You are on page 1of 87

Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet.

Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ĐỨC GIÊSU – HOÀNG TỬ BÌNH AN


(Chủ đề học hỏi và suy tư tháng 1 năm 2020)

Trong gia đình nhân loại, ai cũng muốn có bình an. Xin cho hai chữ 'bình an' là câu nói của
nhiều người. Tuy nhiên, mỗi người có quan niệm khác nhau về bình an. Thông thường, người ta
quan niệm rằng đạt được điều mình mong muốn là có bình an. Chẳng hạn, những người nghèo
khó hy vọng rằng nếu họ có đủ điều kiện vật chất, họ sẽ có bình an; những người bệnh tật hy
vọng rằng nếu sức khỏe của họ hồi phục, họ sẽ có bình an; những em học sinh hy vọng rằng nếu
họ vượt qua được kỳ thi, họ sẽ có bình an.

Đối với văn hóa Do Thái, bình an (‫ׁשלום‬, shalom) là từ được dùng phổ biến. 'Shalom' không chỉ
mang nghĩa bình an, mà còn mang nhiều nghĩa tốt đẹp khác nữa, chẳng hạn: Hòa hợp, viên mãn,
hoàn thành, nguyên vẹn. Mỗi khi gặp nhau hay chia tay, câu cửa miệng của người Do Thái là
'shalom'.
Bình an cũng là chủ đề rất quan trọng của mặc khải Kitô giáo. Sách Sáng Thế, cuốn sách đầu
tiên của bộ Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng con người được dựng nên trong 'cảnh bình an'.
Thế nhưng, khi con người muốn tự quyết định vận mệnh của mình ngược với thánh ý Thiên
Chúa, con người trở nên bất an và các mối tương quan của con người cũng không còn diễn ra
trong trật tự và hòa hợp nữa (St 3,1-24). Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người và
đã thiết lập giao ước bình an vĩnh cửu với con người.

Khoảng 700 năm trước Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã loan báo về Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An
đến để thiết lập bình an giữa con người với Thiên Chúa và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ
tạo (Is 9,5). Nhờ Hoàng Tử Bình An, nhân loại sẽ "đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo
mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học
nghề chinh chiến" (Is 2,4). Giữa cảnh tha hương, lưu đày, Thiên Chúa nói với Dân Người: "Ta sẽ
lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư
chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn
đời"  (Ed 37,26).

Biến Cố Đức Giêsu hiện diện trong lịch sử nhân loại cách đây hơn 2000 năm là Biến Cố Bình
An. Khi Đức Giêsu giáng sinh tại Bêlem, các thiên thần ca hát rằng "vinh danh Thiên Chúa trên
trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương"  (Lc 2,14). Trong hành trình dương thế của
mình, Đức Giêsu trao ban bình an cho tất cả mọi người, nhất là những người tội lỗi, nghèo khó,
bị bỏ rơi trong xã hội. Đức Giêsu chữa bệnh, trừ quỷ, tha thứ tội lỗi, thiết lập nhóm Mười Hai và
công bố những tiêu chuẩn luân lý mới nhằm minh chứng rằng sự hiện diện của Người là sự hiện
diện của Hoàng Tử Bình An.

Trong tâm tình thầy trò trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu nói với các môn
đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh
em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Lời đầu tiên
của Đức Giêsu sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ là: "Bình an cho anh em!" (Lc 24,36). Sứ
mệnh của Đức Giêsu là sứ mệnh bình an, không chỉ là bình an tạm thời, mà còn quan trọng hơn,

1
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

bình an vĩnh cửu, bình an mà thế gian không thể ban tặng. Đây là bình an đích thực mà Đức
Giêsu, Đấng đã chịu khổ nạn, chết và phục sinh, đem lại cho nhân loại. Bình an này đồng nghĩa
với ơn cứu độ.

Trong Cựu Ước, với 'cơn hồng thủy', tác giả Sách Sáng Thế trình thuật rằng khi Nôê thả con
chim bồ câu khỏi thuyền, con chim bay đi và khi trở về, miệng ngậm cành ô liu báo 'tin bình an'
cho ông và toàn thể gia đình ông rằng nước đang rút dần và sự sống đã xuất hiện (St 6,5-9,17).
Trong Tân Ước, với 'cơn hồng phúc', Đức Giêsu không chỉ mang một cành lá, Người mang cả cây
thập giá, là 'cây bình an' báo tin cho gia đình nhân loại biết rằng hồng thủy tội lỗi đã đến hồi kết
và hồng phúc bình an vĩnh cửu đã khai mở cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Nhờ
cây thập giá, Đức Giêsu đã nối trời với đất, Môi Trường Thiên Chúa với môi trường nhân loại,
môi trường sự sống với môi trường sự chết. Cũng nhờ cây thập giá, Đức Giêsu đã nối kết mọi
người lại với nhau “không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do…” (Gl 3,28),
vì Ngài đã xóa bỏ ranh giới hận thù và nối kết bằng 'cây bình an'.

Thật vậy, căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giêsu cho chúng ta nhận thức rằng bình an
không phải là một đặc tính giữa những đặc tính của Người. Bởi vì, chính Đức Giêsu là Bình An.
Viết thư cho các tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khẳng định: “Trước kia anh em là những người ở
xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở
gần. Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và
dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù
ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập bình an,
Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người . Nhờ thập
giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên
thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep 2,13-16).

Về căn bản, bình an của Đức Giêsu là bình an bên trong, bình an nội tâm, bình an mà không
mãnh lực nào có thể cướp mất được, cho dù là sự chết. Sở dĩ Đức Giêsu có thể 'cam lòng chịu
chết' để cứu độ nhân loại vì Người có bình an đó hay đúng hơn, chính Người là Bình An. Noi
gương Đức Giêsu, biết bao chứng nhân trong lịch sử Giáo Hội kết hiệp mật thiết với Người và
cảm nghiệm được bình an của Người, nhờ đó, họ đã thắng vượt những giới hạn, nghịch cảnh của
bản thân và trung thành với Thiên Chúa đến hơi thở cuối cùng.   

Trước khi bước vào vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã an ủi các môn đệ của Người rằng “anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”  (Ga 14,1). Câu hỏi đặt ra: 'Tại sao
tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu lại giúp các môn đệ khỏi xao xuyến, khỏi bất an?'. Thưa,
bởi vì, Đức Giêsu chính là Hoàng Tử Bình An của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại. Ai thiết lập
tương quan mật thiết, tương quan liên vị với Người, sẽ vượt qua muôn hình thức sợ hãi gieo rắc
bởi thế lực bóng đêm, ma quỷ, thế gian, xác thịt.

Tác giả thánh vịnh 62 đã diễn tả niềm tin tưởng của mình rằng: "Chỉ trong Thiên Chúa mà
thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn" (Tv 62,6). Còn thánh Augustine, trong bộ Tự Thuật
(Confessions), đã thân thưa cùng Thiên Chúa: "Ngài tạo dựng chúng con cho Ngài và tâm hồn
chúng con xao xuyến cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài" (Confessions I, 1, 1). Như vậy, con

2
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

người không thể tìm được bình an đích thực ở ai đó hay nơi nào đó ngoài Thiên Chúa giữa thế
giới đầy bất an này. Bình an của Thiên Chúa thẳm sâu và kỳ diệu hơn tất cả các hình thức bình an
mà con người có thể cảm nghiệm được trong thế giới thụ tạo này.

Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng ai đi theo Đường của Thiên Chúa, Đường
của Đức Giêsu, người đó đi theo đường bình an. Trong Bài Ca Chúc Tụng (Benedictus), được đầy
Thánh Thần, Dacaria (bố của thánh Gioan Tẩy Giả) đã thốt lên rằng "Thiên Chúa ta đầy lòng trắc
ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong
bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an" (Lc 1,78-79). Ai thấy Đức Giêsu, người đó
thấy bình an. Chẳng hạn, ông Simêôn, một người sùng đạo đã mong mỏi nhìn thấy Đức Giêsu,
Hoàng Tử Bình An, và khi nhìn thấy Người, ông đã ẵm Người trên tay và cất lời chúc tụng: "Muôn
lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an" (Lc 2,29).

Thánh Phaolô quả quyết: "Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ
cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu" (Pl 4,7). Tất cả mọi người được mời gọi kết
hợp mật thiết với Thiên Chúa, với Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An, trong mọi hoàn cảnh, để có bình
an của Người, và nhờ đó, đóng góp phần mình cho bình an của gia đình nhân loại. Mẹ Têrêsa
Calcutta đã diễn tả rất đúng rằng: "Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện, hoa trái của cầu
nguyện là đức tin, hoa trái của đức tin là tình yêu, hoa trái của tình yêu là phục vụ, hoa trái của
phục vụ là bình an." Trong nhãn quan của mẹ Têrêsa Calcutta, bình an vừa là đích đến, vừa là
khởi đầu cho hành trình mới của người Ki-tô hữu, cũng như tất cả mọi người.

Bình an vừa là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, vừa là tác vụ của con người cho anh
chị em đồng loại. Người lãnh nhận bình an từ Thiên Chúa, cũng là người chia sẻ bình an cho
người khác. Trong Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Tám Mối Phúc, Đức Giêsu nói: "Phúc thay ai
xây dựng hoà bình [bình an], vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Những người cộng
tác với Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An, cũng được Người ủy thác để trao ban bình an. Chằng hạn,
khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu nhắn nhủ họ: “Vào bất cứ nhà nào, trước
tiên hãy nói: Bình an cho nhà này" (Lc 10,5).

Hôm nay, Đức Giêsu đang mời gọi mỗi người chúng ta, hãy là khí cụ bình an của Người giữa
dòng đời. Viết thư cho các tín hữu Êphêxô, thánh Phaolô nhắc nhở họ về Đức Giêsu rằng “Người
đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở
gần”  (Ep 2,17). Đồng thời, thánh nhân cũng khuyến khích họ:  “Hãy đứng vững: lưng thắt đai là
chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng
bình an”  (Ep 6,14-15).

Bình an của Thiên Chúa chỉ đến với những ai khát khao chờ đợi và luôn mở lòng thành của
mình để đón nhận, vun đắp và làm cho bình an triển nở. Không chỉ mỗi cá nhân, các hình thức
cộng đoàn đều được mời gọi là sứ giả của Tin Mừng Bình An trong đời sống Giáo Hội và xã hội.
Bao lâu nhân loại còn bất an, bấy lâu Tin Mừng Bình An của Thiên Chúa, được thực hiện bởi Đức
Giêsu, Hoàng Tử Bình An, cần được loan báo, đón nhận, sống và diễn tả. Bao lâu ngôn ngữ bình
an chưa trở thành ngôn ngữ chung của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại, bấy lâu nhân
loại vẫn còn chia rẽ, chiến tranh, hận thù và muôn hình thức bất an chế ngự.

3
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Để bình an, trở thành ngôn ngữ chung của tất cả mọi người, điều cần thiết là mỗi người,
trước hết, phải ý thức tầm quan trọng của bình an trong đời sống con người, trên bình diện cá
nhân cũng như tập thể. Đồng thời, mỗi người cần nhận thức rằng không phải mình hay ai đó, hay
thể chế nào đó là tiêu chuẩn bình an, bởi vì, tất cả đều nhuốm màu tội lỗi. Tiêu chuẩn bình an là
Thiên Chúa, Nguồn Mạch Bình An, và Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An.

Mặc khải Kinh Thánh và giáo huấn Giáo Hội minh định rằng hòa bình hay bình an đích thực
trong gia đình nhân loại không chỉ là vắng bóng chiến tranh, cân bằng lực lượng giữa các phe
phái, hay sự thỏa hiệp giữa các quốc gia (GS 78). Bình an đích thực trong xã hội loài người luôn là
công trình dang dở, cần phải được xây dựng và kiến tạo. Bao lâu còn trong hành trình trần thế,
bấy lâu gia đình nhân loại còn phải nỗ lực xây dựng bình an dựa trên nội dung mặc khải của
Thiên Chúa mà đỉnh cao là Biến Cố Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An, hiện diện và hoạt động trong
gia đình nhân loại.

Sau khi hoàn tất cuộc hành trình lịch sử, Đức Giêsu không để lại bất cứ gia sản vật chất nào
cho con người, bởi vì, Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8,20). Tuy nhiên, 'gia sản bình an' mà Đức
Giêsu để lại thì cao quý hơn tất cả những gì trong thế giới thụ tạo. Hơn nữa, bình an cũng là đặc
tính căn bản của Nước Thiên Chúa như thánh Phaolô quả quyết: “Nước Thiên Chúa không phải là
chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm
14,17). Tất cả mọi người được mời gọi đón nhận bình an của Đức Giêsu và trao ban bình an của
Đức Giêsu cho anh chị em đồng loại; đồng thời, cùng nhau làm cho bình an của Đức Giêsu thẩm
thấu mọi chiều kích của cuộc sống hằng ngày trong hành trình tiến về Nước Thiên Chúa, Nước
Bình An Vĩnh Cửu.

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ


ĐƯỜNG XUỐNG VỚI CON NGƯỜI
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 2 năm 2020
Chương trình mục vụ giới trẻ mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô)
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 1 năm 2020 vừa qua, cùng nhau, chúng ta đã suy niệm hình ảnh Đức Giê-su Ki-tô là
Hoàng Tử Hòa Bình. Tháng 2 này, chúng ta suy niệm hình ảnh Đức Giê-su Ki-tô là Đường, Đường
xuống với con người. Đức Giê-su Ki-tô xuống với con người để thông phần với con người trong
muôn hình thức đau khổ do tội lỗi gây nên và dẫn đưa con người về với Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế, chương 1, cho chúng ta biết con người là đỉnh cao của chương trình Thiên
Chúa sáng tạo. Sách Sáng Thế, chương 2, cho chúng ta biết con người là trung tâm của chương
trình Thiên Chúa sáng tạo. Tuy nhiên, sang chương 3, trình thuật sách Sáng Thế lại cho chúng ta
thấy bộ mặt khác của con người: Con người vô ơn, con người kiêu ngạo, và con người phạm tội.
Con người đã tìm cách đi lên, 'lên bằng Thiên Chúa', với sức riêng của mình, qua hình ảnh ăn trái
cây biết lành biết dữ để được tinh khôn, 'được như Thiên Chúa' (St 3,4-6). Tiếp đó, sách Sáng Thế
chương 11 cho chúng ta biết rằng, sau Hồng Thủy, con người vẫn tìm cách vươn lên bằng Thiên

4
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Chúa, qua 'sự vô ơn và kiêu ngạo tập thể', được diễn tả trong câu chuyện xây tháp Ba-ben. Hậu
quả là, tháp bị sụp đổ hoàn toàn, con người bị chia ly phân tán khắp mặt đất và sống trong cảnh
tăm tối, không lối thoát. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn trung tín, luôn yêu thương con người. Sách
Sáng Thế chương 12 cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham, để từ ông,
chương trình cứu độ của Thiên Chúa được diễn tiến trong lịch sử và được thực hiện cách trọn
vẹn nhờ Đức Giê-su Ki-tô.
Trong Cựu Ước, khoảng 700 năm trước biến cố Giáng Sinh, tiên tri I-sai-a nói với A-khát, vua
Giu-đa rằng: "Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en"  (Is
7,14). Lời này được nhắc lại nơi Tân Ước và được giải thích một cách cặn kẽ hơn trong biến cố
truyền tin cho ông Giu-se rằng: "Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta
sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta"  (Mt 1,23). Thiên Chúa
từ môi trường vĩnh cửu xuống với môi trường thế giới thụ tạo, môi trường thời gian, môi trường
con người. Đây thật là Tin Mừng lớn lao cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo
thiên lập địa cho đến tận thế.
Trong Tân Ước, thánh Gio-an tông đồ viết rằng: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn
hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1). Cũng theo thánh nhân: "Nhờ Ngôi Lời,
vạn vật được tạo thành" và "ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại"  (Ga
1,3,4). Như vậy, trong tương quan với Thiên Chúa, Ngôi Lời hằng hữu. Trong tương quan với thế
giới thụ tạo, Ngôi Lời đóng vai trò quan trọng trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi
con người làm méo mó và biến dạng chương trình này, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-
tô, đã làm người và cư ngụ giữa lòng nhân loại (Ga 1,14).  
Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an cũng cho chúng ta biết rằng sau Bữa Ăn Cuối
Cùng, Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su Ki-tô đã tâm sự riêng với các môn đệ và mặc khải cho họ nhiều
điều quan trọng, chẳng hạn, giới răn mới, giới răn yêu thương, yêu như Đức Giê-su Ki-tô đã yêu,
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, vai trò của Chúa Thánh Thần, sự bình an, tình hiệp nhất... Đặc biệt, khi
Đức Giê-su Ki-tô nói với các môn đệ của Người rằng: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi
dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở
đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi" (Ga 14,3-4). Ông Tô-ma hỏi Đức Giê-su Ki-
tô: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga
14,5). Đức Giê-su Ki-tô trả lời: “Chính Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”  (Ga 14,6). Chúng
ta biết rằng đường, sự thật và sự sống là những điều quan trọng nhất mà tất cả mọi người trong
gia đình nhân loại luôn tìm kiếm. Những điều này được diễn tả nơi Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô.
Trong dòng lịch sử, nhiều người cho rằng mình là người chỉ đường cho người khác, còn Đức Giê-
su Ki-tô nói rằng chính Người là Đường, Đường dẫn tới sự thật và sự sống viên mãn.
Để chuẩn bị cho Đức Giê-su Ki-tô, chuẩn bị cho Đường xuống với con người khi thời gian tới
hồi viên mãn, Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa xuống với con người và
hướng dẫn con người, nhất là tổ tiên Dân Do-thái, theo nhiều cách thức khác nhau. Trong Tân
Ước, tác giả Thư gửi tín hữu Do-thái, ngay phần mở đầu, đã tóm tắt chương trình của Thiên
Chúa trong Cựu Ước cho tới Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô rằng: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách,
Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử" (Dt 1,1-2). Như vậy, nhờ Đức Giê-su Ki-tô là Thánh Tử
của Thiên Chúa, con người nhận ra khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Hơn nữa, để trở
thành Đường nối kết Tình yêu Thiên Chúa với con người và dẫn con người về với Thiên Chúa,
Đức Giê-su Ki-tô đã đi trên con đường làm người dương thế như chúng ta (Dt 4,15). Thật vậy,

5
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Thánh Tử của Thiên Chúa đã trở thành Thánh Tử của Gia Đình Thánh Gia, trong gia đình lớn hơn
là gia đình nhân loại, nhờ sự trung tín, vâng phục và cộng tác chân thành của Đức Ma-ri-a và
thánh Giu-se.
Vừa sinh ra chưa được bao lâu, các thành viên của Gia Đình Thánh Gia (Đức Giê-su Ki-tô, Đức
Ma-ri-a và thánh Giu-se) đã phải xuống Ai Cập để tránh sự lùng bắt của vua Hê-rô-đê. Câu
chuyện bắt đầu với việc ba nhà đạo sĩ nhìn thấy vì sao của Đức Giê-su Ki-tô Giáng Sinh ở Phương
Đông và họ đã tới Giê-ru-sa-lem để hỏi thăm các thượng tế và kinh sư Do-thái, dưới sự chủ tọa
của vua Hê-rô-đê về việc Giáng Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Vua Dân Do-thái. Sau khi ba nhà đạo sĩ
gặp gỡ Đức Giê-su Ki-tô và tiến dâng lễ vật (vàng, nhũ hương và mộc dược), họ 'không trở lại
đường cũ' để tường thuật cho vua Hê-rô-đê biết về sự gặp gỡ của họ với các thành viên của Gia
Đình Thánh Gia. Vua Hê-rô-đê phẫn nộ, ra lệnh lùng bắt và giết chết các bé trai tại Bê-lem và
vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống. Thế nên, Thánh Gia phải lánh sang Ai Cập. Khi vua Hê-rô-đê
băng hà, các thành viên Gia Đình Thánh Gia từ Ai Cập trở về Na-da-rét, miền đất của Ít-ra-en, và
sinh sống tại đó.
Đức Giê-su Ki-tô trải qua thời gian dài trong thinh lặng nơi làng quê Na-da-rét cho đến năm
30 tuổi. Để bắt đầu sứ mệnh công khai, Người đi từ phía Bắc xuống phía Nam của đất nước Do-
thái, tới thung lũng Giê-ri-khô, tới sông Gio-đan nối liền với Biển Chết, chỗ sâu nhất trên địa cầu
(khoảng 400m dưới mực nước biển). Dòng sông Gio-đan, nơi Đức Giê-su Ki-tô chịu Phép Rửa
cũng là nơi xưa kia, sau thời gian dong duổi 40 năm trong thân phận nô lệ, Dân Do-thái băng qua
để về với Đất Hứa, đất chảy sữa và mật. Tại đó, Đức Giê-su Ki-tô, tuy vô tội, Người đã chịu Phép
Rửa để thông phần với con người trong các hình thức đau khổ do tội lỗi gây nên. Hình ảnh Người
chịu Phép Rửa diễn tả việc Người xuống thung lũng tội lỗi của con người, của con cháu A-đam
qua muôn thế hệ.
Trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô đã cúi xuống với
những người bệnh tật, những kẻ bị quỉ ám để chữa lành và hồi phục phẩm giá cho họ. Người đã
cúi xuống với những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân và nạn nhân của vô số hình
thức bất công trong xã hội Do-thái. Người đã đến với những người bị loại trừ, chẳng hạn, những
người thu thuế hay những phụ nữ ngoại tình để an ủi họ. Hơn nữa, Người còn cho họ trở thành
môn đệ của Người trong hành trình trần thế. Đặc biệt, Người đã cúi xuống với những người tội
lỗi và tha thứ cho họ. Trong mọi hoàn cảnh, Đức Giê-su Ki-tô luôn diễn tả lòng thương xót của
Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, mà không quan tâm đến điều kiện văn hóa, truyền thống,
chủng tộc hay bất cứ hình thức phân chia nào theo cách thức loài người.
Đức Giê-su Ki-tô, Đường xuống với con người không chỉ dừng lại ở đó. Người đã thông phần
với con người trong muôn hình thức đau khổ mà đỉnh cao là sự chết. Người đã chết và xuống
ngục tổ tông, xuống cõi âm ty, xuống nơi hoàn toàn thiếu vắng tình thương, để trao ban tình
thương Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho tất cả. Theo mặc khải Ki-tô giáo, những
người chết không thể tự mình ra khỏi vực thẳm này, nhưng cậy nhờ vào sự giải thoát của Thiên
Chúa, được thực hiện qua Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phê-rô viết rằng: "Đức Giê-su đã đến
rao giảng cho các vong linh bị giam cầm" (1 Pr 3,19) và rằng: "Tin Mừng đã được loan báo ngay
cho cả những kẻ chết, để tuy bị phán xét về phần xác theo cách nhìn của loài người, họ được
sống về phần hồn theo ý định của Thiên Chúa" (1 Pr 4,6).
Trong nhãn quan của thánh Phao-lô, Đức Giê-su Ki-tô xuống để kéo mọi người lên: "Người đã
lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã
xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"   (Ep

6
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

4,9-10). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy rằng: "Đức Ki-tô đã xuống âm phủ"  (Mt 12,40; Rm 10,7;
Ep 4,9) để “kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và ai nghe thì được sống”  (Ga 5,25; GLGHCG, 635)
và rằng: "Đức Giê-su Ki-tô, Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3,15), đã “nhờ cái chết của Người, tiêu
diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời
sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14,15; GLGHCG, 635). Điều này giúp chúng ta xác tín rằng với
Đức Giê-su Ki-tô, những gì 'không thể đối với con người' thì lại 'luôn có thể' đối với quyền năng
của Thiên Chúa.
Đức Giê-su Ki-tô là Đường xuống với con người, đồng thời, là Đường duy nhất dẫn tất cả mọi
người trong gia đình nhân loại lên với Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đã minh định với các kỳ mục và
kinh sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem rằng: "Ngoài Đức Giê-su Ki-tô ra, không ai đem lại ơn cứu độ;
vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải
nhờ vào danh đó mà được cứu độ" (Cv 4,12). Tương tự như thế, thánh Phao-lô nói: "Chỉ có một
Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người" (1 Tm 2,5). Đối với những người có kinh
nghiệm trực tiếp về Đức Giê-su Ki-tô lịch sử và Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh như thánh Phê-rô và
Phao-lô thì những khẳng định trên đây là nền tảng không lay chuyển của nội dung đức tin Ki-tô
Giáo.
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã tới vực thẳm sâu nhất của thân phận con người là vực thẳm sự
chết, cũng chính là Đấng phục hồi phẩm giá con người. Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su
Ki-tô gọi các môn đệ của mình là bạn (Ga 15,13-15). Vị Thiên Chúa toàn năng toàn thiện gọi thụ
tạo mình là bạn, đây thật là điều không thể tưởng tượng được, nhưng thực sự đã xảy ra. Thánh
Phao-lô diễn tả Đức Giê-su Ki-tô là Anh Cả của tất cả mọi người cùng muôn vật muôn loài trong
thế giới thụ tạo. Theo thánh nhân, Người vừa là “trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo”, vừa
là “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cl 1,15.18). Điều này, một lần nữa, cho
phép chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su Ki-tô,
Đường xuống với con người. Hơn nữa, trong nhãn quan của thánh Gio-an Tông Đồ, nhờ Đức Giê-
su Ki-tô, con người không chỉ trở về tình trạng nguyên thủy là được dựng nên theo hình ảnh
Thiên Chúa, mà còn trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1,12; 1 Ga 3,1).
Đức Giê-su Ki-tô vừa là Đường xuống với con người, vừa là Đường lên với Thiên Chúa. Quả
thật, nếu hành trình của Đức Giê-su Ki-tô, chỉ là hành trình xuống, xuống tận vực thẳm sâu nhất
và rùng rợn nhất là sự chết, thì quả thật Đức Giê-su Ki-tô cũng như muôn người khác trong gia
đình nhân loại vậy. Không! Đức Giê-su Ki-tô xuống để dẫn tất cả mọi người lên. Lời tựa Tin Mừng
Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an làm nổi bật rằng Đức Giê-su Ki-tô đến từ Thiên Chúa để cứu
độ mọi người và dẫn đưa mọi người về với Thiên Chúa (Ga 1,1-18). Do đó, ai muốn theo Người là
Đường lên với Thiên Chúa, thì trước hết hãy theo Người là Đường xuống với con người. Ai muốn
theo Người, Đường lên với Thiên Chúa, thì hãy học nơi Người, Đường xuống với con người,
xuống với anh chị em mình. Cách cụ thể là: Trong mọi hoàn cảnh, các môn đệ của Đức Giê-su Ki-
tô phải luôn hạ mình, luôn cúi đầu, luôn đấm ngực ăn năn về những tội lỗi và bất xứng của bản
thân trong các tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và với muôn vật muôn loài trong thế
giới thụ tạo. 
Ai không thông phần với Đức Giê-su Ki-tô, Đường xuống với con người, thì cũng không thể
thông phần với Người, Đường lên với Thiên Chúa. Ai từ chối 'sự đụng chạm' của Đức Giê-su Ki-tô,
từ chối tình yêu của Người, thì cũng không thể thông phần gia nghiệp vĩnh cửu với Người trong
Nước Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, khi

7
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Giê-su Ki-tô cúi xuống rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau nhằm diễn tả
tình yêu tự hạ, tình yêu của Đường xuống với con người, Đức Giê-su Ki-tô đến với Phê-rô, để rửa
chân cho Phê-rô, nhưng Phê-rô từ chối. Đức Giê-su Ki-tô nói với Phê-rô: "Nếu Thầy không rửa
cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy"  (Ga 13,8). Phê-rô đã đồng ý để Đức Giê-su Ki-
tô rửa chân cho mình và đã cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thầy mình. 
Điểm lại chương trình mặc khải của Thiên Chúa nơi Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta nhận
ra bảy hình thức hiện diện đặc biệt của Người: (1) Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, (2) Đức Giê-su
Ki-tô xuống thế làm người, (3) Đức Giê-su Ki-tô chịu thương khó, (4) Đức Giê-su Ki-tô chịu chết,
(5) Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh, (6) Đức Giê-su Ki-tô Thánh Thể, (7) Đức Giê-su Ki-tô Thân Thể
Mầu Nhiệm (Giáo Hội). Chúng ta nhận thức rằng trong bảy hình thức hiện diện của Đức Giê-su
Ki-tô, ngoại trừ hình thức thứ nhất (Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa) và thứ năm (Đức Giê-su Ki-tô
Phục Sinh), các hình thức khác đều diễn tả Đức Giê-su Ki-tô, Đường xuống với con người. Đức
Giê-su Ki-tô chịu chết là hình thức Người xuống thấp nhất. Vị Thiên Chúa chết để tất cả mọi
người trong gia đình nhân loại được sống! Đây quả thật là hình thức diễn tả tình yêu sâu đậm và
nhiệm mầu nhất của Đức Giê-su Ki-tô, của Thiên Chúa, đối với con người.
Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đường xuống với con người, Vương Quốc Thiên Chúa hiện diện trên
trần gian. Vương Quốc này tiếp tục hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội, đồng thời, Vương
Quốc này hướng về sự sung mãn khi Thiên Chúa qui tụ muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su Ki-
tô quang lâm (Ep 1,9-10). Như vậy, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Đường xuống với con người, Thiên
Chúa hiện diện giữa con người, vĩnh cửu hiện diện trong thời gian, vô hạn hiện diện trong hữu
hạn và sự sống hiện diện trong cõi chết. Điều này gợi lên nơi tất cả mọi người sự cần thiết để
theo Đường Đức Giê-su Ki-tô trong hành trình trần thế của mình.
Người theo Đường Đức Giê-su Ki-tô là người làm những việc Đức Giê-su Ki-tô đã làm, nói
những điều Đức Giê-su Ki-tô đã nói và hành động như Đức Giê-su Ki-tô đã hành động. Người
theo đường Đức Giê-su Ki-tô là người đến với mọi người như Đức Giê-su Ki-tô đã đến, yêu mọi
người như Đức Giê-su Ki-tô đã yêu và phục vụ mọi người như Đức Giê-su Ki-tô đã phục vụ.
Người theo Đường Đức Giê-su Ki-tô là người ngày càng trở nên giống Đức Giê-su Ki-tô trong mọi
sự. Người theo đường Đức Giê-su Ki-tô là người luôn vâng theo Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô là
Chúa Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Người theo Đường Đức Giê-su Ki-tô
là người luôn thiết lập mối tương quan liên vị với Người, đồng thời, luôn sẵn sàng đến với mọi
người để dẫn đưa họ về với Thiên Chúa.
Chúng ta không chỉ được mời gọi học hỏi Đường Đức Giê-su Ki-tô, suy niệm Đường Đức Giê-
su Ki-tô, tin tưởng Đường Đức Giê-su Ki-tô, dạy Đường Đức Giê-su Ki-tô, mà còn thực hành
Đường Đức Giê-su Ki-tô nữa. Chúng ta biết rằng thực hành Đường Đức Giê-su Ki-tô luôn là việc
lắm khó khăn và nhiều thách đố, bởi vì, để thực hành Đường Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta phải từ
bỏ chính mình, phải xuống sâu tận đáy lòng mình để nhận ra tội lỗi, yếu đuối và các hình thức
bất xứng của bản thân. Để thực hành Đường Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta phải xuống với những
người bần cùng khốn khổ, xuống với những người đơn hèn, yếu đuối, xuống với những người bị
xã hội bỏ rơi và muôn hình thức bất hòa hợp khác trong gia đình nhân loại.
Hôm nay đây, Đức Giê-su Ki-tô vẫn luôn xuống, xuống với những ai đặt niềm hy vọng vào
Người: Niềm hy vọng vào quyền năng của Người trên sự dữ, của vĩnh cửu trên thời gian, của vô
hạn trên hữu hạn, của sự sống trên sự chết. Câu hỏi đặt ra là chúng ta có sẵn sàng đón nhận
Người hay đang bận rộn với ai đó, hiện tượng nào đó, biến cố nào đó? Chúng ta đang theo
đường nào? Rất nhiều người nói rằng mình đang theo Đường Đức Giê-su Ki-tô; tuy nhiên, trong

