Professional Documents
Culture Documents
trị giá hải quan
trị giá hải quan
Công ty A là nhà sản xuất xe gắn máy ở Thái Lan đã ký hợp đồng bán hàng với nhà nhập
khẩu bán buôn là Công ty B tại Việt Nam, theo đó B sẽ là nhà phân phối độc quyền của
A. Các
điều khoản cụ thể trong thoả thuận phân phối độc quyền giữa nhà sản xuất A và nhà phân
phối
B như sau:
- B không có quyền bán hàng sang các nước khác ngoài lãnh thổ Việt Nam
- B sẽ ấn định giá bán lẻ và tỷ lệ chiến khấu cho người bán hàng phân phối ở Việt
Nam
- B sẽ mở phòng trưng bày, thuê nhân viên bán hàng và thợ sửa chữa cơ khí thích hợp.
B sẽ tiến hành quảng cáo xe gắn máy trên lãnh thổ Việt Nam
Hỏi: Khi nhập khẩu xe gắn máy về Việt Nam, lô hàng trên có được xác định trị giá hải
quan
theo phương pháp trị giá giao dịch không? Giải trình câu trả lời
Trả lời: Khi nhập khẩu lô hàng này được xác định trị giá hải quan theo phương
pháp giao dịch. Vì mặc dù B bị hạn chế có tính địa lý đối với việc bán lại hàng hóa
sau khi nhập khẩu nhưng đây là trường hợp vẫn cho phép sử dụng trị giá giao dịch.
Còn những điều khoản còn lại B không bị hạn chế về việc định đoạt và sử dụng
hàng hóa sau khi nhập khẩu.
Tình huống 2 :
Người mua B tại nước X ký hợp đồng nhập khẩu một sản phẩm mới với người bán S tại
nước Y, vì là sản phẩm mới nên người mua không chắc chắn sau khi nhập khẩu về hàng
có bán được tại nước nhập khẩu hay không. Do vậy B thoả thuận với S trả trước cho S
1USD/sản phẩm và sẽ trả thêm 1 USD/sản phẩm khi bán được hàng tại nước X. Hoá đơn
xuất trình cho hải quan ghi tổng trị giá 1000 USD với 1.000 sản phẩm.
Hỏi: lô hàng sản phẩm mới trên có được xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị
giá giao dịch không? Giải trình câu trả lời
Trả lời: Lô hàng trên không được xác định trị giá hải quan theo phương pháp trị
giá giao dịch. Vì vi phạm điều kiện 3 :Người nhập khẩu không phải trả thêm một
khoản tiền nào từ doanh thu hay lợi nhuận bán hàng của mình cho người xuất khẩu
hàng hóa trừ khi khoản tiền đó là khoản điều chỉnh đã quy định.
Tình huống 3:
Công ty A Việt Nam mua của công ty B Thái Lan lô hàng bánh kẹo do Thái Lan sản
xuất. Qua đàm phán hai bên mua bán thỏa thuận ký hợp đồng với điều khoản về giá cả
như sau:
5 usd/ thùng, điều kiện nhà sản xuất cung cấp C/O Form D (thuế NK 0%)
3,5 usd/ thùng, nếu nhà sản xuất không cung cấp được Form D (thuế NK 15 %)
Do nhà sản xuất không cung cấp được C/O Form D nên theo hợp đồng giá được bên A
thanh toán TTR cho bên B là 3,5 usd/thung Dữ liệu có sẵn tại cơ quan Hải quan:
Lô hàng tương tự nhập khẩu với đơn giá 4,9 USD/ thùng (theo hồ sơ DN có c/o form
D),
thời gian còn trong phạm vi 90 ngày, nhưng đã quá 60 ngày.
Chứng từ do Doanh nghiệp xuất trình:
Bản báo giá.
Bản thỏa thuận giá cả giữa 2 bên mua bán có ràng buộc về điều khoản C/O (ký trước
ngày xếp hàng lên phương tiện vận tải).
Chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Tất cả các chứng từ đều hợp lệ, Hải quan cũng chấp nhận.
