còn khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của
cải cho xã hội, xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện bảo hiểm xã hội đã không
ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng tăng lên,
mở rộng cho các đối tượng tham gia. Trong công tác quản lý cũng đã có những thay đổi
căn bản. Đặc biệt hệ thống tổ chức đã được thống nhất trên phạm vi cả nước với mô hình
3 cấp, theo ngành dọc từ Trung ương tới địa phương. Tuy vậy, còn không ít bất cập, tồn
tại, khó khăn, thách thức trong việc tổ chức thực hiện công tác bảo hiểm xã hội, thanh tra,
kiểm tra hoạt động bảo hiểm xã hội tại các doanh nghiệp. Các trở ngại đang diễn ra tại ở
nhiều khu vực, địa phương ở Việt Nam. Để việc thực hiện chính sách về bảo hiểm xã hội
tại Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn, cần phải nghiên cứu một cách cơ bản, cụ thể cả về
lý luận và thực tiễn tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả thực hiện chính sách về bảo hiểm xã hội đạt hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy, nhóm 5 lựa chọn đề tài: “Liên hệ thực tiễn về thực hiện chính sách bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam” để nghiên cứu về việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại
Việt Nam.

1
PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM
XÃ HỘI

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Bảo hiểm xã hội

Từ góc độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn
đóng góp của mình, đóng góp của người sử dụng lao động (nếu có) và được sự tài trợ,
bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia
đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao
động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc người lao động bị chết.

Dưới góc độ tài chính: BHXH là quá trình san sẽ rủi ro và tài chính giữa những
người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.

Theo Luật BHXH Việt nam năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01- 01-2007): BHXH là
sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đồng vào quỹ BHXH,

Trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm, quan điểm cũng như các cách tiếp cận khác nhau
về BHXH, khái niệm BHXH được hiểu tổng quát như sau: BHXH là sự đảm bảo hay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố
làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình thành và sử
dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp
phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo
an toàn xã hội.

1.1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội

Tác giả Hồ Tấn Tiên đã đưa ra khái niệm về chính sách BHXH như sau: Chính sách
BHXH là những quy định chung rất khái quát của Nhà nước về mục tiêu, phạm vi, đối
tượng, nội dung chính sách, các mối quan hệ và những giải pháp lớn về BHXH để đạt
được mục tiêu chung đề ra.

Thông qua tổng hợp quan điểm, khái niệm về thuật ngữ chính sách và bảo hiểm xã
hội , khái niệm về chính sách BHXH như sau: Chính sách BHXH là hệ thống các quy
định, quyết định, định hướng, cách thức thực hiện nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động trong các trường hợp mất hoặc giảm thu nhập
(do: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tuổi già và chết); hỗ trợ và
chăm sóc y tế nhằm ổn định đời sống cho người lao động và đảm bảo an sinh xã hội.

Chính sách BHXH có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức (các văn bản pháp
luật, trong Hiến pháp, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước…) nên chính
2
sách BHXH sẽ không thể thực hiện chuẩn xác và có hệ thống nếu không thông qua các
chế độ BHXH cụ thể. Chính sách BHXH tốt sẽ đóng góp vai trò tích cực cho sự ổn định
kinh tế - xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự âu lo trước rủi ro,
bất trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ thống phúc lợi xã hội.

1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội

BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển
của xã hội loài người, bản chất của BHXH thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội
mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động
phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và
hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá
trạng thái kinh tế của mỗi nước.

Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và
diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia
BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.

Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai
nạn lao động bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v... Đồng thời những biến cố đó có thể
diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.

Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ
từ phía Nhà nước.

Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được ILO cụ
thể hoá như sau:

 Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh
sống thiết yếu của họ.
 Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
 Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt
của người già, người tàn tật và trẻ em.

3
1.3. Chức năng và vai trò của bảo hiểm xã hội

1.3.1. Chức năng của bảo hiểm xã hội

Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mọi người lao động khi hết
tuổi lao động đều bị mất khả năng lao động. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động
tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp
BHXH theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, quyết định nhiệm vụ,
tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.

Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Tham gia BHXH bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động. Các bên tham
gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao
động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này
thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo
quy luật số đông bù số ít. BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và
chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa
những người khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc,… Với
chức năng này, BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội

Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi tham gia lao động sản xuất,
người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi họ bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập
bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Do đó, người
lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ tích cực
lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này được
coi như một đòn bẩy kinh tế, kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá
nhân và do đó, năng suất lao động xã hội cũng tăng theo.

Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động và giữa người lao
động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao
động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao
động,… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc
biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Điều này
giúp họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho
BHXH là cách thức phải chi ít nhất mà vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, chính trị và xã hội.

1.3.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội

4
BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ASXH. Vai trò này được thể
hiện như sau:

 Bảo hiểm xã hội được coi là “lưới” đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống An
sinh xã hội

BHXH là cột trụ trong hệ thống ASXH. Do vậy, sự vững chắc của hệ thống ASXH
ở một quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. Vì BHXH có đối
tượng người lao động tham gia rất lớn, đây là những người trực tiếp tạo ra của cải vật
chất và dịch vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu,... xảy ra sẽ
đe dọa đến cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ, làm ảnh hưởng xấu tới
tâm lý của người lao động, từ đó ảnh hưởng tới xã hội. Yếu tố tâm lý của con người luôn
đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển trí tuệ và khả năng khai thác nguồn chất xám
trong mỗi con người. Nếu như trong công việc, thu nhập là mục đích chính, là yếu tố kích
thích hoạt động sản xuất thì yếu tố tâm lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của sản xuất.
Xét trên phương diện kinh tế học và xã hội học thì nhu cầu xã hội làm cho con người
luôn phải suy nghĩ, luôn phải lo lắng từ miếng ăn, giấc ngủ, hiện tại, tương lai,… Điều
này làm cản trở không ít đến khả năng phát huy nội lực của mỗi người. Như vậy, BHXH
ra đời và phát triển sẽ tạo tâm lý yên tâm cho người lao động. Khi về già, họ được hưởng
tiền lương hưu; khi ốm đau tại nạn, mất việc làm,… họ được hưởng trợ cấp, giúp ổn định
thu nhập, ổn định đời sống, từ đó làm giảm bớt sự căng thẳng về mặt tâm lý, giúp người
lao động an tâm công tác góp phần làm tăng giá trị thặng dư, tăng hiệu quả của sản xuất
tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội.

Theo đánh giá của tổ chức Lao động quốc tế, hoạt động BHXH không chỉ đảm bảo
vấn đề ASXH mà còn gián tiếp kích thích và làm tăng trưởng nền kinh tế. Trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, BHXH làm cho người lao động cảm thấy an tâm hơn trong
công việc, từ đó nâng cao hiệu quả của sản xuất và làm tăng giá trị sản phẩm trên cơ sở
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.

 Bảo hiểm xã hội điều tiết các chính sách trong hệ thống an sinh xã hội

BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những nội dung của chính sách ASXH, do
đó đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có quan hệ chặt
chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống
cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định xã hội. Khi BHXH
phát triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao
đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm giảm
số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và
làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Như vậy khi kinh tế - xã hội phát triển thì
hệ thống BHXH sẽ được mở rộng, lúc này những hình thức trợ giúp khác của xã hội chỉ
là cái "lưới" cuối cùng cung cấp các điều kiện tối thiểu cho những người gặp hoàn cảnh
khó khăn, bất lợi trong cuộc sống.
5
Trong hệ thống ASXH, trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao
động được áp dụng trong trường hợp người lao động bị TNLĐ & BNN. Ở một số nuốc
còn áp dụng trong các trường hợp ốm đau, thai sản. Quỹ để chi trả các trường hợp này
nằm ngoài quỹ BHXH, nhằm thanh toán các dịch vụ y tế cho người thụ hưởng hoặc chu
cấp cho họ một khoản tiền nào đó. Đây là khoản hỗ trợ mà người lao động được nhận
ngoài các trợ cấp BHXH đối với cùng một trường hợp. Hệ thống bảo vệ này có nhiều hạn
chế và chỉ mang tính chất bổ sung cho BHXH.

Hay trong hệ thống ASXH còn có bộ phận bảo hiểm tự nguyện. Đây là một hình
thức hỗ trợ hoặc bổ sung cho các chế độ BHXH bắt buộc trong hệ thống ASXH. Hình
thức này nhằm đảm bảo cho những người chưa được tham gia BHXH chính thống có sự
bảo vệ ở mức độ nhất định hoặc áp dụng cho những người đã và đang tham gia BHXH
bắt buộc để có được mức trợ cấp cao hơn. Vì vậy, BHXH tự nguyện thường được coi là
hình thức quá độ hoặc hình thức bổ sung cho BHXH bắt buộc. 

1.4. Các chế độ bảo hiểm xã hội

Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, quy định cụ thể và chi tiết việc
thực hiện BHXH. Thực chất đây là một hệ thống các quy định được luật hoá về đối tượng
BHXH và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ.

Như vậy, chế độ BHXH nhằm đạt được mục tiêu chung là đảm bảo an toàn xã hội.
Nhưng chính sách BHXH có tính khái quát cao, là sách lược và kế hoạch cụ thể dựa vào
đường lối chính trị và thực trạng nền kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng giai
đoạn khác nhau mà hình thành. Còn chế độ BHXH là toàn bộ các điều quy định cụ thể
được xây dựng để thực hiện nội dung của chính sách BHXH nói trên. Chính sách BHXH
thường mang tính chiến lược và được duy trì trong dài hạn. trong khi đó chế độ BHXH
có thể thay đổi trong ngắn hạn. 

Các chế độ BHXH được đề cập trong nhiều Công ước và Khuyến nghị, nhưng tập
trung chủ yếu trong Công ước số 102.

Tại kỳ họp thứ 35, Hội nghị toàn thể của ILO được Hội đồng quản trị của Văn
phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 04-06-1952, sau khi quyết định
chấp thuận một số đề nghị về các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, ngày 28-06-1952,
ILO đã thông qua Công ước số 102 – Công ước về an toàn xã hội (Quy phạm tối thiểu),
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về BHXH trên Thế giới. Nội dung của Công ước số
102 về BHXH bao gồm mốt hệ thống 9 chế độ như sau:

 Chế độ chăm sóc y tế


 Chế độ trợ cấp ốm đau
 Chế độ trợ cấp thất nghiệp
 Chế độ trợ cấp tuổi già
 Chế độ trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp 
6
 Chế độ trợ cấp gia đình
 Chế độ trợ cấp thai sản
 Chế độ trợ cấp tàn tật
 Chế độ trợ cấp tiền tuất

Tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các quốc gia khi
triển khai BHXH có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải có 3 chế độ,
trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ (3), (4), (5), (8), (9)

Công ước số 157 được thông qua ngày 21-06-1982. gọi là Công ước về duy trì các
quyền về an toàn xã hội, tiếp tục khẳng định 9 nhánh an toàn xã hội như trên. Đó là các
chế độ Chăm sóc y tế, Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp tàn tật: Trợ cấp tuổi già,
Trợ cấp tiền tuất, Trợ cấp TNLĐ & BNN, Trợ cấp thất nghiệp và Trợ cấp gia đình. Tiếp
theo vẫn còn một số các Công ước và Khuyến nghị liên quan đến các chế độ BHXH
nhưng nội dung chủ yếu vẫn theo tinh thần của Công ước số 102. 

Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

 Các chế độ BHXH được xây dựng theo luật pháp của mỗi quốc gia và có tính ổn
định tương đối. Tổ chức Lao động quốc tế khuyến cáo các nước thành viên thực
hiện BHXH theo các Công ước và Khuyến nghị đã được thông qua nhưng tuỳ theo
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ mà ban hành
chính sách BHXH nói chung và các chế độ BHXH nổi tiếng cho phù hợp. Do đó,
mỗi quốc gia xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về chế độ BHXH không
hoàn toàn giống nhau. Hơn nữa, các chế độ này còn phải phù hợp với các Bộ Luật
khác có liên quan. Đồng thời, khi có sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, các chế độ BHXH được điều chỉnh để đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia BHXH nhằm thực hiện ASXH.
 Hệ thống các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro Tương tự các loại bảo
hiểm khác, sau khi hoàn thành nghĩa vụ đóng góp BHXH, người tham gia bảo
hiểm sẽ được hưởng quyền lợi nếu gặp rủi ro. Tuy nhiên, việc thụ hưởng quyền lợi
bảo hiểm này diễn ra không đồng đều về thời gian, không gian cũng như quy mô
và mức độ. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ngành nghề, địa phương, giới tính,
độ tuổi và ngay cả thể lực của chính người lao động. Do đó, các chế độ BHXH đã
thể hiện tính nhân đạo và nhân văn cao cả cũng như góp phần đảm bảo công bằng
xã hội.
 Việc chi trả chế độ BHXH chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp của các bên tham
gia BHXH. Quỹ BHXH hình thành với cơ chế đóng góp ba bên là chủ yếu. Lúc
ban đầu mới triển khai BHXH, có những quốc gia được Nhà nước bao cấp một
phần hay toàn bộ việc chi trả BHXH. Nhưng cũng với sự phát triển kinh tế, xã hội,
quỹ BHXH dẫn dẫn phải đảm bảo cân đối thu chi và Nhà nước chỉ hỗ trợ về tài
chính khi cần thiết Quỹ này chủ yếu dùng để chi trả quyền lợi bảo hiểm cho người
lao động và gia đình họ thông qua các chế độ BHXH. Quy mô của quỹ sẽ quyết
7
định mức thụ hưởng quyền lợi BHXH trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc quyền lợi
tương xứng với nghĩa vụ. Do đó, căn cứ chủ yếu để xác định mức hưởng BHXH là
mức đóng góp BHXH.

Ngoài ra, quỹ BHXH còn được bổ sung từ các nguồn khác như lãi đầu tư tăng
trưởng quỹ tạm thời nhàn rỗi và hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản cố định,... Do đó,
mức chi trả BHXH còn phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cũng như
kết quả của các hoạt động khác trong cơ quan BHXH.

 Chi trả các chế độ BHXH chủ yếu được thực hiện định kỳ. Phương tiện thanh toán
trong hoạt động BHXH là tiền tệ. Nền kinh tế thị trường phát triển, việc dùng tiền
tệ trong mọi hoạt động kinh tế là cần thiết, việc quy đổi ra vật chất (nếu có) dần bị
xoá bỏ. Hầu hết những người tham gia BHXH (trong đó chủ yếu là người lao
động) đều có thu nhập bằng tiền định kỳ (hàng tuần, hàng tháng) nên việc trích
nộp BHXH cũng diễn ra theo định kỳ. Đồng thời mục đích của BHXH là đảm bảo
bù đắp phần thu nhập bị giảm hoặc bị mất khi người lao động bị giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao
động, già yếu. Chi trả BHXH, hay nói cách khác là các mức hưởng BHXH được
coi như quyền lợi của việc tham gia BHXH. Do đó, chỉ trả các chế độ BHXH hầu
hết được thực hiện định kỳ để vừa giúp người lao động và gia đình họ tránh hụt
hẫng về kinh tế, vừa giúp quỹ BHXH ổn định được cán cân thu - chi.

PHẦN 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
8
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới thực hiện chính sách BHXH

2.1.1. Tăng trưởng kinh tế

Điều kiện phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn thu BHXH,
BHYT, BHTN nói riêng và chính sách an sinh xã hội của toàn Ngành BHXH nói chung,
khi kinh tế xã hội kém phát triển thì các DN đang hoạt động cũng sẽ không đủ điều kiện
để đóng BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ, nguồn thu BHXH, BHYT, BHTN sẽ bị giảm
sút, đồng thời khi nền kinh tế đi xuống, sẽ có thêm nhiều DN phá sản, ngừng hoạt động
dẫn tới NLĐ sẽ bị mất việc làm, tình trạng thất nghiệp tràn lan, bùng phát. Nguồn thu bị
giảm sút nhưng chế độ về chính sách cho NLĐ như: thất nghiệp, ốm đau, thai sản, hưu
trí, thất nghiệp… vẫn phải tiếp tục và càng được quan tâm thực hiện, nguồn thu BHXH,
BHYT, BHTN không đủ cho nguồn chi các chế độ BHXH, BHYT, BHTN sẽ làm cho
nguồn quỹ BHXH, BHYT, BHTN bị thâm hụt, dẫn tới sự đổ vỡ của cả hệ thống ngành
BHXH.

Đại dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến kinh tế-xã hội tất cả
các quốc gia, và hiện vẫn còn diễn biến phức tạp. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn,
hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2020 GDP Việt
Nam tăng 2,91%, là mức tăng thấp nhất trong thập kỷ gần đây. Phát triển doanh nghiệp
chịu tác động lớn, hầu hết doanh nghiệp đều thận trọng trong việc đầu tư thêm vốn vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Năm 2020, số lượng doanh nghiệp thành lập mới là
134.941 doanh nghiệp, giảm 2,3% so với năm 2019.

Điều này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thực hiện an sinh xã hội nói chung,
chính sách BHXH, BHYT, BHTN nói riêng. Nguy cơ nợ BHXH tăng do hoạt động sản
xuất kinh doanh khó khăn. Giảm lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN do lao động
mất việc làm, số doanh nghiệp thành lập mới không tăng. Gây áp lực đến mở rộng người
tham gia BHXH tự nguyện do phải thực hiện giãn cách xã hội, khó khăn trong công tác
tuyên truyền vận động…

Nếu như tháng 12/2019, toàn quốc số người tham gia BHXH bắt buộc là
15.200.000 người; thì tháng 5/2020 con số này chỉ còn 14.404.000 người, giảm 796
nghìn người; số nợ BHXH, BHYT tăng lên trên 5% so với kế hoạch thu vào tháng
4/2020. Số doanh nghiệp, đơn vị, tạm đóng quỹ hưu trí và tử tuất; danh sách người lao
động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ không lương, ngừng việc gia tăng…

2.1.2. Một số vấn đề xã hội

Định kiến giới làm tăng thêm trách nhiệm của phụ nữ đối với công việc gia đình,
chăm sóc con cái. Kết quả nghiên cứu của tổ chức ActionAid cho thấy trung bình mỗi
tuần phụ nữ phải dành 35 giờ để làm việc nhà so với 21 giờ của nam giới. Phụ nữ không
có trình độ giáo dục phải dành 9 giờ mỗi ngày để làm những công việc không có thu nhập

9
trong gia đình. Những trách nhiệm gia đình này cần một khoảng thời gian tương đương
với công việc toàn thời gian, do đó đã làm hạn chế cơ hội tiếp cận thị trường lao động
cũng như cơ hội học tập và đào tạo của phụ nữ. Nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam về “Tiếng nói của phụ nữ về chính sách bảo hiểm xã hội đối với phụ nữ” năm
2020 cũng khẳng định “việc thực hiện trách nhiệm chăm sóc con cái và người thân là lý
do chính tác động đến quá trình làm việc, thu nhập và gián đoạn thời gian đóng BHXH
của lao động nữ”.

Nhận thức của người lao động về lợi ích của BHXH còn hạn chế, nhiều người chưa
có hiểu biết rõ ràng về chính sách BHXH; mặt khác, thói quen phòng ngừa rủi ro chưa
được hình thành, người lao động chỉ thực sự thấy cần bảo hiểm khi rủi ro hoặc sự cố xảy
ra.

Ý thức tuân thủ pháp luật của người lao động và người sử dụng lao động chưa cao,
chưa coi việc tham gia BHXH là trách nhiệm bắt buộc phải thực hiện. Nhiều người sử
dụng lao động trốn đóng BHXH để cắt giảm chi phí, thậm chí, nhiều người lao động cũng
muốn người sử dụng lao động không đóng BHXH mà trả thêm vào lương.

Chính sách BHXH chưa đảm bảo sự ổn định. Các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, tử
tuất) có đặc điểm là thời gian đóng và thời gian hưởng có sự tách bạch và phát sinh trong
thời gian dài. Chính sách BHXH có nhiều sự thay đổi, ảnh hưởng tới quyền lợi của người
tham gia, điều đó ảnh hưởng tới niềm tin của người dân vào chính sách

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

2.2.1. Các chế độ bảo hiểm xã hội hiện hành

2.2.1.1. Những quy định chung 

Tại Điều 4, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định các chế độ bảo hiểm xã hội như
sau: 

1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ sau đây:

a) Ốm đau;

b) Thai sản;

c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;

d) Hưu trí;

đ) Tử tuất.

2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ sau đây:

a) Hưu trí;

10
b) Tử tuất.

3. Bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định.

2.2.1.2. Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Theo Bộ Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: 

Điều 2. Đối tượng áp dụng

1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc, bao gồm:

a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất
định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết
giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi
theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến d ưới 03
tháng;
c) Cán bộ, công chức, viên chức;
d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ
chức cơ yếu;
đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ
yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân
phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh
hoạt phí;
g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền
lương;
i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
2. Người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép
lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ.

3. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội
khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam;
11
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có
thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.

4. Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi
trở lên và không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm xã hội.

Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều này sau đây gọi chung là người
lao động.

MỤC 1. CHẾ ĐỘ ỐM ĐAU

Điều 24. Đối tượng áp dụng chế độ ốm đau

Đối tượng áp dụng chế độ ốm đau là người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d,
đ và h khoản 1 Điều 2 của Luật này. 

Điều 25. Điều kiện hưởng chế độ ốm đau

1. Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc và có xác
nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế.

Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu
hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì
không được hưởng chế độ ốm đau.

2. Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

Điều 26. Thời gian hưởng chế độ ốm đau

1. Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động quy
định tại các điểm a, b, c, d, và h khoản 1 Điều 2 của Luật này tính theo ngày làm việc
không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được quy định như sau:

a) Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo
hiểm xã hội dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày
nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên;

b) Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
Y tế ban hành hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng
40 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm
đến dưới 30 năm; 70 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.

2. Người lao động nghỉ việc do mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài
ngày do Bộ Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau:
12
a) Tối đa 180 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần;

b) Hết thời hạn hưởng chế độ ốm đau quy định tại điểm a khoản này mà vẫn tiếp tục
điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn nhưng thời gian hưởng tối
đa bằng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.

3. Thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 2 của Luật này căn cứ vào thời gian điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
có thẩm quyền.

Điều 27. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau

1. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính
theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 03 tuổi; tối đa là 15
ngày làm việc nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.

2. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội thì thời gian hưởng chế
độ khi con ốm đau của mỗi người cha hoặc người mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi con ốm đau quy định tại Điều này tính theo
ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 28. Mức hưởng chế độ ốm đau

1. Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản
2 Điều 26, Điều 27 của Luật này thì mức hưởng tính theo tháng bằng 75% mức tiền
lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Trường hợp người lao động mới bắt đầu làm việc hoặc người lao động trước đó đã
có thời gian đóng bảo hiểm xã hội, sau đó bị gián đoạn thời gian làm việc mà phải nghỉ
việc hưởng chế độ ốm đau ngay trong tháng đầu tiên trở lại làm việc thì mức hưởng bằng
75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng đó.

2. Người lao động hưởng tiếp chế độ ốm đau quy định tại điểm b khoản 2 Điều 26
của Luật này thì mức hưởng được quy định như sau:

a) Bằng 65% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 năm trở lên;

b) Bằng 55% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm;

c) Bằng 50% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm.

3. Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của
Luật này thì mức hưởng bằng 100% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền
kề trước khi nghỉ việc.
13
4. Mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày được tính bằng mức trợ cấp ốm đau theo
tháng chia cho 24 ngày.

Điều 29. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau

1. Người lao động đã nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau đủ thời gian trong một năm
theo quy định tại Điều 26 của Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu trở lại làm
việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 05 ngày
đến 10 ngày trong một năm.

Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,
ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối
năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.

