You are on page 1of 15

Bài tập thảo luận KTCT: Nhóm 11_ST6

(*)Chủ đề thảo luận: Độc quyền có tác động tích cực đối với nền kinh tế vì sao vẫn
cần kiểm soát độc quyền? Có thể kiểm soát độc quyền thực hiện lợi ích của các tổ chức
này trong quan hệ lợi ích với xã hội bằng những phương pháp nào?

A. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN


1. Thế nào là độc quyền?
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã dự báo rằng:
“Tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích cực và tập trung sản xuất phát
triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền”. Độc quyền là sự liên minh giữa các
doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có
khả năng định ra giá độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Độc quyền sinh ra từ
cạnh tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh mà còn làm
cho cạnh tranh trở nên gay gắt, quyết liệt, đa dạng hơn
Có 3 loại cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền:
*Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc quyền: Các
tổ chức độc quyền thường tìm cách để chi phối, thôn tính các doanh nghiệp ngoài độc quyền
bằng nhiều biện pháp như: độc quyền mua nguyên liệu đầu vào; độc quyền phương tiện vận
tải; độc quyền tín dụng, ... để có thể loại bỏ các chủ thể yếu hơn ra khỏi thị trường.
*Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau: Sự cạnh tranh này mang nhiều hình
thức khác nhau, có thể là cạnh tranh trong cùng một ngành và kết thúc bằng một sự thỏa hiệp
hoặc bằng sự phá sản của một bên cạnh tranh; cũng có thể là cạnh tranh giữa các tổ chức độc
quyền khác ngành có liên quan với nhau về nguồn lực đầu vào.
*Cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền: Những doanh nghiệp tham gia các tổ
chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế trong hệ thống. Các thành
viên trong các tổ chức độc quyền cũng có thể cạnh tranh để chiểm tỉ lệ có phần khống chế, từ
đó chiếm địa vị chi phối và phân chia lợi ích có lợi hơn. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại,
cạnh tranh và độc quyền luôn tồn tại song hành với nhau.
2. Nguyên nhân hình thành độc quyền: Độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân chủ
yếu sau đây: 
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự xuất hiện của tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh
doanh. Điều đó đó nghĩa là các doanh nghiệp phải có vốn lớn mà từng doanh nghiệp khó có
thể đáp ứng được. Vì vậy các doanh nghiệp phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn. 
Thứ hai, cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện
kim mới; các máy móc mới ra đời, như: động cơ diezen, máy phát điện; phát triển những
phương tiện vận tải mới, như: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, tàu hỏa ... Những thành tựu
khoa học kỹ thuật mới xuất hiện này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi
hỏi các doanh nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng
khả năng tích lũy, tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn. 
Thứ ba, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng sự tác động của các quy luật
kinh tế thị trường, như: quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy, tích tụ và tập trung sản
xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn. 
Thứ tư, cạnh tranh gay gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt,
còn các doanh nghiệp lớn tồn tại được nhưng cũng đã bị suy yếu, để tiếp tục phát triển họ phải
tăng cường tích tụ và tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh nghiệp với quy mô
ngày càng to lớn hơn. 
Thứ năm, do cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 làm phá sản hàng loạt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn để có thể tiếp tục phát triển, họ phải thúc đẩy nhanh
quá trình tích tụ và tập trung sản xuất hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn. 
Thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là hình thành
và phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
3. Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường: Tác động của độc quyền dù ở
trình độ độc quyền tư nhân hay độc quyền nhà nước đều thể hiện ở cả mặt tích cực và tiêu
cực. 
3.1.Tác động tích cực: 
a) Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật: Độc quyền là kết quả của quá trình
tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các
nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, khả năng ấy có trở thành
hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là phụ thuộc vào mục đích kinh tế
của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
b) Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của
bản thân tổ chức độc quyền: Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh
nghiệp lớn, độc quyền tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ
thuật, công nghệ sản xuất mới, hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm
tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao được năng lực cạnh tranh trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. 
c) Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng sản xuất lớn, hiện đại:
Với ưu thế được sức mạnh kinh tế to lớn vào mình, nhất là sức mạnh về tàichính, tạo cho
độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng tâm, mũi nhọn thúc đẩy nền kinh
tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại.
3.2. Tác động tiêu cực:
a) Độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo, gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và xã hội: Vì độc quyền là nhà cung cấp duy nhất nên họ có thể đặt bất kỳ giá nào
họ muốn. Đó gọi là ấn định giá. Họ có thể làm điều này bất kể nhu cầu người dùng vì họ biết
người tiêu dùng không có lựa chọn nào khác. Điều này đặc biệt đúng khi nhu cầu không đổi
đối với hàng hóa và dịch vụ. Đó là khi mọi người không có nhiều sự lựa chọn. Xăng là một ví
dụ. Một số lái xe có thể chuyển sang phương tiện giao thông đại chúng hoặc xe đạp, nhưng
hầu hết không thể. Độc quyền không chỉ vừa có thể tăng giá mà lại vừa có thể cung cấp các
sản phẩm kém chất lượng hơn. Độc quyền tạo ra lạm phát. Vì họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ
muốn, họ sẽ tăng chi phí cho người tiêu dùng. Một ví dụ điển hình về cách thức hoạt động của
nó là Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ. 12 quốc gia xuất khẩu dầu trong OPEC hiện kiểm
soát giá 46% lượng dầu sản xuất trên thế giới.
b) Độc quyền có thể làm kìm hãm sự tiến bộ kĩ thuật dẫn đến kìm hãm kinh tế, xã
hội: Độc quyền khiến doanh nghiệp mất mọi động lực để đổi mới hoặc cung cấp các sản
phẩm "mới và cải tiến". Một nghiên cứu năm 2017 của Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia cho
thấy các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đầu tư ít hơn dự kiến kể từ năm 2000 do sự cạnh tranh giảm
sút. Điều đó đúng với các công ty cáp cho đến khi các ăng-ten đĩa vệ tinh và dịch vụ phát trực
tuyến phá vỡ sự nắm giữ của họ trên thị trường.
c) Độc quyền làm tăng sự phân hóa giàu nghèo: Khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi
nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi độc quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội sẽ gây ra
hiện tượng làm tăng sự phân hóa giàu nghèo. Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục
đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền có khả năng và không ngừng bành trướng sang các
lĩnh vực chính trị, xã hội, kết hợp với các nhân viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích
nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà nước hình thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ,
đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia, vì lợi ích của các tổ chức độc quyền, không vì lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động.
B. THỰC TRẠNG ĐỘC QUYỀN, VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN VÀ ĐỀ RA
CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN
1. Thực trạng độc quyền ở nước ta:
Hiện nay sự độc quyền ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước. Việc độc quyền
nhà nước này là do ở các công ty tư nhân, họ chưa có quyền lực về kinh tế để chiếm vị trí độc
quyền trong các ngành kinh tế chính. Cùng với quá trình mở cửa của thị trường thông qua
việc ký kết và gia nhập các hiệp định song song đa phương, do đó xuất hiện các công ty đa
quốc gia hoạt động tại Việt Nam, với sức mạnh kinh tế của mình, các công ty này dễ dàng
chiếm lĩnh thị trường. Thêm vào đó, ở nước ta, có sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác,
giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh
nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư,
thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ, .. khi đó các công ty nhỏ, doanh nghiệp, thương hiệu nội
địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế thì đang dần bị loại bỏ khỏi nền kinh tế hoặc bị thu mua
bởi các công ty, tập đoàn lớn hơn.
Sự độc quyền tự nhiên về các ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến
chiến lược phát triển kinh tế của đất nước như: điện, nước, dầu khí, đặc biệt chỉ có doanh
nghiệp nhà nước được phép hoạt động. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép
kín vừa thực hiện các khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối nên vì thế các tổng công ty có thể
đưa ra những mức giá chung cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm để thu được lợi
nhuận siêu ngạch cao.
Ngoài ra, trong thời gian qua, một số chính sách kinh tế cũng là nguyên nhân tạo ra sự
độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách thành lập các tập đoàn và tổng
công ty dựa trên việc sát lập các công ty nhỏ hoạt động cùng ngành lại với nhau. Sự thành lập