8
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

thực tế, họ đang theo đường mà họ tưởng tượng ra, theo Đức Giê-su Ki-tô mà họ tưởng tượng
ra hơn là Đức Giê-su Ki-tô, Đường xuống với con người, Đức Giê-su Ki-tô đích thật, là Con Thiên
Chúa, là Đấng đã chết và đã xuống vực thẳm sự chết để diễn tả tình yêu vô điều kiện của Thiên
Chúa đối với con người.
Dư âm của Tội Nguyên Tổ, dư âm của sự vô ơn và kiêu ngạo vẫn tồn đọng trong tất cả mọi
người. Dư âm của Tội Nguyên Tổ vẫn còn khi mỗi cá nhân muốn xây dựng cuộc sống bằng sức
riêng của mình, muốn về với Thiên Chúa bằng sức riêng của mình. Dư âm của Tội Nguyên Tổ vẫn
còn khi các hình thức cộng đoàn muốn xây dựng đời sống chung dựa trên sự đồng thuận của các
cá nhân, mà không màng quan tâm hay quy chiếu mặc khải Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức
Giê-su Ki-tô. Con người, trên bình diện cá nhân và tập thể, được mời gọi chiêm ngắm Đức Giê-su
Ki-tô, Đường xuống với con người, để không ngừng biến đổi bản thân và các hình thức tập thể
khác trong xã hội.
Xét về mặt thể lý, hành trình của mỗi người trên trần gian là hành trình xuống. Mỗi giây qua
đi, mỗi phút qua đi, mỗi giờ qua đi, mỗi ngày qua đi, mỗi tháng qua đi, mỗi năm qua đi, con
người 'càng gần hơn' với vực thẳm sự chết, vực thẳm mà ai cũng run sợ, ai cũng muốn trì hoãn,
ai cũng bồn chồn lo lắng. Vực thẳm sự chết là vực thẳm nhiệm mầu và không ai có thể tránh
được. Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, cũng đã bồn chồn lo lắng trước
vực thẳm này; tuy nhiên, Người đã vượt thắng tất cả trong sự vâng phục và tin tưởng phó thác
vào tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô đã Phục Sinh! Niềm vui tràn ngập toàn thể
địa cầu. Với Đức Giê-su Ki-tô, hừng đông của cánh chung ló rạng cho tất cả những ai tin tưởng,
yêu mến và đặt hy vọng vào Đường của Người.
Sự quan sát, đánh giá và diễn tả trên đây cho phép chúng ta nhận biết rằng Đức Giê-su Ki-tô
là Đường xuống với con người. Bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và sự vâng phục cộng tác của
Đức Trinh Nữ Maria, Đức Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, xuống Ai Cập, xuống thung lũng
Giê-ri-khô, xuống sông Gio-đan, xuống với những người tội lỗi, bị quỉ ám, và muôn hình thức đau
khổ khác trong xã hội loài người. Người đã chết và đã đến vực thẳm sâu nhất của thân phận con
người là vực thẳm sự chết, để trao ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Ước gì mỗi người
chúng ta luôn là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô là Đường xuống với con người trong
hành trình trần thế này, để nhờ Người là Đường lên với Thiên Chúa, chúng ta được hưởng bình
an và hạnh phúc muôn đời trên Nước Trời.  
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên

Đức Giêsu Kitô – ĐƯỜNG THẬP GIÁ


(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 3 năm 2020)

Các bạn trẻ thân mến,

Chủ đề suy niệm của tháng Hai vừa qua là ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường xuống với con
người’.  Trong đó, chúng ta đã cùng nhau chiêm ngắm hành trình đi xuống của Đức Giê-su Ki-tô:
Xuống thế làm người, xuống Ai Cập, xuống thung lũng Giê-ri-khô, xuống với những người tội lỗi

9
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

và đau khổ, đặc biệt, xuống thung lũng sự chết. Tháng Ba này, trong Mùa Chay Thánh, chúng ta
suy niệm chủ đề ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thập Giá’.

Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ lại đến với con người và cứu chuộc con người qua
Đường Thập Giá. Đây thật là mầu nhiệm lớn lao!

Chúng ta biết rằng, vào thời cổ đại, giữa các hình thức trừng phạt phạm nhân, khổ hình thập
giá là hình thức nặng nề nhất. Khổ hình thập giá được sử dụng phổ biến nơi một số dân tộc
quanh Địa Trung Hải và Trung Đông, nhất là những dân tộc thuộc quyền kiểm soát của đế chế Ba
Tư (Persia) hay ở Carthage, Ma-xê-đô-ni-a, Rô-ma. Từ thời Phục Hưng trở đi, một số quốc gia
khác cũng sử dụng khổ hình thập giá đối với những vị thừa sai, cũng như những người mới gia
nhập Ki-tô Giáo, chẳng hạn, ở Nhật Bản, Miến Điện. Thời hiện đại, mặc dù khổ hình thập giá ít
được áp dụng, tuy nhiên, đây đó hình phạt này vẫn tồn tại, chẳng hạn, Ả Rập Xê Út, I-rắc, Sy-ri-a
hay ở một số quốc gia Hồi Giáo khác. Những nơi đó, khổ hình thập giá dành cho tội nhân. Riêng
về việc thực hành đạo đức tôn giáo, ở Phi-líp-pin, hằng năm, dịp Tuần Thánh, một số người vẫn
tự nguyện để mình được đóng đinh vào thập giá, nhằm diễn tả sự thông phần đau khổ với Đức
Giê-su Ki-tô.

Trong lịch sử nhân loại, biết bao người đã chịu khổ hình thập giá, tuy nhiên, khổ hình thập giá
của Đức Giê-su Ki-tô là nổi bật nhất, bởi vì, người chịu khổ hình là Con Thiên Chúa trong thân
phận con người. Với Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô, bao gồm việc Người chịu khổ hình thập giá, chết
và phục sinh, một thực thể mới được hình thành trong gia đình nhân loại, đó là Ki-tô Giáo. Sau
Đức Giê-su Ki-tô, đa số các môn đệ thân tín của Người đều chịu các hình thức khổ hình khác
nhau, để làm chứng cho Người và Tin Mừng của Người, trong đó, một số vị phải chịu khổ hình
thập giá. Chẳng hạn, thánh Phê-rô chịu khổ hình thập giá ở Rô-ma (đóng đinh ngược, đầu của
thánh nhân quay về phía dưới). Tương truyền rằng thánh An-rê, anh của thánh Phê-rô, cũng chịu
khổ hình thập giá.

Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su Ki-tô bị treo trên thập giá từ giờ thứ 3
đến giờ thứ 9 theo cách phân chia thời gian của Dân Do Thái lúc đó, tức là từ 9 giờ Sáng tới 3 giờ
Chiều trong bối cảnh hôm nay. Trong đó, 3 giờ đầu tiên, 9 giờ Sáng đến 12 giờ Trưa, là thời gian
Người bị sỉ nhục, còn từ 12 giờ Trưa tới 3 giờ Chiều là ‘thời gian tối tăm’ và Người chết lúc 3 giờ
Chiều. Thánh ký Mác-cô trình thuật rằng “vào giờ thứ sáu  [12 giờ Trưa], bóng tối bao phủ khắp
mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-
bác-tha-ni! Nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”  (Mc 15,34). Theo
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Vì không hề phạm tội, Đức Giê-su không bao giờ bị Thiên Chúa

10
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ruồng bỏ. Đức Giê-su đã đón nhận chúng ta trong tình yêu cứu chuộc hằng liên kết Người với
Chúa Cha, cho đến độ Người xem như bị tách lìa Thiên Chúa vì tội chúng ta, nên Người thay
chúng ta mà thốt lên trên thập giá” (GLGHCG 603).

Tiếng kêu cầu của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá không phải là tiếng kêu cầu của người thất
vọng, nhưng là tiếng kêu cầu của người chứa chan niềm hy vọng rằng ngay cả lúc tối tăm, nhất là
khi đối diện với cái chết, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện. Tối tăm là hình ảnh của đau thương,
hình ảnh của sự chết, hình ảnh của thế giới ma quỉ, thế giới sự dữ, và cũng là khoảng tối của đức
tin. Tuy nhiên, đây cũng là nơi tình yêu Thiên Chúa hoạt động mạnh mẽ nhất. Chính Đức Giê-su
Ki-tô, trong tư cách là Con Thiên Chúa làm người, nhân danh toàn thể nhân loại, tỏ bày niềm hy
vọng thẳm sâu vào tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Tiếng kêu cầu của Người vẫn còn đó, vẫn
còn vang vọng cùng với tiếng kêu cầu của tất cả những ai bất lực trước những nghịch cảnh đau
thương của cuộc đời trong hành trình trần thế.

Cái chết của Đức Giê-su Ki-tô, xét bề ngoài, cũng giống như cái chết của những người chịu
khổ hình thập giá. Tuy nhiên, cái chết của Đức Giê-su Ki-tô còn đau đớn rùng rợn hơn nhiều,
rùng rợn không chỉ vì Người chết trên thập giá, mà vì Người chết vì tội lỗi của  tất cả mọi người
từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.  Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng vì Nguyên Tổ
phạm tội, mà tội lỗi đã vào trần gian (1 Cr 15,21-22; Rm 5,13). Nguyên Tổ nhân loại đã chối bỏ
tình yêu của Thiên Chúa và thực thi theo lời dụ dỗ ngon ngọt của ma quỉ, đã vâng nghe ‘lời con
rắn’ hơn là vâng nghe Lời Thiên Chúa.

Trong bối cảnh Kinh Thánh Cựu Ước, rắn là biểu tượng của sự dữ. Hình ảnh con rắn đầu tiên
đáng chúng ta quan tâm đó là con rắn được đề cập trong sách Sáng Thế (St 3,1-16). Con rắn đã
thành công khi dụ dỗ E-và, rồi E-và dụ dỗ chồng mình là A-đam. Với việc ‘ăn trái cấm’, tình trạng
đơn sơ, thánh thiện không còn nữa, A-đam và E-và nhận ra mình trần truồng, họ xấu hổ khi đối
mặt nhau. A-đam không nhìn nhận tội mình, nhưng chối tội. Cách gián tiếp, A-đam trách móc
Thiên Chúa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”  (St 3,12).
Cách trực tiếp, A-đam đổ tội cho E-và, còn E-và đổ tội cho con rắn. Vì A-đam và E-và phạm tội, tội
lỗi đã ‘xâm nhập trần gian’ và lan tràn đến hết mọi người. Tội Nguyên Tổ có thể được ví như ‘vi-
rút tâm linh’ vậy. Vi-rút này rất mạnh và sức lan tỏa thật khủng khiếp, mạnh đến nỗi đem cái
chết đến cho tất cả mọi người và lan tỏa từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế [mạnh và lan tỏa
hơn nhiều so với Covid-19].

Con rắn thứ hai là con rắn đồng mà Mô-sê giương cao theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa để
chữa lành những người bị rắn cắn (Ds 21,4-9). Dĩ nhiên, không thể đồng hóa hình ảnh con rắn ở

11
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

đây với con rắn cám dỗ trong sách Sáng Thế (St 3,1-16). Sách Dân Số tường thuật rằng trong
hành trình về với Đất Hứa, Dân Do Thái mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Trong
sa mạc, họ cho rằng đời sống của họ ở Ai-cập sung túc và đầy đủ hơn (Ds 11,4-6; Ds 21,5). Hậu
quả là có nhiều người trong họ bị rắn cắn chết. Họ đã nhận ra tội lỗi của mình và xin Mô-sê cầu
khẩn cùng Thiên Chúa cho họ. Thiên Chúa nhận lời Mô-sê và bảo ông làm một con rắn đồng và
treo lên cây cột. Những ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được sống. Như vậy, bất tuân lệnh
Chúa, họ bị rắn cắn chết, nhưng nếu họ tin tưởng vào Chúa, thì chính con rắn biểu tượng sự chết
đó lại trở thành dấu chỉ đem lại sự sống cho họ.

Trong Tân Ước, khi trò chuyện với Ni-cô-đê-mô về việc con người cần phải sinh lại bởi ơn
trên, bởi nước và Thần Khí, thì mới có thể vui hưởng sự sống muôn đời, Đức Giê-su Ki-tô đã
quảng diễn căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình. Người nói về con rắn đã được đề cập trong
sách Dân Số và xem đó như là hình ảnh tiên báo về Người: “Như ông Mô-sê đã giương cao con
rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì
được sống muôn đời”  (Ga 3,14-15). Chúng ta có thể quảng diễn thêm rằng con rắn thứ nhất
trong sách Sáng Thế, trên ‘cây hiểu biết điều thiện, điều ác’, là hình ảnh sự chết. Con rắn thứ hai
trong sách Dân Số, được Mô-sê treo trên cây cột, là hình ảnh sự phục hồi thể xác. Còn Đức Giê-
su Ki-tô, được treo trên cây thập giá, là hình ảnh sự sống. Với thập giá, Đức Giê-su Ki-tô đã dùng
phương dược hết sức đặc biệt, đó là dùng cái chết của Người trên thập giá để tiêu diệt sự chết,
nhằm đem lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người.

Trước khi chịu chết trên cây thập giá, chính Đức Giê-su Ki-tô đã vác cây thập giá đó. Hình ảnh
Người vác cây thập giá và ngã xuống đất gợi lên trong chúng ta hình ảnh sa ngã của A-đam và E-
và. Hình ảnh Người trần truồng trên cây thập giá gợi lên trong chúng ta hình ảnh của A-đam và E-
và sau khi phạm tội, họ nhận ra mình trần truồng, không còn phẩm giá nữa, và cần đến lá che
thân để ‘giữ chút phẩm giá tối thiểu’ của thân phận con người (St 3,7). Đức Giê-su Ki-tô bị lột áo
ra hết, người không còn sở hữu gì nữa. Người bị tước đi tất cả, mất hết tất cả, để phục hồi phẩm
giá con người cách trọn vẹn.

Với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành thánh giá. Do đó, thập giá là dấu chỉ sự chết, nhưng
với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ sự sống. Thập giá là dấu chỉ của sự thất bại,
nhưng với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ của sự chiến thắng. Thập giá là dấu chỉ
của sự đớn đau, nhưng với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ của sự chữa lành. Thập
giá, dấu chỉ của sự trừng phạt, nhưng với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ của sự tha
thứ. Thập giá, dấu chỉ của sự ghen ghét, nhưng với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ
của sự yêu thương. Thập giá là dấu chỉ của sự sợ hãi, nhưng với Đức Giê-su Ki-tô, thập giá trở

12
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

thành dấu chỉ của niềm tin vững chắc. Thập giá, dấu chỉ của vực thẳm sự chết, nhưng với Đức
Giê-su Ki-tô, thập giá trở thành dấu chỉ của sự sống vĩnh cửu. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều sự
đối nghịch khác nữa để diễn tả nhãn quan của nhân loại về thập giá và chương trình của Thiên
Chúa được thực hiện qua Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô.

Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng bản tính con người không thích thập giá, không thích hi
sinh, không thích trút bỏ chính mình. Đặc biệt, trong thế giới hưởng thụ hôm nay, người ta muốn
tránh thập giá càng nhiều càng hay, muốn xa thập giá càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, kinh
nghiệm cũng cho chúng ta biết rằng không ai trong gia đình nhân loại có thể tự giải thoát mình
khỏi các hình thức thập giá, bởi vì tất cả mọi người, dù muốn dù không, đều chung sống trong
‘nền văn hóa A-đam và E-và’, nền văn hóa bị ô nhiễm vì tội lỗi. Người ta có thể tránh được hình
thức thập giá này, nhưng lại không thể tránh được các hình thức thập giá khác và hình thức thập
giá cuối cùng là vực thẳm sự chết, thì không ai có thể tránh được.

Chúng ta biết rằng với Bí Tích Rửa Tội chúng ta được khỏi Tội Nguyên Tổ, tuy nhiên, hậu quả
của Tội Nguyên Tổ vẫn còn đó. Con rắn cám dỗ A-đam và E-và vẫn còn đó. Thánh Phê-rô nhắc
nhở các tín hữu: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư
tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).  Nhiều người trong chúng ta than trách Dân
Do Thái, vì họ đã vô ơn bội nghĩa với Thiên Chúa trong Cựu Ước và đã đối xử bất nhân với Đức
Giê-su Ki-tô trong thời Tân Ước. Tuy nhiên, như Dân Do Thái xưa kia, mỗi người chúng ta ai cũng
có kinh nghiệm về sự vô ơn bội nghĩa của mình đối với Thiên Chúa, với tha nhân, và đi ngược với
Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô, ngược với những giá trị Tin Mừng mà Người loan báo (Pl
3,17-19).

Chúng ta hằng bị cám dỗ ‘bỏ Đường Thập Giá’ hoặc ‘xuống khỏi thập giá’ như các thượng tế,
kinh sư, kỳ mục và nhiều người khác nói với Đức Giê-su Ki-tô khi Người chịu treo trên thập giá
(Mt 27,39-44; Mc 15,29 -32; Lc 23,35). Đức Giê-su Ki-tô, trong thân phận con người, bị cám dỗ
‘bỏ Đường Thập Giá’ hoặc ‘xuống khỏi thập giá’, nhưng Người đã ‘không sa chước cám dỗ’,
Người đã trung tín với chương trình của Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Nhiều người
trong chúng ta muốn niềm vui mà không cần đau khổ, muốn tình yêu mà không cần hi sinh,
muốn phục sinh mà không cần thập giá, muốn sự sống mà không cần phải chết, muốn về với
Thiên Chúa mà không cần đi Đường Thập Giá.

Trong bài Giảng Lễ tại Casa Santa Marta (11-11-2016), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói về
những người ngộ đạo thời hiện đại (contemporary gnostics) rằng họ ưa thích “một Thiên Chúa
mà không có Đức Ki-tô, một Đức Ki-tô mà không có Giáo Hội, một Giáo Hội mà không có các tín

13
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

hữu”. Theo dòng tư tưởng của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, chúng ta có thể nói rằng trong thế giới
hôm nay vẫn còn đó những người ưa thích một Đức Giê-su Ki-tô xuống thế làm người mà không
chịu đau khổ, một Đức Giê-su Ki-tô chịu đau khổ mà không chịu treo trên thập giá, một Đức Giê-
su Ki-tô chịu treo trên thập giá mà không phải chết. Tắt một lời, họ muốn một Đức Giê-su Ki-tô
toàn năng, toàn thiện đến với con người, không qua Đường Thập Giá mà vẫn đạt tới sự sống bất
diệt, để rồi họ cũng được hưởng sự sống đó theo cách thức như vậy.

Cách đây gần 2000 năm, trong thư thứ nhất gửi tín hữu ở Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết
rằng: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi
là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên
Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan
của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu
đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”  (1 Cr 22-25). Với thánh Phao-lô, thập
giá trở thành biểu tượng của sự nghịch lý từ khi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, cúi xuống vác
lấy và chịu đóng đinh trên đó. Cũng từ đó, thập giá trở thành thánh giá, biểu tượng của niềm tin,
hy vọng và vinh thắng đối với những ai là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô qua mọi thời
đại. Kinh nghiệm về Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô mà thánh Phao-lô có được cũng là kinh
nghiệm của Giáo Hội, của mỗi người chúng ta và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.

Đức Giê-su Ki-tô đã chọn Đường Thập Giá để đem lại sự sống cho con người. Đường của
Người ngược với đường của A-đam và E-và, vì đường của Nguyên Tổ dẫn đến sự chết. Chiêm
ngắm Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô cho phép chúng ta cảm nghiệm được chương trình
kỳ diệu của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa đã không chọn đi con đường nào khác để
đến với con người ngoài Đường Thập Giá. Như vậy, Đường Thập Giá phải là đường có ý nghĩa
nhất.

Nếu chúng ta tin tưởng rằng Đức Giê-su Ki-tô đã đau khổ, chịu nạn, chịu chết vì chúng ta, thì
chúng ta cũng tin tưởng rằng tình yêu của Thiên Chúa luôn bao phủ chúng ta. Đồng thời, chúng
ta không bao giờ thất vọng cho dù chúng ta phải đương đầu với muôn vàn thử thách và ngay cả
vực thẳm sự chết. Chúng ta đau khổ ư? Đức Giê-su Ki-tô đang đau khổ với chúng ta. Chúng ta
buồn sầu ư? Đức Giê-su Ki-tô đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta cô đơn ư? Đức Giê-su Ki-tô
luôn bên cạnh chúng ta. Chúng ta chán nản ư? Đức Giê-su Ki-tô luôn là nguồn trợ lực của chúng
ta.

14
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su Ki-tô mời gọi mọi người: “Tất cả những ai
đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”  (Mt
11,28). Trên đường dương thế, Đức Giê-su Ki-tô vẫn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta
trong mỗi giây phút của cuộc đời. Người vẫn đồng hành để chia sẻ và nâng đỡ chúng ta. Vấn đề
của mỗi người chúng ta là ý thức sự hiện diện và hoạt động của Người trong đời sống mình, nhất
là những lúc chúng ta phải đối diện với ‘gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm
giáo’ (Rm 8,35). Với Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ vượt qua tất cả. Bóng tối cuộc đời phai mờ khi
bình minh Đức Giê-su Ki-tô tỏa rạng.

Chúng ta đi Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô khi chúng ta dâng đau khổ của chúng ta cho
Người. Chúng ta đi Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô khi chúng ta biết cảm thông với những
đau khổ của người khác. Chúng ta đi Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô khi chúng ta trung tín
với ơn gọi Ki-tô hữu của mình giữa những bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Chúng ta đi Đường
Thập Giá khi chúng ta cố gắng sống đời công chính, thánh thiện giữa muôn hình thức cạm bẫy ở
thế gian này. Chúng ta đi Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô khi chúng ta sống trong tinh thần
biết ơn Chúa, biết ơn người trong mọi hoàn cảnh của đời mình, nhất là những lúc chúng ta phải
đối diện với muôn hình thức đau khổ, khó khăn.

Đức Giê-su Ki-tô đã đi Đường Thập Giá và Người mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy đi trên
Đường đó. Thánh ký Mác-cô cho chúng ta biết rằng trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, khi căn tính
của Người là ‘Đấng Ki-tô’ được biểu lộ, Người nói với các môn đệ về Đường Thập Giá của
mình: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết
chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8,31). Đồng thời, Người mời gọi họ: “Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả
thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?”  (Mc 8,34-36).

Chương trình của Thiên Chúa qua Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô, qua Đường Thập Giá luôn là mầu
nhiệm khôn dò khôn thấu. Chương trình này vượt quá sự nhận thức của con người. Do đó,
Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô vẫn mãi mãi là ‘đường điên rồ’ đối với ai coi sức mạnh vật
chất, sức mạnh thể lý hay sức mạnh tri thức như là khí cụ toàn năng để thiết lập các tương quan,
để tiếp cận vạn vật, để hoàn thiện chính mình. Đường Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô vẫn mãi mãi
là ‘đường ô nhục’ đối với những ai đề cao chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa khoái lạc và tôn thờ
những vị thần không đụng chạm hay nếm trải bất cứ hình thức đau khổ nào của con người.

15
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Hôm nay, Đức Giê-su Ki-tô đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi Đường Thập Giá với
Người. Đường Thập Giá là đường hi sinh, quên mình, từ bỏ, hy vọng, tín thác. Đường Thập Giá
luôn luôn là đường chân thật hay nói đúng hơn, Đường Thập Giá là ‘Đường Duy Nhất Chân Thật’.
Đức Giê-su Ki-tô đã đi Đường Thập Giá để đến với thế giới thụ tạo, đến với chúng ta. Do đó,
chúng ta đừng chọn đường theo ý riêng mình nữa. Chúng ta hãy đi theo Đường Thập Giá của
Người và phản chiếu ánh sáng của Đường này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình.

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Viên

Đức Giêsu Kitô - ĐƯỜNG TÌNH YÊU


Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 4 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,


Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay Thánh, đặc biệt là chuẩn bị
bước vào Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể, sự đau
khổ, sự chết và Phục Sinh của Người, đỉnh cao của Năm Phụng Vụ. Trong tháng Ba vừa qua, cùng
nhau chúng ta suy niệm chủ đề 'Đức Giê-su - Đường Thập Giá'. Tháng Tư này, chúng ta suy niệm
chủ đề 'Đức Giê-su - Đường Tình Yêu'. Người đã đi Đường Tình Yêu để đến với con người và
muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, hầu thông phần, biến đổi và dẫn đưa tất cả về với
Thiên Chúa.
 
Tình yêu Thiên Chúa là khởi nguyên, là đỉnh cao và là trung tâm của đời sống con
người. Trong thông điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người (Redemptor Hominis,  1979), thánh Giáo
Hoàng Gio-an Phao-lô II nhấn mạnh: "Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con
người vẫn là hữu thể mà chính mình không thể hiểu được, cuộc sống con người vô nghĩa, nếu
tình yêu không được biểu lộ, nếu con người không gặp gỡ tình yêu, nếu con người không kinh
nghiệm tình yêu và làm cho tình yêu ở lại nơi mình, nếu con người không tham dự vào tình yêu
cách mật thiết" (Redemptor Hominis 10). Tình yêu chính là mối dây liên kết con người với Thiên
Chúa và với nhau. Do đó, giới răn cao cả nhất của Thiên Chúa là 'giới răn tình yêu', yêu Chúa và
yêu người.
 
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã chọn Dân Do Thái làm Dân Riêng và đã giải thoát họ khỏi ách
nô lệ Ai Cập (Đnl 7,6-11), nên hằng ngày họ lặp đi lặp lại Lời Thiên Chúa:  "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en!
Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của

16
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em"  (Đnl 6,4-5). Người cũng nói với họ: "Ngươi phải yêu
đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Điều này có nghĩa rằng ai yêu Chúa, thì cũng yêu người và
ngược lại. Để có thể thực thi giới răn tình yêu, Thiên Chúa luôn mời gọi Dân Do-thái hãy đi theo
đường lối của Người. Do đó, lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái cũng là lịch sử
của việc Thiên Chúa mời gọi họ đi theo đường lối của Người. Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê nói
với Dân Do-thái: "Anh em hãy lo thực hành như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền
cho anh em, không đi trệch bên phải bên trái. Anh em hãy đi đúng con đường mà Đức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em" (Đnl 5,32-33). Tác giả Thánh Vịnh 27 cầu cùng
Thiên Chúa: "Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy Chúa, dẫn con đi trên lối phẳng phiu"  (Tv 27,11).
 
Dưới nhãn quan Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa không chỉ là Chủ của muôn vật muôn loài,
mà còn là người Cha hằng quan tâm con cái mình: "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở,
nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" (Gr 31,3). Hơn thế nữa, chúng ta cũng gặp được
hình ảnh Thiên Chúa như Người mẹ tận tình chăm sóc những đứa con thơ: "Có phụ nữ nào quên
được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó
có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49,15). Tình yêu Thiên Chúa là tình
yêu vô điều kiện. Chúng ta có thể nhận ra 'bóng dáng tình yêu vô điều' kiện trong gia đình nhân
loại. Chẳng hạn, tình yêu của cha mẹ dành cho con cái: Cho dù con cái mình ngoan ngoãn hay
ngỗ nghịch, lành lặn hay khiếm khuyết, giỏi giang hay kém cỏi, trung thành hay bất tín… cha mẹ
luôn yêu thương. Tuy nhiên, tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người trong gia đình
nhân loại còn lớn lao hơn thế nữa, lớn đến mức không ai có thể cảm nghiệm hết được.
 
Theo quan điểm thần học của Trường Phái Tư Tế, Thiên Chúa của Cựu Ước là Thiên Chúa vô
hình, Người 'tiếp cận' Dân Do-thái qua 'cột mây', 'cột lửa', hay qua trung gian các ngôn sứ và
những vị lãnh đạo của Dân. Người cũng không cho họ biết Tên của Người. Sách Xuất Hành tường
thuật:  "Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ:
Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì?
Thì con sẽ nói với họ làm sao? Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: Ta là Đấng Hiện Hữu"  [có nghĩa
rằng Ta là Ta] (Xh 3,13-14). Trong Tân Ước, "Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh
Tử" (Dt 1,2). Người là Đức Giê-su Ki-tô. Trong Bữa Tiệc Ly, trước khi bước vào cuộc khổ nạn,
thánh Tô-ma hỏi Đức Giê-su "thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con
biết được đường?". Đức Giê-su trả lời: 'Thầy là Đường' (Ga 14,6). Đức Giê-su là Thiên Chúa. Tuy
nhiên, Người không trả lời như trong Cựu Ước 'Thầy là Thầy', mà là 'Thầy là Đường'. Trong hành
trình trần thế, Đức Giê-su minh chứng rằng Người là Đường, và Đường đó chính là Đường Tình
Yêu.
 
Mặc khải Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết rằng từ đời đời, Đức Giê-su là Thiên Chúa,
nên một với Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa (Ga 1,1). Trong môi trường không gian, thời gian,
Đức Giê-su chính là tình yêu Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Người, tình yêu Thiên Chúa không còn là
điều gì trừu tượng nữa, mà 'có hình', 'có dạng', mang thân xác loài người và cư ngụ giữa chúng
ta (Ga 1,14). Nhờ Người, 'Thiên Chúa vô thủy vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng,
trọn tốt trọn lành, ở khắp mọi nơi' trở thành Đấng mà con người có thể gặp gỡ, đụng chạm và đi
vào mối tương giao thân mật (1 Ga 1,1). Nhờ Người, tình yêu cứu độ được thực hiện, "Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng

17
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

được sống muôn đời" (Ga 3,16). Nhờ Người, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ cách rõ nét và
viên mãn.
 
Lịch sử nhân loại cho chúng ta biết không ai, không vị sáng lập tôn giáo hay tư tưởng gia lỗi
lạc nào khẳng định mình là đường cho tất cả mọi người. Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm nhờ
người khác chỉ đường để tới chỗ này chỗ kia. Không những thế, có những người còn nhiệt tình
dẫn chúng ta tới nơi chúng ta muốn đến nữa. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa người chỉ đường
hay người dẫn đường với chính con đường. Còn Đức Giê-su, Người không những là người chỉ
đường hay người dẫn đường, mà Người là Đường. Như vậy, Đường là một Nhân Vị, là Ngôi Hai,
Con Thiên Chúa làm người ở giữa gia đình nhân loại.
 