Theo anh (chị) có nên chấp nhận giá khai báo trong trường hợp này hay không?xác định
giá tính thuế cho lô hang
Trả lời: Không chấp nhận giá khai báo trong trường hợp này. Vì vi phạm điều kiện 2: Giá
cả của hàng hóa không phụ thuộc vào một số điều kiện hay khoản thanh toán dưới hình
thức khác mà vì đó không thể xác định được trị giá của những lô hàng cần xác định trị giá
Tình huống 4:
Công ty A ở Việt Nam nhập khẩu 1.000 bộ tóc giả của người bán S tại Hàn quốc với giá
ghi trên hoá đơn 5usd/bộ (giá CIF), hồ sơ hải quan cho biết các bộ tóc giả chất lượng
“hạng hai” có giá 5usd/bộ (giá CIF). Hải quan kiểm tra lô hàng nhập khẩu phát hiện
chúng có chất lượng “hạng nhất”. Hồ sơ hải quan cho biết một vài lô hàng trước do Công
ty A nhập khẩu các bộ tóc giả “hạng nhất” cùng loại với trị giá giao dịch là 10
USD/bộ(giá CIF)
Trả lời cho nghi vấn này, người nhập khẩu giải thích các bộ tóc giả nhập khẩu trong lô
hàng này có chất lượng “hạng nhất” nhưng Công ty chỉ trả 5 USD/bộ. Người bán đã giảm
giá 5USD/bộ để bù vào lần nhập khẩu trước đó mà Công ty A đó phải trả10 USD /bộ cho
hàng chất lượng “hang nhất” nhưng sau đó phát hiện hàng có chất lượng “hạng hai”.
Hỏi : Anh/chị xác định trị giá các bộ tóc giả theo giá nào? Dựa trên cơ sở nào?
Trả lời: Tình hướng này xảy ra giao dịch mua bán, nên sử dụng phương pháp 1. Trị
giá các bộ tóc giả là 10usd/bộ, đây được xem là khoản cấn trừ nợ. Vì lần đầu thực
chất công ty A đã thừa 5usd cho bộ tóc hạng hai.
Tình huống 5:
Công ty A nhập khẩu lô rượu vang đỏ của nhà sản xuất rượu B - ở Pháp. Rượu vang đỏ
được đóng trong các thùng chứa bằng kim loại (loại 100 lít/ thùng) với giá nhập khẩu là 6
EUR/ lít (giá này bao gồm giá của thùng chứa bằng kim loại).
Sau khi nhập khẩu, rượu vang phải do người nhập khẩu đóng chai và được bán với nhãn
mác thương mại của người xuất khẩu B.
Công ty A cũng phải mua cả vỏ chai, nhãn dán chai. Các sản phẩm này được gửi riêng
trong các kiện hàng khác. Một hoá đơn tổng thể được người bán B lập gửi cho công ty A,
trong đó giá cả được chi tiết như sau :
- Rượu vang đỏ:
6 EUR/lít
- Võ chai 1 lít (rỗng)
380 EUR/1.000 chiếc
- Nhãn mác
50 EUR/1.000 bộ
- Nắp chai nhôm, màu vàng
70 EUR/1.000 cái
Hãy xác định trị giá hải quan của lô hàng 1.000 lít rượu vang đỏ do công ty A nhập
khẩu?
Trả lời: Sử dụng phương pháp 1
Giá thực thanh toán: 6*1000=6000eur
Ở đây, vỏ chai, nhãn mác, nắp chai nhôm màu vàng không đi liền với rượu nên
không được xem là chi phí đóng gói.
Tình huống 6:
Công ty A tại Việt Nam tiến hành các cuộc thương lượng qua trung gian của một người
môi giới để nhập khẩu dầu cọ. Người môi giới đã giới thiệu một công ty xuất khẩu B của
Malaysia chuyên xuất khẩu dầu cọ với công ty A; người môi giới hoạt động như một
người trung gian giữa hai bên để ấn định giá cả và các điều kiện thanh toán. Thương vụ
cuối cùng được ấn định: công ty B bán cho công ty A số lượng 8.000 tấn dầu cọ với đơn
giá 300 USD/ tấn (CIF)Công ty A chấp nhận trả cho người môi giới một khoản tiền môi
giới là 0,5% trên tổng trị giá. Ngoài ra do quan hệ làm ăn giữa họ đã được lập từ lâu,
người môi giới còn bảo lãnh một khoản vay tại Ngân hàng cho người nhập khẩu với tổng
số tiền là 2.400.000 USD để thanh toán lô hàng. Người môi giới đề nghị số tiền công
thanh toán cho khoản vay ngân hàng trên là 0,8% trong đó lãi ngân hàng là 0,7% và
người môi giới hưởng 0,1%. Người môi giới còn yêu cầu Công ty xuất khẩu B phải trả
cho họ khoản 0,3% trên giá hoá đơn như là một khoản thanh toán cho công môi giới.