2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe do người sử dụng lao động và Ban
Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa có
công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định như sau:

a) Tối đa 10 ngày đối với người lao động sức khỏe chưa phục hồi sau thời gian ốm
đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày;

b) Tối đa 07 ngày đối với người lao động sức khỏe chưa phục hồi sau thời gian ốm
đau do phải phẫu thuật;

c) Bằng 05 ngày đối với các trường hợp khác.

3. Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 30%
mức lương cơ sở.

Mục 2. CHẾ ĐỘ THAI SẢN: 

Điều 30. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản

Đối tượng áp dụng chế độ thai sản là người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d,
đ và h khoản 1 Điều 2 của Luật này.

Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp
sau đây:

a) Lao động nữ mang thai;

b) Lao động nữ sinh con;

c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

14
đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo
hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận
nuôi con nuôi.

3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội
từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở
lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm
dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc
nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại
các điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.

Điều 32. Thời gian hưởng chế độ khi khám thai

1. Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần,
mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có
bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.

2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều này tính theo ngày
làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 33. Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá
thai bệnh lý

1. Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao động nữ
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định (từ 10 - 50 ngày tùy theo thời gian
mang thai) như sau:

a) 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi;

b) 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi;

c) 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi;

d) 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.

2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này tính cả
ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 34. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con

15
1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh
con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ
mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.

Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.

2. Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản như sau:

a) 05 ngày làm việc;

b) 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi;

c) Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ
thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;

d) Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm
việc.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được tính trong
khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

3. Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ
việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị chết thì mẹ được
nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều này; thời gian này không tính vào
thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.

4. Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia
bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy
định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp mẹ tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ
điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 31 của Luật này mà chết thì cha hoặc
người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06
tháng tuổi.

5. Trường hợp cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng tham gia bảo hiểm xã hội mà
không nghỉ việc theo quy định tại khoản 4 Điều này thì ngoài tiền lương còn được hưởng
chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này.

6. Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con
hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai
sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

7. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5 và 6 Điều này
tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
16
Điều 35. Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai
hộ

1. Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút
thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến thời điểm giao
đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định tại
khoản 1 Điều 34 của Luật này. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa
trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được
hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hằng tuần.

2. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con
cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

3. Chính phủ quy định chi tiết chế độ thai sản, thủ tục hưởng chế độ thai sản của lao
động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.

Điều 36. Thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi

Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham
gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 2 Điều 31 của
Luật này thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ.

Điều 37. Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai

1. Khi thực hiện các biện pháp tránh thai thì người lao động được hưởng chế độ thai
sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối
đa được quy định như sau:

a) 07 ngày đối với lao động nữ đặt vòng tránh thai;

b) 15 ngày đối với người lao động thực hiện biện pháp triệt sản.

2. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này tính cả ngày nghỉ
lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 38. Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi

Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi
thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ
sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con nuôi.

Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha được trợ
cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.

Điều 39. Mức hưởng chế độ thai sản

17
1. Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các điều 32, 33, 34, 35,
36 và 37 của Luật này thì mức hưởng chế độ thai sản được tính như sau:

a) Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo
hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Trường hợp người
lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản theo quy
định tại Điều 32, Điều 33, các khoản 2, 4, 5 và 6 Điều 34, Điều 37 của Luật này là mức
bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội;

b) Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định tại Điều 32 và khoản 2 Điều
34 của Luật này được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày;

c) Mức hưởng chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ
cấp tháng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp
quy định tại Điều 33 và Điều 37 của Luật này thì mức hưởng một ngày được tính bằng
mức trợ cấp theo tháng chia cho 30 ngày.
2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng
được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, người lao động và người sử dụng lao động
không phải đóng bảo hiểm xã hội.

3. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết về điều kiện,
thời gian, mức hưởng của các đối tượng quy định tại Điều 24 và khoản 1 Điều 31 của
Luật này.

Điều 40. Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con

1. Lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con quy định tại
khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng;

b) Phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý.

2. Ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời
hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định tại
khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này.

Điều 41. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản

1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều 33,
khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm
việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 05 ngày
đến 10 ngày.

18
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,
ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối
năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.

2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe quy định tại khoản 1 Điều này do
người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn
vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết
định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau:

a) Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;

b) Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;

c) Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.

3. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng
30% mức lương cơ sở.

MỤC 3. CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP

Điều 42. Đối tượng áp dụng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Đối tượng áp dụng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là người lao động quy
định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản 1 Điều 2 của Luật này.

Điều 43. Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động

Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau
đây:

1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;

b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu
của người sử dụng lao động;

c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và
tuyến đường hợp lý.

2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1
Điều này.

Điều 44. Điều kiện hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp

Người lao động được hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp khi có đủ các điều kiện sau
đây:

19
1. Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại;

2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị bệnh quy định tại khoản 1 Điều
này.

Điều 45. Giám định mức suy giảm khả năng lao động

1. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám
định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định;

b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định.

2. Người lao động được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Vừa bị tai nạn lao động vừa bị bệnh nghề nghiệp;

b) Bị tai nạn lao động nhiều lần;

c) Bị nhiều bệnh nghề nghiệp.

Điều 46. Trợ cấp một lần

1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng
trợ cấp một lần.

2. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau:

a) Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 05 lần mức lương cơ sở, sau đó
cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở;

b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, còn được hưởng thêm khoản
trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống thì được tính
bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng
tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

Điều 47. Trợ cấp hằng tháng

1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ
cấp hằng tháng.

2. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau:

a) Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở,
sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở;

20
b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hằng tháng còn được hưởng
thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống
được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm
0,3% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều
trị.

Điều 48. Thời điểm hưởng trợ cấp

1. Thời điểm hưởng trợ cấp quy định tại các điều 46, 47 và 50 của Luật này được
tính từ tháng người lao động điều trị xong, ra viện.

2. Trường hợp thương tật hoặc bệnh tật tái phát, người lao động được đi giám định
lại mức suy giảm khả năng lao động thì thời điểm hưởng trợ cấp mới được tính từ tháng
có kết luận của Hội đồng giám định y khoa.

Điều 49. Phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình

Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức
năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh
hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật.

Điều 50. Trợ cấp phục vụ

Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống
hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng quy
định tại Điều 47 của Luật này, hằng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức
lương cơ sở.

Điều 51. Trợ cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị
chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì thân nhân
được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở.

Điều 52. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật

1. Người lao động sau khi điều trị ổn định thương tật do tai nạn lao động hoặc bệnh
tật do bệnh nghề nghiệp mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức phục hồi
sức khỏe từ 05 ngày đến 10 ngày.

2. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương cơ sở nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe tại gia đình; bằng 40% mức lương cơ sở nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe
tại cơ sở tập trung.

Mục 4. CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ

Điều 53. Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí

21
Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí là người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của
Luật này.

Điều 54. Điều kiện hưởng lương hưu

1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật
này, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo
hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:

a) Đủ tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động;

b) Đủ tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có đủ 15
năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc
có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả
thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm
2021;

c) Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao
động quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có đủ 15 năm làm công
việc khai thác than trong hầm lò;

d) Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ
được giao.

2. Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này nghỉ
việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:

a) Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều
169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam,
Luật Công an nhân dân, Luật Cơ yếu, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên
chức quốc phòng có quy định khác;

b) Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 3 Điều
169 của Bộ luật Lao động và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số
0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021;

c) Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ
được giao.

22
3. Lao động nữ là cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên
trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm
đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều
169 của Bộ luật Lao động thì được hưởng lương hưu.

4. Điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với một số trường hợp đặc biệt theo quy
định của Chính phủ.

Điều 55. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động

1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật
này khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với
mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại các điểm a, b và c
khoản 1 Điều 54 của Luật này nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều
169 của Bộ luật Lao động khi bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%;

b) Có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều
169 của Bộ luật Lao động khi bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

c) Có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành và bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên.
2. Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này khi
nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng
lương hưu quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 54 của Luật này khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều
169 của Bộ luật Lao động;
b) Có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.
Điều 56. Mức lương hưu hằng tháng
1. Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018,
mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của
Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy
định tại Điều 62 của Luật này tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ
thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
2. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động
đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền

23
lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật này và tương ứng với số
năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:
a) Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm
2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;
b) Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.
Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản này
được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.
3. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 55
của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau đó cứ mỗi
năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%.
Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là 1%, từ
trên 06 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi.
4. Mức lương hưu hằng tháng của lao động nữ đủ điều kiện hưởng lương hưu theo
quy định tại khoản 3 Điều 54 được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội và mức bình
quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội như sau: đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội
tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều
62 của Luật này. Từ đủ 16 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm đóng
tính thêm 2%.
5. Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất của người lao động tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 và Điều 55 của
Luật này bằng mức lương cơ sở, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 và
khoản 3 Điều 54 của Luật này.
6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 57. Điều chỉnh lương hưu
Chính phủ quy định việc điều chỉnh lương hưu trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá
tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế phù hợp với ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội.
Điều 58. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu
1. Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với
tỷ lệ hưởng lương hưu 75% thì khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp
một lần.
2. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm
tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được
tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Điều 59. Thời điểm hưởng lương hưu
1. Đối với người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại các
điểm a, b, c, d, đ, e và i khoản 1 Điều 2 của Luật này, thời điểm hưởng lương hưu là thời

24
điểm ghi trong quyết định nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã
đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật.
2. Đối với người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại điểm h
khoản 1 Điều 2 của Luật này, thời điểm hưởng lương hưu được tính từ tháng liền kề khi
người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu và có văn bản đề nghị gửi cho cơ quan bảo
hiểm xã hội.
3. Đối với người lao động quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Luật này và
người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, thời điểm hưởng lương hưu là thời
điểm ghi trong văn bản đề nghị của người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu
theo quy định.
4. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết về thời điểm
hưởng lương hưu đối với người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này.
Điều 60. Bảo hiểm xã hội một lần
1. Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này mà có yêu cầu thì được
hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 54 của Luật
này mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc theo quy định tại khoản 3 Điều 54
của Luật này mà chưa đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và không tiếp tục tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện;
b) Ra nước ngoài để định cư;
c) Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư,
bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS
và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;
d) Trường hợp người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của
Luật này khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.
2. Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã
hội, cứ mỗi năm được tính như sau:
a) 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm
đóng trước năm 2014;
b) 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm
đóng từ năm 2014 trở đi;
c) Trường hợp thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ một năm thì mức hưởng bảo
hiểm xã hội bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương
tháng đóng bảo hiểm xã hội.
3. Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
này không bao gồm số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, trừ trường
hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
25
4. Thời điểm tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần là thời điểm ghi trong quyết định
của cơ quan bảo hiểm xã hội.
Điều 61. Bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội
Người lao động khi nghỉ việc mà chưa đủ điều kiện để hưởng lương hưu theo quy
định tại Điều 54 và Điều 55 của Luật này hoặc chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo
quy định tại Điều 60 của Luật này thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Điều 62. Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu,
trợ cấp một lần
1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy
định có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này thì tính bình
quân tiền lương tháng của số năm đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ hưu như sau:
a) Tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 thì tính bình quân
của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 05 năm cuối trước khi nghỉ hưu;
b) Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 1995
đến ngày 31 tháng 12 năm 2000 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm
xã hội của 06 năm cuối trước khi nghỉ hưu;
c) Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 2001
đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm
xã hội của 08 năm cuối trước khi nghỉ hưu;
d) Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 2007
đến ngày 31 tháng 12 năm 2015 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm
xã hội của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu;
đ) Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến ngày 31 tháng 12
năm 2019 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 15 năm cuối
trước khi nghỉ hưu;
e) Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2020 đến ngày 31 tháng 12
năm 2024 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 20 năm cuối
trước khi nghỉ hưu;
g) Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm 2025 trở đi thì tính bình quân
của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.
2. Người lao động có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương
do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm
xã hội của toàn bộ thời gian.
3. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng thực hiện
chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế
độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng
đóng bảo hiểm xã hội chung của các thời gian, trong đó thời gian đóng theo chế độ tiền
26
lương do Nhà nước quy định được tính bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội
theo quy định tại khoản 1 Điều này.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 63. Điều chỉnh tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội
1. Tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương
tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động quy định tại khoản 1 Điều 89 của
Luật này được điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí đối
với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 01 năm 2016.
Đối với người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 01 năm
2016 trở đi thì tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền
lương tháng đóng bảo hiểm xã hội được điều chỉnh như quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tiền lương đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương
tháng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động quy định tại khoản 2 Điều 89 của
Luật này được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định
của Chính phủ.
Điều 64. Tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng
1. Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng bị tạm dừng,
hưởng tiếp lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Xuất cảnh trái phép;
b) Bị Tòa án tuyên bố là mất tích;
c) Có căn cứ xác định việc hưởng bảo hiểm xã hội không đúng quy định của pháp
luật.
2. Lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng được tiếp tục thực hiện khi người
xuất cảnh trở về định cư hợp pháp theo quy định của pháp luật về cư trú. Trường hợp có
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích thì
ngoài việc tiếp tục được hưởng lương hưu, trợ cấp còn được truy lĩnh tiền lương hưu, trợ
cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng kể từ thời điểm dừng hưởng.
3. Cơ quan bảo hiểm xã hội khi quyết định tạm dừng hưởng theo quy định tại điểm
c khoản 1 Điều này phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày tạm dừng hưởng, cơ quan bảo hiểm xã hội phải ra quyết định giải quyết
hưởng; trường hợp quyết định chấm dứt hưởng bảo hiểm xã hội thì phải nêu rõ lý do.
Điều 65. Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người đang hưởng lương hưu,
trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng ra nước ngoài để định cư
1. Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng ra nước ngoài
để định cư được giải quyết hưởng trợ cấp một lần.

27
2. Mức trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu được tính theo thời
gian đã đóng bảo hiểm xã hội trong đó mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội trước năm 2014
được tính bằng 1,5 tháng lương hưu đang hưởng, mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm
2014 trở đi được tính bằng 02 tháng lương hưu đang hưởng; sau đó mỗi tháng đã hưởng
lương hưu thì mức trợ cấp một lần trừ 0,5 tháng lương hưu. Mức thấp nhất bằng 03 tháng
lương hưu đang hưởng.
3. Mức trợ cấp một lần đối với người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng
tháng bằng 03 tháng trợ cấp đang hưởng.
MỤC 5. CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
Điều 66. Trợ cấp mai táng
1. Những người sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận một lần trợ cấp
mai táng:
a) Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật này đang đóng bảo hiểm xã
hội hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà đã có thời gian
đóng từ đủ 12 tháng trở lên;
b) Người lao động chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời
gian điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
c) Người đang hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
hằng tháng đã nghỉ việc.
2. Trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người quy định tại
khoản 1 Điều này chết.
3. Người quy định tại khoản 1 Điều này bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân
được hưởng trợ cấp mai táng quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 67. Các trường hợp hưởng trợ cấp tuất hằng tháng
1. Những người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này thuộc một
trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:
a) Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng bảo hiểm xã hội
một lần;
b) Đang hưởng lương hưu;
c) Chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với mức suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
2. Thân nhân của những người quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp
tuất hằng tháng, bao gồm:
a) Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động
từ 81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang mang thai;
28
b) Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng
dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ
của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có
nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu từ đủ 60
tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ;
d) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ
của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có
nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu dưới 60
tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở
lên.
3. Thân nhân quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này phải không có thu
nhập hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp hơn mức lương cơ sở. Thu nhập theo quy
định tại Luật này không bao gồm khoản trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi
người có công.
4. Thời hạn đề nghị khám giám định mức suy giảm khả năng lao động để hưởng trợ
cấp tuất hằng tháng như sau:
a) Trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày người tham gia bảo hiểm xã hội chết thì thân
nhân có nguyện vọng phải nộp đơn đề nghị;
b) Trong thời hạn 04 tháng trước hoặc sau thời điểm thân nhân quy định tại điểm a
khoản 2 Điều này hết thời hạn hưởng trợ cấp theo quy định thì thân nhân có nguyện vọng
phải nộp đơn đề nghị.
Điều 68. Mức trợ cấp tuất hằng tháng
1. Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương cơ sở;
trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng
tháng bằng 70% mức lương cơ sở.
2. Trường hợp một người chết thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 67 của
Luật này thì số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng không quá 04 người;
trường hợp có từ 02 người chết trở lên thì thân nhân của những người này được hưởng 02
lần mức trợ cấp quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hằng tháng được thực hiện kể từ tháng liền kề sau
tháng mà đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này chết. Trường
hợp khi bố chết mà người mẹ đang mang thai thì thời điểm hưởng trợ cấp tuất hằng tháng
của con tính từ tháng con được sinh.
Điều 69. Các trường hợp hưởng trợ cấp tuất một lần
Những người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này thuộc một
trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần:

29
1. Người lao động chết không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67
của Luật này;
2. Người lao động chết thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
67 nhưng không có thân nhân hưởng tiền tuất hằng tháng quy định tại khoản 2 Điều 67
của Luật này;
3. Thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định tại khoản 2
Điều 67 mà có nguyện vọng hưởng trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp con dưới 06 tuổi,
con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
4. Trường hợp người lao động chết mà không có thân nhân quy định tại khoản 6
Điều 3 của Luật này thì trợ cấp tuất một lần được thực hiện theo quy định của pháp luật
về thừa kế.
Điều 70. Mức trợ cấp tuất một lần
1. Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người lao động đang tham gia bảo
hiểm xã hội hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội được tính
theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân
tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm đóng bảo hiểm xã hội trước năm
2014; bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho các năm
đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi; mức thấp nhất bằng 03 tháng mức bình quân
tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội. Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm
xã hội làm căn cứ tính trợ cấp tuất một lần thực hiện theo quy định tại Điều 62 của Luật
này.
2. Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết
được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 02 tháng đầu hưởng lương
hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ
hưởng thêm 01 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức thấp
nhất bằng 03 tháng lương hưu đang hưởng.
3. Mức lương cơ sở dùng để tính trợ cấp tuất một lần là mức lương cơ sở tại tháng
mà người quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 66 của Luật này chết.
Điều 71. Chế độ hưu trí và chế độ tử tuất đối với người vừa có thời gian đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
1. Chế độ hưu trí và tử tuất đối với người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện như sau:
a) Có từ đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên thì điều kiện, mức hưởng
lương hưu thực hiện theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc; mức lương hưu hằng
tháng thấp nhất bằng mức lương cơ sở, trừ đối tượng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2
của Luật này;
b) Có từ đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên thì trợ cấp tuất hằng
tháng được thực hiện theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc;
30
c) Có từ đủ 12 tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trở lên thì trợ cấp mai táng
được thực hiện theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc.
2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
2.2.1.3. Bảo hiểm xã hội tự nguyện 
Theo Bộ Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: 
MỤC 1. CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
Điều 72. Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí
Đối tượng áp dụng chế độ hưu trí tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là người lao
động quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật này.
Điều 73. Điều kiện hưởng lương hưu
1. Người lao động hưởng lương hưu khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động;
b) Đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên.
2. Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
này nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì được đóng cho đến khi đủ
20 năm để hưởng lương hưu.
Điều 74. Mức lương hưu hằng tháng
1. Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018
mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 73 của
Luật này được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội quy
định tại Điều 79 của Luật này tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội; sau đó cứ
thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
2. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động
đủ điều kiện quy định tại Điều 73 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân thu
nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 79 của Luật này và tương ứng với số
năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:
a) Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm
2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;
b) Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.
Sau đó cứ thêm mỗi năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản này
được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.
3. Việc điều chỉnh lương hưu được thực hiện theo quy định tại Điều 57 của Luật
này.
Điều 75. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu

31
1. Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với
tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một
lần.
2. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm
tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được
tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Điều 76. Thời điểm hưởng lương hưu
1. Thời điểm hưởng lương hưu của các đối tượng quy định tại Điều 72 của Luật này
được tính từ tháng liền kề sau tháng người tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng
lương hưu theo quy định tại Điều 73 của Luật này.
2. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết Điều này.
Điều 77. Bảo hiểm xã hội một lần
1. Người lao động quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật này mà có yêu cầu thì được
hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ điều kiện về tuổi theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 73 của Luật này
nhưng chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội mà không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã
hội;
b) Ra nước ngoài để định cư;
c) Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư,
bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS
và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế.
2. Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần được tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã
hội, cứ mỗi năm được tính như sau:
a) 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm
đóng trước năm 2014;
b) 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội cho những năm
đóng từ năm 2014 trở đi;
c) Trường hợp thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ một năm thì mức hưởng bảo
hiểm xã hội bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập
tháng đóng bảo hiểm xã hội.
3. Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần của đối tượng được Nhà nước hỗ trợ thực
hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này không bao gồm số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng
bảo hiểm xã hội tự nguyện, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
4. Thời điểm tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần là thời điểm ghi trong quyết định
của cơ quan bảo hiểm xã hội.

32
5. Việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện đang hưởng lương hưu ra nước ngoài để định cư được thực hiện theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Luật này.
Điều 78. Bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội, tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu
1. Người lao động dừng đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện mà chưa đủ điều kiện để
hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 73 hoặc chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần theo
quy định tại Điều 77 của Luật này thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
2. Việc tạm dừng, hưởng tiếp lương hưu đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện được thực hiện theo quy định tại Điều 64 của Luật này.
Điều 79. Mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội
1. Mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội được tính bằng bình quân
các mức thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian đóng.
2. Thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội để làm căn cứ tính mức bình quân thu
nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội của người lao động được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số
giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.
MỤC 2. CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
Điều 80. Trợ cấp mai táng
1. Những người sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng:
a) Người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 60 tháng trở lên;
b) Người đang hưởng lương hưu.
2. Trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà người quy định tại
khoản 1 Điều này chết.
3. Trường hợp người quy định tại khoản 1 Điều này bị Tòa án tuyên bố là đã chết
thì thân nhân được hưởng trợ cấp quy định tại khoản 2 Điều này.
Điều 81. Trợ cấp tuất
1. Người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội, người lao động đang bảo lưu thời
gian đóng bảo hiểm xã hội, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất một lần.
2. Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người lao động đang đóng bảo
hiểm xã hội hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội được tính theo số năm đã
đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng
đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 79 của Luật này cho những năm đóng bảo hiểm
xã hội trước năm 2014; bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã
hội cho các năm đóng từ năm 2014 trở đi.
Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ một năm thì
mức trợ cấp tuất một lần bằng số tiền đã đóng nhưng mức tối đa bằng 02 tháng mức bình
33
quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội; trường hợp người lao động có cả thời gian
đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện thì mức hưởng trợ cấp tuất một lần tối thiểu
bằng 03 tháng mức bình quân tiền lương và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội.
3. Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết
được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 02 tháng đầu hưởng lương
hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; trường hợp chết vào những tháng sau
đó, cứ hưởng thêm 01 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
2.2.2. Tổ chức bộ máy triển khai chính sách

Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội số
58/2014/QH13, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, Luật Việc làm số
38/2013/QH13, cũng như để ngành BHXH hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được
Chính phủ giao. Ngày 05/01/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2016/NĐ -
CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. 

Căn cứ theo điều 1, nghị định 01/2016/NĐ - CP quy định vị trí và chức năng:

“1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng
tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức thu, chi
chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng các quỹ: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế; thanh tra chuyên ngành việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật.

2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế;
của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế.” 

Theo đó, tại điều 6, nghị định này có quy định hệ thống tổ chức:

“Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung,
thống nhất từ trung ương đến địa phương, gồm có:

1. Ở Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

2. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Bảo hiểm xã hội tỉnh) trực thuộc Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.

3. Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là
Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi chung là Bảo hiểm xã hội huyện) trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh.”