Đường Tình Yêu của Đức Giê-su in dấu trên mặt địa cầu, nơi mảnh đất Pa-lét-tin và những
vùng phụ cận. Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su đã đến với tất cả mọi người, chứ không
chỉ những người Do-thái. Tuổi thơ ấu, Người đã đến Ai Cập vì sự truy lùng của vua Hê-rô-đê (Mt
2,13-14). Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Người đã gặp gỡ những người thuộc dân ngoại,
chẳng hạn như Người gặp gỡ những người ở Sa-ma-ri, những người ở thành Tia và thành Xi-đon
hay miền Thập Tỉnh. Các dấu lạ Người thực hiện, như chữa bệnh, trừ quỉ không chỉ dành riêng
cho người Do-thái thuộc dân tộc, máu mủ của Người, mà cho tất cả mọi người. Trong khi đó, sự
quan tâm của những người lãnh đạo tôn giáo hay dân sự Do-thái chỉ dành riêng cho người cùng
chủng tộc mà thôi. Điều đó nói lên rằng chương trình của Đức Giê-su là chương trình hoàn vũ.
 
Chúng ta có thể nhận thức rằng Đức Giê-su, Đường Tình Yêu, là Đường của Thiên Chúa,
Đường của con người, và là Đường nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Nhờ Đường Tình Yêu
cùng với Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa tạo dựng con người và muôn vật muôn loài. Nhờ Đường
Tình Yêu cùng với Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa cứu độ con người và muôn vật muôn loài. Nhờ
Đường Tình Yêu cùng với Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thánh hóa con người và muôn vật muôn
loài. Như vậy, Đường Tình Yêu của Đức Giê-su là Đường nối kết giữa Đấng Sáng Tạo với thế giới
thụ tạo, giữa Đấng thánh thiện và con người tội lỗi, giữa Đấng toàn năng và con người yếu đuối,
giữa Đấng hằng sống và con người hay chết.
 
Toàn bộ Cựu Ước quy về giới răn yêu thương, với rất nhiều chi tiết quy định để hành
động. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34). Đức Giê-su gọi đây là 'giới răn mới'.
Điểm đặc biệt của ‘giới răn mới’ không phải là 'yêu' theo nghĩa của Cựu Ước, không chú trọng
đến những gì phải làm theo quy định của Lề Luật (what) mà chú tâm đến cách thế yêu (how),
đó là 'yêu như Đức Giê-su đã yêu'. Cũng trong bối cảnh đó, Đức Giê-su giải thích thêm, "không
có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh
em là bạn hữu của Thầy" (Ga 15,13-14). Đức Giê-su yêu các môn đệ như thế đó, yêu đến nỗi gọi
các môn đệ là bạn và chết vì họ. Ở đây, chúng ta thấy được khoảng cách lớn lao giữa  'yêu người
khác như chính mình' của Cựu Ước và 'yêu như Đức Giê-su đã yêu' của Tân Ước (Lv 19,18; Ga
15,13-14).
 
Đường Tình Yêu của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong Biến Cố Vượt Qua
(Passio/Passion), tức là sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Người. Chúng ta có thể khẳng định

18
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

rằng Biến Cố Vượt Qua chính là biến cố trong đó Đường Tình Yêu của Đức Giê-su đạt đỉnh điểm.
Khi đau khổ của Người đến tận cùng, cũng là khi tình yêu của Người trở nên trọn vẹn. Nhờ tình
yêu đó, Đức Giê-su đã giải thoát tất cả mọi người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Do đó, Biến Cố
Vượt Qua mãi mãi là Biến Cố cao trọng nhất trong mặc khải của Thiên Chúa đối với tất cả mọi
người trong gia đình nhân loại, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.
 
Tình yêu Đức Giê-su (cũng là tình yêu Thiên Chúa) rất mạnh, mạnh đến nỗi thế giới thụ tạo
được dựng nên. Tình yêu Đức Giê-su rất mạnh, mạnh đến nỗi tha thứ mọi tội lỗi cho con người.
Tình yêu Đức Giê-su rất mạnh, mạnh đến nỗi con người được thánh hóa và trở thành con Thiên
Chúa. Tuy nhiên, vì tham dự thân phận con người, Đức Giê-su trở nên yếu đuối. Người trở nên
yếu đuối đến nỗi ai cũng có thể từ chối Người. Người trở nên yếu đuối đến nỗi ai cũng có thể
nhạo báng, nhục mạ Người. Người trở nên yếu đuối đến nỗi bị các môn đệ, kẻ thì từ chối Người,
kẻ thì bán Người, kẻ khác thì bỏ chạy khi Người lâm nguy. Người trở nên yếu đuối đến nỗi chịu
chết, chết trên cây thập tự. Đường Tình Yêu của Đức Giê-su thật là Đường nghịch lý (1 Cr 1,22-
25). Nhờ Đường nghịch lý đó, bản tính yếu đuối của con người được biến đổi, tội lỗi của con
người được xóa bỏ và sự chết của con người bị tiêu diệt. Như vậy, Đường nghịch lý nhất lại trở
thành Đường hữu lý nhất, bởi vì, nhờ Đường này, con người và muôn vật muôn loài được biến
đổi và kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa Tình Yêu.
 
Là Ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi theo Đức Giê-su, Đường Tình Yêu. Chúng ta được mời
gọi theo các dấu chân Người trong hành trình trần thế. Người xuống sông Gio-đan để chịu Phép
Rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Người tới sa mạc vùng Giu-đê-a để chịu cám dỗ 40 đêm ngày. Người rảo
bước khắp miền Pa-lét-tin và các vùng phụ cận để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người
đến với những người nghèo khó để an ủi họ. Người tới nhiều vùng đất thuộc dân ngoại để thông
truyền chân lý của Thiên Chúa. Sau cùng, Người vác thập giá tới đồi Can-vê, và từ đây người
không thể tiến bước nữa, vì Người đã bị đóng đinh vào thập giá. Tuy nhiên, sau khi sống lại và
trong Chúa Thánh Thần, Đường Tình Yêu của Đức Giê-su vươn rộng đến tận cùng trái đất nhờ sự
cộng tác trung tín của các môn đệ Người.
 
Trong hành trình rao giảng, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả Đường Tình Yêu của
Người. Chẳng hạn, dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành cho chúng ta biết ai là người đi Đường Tình
Yêu, ai là người đi 'đường duy truyền thống', 'đường duy tập quán', 'đường lãnh đạm' (Lc 10,29-
37). Trớ trêu thay, người Sa-ma-ri, người ngoại giáo lại đi Đường Tình Yêu, còn thầy tư tế, thầy
Lê-vi là những người có 'Đạo', những người ở trong 'truyền thống tình yêu Thiên Chúa' lại không
đi Đường Tình Yêu; những người 'nhân danh Luật Tình Yêu' và giữ rất ngặt các quy định về luật ô
uế của Đền Thờ lại bỏ qua việc thể hiện tình yêu đối với tha nhân sắp chết nằm bên vệ
đường. Điều đó cho chúng ta nhận thức rằng, những ai đi Đường Tình Yêu không cần quan tâm
lắm đến tước hiệu, tên gọi hay bất cứ hình thức phân chia nào mang tính văn hóa, truyền thống,
xã hội. Điều quan trọng đối với những người đi Đường Tình Yêu là nồng độ tình yêu mình diễn tả
qua các tương quan trong cuộc sống hằng ngày.
 
Hôm nay, Đức Giê-su vẫn đang nói với mỗi người chúng ta: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả

19
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?" (Lc 9,23-25). Trong
tương quan với những người khác, Đức Giê-su mời gọi chúng ta: "Anh em đã nghe Luật dạy
rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5,43-44). Còn thánh Gio-an, người môn đệ Chúa
yêu, thì khẳng định: "Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là
kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy"  (1 Ga 4,20).
 
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng con người ham sống sợ chết, ham khen
sợ chê, ham khỏe sợ mệt, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vui sợ buồn. Đức Giê-su
đã đi ngược đường của 'con cháu A-đam và E-và'. Đường Tình Yêu của Đức Giê-su là Đường hẹp.
Người nói: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong,
mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người
tìm được lối ấy" (Mt 7,13-14). Trái lại, ma quỉ, thế gian, xác thịt luôn mời gọi chúng ta đi đường
rộng và thưởng thức những gì dễ dãi, đỡ tốn công, không vất vả. Đức Giê-su luôn mời gọi chúng
ta hãy đi đường chật và qua cửa hẹp trong hành trình trần thế. Người môn đệ Đức Giê-su là
người biết hy sinh, biết quên mình, biết từ bỏ. Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy rằng những
gì chúng ta có được nhờ hy sinh, quên mình, từ bỏ, thì quí giá và đáng trân trọng hơn những gì
chúng ta có được mà không cần phải nỗ lực, không cần cố gắng, không đổ mồ hôi.
 
Đức Giê-su mời gọi chúng ta đi Đường Tình Yêu của Người. Tuy nhiên, chúng ta thường thay
Đường Tình Yêu của Đức Giê-su bằng đường của chúng ta. Đây không phải là câu chuyện cá biệt,
mà là câu chuyện phổ biến trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, trong
cuộc Xuất Hành về Đất Hứa, có lúc Dân Do-thái không còn thờ phượng Thiên Chúa, Đấng dẫn họ
ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, lại thờ bò vàng do mình làm nên (Xh 32,1-6). Trong Tân Ước, khi Đức
Giê-su loan báo Người lên Giê-ru-sa-lem chịu đau khổ và chịu chết thì Phê-rô đã can ngăn Người
(Mt 16,21-23). Hôm nay cũng vậy, chúng ta thường cầu nguyện cho ý chúng ta được thể hiện
hơn là ý Thiên Chúa được thể hiện. Chúng ta than trách A-đam và E-và, chúng ta than trách Dân
Do-thái trong Cựu Ước, chúng ta than trách những người Pha-ri-sêu, kinh sư, luật sĩ Do-thái khi
đối xử bất công với Đức Giê-su. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta cũng đang đi theo đường
của mình với các hình thức khác tinh vi hơn.
 
Chúng ta không thể đi Đường Tình Yêu, nếu chúng ta không thành tâm học hỏi, suy niệm giáo
huấn Đức Giê-su và cộng tác với Thiên Chúa trong việc biến đổi bản thân mình. Các môn đệ Đức
Giê-su, trong hành trình theo Người, đã chứng kiến nhiều điềm thiêng, dấu lạ Đức Giê-su thực
hiện, nhưng họ cũng luôn tối tăm, yếu đuối và lầm lạc như bao người khác. Họ theo Đức Giê-su
với hy vọng Người sẽ nâng cấp thân phận mình so với những người khác trong xã hội Do-thái,
cũng như làm cho dân tộc mình được nở mặt nở mày so với các dân tộc khác trên trần gian này.
Tuy nhiên, với Biến Cố Vượt Qua của Đức Giê-su, họ hoàn toàn biến đổi, họ hiểu được bản chất
của Đường Tình Yêu và trung thành đi Đường Tình Yêu cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng ta cần
học Đường Tình Yêu suốt đời, với hy vọng rằng nhờ ơn Thiên Chúa trợ lực, chúng ta mới có thể
theo Đường Tình Yêu đến cùng.
 

20
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Giê-su không bắt buộc ai cũng phải đi Đường của Người. Tuy nhiên, Người luôn mời gọi
tất cả mọi người 'hãy đến mà xem' (Ga 1,39). Thánh Mát-thêu trình thuật:  "Ông Gio-an lúc ấy
đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa
Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? Đức Giê-su trả
lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng" (Mt 11,2-5). Người luôn kiên nhẫn chờ đợi mọi người đến gặp gỡ, để có thể
hoán cải và biến đổi cuộc sống mình. Những dụ ngôn trong Tân Ước cho phép chúng ta hiểu điều
đó, chẳng hạn như dụ ngôn lúa và cỏ lùng, cả hai cùng tồn tại cho đến mùa gặt (Mt 13,24-30) hay
khi thánh Gio-an nói với Đức Giê-su:  "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ
quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta. Đức Giê-su bảo: Đừng ngăn
cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu
về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta" (Mc 9,38-40). Điều này dẫn
chúng ta tới nhận thức rằng Đường Tình Yêu của Đức Giê-su không phải là 'Đường loại trừ' (the
exclusive Way), mà là 'Đường bao gồm' (the inclusive Way), bao gồm tất cả mọi người trong gia
đình nhân loại.
 
Với bản tính và khả năng mình, không ai trong gia đình nhân loại có thể đến với Thiên Chúa.
Đó là lý do giải thích tại sao Thiên Chúa đã gửi Con Yêu Dấu của Người là Đức Giê-su đến trần
gian để con người 'tập làm quen với Người' và đi Đường Tình Yêu của Người mà đến với anh chị
em mình, đến với thế giới thụ tạo và đến với Thiên Chúa. Đức Giê-su cho chúng ta biết Người là
Đường Duy Nhất: "Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Các môn đệ
của Đức Giê-su, qua thời gian được ở với Người, được thấm nhập những tư tưởng và hành vi của
Người, nhờ đó các ngài đã nhận ra Người là Đường Tình Yêu, Đường Sự Thật và là Đường Duy
Nhất. Các ngài đã trở nên những mẫu gương xán lạn cho tất cả chúng ta. Thánh Phao-lô cũng đã
nhận ra những sai lầm của mình trong giai đoạn trước khi gặp Đức Giê-su Phục Sinh tại Đa-mát.
Từ đó, thánh nhân đã hy sinh tất cả để theo Người: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì
Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời,
là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác,
để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3,7-9). Hơn thế nữa, thánh nhân đã trở nên
khí cụ hữu hiệu của Đức Giê-su, trong hành trình trần thế và minh chứng cho Người bằng cái
chết của mình.
 
Chúng ta tin tưởng rằng khi tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cùng đi Đường Tình
Yêu, cũng là khi bóng tối ma quỉ, thế gian, xác thịt sẽ bị đẩy lui. Khi tất cả mọi người trong gia
đình nhân loại cùng đi Đường Tình Yêu, cũng là khi hận thù không có chỗ đứng, chiến tranh
không còn leo thang, hòa bình, công lý được thiết lập. Khi tất cả mọi người trong gia đình nhân
loại cùng đi Đường Tình Yêu, cũng là khi không có vực thẳm nào mà con người không thể bắc
cầu, không có núi cao nào mà con người không thể san bằng, không có khoảng cách nào mà con
người không thể vượt qua. Khi tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cùng đi Đường Tình Yêu,
cũng là khi mọi người được bình an và ngày càng sống xứng đáng hơn với phẩm giá của mình là
con cái của Thiên Chúa Tình Yêu Vĩnh Cửu.

 Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên

21
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG CHỮA LÀNH


Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 5 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Chúng ta đang trong Mùa Phục Sinh và chúng ta biết rằng Đức Giê-su Phục Sinh là Biến Cố kỳ
diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Nhờ Người, niềm hy vọng chữa lành trọn vẹn của con người,
tức là vượt qua sự chết và được sống muôn đời, trở thành hiện thực. Trong tháng Tư vừa qua,
chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề 'Đức Giê-su - Đường Tình Yêu'. Tháng Năm này, chúng ta
suy niệm chủ đề 'Đức Giê-su - Đường Chữa Lành'. Người đã đi Đường Chữa Lành đến với con
người, đồng thời, mang lấy tất cả đau khổ của con người vào chính bản thân mình mà đưa lên
cây thập giá và đã sống lại để ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người.

Đau khổ là một trong những mầu nhiệm lớn đối với con người. Tùy không gian và thời gian,
mỗi người trải qua những hình thức đau khổ khác nhau và đau khổ nhất là sự chết. Các hình
thức chết cũng rất đa dạng, trong đó, chết vì dịch bệnh được xem là một trong những hình thức
chết khủng khiếp nhất, bởi vì số người chết rất nhiều và mức độ lây nhiễm lớn, lan rộng trong
không gian và trải dài trong thời gian. Kinh Thánh Ki-tô Giáo đề cập một số chủ đề liên quan dịch
bệnh, chẳng hạn như Xh 5,1-5; Xh 9,13-34; Đnl 28,59; 2 Sm 24,10-17; 2 Sb 7,13-15; Lc 21,11; Kh
6,8; Kh 18,8. Lịch sử nhân loại trải qua hàng chục đại dịch khác nhau, đặc biệt, trong thiên niên
kỷ vừa qua có hai đại dịch khủng khiếp. Đại dịch thứ nhất vào thời Trung Cổ có tên là Cái Chết
Đen (the Black Death), cao điểm vào khoảng 1346-1351, giết chết hơn một phần ba dân số châu
Âu. Gần 200 năm sau, dân số châu Âu mới hồi phục. Đại dịch thứ hai có tên là cúm Tây Ban Nha
(1918-1920), với khoảng 500 triệu người bị nhiễm bệnh (gần một phần ba dân số thế giới thời
bấy giờ), trong đó 50 triệu người chết.

Hơn bốn tháng nay, mọi người trên thế giới đều sợ hãi vì đại dịch có tên là Covid-19. Tới cuối
tháng 4 năm 2020, theo ước tính có hơn 3 triệu người nhiễm bệnh và hơn 220 ngàn người chết.
Đại dịch này lan rộng khắp nơi, hơn 210 quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng. Covid-19 không
phân biệt môi trường địa lý, dân tộc, màu da, tôn giáo, kẻ giàu, người nghèo, kẻ già, người trẻ,
kẻ khỏe mạnh, người đau yếu. Với Covid-19, tất cả mọi người đều bình đẳng. Với Covid-19, Vạn
Lý Trường Thành hay bất cứ bức tường nào mà con người có thể dựng nên đều trở thành vô
nghĩa. Trực tiếp hay gián tiếp, Covid-19 đã 'đụng chạm' đến tất cả mọi người trên thế giới. Ai
cũng sợ mắc phải Covid-19, bởi vì, mắc phải Covid-19 có thể dẫn tới chết chóc, chia lìa hay tổn
thất khủng kiếp.

Covid-19 rất yếu, yếu đến nỗi nếu ở trên bề mặt nào đó, thì chỉ dùng xà phòng cọ rửa là nó
tiêu tan. Tuy nhiên, Covid-19 cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi hàng chục ngàn máy bay hay tàu du
lịch hạng sang như World Dream, Diamond Princess, Ruby Princess hay những tàu sân bay lừng
lẫy như USS Theodore Roosevelt của Mỹ, Charles de Gaulle của Pháp đều trở thành 'nạn nhân'
của nó. Những nơi sang trọng và nhộn nhịp như London, Paris, Rome, Hong Kong, New York đều

22
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

trở nên vắng lặng. Nhiều thành phố trên thế giới trở thành 'sa mạc', điều đó khó tin, nhưng có
thật. Sự thiệt hại về tinh thần, vật chất do Covid-19 rất lớn và chưa biết đến bao giờ mới chấm
dứt được.

Với Covid-19, tự do của con người bị hạn chế. Chúng ta có thể nói rằng, cho đến hôm nay,
chưa bao giờ nhân loại chứng kiến một quyền lực nào trong lịch sử có thể 'tước quyền tự do' của
con người như vậy. Với Covid-19, bậc thang các giá trị bị đảo lộn. Những gì thường ngày chúng ta
cho là quan trọng, thiết yếu lại trở nên ít quan trọng, thứ yếu. Quả thực, phòng tránh Covid-19
để ngăn ngừa chết chóc tang thương và các hệ lụy khác là điều cần thiết phải làm trong bối cảnh
hiện tại. Khắp nơi, mệnh lệnh 'giãn cách xã hội' (social distancing) lan truyền. Xa nhau thường
mang nghĩa tiêu cực, nhưng trong bối cảnh đại dịch, thì lại tích cực. Các phương tiện truyền
thông lặp đi lặp lại những câu như 'xa nhau là tôn trọng nhau', 'xa nhau là yêu nhau', 'xa nhau là
để gần nhau'.

Covid-19 'nhắc nhở' chúng ta rằng trong khi chúng ta quan tâm đến nó, thì cũng phải quan
tâm đến những nguyên nhân và hình thức chết chóc khác nữa do con người gây nên, chẳng hạn
như hàng triệu em bé không có cơ hội chào đời mỗi năm vì nạn phá thai hay hàng triệu người
chết dần chết mòn vì nghèo đói, tai nạn giao thông và nhiều bệnh tật khác mà con người có thể
cộng tác với nhau để giảm thiểu tầm mức nguy hại. Chúng ta thường quan tâm đến những cái
chết bất thường hay số đông người chết trong khoảng thời gian nào đó, nhưng lại lãnh đạm với
những cái chết khủng khiếp đã và đang diễn ra hằng ngày. Hơn nữa, trong khi chúng ta quan tâm
đến những loại vi-rút giết chết thể xác, thì cũng cần quan tâm đến nhiều loại vi-rút đang giết dần,
giết mòn tâm hồn chúng ta, chẳng hạn như 'vi-rút lương tâm chai cứng', 'vi-rút tôn mình lên
bằng cách hạ bệ người khác', 'vi-rút coi trọng chức năng hơn phẩm giá con người', 'vi-rút lãnh
đạm, dửng dưng', 'vi-rút bất công'.

Không biết khi nào thì đại dịch Covid-19 sẽ kết thúc, nhưng dấu ấn của nó đã in đậm trong
dòng lịch sử nhân loại. Theo các nhà chuyên môn, có muôn vàn vi-rút gây bệnh thể lý khác nữa
đang hiện diện trong môi trường thiên nhiên và có sự ảnh hưởng lớn lao trên con người và các
sinh vật khác. Trong vũ trụ này, muôn vật muôn loài lệ thuộc lẫn nhau và không có thực thể nào
'tự hữu' hay 'tự giải thích cho chính mình'. Chúng ta chỉ có thể hiểu được thực thể này trong
tương quan với các thực thể khác. Đồng thời, chúng ta có được kinh nghiệm rằng tất cả các thực
thể trong vũ trụ này đều chịu cảnh biến đổi, chết chóc, nay còn mai mất.

Người ta đang tranh luận với nhau về câu hỏi 'Covid-19 do thiên nhiên hay do con người tạo
nên?'. Điều chúng ta biết chắc chắn là con người không thể tạo nên Covid-19 từ hư vô
(nothingness), mà chỉ có thể gây đột biến từ vi-rút có cấu trúc tương tự hoặc từ những thực thể
đã có sẵn trước. Trong quá khứ có nhiều người cho rằng, với sự tiến bộ của tri thức và khoa học
kỹ thuật, con người hoàn toàn có thể chế ngự thiên nhiên và giải thích mọi sự trong thiên nhiên.
Thực tế cho thấy sự chế ngự của con người đối với thiên nhiên vô cùng nhỏ bé so với năng lực và
sự ảnh hưởng của thiên nhiên trên con người. 'Tiếng ho của Covid-19' nhắc nhở chúng ta điều
đó. Đồng thời, Covid-19 giúp chúng ta ngày càng nhận thức rằng những câu hỏi về chính mình,
về thiên nhiên, về các hiện tượng, biến cố cùng các tương quan trong đó luôn vượt quá giới hạn
tri thức con người cũng như sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hôm nay và luôn mãi.

23
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Covid-19 phơi bày những giới hạn của con người: Giới hạn về nhận thức dịch bệnh để đưa ra
những quyết định đúng đắn liên quan đến cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, nhân sự nhằm
giúp đỡ những người bệnh và những người chưa bị bệnh; giới hạn về khả năng phán đoán để
đưa ra những quyết định phù hợp nhằm duy trì đời sống trong quá trình đương đầu với dịch
bệnh; giới hạn về việc đánh giá tầm ảnh hưởng của dịch bệnh, cũng như không gian và thời gian
của sự ảnh hưởng; giới hạn về việc lượng định sức chịu đựng của con người thuộc các lứa tuổi
đối với dịch bệnh. Khi Covid-19 vừa được công bố, không ai có thể hình dung được cảnh tàn phá
rộng lớn và tang thương như chúng ta chứng kiến trong bối cảnh hiện tại. Quả thật, Covid-19 đã
gây đau khổ và làm đảo lộn chương trình của hàng tỷ người trên thế giới.

Covid-19 cũng là dịp cho chúng ta suy niệm về thân phận con người trong thế giới thụ tạo.
Con người thật mạnh mẽ, nhưng cũng thật yếu đuối. Con người dễ bị tổn thương bởi nhiều sự
vật, hiện tượng, biến cố trong thiên nhiên. Con người có thể lên tận các tinh tú, xuống tận đáy
biển. Tuy nhiên, con người không bao giờ ngăn cản hay tận diệt hết các loại vi-rút trên trần gian
này. Con người có thể tìm ra nhiều loại vắc-xin và nhiều loại thuốc đặc hiệu để chữa trị dịch bệnh
cũng như nhiều loại bệnh tật khác. Tuy nhiên, các loại vi-rút và bệnh tật của con người luôn tiềm
tàng và mạnh mẽ hơn khả năng con người có thể tạo nên các phương thức chữa trị. Con người
cần 'Ai đó' giúp đỡ để ngày càng hiểu mình, hiểu thế giới thụ tạo hơn, đồng thời biết sống hòa
hợp với thế giới thụ tạo hơn trong hành trình trần thế của mình.

Chúng ta có thể dùng hình ảnh Covid-19 để diễn tả về Tội Nguyên Tổ theo mặc khải Ki-tô
giáo. Chúng ta không thấy Covid-19 bằng mắt thường, nhưng tốc độ lây lan và sức tàn phá của
nó thật khốc liệt. Đặc biệt, nó trực tiếp tấn công vào đường hô hấp, làm cho con người mất 'sinh
khí' và 'tắt thở' nhanh đến mức không kịp chữa trị. Tội Nguyên Tổ có thể được xem như 'Vi-rút
Tâm Linh' vậy. Không những chúng ta không thấy Tội Nguyên Tổ bằng mắt thường, mà các dụng
cụ tinh vi của khoa học thực nghiệm cũng không bao giờ 'thăm dò' được. Tuy nhiên, nó tấn công
vào đời sống con người, làm cho con người hao mòn 'nhuệ khí' và suy yếu 'thần khí' được Thiên
Chúa phú bẩm trong tâm hồn. Chúng ta thấy được hậu quả của Tội Nguyên Tổ nơi mỗi người
chúng ta, cũng như nơi tất cả mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi.

Mong mỏi lớn nhất của những người hữu trách và giới khoa học toàn cầu là tìm được người
đầu tiên bị nhiễm Covid-19 và vật chủ lây bệnh cho người đó. Còn 'Vi-rút Tâm Linh' thì mặc khải
Ki-tô Giáo đã cho chúng ta biết mầm mống gây bệnh là quỉ dữ và bệnh nhân đầu tiên là Nguyên
Tổ của loài người, A-đam và E-và. Mục đích của việc tìm kiếm người đầu tiên nhiễm bệnh và
mầm mống gây bệnh là để đẩy nhanh tiến trình tìm kiếm vắc-xin phù hợp, nhằm giúp con người
phòng chống Covid-19. Tuy nhiên, Tội Nguyên Tổ, 'Vi-rút Tâm Linh' thì đã có 'Vắc-xin' rồi, đó là
Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Trong khi vắc-xin y học chỉ có tác dụng giúp con người phòng chống
vi-rút, còn Đức Giê-su tẩy trừ 'Vi-rút Tâm Linh' cũng như các hình thức tội lỗi và đau khổ, hậu quả
của Vi-rút này. Đây không phải là Vắc-xin do con người tạo ra, mà là do Thiên Chúa ban tặng. Nói
cách khác, với sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, tội lỗi con người được tha thứ,
các hình thức đau khổ và sự chết bị tiêu diệt.

Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết trong sứ vụ công khai của mình, ở đâu Đức Giê-su hiện
diện, thì ở đó có sự chữa lành. Đối với Người, không có hình thức bệnh tật thể xác hay tâm hồn

24
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

nào lại không thể cứu chữa được. Người cảm nhận được nỗi đau đớn, thống khổ của những
người bệnh và chữa lành họ mà không đặt điều kiện nào. Hơn nữa, Người cũng không dùng
thuốc thang hay bất cứ phương tiện nào khác để chữa trị bệnh tật. Chẳng hạn, khi chữa trị cho
người con của sĩ quan cận vệ nhà vua ở Ca-phác-na-um, viên sĩ quan nói với Đức Giê-su:  "Thưa
Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất! Đức Giê-su bảo: Ông cứ về đi, con ông sống" (Ga
4,49-50). Khi ông đang trên đường về nhà thì gia nhân đón gặp ông và nói rằng con ông sống rồi.
Ông nhận ra đúng lúc Đức Giê-su nói 'con ông sống', thì con ông được khỏi bệnh. Tương tự như
thế, Đức Giê-su nói với người đau ốm đã ba mươi tám năm: "Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!
Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được" (Ga 5,8-9).

Mặc dầu 'Vắc-xin Tâm Linh' đã được trao tặng cách dồi dào phong phú và đưa đến cho mọi
người và mọi nơi, nhưng con người không thể được chữa lành nếu không có thao thức và không
chịu mở rộng tâm hồn để đón nhận. Thật vậy, khi Đức Giê-su chữa lành ai đó, Người mời gọi họ
đặt niềm tin vào Thiên Chúa và vào Người. Chẳng hạn, khi chữa trị đứa trẻ bị quỷ ám mắc bệnh
động kinh, người cha của đứa trẻ nói với Đức Giê-su: "Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh
lòng thương mà cứu giúp chúng tôi" (Mc 9,22). Đức Giê-su trả lời: "Sao lại nói: nếu Thầy có thể?
Mọi sự đều có thể đối với người tin" (Mc 9,23). Cha đứa trẻ đáp: "Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp
lòng tin yếu kém của tôi!" (Mc 9,24). Sau đó, Đức Giê-su đã trục xuất tên quỷ ra khỏi đứa trẻ và
em được khỏe mạnh. Trong Biến Cố Truyền Tin, thánh Lu-ca trình thuật rằng sứ thần Gáp-ri-en
nói với Đức Ma-ri-a: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được"  (Lc 1,37). Như vậy,
chúng ta học được hai điều trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa: (1) Mọi sự đều có
thể đối với Thiên Chúa và (2) mọi sự đều có thể đối với người tin.

Qua việc chữa lành các hình thức bệnh hoạn tật nguyền của con người, Đức Giê-su minh
chứng rằng Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến và Người thực thi chương trình của Thiên
Chúa. Khi Gio-an Tẩy Giả sai các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su về căn tính của Người: "Thầy có thật
là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (Lc 7,20). Đức Giê-su trả
lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được
nghe tin mừng" (Lc 7,22). Tương tự như vậy, trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, thánh Phê-rô
nói với dân chúng rằng: "Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh
em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm
thiêng và dấu lạ giữa anh em"  (Cv 2,22). Tất cả những điều đó dẫn chúng ta tới xác tín vững chắc
rằng sự hiện diện của Đức Giê-su trên trần gian là sự hiện diện của Thiên Chúa và công việc của
Người cũng chính là công việc của Thiên Chúa.