các tập đoàn kinh tế theo quyết định của nhà nước gây nên sự tập trung thị trường, giảm bớt
đối thủ cạnh tranh và tăng khả năng chi phối độc quyền thị trường. Độc quyền đang ngày
càng trở nên phổ biến, hiện hữu ngày càng nhiều trong nền kinh tế nước nhà. Tuy độc quyền
đem lại tác động tích cực, nhưng không vì thế mà chúng ta không thực hiện việc kiểm soát
độc quyền.
2. Vì sao cần kiểm soát vấn đề độc quyền?
Mọi vấn đề đều có hai mặt trái ngược nhau và độc quyền trong kinh doanh cũng vậy.
Bên cạnh những mặt tích cực như tạo ra các tiềm năng to lớn trong nghiên cứu, tiến bộ khoa
học kỹ thuật, tăng năng suất lao động của người làm việc và thúc đẩy kinh tế phát triển thì vẫn
còn tồn tại những vấn đề tiêu cực khác. Cạnh tranh không lành mạnh, tăng phân hóa giàu
nghèo hay kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đều là những hệ lụy của độc quyền. Do đó cần có sự
kiểm soát độc quyền, đặc biệt từ phía nhà nước.
Nhà nước đã tạo ra pháp luật cạnh tranh trong cơ chế thị trường nhằm kiểm soát cạnh
tranh không lành mạnh. Vì đây là lĩnh vực có sự tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do lập
hội. Do đó ngay khi sự tự do này vượt quá giới hạn của chúng thì sẽ có sự can thiệp của pháp
luật. Mục đích chủ yếu của pháp luật cạnh tranh là ngăn cản, xử lý, nghiêm cấm những hành
vi cạnh tranh không lành mạnh, trái với đạo đức và pháp luật. Ngoài ra pháp luật cạnh tranh
còn góp phần: Đảm bảo, thúc đẩysự bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các tổ chức, cá
nhân kinh doanh; bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh; ngăn chặn các hành vi hạn
chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường; bảo vệ lợi ích công cộng hay
cộng đồng mà Nhà nước là người đại diện, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và
của người tiêu dùng.
Cạnh tranh trong thị trường có liên quan cũng như ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề độc
quyền. Sự tự do trong kinh doanh bao gồm cả tự do cạnh tranh dẫn đến việc các doanh nghiệp
sẽ cố gắng cạnh tranh lẫn nhau để đem lại lợi nhuận tối ưu nhất. Vì thế họ cố gắng tăng cường
và tập trung sản xuất hoặc có thể xảy ra các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh
hưởng đến quyền của các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác, xa hơn là gây thiệt hại cho nền
kinh tế. Từ đó độc quyền sẽ xuất hiện không những không thủ tiêu cạnh tranh mà còn khiến
nó trở nên đa dạng gay gắt hơn.
Khác với cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền còn gây ra những hậu quả nghiêm
trọng hơn. Không chỉ dừng lại ảnh hưởng quyền và lợi ích của những chủ thể khác, hành vi
dàn xếp, thỏa thuận, liên kết nhằm độc quyền hóa, thủ tiêu cạnh tranh gây ra những hậu quả
nghiêm trọng hơn rất nhiều lần. Chúng vừa phá vỡ, thay đổi trật tự, cơ cấu của những lĩnh
vực, thị trường,những mảng kinh doanh nhất định vừa ảnh hưởng trực tiếp đến những chủ thể
kinh doanh, người tiêu dùng và nền kinh tế.
Độc quyền một lĩnh vực, ngành hàng trong thời gian lâu dài không những đem lại
lượng lợi nhuận khổng lồ mà còn hình thành nên những cá nhân tổ chức với khối tài sản lớn
ảnh hưởng, chi phối nền kinh tế, chính trị. Quyền lực chia năm xẻ bảy giữa Nhà nước và tư
bản. Lâu dần dễ hình thành các cá nhân, tổ chức lạm quyền, lợi dụng việc công cho mục đích
riêng để đem lại lợi ích, giàu có cho bản thân. Khoảng cách giàu nghèo xảy ra đậm nét hơn,
ảnh hưởng đến sự phát triển của cả đất nước.
Do đó mục đích của pháp luật trong việc kiểm soát độc quyền là chống độc quyền hóa
(ngăn cản những đối thủ khác tham gia thị trường), hạn chế hay thủ tiêu cạnh tranh. Vì cạnh
tranh là động lực thúc đẩy cho sự tiến lên của nền kinh tế. Có thể hiểu rằng kiểm soát độc
quyền từ phía các cá nhân, tổ chức nhằm đem lại lợi cho bản thân là hoàn toàn nghiêm cấm.
Tuy nhiên mục đích của pháp luật không hoàn toàn ngăn cản việc độc quyền nó chỉ
ngăn cấm những toan tính mong muốn độc quyền hóa. Một số lĩnh vực tối ưu, liên quan đến
quyền lợi người tiêu dùng, cần thiết, ảnh hưởng đến quân sự, an ninh quốc gia,... thì vẫn cho
phép duy trì trạng thái độc quyền dưới sự kiểm soát, quản lý của Nhà nước. 
3. Kiểm soát độc quyền như thế nào? 
Để kiểm soát độc quyền, người ta đề xuất 4 phương thức chính: 
Phương thức thứ nhất , để kiểm soát việc độc quyền thì cần phải tiếp tục đổi mới nhận
thức về cạnh tranh, phải thống nhất quan điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh
tế đối với thị trường nước ta. Theo đó nên coi cạnh tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp thức
là động lực của sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định
một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh
nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà nước độc quyền
kinh doanh để có thể tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát triển kinh tế. Để làm được