34
35
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam

2.2.2.1. Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội Việt Nam

Hội đồng quản lý gồm đại diện lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam và thành viên khác do Chính phủ quy định.
Là cơ quan giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, giám sát hoạt động của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam và tư vấn về chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế theo nhiệm vụ và quyền hạn nhất định được quy định tại khoản 5, điều 3,
nghị định 01/2016/NĐ - CP

2.2.2.2. Tổ chức bộ máy trực thuộc bảo hiểm xã hội Việt Nam ở Trung ương

Gồm có 24 đơn vị (15 đơn vị chuyên môn giúp việc Tổng Giám đốc và 9 đơn vị sự
nghiệp trực thuộc): 

1. Vụ Tài chính - Kế toán.

2. Vụ Hợp tác quốc tế.

3. Vụ Thanh tra - Kiểm tra.

4. Vụ Thi đua - Khen thưởng.

5. Vụ Kế hoạch và Đầu tư.

6. Vụ Tổ chức cán bộ.

7. Vụ Pháp chế.

8. Vụ Quản lý đầu tư quỹ.

9. Vụ Kiểm toán nội bộ.

10. Ban Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.

11. Ban Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế.

12. Ban Thu.

13. Ban Sổ - Thẻ.

14. Ban Dược và Vật tư y tế.

15. Văn phòng (có đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh).

16. Viện Khoa học bảo hiểm xã hội.

17. Trung tâm Truyền thông.


36
18. Trung tâm Công nghệ thông tin.

19. Trung tâm Lưu trữ.

20. Trung tâm Giám định bảo hiểm y tế và Thanh toán đa tuyến khu vực phía Bắc.

21. Trung tâm Giám định bảo hiểm y tế và Thanh toán đa tuyến khu vực phía Nam.

22. Trường Đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm xã hội.

23. Báo Bảo hiểm xã hội.

24. Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

Theo nghị định 01/2016/NĐ - CP, BHXH Việt Nam được giao 31 nhiệm vụ (điều
2), tăng 03 nhiệm vụ so với quy định tại giai đoạn trước đây. Điều này cho thấy, tầm
quan trọng của công tác thực hiện chính sách BHXH của Nhà nước ngày càng được nâng
cao và coi trọng. Ngoài ra, với đặc thù của ngành BHXH là quản lý, theo dõi, giải quyết
chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN cho nhân dân và người lao động, nhiệm vụ của
ngành BHXH được giao rất lớn, khối lượng công việc ngày càng tăng, năm sau cao hơn
nhiều so với năm trước. Do đó, để hạn chế tình trạng nhiều công việc tập trung vào một
đầu mối, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết công việc cho nhân dân, người
lao động, BHXH Việt Nam đã thực hiện phân cấp cho BHXH cấp tỉnh, BHXH cấp huyện
trong nhiều lĩnh vực công tác liên quan đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH,
BHYT, BHTN như: thu BHXH, BHYT, BHTN; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; giải quyết
chế độ chính sách, chi trả BHXH, BHYT, BHTN, ... Các đơn vị sau khi được phân cấp đã
chủ động bố trí nguồn nhân lực, trang thiết bị cơ sở vật chất để tổ chức thực hiện nhiệm
vụ được giao. Do đó, việc giải quyết các chế độ, chính sách cho nhân dân, người lao động
về cơ bản đã đảm bảo được tính kịp thời, thuận tiện, hiệu quả.

2.2.2.3. Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh

a. Chức năng, nhiệm vụ:

 Xây dựng, trình Tổng Giám đốc kế hoạch ngắn hạn và dài hạn về phát triển
BHXH, BHTN, BHYT trên địa bàn và chương trình công tác hàng năm; tổ chức
thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.
 Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính
sách, pháp luật về BHXH, BHTN, BHYT.
 Giải quyết các chế độ BHXH, BHYT; thực hiện tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải
quyết thủ tục hành chính về BHXH, BHYT tại BHXH tỉnh; thực hiện cơ chế một
cửa liên thông trong giải quyết chế độ BHXH, BHTN, BHYT tại cơ quan BHXH
tỉnh và BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
BHXH huyện).
 Đề xuất với BHXH Việt Nam kiến nghị việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế,
chính sách về BHXH, BHTN, BHYT; kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm
37
quyền thanh tra, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BHXH, BHTN,
BHYT
 Một số nhiệm vụ quan trọng khác theo quy định như: chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
toàn diện BHXH huyện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao,...

b. Tổ chức bộ máy

Hiện nay, 61 BHXH tỉnh, thành phố có cơ cấu 11 phòng gồm: 

1. Phòng Chế độ BHXH

2. Phòng Giám định BHYT

3. Phòng Quản lý thu 

4. Phòng Khai thác và thu nợ 

5. Phòng Cấp sổ, thẻ 

6. Phòng Tổ chức cán bộ 

7. Phòng Kế hoạch - Tài chính 

8. Phòng Thanh tra - Kiểm tra 

9. Phòng Công nghệ thông tin 

10. Phòng Tiếp nhận và Trả kết quả thủ tục hành chính. 

11. Văn phòng

Riêng 02 BHXH Thành phố Hồ Chí Minh và BHXH thành phố Hà Nội có 14
phòng: 

1. Phòng Chế độ BHXH 

2. Phòng Giám định BHYT 1 

3. Phòng Giám định BHYT 2 

4. Phòng Quản lý thu 

5. Phòng Khai thác và thu nợ 

6. Phòng Cấp sổ, thẻ 

7. Phòng Tổ chức cán bộ 

8. Phòng Kế hoạch - Tài chính 

38
9. Phòng Thanh tra - Kiểm tra 

10. Phòng Công nghệ thông tin 

11. Phòng Tiếp nhận và Trả kết quả thủ tục hành chính. 

12. Văn phòng 

13. Phòng Quản lý hồ sơ. 

14. Phòng Tuyên truyền.

2.2.2.4. Bảo hiểm xã hội huyện

BHXH huyện có chức năng, nhiệm vụ:

 Xây dựng trình Giám đốc BHXH tỉnh kế hoạch phát triển dài hạn, ngắn hạn và
chương trình công tác hàng năm; tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi
được phê duyệt. 
 Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách, pháp
luật về BHXH, BHTN, BHYT.
 Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH
tỉnh.
 Kiểm tra, giải quyết các kiến nghị, khiếu nại về việc thực hiện chế độ, chính sách
BHXH, BHTN, BHYT đối với các tổ chức, cá nhân tham gia và các cơ sở khám,
chữa bệnh BHYT theo quy định. 
 Tổ chức thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT theo
quy định.
 Quản lý, lưu trữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT
theo quy định.
 Hướng dẫn nghiệp vụ BHXH, BHTN, BHYT cho các tổ chức, cá nhân tham gia.

2.2.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội

Có thể thấy, thời gian qua những kết quả mà ngành BHXH đã khẳng định những
chiến lược, những bước đi bài bản, có sự quyết liệt và tinh thần phối hợp với các ban
ngành hiệu quả. Làm được điều này cho thấy, những nỗ lực lớn của BHXH Việt Nam
trong việc đưa những chính sách quan trọng đi sâu vào thực tiễn đời sống và mang đến
những lợi ích thiết thực cho người dân.

Trong vai trò tiên phong, đi trước một bước, công tác tuyên truyền được Ngành đặc
biệt coi trọng. Đặc biệt là thời gian này, công tác tuyên truyền sẽ góp phần không nhỏ
đưa Nghị quyết 28 vào cuộc sống. Trên thực tế, những kết quả nổi bật mà ngành BHXH
đã đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của các cơ quan báo chí, truyền
thông. Báo chí, truyền thông đã đưa những thông điệp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của
BHXH, BHYT trong hệ thống an sinh xã hội, cũng như tuyên truyền, giải thích cho nhân
39
dân hiểu sâu sắc hơn những quan điểm và mục tiêu trong thực hiện chính sách, pháp luật
BHXH, BHYT. Báo chí, truyền thông cũng là kênh tiếp nhận những phản hồi từ người
dân về bất cập, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong quá trình triển khai các chính
sách tại các địa phương trong cả nước. Từ đó, đề xuất những giải pháp, chính sách phù
hợp, cụ thể nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác BHXH, BHYT.

Tuyên truyền có đóng góp lớn, nhưng đã đến lúc cần thiết có sự đa dạng hơn, phong
phú hơn trong việc tuyên truyền đưa Nghị quyết 28 vào cuộc sống, Ngành đã có những
chương trình hành động rất cụ thể sau khi Nghị quyết được ban hành. Ngành sẽ thay đổi
cách thức tuyên truyền để tiếp cận với người dân. Ví dụ, BHXH Việt Nam đã tập trung
nhiều cho công tác tuyên truyền trực tiếp, cán bộ BHXH sẽ đến các khu công nghiệp, khu
chế xuất, từng khu dân cư... các khu vực có tiềm năng phát triển BHXH để tập trung
tuyên truyền. Trên tinh thần đó, để việc triển khai Nghị quyết 28 vào cuộc sống hiệu quả,
vấn đề truyền thông báo chí cần phải được đẩy mạnh hơn nữa. Và rõ ràng, câu chuyện
đổi mới nội dung, hình thức thông tin, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để cán
bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung
cơ bản của cải cách chính sách BHXH nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực
hiện chính sách BHXH là rất cần thiết. Cụ thể: 

Về nội dung: để nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, phổ biến chính sách, pháp
luật về BHXH, BHYT, nhiều địa phương đã chú trọng đổi mới nội dung truyền thông,
tuyên truyền phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền và từng nhóm người tham gia.
Trong đó, chú trọng truyền thông về vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong
chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT; trách nhiệm của chủ sử dụng lao động trong
việc tham gia BHXH, BHYT cho người lao động; quyền và lợi ích của người dân khi
tham gia BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình. Nội dung truyền thông tại các cuộc hội
nghị, đối thoại, tư vấn chính sách BHXH, BHYT được biên soạn ngắn gọn, dễ hiểu với
nhiều ví dụ minh họa cụ thể, giúp người dân dễ tiếp cận với chính sách BHXH, BHYT.
Các sản phẩm truyền thông về BHXH, BHYT được đổi mới về nội dung và hình thức thể
hiện. Trong đó, BHXH tỉnh tăng cường truyền thông về BHXH, BHYT qua hệ thống
pano, áp phích; các bảng Led tuyên truyền đặt tại trụ sở cơ quan BHXH; thiết kế và in ấn
các ấn phẩm truyền thông như: Tờ gấp về BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình và
BHYT học sinh, sinh viên để tuyên truyền đến mọi người dân.

Đồng thời về hình thức, các cơ quan BHXH tại các tỉnh, thành phố, địa phương chú
trọng đổi mới liên tục để phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn. Hàng năm, phối
hợp với các cơ quan, tổ chức,...để tổ chức các cuộc hội nghị tuyên truyền, đối thoại vận
động người dân tham gia BHXH tự nguyện. Trong giai đoạn 2017-2022, đã tổ chức
3.458 cuộc hội nghị đối thoại, phổ biến, tư vấn chính sách và tuyên truyền theo từng
nhóm nhỏ. Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh Covid 19, việc tổ chức các hoạt động
truyền thông trực tiếp là hết sức khó khăn, BHXH tại nhiều tỉnh, thành phố đã tăng cường
truyền thông qua các trang mạng xã hội như facebook, zalo, tăng cường hệ thống loa phát
thanh tại các thôn, xóm,...Tại các địa phương nơi có người đồng bào dân tộc thiểu số sinh
40
sống, BHXH huyện đã chú trọng phát huy vai trò, sự ảnh hưởng của người có uy tín như
già làng, trưởng bản để tuyên truyền, vận động người đồng bào dân tộc thiểu số tham gia
BHXH tự nguyện.

Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động trong việc tham gia
BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động theo quy định; tăng tỷ lệ người dân tham gia
BHXH tự nguyện và BHYT hộ gia đình.