Sự chữa lành của Đức Giê-su thật đa dạng, chẳng hạn như Người chữa lành mọi bệnh tật thể
xác, tâm hồn, trừ quỉ, kiểm soát mãnh lực thiên nhiên, củng cố đức tin, tha thứ tội lỗi, hồi sinh
người chết. Các hình thức chữa lành của Người cũng thật đa dạng, chẳng hạn như Người dùng
lời nói, đụng chạm hay đặt tay. Sự chữa lành của Đức Giê-su diễn tả tình thương của Người đối
với con người và quyền năng của Người trên muôn vật muôn loài, đặc biệt trên các hình thức sự
dữ, đau khổ và sự chết. Tất cả các hình thức phép lạ Đức Giê-su thực hiện trong sứ vụ rao giảng
nhằm chuẩn bị cho phép lạ cả thể nhất, đó là việc Người chịu đau khổ, chịu chết và sống lại.

25
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Mang lấy bản tính con người, Đức Giê-su nối kết bản tính chúng ta với bản tính Thiên Chúa.
Với sự quan tâm ân cần, Người chữa trị chúng ta khỏi sự lãnh đạm. Với tình yêu vô điều kiện,
Người chữa trị chúng ta khỏi sự hận thù. Với niềm tín thác vào Thiên Chúa Cha, Người chữa trị
chúng ta khỏi sự nghi ngờ. Với tinh thần biết ơn Thiên Chúa Cha, Người chữa trị chúng ta khỏi sự
vô ơn. Với sự trung tín, Người chữa chúng ta khỏi sự phản bội. Với sự trút bỏ chính mình, Người
chữa trị chúng ta khỏi sự tham lam vô độ. Với sự khiêm tốn, Người chữa trị chúng ta khỏi sự tự
cao tự đại. Với niềm hy vọng chân thành, Người chữa trị chúng ta khỏi sự thất vọng. Với niềm vui
loan báo Tin Mừng, Người chữa trị chúng ta khỏi sự buồn sầu trong cuộc sống. Với việc mở mắt
cho người mù loà, Người chữa trị chúng ta khỏi sự tăm tối tâm linh. Khi bị treo trên thập giá,
Người cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Khi sống lại, Người dẫn chúng ta vượt qua vực thẳm sự chết. Khi
mang lấy những yếu tố của thế giới thụ tạo, Người đổi mới thế giới thụ tạo thành trời mới đất
mới.

Chúng ta được chữa lành bởi những vết thương của Đức Giê-su. Khoảng 700 năm trước Biến
Cố Đức Giê-su, ngôn sứ I-sai-a đã viết về vai trò 'gánh tội trần gian' của Người: "Chính Người đã
bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta
được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành" (Is 53,5). Điều này được
thánh Phê-rô diễn tả cách rõ ràng và cụ thể hơn trong thư của ngài (1 Pr 2,24). Đức Giê-su không
chỉ mang tội lỗi cho một số người nào đó, trong một khoảng không gian, thời gian nào đó, mà
mang tất cả tội lỗi của tất cả mọi người trong dòng lịch sử. Nói cách khác, hành trình trần thế của
Đức Giê-su, đặc biệt, sự đau khổ, sự chết và sống lại của Người trở thành Biến Cố 'một lần cho
tất cả' để tái tạo con người và muôn vật muôn loài mọi nơi và mọi thời.

Qua việc chữa lành, Đức Giê-su giúp người bệnh và tất cả những người chứng kiến hướng tới
sự chữa lành quan trọng hơn, đó là sự chữa lành đời sống tâm linh, đời sống trong tương quan
giữa con người với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới thụ tạo. Hơn nữa, khi chữa lành cho
ai, Đức Giê-su mời gọi tất cả mọi người đang hiện diện hướng về sự sống dồi dào trong Nước
Thiên Chúa. Đó là lý do giải thích tại sao tác giả sách Tin Mừng thứ tư (thánh Gio-an) không dùng
từ 'phép lạ' để nói về những việc kỳ diệu Đức Giê-su làm, mà dùng từ 'dấu lạ'. Thánh nhân muốn
nhắc nhở mọi người biết nhìn sâu hơn, nhìn xa hơn và nhìn rộng hơn những gì họ chứng kiến
hoặc nghe người khác thuật lại.

Trong khi Đức Giê-su thực thi các điềm thiêng, dấu lạ cho nhiều người để nâng đỡ họ, Người
đã không thực thi điềm thiêng dấu lạ cho chính mình. Điều này đã được đám đông xung quanh
Người trong Biến Cố Thập Giá làm chứng: "Hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì
xuống khỏi thập giá xem nào!...Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình…Hắn là Vua Ít-
ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền" (Mt 27,40-42). Đức Giê-
su, Đường Chữa Lành đã không chiến thắng đau khổ theo cách con người suy nghĩ hay tưởng
tượng. Trái lại, Người chiến thắng đau khổ và sự chết bằng việc gánh lấy đau khổ và sự chết của
tất cả mọi người. Đường Chữa Lành của Người là Đường vượt qua đau khổ và sự chết để tiêu
diệt hoàn toàn đau khổ và sự chết để đem lại sự sống đích thật cho tất cả mọi người.

Chúng ta cần nhận thức rằng những phép lạ hay dấu lạ Đức Giê-su thực hiện không ngược lại
trật tự tự nhiên, nhưng là khôi phục trật tự tự nhiên vốn có ngay từ buổi đầu tạo dựng, bởi

26
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

vì "Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp" (St 1,31). Với sự vô ơn và tự do
lăng loàn của con người, tội lỗi, sự dữ đã xâm nhập trần gian và hậu quả là các hình thức đau
khổ, bệnh tật, sự chết 'đã lan tràn đến hết mọi người' (Rm 5,1-12). Hơn nữa, qua những phép lạ
hay dấu lạ, Đức Giê-su diễn tả lời hứa cứu độ của Thiên Chúa (St 3,15). Đồng thời, những phép lạ
hay dấu lạ đó giúp con người nuôi dưỡng niềm hi vọng vào sự chữa lành trọn vẹn khi Thiên Chúa
qui tụ muôn vật muôn loài trong Người.

Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho phép chúng ta
nhận thức rằng Người vừa là Thầy Thuốc, vừa là Thuốc Chữa cho tất cả mọi người. Chúng ta, ai
cũng có kinh nghiệm rằng khi chữa bệnh, thầy thuốc và thuốc chữa là hai thực thể khác nhau.
Trong trường hợp Đức Giê-su, Người chữa bệnh cho người khác mà không cần bất cứ thứ thuốc
nào, bởi Người là Thuốc Chữa trị mọi thứ bệnh, kể cả sự chết. Người không chỉ hiện diện 33 năm
trong lịch sử, mà còn hiện diện với gia đình nhân loại mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20).
Người hiện diện theo nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như Lời Người, ân sủng Người hay
qua các bí tích trong Giáo Hội. Đặc biệt, Người hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, để trở nên Của
Ăn và Thuốc Chữa hữu hiệu nhất cho đời sống tâm linh của con người trong hành trình trần thế.

Mỗi người chúng ta ai cũng bị thương tích tâm hồn và thể xác. Tuy nhiên, sự nhìn nhận của
mỗi người đối với thương tích của mình khác nhau. Có người sẽ từ chối rằng mình bị thương
tích. Có người cho rằng thương tích của mình là không đáng lo lắng. Có người nhận ra thương
tích của mình nghiêm trọng, nhưng thời gian mình còn dài, mình sẽ tìm cách chữa trị khi thuận
tiện. Có người sử dụng những liều thuốc an thần để tạo cảm giác dễ chịu bên ngoài, nhưng thực
ra bệnh tật ngày càng trầm trọng bên trong. Nói cách khác, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu
phản ứng khác nhau về những thương tích của bản thân. Đức Giê-su, Đường Chữa Lành, luôn
mời gọi tất cả mọi người hãy đến với Người trong mọi nơi, mọi lúc để được Người chữa lành tận
căn và ban ân sủng. Do đó, vấn đề chính là sự đáp trả của mỗi người đối với lời mời gọi của Đức
Giê-su.

Với kinh nghiệm được chữa lành, nhất là sự yêu thương và lòng khoan dung tha thứ của Đức
Giê-su, các môn đệ của Người đã từ bỏ tất cả, đặc biệt từ bỏ chính mình, để cộng tác đắc lực với
Đức Giê-su Phục Sinh, tiếp tục chương trình chữa lành của Người. Quả thật, Đức Giê su đã sai các
môn đệ thi hành chính sứ vụ chữa lành thể lý và tinh thần cho dân chúng mà Người đã thực
hiện: “Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các
ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1). Sách Công Vụ Tông Đồ trình
thuật rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, người ta mang đến cho Phê-rô và Gio-an một
người què từ khi lọt lòng mẹ. Anh ta chăm chú nhìn các ngài và mong được bố thí. Phê-rô nói với
anh: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô
người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!" (Cv 3,6). Với lời đó, anh ta trở thành người bình
thường, "vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa" (Cv 3,8). Đây là sự bố thí hào phóng nhất.
Từ nay, anh ta thoát cảnh què quặt, thoát cảnh cậy nhờ vào người khác để sống qua ngày. Hơn
thế nữa, vì được chữa lành nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, từ nay anh ta trở thành nhân chứng cho
anh chị em mình về Đức Giê-su, Đường Chữa Lành.

27
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Thánh Phao-lô cũng vậy, trước khi gặp Đức Giê-su Phục Sinh, ngài lùng bắt các Ki-tô hữu. Biến
cố Đa-mát khiến ngài mù mắt. Sau 3 ngày, ngài được sáng mắt nhờ Đức Giê-su Phục Sinh cứu
chữa qua trung gian người môn đệ Đức Giê-su là Kha-na-ni-a. Khi được Đức Giê-su sai đến gặp
Phao-lô, Kha-na-ni-a nói: "Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện
ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy
Thánh Thần. Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại thấy được.
Ông đứng dậy và chịu phép rửa. Rồi ông ăn và khoẻ lại"  (Cv 9,17-19). Đức Giê-su Phục Sinh
không chỉ chữa lành mắt thể lý của Phao-lô và cho ngài được thấy, mà còn chữa lành mắt tâm
hồn Phao-lô để ngài thấy được Đức Giê-su là Đường Chữa Lành. Từ đó, Phao-lô trở thành môn
đệ Đức Giê-su, Đường Chữa Lành và minh chứng cho Người bằng đời sống hi sinh, gian khổ cho
đến hơi thở cuối cùng.

Qua những điểm trình bày ở trên, chúng ta có thể tóm lược chương trình của Thiên Chúa
được Đức Giê-su, Đường Chữa Lành thực hiện vào 5 điểm chính như sau: (1) Nhờ Đức Giê-su và
trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sáng tạo con người và muôn vật muôn loài trong tình trạng
tốt lành. (2) Nguyên Tổ đã phạm tội và hậu quả là mọi người trong gia đình nhân loại đều mang
thân phận tội lỗi cũng như các hình thức đau khổ và bệnh tật thể xác, tâm hồn. (3) Đức Giê-su
vừa là Thầy Thuốc, vừa là Thuốc Chữa được Thiên Chúa tặng ban cho tất cả mọi người. (4) Đức
Giê-su đã mang lấy tội lỗi, đau khổ, bệnh tật và sự chết của con người mà đưa lên cây thập giá và
đã sống lại để ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. (5) Tất cả chúng ta được mời gọi luôn
kết hợp với Đức Giê-su để được chữa lành, đồng thời, đi Đường Chữa Lành của Người để đến với
mọi người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

Giám mục Phê-rô Nguyễn Văn Viên

28
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG TRÁI TIM
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 6 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Trái tim là biểu tượng diễn tả những cảm xúc của con người, chẳng hạn như niềm vui, nỗi
buồn, đau khổ, hạnh phúc. Hơn nữa, trái tim còn là biểu tượng diễn tả sự sống thể lý, sự sống
tình cảm, sự sống tâm linh. Đặc biệt, trái tim là biểu tượng diễn tả tình yêu của con người. Tháng
Năm vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su - Đường Chữa Lành. Tháng Sáu là tháng
Trái Tim Chúa Giê-su, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Trái Tim.

Chúng ta biết rằng bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên thế giới. Trong những
thập niên gần đây, ghép tim người này cho người khác không phải là việc quá khó khăn, miễn là
người hiến tim và người nhận tim có được những thông số sinh học phù hợp. Thông thường,
người hiến tim là người đang trong tình trạng bệnh tật hoặc tai nạn không thể cứu chữa, nhưng
trái tim còn tốt. Người nhận tim là người có các cơ phận khác tương đối khỏe mạnh, còn tim thì
không thể làm việc lâu dài được nữa, nếu không thay tim thì sẽ chết. Ghép tim nhằm kéo dài sự
sống thể lý của người nhận tim.

Trái tim thể lý là vậy, còn 'trái tim tâm linh' thì sao? Tất cả mọi người trong gia đình nhân loại
đều bị ‘bệnh tim tâm linh’ và mọi người đều nhận thức rằng không ai có thể làm cho trái tim
mình trở thành tốt được, bởi vì, trái tim của tất cả mọi người đều bị tổn thương vì tội lỗi. Cách
đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa đã ban tặng nhân loại Con Yêu Dấu của Người là Đức Giê-su
Ki-tô, để nhờ Người, với Trái Tim Tình Yêu cao cả, trái tim của tất cả mọi người được nối kết,
biến đổi và thông phần sự sống Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng hành trình trần thế của Đức Giê-
su để lại cho chúng ta nhiều biểu tượng đáng nhớ. Tuy nhiên, biểu tượng mà chúng ta quan tâm
nhất đó là Trái Tim Người bị đâm thâu, khi Người bị treo trên thập giá.

Sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người được Thiên Chúa sáng tạo, và Thiên Chúa hài
lòng với con người do chính Người tạo ra ‘rất tốt đẹp’, cả trí lẫn tâm, vì mang ‘hình ảnh của Thiên
Chúa và giống như Thiên Chúa’ (St 1,26). Như thế, con người có ‘trái tim tốt lành’ và cùng chung
nhịp đập với ‘Trái Tim Thiên Chúa’. Tuy nhiên, con người đã sa chước cám dỗ, đã vô ơn, đã kiêu
ngạo, đã phạm tội và hậu quả là trái tim con người trở nên tăm tối, dơ bẩn, lạc nhịp với Trái Tim
Thiên Chúa. Lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa và con người nói chung và Dân Do Thái nói
riêng là lịch sử của việc Thiên Chúa không ngừng điều chỉnh trái tim con người theo Trái Tim
Thiên Chúa. Lịch sử đó được diễn tả trong Cựu Ước, chẳng hạn như trong sách tiên tri Ê-dê-ki-en,
Thiên Chúa nói với Dân Do-thái, Dân Riêng của Người: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một trái tim
mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi trái tim bằng đá khỏi thân mình các
ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một trái tim bằng thịt” (Ed 36,26). Lời hứa của Thiên Chúa trở
thành hiện thực nhờ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, Người đã đi Đường Trái Tim để đến với con
người và muôn vật muôn loài.

29
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su đã chứng kiến 'trái tim chai đá’ của Dân Do-thái, cũng
như những người thuộc các dân tộc khác. Chẳng hạn, thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi Đức
Giê-su sinh tại Bê-lem, có ba đạo sĩ từ Phương Đông tới Giê-ru-sa-lem gặp Hê-rô-đê và hỏi thăm
về Đức Giê-su, Vua Do-thái mới sinh, thì trái tim Hê-rô-đê đã loạn nhịp, vì ông sợ rằng Vua Do-
thái sẽ lật đổ mình. Ông đã triệu tập các thượng tế và kinh sư để dò hỏi và họ cho biết là Đấng Ki-
tô sinh tại Bê-lem, miền Giu-đê. Chúng ta thấy rằng những người lãnh đạo Do-thái am hiểu Kinh
Thánh, họ giới thiệu cho Hê-rô-đê rằng Vua Do-thái sinh tại Bê-lem, nhưng trái tim của họ không
hề lay chuyển, lòng trí họ không hướng về Thiên Chúa. Còn Hê-rô-đê, với trái tim gian ác, sau khi
vỡ mộng vì ba đạo sĩ không trở về như dự tính, ông đã tìm cách giết các trẻ nhỏ ở Bê-lem và
vùng phụ cận với mưu tính 'giết nhầm hơn bỏ sót' và hy vọng rằng Vua Do-thái mới sinh cùng
chung số phận với những đứa trẻ xấu số đó (Mt 2,1-18).

Trong cuộc đời dương thế, Đức Giê-su đã đi Đường Trái Tim để đến với tất cả mọi người, đặc
biệt, những người đau khổ, nghèo hèn, bị gạt ra bên lề xã hội. Người đã đi Đường Trái Tim đến
với những người tội lỗi. Người đã đi Đường Trái Tim đến với những người bị loại trừ vì định kiến
văn hóa, truyền thống, tôn giáo. Người đã đi Đường trái Tim đến với muôn dân. Cuối cùng, trên
thập giá, Trái Tim Người bị đâm thâu, máu cùng nước chảy ra, phát sinh nguồn ơn cứu độ cho tất
cả mọi người. Nhờ Trái Tim Đức Giê-su, con người cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa ngay
trong hành trình trần thế của mình.

Hành động người lính lấy đòng đâm cạnh sườn Đức Giê-su xuyên thâu Trái Tim khi Người đã
chết trên thập giá gợi lên trong chúng ta hình ảnh E-và được sinh ra từ cạnh sườn A-đam. Như E-
và được sinh ra từ cạnh sườn A-đam, chúng ta được sinh ra từ cạnh sườn Đức Giê-su. Nói đúng
hơn, chúng ta được sinh ra từ Trái Tim Đức Giê-su vì lưỡi đòng đâm thâu trái tim Người. Như E-
và là mẹ các chúng sinh trong buổi đầu sáng tạo, chúng ta là chúng sinh trong chương trình Thiên
Chúa tái tạo nhờ Đức Giê-su, với Trái Tim bị đâm thâu. E-và kết hợp với A-đam thế nào, thì chúng
ta cũng kết hợp với Đức Giê-su như vậy. Tuy nhiên, sự kết hợp của chúng ta với Đức Giê-su thì
mật thiết và trổi vượt hơn, bởi vì Đức Giê-su thì hơn A-đam và hình ảnh trái tim thì hơn hình ảnh
xương sườn. Nhờ Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.

Xét về mặt thể lý, Trái Tim Đức Giê-su cũng như trái tim của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên,
Trái Tim Đức Giê-su chính là 'Trái Tim nhân loại của Thiên Chúa'. Trái Tim đó diễn tả tình yêu vô
biên, tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với con người. Nói cách khác, Người đã mang lấy
trái tim nhân loại, để yêu thương nhân loại bằng tình yêu của Thiên Chúa. Người đã đi Đường
Trái Tim để cảm nhận bao nỗi truân chuyên, đau khổ của con người trong môi trường thế giới
thụ tạo và hướng dẫn con người về với Thiên Chúa. Từ trái tim đến trái tim, từ Thiên Chúa Cha,
qua Đức Giê-su tới nhân loại và theo chiều ngược lại, một ‘dòng máu luôn luân chuyển’, làm cho
con người được thông phần sự sống đời đời của Thiên Chúa.

Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của ma quỉ, thế gian, xác
thịt. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của bóng đêm, tội lỗi, sự
chết. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi vào đường của chủ nghĩa tương đối,
chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ và nhiều hình thức chủ nghĩa hạ thấp phẩm giá con người
đang nảy sinh trong thế giới đương đại. Nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ không rơi

30
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

vào đường của những gì chóng qua mà thế giới đương đại cổ vũ, khuyến khích. Nhờ Đường Trái
Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ gặp gỡ chính mình cách đúng đắn nhất, gặp gỡ anh chị em mình
cách chân thành nhất, gặp gỡ muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo cách phù hợp nhất. Đặc
biệt, nhờ Đường Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa cách thâm sâu nhất.

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết rằng con người qua mọi thời đại thường quan tâm đến
khả năng của bộ não, khả năng của tri thức, hơn là khả năng của trái tim. Hậu quả là có nhiều
người mắc chứng bệnh 'đầu to tim nhỏ', cảm thức của trái tim thường vắng bóng trong các
tương quan của đời sống mình. Họ thường nhận định, đánh giá con người dựa trên tri thức hơn
là trái tim. Trong thực tế, chúng ta thấy rằng nếu có được sự hòa hợp giữa tri thức và trái tim là
điều tốt. Bằng không, khi có sự xung khắc nào đó, thì ưu tiên phải dành cho trái tim, nghĩa là để
trái tim lên tiếng, để trái tim dẫn dắt, để trái tim hành động, chứ không phải là tri thức.

Người ta ước tính có khoảng hơn 6500 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Sự bất đồng ngôn
ngữ là một trong những cản trở lớn cho tiến trình hấp thụ văn hóa (enculturation) và tiếp biến
văn hóa (acculturation) giữa các dân tộc, cũng như nhiều tương quan khác trong đời sống xã hội.
Những người thông dịch tài ba nhất cũng không bao giờ chuyển tải cách trọn vẹn những khái
niệm, biểu tượng, tập tục từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Thế giới có nhiều ngôn ngữ
như vậy, tuy nhiên, có một thứ ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người, đó là 'ngôn ngữ trái tim'.
Đây là ngôn ngữ tương giao, nối kết và liên đới. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ tha thứ, bao
dung, quảng đại. Ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ mở ra, mời gọi, đối thoại. Ngôn ngữ trái tim là
ngôn ngữ cảm thương, hi sinh và nâng đỡ.

Ngôn ngữ trái tim trở thành ngôn ngữ tự nhiên của con người. Ngôn ngữ trái tim không phân
biệt tuổi tác, giàu nghèo, sang hèn hay bất cứ tiêu chuẩn nào mà con người đặt ra. Ngôn ngữ trái
tim là ngôn ngữ siêu việt mọi biên giới. Phải, ngôn ngữ trái tim là ngôn ngữ mà ai cũng có thể
'nói' hay 'diễn tả'. Một đứa bé đang hình thành trong lòng mẹ hay một người câm điếc hoàn
toàn vẫn có thể cảm nghiệm và diễn tả ngôn ngữ trái tim. Tuy nhiên, để ngôn ngữ trái tim phát
huy tác dụng cao nhất, mỗi người cần luyện tập và chuẩn bị cho mình trái tim luôn mở ra và cảm
thông với tất cả mọi người.

Chúng ta ai cũng ít nhiều kinh nghiệm về trái tim chai đá của mình và chứng kiến trái tim chai
đá nơi nhiều người khác. Những trái tim chai đá trước bất công xã hội. Những trái tim chai đá
trước chuẩn mực luân thường đạo lý. Những trái tim chai đá trước nỗi đau khổ của người khác.
Những trái tim chai đá trước sự thật và sự lành nơi người khác. Nguyên nhân chính yếu của trái
tim chai đá phát xuất từ sự vô cảm đối với Đấng là Nguyên Ủy và Cùng Đích của vạn vật, là Thiên
Chúa Tình Yêu mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng sự hy sinh từ bỏ, sự đau khổ, sự chết
và phục sinh của Người.

Tiến trình toàn cầu hóa (globalisation) và thế giới kỹ thuật số (the digital world) đem đến
nhiều điều tốt đẹp cho con người, đặc biệt đời sống vật chất. Tuy nhiên, khi đời sống vật chất
của con người được cải thiện, cũng là lúc chủ nghĩa tiêu thụ lên ngôi và dẫn tới hệ lụy nghiêm
trọng là làm cho trái tim con người biến dạng. Trong Tông Huấn Hãy Vui Mừng và Hoan Hỷ,  Đức
Thánh Cha Phan-xi-cô khẳng định: "Chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm phù nề trái tim. Nó có thể đem lại

31
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

những lạc thú nhất thời và chóng qua, chứ không phải niềm vui [đích thực]" (Gaudete et
Exsultate 128). Theo ý ngài, niềm vui đích thực là niềm vui của trái tim được nối kết với Trái Tim
Thiên Chúa, đó là niềm vui dâng hiến, niềm vui trao ban, niềm vui chia sẻ.

Để có được niềm vui đích thực, tất cả chúng ta được mời gọi biến đổi, và câu hỏi đầu tiên là
'chúng ta bắt đầu từ đâu?' Thưa, bắt đầu bằng việc biến đổi trái tim mình. Câu hỏi thứ hai ‘đâu là
trái tim mẫu giúp chúng ta biến đổi?' Thưa, đó là Trái Tim Đức Giê-su, Trái Tim bị đâm thâu vì tội
lỗi chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, cũng là khi chúng ta đóng trái tim mình lại trước tình yêu của
Thiên Chúa được diễn tả nơi Trái Tim Đức Giê-su, cắt đứt dòng chảy thông truyền sống được nối
kết qua Trái tim Người. Do đó, chúng ta luôn được mời gọi mở rộng trái tim mình để đón nhận
sự tha thứ, đón nhận ân sủng và bình an của Thiên Chúa không ngừng tuôn chảy trừ Trái Tim
Đức Giê-su bị đâm thâu.

Không có cách nào khác để trái tim của chúng ta luôn được khỏe mạnh ngoài việc được nối
kết với Trái Tim Đức Giê-su. Hơn nữa, việc nối kết với Trái Tim Đức Giê-su không phải là hành
động nhất thời hay hành động 'một lần cho tất cả', mà là hành động luôn mãi, bởi vì chúng ta
mang thân phận yếu đuối mỏng dòn và bị bao vây bởi thế giới bóng đêm và muôn hình thức cám
dỗ. Chúng ta được mời gọi luôn nối kết và tái nối kết với Trái Tim Đức Giê-su trong cuộc lữ hành
trần thế của mình. Khi trái tim chúng ta chung nhịp với Trái Tim Đức Giê-su, chúng ta có thể vượt
qua những giới hạn của bản thân mình. Khi trái tim chúng ta chung nhịp với Trái Tim Đức Giê-su,
chúng ta có được khả năng mở ra với anh chị em mình, với toàn thể thế giới thụ tạo, đặc biệt,
mở ra với môi trường vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được tình yêu vô bờ của
Người đối với mỗi người chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm
nhận được sự khiêm tốn, từ bỏ của Người đối với mỗi người chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức
Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sự đau khổ của Người vì sự sống vĩnh cửu của
chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sức nặng của tội
lỗi chúng ta. Ngắm nhìn Trái Tim Đức Giê-su bị đâm thâu, chúng ta cảm nhận được sự cần thiết
phải cộng tác với Người trong mọi biến cố của cuộc sống chúng ta.

Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407) nói rằng "nếu bạn tìm được đường vào trái tim mình, bạn
tìm được đường về trời". Ý của ngài là chúng ta càng gần với mình bao nhiêu thì chúng ta càng
gần với Thiên Chúa bấy nhiêu và ngược lại. Khi chúng ta biết được lòng mình, khi chúng ta biết
được trái tim mình, cũng là khi chúng ta nhận ra sự cần thiết của sức mạnh tình yêu Thiên Chúa,
hầu có thể biến đổi lòng mình, biến đổi trái tim mình theo thánh ý Người. Khi chúng ta biết được
lòng mình, khi chúng ta biết được trái tim mình, cũng là khi chúng ta nhận ra sự cần thiết phải
luôn trở về với Thiên Chúa. Nhờ vậy, lòng chúng ta, trái tim chúng ta không ngừng được bồi
dưỡng, tiếp sức bởi Trái Tim Thiên Chúa.

Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng trái tim thể lý chúng ta yếu, yếu đến nỗi chỉ
cần một vật nhỏ cũng có thể đâm thâu. Tuy nhiên, nó cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi bắt đầu làm
việc ngay từ trong lòng mẹ, cho đến khi kết thúc cuộc hành trình dương gian. Tương tự như thế,
trái tim tâm linh chúng ta yếu, yếu đến nỗi chúng ta dễ làm cho nó trở nên tối tăm mê muội. Tuy

32
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

nhiên, nó cũng rất mạnh, mạnh đến nỗi giúp chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giê-
su. Nó rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ tin vào Đức Giê-su, chúng ta có thể làm những việc Đức Giê-
su làm, dạy những điều Đức Giê-su dạy, gặp gỡ những người khác như Đức Giê-su gặp gỡ và yêu
thương họ như Đức Giê-su đã yêu thương (Ga 13,34; Ga 14,12).

Con người ngày càng quan tâm hơn đến thế giới tự nhiên, đặc biệt, con người quan tâm đến
sức mạnh của lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng tất cả những
lực này không thể so sánh với lực của trái tim, lực của tình yêu, được thể hiện trong chương
trình của Thiên Chúa, nhất là Biến Cố Đức Giê-su. Lực này cho phép muôn vật muôn loài được
tạo thành từ hư vô (nothingness). Lực này cho phép gắn bó thế giới thụ tạo với Đấng Sáng Tạo,
gắn bó môi trường nhân loại với Môi Trường Thiên Chúa, gắn bó thời gian với vĩnh cửu, gắn bó
hữu hạn với vô hạn. Đặc biệt, lực này cho phép gắn bó bản tính con người với bản tính Thiên
Chúa, gắn bó con người tội lỗi với Thiên Chúa thánh thiện. Đồng thời, lực này cho phép gắn bó
con người hay chết với Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, lực này cho phép con người không
ngừng biến đổi để ngày càng hoàn thiện hơn trong hành trình về với Nước Thiên Chúa. Kinh
nghiệm của hai thánh tông đồ Gio-an và Tô-ma cho phép chúng ta cảm nghiệm được năng lực vô
song phát xuất từ Trái Tim Đức Giê-su.

Trong bữa tiệc ly, khi Đức Giê-su nói rằng một trong các môn đệ sẽ phản bội Người, Phê-rô ra
hiệu cho Gio-an, đang tựa đầu vào lòng Đức Giê-su, để hỏi xem Người muốn nói về ai (Ga 13,24).
Gio-an đã hỏi và biết được Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là người phản bội. Hình ảnh Gio-an tựa đầu vào lòng
Đức Giê-su gợi lên nhiều điều quan trọng cho chúng ta. Khi tai của Gio-an lắng nghe nhịp đập của
Trái Tim Đức Giê-su, cũng là khi Gio-an cảm nghiệm được tình yêu và tâm tư của Người nhiều
hơn so với các môn đệ khác. Khi tựa đầu vào lòng Đức Giê-su và lắng nghe nhịp đập của Trái Tim
Người, Gio-an nhận ra nhiều mặc khải quan trọng và ngài đã để lại cho chúng ta (Ga 13-17).
Chẳng hạn, Gio-an trình thuật về giới răn mới, giới răn yêu thương (Ga 13,34); Đức Giê-su là
đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6); Đức Giê-su là cây nho (Ga 15,1); Đức Giê-su là bạn của
các môn đệ, Người đã hi sinh mạng sống vì bạn mình (Ga 15,12-15); mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
(Ga 14,16; Ga 14,26); sự sống đời đời (Ga 17,3); sự hiệp nhất giữa Đức Giê-su với Đức Chúa Cha
và các môn đệ (Ga 16,33; Ga 17,24-26). 

Nhờ tựa đầu vào lòng Đức Giê-su và lắng nghe nhịp đập của trái tim Người, trong cuộc khổ
nạn của Đức Giê-su, Gio-an đã không như các môn đệ khác, người thì bán Đức Giê-su, người thì
chối Đức Giê-su, người thì bỏ chạy. Gio-an đã trung tín với Người. Gio-an đã đi Đường Thập Giá,
cũng là Đường Trái Tim Đức Giê-su. Chỗ đứng cuối cùng của Gio-an là dưới chân thập giá Đức
Giê-su cùng với Đức Ma-ri-a. Gio-an đã trung tín với Thầy mình đến cùng. Gio-an chứng kiến
người lính lấy lưỡi đòng đâm thâu Trái Tim Đức Giê-su, máu cùng nước chảy ra và cảm nghiệm
được đỉnh điểm của tình yêu hiến tế mà Đức Giê-su thực hiện để cứu chuộc nhân loại.