như vậy cần có những chính sách để thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà
nước, giảm thiểu đi sự độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước, các rào cản đối với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm giảm giá thành sản
xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư
nước ngoài. Bên cạnh đó có thể giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia.
Phương thức thứ hai , cần đề ra quy định hợp lý để có thể cải tổ pháp luật về cạnh tranh để
cho cơ chế cạnh tranh được vận hành một cách thuần thục nhất và cần hạn chế những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Tạo các điều kiện gia nhập và rút lui khỏi thị
trường để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia sản xuất kinh doanh. Theo đó thì vấn đề việc
hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các khu vực kinh tế
khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh tranh cần phải sửa đổi từ quy trình
ban hành pháp luật. 
Phương thức thứ ba , tiến hành thực hiện xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi,
giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền vì điều đó sẽ làm giảm đi sự cạnh
tranh nên nền kinh tế rất có thể sẽ bị đi xuống vì không có động lực. Theo đó cần soát lại và
hạn chế bớt số lượng các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn. Nhà
nước cần giám sát chặt chẽ hơn các hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp lớn để cho những
doanh nghiệp khác cũng có cơ hội phát triển đồng đều. Cần phải đổi mới chế độ chứng từ, kế
toán kiểm toán để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát tài chính của các doanh
nghiệp. 
Phương thức thứ tư, đó là cần thực hiện những kế hoạch cải thiện môi trường thông tin và
pháp luật theo hướng minh bạch và kịp thời hơn, bên cạnh đó cũng phải nhanh chóng cải cách
thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh.
Như vậy từ những giải pháp chúng tôi đề ra như trên có thể thấy để kiểm soát tốt hơn tình
trạng độc quyền hiện nay của các doanh nghiệp trên thị trường phải kết hợp rất nhiều yếu tố
và nội dung dựa trên quy định của pháp luật để có thể thực hiện đẩy mạnh cạnh tranh lành
mạnh theo đó thị trường mới có những bước tiến mới. Những giải pháp trên đây mang tính
chất đề ra những hướng tích cực trong kiểm soát độc quyền, bởi nếu lạm dụng việc độc quyền
thì sẽ gây ra những hậu quả rất lớn cho nền kinh tế.
C. ĐỀ XUẤT PHƯƠNG THỨC CHO NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI VÀ LIÊN HỆ
THỰC TIỄN:
1. Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền và các doanh nghiệp ngoài độc quyền
Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối thôn tính các xí nghiệp ngoài độc
quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công, phương
tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống… để đánh bại đối thủ.
* Hạn chế:
- Các tổ chức độc quyền chèn ép dẫn đến việc các xí nghiệp ngoài độc quyền phá sản
- Giá cả hàng hóa tăng cao, gây khó khăn cho người tiêu dùng
* Giải pháp:
- Nhà nước cần có những chính sách đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và điều tiết nền
kinh tế như ban hành luật bảo vệ người tiêu dùng, áp giá trần cho hàng hóa dịch vụ, chính
sách thuế, …, đồng thời, xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm
2. Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau
a. Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền cùng ngành
Trong cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền cùng ngành, đối thủ cạnh tranh chính là
các doanh nghiệp cùng bán sản phẩm có tính thay thế sản phẩm của ta trong thị trường. Và để
có thể loại bỏ các đối thủ cạnh tranh cùng ngành, đồng thời có được chỗ đứng vững chắc trên
thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một trong những yếu tố góp phần cực kì
to lớn. Năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì, mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Khả năng
đó được tạo bởi năng lực cạnh tranh của sản phẩm, kênh phân phối, tài chính, uy tín, thương
hiệu, … Năng lực cạnh tranh của sản phẩm sẽ được quyết định bởi các yếu tố chiến lược của
sản phấm, giá cả, sự đa dạng về chủng loại mẫu mã của sản phẩm. 
* Lợi thế:
- Nếu doanh nghiệp theo chiến lược cạnh tranh chi phí thấp thì doanh nghiệp sẽ đạt được lợi
thế cạnh tranh là giá sản phẩm rẻ hơn so với đối thủ. Từ đó, có thể làm giảm tối đa chi phí cho
người tiêu dùng.
- Sản xuất một mặt hàng nhiều lần giúp cải tiến quy trình làm việc, nhân sự thành thạo, nâng
cao tay nghề, năng cao năng suất sản phẩm.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động, tái cấu trúc hệ thống tổ chức đã triển khai. 
* Hạn chế:
- Các doanh nghiệp chạy theo giá thị trường, tăng việc sử dụng sản phẩm giá rẻ dẫn đến thị
trường xuất hiện nhiều sản phẩm không đạt yêu cầu.