2.2.4. Phối hợp triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội

2.2.4.1. Quỹ bảo hiểm xã hội

 Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ quan trọng trong hệ thống các nguồn quỹ tại Việt
Nam. Quỹ BHXH được hình thành và sử dụng theo quy định nghiêm ngặt của
Luật pháp. Luật BHXH 2014quy định: Cơ quan BHXH là cơ quan nhà nước có
chức năng thực hiện chế độ, chính sách BHXH, quản lý và sử dụng các quỹ
BHXH, BHYT, BHTN
 Tại Khoản 4, Điều 3, Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định quỹ bảo hiểm xã hội là
quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hình thành từ đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của Nhà nước.
 Cũng tại Khoản 4, Điều 5, Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định Quỹ bảo hiểm xã
hội phải được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch. Quỹ được sử
dụng đúng mục đích, hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần. 
 Các quỹ thành phần của quỹ bảo hiểm xã hội gồm có:
 Quỹ ốm đau và thai sản.
 Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
 Quỹ hưu trí và tử tuất.
 Căn cứ theo quy định tại Điều 82, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có 5 nguồn hình
thành quỹ bảo hiểm xã hội chính bao gồm: nguồn do người sử dụng lao động
đóng; nguồn do người lao động đóng; nguồn do tiền sinh lời của hoạt động đầu tư
từ quỹ; hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác.
 Xác định mục đích của quỹ BHXH là một trong những vấn đề quan trọng nhằm
đảm bảo quỹ được sử dụng đúng với mục đích thành lập quỹ. Đồng thời tránh việc
thất thoát gây ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức cũng như quyền lợi của người
tham gia BHXH.Căn cứ vào Điều 82, Luật Bảo hiểm xã hội, quỹ BHXH được sử
dụng chủ yếu cho 2 mục đích chính sau:
 Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động theo quy định
 Đây là khoản chi chính và chiếm tỉ trọng cao nhất trong quỹ BHXH, quỹ
được chi cho các khoản gồm: chi trả lương hưu, đóng bảo hiểm y tế, chi trả
chế độ cho người lao động bị bệnh nghề nghiệp, chi trả trợ cấp thai sản…
 Chi trả các chế độ cho người lao động cũng là mục đích chính để hình
thành quỹ BHXH, đảm bảo cho người dân có một cuộc sống tốt hơn, có thể

41
an tâm làm việc và đỡ đi một phần gánh nặng khi về già hoặc không may
gặp rủi ro.
 Chi trả chi phí quản lý bảo hiểm xã hội
Ngoài việc dùng vào việc chi trả chế độ bảo hiểm cho các đối tượng được
hưởng theo quy định, quỹ bảo hiểm xã hội còn được sử dụng để chi trả chi phí
quản lý BHXH. Các chi phí quản lý bao gồm chi phí như:
 Chi phí tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội;
tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội.
 Chi phí tổ chức thu, chi trả bảo hiểm xã hội và hoạt động bộ máy của cơ
quan bảo hiểm xã hội các cấp.
 Chi phí cải cách thủ tục bảo hiểm xã hội, hiện đại hóa hệ thống quản lý;
phát triển, quản lý người tham gia, người thụ hưởng bảo hiểm xã hội.
 Quỹ BHXH là quỹ ngoài ngân sách lớn nhất, được nhà nước quản lý thông qua
hoạt động của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tài chính làm
Chủ tịch hội đồng; quỹ BHXH công khai, minh bạch và hằng năm đều được Quốc
hội giám sát cũng như công khai trước Quốc hội. Quỹ BHXH được Nhà nước
quản lý bảo toàn, tăng trưởng, có trách nhiệm bảo hộ cho người tham gia và cũng
là cam kết chính trị của Nhà nước đối với chính sách an sinh xã hội.
 Trải qua 28 năm xây dựng và phát triển (16/02/1995-16/02/2023), với sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị; sự cố gắng nỗ lực của tập thể công chức, viên chức và
người lao động, quỹ BHXH, BHYT đã trở thành các quỹ an sinh lớn nhất, được
quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự
giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH. Quy mô các quỹ bảo
hiểm tăng qua từng năm, khẳng định tính bền vững, đảm bảo cân đối trong dài
hạn, nhờ đó NLĐ và Nhân dân ngày càng yên tâm, tin tưởng khi tham gia BHXH,
BHYT. Tỷ lệ chi từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng tăng; tỷ lệ chi từ ngân sách nhà
nước cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong
việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm ASXH.

2.2.4.2. Phối hợp triển khai

Vượt qua nhiều khó khăn, ngành BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả, thành
tựu tích cực. Bên cạnh sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Quốc hội, Chính phủ; sự phối
hợp chặt chẽ của các bộ, ngành; sự nỗ lực của ngành BHXH Việt Nam còn là sự vào cuộc
tích cực của các cấp ủy đảng từ trung ương đến chính quyền địa phương.

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và đẩy mạnh thực hiện chính
sách BHXH, BHYT, trong đó vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp
đối với công tác thực hiện chính sách BHXH, BHYT được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
coi trọng và đã thể hiện rõ nét trong nhiều văn kiện như: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của của
Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về cải cách chính sách BHXH…
42
Trong những năm qua, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHXH, sự
phối hợp công tác giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y Tế Và Bộ Tài chính
và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam luôn là một trong những vấn đề được lãnh đạo hai bên
quan tâm, tạo điều kiện cho việc xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách
pháp luật về BHXH ngày càng sát sao với thực tiễn và hiệu quả hơn, nhất là từ khi Luật
BHXH có hiệu lực thi hành. 

Năm 2010 đánh dấu cột mốc để tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp
giữa hai bên, lãnh đạo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và BHXH Việt Nam đã chỉ
đạo các đơn vị chức năng của hai bên xây dựng Chương trình phối hợp trong xây dựng và
thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH. Bản dự thảo đã hoàn thành và lễ ký kết được
tổ chức tại trụ sở BHXH Việt Nam vào ngày 11/6/2010. Sự phối hợp giữa các bộ, ban,
ngành vẫn được duy trì và phát triển qua nhiều năm qua và đạt được những kết quả tiêu
biểu. Điển hình như trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp vừa qua, an
sinh xã hội cùng với phòng, chống dịch và phát triển kinh tế là ba trụ cột chính để phát
triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao, một mặt, Ngành LĐ-
TB&XH đã triển khai bài bản, căn cơ các chính sách xã hội, tập trung chăm lo ngày một
tốt cho người có công với cách mạng, đối tượng trợ giúp xã hội, đối tượng yếu thế…
nhằm đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt trong giai đoạn bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
COVID-19. Cùng với đó, Bộ đã chủ động, quyết liệt và linh hoạt phối hợp với các bộ,
ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều
chủ trương, chính sách, trong đó có những chính sách chưa có tiền lệ như: Nghị quyết số
68 của Chính phủ, Quyết định số 23 của TTg và Nghị quyết số 116 của Chính phủ, Quyết
định số 28 của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện nhiều giải pháp, ban hành nhiều gói hỗ
trợ kịp thời hỗ trợ người dân, người lao động, người sử dụng lao động vượt qua khó
khăn, góp phần giảm thiểu những tác động tiêu cực của đại dịch.

Nội dung phối hợp giữa Bộ Y tế và BHXH Việt Nam đã được quy định tại Quyết
định 5205/QĐ-BYT Quy chế phối hợp hoạt động trong thực hiện chính sách, pháp luật về
BHYT ngày 30 tháng 12 năm 2008 . Đến chiều ngày 03/09/2020, tại trụ sở Bộ Y tế đã
diễn ra Lễ ký kết Quy chế phối hợp giữa Bộ Y tế và Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong xây
dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế; Quy chế này thay thế cho
Quy chế năm 2008, nhằm bảo đảm các hoạt động được phối hợp thực hiện kịp thời, đồng
bộ, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành của Bộ Y tế và BHXH Việt Nam..Phối hợp chặt
chẽ giữa Bộ Y tế và BHXH Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân
dân và khám chữa bệnh BHYT suốt nhiều năm qua. Tại hội nghị giao ban thực hiện
chính sách BHYT quý I/2023 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đánh giá cao
những kết quả, cũng như sự đồng hành giữa hai ngành những năm qua, đồng thời khẳng
định, sự phối hợp chặt chẽ giữa hai bên đã mang lại bước tiến tích cực trong xây dựng
luật pháp, thực hiện chính sách, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực BHYT, tham
gia phối hợp cùng các Bộ, ngành khác... để đạt được tiếng nói chung và những kết quả
nhất định. Chia sẻ kết quả thực hiện chính sách BHYT thời gian qua, Tổng Giám đốc
Nguyễn Thế Mạnh cho biết tính đến hết năm 2022, độ bao phủ BHYT đã đạt tỷ lệ
43
92,04% dân số (vượt 0,04% so với chỉ tiêu tại Nghị quyết 01/NQ-CP), và là 1 trong 7 chỉ
tiêu kinh tế- xã hội vượt kế hoạch năm 2022 được Quốc hội, Chính phủ giao. Tỷ lệ này là
bước tiến vượt bậc khi năm 2016, chúng ta mới có độ bao phủ 81,6% dân số. Tiếp đến
hai ngành đã có phối hợp chặt chẽ trong cải cách thủ tục hành chính trong khám chữa
bệnh BHYT. Hiện đã có 95% cơ sở y tế đã sẵn sàng để người bệnh sử dụng CCCD thay
thế thẻ BHYT đi khám chữa bệnh.

Bộ Tài chính và BHXH Việt Nam, theo chỉ định của Chính Phủ, trong suốt những
năm qua đã phối hợp, ban hành: Quy chế phối hợp công tác số 5423/QCPH-BHXH-TCT
giữa Tổng cục Thuế và BHXH Việt Nam ngày 31/12/2014; Quy chế chia sẻ dữ liệu và
phối hợp công tác số 1999/QCPH-BHXH-TCT (sau đây gọi tắt là “Quy chế 1999/QCPH-
BHXH-TCT”) ngày 09/7/2021 thay thế Quy chế phối hợp công tác số 5423/QCPH-
BHXH-TCT do một số tồn tại, Thông tư số 102/2018/TT-BTC Hướng dẫn kế toán bảo
hiểm xã hội (BHXH),...

Ngoài ra BHXH Việt Nam cũng phối hợp với nhiều bộ, ban, ngành có liên quan
khác như: với Bộ Công an kết nối, chia sẻ thông tin căn cước công dân trong cơ sở dữ
liệu quốc gia về bảo hiểm với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, là tiền đề quan trọng cho
việc triển khai sử dụng căn cước công dân gắn chíp trong khám chữa bệnh BHYT; với Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc phối hợp hoàn thiện dữ liệu học sinh, sinh viên , trên cơ sở
kết nối, chia sẻ dữ liệu với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo Đề án 06 của Chính
phủ; đã xây dựng kế hoạch, chương trình phối hợp tuyên truyền thực hiện Nghị quyết
trong toàn ngành; ký kết chương trình phối hợp tuyên truyền với Ban Tuyên giáo Trung
ương và 14 bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan thông tấn, báo chí theo định kỳ hàng năm hoặc
trong từng chuyên đề cụ thể;.....

Sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp cũng là một trong những yếu tố then
chốt, quyết định đến hiệu quả tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT cho người lao
động và Nhân dân, do đó thời gian qua, BHXH Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng và tranh
thủ sự quan tâm, ủng hộ của cấp ủy, chính quyền các tỉnh và địa phương. Đến hết năm
2022, toàn quốc đã có 63/63 tỉnh, thành phố đã kiện toàn, thành lập Ban Chỉ đạo thực
hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn. 56 tỉnh đã đưa chỉ tiêu bao phủ
BHXH và 61 tỉnh đã đưa chỉ tiêu bao phủ BHYT vào Nghị quyết về phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương. Đặc biệt, nhiều tỉnh đã thực hiện hỗ trợ thêm từ ngân sách địa
phương cho người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự đóng ngoài mức hỗ trợ của Nhà
nước. 