Khi Đức Giê-su được mai táng trong mộ, ngày thứ nhất trong tuần bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra
thăm mộ và không thấy Đức Giê-su đó nữa, bà về báo với Phê-rô và Gio-an. Nghe tin, Phê-rô và
Gio-an chạy ra mộ, Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và tới trước. Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô
không phải vì trẻ hơn, nhưng vì yêu Đức Giê-su nhiều hơn và muốn biết càng sớm càng tốt tình
trạng của Thầy mình. Khi tới mộ, Gio-an dừng lại và nhường cho Phê-rô vào trước. Thấy ngôi mộ

33
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

trống và những gì trước mắt, Gio-an tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh, trong khi người môn đệ
trưởng Phê-rô vẫn đang bàng hoàng, lo lắng, vì nhìn thấy những điều vô lý theo kinh nghiệm của
mình. Như vậy, ai ở gần Trái Tim Đức Giê-su, thì người ấy kết hiệp mật thiết với Người. Đồng
thời, người ấy hiểu được căn tính, đời sống, và sứ mệnh của Đức Giê-su hơn những người khác.

Ai nhìn thấy Trái Tim Đức Giê-su, người đó được đổi mới. Tô-ma, môn đệ của Đức Giê-su, là
người điển hình. Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng khi Đức
Giê-su sống lại và hiện ra lần đầu với các môn đệ, Tô-ma không có mặt. Tô-ma không tin lời các
môn đệ thuật lại và tuyên bố: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin"  (Ga 20,25).  Tám
ngày sau, Đức Giê-su hiện ra lần nữa và nói với Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Ông Tô-
ma thưa Người: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"  (Ga 20,27-28). Chúng ta biết rằng tới
thời điểm này trong sứ mệnh dương thế của Đức Giê-su, Phê-rô và các môn đệ đều hiểu Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Thánh của Thiên Chúa, bởi vì Đức Giê-su đã nói
và làm những công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa lại là
Tô-ma, chứ không ai khác. Như vậy, người được mệnh danh là nghi ngờ và chậm tin nhất trong
số các môn đệ Đức Giê-su lại là người diễn tả mặc khải lớn lao
nhất "Ὁ  Κύριός μου  καὶ ὁ  Θεός μου"  rằng Đức Giê-su không chỉ là Chúa (Κύριός), mà còn là
Thiên Chúa (Θεός). Nhờ và qua Tô-ma, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi bắt đầu ló rạng nơi cộng đoàn
Ki-tô hữu tiên khởi, và với hai Công Đồng Nicaea (325) và Constantinople (381) tín điều Chúa Ba
Ngôi được định tín cách hoàn chỉnh hơn.

Trong Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an, có ba lần tên của Tô-ma xuất hiện gắn
liền với những mặc khải quan trọng. Lần thứ nhất, Tô-ma chứng kiến Đức Giê-su làm cho La-da-
rô được hồi sinh sau khi mai táng trong mộ bốn ngày (Ga 11,1-44). Lần thứ hai, Tô-ma đặt câu
hỏi: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga
14,5) và Đức Giê-su trả lời: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6). Lần thứ
ba, Tô-ma nhìn thấy những vết thương của Đức Giê-su, đặc biệt, được Đức Giê-su mời gọi  'đưa
tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy', cạnh sườn nơi lưỡi đòng đâm thâu trái tim Người. Như vậy,
Tô-ma đã 'nhìn thấy Trái Tim Đức Giê-su', 'nhìn thấy tình yêu Đức Giê-su', tình yêu bằng xương
bằng thịt đang đứng trước mặt mình. Khi Đức Giê-su trả lời 'chính Thầy là con đường', như các
môn đệ khác,  chắc rằng Tô-ma không thể hiểu nổi câu trả lời của Đức Giê-su. Tuy nhiên, khi
chứng kiến sự đau khổ, khi chứng kiến các vết thương Đức Giê-su, đặc biệt, khi được Đức Giê-su
mời gọi đặt tay vào cạnh sườn, đặt tay vào Trái Tim Người, Tô-ma đã hiểu ra rằng Đường của
Đức Giê-su là Đường Trái Tim.

Tô-ma diện kiến Đức Giê-su Phục Sinh với những vết thương còn in dấu trên thân thể Người,
điều đó quan trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sự diện kiến Đức Giê-su Phục Sinh đã trổ
sinh hóa trái tốt đẹp. Chính Trái Tim Yêu Thương của Đức Giê-su đã làm cho trái tim nghi ngờ,
trái tim thất vọng, trái tim yếu đuối của Tô-ma được biến đổi và trở thành trái tim tín thác, trái
tim hy vọng, trái tim mạnh mẽ. Tô-ma đã nhìn thấy Đường Trái Tim Đức Giê-su, đồng thời, nhận
ra sự cần thiết để loan báo Đường Trái Tim Người cho anh chị em đồng loại. Quả thật, ngài đã
trở nên sứ giả của Đường Trái Tim Đức Giê-su trong những tháng năm còn lại của cuộc đời.

34
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Tương truyền rằng ngài đã ra đi loan báo Đường Trái Tim Đức Giê-su tận đất nước Ấn Độ xa xôi
và đã minh chứng cho Đường Trái Tim Đức Giê-su bằng chính mạng sống mình.

Đức Giê-su luôn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là những môn đệ Người yêu mến. Như Gio-
an tông đồ, chúng ta hãy nép mình vào lòng Đức Giê-su, hãy ghé tai vào Trái Tim Đức Giê-su, hãy
lắng nghe nhịp đập của Trái Tim Người. Chúng ta cầu xin Đức Giê-su điều chỉnh nhịp đập trái tim
chúng ta sao cho hòa điệu với nhịp đập Trái Tim Người. Như Tô-ma, chúng ta hãy chiêm ngắm
những vết thương trên thân thể Đức Giê-su, đặc biệt, chiêm ngắm Trái Tim Người bị đâm thâu
và thân thưa với Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28). Nhờ đó, chúng
ta không bao giờ tôn thờ Chúa nào khác ngoài Chúa Giê-su và không bao giờ tôn thờ Thiên Chúa
nào khác ngoài Thiên Chúa Ba Ngôi mà Chúa Giê-su đã loan báo và làm chứng bằng Đường Trái
Tim Người trong hành trình trần thế.

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 7 năm 2020

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Sáu vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Trái Tim. Tháng
Bảy này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Mục Tử Nhân Lành. Hình
ảnh mục tử và đoàn chiên là hình ảnh phổ biến diễn tả nội dung đức tin Ki-tô Giáo. Trong Cựu
Ước, hình ảnh này chủ yếu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái, Dân Riêng của
Người. Trong Tân Ước, hình ảnh này diễn tả tương quan giữa Đức Giê-su và toàn thể mọi người
trong gia đình nhân loại. Đây cũng là hình ảnh được sử dụng để diễn tả tương quan giữa các vị
lãnh đạo trong Giáo Hội và những người mà các vị được ủy thác chăm sóc.

Mục Tử Nhân Lành (Pixabay)

Hai bên tường các Hang Toại Đạo (Catacombs: Đất Thánh hay Nghĩa Trang dưới lòng đất) ở
ngoại thành Rô-ma, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ hai và thứ ba sau Chúa Giáng Sinh,
người ta khắc vẽ nhiều hình ảnh, trong đó nổi bật nhất là hình ảnh Đức Giê-su, Mục Tử Nhân
Lành vác con chiên trên vai. Câu hỏi đặt ra là tại sao người ta lại khắc vẽ hình ảnh này? Thưa, bởi
vì, đây là hình ảnh diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su cách đơn sơ và thân mật
nhất. Các tín hữu luôn tin tưởng rằng Đức Giê-su đến trần gian để qui tụ và dẫn dắt đoàn chiên
tản mát vì tội lỗi và sự chết về cho Thiên Chúa.

Sách Sáng Thế, cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh, cho chúng ta biết rằng A-ben, Áp-ra-
ham, I-sa-ác, Gia-cóp là những người chăn chiên. Tất cả 12 con trai của Gia-cóp đều là những
người chăn chiên. Còn Mô-sê, một người Do-thái, sau khi được vớt lên từ sông Nin đã sống ở

35
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

cung điện nhà vua Ai-cập. Tuy nhiên, trong cơn nguy khốn, Mô-sê đã vào sa mạc và trở thành
người chăn chiên. Đa-vít cũng vậy, là một người chăn chiên, được Thiên Chúa tuyển chọn để trở
thành vị vua lừng lẫy nhất của dân tộc Do-thái. Việc dùng hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên để
diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái, được đề cập khá nhiều trong Cựu Ước,
chẳng hạn như trong sách Dân Số, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Thánh Vịnh, I-sai-a, A-mốt, Da-ca-ri-a.

Tương truyền rằng khi Mô-sê chăn chiên cho bố vợ (trước khi lãnh nhận sứ vụ dẫn dắt Dân
Do-thái), thì một con chiên nhỏ tự mình tách khỏi đoàn. Mô-sê theo bước con chiên mà không
hiểu lý do tại sao nó lại ra đi như vậy. Đến chỗ có khe nước nhỏ, con chiên dừng lại và uống
nước. Mô-sê nói với con chiên một cách âu yếm: "Tao không biết mày khát nước, có lẽ mày rất
mệt rồi?" Sau khi nói như vậy, Mô-sê vác con chiên lên vai và đưa về với đoàn chiên. Thiên Chúa
nói với Mô-sê: "Vì con đã có hành động hào hiệp như vậy đối với con chiên nhỏ, con xứng đáng
là người chăn dắt đoàn chiên của Ta." Đó là lý do giải thích tại sao Mô-sê được Thiên Chúa tuyển
chọn để dẫn dắt Dân Do-thái về Đất Hứa.

Liên hệ giữa người chăn chiên và đoàn chiên ở Pa-lét-tin thời Đức Giê-su khác biệt với nhiều
nơi trên thế giới trong bối cảnh hiện tại, chẳng hạn như ở Mỹ, Canada, Anh, Australia, New
Zealand. Ở những nước phát triển này, chiên được chăn thả mà không nhất thiết phải có ai bên
cạnh. Người ta thường phân vùng cỏ cho đoàn chiên. Chẳng hạn, hôm nay, đoàn chiên ăn cỏ
vùng này, ngày mai vùng khác. Ở Pa-lét-tin, người chăn chiên và đoàn chiên rất gần gũi với nhau,
người chăn chiên luôn hiện diện với đoàn chiên, biết từng con chiên và đặt tên cho nó.

Trong miền Pa-lét-tin, đất đai cằn cỗi, đoàn chiên luôn cần sự dẫn dắt của người chăn để có
thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác, hầu có đủ thức ăn qua ngày. Hơn nữa, với nơi hoang mạc
như vậy, nguồn nước luôn là thách đố lớn đối với người chăn chiên. Sự bảo đảm cho đoàn chiên
có đủ thức ăn, nước uống luôn là vấn đề cấp thiết. Ngoài việc tìm kiếm thức ăn mỗi ngày, đoàn
chiên phải đối diện với những hiểm nguy khác, chẳng hạn như sói dữ hay những người trộm
cướp. Càng đối diện với nghịch cảnh thiếu thức ăn, nước uống, thú dữ hay những người trộm
cướp, đoàn chiên càng lệ thuộc vào người chăn.

Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên ăn sâu vào truyền thống, văn hóa và tôn giáo Do-
thái. Khi diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người, tác giả Thánh Vịnh 23 đã viết:  "Chúa
là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì"  (Tv 23,1). Chúng ta tóm lược một số ý tưởng
chính yếu của Thánh Vịnh này như sau: Mục tử cung cấp đầy đủ nhu cầu cho đoàn chiên; mục tử
cho đoàn chiên nghỉ ngơi; mục tử hướng dẫn đoàn chiên đi trên đường ngay nẻo chính; mục tử
trang bị những gì cần thiết để bảo vệ đoàn chiên; mục tử an ủi đoàn chiên; mục tử bồi bổ sức
sống đoàn chiên; mục tử ở lại với đoàn chiên luôn mãi. Những nhân vật lãnh đạo quan trọng
trong lịch sử dân tộc Do-thái, đặc biệt Áp-ra-ham, Mô-sê và Đa-vít là những hình ảnh tiên báo về
Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành.

Trong Biến Cố Giáng Sinh, những người đầu tiên đến với Đức Giê-su không phải là các chuyên
gia Kinh Thánh, những bậc vị vọng trong dân tộc Do-thái hay những người quyền cao chức trọng
của đế chế Rô-ma đang cai trị miền đất này, nhưng lại là những mục đồng (những mục tử nhí)
đơn sơ hèn mọn. Họ đến với Đức Giê-su bằng cả tâm hồn. Không những thế, giữa đêm đông giá

36
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

lạnh, đoàn chiên của các mục đồng đã sưởi ấm Đức Giê-su, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Các
mục đồng đơn sơ và những con chiên hiền lành rất vui mừng vì đã được tiếp xúc với Người Bạn
Lớn là Mục Tử Nhân Lành trong hình hài trẻ thơ. Đức Giê-su có được kinh nghiệm đầu tiên trong
đời mình về tương quan giữa người chăn chiên và đoàn chiên. Như vậy, những gì Kinh Thánh
Cựu Ước nói về Đức Giê-su đã được ứng nghiệm từ thuở sơ sinh, chứ không phải đến khi Người
loan báo Tin Mừng cách công khai.

Không chỉ các mục đồng và đoàn chiên đến với Đức Giê-su, trong Biến Cố Giáng Sinh còn có
sự thăm viếng của các đạo sĩ từ phương xa nữa, họ là 'dân ngoại' (Mt 2,1-12). Các mục đồng,
những người chăm sóc đoàn chiên, luôn sống trong cảnh 'màn trời chiếu đất'. Họ có cơ hội 'nhìn
trời' nhiều hơn những người khác và cảm nhận được sự kỳ vĩ của công trình Thiên Chúa sáng tạo
với tâm hồn đơn sơ, chất phác của mình. Các đạo sĩ là những người học cao trông rộng, họ là các
nhà chiêm tinh, những chuyên gia về bầu trời. Ngôi Sao Giáng Sinh xuất hiện ở Phương Đông, tuy
nhiên nhiều người đã không nhận ra, bởi vì họ không có tâm hồn hướng về trời cao. Các đạo sĩ
nhìn thấy Ngôi Sao Giáng Sinh xuất hiện lạ thường, phân biệt với các ngôi sao khác trên bầu trời.
Các mục đồng và các đạo sĩ, những người ở gần và những người ở xa, những người 'có đạo' và
những người 'ngoại đạo', những người hèn mọn và những người cao sang đại diện cho những
nhóm người khác nhau trong xã hội, nhưng lại có cùng tâm thức. Họ rất khiêm tốn và luôn chuẩn
bị tâm hồn cho những gì mới mẻ xuất hiện. Đó là lý do giải thích tại sao trong Biến Cố Giáng Sinh,
các mục đồng và các đạo sĩ vội vã ra đi, muốn càng sớm gặp gỡ Đức Giê-su càng tốt.

Kinh nghiệm lịch sử Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng những người biết ngạc nhiên
trước công trình kỳ vĩ của thế giới thụ tạo và gần gũi với thế giới thụ tạo, thì cảm nhận được sự
hiện diện và hoạt động của Đấng Sáng Tạo. Những người biết 'nhìn trời' thì biết lắng nghe
'ý trời', thấu hiểu 'ý trời', đồng hóa 'ý trời' và hành động theo 'ý trời'. Hình ảnh các mục đồng và
các đạo sĩ cho chúng ta rút ra hệ luận rằng tâm hồn đơn sơ và lý trí lành mạnh là điều kiện cần
thiết để con người nhận ra chương trình của Thiên Chúa. Còn những kẻ lắm chữ như các kinh sư,
thượng tế và nhiều quyền như Hê-rô-đê lại không có cơ hội gặp gỡ Đức Giê-su, Mục Tử Nhân
Lành, bởi vì tâm họ không lành và trí họ không sáng. Tâm trí họ không hướng về trời cao, nhưng
chỉ hướng về lợi lộc trần gian và những gì bảo đảm cho thanh danh mình được người đời biết
đến mà thôi.

Trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an (Ga 10,1-18), Đức Giê-su nói rằng Người là
Mục Tử Nhân Lành để diễn tả sự khác biệt giữa Người và các vị lãnh đạo Do-thái, đặc biệt những
người Pha-ri-sêu trong dấu lạ Người thực hiện để chữa người mù từ lúc mới sinh ở phần trước
đó (Ga 9,1-41). Quả thật, các vị lãnh đạo Do-thái, nhất là những người Pha-ri-sêu không có tâm
thức đối với dân chúng như Đức Giê-su. Họ là những 'người lạ'. Đức Giê-su phân biệt giữa Mục
Tử Nhân Lành và người lạ như sau: Mục Tử Nhân Lành luôn đi đường chính trực, người lạ đi
đường gian trá; Mục Tử Nhân Lành quan tâm đến đoàn chiên, người lạ quan tâm đến mình;
Đoàn chiên nhận ra tiếng Mục Tử Nhân Lành, không nhận ra tiếng người lạ; Mục Tử Nhân Lành
qui tụ đoàn chiên, người lạ phân tán đoàn chiên; Mục Tử Nhân Lành bảo vệ đoàn chiên trước
hiểm nguy, người lạ tìm đường tháo chạy; Mục Tử Nhân Lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên,
người lạ tìm cách bảo tồn mạng sống mình; Mục Tử Nhân Lành đưa đoàn chiên tới sự sống đời
đời, người lạ tìm lợi ích cho mình trong sự sống đời này.

37
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Giê-su còn đề cập đến một số hình ảnh khác nữa, chẳng hạn như hình ảnh người chăn
thuê hay hình ảnh người trộm cướp để so sánh với hình ảnh Mục Tử Nhân Lành. Theo đó, trái
tim của người chăn thuê không chung nhịp với trái tim của đoàn chiên, trái tim của người trộm
cướp luôn lạc nhịp với trái tim của đoàn chiên, trái tim Mục Tử Nhân Lành cùng chung nhịp đập
với trái tim của đoàn chiên. Sự chung nhịp của Mục Tử Nhân Lành và đoàn chiên giúp từng con
chiên cảm nhận được sự an bình thư thái ngay cả khi đối diện với muôn hình thức hiểm nguy.
Mục Tử Nhân Lành không bỏ chạy trước sói dữ, không bỏ chạy trước những người trộm cướp,
nhưng luôn sẵn sàng đương đầu với muôn thử thách, thậm chí hy sinh mạng sống mình vì đoàn
chiên.

Tương quan giữa người chăn chiên và đoàn chiên rất thân mật, tuy nhiên, có sự khác biệt
chính yếu: Bản tính của người chăn chiên khác với bản tính của đoàn chiên. Tương quan giữa
Đức Giê-su và con người sâu đậm hơn nhiều, bởi vì Đức Giê-su mang lấy bản tính con người,
giống con người mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15). Hơn nữa, Người là Thiên Chúa, do đó, Người
biết con người rõ ràng hơn người chăn chiên biết đoàn chiên mình. Người biết bản tính con
người, biết những yếu đuối của con người, biết những lầm lỗi của con người, biết những đau khổ
của con người, biết những tâm tư, nguyện vọng của con người, biết quá khứ, hiện tại và tương
lai của con người.

Đức Giê-su nói: "Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết
tôi" (Ga 10,14). Động từ 'biết' trong bối cảnh Kinh Thánh nói chung và đặc biệt trong câu này
không chỉ diễn tả chức năng của lý trí, mà còn chức năng của trái tim. Đức Giê-su nói rằng Người
là Mục Tử Nhân Lành, Người biết chiên của Người, có nghĩa rằng Người yêu thương đoàn chiên
và yêu thương từng con chiên trong đoàn. Với Đức Giê-su, 'biết' đồng nghĩa với 'yêu', 'biết' đồng
nghĩa với 'chăm sóc', 'biết' đồng nghĩa với 'gắn kết', 'biết' đồng nghĩa với 'hy vọng' những điều
tốt nhất cho đoàn chiên, 'biết' đồng nghĩa với 'giới thiệu' chân trời mới cho đoàn chiên. Như vậy,
động từ 'biết' mà Đức Giê-su dùng trong bối cảnh này thật phong phú và nhiều ý nghĩa hơn
những gì chúng ta có thể cảm nhận.

Đức Giê-su không chỉ 'biết' đoàn chiên, Người còn hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Người
nói: "Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên" (Ga 10,11). Cuộc đời dương thế của Đức Giê-su là cuộc đời hy sinh. Sự hy sinh của Người
không cho một nhóm nào đó, mà cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đây thật là sự hy
sinh lớn lao nhất, bởi vì Người đã mang những thương tích và sự chết của tất cả mọi người mà
đưa lên cây thập tự. Người đã chịu muôn vàn đau khổ, đã chết và sống lại vì tất cả mọi người (1
Pr 2,22-25).

Chúng ta biết rằng ít khi người chăn chiên chết vì đoàn chiên. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp đặc biệt, vì xả thân bảo vệ đoàn chiên, vì sự sống của đoàn chiên, người chăn chiên phải
chết và đoàn chiên tan tác. Trong khi sự chết của người chăn chiên dẫn tới vô số nguy hại cho
đoàn chiên, nguy hại từ thú dữ, nguy hại từ những người trộm cướp, sự chết của Đức Giê-su,
Mục Tử Nhân Lành đem lại sự sống cho đoàn chiên. Đây là điều điên rồ trong nhãn quan của
người trần mắt thịt, nhưng lại là 'khôn ngoan' của Thiên Chúa (1 Cr 1,17-31). Người chăn chiên
chết, đoàn chiên cũng chết, đó là chuyện thường tình. Với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành, Người

38
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

chết để tiêu diệt sự chết và đem lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Đó là lý do tại sao
Người nói rằng "tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (Ga 10,10).

Tâm tình Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành là tâm tình yêu thương hết thảy mọi người. Thánh
Mát-thêu trình thuật rằng: "Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất
vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt"  (Mt 9,36).  Đặc biệt, Người quan tâm đến những
người tội lỗi, những người sống xa đường ngay nẻo chính, những con chiên lạc. Người nói: "Anh
em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia
trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người
ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh
em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Mt
18,12-14). Đối với Đức Giê-su, tất cả mọi người từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế đều là những
con chiên lạc, khác nhau chăng cũng chỉ ở mức độ thất lạc mà thôi. Bởi vì, tất cả mọi người đều
là con cháu A-đam và E-và, những tội nhân, sống xa Đường Mục Tử Nhân Lành. 

Trong hành trình ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su luôn diễn tả mình là Mục Tử Nhân
Lành. Sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su hỏi Phê-rô đến
ba lần "con có yêu mến Thầy không?" Người lặp đi lặp lại câu hỏi để Phê-rô ý thức hơn tầm quan
trọng của tình yêu trong việc chăm sóc đoàn chiên Người giao phó. Điều này có nghĩa rằng tình
yêu dành cho Đức Giê-su đồng nghĩa với tình yêu đối với đoàn chiên Người ủy thác chăm sóc.
Phê-rô đã trung thành với Đức Giê-su và thực thi chức năng mục tử theo khuôn mẫu Đức Giê-su,
Mục Tử Nhân Lành, trong quãng đời còn lại của mình. Đặc biệt, ngài đã chịu chết khi bị treo
ngược trên cây thập giá để minh chứng cho tình yêu mà ngài lãnh nhận.

Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói" (Mt
10,16). Quả thực, đời sống và sứ mệnh của các môn đệ, của các tông đồ Đức Giê-su không phải
là đời sống và sứ mệnh dễ dàng. Họ phải đương đầu với muôn vàn thử thách, gian truân để có
thể trung tín với Thầy mình trong việc chăm sóc đoàn chiên được giao phó. Đa số các ngài đã
chịu trăm bề thử thách và cuối cùng kết thúc với cái chết chứng tá của mình. Thánh Phao-lô nói
với các kỳ mục tại Ê-phê-xô rằng "anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên
mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội
Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình" (Cv 20,28) và rằng "phần tôi, tôi biết rằng khi
tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đoàn chiên"  (Cv 20,29).

Trong bài chia sẻ ngày 28 tháng 3 năm 2013 tại Đền Thờ Thánh Phê-rô (Lễ Dầu), Đức Thánh
Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh rằng các linh mục, các mục tử là những người mang lấy mùi chiên và
sống với mùi chiên. Ngài muốn các mục tử thực sự gần gũi đoàn chiên của mình, đồng hình đồng
dạng với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành và đồng hình đồng dạng với tất cả những người mà
mình được ủy thác chăm sóc. Các mục tử được mời gọi vui với người vui, đau với người đau,
khóc với người khóc. Các mục tử được mời gọi trút bỏ chính mình, ra khỏi chính mình và hy sinh
chính mình để có thể hòa mình vào đời sống của tất cả mọi người, đồng hành với họ, hướng dẫn
họ vững bước theo Đức Giê-su, Đường Mục Tử Nhân Lành.

39
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Hình ảnh Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành được áp dụng cho những vị lãnh đạo trong Giáo Hội.
Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, tất cả Ki-tô hữu đều được mời gọi sống tinh thần Đức Giê-
su, Mục Tử Nhân Lành trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su không chỉ mời
gọi một số người trở thành mục tử, mà Người mời gọi tất cả chúng ta trở thành mục tử, sống
tinh thần mục tử, bởi vì, mỗi người chúng ta thường vừa là 'chiên' trong hoàn cảnh này, vừa là
'mục tử' trong hoàn cảnh khác. Ai trong chúng ta cũng được giao phó tác vụ nào đó đối với anh
chị em mình. Do vậy, chúng ta được mời gọi theo gương Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành trong
khi thi hành tác vụ của mình, nhất là tác vụ loan báo Tin Mừng.

Đức Giê-su nói: "Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng
về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (Ga 10,16). Như đã
được đề cập ở trên, trong Biến Cố Giáng Sinh không chỉ có sự hiện diện của các mục đồng, mà
còn có sự hiện diện của các đạo sĩ từ phương xa tới nữa. Các mục đồng đại diện cho những
người Do-thái, các đạo sĩ đại diện cho 'dân ngoại'. Họ không phải là 'Dân Chúa' theo cách hiểu
của những người Do-thái. Tuy nhiên, họ trở thành Dân Chúa vì lòng Thiên Chúa xót thương. Sự
hiện diện của họ cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều được mời
gọi trở thành Dân Chúa, trở thành thành viên của đoàn chiên duy nhất và Vị Mục Tử duy nhất là
Đức Giê-su.

Chiên là loài vật đơn sơ, thiếu tính tự lập và luôn là mồi ngon cho nhiều loài thú. Chiên không
có những 'vũ khí' cần thiết như sừng dài, răng nhọn, chạy nhanh hay bất cứ hình thức tự vệ nào.
Chiên hoàn toàn lệ thuộc vào người chăn từ chuyện ăn uống, ngủ nghỉ đến chuyện bảo toàn
mạng sống trước những hiểm nguy. Tương tự như thế, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên
Chúa, vào Đức Giê-su để hiện hữu, tồn tại, phát triển và hướng tới sự sống muôn đời. Trong
hành trình trần thế, chúng ta phải đương đầu với muôn thử thách: Những thử thách trong đời
sống thể chất, những thử thách trong đời sống tinh thần, đặc biệt, những thử thách trong đời
sống tâm linh. Nếu chúng ta không có mối liên kết chặt chẽ với Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành,
chúng ta sẽ không thể nào vượt qua được những thử thách này.

Đức Giê-su nói: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi" (Ga 10,27).
Sự phân định đâu là tiếng của Mục Tử Nhân Lành và đâu là tiếng của 'người lạ', 'người trộm
cướp', 'người chăn thuê' 'hay 'thú dữ' không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chúng ta không có trái
tim nhạy cảm, trái tim khiêm tốn, trái tim yêu thương, trái tim luôn mở ra với Trái Tim Đức Giê-
su, Mục Tử Nhân Lành, thì chúng ta khó có thể lắng nghe được tiếng Người. Chúng ta tin tưởng
rằng Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành luôn cung cấp cho chúng ta đủ ánh sáng để bước đi đúng
hướng trên hành trình trần thế này. Trong bài giảng về thời cánh chung, Đức Giê-su nói với các
môn đệ: "Sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những
điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn"  (Mt 24,24). Những lời
này của Đức Giê-su không chỉ liên quan đến thời cánh chung theo nghĩa hẹp, mà còn liên quan
đến tất cả Ki-tô hữu qua muôn thế hệ. Thực ra, sự hiện diện của Đức Giê-su trong hành trình
trần thế cũng chính là sự hiện diện của thời cánh chung rồi. Chúng ta hãy hướng tâm trí về Đức
Giê-su, Mục Tử Nhân Lành để được Người nuôi dưỡng đức tin và đời sống luân lý phù hợp với
thánh ý Thiên Chúa.

40
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đề cập đến vị trí của người chăn chiên trong đoàn chiên để diễn tả tương quan giữa Người và
chúng ta, Đức Giê-su nói rằng: "Anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của
anh" (Ga 10,4). Câu hỏi đặt ra là 'tại sao người chăn chiên phải đi trước?' Thưa, vì người chăn
chiên là người bảo vệ đoàn chiên, người chăn chiên đứng mũi chịu sào cho sự an toàn của đoàn
chiên. Người chăn chiên chấp nhận những chướng ngại, những bất ngờ, những gian nan vì sự
sống còn của đoàn chiên. Như người chăn chiên đi trước đoàn chiên, Đức Giê-su luôn đi trước
chúng ta để dọn đường cho chúng ta. Đường Mục Tử Nhân Lành cũng là Đường của mỗi người
chúng ta. Bằng không, chúng ta sẽ lạc đường, lạc lối trong hành trình trần thế này. Bổn phận của
chúng ta là đặt trọn niềm tin, tình yêu và hi vọng vào Đường Mục Tử Nhân Lành và luôn trung tín
với Đường này giữa những khó khăn bấp bênh của thời cuộc, cùng muôn cạm bẫy của thế giới
bóng đêm luôn rình rập đợi chờ (Ep 4,26; 1 Pr 5,8).

Không ai trong chúng ta có đủ điều kiện cần thiết để hoạch định chương trình và đường
hướng cho cuộc sống mình cách trọn vẹn. Tất cả chúng ta đều mong muốn có vị mục tử luôn
trong tình trạng sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Vị đó chính là Đức Giê-su, Người hứa ở cùng các tông
đồ, cùng Giáo Hội, cùng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế. Do đó, câu hỏi
đặt ra là 'chúng ta đang đi đường nào?' Nếu câu trả lời là chúng ta đang đi Đường Đức Giê-su,
Đường Mục Tử Nhân Lành, thì rõ ràng chúng ta đang đi đúng hướng. Bằng không, chúng ta hãy
trở về với chính lộ, trở về với Đường Mục Tử Nhân Lành, bởi vì đây là Đường duy nhất cho phép
chúng ta sống xứng đáng với phẩm giá mình trong hành trình trần thế này và đây cũng là Đường
duy nhất dẫn chúng ta tới sự sống dồi dào trong Nước Thiên Chúa.

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG THÁNH THIỆN
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 8 năm 2020)

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Bảy vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Mục Tử Nhân
Lành. Tháng Tám này, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Thánh
Thiện. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Nguồn mọi sự thánh thiện. Đức Giê-su,
Con Thiên Chúa, đã đi Đường Thánh Thiện để đến với gia đình nhân loại. Đường đó tiếp tục sống
động trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, và được diễn tả cách cụ thể nơi đời sống
của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại.

Thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể (người hoặc sự vật)
được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa. Còn theo thánh Tô-ma A-
qui-nô, thánh thiện là đức hạnh mà con người diễn tả chính mình cũng như hành động phù hợp
với thánh ý Thiên Chúa. Người thánh thiện là người 'gần với căn tính' của mình nhất. Kinh
nghiệm của các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết như vậy. Đặc biệt, đây cũng

41
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

là kinh nghiệm của thánh Au-gút-ti-nô và Tô-ma Mơ-tần (Thomas Merton, tu sĩ Dòng
Trappist). Nói cách khác, con người càng thánh thiện bao nhiêu, thì càng gần gũi với căn tính của
mình bấy nhiêu.

Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và là Đấng
Thánh. 'Tên' của Thiên Chúa là 'Thánh' (Ed 36,22-24; Lc 1,49). Trong tiếng Do-thái, hạn từ ‘thánh’
là ‘qadosh’ và được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘hagios’. Hạn từ này có nghĩa nguyên thủy là cắt,
tách biệt. Thiên Chúa tách ra khỏi những gì phàm tục. Người siêu việt muôn vật muôn loài trong
thế giới thụ tạo. Thiên Chúa được tung hô: ‘thánh, thánh, thánh’ (Thiên Chúa ba lần thánh) nhằm
diễn tả sự siêu việt với ‘sức mạnh vô song’ và ‘thánh thiện tuyệt đối’ của Người. Cách tung hô
này được đề cập hai lần trong bộ Kinh Thánh, một lần trong Cựu Ước và một lần trong Tân Ước
(Is 6,3; Kh 4,8). Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi bánh và rượu được thánh hiến, cộng đoàn Thánh
Thể tung hô 'thánh, thánh, thánh'. Sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa là đặc tính căn bản
nhất, các đặc tính khác liên kết hoặc diễn tả đặc tính thánh thiện của Người.

Thiên Chúa thông truyền sự thánh thiện của Người cho muôn vật muôn loài. Người thông
truyền qua việc thánh hiến, tách biệt con người và vật ra khỏi thế giới phàm tục theo ý định của
Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa đã tách biệt Dân Do-thái khỏi các dân khác và trao ban sứ mệnh
cộng tác vào chương trình cứu độ của Người. Trong sách Lê-vi, Thiên Chúa phán: "Các ngươi
phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các
ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta" (Lv 20,26). Ngay trong Dân Do-thái, chi tộc Lê-vi
được dành riêng để 'chuyên lo việc Nhà Chúa'. Một số đồ vật cũng được thánh hiến hay dành
riêng cho việc tế tự.

Sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ qua vinh quang của Người. Vinh quang chiếu giãi
vào đời sống con người và biến đổi con người thành không gian thánh thiện, nhờ đó, con người
diễn tả sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người không
chỉ thụ động đón nhận phẩm chất thánh thiện Thiên Chúa trao ban, mà còn được mời gọi cộng
tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân, thánh hóa người khác và cùng nhau làm lành
lánh dữ. Sự thánh thiện song hành với thực thi đời sống luân lý tốt đẹp là hệ quả tất yếu của
tương quan giữa Thiên Chúa là Đấng Thánh và con người được mời gọi nên thánh.

Trong phụng vụ của Giáo Hội, theo Kinh nguyện Thánh Thể II: Thiên Chúa là ‘nguồn mạch mọi
sự thánh thiện’. Điều này có nghĩa rằng sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự thánh thiện Gốc, sự
thánh thiện Nguồn. Các hình thức thánh thiện trong môi trường thế giới thụ tạo phản chiếu sự
thánh thiện của Thiên Chúa. Đặc biệt, sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn
nơi sự thánh thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế.

Là Thiên Chúa trong thân phận con người, sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả qua
hai hình thức phân biệt nhau: 'Sự thánh thiện từ trên xuống' và 'sự thánh thiện từ dưới lên'. 'Sự
thánh thiện từ trên xuống' có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa đối
với con người, bởi vì Người là Thiên Chúa thật. 'Sự thánh thiện từ dưới lên' có nghĩa rằng Đức
Giê-su diễn tả sự thánh thiện của con người, bởi vì Đức Giê-su là con người thật. Nhân danh toàn
thể nhân loại, Đức Giê-su đã vâng phục đáp lại chương trình của Thiên Chúa và trở nên mẫu

42
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

gương hoàn hảo cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng hai hình
thức thánh thiện này trở nên một nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người.
Như vậy, Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con
người đến Thiên Chúa.

Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế cho chúng ta biết sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã
ban Lời Hứa về chiến thắng của sự thánh thiện trên sự dữ (St 3,15). Khoảng 700 năm trước Biến
Cố Giáng Sinh, ngôn sứ I-sai-a loan báo về Đức Giê-su, Đấng gánh tội nhân loại để muôn người
được trở nên thánh thiện (Is 53,11). Trong Tân Ước, khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức
Ma-ri-a rằng 'bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su', thì Đức Ma-ri-a rất bối rối.
Sứ thần đã trấn an Đức Ma-ri-a rằng người con mà bà cưu mang là bởi Chúa Thánh Thần và
quyền năng Đấng Tối Cao. Người con đó là 'Đấng Thánh' và là Con Thiên Chúa (Lc 1,30-35).

Sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong hành trình rao giảng của
Người. Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh
em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6,67). Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô đáp: "Thưa Thầy,
bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần
chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa"(Ga
6,68-69). Chứng kiến sự thánh thiện và quyền năng của Đức Giê-su trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô
nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" (Lc 5,8). Với những người Pha-ri-sêu, Đức
Giê-su nói: "Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội?" (Ga 8,46). Trong cuộc khổ nạn, sau
khi Đức Giê-su trả lời câu hỏi của thượng tế Cai-pha, một tên trong nhóm thuộc hạ của thượng
tế đánh Đức Giê-su, thì Người nói: "Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu
tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" (Ga 18,23). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: "Phần anh
em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết" (1 Ga
2,20). Cũng trong thư này, thánh nhân viết: "Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi
Người không có tội lỗi" (1 Ga 3,5). Như thế, Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh khá đầy đủ về sự
thánh thiện của Đức Giê-su.

Không chỉ các môn đệ hay những ai lắng nghe và tin tưởng vào Đức Giê-su mới nhận ra sự
thánh thiện của Người, các thế lực chống đối Người hay ma quỉ cũng nhận ra điều đó. Chẳng
hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um,  ngày sa-bát, Người vào hội đường, có kẻ bị
thần ô uế nhập la lên: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu
diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" (Mc 1,24). Chứng kiến
cái chết của Đức Giê-su và những sự kiện lạ lùng, viên đại đội trưởng và những người canh giữ
Đức Giê-su thốt lên:  "Quả thật ông này là Con Thiên Chúa" (Mt 27,54). Như vậy, sự thánh thiện
của Đức Giê-su là sự thánh thiện siêu việt và biểu lộ trong mọi hoàn cảnh. Muôn vật hữu hình và
vô hình đều nhận biết, kính sợ và thành khẩn tuyên xưng.

Sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện trổi vượt trên tất cả các hình thức thánh
thiện trong thế giới thụ tạo. Đồng thời, Đức Giê-su chia sẻ sự thánh thiện của Người cho tất cả
mọi người để mọi người được ơn cứu độ. Do đó, khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su là Đấng cứu
độ mọi người cũng tương tự như nói rằng Người là Đấng làm cho mọi người trở nên thánh thiện.

43
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Chúng ta đề cập đến sự thánh thiện của Đức Giê-su trong sự liên kết với Chúa Thánh Thần,
vì 'bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su'. Chính
Chúa Thánh Thần đồng hành cùng Đức Giê-su trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn,
thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần: "Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh
em trong nước, còn Người [Đức Giê-su], Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh
Thần" (Mc 1,8). Sau khi Đức Giê-su lãnh nhận Phép Rửa tại sông Gio-đan và chịu cám dỗ trong sa
mạc, Người về Na-da-rét. Ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, người ta trao cho Người sách
ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị
giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp
bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4,18-19). Đặc biệt, Đức Giê-su mặc khải cho chúng
ta Ngôi Vị Chúa Thánh Thần (Ga 14,16.26). Sau khi sống lại và trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-
su tiếp tục hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại để thực thi chương trình của
Thiên Chúa qua việc thánh hóa nhân loại.

Ý định của Thiên Chúa là tất cả mọi người trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Trong
thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: "Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi
tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương
của Người" (Ep 1,4). Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu sống đời thánh thiện bằng cách thực
thi những việc tốt lành và lánh xa những điều nguy hại, gây tổn thương hoặc đánh mất sự thánh
thiện (Ep 5,1-14). Còn thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: "Anh em hãy sống thánh thiện trong
cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống
thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh"(1 Pr 1,15-16). Như vậy, trong nhãn quan của thánh Phê-rô và
Phao-lô, hiểu biết về sự thánh thiện và thực thi đời sống thánh thiện đi đôi với nhau trong ơn gọi
của các Ki-tô hữu.

Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong
Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium  của Công Đồng Vatican II (1962-1965)
dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện
duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người
trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh
thiện theo 'đấng bậc mình' và minh định: "Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều
được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường
của mỗi người"  (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở
nên thánh thiện hơn. 

Quả thật, sự thánh thiện của con người là 'sự thánh thiện hoán cải'. Điều này có nghĩa là con
người không ngừng trở về với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là đặc điểm chung nhất của các
thánh trong lịch sử Giáo Hội. Các ngài không phải là những người 'sinh ra là thánh thiện', nhưng
là những người không ngừng hoán cải để nhận diện căn tính của mình cách rõ ràng hơn và luôn
qui hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất. Con người trở nên thánh thiện nhờ đời sống
hòa hợp giữa 'tâm hồn không ngừng hoán cải' và 'ân sủng nhưng không' của Thiên Chúa. Nói
cách khác, con người trở nên thánh thiện khi chân thành đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng
trái tim không ngừng hoán cải của mình.

44
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: "Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng
ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người" (Dt 12,10). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết
người thánh thiện không phải là người không bao giờ bị cám dỗ, người không có tội hay người
không bao giờ phạm tội. Người thánh thiện là người luôn ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng
Thánh và mình không thể tự làm cho mình trở nên thánh thiện được. Người thánh thiện là người
nhận thức rằng mình không ngừng trở về, tìm hiểu, trả lời, thay đổi và tiến tới trong tình yêu và
sự quan phòng của Thiên Chúa. Người thánh thiện chính là người hoàn toàn tín thác vào Thiên
Chúa và để Người sử dụng mình như khí cụ thuận tay Người.

Sự thánh thiện được thể hiện trong các tương quan của đời sống cá nhân, đời sống cộng
đoàn, cũng như tương quan với Thiên Chúa và toàn thể thế giới thụ tạo. Các thánh trong lịch sử
Giáo Hội khi đang sống trên trần gian không ai nghĩ rằng mình là 'một vị thánh'. Các ngài không
'soi gương ngắm sự thánh thiện của mình', nhưng luôn hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh với
tinh thần đơn sơ, phó thác. Các ngài luôn nhận thấy bản thân mình bất xứng, khiếm khuyết và
nhiều khi 'đêm tối bao phủ tâm hồn'. Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Tê-rê-xa
Can-cút-ta là những vị thánh điển hình. Các ngài luôn cảm thấy đời sống mình 'bất tương hợp'
với danh hiệu và ơn gọi Ki-tô hữu, đặc biệt, 'bất tương hợp' với sự thánh thiện và tình yêu vô bờ
của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Khi được hỏi:
"Ngài là ai?" Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã trả lời: "Tôi là người tội lỗi."

Với một số người, sự thánh thiện nên 'dành riêng cho địa hạt tôn giáo'. Tuy nhiên, trong thực
tế, sự thánh thiện cần được sống và diễn tả trong bất cứ môi trường nào của thực thể có tên gọi
là 'con người'. Chẳng hạn, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống
mà Giáo Hội hằng khuyến khích, cổ vũ, tất cả mọi người được mời gọi ý thức hơn về đời sống
thánh thiện của mình. Tương tự như vậy, trong bối cảnh hôm nay, 'phát triển con người toàn
diện' trở thành khẩu hiệu chung của gia đình nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng bao lâu
con người chưa ý thức được tầm quan trọng của đời sống thánh thiện, bấy lâu con người còn xa
vời mục tiêu đó. Dưới nhãn quan của một số người, phát triển con người toàn diện được thực
hiện chủ yếu dựa trên nồng độ tri thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tri thức con người và những sản phẩm của nó có thể đem lại
những hoa trái nhất định chứ không phải là yếu tố then chốt cho sự phát triển con người toàn
diện. 

Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), có một viên tướng
nói: "Nếu tôi có được mười người như Phan-xi-cô Át-xi-di, tôi có thể chinh phục cả thế giới
này".  Chúng ta có thể nhận định: Với quãng đời binh nghiệp truân chuyên, viên tướng đó đã
nghiệm ra sự thật rằng sức mạnh lý trí, ý chí và súng đạn không phải là giải pháp tối ưu để 'bình
thiên hạ'. Chỉ có sức mạnh thánh thiện, hy sinh, quên mình của những người như thánh Phan-xi-
cô Át-xi-di mới có thể thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là 'vì sao vậy?' Thưa, vì những người thánh
thiện luôn ý thức rằng khi con người chỉ cậy dựa vào mình mà không màng quan tâm đến sự hiện
diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng là khi con người đi đường tăm tối và những hành động
của con người không đem lại hạnh phúc thực sự cho mình cũng như anh chị em đồng loại. Các
thánh là những người xây dựng đời sống cá nhân, cộng đoàn và gia đình nhân loại bằng những

45
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

giá trị của Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và thực thi, chứ không chỉ bằng lý trí, ý
chí và những gì thuộc thế gian này.

Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sự thánh thiện biến đổi con người, biến đổi
xã hội, biến đổi thế giới thụ tạo. Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã hiện diện trên
trần gian, đã sống trọn thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15;
1 Pr 2,22). Theo lẽ thường, đã thánh thiện thì không phải chịu đau khổ (là hậu quả tội lỗi), tuy
nhiên, Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, của toàn thể gia
đình nhân loại để chúng ta được nên thánh. Nhờ Người, vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa
thánh thiện và nhân loại tội lỗi được bắc cầu và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được
mời gọi đi trên Chiếc Cầu này. Trong hành trình dương thế, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo
Hội tiếp tục chương trình của Người.

Là Ki-tô hữu nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su. Cuộc đời Ki-tô hữu chính là cuộc đời
học hỏi và theo Đường Đức Giê-su, Đường Thánh Thiện. Tuy nhiên, trong khi theo Đường Thánh
Thiện của Đức Giê-su, chúng ta không tránh khỏi những chông gai, cạm bẫy của thế giới bóng
đêm và bao hình thức bấp bênh, bất cập khác vì sự yếu đuối của chính mình. Tự bản thân, chúng
ta không thể nào vững vàng, kiên định trên Đường Thánh Thiện, nhưng nhờ Chúa Thánh Thần
dẫn dắt, chúng ta sẽ vượt qua tất cả những thách đố và chướng ngại. Bao lâu con mắt đức tin
của chúng ta còn dõi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội đạt
tới sự thánh thiện như lòng Người mong muốn.

Hoa trái của sự thánh thiện gia tăng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của chúng ta vào
Thiên Chúa. Hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta sống liên đới với anh chị em chúng ta. Hoa
trái của sự thánh thiện tăng thêm sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với muôn thách đố
trong cuộc sống. Đặc biệt, hoa trái của sự thánh thiện cho chúng ta sức mạnh để chống lại muôn
hình thức cám dỗ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. Tắt một lời, hoa
trái của sự thánh thiện giúp chúng ta thực thi thánh ý Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành
động.

Chúng ta thường xem sự thánh thiện như là một 'thực tại tĩnh' hay 'thực tại thường hằng bất
biến' nơi người nào đó. Thực ra, sự thánh thiện không thể hoàn thành tại một thời điểm nào đó
trong đời sống chúng ta, trong lịch sử nhân loại hay trong lịch sử thế giới thụ tạo. Sự thánh thiện
luôn là một hướng đi, một lộ trình, một dự án dang dở. Do đó, bao lâu con người còn hiện diện
trên dương gian, bấy lâu con người còn phải không ngừng cố gắng sống đời thánh thiện. Mặc
khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng không ai thánh thiện đến mức không cần phải biến
đổi, bởi vì, tất cả mọi người đều sống trong môi trường ô nhiễm vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của
Tội này vẫn tiếp diễn cho đến tận thế.

Người thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi và ngược lại. Biên giới giữa người thánh
thiện và người tội lỗi mỏng manh như làn sương khói vậy. Tên trộm hoán cải trong biến cố Đức
Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là ví dụ điển hình (Lc 23,39-43). Chúng ta có thể noi gương
tên trộm về tinh thần hoán cải, chứ không phải là quá khứ trộm cắp. Đời sống của tên trộm
không thể được xem là 'mô hình chuẩn' cho đời sống chúng ta, bởi vì, tương quan giữa chúng ta

46
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

và Thiên Chúa là tương quan tình yêu và tình yêu luôn ở thì hiện tại. Không có tình yêu đích thật
nào lại vắng bóng sự thánh thiện. Do đó, chúng ta không thể sống trong tình trạng tội lỗi và ăn
năn hối cải vào phút chót như tên trộm để được tham dự sự sống, hạnh phúc và bình an vĩnh
cửu của Nước Thiên Chúa mà không phải đau khổ, hy sinh, quên mình trong hành trình trần thế.
Thông thường, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó. Đích đến của người sống đời thánh thiện và
người sống đời tội lỗi khác nhau (Mt 25,31-46). Hơn nữa, trong Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở
(Ga 14,2).

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng 'khoảng cách' từ người thánh thiện đến
người tội lỗi là 'khoảng cách gần', còn từ người tội lỗi đến người thánh thiện là 'khoảng cách xa'.
Bởi vì, sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế dễ bị tổn thương. Để có được sự
thánh thiện, con người phải hy sinh, quên mình và cố gắng không ngừng, cho đến khi 'nhắm mắt
xuôi tay'. Chúng ta có thể dùng hình ảnh chiếc cầu để minh họa cho người đang sống thánh thiện
có thể trở thành người tội lỗi. Để có chiếc cầu, người ta phải dày công vất vả hàng năm mới có
thể hoàn thành được. Tuy nhiên, để phá chiếc cầu, người ta chỉ cần ít thuốc nổ là nó sẽ bị sập
tan tành trong giây lát.

Chúng ta là những người tội lỗi, yếu đuối và giới hạn trăm chiều. Tuy nhiên, chúng ta được
mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân và thánh hóa những người khác
nữa. Nếu chúng ta không cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa bản thân hay không ý thức và cố
gắng để ngày càng được biến đổi hơn, làm sao chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa để thánh
hóa người khác được? Sẽ ngượng ngùng và giả hình biết bao khi chúng ta nói về Thiên Chúa, về
Đức Giê-su, về Đường Thánh Thiện của Người mà chúng ta lại đắm chìm trong những tư tưởng,
lời nói và hành động không chút âm hưởng hay hơi hướng nào của sự thánh thiện.

Sự thánh thiện không chỉ là chủ đề để chúng ta suy tư, học hỏi mà còn là 'đường đi' của
chúng ta, là 'lối sống' của chúng ta và là 'hành động' của chúng ta trong hành trình trần thế này.
Đời sống của người thánh thiện không phải là đời sống tách biệt khỏi những gì mà chúng ta gán
nhãn 'trần tục', 'sự đời' hay 'ngoại lai' nhưng là đời sống phản chiếu sự thánh thiện của Thiên
Chúa trong mọi hoàn cảnh của thế giới thụ tạo. Đường thánh thiện luôn là 'đường hai chiều'. Đời
sống của người thánh thiện là đời sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện.
Đồng thời, đời sống của người thánh thiện là đời sống liên đới với anh chị em mình để không
ngừng biến đổi bản thân và môi trường sống sao cho môi trường đó ngày càng được thánh hóa,
hầu tất cả mọi người sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình. 

Chúng ta trở lại với khái niệm chung 'thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng
của thực thể được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa' để so sánh
với sự thánh thiện theo mặc khải Ki-tô Giáo. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho
chúng ta nhận thức rằng thánh thiện cần thiết cho 'môi trường phàm tục'. Bởi vì, Đức Giê-su đã
đi Đường Thánh Thiện để đến với nhân loại, đến với 'môi trường phàm tục'. Chúng ta ý thức rằng
nơi sự sống sung mãn cũng chính là nơi của sự thánh thiện tuyệt đối và nơi sự chết được hiểu là
nơi vắng bóng sự thánh thiện. Thế mà, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sự chết. Người đến chia sẻ sự
thánh thiện của Người để con người được chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.

47
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Sống đời Ki-tô hữu không gì khác hơn là sống đời thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Giê-su.
Chúng ta có thể nhận định rằng 'người ngoại thánh thiện' thì hơn 'Ki-tô hữu tội lỗi'. Đối với các
tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo, chẳng hạn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Đồng Vatican II nhấn
mạnh: "Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn
giáo đó"  (NA 2).  Điều này không có nghĩa rằng các tôn giáo đều như nhau, cũng không có nghĩa
rằng các tôn giáo là khác nhau. Sự nhìn nhận những điều tốt lành, thánh thiện nơi các tôn giáo
không giảm thiểu sự cần thiết để loan báo Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất và Tin Mừng của
Người dành cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện
đến với gia đình nhân loại và người thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục là dấu chỉ hay khí cụ
của Người trong việc thánh hóa muôn dân (LG 1).

Như đã được đề cập ở trên, sự thánh thiện Ki-tô Giáo không chỉ được diễn tả trong các tương
quan nội tại của đời sống cá nhân, tương quan với tha nhân, tương quan với Thiên Chúa mà còn
được diễn tả trong tương quan với môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng các tín
hữu được mời gọi sống đời thánh thiện trong việc chăm sóc, quản lý và bảo vệ muôn vật muôn
loài. Ai yêu mến Thiên Chúa, người đó cũng yêu mến những gì được Thiên Chúa dựng nên. Trong
thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: "Người [Thiên Chúa] cho ta được biết thiên ý nhiệm
mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời
gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-
tô" (Ep 1,9-10). Sự thánh thiện Ki-tô Giáo mời gọi các tín hữu 'mắt hướng về trời, chân tiến bước
trên đất'. Điều này có nghĩa là sự thánh thiện không chỉ giới hạn trong việc tôn giáo hay văn hóa,
xã hội mà còn lan tỏa đến muôn vật muôn loài. Chúng ta được mời gọi quan tâm và góp phần
biến đổi môi trường thế giới thụ tạo bằng chính đời sống của mình.

Đức Giê-su nói: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện" (Mt 5,48). Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, tuy nhiên, Người không nói rằng  'anh
em hãy nên hoàn thiện như tôi đây là Đấng hoàn thiện'. Trong hành trình dương thế, Người
không bao giờ qui hướng về mình, nhưng luôn qui hướng về Thiên Chúa Cha. Đức Giê-su cho
chúng ta biết sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế luôn là sự thánh thiện có
hướng, sự thánh thiện tiếp tục trên đường về với Quê Hương Vĩnh Cửu. Là Thiên Chúa trong
thân phận con người, Đức Giê-su trở nên Đường Thánh Thiện cho tất cả mọi người trong gia
đình nhân loại.

Từ những điểm trình bày trên đây, chúng ta có thể khái quát rằng sự thánh thiện thuộc về
Thiên Chúa, Người là Đấng Thánh, là Nguồn Gốc và Đích Đến của các hình thức thánh thiện. Đức
Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với thế giới thụ tạo. Người vừa diễn tả sự thánh thiện
của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự thánh thiện của con người. Đặc biệt, sự thánh thiện của Người
được diễn tả trong ba năm loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã chịu nhiều đau khổ,
chịu chết, sống lại và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người vẫn luôn hiện diện trong
gia đình nhân loại. Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục Đường Thánh Thiện của
Người bằng việc chia sẻ Lời Chúa, cử hành các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và thực thi bác
ái. Tất cả mọi người được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực hành Đường Thánh Thiện của Đức
Giê-su trong hành trình trần thế của mình.

48
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG THINH LẶNG
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 9 năm 2020)

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Tám vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh
Thiện.  Tháng Chín này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Thinh
Lặng. Hành trình dương thế của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng Người vừa là Thiên
Chúa, Đấng Thinh Lặng, vừa là Lời Thiên Chúa và là Đường Thinh Lặng của Thiên Chúa giữa dòng
đời. Sự thinh lặng mà chúng ta đề cập trong bài viết này chủ yếu không phải là sự thinh lặng môi
miệng, mà là sự thinh lặng tâm hồn, đặc biệt, tâm hồn hiệp thông với Thiên Chúa.

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, tác giả Thánh Vịnh thốt lên: "Trời xanh tường thuật vinh quang
Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19,2). Quả thật, thế giới thụ tạo và
mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng thinh lặng là một cách nói của Thiên Chúa hay ngôn
ngữ của Người là ngôn ngữ thinh lặng. Từ buổi ban đầu Thiên Chúa sáng tạo cho đến hôm nay và
tới thời cánh chung, Thiên Chúa nói bằng lời quá ít so với Thiên Chúa nói bằng sự thinh lặng. Như
thế, sự thinh lặng của Thiên Chúa cũng có giá trị như Thiên Chúa nói bằng lời vậy. Do đó, con
người không chỉ quan tâm đến cách truyền thông của Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa nói
và làm trong dòng lịch sử, mà còn qua sự thinh lặng của Người nữa.

Nhiều lúc, con người cảm thấy Thiên Chúa thinh lặng như thể 'ngoảnh mặt làm ngơ' trước
những thảm họa thiên nhiên, đặc biệt, trước đau khổ, bất công, bạo lực, chết chóc của con
người. Thực ra, Thiên Chúa không thinh lặng như con người lầm tưởng. Người luôn tỉnh thức,
bởi vì, Người 'không bao giờ ngủ',"Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho
đành" (Tv 121,4). Người thinh lặng không có nghĩa Người không hiện diện, không hoạt động.
Người luôn hiện diện, luôn hoạt động theo 'thì' của Người chứ không theo 'thì' của chúng ta. Con
người thường mong muốn đường lối của Thiên Chúa giống đường lối của mình. Tuy nhiên, để
hòa nhịp được với chương trình Thiên Chúa, đúng hơn, con người cần uốn nắn đường lối của
mình theo đường lối của Thiên Chúa.

Hình ảnh Dân Do-thái rong ruổi bốn mươi năm trong sa mạc là bài học lớn cho chúng ta về sự
thinh lặng, hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Đối với sự hiểu biết của con người, sa mạc là
nơi không ai muốn đến, bởi vì, sa mạc thiếu nguồn nước, bóng cây, sức sống. Thế nhưng, từ sa
mạc, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng và tình yêu đối với Dân Người. Sa mạc là nơi cằn cỗi,
chết chóc, lại là nơi Thiên Chúa hiện diện và hoạt động cách mãnh liệt nhất. Điều đó cho chúng
ta nhận thức rằng nơi con người bị yếu thế nhất, bất lực nhất, khổ đau nhất lại là nơi Thiên Chúa

49
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

biểu dương tình yêu và quyền năng của Người. Nơi con người cho rằng 'vắng bóng Thiên Chúa'
lại là nơi Thiên Chúa hiện diện để cứu giúp họ.

Nhờ tin tưởng vào Thiên Chúa và trung thành với sứ mệnh Người giao phó, trong cơn hoạn
nạn, ngôn sứ Ê-li-a phải chạy trốn vua A-kháp và những người của vua. Ê-li-a đi bốn mươi đêm
ngày lên núi Khô-rếp, núi của Thiên Chúa và nghỉ lại trong một cái hang. Nhiều biến cố ồn ào xảy
ra trên núi, chẳng hạn như gió to, bão lớn, động đất, lửa cháy, nhưng Thiên Chúa không xuất
hiện trong các biến cố đó. Tuy nhiên, khi có 'tiếng gió hiu hiu' hay 'tiếng thì thào êm nhẹ', Ê-li-a
đã được 'diện kiến' Thiên Chúa và được trao sứ mệnh tiếp tục chương trình của Người. Điều này
ngược với nhãn quan chung của các dân tộc Trung Đông thời đó cho rằng thần thánh hiện diện
trong những biến cố ồn ào, náo động. Qua sự gặp gỡ với Thiên Chúa, Ê-li-a nhận ra rằng sứ mệnh
của mình còn gặp nhiều bất trắc, đau khổ, nhưng luôn được sự nâng đỡ, phù trì của Người.

Trong Cựu Ước, tác giả sách Khôn Ngoan viết: "Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm
trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu,
ví tựa người chiến sĩ can trường xông vào giữa miền đất bị tru diệt, mang theo bản án không thể
hủy của Ngài như lưỡi gươm sắc bén" (Kn 18,14-15). Thiên Chúa thinh lặng, trong môi trường
vĩnh cửu, Thiên Chúa chỉ có một Lời thôi, Lời đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. Nhờ Người và trong
Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa tạo dựng muôn vật muôn loài và khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa đã 'nói Lời đó' trong môi trường thế giới thụ tạo. Lời đã làm người và ở giữa chúng ta
(Is 7,14; Ga 1,1-18).

Giáng Sinh là biến cố thinh lặng. Ngôi Lời đến thế gian trong đêm tối, trong thinh lặng. Người
đã không xuất hiện 'ồn ào' ở Giê-ru-sa-lem hay nơi phố phường đông đúc, nhộn nhịp, vội vã nào
đó của đất nước Do-thái, nhưng đã xuất hiện 'kín tiếng' ở Bê-lem quê mùa. Lời bài hát nổi tiếng
nhất trong dịp Giáng Sinh diễn tả rất đúng về Biến Cố này: Đêm thinh lặng, đêm thánh thiện, tất
cả an bình (silent night, holy night, all is calm). Sự thinh lặng của Biến Cố Giáng Sinh là sự thinh
lặng linh thiêng, sự thinh lặng nhiệm mầu, sự thinh lặng ban ơn cứu độ. Sự thinh lặng này giúp
cho những ai thao thức tìm Người có thể nghe được lời chỉ dẫn để đến gặp Người.

Chúng ta nhận thức rằng đặc tính chung của mọi người trong Gia Đình Na-da-rét là thinh
lặng. Thánh Giu-se thinh lặng, Đức Ma-ri-a thinh lặng, Đức Giê-su thinh lặng. Sự thinh lặng của
Thánh Gia diễn tả sự thinh lặng của Gia Đình Thiên Chúa. Kinh Thánh Tân Ước chỉ có '7 lời' của
Đức Ma-ri-a (Lc 1,34; Lc 1,38; Lc 1,40; Lc 1,46-55; Lc 2,48; Ga 2,3; Ga 2,5). Còn thánh Giu-se thì
các tác giả Kinh Thánh Tân Ước không ghi lại lời nói trực tiếp nào của ngài. Đặc tính duy nhất
diễn tả thánh Giu-se là 'công chính'. Trong bối cảnh Kinh Thánh, người công chính cũng chính là
người thánh thiện, người thinh lặng, người luôn kết hợp với Thiên Chúa và thực thi thánh ý
Người.

Đức Ma-ri-a không chỉ thinh lặng, mà còn 'ghi nhớ những điều đó và suy đi nghĩ lại trong
lòng', nghĩa là trong môi trường thinh lặng (Lc 2,19.51). Sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a chính là
'sự thinh lặng cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa'. Đức Ma-ri-a đã học được ngôn ngữ
Thiên Chúa và nói chuyện với Người bằng ngôn ngữ này. Sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a là sự
thinh lặng thánh thiện, bởi vì sự thinh lặng của Đức Ma-ri-a đồng nghĩa với việc suy niệm Lời

50
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Chúa, yêu mến Thiên Chúa, phụng thờ Thiên Chúa, tin tưởng vào Thiên Chúa, hy vọng vào Thiên
Chúa, phó thác đường đời cho Thiên Chúa và ngạc nhiên trước mặc khải của Thiên Chúa trong
công trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.

Thánh Giu-se là người có đời sống thinh lặng đặc biệt. Khi được tin Đức Ma-ri-a, bạn đời của
mình mang thai và chắc chắn rằng đó không phải là con ruột của mình, ngài có ý định lìa bỏ Đức
Ma-ri-a cách kín đáo, cách thinh lặng. Tuy nhiên, trong giấc mơ, sứ thần truyền tin cho thánh
Giu-se và trao ban sứ mệnh đón Đức Ma-ri-a về nhà mình. Không như những trường hợp khác,
chẳng hạn, việc truyền tin cho Đức Ma-ri-a hay truyền tin cho Da-ca-ri-a đều diễn ra khi các ngài
thức tỉnh, còn thánh Giu-se thì được truyền tin trong giấc mơ, trong thinh lặng. Tuy nhiên, thánh
nhân đã trung tín thực thi thánh ý Thiên Chúa. Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên với sự chăm
sóc âm thầm và cần mẫn của thánh Giu-se. Như Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se luôn ở lại với Thiên
Chúa, lắng nghe Lời Thiên Chúa, tin tưởng vào Lời Thiên Chúa, hiệp thông với Lời Thiên Chúa và
thực thi Lời Thiên Chúa cách trung tín nhất. Đặc biệt, thánh nhân đắm chìm trong mầu nhiệm
Con Thiên Chúa xuống thế làm người và giữ vai trò quan trọng trong chương trình kỳ diệu này.

Người ta thường nói rằng 'con nhà tông không giống lông cũng giống cánh'. Đức Giê-su là
Thiên Chúa, Đấng Thinh Lặng, tuy nhiên, trong thân phận con người, Đức Giê-su cũng học hỏi
được đời sống thinh lặng từ Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Cuộc đời trần thế của Đức Giê-su là
cuộc đời thinh lặng. Ngoại trừ Biến Cố Giáng Sinh và sự việc xảy ra lúc Người mười hai tuổi ở Giê-
ru-sa-lem, chúng ta không biết gì nữa về thời thơ ấu của Người cho đến khi Người bắt đầu sứ
mệnh loan báo Tin Mừng. Trước các biến cố lớn trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su
luôn dành thời gian thinh lặng và cầu nguyện. Người đã vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và chịu
ma quỉ cám dỗ bốn mươi đêm ngày. Sự kiện này gợi lên cho chúng ta biến cố Dân Do-thái rong
ruổi trong sa mạc bốn mươi năm. Thay vì thinh lặng để đón nhận và thực thi thánh ý Thiên Chúa,
họ đã nhiều lần to tiếng, than trách và phản nghịch chương trình Thiên Chúa. Trong khi đó, Đức
Giê-su thinh lặng để gặp gỡ Thiên Chúa Cha, thinh lặng để nhận ra sứ mệnh của mình, thinh lặng
để đón nhận sức mạnh chống trả ma quỉ, thinh lặng để cảm nhận sự đau khổ của thân phận con
người, thinh lặng để nhận ra những bất cập gây nên bởi 'sự ô nhiễm tiếng ồn' trong xã hội loài
người do tội lỗi gây nên.

Không nơi nào trong Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giê-su dùng 'quá nhiều lời' khi giảng dạy
dân chúng. Người dùng lời vừa đủ cho người nghe. Có những điều Người không giải thích dài
dòng, nhưng dùng dụ ngôn để có thể giảm thiểu lời nói. Thánh Mác-cô trình thuật: "Người dùng
nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tùy theo mức họ có thể nghe. Người không bao
giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn" (Mc 4,33-34). Có những lúc sau khi giải thích, Đức
Giê-su nói với những người lắng nghe: "Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19,12). Rõ ràng, trong hành
trình rao giảng, Đức Giê-su đề cao việc thinh lặng, lắng nghe và phân định của thính giả.

Khi Đức Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng ở miền Thập Tỉnh, Người truyền cho những
người chứng kiến không được kể lại chuyện đó (Mc 7,31-36). Tương tự như vậy, sau khi biến
hình trên núi Ta-bo, từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Đừng nói cho ai hay thị
kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy" (Mt 17,1-8). Câu hỏi đặt ra là tại sao Đức Giê-
su lại nói với các môn đệ như vậy? Thưa, tại vì Đức Giê-su muốn con người hiểu đúng hơn về sứ

51
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

mệnh của Người giữa lòng nhân thế. Người muốn tất cả đều thinh lặng cho đến khi toàn bộ sự
thật về chương trình dương thế của Người được biểu lộ cách trọn vẹn trong khổ nạn, chịu chết
và phục sinh của Người. Người cũng muốn các môn đệ hiểu rằng một lời nói mà không hiểu
được ý nghĩa, một lời tuyên xưng đức tin mà không đi kèm hành động và lối sống phù hợp, thì
đó chỉ là những tiếng kêu trống rỗng, không chuyển tải sự thật.

Thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi Đức Giê-su đi về miền dân ngoại (địa hạt Tia và Xi-đôn,
ngày nay ở phía Nam đất nước Li-băng), một người phụ nữ Ca-na-an xuất hiện và xin Đức Giê-su
trừ quỉ cho con gái của bà. Tuy nhiên, ban đầu, Đức Giê-su thinh lặng, không trả lời sự khẩn cầu
của người phụ nữ. Sau đó là cuộc đối thoại ngắn và Đức Giê-su đã tán dương bà: "Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy" (Mt 15,28).  Niềm tin và sự kiên nhẫn của bà
đã được đền đáp bằng việc con bà được chữa khỏi. Như vậy, sự thinh lặng của Đức Giê-su đã
đem lại hiệu quả lớn lao, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ và niềm tín thác của
người phụ nữ được củng cố. Đọc Tân Ước, chúng ta có được nhận thức chung rằng, sau sự thinh
lặng, Đức Giê-su thường mặc khải những điều lớn lao, kỳ diệu để cứu giúp mọi người.

Câu chuyện Đức Giê-su cho La-da-rô hồi sinh đáng để chúng ta quan tâm. Khi nghe tin La-da-
rô, người được Đức Giê-su thương mến bị đau nặng, Người đã không trực tiếp đến thăm viếng
ngay. Người đã thinh lặng trước cái chết của La-da-rô, còn La-da-rô thì thinh lặng trong mộ. Khi
Người tới thì La-da-rô đã được chôn trong mộ bốn ngày, đã 'nặng mùi' rồi. Tuy nhiên, Đức Giê-su
đã làm cho La-da-rô hồi sinh trước sự ngỡ ngàng của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a cũng như
những người thân thuộc. Sự thinh lặng, sự chậm trễ của Đức Giê-su được xem như chuẩn bị cho
mặc khải lớn lao là hồi sinh kẻ chết. Trong biến cố này có bốn điểm quan trọng đáng để chúng ta
quan tâm: (1) tình yêu của Đức Giê-su, (2) quyền năng của Đức Giê-su, (3) căn tính của Đức Giê-
su là 'sự sống lại và là sự sống' (Ga 11,25), và (4) niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của mọi
người được diễn tả và củng cố.

Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, chúng ta thấy hai cảnh thinh lặng: (1) Đức Giê-su và (2) các môn
đệ. Đức Giê-su 'thinh lặng cầu nguyện', còn các môn đệ thì 'thinh lặng ngủ nghỉ'. Chúng ta có thể
gọi hai hình thức thinh lặng này là 'thinh lặng siêu nhiên' (Đức Giê-su) và 'thinh lặng tự nhiên'
(các môn đệ). Cũng trong vườn Ghết-sê-ma-ni, thinh lặng siêu nhiên đưa đến sự tìm kiếm thánh
ý Thiên Chúa Cha và kết hợp với Người. Đức Giê-su đã thưa lên với Thiên Chúa Cha: "Lạy Cha,
nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha"  (Lc
22,42). Quả thật, trong thân phận con người, Đức Giê-su cảm nhận được sự cô đơn, đau khổ tột
bậc. Nhưng Người luôn tin tưởng và vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha và đã trở nên căn nguyên
cứu độ tất cả mọi người.

Thánh Lu-ca trình thuật rằng trong cuộc khổ nạn, khi Đức Giê-su bị bắt, "một người tớ gái
nhìn Phê-rô chòng chọc và nói: Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy! Ông liền chối: Tôi có biết
ông ấy đâu, chị!" (Lc 22,56-57). Sau đó, một người khác nữa cũng quả quyết rằng Phê-rô ở với
Đức Giê-su, Phê-rô chối phăng. Khi người thứ ba khẳng định Phê-rô ở với Đức Giê-su, Phê-rô vừa
chối xong thì gà gáy. Đó là hệ quả của sự 'thinh lặng tự nhiên' từ phía các môn đệ trong vườn
Ghết-sê-ma-ni. Sau đó, Đức Giê-su quay lại nhìn Phê-rô và Phê-rô nhớ lại lời Đức Giê-su: "Hôm
nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần"(Lc 22,61). Phê-rô đã ăn năn hối cải. Thánh Lu-

52
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ca không cho chúng ta biết ánh mắt của hai người sau có nhìn Phê-rô 'chòng chọc' như người tớ
gái đầu tiên hay không, nhưng ánh mắt của những người đó đã làm cho trái tim của Phê-rô loạn
nhịp và Phê-rô đã chối Thầy mình. Tuy nhiên, khi ánh mắt thinh lặng, ánh mắt nhân từ, ánh mắt
tha thứ, ánh mắt trái tim của Đức Giê-su hướng về Phê-rô, vị tông đồ đã ăn năn hối cải. Từ đây,
Phê-rô đã trung thành với ơn gọi và sứ mệnh của mình cho đến lúc bị treo ngược trên thập giá và
tử đạo tại Rô-ma. Đây là hệ quả của sự 'thinh lặng siêu nhiên' xuất phát từ sự kết hiệp mật thiết
với Đức Giê-su.

Tam Nhật Vượt Qua luôn là thời gian đặc biệt, thời gian quan trọng nhất, thời gian đỉnh điểm,
thời gian trung tâm diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Trước cái chết, Đức Giê-su
cảm nhận được sự thinh lặng nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đức Giê-su đã thốt lên: "Lạy Thiên
Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27,43). Với cái chết, Đức Giê-su đã
xuống vực thẳm thinh lặng rùng rợn nhất của thân phận con người. Đức Giê-su đã tham dự vào
sự thinh lặng đau thương của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Người thông phần với sự
thinh lặng này để ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Như vậy, sự thinh lặng kỳ diệu nhất của
Đức Giê-su trong hành trình nhân thế là sự thinh lặng trong nấm mộ. 'Vị Thiên Chúa chết', đó là
sự kiện không những không thể tưởng tượng nổi đối với những người Hy-lạp hay Do-thái, mà
còn không thể tưởng tượng nổi đối với tất cả mọi người trong các nền văn hóa từ cổ chí kim.
Hôm nay, 'Vị Thiên Chúa chết' vẫn còn là nỗi ám ảnh cho biết bao người. Quả thực, nếu cuộc đời
Đức Giê-su chỉ tới đó thì không còn gì để nói nữa. Tuy nhiên, Người đã tiêu diệt sự chết, Người
đã sống lại. Sự chết mạnh, nhưng sự thinh lặng của Đức Giê-su trong sự chết còn mạnh hơn. Sự
chết mạnh, nhưng tình yêu Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giê-su còn mạnh hơn. Sự chết
mạnh, nhưng sự sống lại của Đức Giê-su còn mạnh hơn. Sự chết mạnh, nhưng tiếng nói cuối
cùng của con người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo không phải là tiếng nói của sự
chết, nhưng là tiếng nói của Đấng Phục Sinh, Đấng Thinh Lặng, Đấng Hằng Sống. 

Những gì Đức Giê-su nói và làm trong hành trình dương thế minh chứng rằng Người từ Thiên
Chúa mà đến, Người là Thiên Chúa. Tuy nhiên, con người thường quan tâm đến nhân tính của
Đức Giê-su hơn là thần tính của Người. Thần tính của Người hầu như 'thinh lặng', ẩn dấu, bởi vì
trong mọi sự, Đức Giê-su đều qui hướng về Thiên Chúa Cha, chứ không phải bản thân mình. Giáo
Hội sơ khai cần đến gần năm thế kỷ để có được định tín cách đầy đủ hơn về Đức Giê-su, Thiên
Chúa thật và con người thật với Công Đồng Can-xê-đô-ni-a (Chalcedon, 451). Những khai triển và
học hỏi về Đức Giê-su vẫn tiếp tục trong khi Đức Giê-su vẫn thinh lặng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta ngạc nhiên trước những gì mắt chúng ta thấy được, tai
chúng ta nghe được và lòng chúng ta cảm nghiệm được. Chúng ta ngạc nhiên trước những khám
phá của con người về những qui luật trong vũ trụ. Chúng ta ngạc nhiên trước những gì mà thế
giới tự nhiên ban tặng để con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, những gì
mắt chúng ta không thấy, trí và tâm chúng ta không thể đụng chạm hay cảm nghiệm được lại còn
kỳ diệu hơn. Chẳng hạn, có những hình thức tồn tại khác trong thế giới thụ tạo này mà con người
không thể nào vươn tới hay giải thích được trong điều kiện hiện tại, chẳng hạn như năng lượng
tối (dark energy) hay vật chất tối (dark matter). Bản chất đích thực của 'năng lượng tối là gì?' hay
'vật chất tối là gì?', chưa ai có thể biết và diễn tả cách đầy đủ được. Điều mà con người biết được
là: Nếu không có năng lượng tối và vật chất tối thì vũ trụ khả giác, vũ trụ vật chất, vũ trụ cấu tạo

53
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

bằng những 'viên gạch nguyên tử' không thể tồn tại được. Quả thật, những gì 'vô hình trong thế
giới thụ tạo' luôn dồi dào và kỳ diệu hơn những gì hữu hình mà con người có thể cân đong đo
đếm hay giải thích. Nói cách khác, 'những gì thinh lặng' thì kỳ diệu hơn, mạnh mẽ hơn, siêu việt
hơn 'những gì ồn ào'. Trong thế giới thụ tạo, con người có thể cảm nghiệm được rằng 'thinh lặng
là đỉnh cao của âm thanh'. Trong thinh lặng của tâm hồn và không gian, con người có thể nghe
được tiếng nói của lương tâm, tiếng nói của vũ hoàn và tiếng nói của Đấng Sáng Tạo.

Trong lĩnh vực khoa học, nhiều trường hợp cho thấy những khám phá về các quy luật thiên
nhiên, hoặc các phát minh kỳ diệu, lại là hệ quả của tiến trình thinh lặng. Câu chuyện Isaac
Newton thấy trái táo rơi và đã khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn là câu chuyện giúp chúng
ta hiểu được tầm quan trọng của thinh lặng. Chắc rằng Newton đã thinh lặng, đã tìm hiểu, đã ưu
tư nhiều về sự thinh lặng của muôn vật muôn loài trong vũ trụ. Việc Newton khám phá ra định
luật vạn vật hấp dẫn là hiệu quả, là hoa trái của tiến trình lâu dài, chứ không chỉ là sản phẩm của
ngạc nhiên, may rủi. Nếu Newton không thinh lặng, không chú tâm đủ thì không bao giờ có được
hoa trái mỹ mãn như vậy. Nhìn chung, những khám phá, sáng chế từ các nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau đều đến từ những người có khả năng đi vào thế giới thinh lặng. Như vậy,
những người biết thinh lặng, biết chuẩn bị mới có thể đọc được những gì xảy đến cách bất ngờ.

Chúng ta không chỉ được mời gọi lắng nghe tiếng nói của người này, người kia mà còn được
mời gọi lắng nghe 'tiếng nói của thinh lặng'. Đặc điểm của các thánh trong lịch sử Giáo Hội là
thực thi đời sống thinh lặng. Nói cách khác: Những người thánh thiện cũng là những người thinh
lặng [sự thinh lặng của tâm hồn hiệp thông với Thiên Chúa] và ngược lại. Nhờ thinh lặng, các ngài
có được kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và diễn tả kinh nghiệm gặp gỡ đó bằng lời nói và hành
động thánh thiện của mình. Đọc hạnh các thánh tử đạo, ai cũng ngạc nhiên về sự thinh lặng, sự
bình an của các ngài khi phải đối diện với cái chết. Chúng ta cần ý thức rằng để có được sự thinh
lặng, sự bình an như vậy, các ngài đã thực thi đời sống thinh lặng, đời sống bình an. Nói cách
khác, các ngài đã chuẩn bị cho sự thinh lặng, sự bình an trước cái chết bằng cuộc đời thinh lặng,
cuộc đời bình an gắn kết mật thiết với Đức Giê-su, Đường Thinh Lặng, Đường Bình An, được
Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại.

Theo gương Đức Giê-su, các nhà thần bí (mystics) là những người có kinh nghiệm đặc biệt về
môi trường thinh lặng. Họ nhận ra rằng đời sống thinh lặng là đời sống lý tưởng để họ gặp gỡ
Thiên Chúa và thỉnh vấn ý Người. Các ngài đã trở nên mẫu gương sống động cho chúng ta về sự
hoán cải và qui hướng về Thiên Chúa, chẳng hạn như thánh Gio-an Tẩy Giả, Tê-rê-xa A-vi-la, Gio-
an Thánh Giá. Họ là những nhân chứng mạnh mẽ nhất cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên
Chúa, cũng như tình yêu của Người. Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta nói: "Hoa trái của thinh lặng là cầu
nguyện, hoa trái của cầu nguyện là niềm tin, hoa trái của niềm tin là tình yêu, hoa trái của tình
yêu là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an." Như vậy, thinh lặng là khởi đầu cho những hiệu
quả tốt lành: Cầu nguyện, đức tin, tình yêu, phục vụ, bình an. Thực ra, theo một nghĩa nào đó thì
'bình an' cũng có nghĩa là 'thinh lặng' hay nói cách khác, môi trường bình an cũng là môi trường
thinh lặng và ngược lại. Như vậy, 'thinh lặng' vừa là khởi đầu, vừa là kết thúc, vừa là khởi đầu
mới.   

54
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Thinh lặng là điều kiện cần thiết để chúng ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra bản thân mình.
Trong tác phẩm Tự Thuật, thánh Au-gút-ti-nô viết: 'Thiên Chúa thân mật với tôi hơn tôi với chính
mình' (Deus est intimior intimo meo)  hay 'Thiên Chúa sâu thẳm trong tôi hơn tôi với chính mình
và cao cả trong tôi hơn tôi với chính mình' (Deus est interior intimo meo et superior summo
meo). Chắc chắn rằng, nhờ thinh lặng, thánh nhân đã có được kinh nghiệm quí giá đó và ngài đã
truyền lại cho tất cả mọi người. Sứ điệp mà ngài muốn gửi đến là: Khi con người càng gần Thiên
Chúa bao nhiêu, thì càng gần chính mình bấy nhiêu và ngược lại.

Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), quân lính Đức lùng bắt
tất cả những người Do-thái và tống vào các trại tập trung. Ở đây, họ phải chịu nhiều hình thức
cực hình cho đến chết. Có một cô gái trẻ Do-thái thoát được và trốn trong một cái hang. Khi
người ta tìm thấy xác cô, họ cũng phát hiện trên bức tường của hang đó cô gái viết mấy câu: "Tôi
tin có mặt trời, ngay cả khi nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu, ngay cả khi tôi đơn độc. Tôi
tin vào Thiên Chúa, ngay cả khi Người thinh lặng." Với cô gái Do-thái này, khi con người không
thấy mặt trời, không có nghĩa là mặt trời không hoạt động. Khi con người đơn độc, không có
nghĩa là tình yêu không hiện hữu. Tương tự như thế, khi Thiên Chúa thinh lặng không có nghĩa là
Người không hành động.

Thinh lặng, lời nói và hành động được xem là ba cột trụ căn bản trong đời sống con người.
Trong đó, thinh lặng đóng vai trò quan trọng nhất. Thinh lặng chính là căn nguyên, là nền tảng và
là môi trường khởi xuất lời nói và hành động. Nếu con người không có được sự thinh lặng đúng
nghĩa, con người cũng không thể nói năng và hành động đúng được. Như vậy, vấn đề chính yếu
mà chúng ta cần quan tâm là luôn tạo sự hòa hợp giữa thinh lặng, lời nói và hành động. Trong
trường hợp không thể, ưu tiên phải là thinh lặng. Tuy nhiên, khi sự lên tiếng hay hành động của
chúng ta đem lại bình an, sự thật, sự lành thì chúng ta cần phải thực thi. Còn người nào chỉ có
nói mà không hành động tốt, thì họ không phải là người môn đệ thực thụ của Đức Giê-su (Mt
7,21-27). Thánh Phao-lô viết: "Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc
không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy
dỗ" (2 Tm 4,2).

Người Ni-giê-ri-a có câu ngạn ngữ: "Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe được bước chân của
những con kiến." Chúng ta học hành và luyện tập nhiều thứ để chuẩn bị cho cuộc sống. Tuy
nhiên, chúng ta ít luyện tập cho mình khả năng thinh lặng. Ai không có khả năng thinh lặng,
người đó cũng không có khả năng lắng nghe tiếng lòng mình, và cũng không thể lắng nghe tiếng
Thiên Chúa, bởi vì tiếng Thiên Chúa đến với những tâm hồn thinh lặng. Hơn nữa, thinh lặng là
điều kiện cần thiết giúp chúng ta phân biệt đâu là tiếng Thiên Chúa và đâu là tiếng của ác thần.
Tiếng Thiên Chúa thường là tiếng mời gọi sống bác ái, hoán cải, hướng tới sự lành. Tiếng ma quỉ
thường là tiếng xui khiến, rủ rê, chia rẽ, tạo nghi ngờ lẫn nhau, đặc biệt, nghi ngờ về tình yêu
Thiên Chúa hay sự hiện diện và hoạt động của Người.

Năng lực thinh lặng diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của chúng ta không phải tự nhiên
mà có, trái lại, chúng ta cần không ngừng vun đắp mỗi ngày. Chúng ta cần tạo cho mình khả năng
thinh lặng hơn là khả năng ồn ào, khả năng lắng nghe hơn là khả năng gào thét, khả năng thông
cảm hơn là khả năng chỉ trích, khả năng nhìn nhận những điều tốt nơi người khác hơn là khả

55
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

năng 'vạch lá tìm sâu' nơi họ, khả năng giúp người khác biến đổi hơn là khả năng trù dập, khả
năng cởi mở hơn là khả năng đóng kín, khả năng trút bỏ hơn là khả năng sở hữu. Để có được
những khả năng đó, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Đường Thinh Lặng của Đức
Giê-su.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng họ ở giữa thế gian
nhưng không thuộc về thế gian (Ga 15,18-19). Câu hỏi đặt ra là làm sao các môn đệ có thể không
thuộc về thế gian được? Câu trả lời là các môn đệ ở giữa thế gian với muôn vàn tiếng động, tuy
nhiên, các ngài có được sự thinh lặng hay sự bình an của Đức Giê-su, bình an mà thế gian không
thể ban tặng (Ga 14,27). Tâm hồn các ngài được liên kết mật thiết với Đức Giê-su. Nhờ đó, các
ngài vững tâm giữa muôn vàn bấp bênh, khốn khó và đau khổ của cuộc đời. Đồng thời, các ngài
trở nên khí cụ hữu hiệu trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em
đồng loại.

Đường của Đức Giê-su là Đường Thinh Lặng, Đường giúp chúng ta gặp gỡ chính mình, gặp gỡ
anh chị em chúng ta, gặp gỡ muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, đặc biệt, gặp gỡ Thiên
Chúa. Để đi Đường đó, chúng ta được mời gọi thinh lặng để chiêm ngắm Đức Giê-su trong máng
cỏ, chiêm ngắm Đức Giê-su trong lúc trốn sang Ai-cập, chiêm ngắm Đức Giê-su trong Gia Đình
Na-da-rét. Chúng ta được mời gọi thinh lặng để chiêm ngắm Đức Giê-su trong sa mạc bốn mươi
đêm ngày, chiêm ngắm Đức Giê-su cúi xuống với những người bệnh tật, bị quỉ ám và muôn hình
thức đau khổ khác, chiêm ngắm Đức Giê-su trên núi Ta-bo. Chúng ta được mời gọi để chiêm
ngắm Đức Giê-su trên thập giá, chiêm ngắm Đức Giê-su chịu chết và chịu mai táng trong mộ,
chiêm ngắm Đức Giê-su phục sinh vinh hiển. Đặc biệt, chúng ta được mời gọi thinh lặng để
chiêm ngắm Đức Giê-su Thánh Thể, chiêm ngắm Đức Giê-su khi chia sẻ Lời Chúa, chiêm ngắm
Đức Giê-su trong anh chị em mình.

Qua những gì được trình bày trên đây, chúng ta có thể xác quyết rằng Thiên Chúa là Đấng
Thinh Lặng và Đức Giê-su đã đi Đường Thinh Lặng để đến với gia đình nhân loại. Cuộc đời Người
trong hành trình trần thế đặt nền tảng trên sự thinh lặng. Là Thiên Chúa trong thân phận con
người, Đức Giê-su trở nên mẫu gương cho chúng ta về đời sống thinh lặng, cầu nguyện, vâng
phục, tin tưởng, lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su
luôn hiện diện với tất cả chúng ta. Giữa cảnh ồn ào, náo động của thế sự, Người luôn mời gọi tất
cả chúng ta hãy đi Đường Thinh Lặng của Người để chúng ta có thể đạt được sự hòa hợp giữa
các yếu tố trong đời sống cá nhân, hòa hợp với anh chị em, hòa hợp với muôn vật muôn loài
trong thế giới thụ tạo, và đặc biệt, hòa hợp với Thiên Chúa.

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG KHIÊM HẠ
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 10 năm 2020

56
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Chín vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Thinh
Lặng.  Tháng Mười này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Khiêm
Hạ. Theo nội dung đức tin Ki-tô giáo, với quyền năng của Người, Đức Giê-su có thể đến với gia
đình nhân loại theo nhiều cách thức khác nhau. Tuy nhiên, Người đã đến bằng Đường Khiêm Hạ
để phục hồi phẩm giá con người và cho con người được tham dự vào sự sống viên mãn của
Thiên Chúa.

Từ 'khiêm hạ' trong tiếng Việt tương đương với 'humility' trong tiếng Anh, phát xuất từ tiếng
La Tinh 'humilis' (thấp, gần mặt đất; humus: đất). Khiêm hạ là đặc tính căn bản diễn tả thân phận
con người trước mặt Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, khiêm hạ ngược lại với khoe khoang, kiêu
ngạo. Người khiêm hạ không tự cao tự đại, nhưng cậy dựa vào Thiên Chúa (Cn 3,7; Tv 131,1; Rm
12,3.16). Khiêm hạ là thái độ của con người, thụ tạo tội lỗi trước Đấng toàn năng, chí thánh, và
nhìn nhận rằng mọi sự mình có đều do Người ban tặng (1 Cr 4,7). Người khiêm hạ biết mình là
tội nhân, là đầy tớ vô dụng (Lc 5,8; Lc 17,10; Gl 6,3). Họ mở lòng đón nhận ơn Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa hằng đoái thương họ (Gc 4,6; 1 Sm 2,7; Cn 15,33). Nói chung, khiêm hạ diễn tả thái
độ con người 'biết mình', 'biết tha nhân', 'biết Thiên Chúa' và 'biết luôn qui hướng về Người'.

Trong Cựu Ước, đặc tính khiêm hạ gắn liền với những người mọn hèn trong xã hội. Họ là
'những người nghèo của Gia-vê (Đức Chúa)' và phó thác hoàn toàn cuộc sống mình cho Người.
Họ luôn là 'những đối tượng đặc biệt' của tình yêu Thiên Chúa, Đấng luôn lắng nghe và ra tay giải
thoát họ khỏi cảnh áp bức, bất công như Lời Thiên Chúa phán trong sách ngôn sứ I-sai-a: "Kẻ
được Ta đoái nhìn: Đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run
sợ" (Is 66,2). Hơn nữa, Thiên Chúa còn đưa ra những huấn lệnh cho dân Do-thái là phải tôn
trọng, quan tâm và chăm sóc họ. Lịch sử Cựu Ước cũng là lịch sử của việc Thiên Chúa đề cao
người khiêm hạ, chống lại phường kiêu căng. Đặc biệt, những người khiêm hạ được Thiên Chúa
mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Người.

Áp-ra-ham, Mô-sê và Đa-vít là những người khiêm hạ điển hình trong Cựu Ước, chẳng hạn,
Áp-ra-ham nói với Thiên Chúa: "Con chỉ là thân tro bụi" (St 18,27); Mô-sê được mô tả là "người
hiền lành nhất đời" (Ds 12,3); Đa-vít thân thưa cùng Thiên Chúa: "Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt
sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ
nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui"  (Tv 131,1-2). Các ngôn sứ của Thiên Chúa là
những người khiêm hạ, chẳng hạn, ngôn sứ I-sai-a thốt lên: "Tôi là một người môi miệng ô uế,
tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo
binh!" (Is 6,5), còn Giê-rê-mi-a thì thành khẩn: "Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn
quá trẻ, con không biết ăn nói!" (Gr 1,6). Tiếp tục với truyền thống Cựu Ước, trong thời Tân Ước,
Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se, thánh Gio-an Tẩy Giả là những người khiêm hạ. Thiên Chúa mời gọi
các ngài cách đặc biệt để tham dự vào chương trình cứu độ của Người được thực hiện nhờ Đức
Giê-su, Đường Khiêm Hạ.

57
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên trong 'môi
trường khiêm hạ'. Trước khi bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, Người đã diễn tả sự
khiêm hạ của mình bằng cách xuống sông Gio-đan để chịu Phép Rửa bởi Gio-an Tẩy Giả. Sau đó,
Người vào hoang địa ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và chịu ba cơn cám dỗ: Cám dỗ về
sự thỏa mãn (biến đá thành bánh để ăn), cám dỗ thể hiện quyền năng (nhảy từ trên cao xuống
đất) và cám dỗ về vật chất (các vương quốc và sự giàu sang trần thế). Đức Giê-su đã từ chối thực
thi những điều ngoại thường do ma quỷ đặt ra. Người đã không thể hiện quyền năng của mình
theo mưu mô thâm độc của ma quỷ, nhưng thể hiện sự khiêm hạ, tùng phục Thiên Chúa để
chiến thắng ma quỷ (Mt 4,1-11).