*Giải pháp:
- Các doanh nghiệp cần thay đổi cách quản lí theo hướng tích cực, thay đổi các yếu tố như:
nguyên liệu, kĩ thuật, dịch vụ đi kèm, kiểu dáng, ...
- Tìm hiểu thông tin đối thủ cạnh tranh, biết được điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ để đề ra
các phương thức cạnh tranh phù hợp
b. Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành
Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác nghành chính là sự cạnh tranh có liên quan
đến nguồn nguyên liệu, kỹ thuật, …
* Lợi thế:
- Sản phẩm tạo ra thuộc quyền sở hữu cá nhân
- Tránh việc sao chép sản phẩm từ đối thủ cạnh tranh
- Làm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm
* Hạn chế:
- Sự cạnh tranh mua nguyên vật liệu đầu vào sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến mất cân
bằng giá cả thị trường
- Một số doanh nghiệp ưu lợi nhuận sẽ mua nguyên vật liệu với giả thành rẻ, không rõ xuất
xứ, làm giảm chất lượng sản phẩm, tạo nên một nền thị trường kém chất lượng
* Giải pháp:
- Thực hiện các giải pháp giúp nâng cao năng lực cạnh trạnh của các ngành
- Nhà nước tạo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và thức
hiện nghiêm túc các chính sách giá cả trên thị trường
- Cạnh tranh lành mạnh tạo động lực để mỗi doanh nghiệp tự vươn lên, hợp tác để tạo sức
mạnh, nâng cao năng lực chung của hệ thống doanh nghiệp.
c. Cạnh tranh nội bộ các tổ chức độc quyền
Các nhà tư bản tham gia độc quyền cùng ngành cạnh tranh với nhau để giành thị trường
tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn, các thành viên của tổ chức cạnh tranh giành
lấy cổ phiếu/cổ phần để chiếm địa vị lãnh đạo và được chia lợi nhuận cao hơn.Vì vậy mỗi nhà
quản lý, nhà tư bản cần duy trì tính công bằng, tích cực và lành mạnh của cạnh tranh.
* Lợi ích:
- Thúc đẩy sự đổi mới và tiến bộ
- Tăng tinh thần trách nhiệm và tạo động lực làm việc, từ đó tăng chất lượng nguồn nhân lực
- Đẩy mạnh năng suất và tăng lợi nhuận chung
* Hạn chế:
- Gây căng thẳng, tạo mâu thuẫn nội bộ
- Tự gây hại, loại bỏ lẫn nhau vì lợi ích riêng
- Giảm niềm tin, tính đoàn kết
* Giải pháp:
- Các nhà quản lý doanh nghiệp cần thu thập quan điểm các bên liên quan.
- Tìm ra nguyên nhân, nguồn gốc của vấn đề, từ đó đưa ra hướng giải quyết phù hợp
- Thấu hiểu, công bằng với các bên liên quan; tổ chức các buổi trao đổi, hội họp để tất cả
đều được phát biểu ý kiến, nêu lên quan điểm
d.Ví dụ: Ta có thể thấy thị trường smartphone hiện nay là thị trường độc quyền tập đoàn
Thứ nhất, số lượng các hãng sản xuất ít nên dẫn đến tỉ phần thị trường lớn. Chẳng hạn
như trong năm 2013 doanh số smartphone Android chiếm đến 793,6 triệu đơn vị, nắmm đến
78,6% thị trường hệ điều hành cho smartphone. Apple iOS tiếp tục đứng ở vị trí thứ hai với
15,2% thị phần, doanh số 153,4 triệu iPhone bán ra.
Thứ hai, các loại sản phẩm đều có đặc điểm sản phẩm riêng biệt để phân biệt với sản phẩm
khác, nhưng cũng có 1 vài đặc điểm giống nhau dẫn đến sự thay thế cho nhau. Ví dụ như
chiếc Iphone 5 có rất nhiều ứng dụng riêng biệt chẳng hạn như cảm biến vân tay tuy nhiên
nếu chỉ xét về khả năng nghe, gọi, nghe nhạc thông thường thì có rất nhiều sản phẩm khác có
thể thay thế cho nó. Samsung galaxy note 3 ấn tượng với kiểu dáng đẹp, mỏng hơn cùng với
thiết kế nắp lưng giống như một cuốn số, được trang bị thêm nhiều tính năng mới, đặc biệt về
đa nhiệm và bút cảm ứng S Pen so với đời trước. Theo đó, 5 triệu Galaxy Note 3 được bán ra
trong gần một tháng Đây là kết quả ấn tượng đối với một smartphone màn hình lớn 5,7 inch,
nhất là khi trước đó, Galaxy Note II cần đến 2 tháng để đạt được thành tích tương tự. Đây là
kết quả ấn tượng đối với một smartphone màn hình lớn 5,7 inch, nhất là khi trước đó, Galaxy
Note II cần đến 2 tháng để đạt được thành tích tương tự.
Thứ ba, về sức mạnh thị trường, điều này thể hiện rất rõ trên những sản phẩm chiếm tỉ
phần lớn. Ví dụ là đối với Iphone, khi 1 dòng mới ra đời nhà sản xuất thường ấn định rất cao
nhưng chỉ sau 1 thời gian ngắn thì giá lại giảm, và sự thay đổi này đều dẫn đến ảnh hưởng khá
lớn của thị trường. Ví dụ như Iphone 4, 4s giá khởi điểm sẽ bán ở Việt Nam đao động từ 20-
25 triệu, sau 3 tháng thì giá giảm xuống khoảng 10-15 triệu, sau 1 năm còn 12-13 triệu, sau 3
năm chỉ còn 6-7 triệu.
Thứ tư, về sự thâm nhập thị trường, do thị trường đã có sự chi phối bởi các nhà sản xuất
lớn bởi vậy, sự thâm nhập vào thị trường là tương đ`ối khó khăn nếu sản phẩm không có đủ
sự khác biệt và giá cả phù hợp so với sản phẩm trên thị trường. Đồng thời do sự quyết định.
lượng cung ứng và giá cả của các hãng phụ thuộc vào nhau nên việc một hãng mới thâm nhập
vào cũng khó hơn.
Cuối cùng là các sản phẩm có tính dị biệt hóa bởi vậy nên các hãng sản xuất cạnh tranh
phi giá cả, tuy nhiên đối với các loại sản phẩm thông thường, không có tính dị biệt hóa cao thì
cạnh tranh vẫn phải thông qua giá cả.