Để đạt được kết quả này, BHXH tỉnh đã quán triệt, triển khai thực hiện tốt chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các văn bản của BHXH Việt
Nam liên quan đến các lĩnh vực thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, bảo
hiểm thất nghiệp. Đồng thời, kịp thời xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch
chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ; chủ động xây dựng các kế hoạch và nhiều văn bản
chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN để triển

44
khai nhiệm vụ công tác của đơn vị; thành lập Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc phát triển
người tham gia BHXH, BHYT, BHTN…

BHXH các địa phương đã chủ động, tích cực phối hợp với các sở, ban, ngành liên
quan tham mưu với Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHXH, BHYT; đặc biệt là các
giải pháp phát triển BHXH, BHYT phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa
phương. Trong đó, chú trọng ban hành các Nghị quyết, Chương trình hành động thực
hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn; tham mưu, đề xuất đưa chỉ tiêu, kế
hoạch thực hiện lộ trình BHXH, BHYT, BHTN vào Nghị quyết, Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương; thành lập, kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện chính sách
BHXH, BHYT các cấp; có cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ thêm từ ngân sách địa
phương cho người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình ngoài mức quy định
của Nhà nước; chỉ đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm của các sở, ban, ngành trong công
tác tổ chức, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT tại địa phương đảm bảo hoàn thành
các mục tiêu đề ra;…

Sự vào cuộc tích cực, chủ động cho thấy, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính
quyền về lợi ích, giá trị nhân văn và tầm quan trọng của chính sách BHXH, BHYT trong
hệ thống an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước được nâng lên rõ rệt, tạo sự thống nhất
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự đồng thuận trong
triển khai chính sách BHXH, BHYT ở các cấp, các ngành từ Trung ương xuống địa
phương.

 Có thể khẳng định, những kết quả này có được là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao,
quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc,
phối hợp tích cực của các Bộ, ngành và địa phương trong công tác tổ chức, thực
hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN; đặc biệt là tinh thần đoàn kết, trách
nhiệm, quyết tâm, nỗ lực vượt khó vươn lên của đội ngũ công chức, viên chức
trong toàn ngành BHXH Việt Nam để thực hiện tốt công tác đảm bảo ASXH được
Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Theo Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam
Nguyễn Thế Mạnh: “Để tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền
vững hướng tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân, chúng tôi xác định các giải
pháp theo định hướng “kiến tạo” phải được toàn Ngành triển khai với tinh thần
chủ động, đồng bộ và toàn diện” thì một trong các giải pháp sẽ tập  trung vẫn bao
gồm việc “phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tổ chức” qua đó cho thấy tầm
quan trọng của việc phối hợp triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại
Việt Nam

2.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát

45
Luật BHXH 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016) quy định: Cơ quan BHXH cũng
là cơ quan nhà nước có chức năng thanh tra việc đóng BHXH, BHTN, BHYT và nhiệm
vụ khác theo quy định của Luật và hướng dẫn của Chính phủ. Luật BHXH 2014 tăng
thẩm quyền cho cơ quan BHXH được thanh tra chuyên ngành việc đóng BHXH, BHYT,
BHTN và xử lý vi phạm hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý vi
phạm.

Thời gian qua, bên cạnh việc áp dụng các giải pháp đôn đốc thu nợ BHXH, BHYT,
BHTN thì công tác thanh tra chuyên ngành, kiểm tra, xử lý vi phạm của BHXH Việt
Nam được xác định là giải pháp tích cực trong việc tăng thu, giảm tình trạng chậm đóng
và răn đe, phòng ngừa, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia
BHXH, BHYT, BHTN góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, đồng thời
thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Chỉ trong tháng 8 và tháng 9/2022, ngành BHXH
Việt Nam đã thực hiện thanh tra chuyên ngành đột xuất tại 2.233 đơn vị chậm đóng từ 03
tháng trở lên và có số nợ lớn, sau thanh tra ngoài việc yêu cầu các đơn vị sử dụng lao
động thực hiện kịp thời nghĩa vụ phải đóng BHXH, BHTN, BHYT mới phát sinh còn thu
hồi hơn 250 tỷ đồng tiền nợ BHXH, BHTN, BHYT cũ. Đồng thời với việc tăng cường
thu hồi nợ, giảm tình trạng chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, năm 2021 và 09 tháng
năm 2022, qua công tác thanh tra đã phát hiện: 92.380 người chưa tham gia (năm 2021 là
42.000 người, 09 tháng năm 2022 là 50.380 người); đóng thiếu thời gian, đóng thiếu mức
đóng với số tiền truy đóng là 246,6 tỷ đồng (trong đó năm 2021 là 127,5 tỷ đồng, 09
tháng năm 2022 là 119 tỷ đồng), do đó đã góp phần vào việc tăng thu, phát triển người
tham gia của Ngành.

Cùng với việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành, BHXH Việt Nam cũng quyết
liệt đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra;
nghiên cứu, triển khai nhiều phương pháp để khai thác, phân tích các dữ liệu có sẵn của
Ngành về số thu, thông tin người tham gia và hưởng BHXH, BHYT để chọn mẫu, đánh
giá, xác định những sai sót, lạm dụng, trục lợi cũng như các hành vi vi phạm pháp luật
khác. Hiện nay, phần mềm quản lý hoạt động thanh kiểm tra đang được nâng cấp để bổ
sung chức năng xử lý dữ liệu, cảnh báo (xây dựng 121 dấu hiệu nhận diện của 77 hành vi
vi phạm trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT; 141 dấu hiệu nhận diện sai sót trong
nghiệp vụ). Hoạt động thanh tra chuyên ngành của Ngành cũng luôn tuân thủ nghiêm túc
trình tự, thủ tục, thời gian từ khai lập kế hoạch thanh tra hàng năm cho đến việc thực hiện
các bước trong quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.

Qua 28 năm xây dựng và phát triển, ngành BHXH Việt Nam đã không ngừng phát
triển về mọi mặt, vị thế và vai trò của Ngành ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, để
tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền vững hướng tới mục tiêu
BHXH, BHYT toàn dân, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật
về BHXH, BHYT, BHTN; đặc biệt là công tác thanh tra chuyên ngành; kịp thời phát hiện
và xử lý các hành vi vi phạm chế độ, chính sách về BHXH, BHYT, BHTN; các hành vi
gian lận, trục lợi các quỹ BHXH, BHYT, BHTN vẫn là một trong những giải pháp được
46
đặc biệt quan tâm. Dự thảo Luật Thanh tra (sửa đổi) - đang trình Quốc hội tại kỳ họp thứ
4 Quốc hội khóa XV- đã quy định việc thành lập cơ quan thanh tra, trong đó có cơ quan
BHXH. Việc quy định như vậy là thực sự cần thiết phù hợp với thực tiễn nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia, thụ hưởng chính sách và góp phần thực hiện tốt chính sách
an sinh xã hội; ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

2.3.1. Thành công và những kết quả đạt được

 Tăng số người tham gia BHXH: Tại phiên họp toàn thể lần thứ 2 của Ủy ban Xã
hội của Quốc hội, thẩm tra Báo cáo Chính phủ về tình hình thực hiện chính sách,
chế độ BHXH, ông Đặng Thuần Phong- Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội cho biết,
trong năm 2020, mặc dù dịch bệnh COVID-19 diễn ra phức tạp nhưng với sự chỉ
đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương,
kết quả phát triển đối tượng tham gia BHXH, BH thất nghiệp tiếp tục giữ đà tăng,
đặc biệt là về BHXH tự nguyện. Cụ thể, cả nước có 16.176.180 người tham gia
BHXH, đạt 32,8% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 414.035 người so với
năm 2019. Trong đó, về BHXH tự nguyện có 1.125.236 người tham gia, tăng
101,6% so với năm 2019 và tăng 184,2 lần so với năm 2008; tỷ lệ bao phủ BHXH
tự nguyện năm 2020 đạt 2,28% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong khi chỉ tiêu
tại Nghị quyết số 28-NQ/TW đến hết năm 2021 đạt 1%.
 Việc giải quyết hưởng các chế độ BHXH cơ bản kịp thời, đảm bảo đúng quy định.
Thời hạn giải quyết được rút ngắn hơn nhờ các phần mềm nghiệp vụ được liên
thông và thực thực hiện giao dịch điện tử. Triển khai thành công nhiều dịch vụ
công trực tuyến cấp độ 4. 
 Tính đến hết ngày 30/9/2022, cả nước đã thực hiện giảm đóng vào quỹ BHTN
trong 12 tháng (từ 01/10/2021 đến hết 30/9/2022) khoảng 9.210 tỷ đồng cho
346.664 đơn vị sử dụng lao động, tương ứng với số lao động được giảm đóng là
trên 12 triệu người. Về chi trả hỗ trợ tiền mặt từ quỹ BHTN, tính đến hết tháng
9/2022, toàn quốc đã chi hỗ trợ cho hơn 13,3 triệu người lao động với tổng số tiền
hơn 31,8 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 99,33% số người được nhận hỗ trợ qua tài
khoản ngân hàng, đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện, minh bạch…

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

 Số người tham gia BHXH bắt buộc chỉ đạt trên 15 triệu người, giảm hơn 150.000
người so với năm 2019. Theo đánh giá, đây là năm đầu tiên số người tham gia
BHXH bắt buộc giảm, do trong năm 2020 và 2021, dịch bệnh COVID-19 diễn
biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế-xã hội, sức
khỏe, tính mạng của người dân; nhiều DN phải thu hẹp quy mô, tạm dừng hoạt
động, khiến nhiều NLĐ bị mất việc, mất thu nhập. Bên cạnh đó, nhiều địa phương

47
áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp phong tỏa, cách ly, giãn cách xã hội làm ảnh
hưởng đến kết quả khai thác, phát triển đối tượng…
 Tình trạng người lao động mượn hồ sơ tư pháp của người khác để đi làm, tình
trạng mua bán sổ BHXH dưới hình thức ủy quyền vẫn tiếp diễn.
 Tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH vẫn diễn ra ở nhiều địa phương, đặc biệt
là chế độ ốm đau, thai sản.
 Tình trạng hưởng BHXH một lần gia tăng gây nhiều thiệt thòi, hệ lụy cho người
lao động.
 Việc triển khai mục tiêu BHXH đa tầng theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách BHXH
(Nghị quyết số 28) cũng đang gặp vướng mắc do Luật BHXH hiện nay chưa đáp
ứng được yêu cầu đề ra.
 Việc đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong lĩnh vực BHXH mang lại kết
quả tốt nhưng cũng có không ít thách thức trong quản lý đối tượng. 
 Số nợ BHXH vẫn tăng, nhất là số nợ trên 3 năm. Cụ thể: Đến 31/12/2020, tổng số
nợ BHXH là 12.113 tỷ đồng, tăng 2.013 tỷ đồng so với năm 2019 và chiếm 4,4%
so với số phải thu. Trong đó, số chậm đóng khó thu hồi là 2.190 tỷ đồng; số chậm
đóng (1-6 tháng) chiếm 21,18%; số chậm đóng từ 3 năm trở lên chiếm 33,13% và
lãi chậm đóng chiếm 24,9%.
 Một số văn bản hướng dẫn dưới Luật về BHXH, BHTN còn chậm được ban hành
gây khó khăn cho đơn vị thực hiện…

48
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

3.1. Định hướng mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

Đặt mục tiêu đến năm 2030, 60% lực lượng lao động tham gia BHXH

Ngày 2/3/2022, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo lấy ý kiến đối với hồ sơ
trình Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đến
năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Từ định hướng đặt ra tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển
kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030 của đất nước, yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cho thấy sự
cần thiết phải xây dựng Chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn 2045 (sau đây gọi tắt là Chiến lược).

Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Phạm Lương Sơn cho biết, cơ quan
này đã chủ động xây dựng Đề án khoa học "Chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Qua đó, tổng kết lý luận, thực tiễn
xây dựng Tờ trình, dự thảo Quyết định, dự thảo Chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.