Công ty B chấp nhận thanh toán mà không cộng thêm khoản này vào hoá đơn bán cho
người nhập khẩu.
Hãy xác định trị giá hải quan của lô hàng 8.000 tấn dầu cọ do công ty A nhập khẩu?
Sử dụng phương pháp 1
Giá thực thanh toán: 8000*300=2400000usd
Khoản điều chỉnh cộng:
Chi phí môi giới: 0,5%*2400000=12000
Vì khoản lãi vay ngân hàng không liên quan đến hàng hóa nhập khẩu nên không
được xem là khoản điều chỉnh cộng.
Suy ra trị giá hải quan: 2400000+12000=2412000eur
Tình huống 7:
Người nhập khẩu I tại nước nhập khẩu Y đã khai báo trị giá của một máy cán thép cũ là
65.000 USD (giá CIF). Hợp đồng và hóa đơn do I xuất trình cho thấy người nhập khẩu đã
mua toàn bộ máy cán từ nhà xuất khẩu E trong tình trạng tháo rời
Qua kiểm tra giao dịch này cho thấy đại lý tại nước xuất khẩu X đã thay mặt người
nhập khẩu đàm phán với người bán về giá cả và đại lý nhận được khoản hoa hồng trị giá
2% trên giá bán từ người nhập khẩu.
Nhà xuất khẩu đã bán máy cán tháo rời trên cơ sở “nguyên trạng”. Do chi phí lao động
tại nước xuất khẩu cao nên người nhập khẩu gửi một kỹ thuật viên và mười công nhân từ
nước nhập khẩu sang nước xuất khẩu để đóng thùng gỗ lớn và đóng toàn bộ máy cán vào
trong thùng, người nhập khẩu cũng mua các vật liệu đóng gói tại nước xuất khẩu. Chi tiết
các chi phí đóng gói hàng như sau:
- Chi phí đi lại( cho 01 kỹ thuật viên và 10 nhân công): 4.750 USD
- Chi phí khách sạn: 3.500 USD
- Chi phí tiền ăn, tiền lương : 4.400 USD
- Chi phí vật liệu đóng gói: 1.300 USD
Hãy xác định trị hải quan của chiếc máy cán thép do người I nhập khẩu.
Trả lời: sử dụng phương pháp 1
Giá thực thanh toán: 65000usd
Các khoản điều chỉnh cộng:
Chi phí đóng gói: 1300 usd
Chi phí đi lại: 4750
Chi phí tiền ăn tiền lương 4400
Ta có: tiền hoa hồng mua hàng không cộng
Suy ra trị giá hải quan: 65000 +1300+4750+4400=75450usd
Tình huống 8:
Công ty A thường nhập khẩu cần câu trực tiếp từ một công ty sản xuất B tại Nhật. Tuy
nhiên lô hàng 1.000 cần câu đang cần xác định trị giá lại được công ty A mua của công ty
trung gian C tại Nhật. Công ty B bán 1.000 cần câu cho công ty C theo giá xuất xưởng là
3,5 USD/cây. Sau đó công ty C đóng gói hàng hoá để xuất khẩu cho công ty A. Công ty
C đã thanh toán mọi chi phí như cước vận tải trong nước Nhật, thuê tàu, phí bảo hiểm,
đồng thời còn cộng vào đó 10% của giá xuất xưởng. Một hoá đơn tổng thể được công ty
C lập như sau:
1. Giá cần câu xuất xưởng: 3.5 USD/cây
2. Tiền lời 10% trên giá xuất xưởng: 0.35 USD/cây
3. Cước vận tải trong nội điạ nước Nhật: 50 USD
4. Cước vận tải Quốc tế: 200 USD
5. Bảo hiểm đường biển: 30 USD
6. Phí xếp dỡ hàng: 50 USD
7. Chi phí bao bì xuất khẩu: 100 USD
A). Công tyA khai báo với cơ quan Hải quan rằng họ có khả năng mua hàng trực tiếp từ
người sản xuất B với giá xuất xưởng 3,5 USD /cây như vẫn thường mua trước đây, nhưng
trong giao dịch này họ phải mua cần câu qua người trung gian C với giá 3,85 USD/ cây.
B). Mười lăm ngày sau, công ty A ký hợp đồng mua của công ty B tại Nhật Bản 800 cần
câu (hàng hoá giống hệt) với giá xuất xưởng là 3,6 USD /cây. Công ty B giải thích giá
này là giá bán cho mọi đối tượng. Chi phí đóng gói, cước vận tải nội địa, cước vận tải và
bảo hiểm quốc tế, phí xếp dỡ đều giống như giao dịch đầu tiên mà công ty A mua của
công ty C.
Hãy xác định trị giá hải quan của lô hàng nhập khẩu 1.000 cần câu nêu tại điểm A và
800 cần câu nêu tại điểm B?
Trả lời:
1000 cần câu: Giá thực thanh toán: 3,85*1000=3850usd
Điều chỉnh cộng:
Cước vận tải trong nội điạ nước Nhật: 50 USD
Cước vận tải Quốc tế: 200 USD
Bảo hiểm đường biển: 30 USD
Phí xếp dỡ hàng: 50 USD
Chi phí bao bì xuất khẩu: 100 USD
Tổng 430usd
Trị giá hải quan: 3850+430=4280usd
800 cần câu:
Giá thực thanh toán: 800*3,6=2880usd
Điều chỉnh cộng:
Cước vận tải trong nội điạ nước Nhật: 50 USD
Cước vận tải Quốc tế: 200 USD
Bảo hiểm đường biển: 30 USD
Phí xếp dỡ hàng: 50 USD
Chi phí bao bì xuất khẩu: 100 USD
Tổng 430usd
Trị giá hải quan: 2880+430=3310usd
Tình huống 9:
Công ty A của Indonesia là nhà sản xuất đồ gọt bút chì. Công ty A đã sản xuất thử 1.000
chiếc gọt bút chì để bán trên thị trường nội địa với giá 0,3 USD/chiếc. Trên thị trường nội
địa những chiếc gọt bút chì này được bán có lắp thêm cán bằng gỗ, tuy nhiên để xuất
khẩu thì họ lắp cán bằng chất nhựa dẻo.
Cho đến thời điểm đó, Công ty A đã bán lô hàng đầu tiên cho Công ty B của Việt Nam
10.000 chiếc gọt bút chì cán bằng nhựa dẻo với đơn giá là 0,4 USD /chiếc, giá đã bao
gồm cả chi phí bao bì và nhân công đóng gói. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian, công ty A
gặp khó khăn đối với các xí nghiệp gia công cán bằng chất nhựa dẻo nên họ tuyên bố
chấm dứt đưa mẫu hàng này ra bán.
Trong khi chờ giao hàng, Công ty B đã giới thiệu mẫu hàng này trong catalog mới của
mình và đã nhận được một số đơn đặt hàng. Do đó Công ty B vẫn có ý định mua gọt bút
chì của A và đề xuất mua những cán bằng nhựa dẻo này tại một Công ty khác, sau đó
cung cấp cho A để sản xuất gọt bút chì có cán bằng nhựa dẻo. Công ty B đã được một đại
lý tại nước xuất khẩu giới thiệu một công ty M chuyên sản xuất cán nhựa dẻo theo đúng
yêu cầu của Công ty B.
- Giá bán do Công ty A đưa ra đối với gọt bút chì chưa có cán bằng nhựa dẻo là 0,25
USD/chiếc (chưa bao gồm chi phí bao bì, nhân công) và được Công ty B chấp nhận.
- Công ty B mua cán nhựa dẻo của Công ty M với giá là 0,12 USD /chiếc và cung cấp
miễn phí cho Công ty A để sản xuất “Gọt bút chì có cán bằng nhựa dẻo”.
- Chi phí bao bì và nhân công được tính 0,02 USD /chiếc.
- Tiền công trả cho đại lý là 10% trên giá mua cán nhựa dẻo.Hãy xác định trị giá hải
quan đối với lô hàng 10.000 chiếc gọt bút chì có cán bằng nhựa dẻo do công ty B nhập
khẩu?
Trả lời: giá thực thanh toán: 10000*0,25=2500usd
Điều chỉnh cộng:
Khỏan trợ giúp: 0,12*1000=1200usd
Chi phí bao bì: 0,02*10000=200usd
Phí hoa hồng mua hàng không cộng
Trị giá hải quan= 2500+1200+200=3900