Professional Documents
Culture Documents
(*)Chủ đề thảo luận: Độc quyền có tác động tích cực đối với nền kinh tế vì sao vẫn
cần kiểm soát độc quyền? Có thể kiểm soát độc quyền thực hiện lợi ích của các tổ chức
này trong quan hệ lợi ích với xã hội bằng những phương pháp nào?
1. Trình bày sơ lược sự hình thành và phát triển của kinh tế chính trị. Kinh tế chính
trị Mác – Lênin đã kế thừa lịch sử tư tưởng kinh tế như thế nào?
Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại, có nhiều tư tưởng, trường phái lý luận về
kinh tế khác nhau, song khoa học kinh tế nói chung và KTCT đều có điểm chung là kết quả
của quá trình không ngừng hoàn thiện.
Quá trình phát triển của khoa học KTCT được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất, từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII: Thời kì cổ, trung đại của lịch
sử nhân loại, do trình độ phát triển của các nền sản xuất còn lạc hậu. Nên nhìn chung, chưa
tạo những tiền đề cho sự xuất hiện mang tính chất chín muồi các lý luận chuyên về kinh tế.
- Chủ nghĩa trọng thương: là hệ thống lý luận KTCT đầu tiên nghiên cứu về nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó đặc biệt coi trọng vai trò của hoạt động thương mại,
đặc biệt là ngoại thương.
- Chủ nghĩa trọng nông: là hệ thống lý luận KTCT nhấn mạnh vai trò của sản xuất
nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế. Mặt hạn chế của chủ nghĩa
trọng nông là khẳng định chỉ có nông nghiệp mới là sản xuất.
- Kinh tế chính trị cổ điển Anh: ra đời cuối thế kỷ XVIII, là hệ thống lý luận kinh tế
của các nhà kinh tế tư sản trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong
nền kinh tế thị trường như hàng hóa, giá trị, tiền tệ... để rút ra những quy luật kinh
tế.
Giai đoạn thứ hai, từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay.
- Lý thuyết KTCT của C.Mác (1818-1883): kế thừa trực tiếp những giá trị khoa học
của KTCT tư sản cổ điển Anh. C.Mác đã xây dựng hệ thống lý luận KTCT một cách
khoa học, toàn diện. Lý luận KTCT của C.Mác được khái quát thành các học thuyết
lớn như giá trị thặng dư, học thuyết tích lũy,...
- Sau sự qua đời của C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển lý
luận KTCT và có nhiều đóng góp lớn. Nổi bật là nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm
kinh tế của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những vấn đề KTCT
cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH. Dòng lý thuyết KTCT này được định danh
với tên gọi Mác – Lênin.
- Các Đảng Cộng sản tiếp tục nghiên cứu và bổ sung, phát triển KTCT Mác – Lênin
cho đến ngày nay.
Kinh tế chính trị Mác – Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính trị
nằm trong dòng chảy phát triển tư tưởng kinh tế của nhân loại, được hình thành
và đặt nền móng bởi C.Mác – Ph.Ănghen, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển
những giá trị khoa học KTCT tư sản cổ điển Anh. KTCT Mác – Lênin có quá
trình phát triển liên tục kể từ giữa thế kỷ XIX đến nay.
2. Nêu khái niệm sản xuất hàng hóa và phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa? Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa đối với việc xây dựng lý luận giá trị lao động của C.Mác?
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán, hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
- Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói một cách khác, sản xuất
hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa ra đời là
bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài người. Nó giúp làm xóa bỏ nền
kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và làm nâng cao hiệu quả
kinh tế của xã hội.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Trong đó, giá trị sử dụng của
hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Còn giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Hai
thuộc tính này do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính
tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng
hóa. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản xuất
hàng hóa, C.Mác phát hiện ra rằng, sở dĩ hàng hóa có tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt
trừu tượng của lao động.
*Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa đối với
việc xây dựng lý luận giá trị lao động của C.Mác.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của người sản xuất hàng hóa.
- Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi
người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân.
- Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói
chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao
động xã hội.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội không phải là hai lao
động khác nhau, mà chỉ là hai mặt đối lập của một lao động thống nhất. Giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của "sản xuất hàng
hóa". Mâu thuẫn này biểu hiện ở chỗ:
- Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với
nhu cầu của xã hội.
- Hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động
mà xã hội có thể chấp nhận.
- Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong
nền sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động
phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khùng hoảng "sản xuất thừa".
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân và tính chất xã hội
của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của người sản xuất hàng hóa riêng biệt
có thể không khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã hội hoặc hao phí lao động cá
biệt của người sản xuất hàng hóa có thể cao hơn hoặc thấp hơn hao phí lao động mà xã
hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động
phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất to lớn về mặt
lý luận, đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sơ khoa học thực sự giúp ta giải thích
được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược khi khối lượng
của cả vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay
không thay đổi
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất
xã hội của người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất cái gì và sản
xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động
của họ vì vậy có tính chất tư nhân.