Dự thảo Chiến lược mới của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt ra các mục tiêu quan
trọng dưới đây:

 Trước hết, phấn đấu đến năm 2030 đạt 60% lực lượng lao động tham gia bảo
hiểm xã hội, 45% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tỷ lệ tham
gia bảo hiểm y tế đạt 97,1% dân số.
 Phấn đấu đạt 100% thủ tục hành chính được tiếp nhận, giải quyết không phụ
thuộc vào địa giới hành chính; mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
đạt tối thiểu 95%...
 Trong tầm nhìn đến năm 2045, xây dựng Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo
hướng chuyên nghiệp, hiện đại hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Toàn bộ các hoạt
động quản lý, điều hành, phục vụ người dân và doanh nghiệp đều vận hành
trong “Hệ sinh thái số 4.0” (hệ thống công nghệ thông tin có năng lực xử lý tập
trung và tích hợp cao, trên nền tảng công nghệ mới), không phụ thuộc vào địa
bàn hành chính, có thể truy cập mọi nơi, mọi lúc…
Các giải pháp chủ yếu cũng được xây dựng. Theo đó, ngành bảo hiểm xã hội Việt
Nam sẽ chủ động, tích cực tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và phát triển người
tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Đồng thời, đầu tư các quỹ
bảo hiểm theo hướng độc lập, minh bạch, chuyên nghiệp, đa dạng, an toàn, bền vững và
hiệu quả; cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Những nội
dung, hình thức, phương pháp truyền thông cũng cần đổi mới toàn diện; kiện toàn tổ chức

49
bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển
đổi số…

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội

Xuất phát từ những hạn chế, bất cập trong thời gian qua và để hạn chế tình trạng
lạm dụng, trục lợi chế độ BHXH và bội chi quỹ BHYT như hiện nay, BHXH Việt Nam
vừa có kiến nghị Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật hiện hành liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan BHXH, nhất là hoàn thiện chính sách, kiện
toàn tổ chức bộ máy thực hiện thanh tra ngành BHXH.

Về tình trạng hưởng BHXH một lần, đồng chí Nguyễn Văn Cường - Phó Chủ tịch
chuyên trách HĐQL BHXH - đề nghị, cần nghiên cứu, đánh giá kỹ nguyên nhân, từ đó
tham mưu, đề xuất vào quá trình sửa đổi Luật BHXH theo hướng tăng tính hấp dẫn của
chính sách, giúp người tham gia có thể linh hoạt chuyển đổi từ BHXH tự nguyện sang
BHXH bắt buộc.

Từ thực tiễn thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao
động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 thời gian qua, đồng chí Nguyễn Văn Cường
cũng đề nghị, Ban Thực hiện chính sách BHXH cần nghiên cứu để bổ sung các nhóm đối
tượng, các tình huống cần thực hiện hỗ trợ từ quỹ BHXH, BHTN, đặc biệt là các quỹ
thành phần ngắn hạn vào các Luật liên quan sắp được sửa đổi trong thời gian tới, tạo
hành lang pháp lý thuận lợi để triển khai các chính sách hỗ trợ trong tương lai, giúp
quyền lợi người tham gia BHXH, BHTN ngày càng nâng cao, góp phần tăng tính hấp dẫn
của chính sách, mở rộng diện bao phủ.

Trước mắt, với một số tình trạng vi phạm, lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH do Ban
Thực hiện chính sách BHXH nêu, văn phòng HĐQL BHXH tổng hợp để đưa vào nội
dung đề cương giám sát bắt buộc tại các địa phương, từ đó đánh giá, tìm giải pháp khắc
phục triệt để. 

Đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật BHXH với các nội dung: Bổ sung đối
tượng là Chủ hộ kinh doanh cá thể và chủ doanh nghiệp, chủ hợp tác xã thuộc đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc do có nhiều chủ hộ kinh doanh cá thể có nhu cầu tham gia
BHXH bắt buộc nhưng lại không thuộc diện (trong khi những người làm việc trong hộ
kinh doanh cá thể có ký HĐLĐ với chủ hộ kinh doanh cá thể thuộc diện tham gia BHXH
bắt buộc); bổ sung thêm chế độ thai sản và chế độ ốm đau vào chính sách BHXH tự
nguyện trên cơ sở tính toán tỷ lệ đóng và hưởng cho phù hợp; điều chỉnh điều kiện hưởng
chế độ hưu trí BHXH tự nguyện theo hướng giảm dần số năm đóng BHXH tối thiểu để
được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm nhằm tạo
điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia BHXH thấp được tiếp cận và
thụ hưởng quyền lợi BHXH; Điều chỉnh thời gian tham gia BHXH liên tục để hưởng chế
độ thai sản từ đủ 6 tháng lên 12 tháng để khắc phục tình trạng người lao động đăng ký
đóng đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh để hưởng chế độ thai sản…
50
Đối với tình trạng nợ đóng, thực hiện công khai danh sách các doanh nghiệp nợ trên
các phương tiện thông tin đại chúng; tiến hành thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý đối
với các đơn vị có dấu hiệu vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN và thực hiện việc
khởi tố theo quy định của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP ngày
15/08/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; đề xuất chính quyền địa
phương xem xét bố trí nguồn NSNN trả nợ tiền đóng BHXH cho Doanh nghiệp do cơ
quan Nhà nước làm chủ sở hữu.

Tình trạng còn thiếu, chậm trễ trong ban hành các văn bản dưới Luật hướng dẫn
thực hiện chính sách BHXH, BHTN, Hội đồng sẽ rà soát, có kiến nghị cùng tháo gỡ với
các cơ quan liên quan…

3.3. Một số giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội

Thứ nhất, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền.

Công tác thông tin, tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc truyền tải những
thông điệp của chính sách đến đối tượng chịu tác động. Tham gia BHXH là quyền lợi
nhưng cũng là trách nhiệm của người lao động (trách nhiệm đối với chính bản thân và
cộng đồng) và trách nhiệm của người sử dụng lao động với người lao động. Trong hoạt
động tuyên truyền, cần chú trọng nâng cao nhận thức và hiểu biết của người lao động về
chính sách BHXH, bởi đây là yếu tố quan trọng quyết định việc tham gia BHXH.

Trên thực tế, nhiều người lao động chưa có hiểu biết rõ về mức đóng, thời gian
đóng, quyền lợi hưởng… để người lao động dễ hiểu, không cảm thấy do dự vì thời gian
tham gia quá dài. Muốn như vậy cần có ví dụ minh họa về mức đóng và quyền lợi hưởng
cho người lao động; nhấn mạnh nội dung về điều chỉnh tiền lương/thu nhập đã đóng
BHXH và tiền lương hưu hàng tháng trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng.

Thứ hai, xây dựng chính sách BHXH ổn định.

Để người lao động (cả người sử dụng lao động) tự nguyện tham gia BHXH, kể cả ở
hình thức bắt buộc thì “sản phẩm” BHXH phải thực sự hấp dẫn người tham gia, các chế
độ BHXH phải đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro hoặc sự kiện làm
giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động. Hơn nữa, những cam kết của Nhà nước đối
với người tham gia (thông qua chính sách BHXH) phải được thực hiện trong suốt quá
trình tham gia BHXH của người lao động.

Thứ ba, nâng cao chất lượng dịch vụ.

Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều sản phẩm bảo hiểm thương mại cạnh tranh
với sản phẩm BHXH, đáng kể là các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp bởi các doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Mặc dù, các sản phẩm của các DN bảo hiểm nhân thọ cũng
đảm bảo nguồn tài chính cho người tham gia khi gặp rủi ro, góp phần ổn định cuộc sống,

51
nhưng để thực hiện chức năng của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền an sinh cho người
dân, Nhà nước vẫn phải mở rộng phạm vi bao phủ của chính sách BHXH.

Do đó, để thu hút người lao động tham gia BHXH, cần tiếp tục nâng cao chất lượng
dịch vụ như: Thủ tục đăng ký tham gia và hưởng chế độ BHXH phải đơn giản, thuận tiện,
tránh gây phiền hà; cán bộ làm công tác BHXH phải có trình độ chuyên môn, đạo đức
nghề nghiệp, nhiệt tình và có trách nhiệm; thiết lập các kênh thông tin như điện thoại,
internet, email, facebook để tăng tính tương tác với người tham gia (hướng dẫn thủ tục,
trả lời thắc mắc…).

Mặt khác, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thông tin bùng nổ như
hiện nay, những thông tin xấu hoặc không đúng về BHXH lan tràn rất nhanh, nếu không
có biện pháp xử lý kịp thời sẽ làm giảm lòng tin của người dân đối với chính sách
BHXH.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

Nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng trốn đóng BHXH. Để các DN thực thi
đúng pháp luật về BHXH, cần thực hiện các biện pháp như: (i) Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra việc đóng BHXH; (ii) Xử lý nghiêm minh các đối tượng vi phạm pháp
luật về đóng BHXH; (iii) Thông báo về việc đóng BHXH hàng năm đến người lao động
và người sử dụng lao động, hoặc tuyên truyền, hướng dẫn người lao động tra cứu thời
gian đóng BHXH để người lao động giám sát, phát hiện sai phạm kịp thời; (iv) Tăng
cường trách nhiệm của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao
động.

Thứ năm, thay đổi cách thức hỗ trợ cho người cao tuổi, chuyển từ hỗ trợ hưởng
sang hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện.

Hiện nay, người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên thuộc hộ nghèo, từ 80 tuổi trở lên)
không có lương hưu hoặc trợ cấp từ ngân sách nhà nước sẽ được hưởng trợ cấp xã hội
hàng tháng, nguồn trợ cấp từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thực
hiện trợ cấp xã hội cũng gây ra sự bất bình đẳng giữa những người cao tuổi, bởi vì người
được hưởng lương hưu là do họ đã đóng góp/tích lũy trong thời gian làm việc, khi đó họ
không được hưởng trợ cấp xã hội.

Vì vậy, để đảm bảo lương hưu cho mọi người cao tuổi và sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ giữa những người lao động, cần có sự tích hợp giữa chính sách BHXH với các
chính sách xã hội khác, thay vì trợ cấp cho người cao tuổi, thì chuyển sang hỗ trợ đóng
BHXH tự nguyện. Có như vậy mới đảm bảo mọi người cao tuổi đều có lương hưu với
mức hưởng cao hơn mức trợ cấp xã hội hiện nay.

52
KẾT LUẬN

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta góp phần bảo đảm
ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động, ổn định chính trị,
an sinh xã hội thúc đẩy sự mạnh nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, từ khi thành lập nước đến nay, Nhà nước đã quan tâm thường xuyên đến
việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, công chức, quân
nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức
triển khai không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế làm cho đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội tại Việt Nam trong thời gian qua chiếm tỷ lệ còn thấp so với lao động thuộc diện
tham gia. Do đó, việc hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội là hết sức
cần thiết, đòi hỏi sự nỗ lực của các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội và cả hệ
thống chính trị trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại Việt Nam. Sau khi thực
hiện việc nghiên cứu đề tài thảo luận “Liên hệ thực tiễn về thực hiện chính sách bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam”, nhóm 5 đã chỉ ra thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại
Việt Nam, những ưu điểm và hạn chế trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã
hội tại Việt Nam đồng thời nhóm 5 cũng đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện trong
việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.

53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hùng Sơn, Đề án “Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, 2019.
2. Nghị định 01/2016/NĐ - CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
3. Website: https://baohiemxahoi.gov.vn/Pages/default.aspx
4. Phiên họp toàn thể lần thứ 2; Ủy ban Xã hội của Quốc hội; thẩm tra Báo cáo của
Chính phủ về tình hình thực hiện chính sách, chế độ BHXH và quản lý, sử dụng
quỹ BHXH năm 2020. 
5. Website: https://vtc.vn/hd-quan-ly-bhxh-luon-dong-hanh-thao-go-kho-khan-trong-
thuc-hien-chinh-sach-bhxh-ar724217.html
6. Website: https://baodauthau.vn/bhxh-viet-nam-kien-nghi-hoan-thien-chuc-nang-
thanh-kiem-tra-post80686.html 
7. TS. Nguyễn Hải Hữu (2012). Nhập môn an sinh xã hội. Nhà xuất bản lao động -
xã hội, Hà Nội.
8. PGS. TS. Nguyễn Văn Định (2008). Giáo trình an sinh xã hội. Nhà xuất bản đại
học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

54

You might also like