You are on page 1of 8

I.lý luận của C.

mác về sản xuất hàng hóa và hàng hóa 3

1.Sản xuất hàng hóa 3

2.Hàng hóa 4

3.tiền tệ 6

4.Dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt 7

II.Thị trường, các quy luật,vai trò, chức năng của thị trường.Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường

1.Thị trường 8

5.vai trò của các chủ thể tham gia thị trường 11

III.lý luận của c.mác về giá trị thặng dư và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế
thị trường 13

2.lý luận của c.mác về giá trị thặng dư 13

*công thức chung của tư bản

*hàng hóa sức lao động (là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn ct chung tư bản )

*sản xuất giá trị thặng dư

*Tư bản bất biến và Tư bản khả biến

*Tiền công

*Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản

3.các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường 17

IV.Tích lũy tư bản, các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản 19

1.bản chất của tích lũy tư bản 19

2.các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản 19

V.Lý luận về cạnh tranh, đọc quyền. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường 20

1.khái niệm 20

2.mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kt thị trường 20

3.nguyên nhân hình thành và phát triển về độc nhà nước trong CNTB 21
4.bản chất của độc quyền nhà nước trong CNTB 21

5.những biểu hiện chủ yếu của độc quyền nhà nước trong CNTB 21

6.vai trò lịch sử của CNTB (chủ nghĩa tư bản) 22

VI.kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Quan hệ lợi ích kinh tế 23

1.kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 23

2.Quan hệ lợi ích kinh tế 25

VII.cách mạng công nghiệp. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với sự phát triển và phương thức tích
ứng của Việt Nam 26

1.Khái niệm 26

2.vai trò 27

VIII.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tính tất yếu khách quan và nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam 27

1.khái niệm 27

2.Tính tất yếu khách quan 28

3.nội dung 28

IX.Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Nội dung, tính tất yếu khách quan, tác động của hội nhập kinh
tế quốc tế 29

1.khái niệm 29

2.Tính tất yếu khách quan 29

3.nội dung 29

4.Tác động 29

1 số câu hỏi đã được spoil và cách giải

Chìa khóa giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung tư bản

+ Để giải quyết hút khách chung của tư bản trước hết phải nghiên cứu 2 lưu thông sau:-Tiền:là sản vật
cuối cùng trong lưu thông hàng hóa đồng thời cũng là hình thức biểu hiềnđầu tiên của tư bản,bản thân
tiền không phải là tư bản.Tiền trong lưu thông tin hàng hóa đơn giản vận hành theo công thức HTH (1)
còn tiền được coi làtư bản thì vận động theo công thức THT (2).Sự giống và khác nhau giữa 2 công thức
là:Giống nhau:-đều do 2 yếu tố cấu thành nên là hàng và tiền-không chứa 2 hành vi đối lập nhau là mua
và bán.

-Mọi biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán khác nhau.Khác nhau:- lưu thông tin đơn
giản hóađầu= hành vi bán (HT)vàhành vi mua(TH),điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng h óa , tiền chỉ
dóng vai trò trung gian nhưng đích là gía trịapplication.-ngược lại lưu thông tin của tư bản bắt đầu bằng
hành vi mua(TH) và kết thúc bằng hành vi bán(HT), tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc cò n
hàng hóa đóng và ai trò chơi trunggian,

=> tiền trở thành tư bản khi trả lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.Công thức THT' với T'=T+m là công
thức chung của tư bản

=>Điểm khác biệt lớn nhất giữa(1) và (2) là mức tăng lớn của đồng tiền.=>mau sieu chung thức của tư
bản.Mua bán ngang giá.....Mua bán ko ngang giá......

=> lưu thông ko đẻ ra giá trị dư thừa.nhưng nếu người có tiền ko tham gia lưu thông thì cũngko làm cho
tiền của mình lớn lên đc.Vì vậy "giá trị thặng dư không thể xuất hiện từ lưu thông tin cũng như không
thể xuất hiện bên ngoài lưu trữthông. Nhưng nó vẫn lớn lên khi lưu thông tin"

=>mâú chốt để giải quyết vật chất chung của công thức tư bản cần tìm cho thị trường 1 loại hàng hóa
mà việc sử dụng nó tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó,hàng hóa đó là sức lao động.Sức lao
động là cái có trước hàng hóa,còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao độngđó.giống với các
hàng hóa khác,hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính:giá trị và giá trịuse.Hàng hóa sức lao động là
sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con người có thể sử dụng trongqtrinh lao động để tạo ra cải tiến vật
chất.Giá trị sức lao động .........Giá trị sử dụng sức lao động có thể hiện ở quá trình sử dụng (sử dụng)sức
lao đông, tức thời là quátrình lđ để sx ra 1 loại hàng hóa,1 dịch vụ nào đó.Trong quá trình lao động,sức
lđ tạo ra 1lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần gí trị mới đó trôi ra so với giá trị sức
laođộng là giá trị thừa.