1. Trình bày sơ lược sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị. Kinh tế chính
trị Mác – Lênin đã kế thừa lịch sử tư tưởng kinh tế như thế nào?

Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại, có nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về
kinh tế khác nhau, song khoa học kinh tế nói chung và KTCT đều có điểm chung là kết quả
của quá trình không ngừng hoàn thiện.

Quá trình phát triển của khoa học KTCT được chia thành các giai đoạn sau:

Giai đoạn thứ nhất, từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII: Thời kì cổ, trung đại của lịch
sử nhân loại, do trình độ phát triển của các nền sản xuất còn lạc hậu. Nên nhìn chung, chưa
tạo những tiền đề cho sự xuất hiện mang tính chất chín muồi các lý luận chuyên về kinh tế.

- Chủ nghĩa trọng thương: là hệ thống lý luận KTCT đầu tiên nghiên cứu về nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó đặc biệt coi trọng vai trò của hoạt động thương mại,
đặc biệt là ngoại thương.
- Chủ nghĩa trọng nông: là hệ thống lý luận KTCT nhấn mạnh vai trò của sản xuất
nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế. Mặt hạn chế của chủ nghĩa
trọng nông là khẳng định chỉ có nông nghiệp mới là sản xuất.
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh: ra đời cuối thế kỷ XVIII, là hệ thống lý luận kinh tế
của các nhà kinh tế tư sản trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong
nền kinh tế thị trường như hàng hóa, giá trị, tiền tệ... để rút ra những quy luật kinh
tế.

Giai đoạn thứ hai, từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay.