- Đồng thời, lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phi sức lực
nổi chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội
thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động triều tượng là
biểu hiện của lao động xã hội.
3. Phân tích những ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường? Vì sao nền kinh
tế thị trường cần phải có sự điều tiết của nhà nước?
- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sức sáng tạo của các chủ thể
kinh tế.
- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng
miền cũng như lợi thế quốc gia.
- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu
của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
b. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn rủi ro khủng khoảng.
- Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục những tài nguyên không thể tái
tạo,suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khác phục được những hiện tượng phân hóa sâu
sắc trong xã hội.
c. Nền kinh tế thị trường cần phải có sự điều tiết của nhà nước vì
- Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối,
do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng.
- Do phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài
nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các thủ thể sản xuất kinh
doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức đề chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí
phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội.
Đây là những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh tế thị trường.
- Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham
gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất
yếu.
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại một nền
kinh tế thị trường thuần túy và nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục những
khuyết điểm của nó mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất
bại của cơ chế thị trường. Khi đó, nền kinh tế được gọi là kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước.
4. Phân tích sự chuyển hóa tiền thành tư bản và ý nghĩa của việc phát hiện ra hàng
hóa sức lao động trong việc giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản?
5. Trình bày cơ sở phân chia các cặp phạm trù tư bản cố định – tư bản lưu động; tư
bản bất biến – tư bản khả biến? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
a. Thế nào tư bản bất biến và Tư bản khả biến, tư bản cố định và tư bản lưu động:
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
- Bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhiên
liệu, nguyên liệu, vật liệu phụ...) mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển nguyên vào sản
phẩm, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất là Tư bản bất biến (ký
hiệu là c).
- Bộ phận Tư bản dùng để mua sức lao động mà trong quá trình sản xuất không những
nó tái sản xuất ra giá trị sức lao động mà còn sản xuất ra giá trị thặng dư. Nghĩa là bộ phận Tư
bản này có sự thay đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là Tư bản khả biến (ký hiệu là v)
* Cơ sở phân chia: Nhờ vào tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
+ Lao động cụ thể: bảo tồn và chuyển dịch giá tị của TLSX
+ Lao động trừu tượng: tạo ra giá trị mới.
* Tư bản cố định và Tư bản lưu động.
- Tư bản cố định là bộ phận tư bản mà trong quá trình sản xuất chuyển dần giá trị làm
nhiều lần vào sản phẩm mới như nhà xưởng, máy móc, thiết bị...
- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản mà trong quá trình sản xuất chuyển một lần toàn
bộ giá trị vào sản phẩm mới như nguyên liệu, nhiên liệu và tiền lương
- Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần,
có hai loại hao mòn: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị sử dụng. Do quá trình sử dụng
và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của Tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới
chỗ phải thay thế.
Hao mòn vô hình là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra khi máy
móc còn tốt nhưng bị mất giá cả vì xuất hiện máy móc hiện đại hơn, công suất cao hơn những
lại rẻ hơn hoặc giá trị tương đương.
Để khôi phục tư bản cố định, nhà tư bản lập quỹ khấu hao. Sau mỗi thời kỳ bán hàng
hoá, họ trích ra một số tiền bằng mức độ hao mòn tư bản cố định bỏ vào quỹ khấu hao (một
phần được dùng vào sửa chữa cơ bản, một phần gửi Ngân hàng chờ đến kỳ mua máy mới)
b. Căn cứ và ý nghĩa phân chia hai cặp phạm trù đó.
- Chia tư bản ra làm tư bản bất biến và tư bản khả biến là công lao vĩ đại của Mác. Sự
phân chia ấy đã vạch rõ nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra.
Sự phân chia đó cho thấy vai trò của mỗi bộ phận tư bản trong việc tạo ra gái trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa C+V+M
- Các nhà kinh tế học tư sản không thừa nhận sự phân chia đó, học chia tư bản thành tư
bản cố định và tư bản lưu động. Chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động sẽ che
đậy nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư. Vì đem giá trị mua sức lao động và giá trị mua
nguyên liệu, nhiên liệu đưa vào một khái niệm tư bản lưu động sẽ làm lu mờ tác dụng đặc biệt
của yếu tố sức lao động trong việc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Chỉ khi nào khảo sát sự
khác nhau của các bộ phận tư bản về phương hướng chuyển dịch giá trị thì Mác mới chia tư
bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động để trong quản lý sản xuất cần có các biện pháp
chống hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình, còn khi khảo sát tác dụng khác nhau của các bộ
phận tư bản trong quá trình tăng thêm giá trị thì chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến.