Professional Documents
Culture Documents
Khảo Sát Kiến Thức Về Vaccine Ung Thư Cổ Tử Cung Và Tiêm Vaccine Ngừa HPV Của Sinh Viên Khoa Dược
Khảo Sát Kiến Thức Về Vaccine Ung Thư Cổ Tử Cung Và Tiêm Vaccine Ngừa HPV Của Sinh Viên Khoa Dược
3. Kết quả:
Bảng 1: Đặc điểm chung của các đối tượng tham gia nghiên cứu (N=169).
Nội dung khảo sát N (%)
Giới tính
Nữ 123 72.8
Nam 46 27.2
Ngành học
43 25.4
Y đa khoa 27 16.0
Răng – hàm – mặt 63 37.3
Dược 36 21.3
Điều dưỡng
Trong 169 đối tượng nghiên cứu, nữ chiếm đa số với 123 SV chiếm tỉ lệ 72.8%,
nam chiếm 27.2%. Mặc dù có các khuyến cáo nên tiêm ngừa HPV cho nam giới
trong độ tuổi dậy thì nhưng phần lớn những hiểu biết và tiêm ngừa HPV là các
bạn nữ.
Sự chênh lệch ở các nhóm ngành học trong nghiên cứu này không quá cao với y
khoa chiếm 25.4%, RHM 16%, dược 37.3% và điều dưỡng chiếm 21.3%.
Về trình độ học vấn, SV năm 1 chiếm tỉ lệ cao nhất với 40.2%, kế đến là năm 5
chiếm 22.5%, năm 2 với 21.3% và cuối cùng năm 4 chiếm 16%. Các đối tượng
tham gia nghiên cứu đều trong độ tuổi 18 trở lên, đây là nhóm tuổi khá phù hợp
với nghiên cứu vì những nguy cơ tiềm ẩn về bệnh UTCTC bắt đầu xuất hiện và
cũng là độ tuổi thích hợp để tìm hiểu và tiêm ngừa HPV.
Đánh giá kiến thức của SV về vaccine HPV:
1. Tỉ lệ sinh viên biết về vaccine HPV
Biểu đồ 1: Tỉ lệ (%) SV biết về vaccine HPV
16.6%
83.4%
Trong tổng số 169 đối tượng tham gia nghiên cứu, có 141 SV đã biết thông tin
về vaccine ngừa UTCTC chiếm tỉ lên 83.4% và tỉ lệ SV chưa biết chiếm 16.6%,
cho thấy đa số sinh viên đã có kiến thức về vacxin HPV.
2. Các nguồn cung cấp thông tin về vaccine HPV cho sinh viên:
Biểu đồ 2 : Nguồn cung cấp thông tin về vaccine HPV
Mạng xã hội 87
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Tỷ lệ phần trăm
Bảng câu trả lời của các đối tượng tham gia đã biết về vaccine HPV, điều tra xem
họ có biết những thông tin về vaccine HPV từ những nguồn nào và từ ai.
Đa số các đối tượng nghiên cứu cho biết họ biết được thông tin qua mạng xã hội
với ti lệ 87.0%. Mặc dù cung cấp đa dạng các thông tin nhưng các nguồn thông tin
từ các trang mạng chưa được sàng lọc và quản lí chặt chẽ nên có thể ảnh hưởng
đến kiến thức của người đọc.
Kế đến là báo đài và bạn bè người thân lần lượt chiếm 77.5% và 71.6%.
Thông tin tư vấn về vaccine từ nhân viên y chiếm chỉ chiếm 55.6% và trường học
cung cấp thông tin về vaccine chiếm tỉ lệ thấp nhất (49.1%). Đây là 2 nguồn thông
tin đáng tin cậy nhất nhưng lại chiếm tỉ lệ thấp nhất, Qua đó nhận thấy rằng việc
tuyên truyền còn hạn chế và chưa được đầu tư kĩ lưỡng về truyền thông để mọi
người hiểu biết thông tin về vaccine và đặc biệt tại môi trường học tập trường y
dược nhưng nguồn thông tin về vaccine cung cấp cho sinh viên lại khá thấp.
Bảng 2: Mối liên quan giữa đặc điểm các đối tượng nghiên cứu với kiến thức về
vaccine HPV:
Trong tổng số 169 người tham gia khảo sát có 32 nam giới biết về vaccine HPV
trong tổng số 46 nam giới được khảo sát chiếm tỉ lệ 69.6% và con số này là
88.6% đối với nữ.
Kết quả này cho thấy SV nữ biết về vaccine hpv có odds cao gấp 3.41 lần so
với nam với 95%CI 1.47 đến 7.88 và P<0.05 và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê cho thấy các bạn nữ quan tâm về thông tin vaccine HPV hơn nam.
SV đã từng đi lâm sàng biết về vaccine HPV có odds cao gấp 6.54 lần so với
SV chưa từng đi lâm sàng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Về trình độ học vấn, nhìn chung các năm càng lớn thì kiến thức về vaccine
HPV càng cao hơn có thể do được tiếp cận nhiều thông tin hơn và đã được đi
lâm sàng.
Biểu đồ 3: Tỉ lệ sinh viên đã tiêm ngừa HPV:
16.60%
83.40%
Mặc dù tỉ lệ SV biết về vaccine HPV khá cao (83.4%) nhưng chỉ có 17% đối tượng
đã tiêm ngừa HPV và số chưa tiêm đến 83%. Theo khảo sát tỉ lệ tiêm phòng chiếm
khá thấp. Mặc dù đối tượng nghiên cứu là sinh viên các ngành y dược nhưng SV
lại khá chủ qua về sức khỏe của bản thân.