- Lý thuyết KTCT của C.Mác (1818-1883): kế thừa trực tiếp những giá trị khoa học
của KTCT tư sản cổ điển Anh. C.Mác đã xây dựng hệ thống lý luận KTCT một cách
khoa học, toàn diện. Lý luận KTCT của C.Mác được khái quát thành các học thuyết
lớn như giá trị thặng dư, học thuyết tích lũy,...
- Sau sự qua đời của C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển lý
luận KTCT và có nhiều đóng góp lớn. Nổi bật là nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm
kinh tế của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những vấn đề KTCT
cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH. Dòng lý thuyết KTCT này được định danh
với tên gọi Mác – Lênin.
- Các Đảng Cộng sản tiếp tục nghiên cứu và bổ sung, phát triển KTCT Mác – Lênin
cho đến ngày nay.
 Kinh tế chính trị Mác – Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính trị
nằm trong dòng chảy phát triển tư tưởng kinh tế của nhân loại, được hình thành
và đặt nền móng bởi C.Mác – Ph.Ănghen, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển
những giá trị khoa học KTCT tư sản cổ điển Anh. KTCT Mác – Lênin có quá
trình phát triển liên tục kể từ giữa thế kỷ XIX đến nay.

2. Nêu khái niệm sản xuất hàng hóa và phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa? Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa đối với việc xây dựng lý luận giá trị lao động của C.Mác?
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán, hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói một cách khác, sản xuất
hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa ra đời là
bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài người. Nó giúp làm xóa bỏ nền
kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và làm nâng cao hiệu quả
kinh tế của xã hội.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Trong đó, giá trị sử dụng của
hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Còn giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Hai
thuộc tính này do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng
hóa. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản xuất
hàng hóa, C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt
trừu tượng của lao động.
*Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đối với
việc xây dựng lý luận giá trị lao động của C.Mác.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.
- Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân.
- Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói
chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao
động xã hội.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao
động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất. Giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của "sản xuất hàng
hóa". Mâu thuẫn này biểu hiện ở chỗ:
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với
nhu cầu của xã hội.
- Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động
mà xã hội có thể chấp nhận.
- Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong
nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động
phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khùng hoảng "sản xuất thừa".
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của người sản xuất hàng hóa riêng biệt
có thể không khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã hội hoặc hao phí lao động cá
biệt của người sản xuất hàng hóa có thể cao hơn hoặc thấp hơn hao phí lao động mà xã
hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động
phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn về mặt
lý luận, đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sơ khoa học thực sự giúp ta giải thích
được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng
của cả vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay
không thay đổi
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất
xã hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản
xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động
của họ vì vậy có tính chất tư nhân.
- Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phi sức lực
nổi chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội
thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động triều tượng là
biểu hiện của lao động xã hội.

3. Phân tích những ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường? Vì sao nền kinh
tế thị trường cần phải có sự điều tiết của nhà nước?

a. Ưu thế của nền kinh tế thị trường

- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sức sáng tạo của các chủ thể
kinh tế.
- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng
miền cũng như lợi thế quốc gia.
- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu
của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
b. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường

- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro khủng khoảng.
- Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục những tài nguyên không thể tái
tạo,suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khác phục được những hiện tượng phân hóa sâu
sắc trong xã hội.

c. Nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều tiết của nhà nước vì

- Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối,
do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng.
- Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài
nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các thủ thể sản xuất kinh
doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức đề chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí
phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội.
Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh tế thị trường.
- Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham
gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất
yếu.
 Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một nền
kinh tế thị trường thuần túy và nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục những
khuyết điểm của nó mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất
bại của cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước.

4. Phân tích sự chuyển hóa tiền thành tư bản và ý nghĩa của việc phát hiện ra hàng
hóa sức lao động trong việc giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản?