=>đó là điểm khác biệt với hàng hóa thông thường vì sau quá trình tiêu dùng hay sd thì cả giávalue hay
gt đều sử dụng biến mất theo tg.

=> Đó là chìa khoá để giải quyết các vật liệu cho công thức của tư bản.

Tại sao nói lao động của ng sản xuất hàng hóa có tính chất 2 mặt

C.Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
 a) Lao động cụ thể
 Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện
riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng.

Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối tượng
lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục: phương
tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn,
cái ghế.

Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể càng nhiều
loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ
thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, các hình
thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của
phân công lao động xã hội. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy, lao động cụ thể
cũng lả phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền với vật phẩm, nó là một điều kiện không thể thiếu
trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao động cụ thể
cũng có thể thay đổi.

Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình
thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức
bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.
         b) Lao động trừu tượng

Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ
thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên
thì chúng chỉ còn có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh
của con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng nhất của con người.

Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý, nhưng không
phải sự hao phí sức lao dộng nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng.

Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hóa, do nục đích của sản xuất là để
trao đổi. Từ đó làm xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau,
không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng nhất có thể trao đổi với
nhau, tức lao động trừu tượng.

Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Nếu không
có sản xuất hàng hóa, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về
lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản
xuất hàng hóa.
Cần lưu ý, ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản
xuất hàng hóa, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao
động trừu tượng.

Nếu lao động cụ thể chỉ là một trong hai nhân tố tạo thành giá trị sử dụng thì lao động trừu
tượng là nhân tô duy nhất tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của mọi hàng hóa chỉ là sự kết
tinh của lao động trừu tượng.

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hỏa có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý
luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự giúp ta giải
thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối
lượng của cá vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống
hay không thay đổi.

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.

Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân.

Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói
chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao
động xã hội.

Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao
động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất. Giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của “sản xuất hàng
hóa”. Mâu thuẫn này biểu hiện ở chỗ:

–   Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp
với nhu cầu của xã hội.

–   Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao
động mà xã hội có thể chấp nhận.

Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn
trong nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận
động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khùng hoảng “sản xuất thừa”.
Bản chất và biểu hiện lợi ích kinh tế ,vai trò lợi ích kt

**biểu hiện

Để tồn tại, phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng như nhu
cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của mình. Lợi ích
có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần.

Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được
nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát triển nhất định của nền
sản xuất xã hội đó.

Trong mỗi điều kiện lịch sử, tùy từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với hoạt động
của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần.  Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại
của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định thúc đẩy
hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội.

** Bản chất

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các
chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế – xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất
quyết định.

Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải được
đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu
cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.

Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền với nhu cầu, song
đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu cầu vật chất). Chỉ có những
nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế. Vì vậy lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu
cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu
hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có được khi tham gia vào các hoạt
động kinh tế – xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình tham gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình.
Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy, lợi ích kinh tế còn là
hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.

Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của
con người.
**Vai trò

Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế – xã hội.

Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu cầu vật
chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của mình. Trong
nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc
vào mức thu nhập. Do đó, thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn các
nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao
thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc biệt của người
dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự
phát triển. Nước độc lập mà dân không hưởng, hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì.

Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi ích chính
đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ với các chủ thể khác
trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất trước hết phụ
thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có được. Tất cả các nhân
tố đó lại là sản phẩm của nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mô và trình độ phát triển của
nền kinh tế. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng
góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động
phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động; chủ
doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng các nhu
cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu
mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng… Tất cả những điều
đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và
nâng cao đời sống của người dân.

Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác.

Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào địa vị của con
người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội, vì vậy để thực hiện được lợi ích của mình các
chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ tư liệu sản xuất. Đó là
cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử – một động lực
quan trọng của tiến bộ xã hội. “…động lực của toàn bộ lịch sử chính là cuộc đấu tranh của
ba giai cấp và những xung đột về lợi ích của họ và trước hết vấn đề lớn đó là ở những lợi ích
kinh tế – để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một
phương tiện đơn thuần”. Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức nào, xét đến
cùng, đều xoay quanh vấn đề lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi
ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội. Lợi ích kinh tế mang tính
khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế – xã hội.

You might also like