Kết quả này cho thấy tỉ lệ tiêm vaccine còn rất thấp có thể do nguồn cung cấp
thông tin đáng tin cậy còn hạn chế, đặc biệt từ nhà trường, nhân viên y tế….
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác mà SV chưa tiêm ngừa HPV đã được khảo
sát.
Bảng 3: Phân tích đơn biến về nguyên nhân không tiêm ngừa HPV:
Nguyên nhân không tiêm N (%) Nam (%) Nữ (%) P-value 95%CI OR
ngừa HPV
Giá thành cao 89 (52.7) 34.8 59.3 0.004 1.35 – 5.54 2.74
Nghĩ rằng nam không cần 39 (23.1) 65.2 7.3 < 0.001 0.02 – 0.1 0.04
tiêm phòng
Chưa quan hệ tình dục 63 (37.3) 45.7 34.1 0.172 0.31 – 1.23 0.62
Lo sợ tác dụng phụ của vắc 58 (34.3) 23.9 38.2 0.075 0.91 – 4.25 1.97
xin
Hiệu quả của vắc xin 59 (34.9) 28.3 37.4 0.262 0.72 – 3.17 1.52
Sợ tiêm 44 (26.0) 13.0 30.9 0.013 1.16 – 7.63 2.98
Quá nhiều lần tiêm 50 (29.6) 10.9 36.6 <0.001 1.74 – 12.84 4.73
Theo phân tích đơn biến có thể thấy các biến như giá thành cao, nghĩ nam không
cần tiêm, sợ tiêm và quá nhiều lần tiêm có ý nghĩa thồng kê. Vì thế muốn giảm
nhiễu và có kết quả chính xác hơn chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích nguyên nhân
không tiêm ngừa HPV bằng phân tích đa biến như sau:
Bảng 4: Phân tích đa biến về nguyên nhân không tiêm ngừa HPV:
Nguyên nhân Giới tính
không tiêm ngừa
HPV OR P-value 95%CI
Bảng 5: Mối liên quan giữa giá thành vaccine, thu nhâp (tiền gia đình hỗ trợ và thu
nhập thêm) với đã tiêm HPV:
Biến số datiemx2
OR P - value 95%CI
Giá thành cao 0 < 0.01 0 - inf
GĐ hỗ trợ hàng tháng 0.74 0.067 0.52 – 1.05
Thu nhập thêm 0.73 0.28 0.41 – 1.31
Biến số datiemx2
OR P - value 95%CI
Tổng thu nhập 0.69 0.007 0.03
Như đã nói ở trên vì muốn giảm nhiễu và có kết quả chính xác hơn chúng tôi sẽ
phân tích mối liên quan giữa giá thành vaccine, thu nhâp (tiền gia đình hỗ trợ + thu
nhập thêm) với đã tiêm HPV bằng phân tích đa biến.
Dựa vào bảng đã so sánh mối liên hệ giữa giá thành vaccine và tiền thu nhập của
các đối tượng nghiên cứu với tiêm vaccine cho thấy:
Về quan hệ giữa giá thành vaccine với đã tiêm HPV có OR= 0 do không ai trong
dữ liệu “giá thành cao” có tiêm chủng do đó không ước tính được.
Về thu nhập hàng tháng do gia đình hỗ trợ và thu nhập thêm được tính tách rời vì
theo bảng câu hỏi khảo sát tiền hỗ trợ từ gia đình là hàng tháng còn tiền thu nhập
thêm thì không nên chúng tôi muốn khảo sát mối quan hệ giữa 2 thu nhập này với
tiêm HPV và theo kết quả trên cả 2 đều không có ý nghĩa thống kê.
Sau khi khảo sát 2 biến hỗ trợ gia đình và thu nhập thêm chúng tôi tiếp tục phân
tích tổng thu nhập của các đối tượng bao gồm tiền hỗ trợ từ gia đình và thu nhập
thêm cho rằng đây là thu nhập ổn định để xem xét mối quan hệ với đã tiêm HPV
bằng phân tích đơn biến giữa tổng thu nhập và kết quả đã tiêm HPV.
Nhìn chung có sự liên quan giữa giá thành vaccine, tổng thu nhập của các đối
tượng nghiên cứu với tiêm HPV.
4. Kết luận:
Theo kết quả đã phân tích phần lớn SV có kiến thức về vaccine HPV nhưng nguồn
cung cấp kiến thức đa phần ở các trang mạng xã hội với các nguồn thông tin chưa
được kiểm soát chặt chẽ, thông tin về vaccine từ các nguồn uy tín đặc biệt là
trường học còn hạn chế điều đó có thể ảnh hưởng đến kiến thức của SV.
Tỉ lệ tiêm ngừa HPV còn khá thấp chỉ chiếm 17%, tồn tại nhiều nguyên nhân đặc
biệt là giá thành của vaccine.
Tại Khoa y dược nên có sự phối của nhà trường cùng các đoàn - hội sinh viên
thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo nâng cao kiến thức về tác hại của UTCTC
cũng như những lợi ích của vaccine HPV và cần có các chương trình hỗ trợ sinh
viên tiêm ngừa HPV.