a. Công thức chung của tư bản 


- Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thái xuất hiện đầu
tiên của tư bản.
- Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H – T – H. Tiền
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức: T – H – T’.
* So sánh hai công thức: 
- Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi hai yếu tố
hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ
kinh tế giữa người mua và người bán.
- Điểm khác nhau giữa hai công thức đó là: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng
hành vi bán (H – T) và kết thúc bằng hành vi mua (T – H); điểm xuất phát và điểm kết thúc
đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng. Ngược lại, lưu
thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T – H) và kết thúc bằng hành vi bán (H – T’);
tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian…Mục
đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn. Tư bản vận động theo công thức T-H-
T’
Trong đó:
T’ = T + AT; AT là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thăng dư và ký hiệu bằng m.
-Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản. Như vậy,
tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Công
thức:T – H – T’ với T’ = T + m
- Được gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mục
đích mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.
* Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản 
Số tiền trội hơn (AT) hay giá trị thặng dư (m) sinh ra từ đâu?
Thoạt nhìn, hình như giá trị thặng dư sinh ra trong lưu thông. Vậy có phải do bản chất
của sự lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và do đó hình thành giá trị thặng dư hay không?
Nếu mua – bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị: từ tiền thành hàng
hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau
vẫn không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có thể bán cao hơn
hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là
người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua hoặc
ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội
cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu được chẳng qua chỉ là sự ăn
chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi.
Như vậy lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị. Nhưng
nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông thì cũng không
thể làm cho tiền của mình lớn lên được.
“Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên
ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. C.Mác là người đầu tiên phân tích và
giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa sức lao động.
b. Hàng hóa sức lao động
* Sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa 
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường một
loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị
của bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người
và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động.
Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở thành
hàng hóa khi có hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động
của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người  lao  động  không có   tư liệu   sản  xuất  cần thiết   để tự  mình  đứng
ra    tổ chức  sản  xuất  nên muốn   sống  chỉ  còn cách bán    sức  lao  động  cho người khác
sử dụng.
Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế
độ nô lệ và phong kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động với người
sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản – chế độ được xây dựng trên sự đối
kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.
* Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động 
Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và
giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ
các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của
công nhân làm thuê và gia đình họ.
Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm cả
yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời
kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp
công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức
lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó.
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.

5. Trình bày cơ sở phân chia các cặp phạm trù tư bản cố định – tư bản lưu động; tư
bản bất biến – tư bản khả biến? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?

a. Thế nào tư bản bất biến và Tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản lưu động:
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
- Bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhiên
liệu, nguyên liệu, vật liệu phụ...) mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vào sản
phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất là Tư bản bất biến (ký
hiệu là c).
- Bộ phận Tư bản dùng để mua sức lao động mà trong quá trình sản xuất không những
nó tái sản xuất ra giá trị sức lao động mà còn sản xuất ra giá trị thặng dư. Nghĩa là bộ phận Tư
bản này có sự thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là Tư bản khả biến (ký hiệu là v)
* Cơ sở phân chia: Nhờ vào tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
+ Lao động cụ thể: bảo tồn và chuyển dịch giá tị của TLSX
+ Lao động trừu tượng: tạo ra giá trị mới.
* Tư bản cố định và Tư bản lưu động.
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản mà trong quá trình sản xuất chuyển dần giá trị làm
nhiều lần vào sản phẩm mới như nhà xưởng, máy móc, thiết bị...
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản mà trong quá trình sản xuất chuyển một lần toàn
bộ giá trị vào sản phẩm mới như nguyên liệu, nhiên liệu và tiền lương
- Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần,
có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị sử dụng. Do quá trình sử dụng
và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của Tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới
chỗ phải thay thế.
Hao mòn vô hình là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra khi máy
móc còn tốt nhưng bị mất giá cả vì xuất hiện máy móc hiện đại hơn, công suất cao hơn những
lại rẻ hơn hoặc giá trị tương đương.
Để khôi phục tư bản cố định, nhà tư bản lập quỹ khấu hao. Sau mỗi thời kỳ bán hàng
hoá, họ trích ra một số tiền bằng mức độ hao mòn tư bản cố định bỏ vào quỹ khấu hao (một
phần được dùng vào sửa chữa cơ bản, một phần gửi Ngân hàng chờ đến kỳ mua máy mới)
b. Căn cứ và ý nghĩa phân chia hai cặp phạm trù đó.
- Chia tư bản ra làm tư bản bất biến và tư bản khả biến là công lao vĩ đại của Mác. Sự
phân chia ấy đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra.
Sự phân chia đó cho thấy vai trò của mỗi bộ phận tư bản trong việc tạo ra gái trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa C+V+M
- Các nhà kinh tế học tư sản không thừa nhận sự phân chia đó, học chia tư bản thành tư
bản cố định và tư bản lưu động. Chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động sẽ che
đậy nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư. Vì đem giá trị mua sức lao động và giá trị mua
nguyên liệu, nhiên liệu đưa vào một khái niệm tư bản lưu động sẽ làm lu mờ tác dụng đặc biệt
của yếu tố sức lao động trong việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Chỉ khi nào khảo sát sự
khác nhau của các bộ phận tư bản về phương hướng chuyển dịch giá trị thì Mác mới chia tư
bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động để trong quản lý sản xuất cần có các biện pháp
chống hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình, còn khi khảo sát tác dụng khác nhau của các bộ
phận tư bản trong quá trình tăng thêm giá trị thì chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến.

You might also like