Trong hành trình rao giảng, Đức Giê-su từng loan báo rằng Tin Mừng của Người dành cho tất
cả mọi người, đặc biệt là những người khiêm hạ. Để minh chứng điều đó, Người đã diễn tả sự
khiêm hạ của mình bằng cách cúi xuống với tất cả mọi người: Người cúi xuống với những người
bị quỷ ám, cúi xuống với những người bệnh tật, cúi xuống với những người bị bỏ rơi, cúi xuống
với những người bị loại trừ trong đời sống tôn giáo hay xã hội. Tâm tình, lời nói và hành động
của Đức Giê-su đều mang âm hưởng của sự khiêm hạ. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su không bao giờ
diễn tả mình như một vị vua, một tướng quân, một anh hùng hào kiệt, một nhà lãnh đạo tài ba.
Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người không giống với bất cứ vĩ nhân nào trong dòng lịch sử
nhân loại.

Những lời nói và việc làm của Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức
rằng Đức Giê-su vừa là Con Thiên Chúa vừa là con loài người. Tuy nhiên, Đức Giê-su thường diễn
tả mình như là con loài người hơn là Con Thiên Chúa, bởi vì, trong mọi hoàn cảnh, Người thể
hiện mình là người khiêm hạ, luôn đứng về phía những nạn nhân của muôn hình thức bất công,
đau khổ. Những gì Đức Giê-su thực hiện giúp họ hướng tới sự giải thoát và vinh thắng chung
cuộc của Thiên Chúa trên tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đức Giê-su không diễn tả chính mình như
'Thiên Chúa là' (vinh quang, danh dự, uy quyền), nhưng diễn tả chính mình như 'con người là'
(đau khổ, cùng cực bởi sức nặng của tội lỗi và hậu quả khôn lường của tội lỗi là sự chết).

Đức Giê-su khiêm hạ khi tiếp cận người tốt hay kẻ xấu, Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự
do. Người khiêm hạ khi cho phép người tội lỗi, người thánh thiện, người giàu, người nghèo,
người nữ, người nam trở thành những người loan báo và phục vụ Tin Mừng (Mt 8,5-13; Lc 8,1-3;
Ga 4,1-42). Người khiêm hạ khi nhìn nhận con người với cả những điểm tích cực và tiêu cực. Dụ
ngôn cỏ lùng cho chúng ta biết điều đó (Mt 13,24-30.36-43). Người khiêm hạ khi để cho Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt tự do bán Người cho quân dữ. Người khiêm hạ khi để cho các môn đệ tự do lìa bỏ
Người. Người khiêm hạ khi để cho tên trộm cướp sát nhân nhục mạ Người trên thập giá (Lc
23,39).

Đức Giê-su đề cao những người sống đời khiêm hạ. Chẳng hạn, quan sát những người bỏ tiền
dâng cúng cho Đền Thờ, có lắm người bỏ nhiều tiền và cũng có một bà góa chỉ bỏ vào hai đồng
tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma, Người nói với các môn đệ: "Bà goá nghèo này đã
bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết" (Mc 12,43). Đức Giê-su biết rằng bà không bỏ bằng đồng tiền dư
thừa nhưng bằng 'chính sự sống của mình'. Số tiền này quá ít ỏi nhưng đây là gia sản bà có được.
Bà đã bỏ tiền vào Đền Thờ với tất cả tâm tư, tình cảm và lòng đạo đức của mình. Với Đức Giê-su,

58
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

điều chính yếu không phải là số tiền bà dâng cúng mà là trái tim của bà đối với việc đóng góp cho
Đền Thờ. Với Đức Giê-su, chất lượng thì hơn số lượng, 'nồng độ khiêm hạ' hay 'nồng độ tình yêu'
trong công việc thì quan trọng hơn 'trương độ' hay 'số lượng' công việc. Với Đức Giê-su, con
người có trái tim nhân hậu, trái tim biết rung cảm trước những đau thương hay thiếu thốn của
người khác thì quan trọng hơn những gì mang tính hình thức bên ngoài.

Một trong những điều Đức Giê-su thường khuyên dạy các môn đệ là tránh thói giả hình. Dụ
ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện diễn tả điều đó. Trong Đền
Thờ, người Pha-ri-sêu đứng thẳng (dấu chỉ của kiêu ngạo) kể lể những gì ông ta làm được, còn
người thu thuế thì "đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm
ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi"  (Lc 18,13). Đức Giê-su kết
luận: "Tôi nói cho các ông biết: Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính
rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ
được tôn lên" (Lc 18,14). Đức Giê-su cho mọi người biết rằng người đạo đức đích thực là người
khiêm hạ, chứ không phải là người khoe khoang những thành tích mình đạt được.

Thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su "ai là người lớn nhất trong
Nước Trời?", Người đã gọi một em nhỏ lại và bảo "nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ,
thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,1-2)). Ngay trong sự kiện này, chúng ta thấy được sự
khiêm hạ của Đức Giê-su. Người không chỉ vào mình và nói rằng 'Thầy khiêm hạ từ nhỏ đến lớn,
anh em hãy học từ Thầy', nhưng Người chỉ vào em nhỏ. Chúng ta biết rằng trẻ nhỏ luôn có tâm
hồn nhạy cảm. Trẻ nhỏ biết ngạc nhiên trước một bông hoa đẹp, trước một hòn đá nhỏ, trước
một món quà đơn sơ. Trẻ nhỏ biết ngạc nhiên trước cảnh hùng vĩ của hừng đông hay chiều tà.
Trẻ nhỏ dễ lắng nghe, dễ tiếp nhận, dễ vâng phục. Trẻ nhỏ biết 'phó thác bản thân' cho người
khác chăm sóc hướng dẫn. Trẻ nhỏ thích tìm tòi, khám phá. Trẻ nhỏ luôn sẵn sàng mở lòng trí
cho những kiến thức hay thực tại mới mẻ. Trẻ nhỏ có thể không giải thích các sự kiện hay biến cố
xảy đến, nhưng lại đón nhận các sự kiện hay biến cố với tinh thần ngạc nhiên, quảng đại, bao
dung. Trẻ nhỏ có thể không hiểu từ 'khiêm hạ' là gì, nhưng khiêm hạ lại là 'bản tính tự nhiên' của
chúng. Do đó, để đến với Đức Giê-su, để lĩnh hội và thực thi giáo huấn của Người, tất cả mọi
người phải có 'tâm hồn trẻ nhỏ'.

Đức Giê-su thể hiện sự khiêm hạ của mình cách đặc biệt trong Biến Cố Vượt Qua. Người vào
Giê-ru-sa-lem với tư cách là Con Vua Đa-vít, là Đấng Mê-si-a. Tuy nhiên, Người không thể hiện
mình là Con Vua Đa-vít hay Đấng Mê-si-a theo nhãn quan trần tục, nhãn quan đậm màu chính trị,
xã hội của dân Do-thái (Mt 21,1-11). Đức Giê-su đã không 'đánh Đông dẹp Bắc' để đem lại sự
hưng thịnh và vinh quang trần thế cho dân Do-thái, nhưng Người đã tẩy trừ tội lỗi và sự chết để
đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại bằng Đường Khiêm Hạ. Đức Giê-
su là vua, nhưng Người không cưỡi trên lưng ngựa như các vị vua đương thời. Người cũng không
cưỡi trên lưng con lừa trưởng thành, mà lại cưỡi trên lưng lừa con. Sự kiện này ứng nghiệm lời
ngôn sứ trong Cựu Ước: "Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của
ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên
lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ" (Dcr 9,9; Mt 21,5).

59
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Sự khiêm hạ của Đức Giê-su được diễn tả qua việc Người hạ mình xuống với con người, sống
thân phận con người, chết vì con người. Chính Đức Giê-su đã 'tự làm cho mình' trở nên phàm
nhân và nạn nhân của các hình thức đau khổ trong gia đình nhân loại. Người đã làm cho mình
trở nên 'trống rỗng' (κένωσις, kénōsis), vì Người đã trút bỏ tất cả những gì thuộc về Người và
nhận vào mình tất cả tội lỗi và sự chết của mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa
cho đến tận thế mà đưa lên cây thập giá (1 Pr 2,18-24). Chúng ta biết rằng quyền năng, danh dự
và vinh quang của Đức Giê-su là quyền năng, danh dự và vinh quang của Thiên Chúa. Do đó, khi
Đức Giê-su trút bỏ tất cả cũng là khi Người mang lấy tất cả những hậu quả do tội lỗi gây nên và
trả lại cho con người phẩm giá là được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được trở thành
con cái Thiên Chúa nhờ danh Người.

Hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống trên thập giá đáng chúng ta quan tâm nhất (Ga 19,30).
Hình ảnh này gợi lên trong chúng ta hình ảnh đối lập nơi A-đam kiêu ngạo, sa chước cám dỗ,
ngước đầu lên trong buổi đầu sáng tạo. Hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống nhắc nhở chúng ta
về sức nặng của tội lỗi nhân loại mà Người phải gánh chịu. Hình ảnh này cũng nhắc nhở chúng ta
về việc cần thiết phải gục đầu sám hối ăn năn vì những tội lỗi và bất xứng của bản thân trong
hành trình dương thế. Hơn nữa, hình ảnh này cũng nhắc nhở chúng ta sự cần thiết phải vâng
phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tắt một lời, hình ảnh Đức Giê-su gục đầu xuống
nhắc nhở chúng ta phải sống khiêm hạ theo khuôn mẫu Người.

Dưới nhãn quan của một số người, Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố
thất bại. Thiên Chúa không thể đến với nhân loại và hành xử theo cách đó. Sự khiêm hạ của Đức
Giê-su là quá mức và không cần thiết. Tuy nhiên, trong chương trình của Thiên Chúa, sự khiêm
hạ của Đức Giê-su đem lại ơn cứu độ và giải phóng tận căn cho tất cả mọi người. Sự khiêm hạ
của Người không hợp lý theo ý con người, đó là lý do giải thích tại sao "người Do Thái coi là ô
nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23). Tuy nhiên, sự khiêm hạ của
Người lại hợp lý theo ý Thiên Chúa, bởi vì đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa không phải là
đường lối và tư tưởng của con người. Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a minh chứng điều
đó: "Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư
tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy" (Is 55,9).

Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa được diễn tả
trong gia đình nhân loại. Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, sự sống đã chiến thắng sự chết.
Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, trật tự các giá trị theo nhãn quan của con người bị đảo
lộn. Theo ngôn ngữ của thánh Phao-lô, nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, "những gì thế gian
cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian
cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho
là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có"  (1
Cr 1,27-28). Nhờ Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, sự kiêu ngạo của Nguyên Tổ và những dẫn
xuất của sự kiêu ngạo này bị tiêu diệt.  

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng A-đam là con người nhưng lại muốn trở thành 'vị thần biết
điều thiện điều ác' (St 3,5), Đức Giê-su là Thiên Chúa nhưng đã trở thành con người, giống chúng
ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. A-đam đi lên, còn Đức Giê-su đi xuống. A-đam khẳng định chính

60
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

mình, còn Đức Giê-su trút bỏ chính mình. A-đam đi đường thênh thang, còn Đức Giê-su đi
đường nhỏ hẹp. A-đam đi đường bất tuân Thiên Chúa, còn Đức Giê-su đi đường tuân phục Thiên
Chúa. A-đam đi đường giàu sang, còn Đức Giê-su đi đường nghèo khó. Vì đường A-đam, sự chết
đến trần gian, nhờ Đường Đức Giê-su, Sự Sống đến với trần gian để khôi phục sự sống cho tất cả
mọi người. Thánh Phao-lô viết: "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp
bội" (Rm 5,20). Suy niệm về sự khiêm hạ theo mặc khải Ki-tô giáo, thánh Au-gút-ti-nô viết: "Kiêu
ngạo làm cho các thiên thần trở thành ác quỷ, khiêm hạ làm cho con người trở thành những
thiên thần."

Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng bóng tối không thể đẩy lui bóng tối, chỉ
có ánh sáng mới đẩy lui được bóng tối mà thôi. Đức Giê-su đã minh chứng điều đó trong hành
trình rao giảng Tin Mừng. Chẳng hạn, khi Người trừ quỷ thì một số người bảo: "Ông ấy dựa thế
quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ" (Lc 11,15). Đức Giê-su nói: "Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ
chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?"  (Lc 11,18). Người nói tiếp: "Nếu tôi dùng
ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông"  (Lc 11,20).
Do đó, cây trái cấm trong Vườn Địa Đàng chỉ có thể thay thế bằng cây thập giá Đức Giê-su. 'Vi-rút
kiêu ngạo' của A-đam chỉ có thể bị đánh bại bằng 'Vắc-xin Khiêm Hạ' của Đức Giê-su. Bệnh kiêu
ngạo của A-đam chỉ có thể cứu chữa bằng Thuốc Khiêm Hạ của Đức Giê-su. Trái tim kiêu ngạo
của A-đam chỉ có thể biến đổi bằng Trái Tim Khiêm Hạ của Đức Giê-su. Sự chết của A-đam chỉ có
thể chữa trị bằng sự sống của Đức Giê-su. Đường kiêu ngạo của A-đam chỉ có thể triệt tiêu bằng
Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su.

Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, chúng ta nhận thức rằng tình yêu của Người đạt đỉnh điểm
không phải qua những kỳ công vĩ đại Người thực hiện trên trần gian, nhưng qua sự khiêm hạ của
Con Yêu Dấu Người là Đức Giê-su. Chính sự khiêm hạ của Đức Giê-su làm cho tình yêu của Thiên
Chúa khác biệt so với tất cả các dạng thức tình yêu mà con người có thể cảm nhận trong lịch sử
nhân loại. Sự khiêm hạ của Đức Giê-su cũng chính là tình yêu của Người đối với tất cả mọi người.
Nói cách khác, tình yêu của Đức Giê-su là tình yêu trong khiêm hạ hay khiêm hạ của Đức Giê-su
là khiêm hạ trong tình yêu. Hơn ai hết, thánh Phao-lô là người am hiểu và diễn tả rất mạch lạc về
điều này (Rm 8,31-39).

Đối với thánh Phao-lô, tình yêu hay đức mến và sự khiêm hạ định nghĩa lẫn nhau và giải thích
cho nhau. Người sống đời khiêm hạ cũng là người sống đời yêu thương và ngược lại: "Đức mến
thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất
chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu
đựng tất cả" (1 Cr 13,4-7). Như thế, những gì thánh nhân diễn tả về đức mến chính là những gì
phát xuất từ sự khiêm hạ. Thánh Gio-an tông đồ khẳng định: "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga
4,8.16). Theo nhãn quan của thánh Phao-lô, chúng ta cũng có thể khẳng định: Thiên Chúa là
khiêm hạ. Người diễn tả sự khiêm hạ tột cùng trong Biến Cố Đức Giê-su giữa lòng nhân thế.  

Sự khiêm hạ của Đức Giê-su có tính lan tỏa, thẩm thấu và biến đổi tâm hồn những ai tiếp cận
Người. Chẳng hạn, ngay trong buổi đầu, khi diện kiến Đức Giê-su cũng như sứ mệnh của Người
và trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!"  (Lc

61
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

5,8). Khi Phê-rô khiêm hạ nhận ra thân phận của mình, Đức Giê-su đã chọn ngài trở thành môn
đệ Người (Lc 5,10-11). Thấm nhuần giáo lý Thầy mình, trong hành trình loan báo Tin Mừng,
thánh Phê-rô viết: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (1 Pr
5,5). Tương tự như vậy, khi gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh trên đường Đa-mát và được Người biến
đổi, thánh Phao-lô khiêm hạ nhìn nhận: "Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận:
Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"  (1 Tm 1,15).
Kinh nghiệm về Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, ngài không chỉ trung tín với Đường Khiêm Hạ
mà còn hướng dẫn người khác sống Đường Khiêm Hạ. Ngài viết: "Đừng đi quá mức khi đánh giá
mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức" (Rm 12,3) hay "Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn,
hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau" (Ep 4,2).

Mặc khải Ki-tô giáo cho chúng ta nhận thức rằng kiêu ngạo là 'tội đầu của các tội' và khiêm hạ
là 'nhân đức đầu của các nhân đức'. Hơn nữa, người sống và thực thi nhân đức khiêm hạ cũng là
người sống và thực thi các nhân đức khác trong nội dung đức tin Ki-tô giáo. Tuy nhiên, nhân đức
khiêm hạ không phải là nhân đức mà con người có thể đạt được, sống và diễn tả luôn mãi. Tội
Nguyên Tổ và hậu quả của Tội Nguyên Tổ vẫn còn 'lay động trái tim mọi người'. Nếu không có sự
kết hợp liên lỉ với Đức Giê-su, người khiêm hạ có thể trở thành người kiêu ngạo trong giây lát.
Nói cách khác, biên giới giữa khiêm hạ và kiêu ngạo thật mong manh và dễ đổ vỡ. Nhân đức
khiêm hạ là lộ trình dang dở cho tất cả mọi người trong hành trình trần thế. Do đó, nhân đức này
cần được quan tâm, gìn giữ và vun đắp mỗi ngày. 

Sự kiêu ngạo và sự khiêm hạ tỷ lệ nghịch với nhau: Sự kiêu ngạo càng lớn thì sự khiêm hạ
càng nhỏ và ngược lại. Để sự khiêm hạ ngày càng được lớn lên, con người không có chọn lựa nào
khác là đi Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su, Đường Duy Nhất cho tất cả mọi người. Đây là Đường
đòi hỏi tất cả mọi người phải biết cúi đầu, biết trút bỏ, biết nhận ra thân phận yếu đuối của mình
trước mặt Thiên Chúa, đồng thời, biết nhìn nhận người khác như là anh chị em của mình, đồng
thời, quan tâm đến muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Người đi Đường Khiêm Hạ biết
luôn trở về với chính mình để nhận ra những thiếu sót, bất xứng của bản thân và biết qui hướng
về giáo huấn của Đức Giê-su nhằm biến đổi tâm hồn mình luôn mãi.  

Bài Giảng Trên Núi của Đức Giê-su mà chúng ta thường quen gọi là Tám Mối Phúc hay Hiến
Chương Nước Trời là bài giảng về sự khiêm hạ. Chẳng hạn, "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3); "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia
nghiệp" (Mt 5,4); "Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa" (Mt
5,8); "Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,10). Hơn ai hết,
chính Đức Giê-su đã sống và thực thi Tám Mối Phúc này. Do đó, ai theo Đường Khiêm Hạ của
Đức Giê-su, người đó cần phải noi gương, bắt chước Người.

Ai trong chúng ta cũng muốn làm điều tốt nhưng trong thực tế nhiều khi chúng ta lại làm điều
xấu. Thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm như thế và đã chia sẻ cho mọi người (Rm 7,19). Chúng ta
lắng nghe, hiểu biết, thậm chí giảng dạy cho người khác về Tám Mối Phúc, tuy nhiên, điều đó
chưa đủ, thực hành Tám Mối Phúc mới là quan trọng. Để thực hành Tám Mối Phúc, mỗi người
chúng ta phải thực sự thấm nhuần Tám Mối Phúc, yêu mến Tám Mối Phúc và 'cho phép' Tám
Mối Phúc trở thành trung tâm của đời sống mình. Hơn nữa, để thực hành Tám Mối Phúc, nhiều

62
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

lúc chúng ta phải bơi ngược dòng, phải biết 'nói không' với những gì phản lại giáo huấn Đức Giê-
su trong đời sống cũng như trong các tương quan của bản thân mình giữa những gian trá và vàng
thau lẫn lộn của thế sự.

Suy niệm về Tám Mối Phúc, chúng ta nhận ra rằng người khiêm hạ là người nhận ra sự bất
toàn, bất xứng, bất hòa hợp của bản thân và sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người khiêm
hạ biết thinh lặng, biết lắng nghe và biết quan tâm đến người khác. Người khiêm hạ luôn biết
vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt, trong những lúc phải đương đầu với muôn
hình thức đau khổ về thể xác và tâm hồn. Người khiêm hạ biết kiên tâm chịu đựng trước những
nghịch cảnh của cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như kiên nhẫn trước sự vu oan hay hiểu lầm từ
người khác; kiên nhẫn khi sự tốt, sự lành, sự thiện chưa được biểu lộ; kiên nhẫn theo lời giảng
dạy của Đức Giê-su khi để lúa và cỏ lùng cùng tồn tại cho đến mùa gặt (Mt 13,30). Đặc biệt,
người khiêm hạ biết kiên nhẫn làm chứng cho Đức Giê-su theo gương các thánh tử đạo trong
dòng lịch sử Giáo Hội.

Trên thế giới, con cháu A-đam có thể phân biệt về sắc tộc, màu da, tôn giáo, văn hóa cũng
như nhiều đặc điểm khác, tuy nhiên, não trạng 'tôn mình lên và hạ người khác xuống' là não
trạng chung của nhiều người. Não trạng này đã gây biết bao tang tóc đối với gia đình nhân loại.
Ghen tương, giận hờn, thù ghét, chiến tranh, nghèo đói và tất cả các hình thức đau khổ do con
người gây nên, xét cho cùng, đều xuất phát từ não trạng 'tôn mình lên và hạ người khác
xuống'. Châm ngôn của Đức Giê-su rất ngắn gọn: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Châm ngôn này dễ học, dễ nhớ, dễ dạy bảo nhưng không dễ
thực hiện, bởi vì Tội Nguyên Tổ và 'dư chấn của Tội này' vẫn rền vang trong môi trường thế giới
thụ tạo, đặc biệt, trong tâm hồn của tất cả mọi người. 

Đức Giê-su khiêm hạ ngay cả khi Người không bắt buộc chúng ta phải theo Đường Khiêm Hạ
mà Người đã thực thi trong hành trình trần thế. Người mời gọi chúng ta và kiên nhẫn chờ đợi sự
tự do đáp trả của chúng ta đối với Đường Khiêm Hạ cũng là Đường Cứu Độ của Người. Trong bài
giảng 169, thánh Au-gút-ti-nô viết: "Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta mà không cần chúng ta
[cộng tác]; nhưng Người sẽ không cứu độ chúng ta mà không cần chúng ta [cộng tác]". Quả
thực, Thiên Chúa đã thực thi chương trình cứu độ của Người bằng Đường Khiêm Hạ của Con Yêu
Dấu Người là Đức Giê-su. Do đó, ai tự do theo Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su và thực hành
Đường Khiêm Hạ ấy trong đời sống mình thì sẽ được chung hưởng hoa trái tốt lành mà Đường
Khiêm Hạ của Đức Giê-su mang lại, đó là sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.

Những quan sát, đánh giá và khai triển trên đây cho phép chúng ta có được nhận định khái
quát rằng Đức Giê-su đã đi Đường Khiêm Hạ đến với gia đình nhân loại, hầu trả lại phẩm giá và
đem ơn cứu độ cho con người. Như thế, Đường Khiêm Hạ không chỉ là Đường các Ki-tô hữu, mà
còn là Đường của tất cả mọi người. Đức Giê-su cho chúng ta bài học thâm thúy rằng ai không
biết cúi xuống thì cũng không được nâng lên. Ai không đi Đường Khiêm Hạ của Người thì cũng
không thể chung phần vinh phúc với Người. Chúng ta được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực thi
Đường Khiêm Hạ của Đức Giê-su trong hành trình trần thế này. Đường Khiêm Hạ của Người
chính là Đường Cứu Độ của Thiên Chúa, Đường cho phép con người không ngừng được biến đổi,

63
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

tái tạo và ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, Đấng là Nguyên Thủy và Cùng Đích
của con người và muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

Đức Giê-su Ki-tô


ĐƯỜNG TÔI TỚ
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 11 năm 2020
Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Mười vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Khiêm
Hạ. Tháng Mười Một này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Tôi
Tớ. Người đã khởi đầu con đường này bằng việc trút bỏ chính mình để thi hành sứ mệnh của
Thiên Chúa giữa trần gian. Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã trở thành Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa để yêu thương và phục vụ nhằm khôi phục phẩm giá mọi người, đồng thời, giúp mọi
người trở thành con cái Thiên Chúa.

Thông thường, khái niệm 'tôi tớ' (servant) chỉ người phục vụ, hầu hạ hoặc người được ủy
thác để làm những công việc của chủ mình, đặc biệt là phục vụ bàn ăn. Người tôi tớ luôn sẵn
sàng vâng phục, thi hành ý muốn của chủ, trao đổi, tiếp xúc với chủ cũng như những người khác
bằng trái tim cháy bỏng, ánh mắt thông hiểu và đôi tay chai sạn. Tất cả những gì mà người tôi tớ
thực hiện nhằm đem lại sự dễ chịu cho chủ hay người mình chăm sóc. Khái niệm 'tôi tớ' còn
được sử dụng theo nghĩa rộng hơn, chẳng hạn như tôi tớ nhân dân hay tôi tớ mọi người.

Trong Giáo Hội Công Giáo, Tôi Tớ Thiên Chúa (Servus Dei, Servant of God) là bậc đầu tiên
trong tiến trình phong thánh. Từ bậc Tôi Tớ Thiên Chúa, tiến trình điều tra bắt đầu để tìm hiểu
những nhân đức trổi vượt của người được đề nghị tuyên phong hiển thánh. Sau bậc Tôi Tớ Thiên
Chúa là bậc Đáng Kính (Venerable), Chân Phước (Blessed) và Hiển Thánh (Saint). Chúng ta cũng
cần phân biệt tước hiệu Tôi Tớ Thiên Chúa của người trong tiến trình được phong thánh với tước
hiệu Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ (Servus Servorum Dei, Servant of the Servants of God), một trong
những tước hiệu của các Đức Giáo Hoàng. Người đầu tiên dùng tước hiệu này là thánh Giáo
Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả (540-604, thi hành tác vụ Mục Tử Giáo Hội hoàn vũ trong khoảng thời
gian 590-604). Đây là tước hiệu diễn tả sự khiêm hạ của người kế vị thánh Phê-rô trong Giáo Hội
do Đức Giê-su thiết lập. Từ thế kỷ XII trở đi, tước hiệu này được hầu hết các Đức Giáo Hoàng sử
dụng.

Hình ảnh 'chủ - tớ' thường được dùng trong Kinh Thánh để chỉ tương quan giữa Thiên Chúa
và con người, trong đó Thiên Chúa là 'Chủ', con người là 'tớ'. Các nhân vật điển hình trong Kinh

64
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Thánh như Nô-ê, Áp-ra-ham, Gia-cóp và con cháu ông, Mô-sê, Đa-vít, Đức Ma-ri-a, thánh Giu-se,
thánh Gio-an Tẩy Giả được gọi là các tôi tớ Thiên Chúa. Chẳng hạn, Lời Chúa trong sách ngôn sứ
Giê-rê-mi-a: “Còn ngươi, hỡi Gia-cóp, tôi tớ của Ta, đừng sợ hãi” (Gr 46,28). Tác giả Thánh Vịnh
123 viết: "Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà
chủ, mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta" (Tv 123,2). Đức Ma-ri-a nói
với sứ thần Gáp-ri-en: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói" (Lc 1,38). Các tôi tớ Thiên Chúa trong Kinh Thánh là hình ảnh báo trước sự xuất hiện của
Đức Giê-su, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa và cũng là Người Tôi Tớ của Giao Ước Mới giữa Thiên
Chúa và loài người.

Khoảng 700 năm trước Đức Giê-su, ngôn sứ I-sai-a đã loan báo về Người Tôi Tớ của Thiên
Chúa: "Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo
chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên
và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi,
không đếm xỉa tới. Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu
những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa
giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì
chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho
chúng ta được chữa lành" (Is 53,2-5). Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, lịch sử nhân loại chưa từng
ghi nhận người tôi tớ nào như I-sai-a diễn tả ở trên. Nói cách khác, những lời đó đã được ứng
nghiệm nơi Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Chính thánh Phê-rô cũng đã khẳng định như
thế khi viết: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em…Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy
miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà
chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính
Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta
sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa
lành“ (1 Pr 2,21-24).

Ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su không chỉ là Người Tôi Tớ của Thiên
Chúa (Servant of God) mà còn là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa (the Suffering Servant of
God), bởi vì Người đã mang lấy toàn bộ những khiếm khuyết, tội lỗi và sự chết của nhân loại.
Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su diễn tả mình là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa để
thông phần với những đau khổ của nhân loại hơn là thực thi những chiến công hiển hách nhằm
minh chứng quyền năng của Người. Câu hỏi đặt ra là tại sao gia đình nhân loại phải cần đến
Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa? Thưa, tại vì con người không có khả năng giải thoát mình
khỏi tất cả các hình thức đau khổ và sự chết. Chỉ có Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa mới có
thể làm được những điều đó.

65
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Giê-su là Thiên Chúa, nhưng Người diễn tả uy quyền của Người trong thân phận Người
Tôi Tớ qua sự cảm thông, chia sẻ, phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ, cùng cực,
bị áp bức và muôn hình thức đau khổ khác. Uy quyền của Đức Giê-su khác với uy quyền của
những người đương thời, chẳng hạn, khác với uy quyền của tầng lớp lãnh đạo thuộc đế chế Rô-
ma đang cai trị vùng Pa-lét-tin. Uy quyền của Đức Giê-su khác với uy quyền của những người
lãnh đạo dân sự hay tôn giáo trong xã hội Do-thái. Trong khi các vị lãnh đạo dân sự hay tôn giáo
Do-thái xem mình như là những người quan trọng, 'những hoàng tử' của dân tộc, Đức Giê-su
diễn tả mình như Người Tôi Tớ tận tình hiến thân phục vụ mọi người.

Để diễn tả tương quan giữa con người và Thiên Chúa cách cụ thể hơn, Đức Giê-su cũng đã
dùng hình ảnh 'chủ - tớ'. Chẳng hạn, Người dạy các môn đệ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng thi
hành tác vụ của mình để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa: "Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn
cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở
ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ"  (Lc 12,35-37).
Người cũng nói với họ cần phải phục vụ chủ mình cách chân tình, khiêm tốn: "Khi đã làm tất cả
những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm
việc bổn phận đấy thôi"  (Lc 17,9-10). Đối với Đức Giê-su, con người chỉ có thể trở nên vĩ đại khi
tận tình phục vụ anh chị em mình bằng trái tim đầy lòng thương xót.

Đức Giê-su còn dùng hình ảnh 'chủ - tớ' để diễn tả tình yêu thương trắc ẩn giữa con người với
nhau. Dụ ngôn 'tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót' cho chúng ta hiểu biết điều đó (Mt
18,23-35). Theo dụ ngôn này, tên đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng (khoảng 60 triệu ngày
công). Vì thương cảm hoàn cảnh túng thiếu, vua đã tha nợ cho ông. Tuy nhiên, khi gặp đồng bạn
mắc nợ ông chỉ một trăm quan tiền (khoảng 100 ngày công) thì ông lại bóp cổ đồng bạn bắt trả
nợ bằng được. Cuối cùng thì câu chuyện cũng đến tai vua và tên đầy tớ phải chịu cực hình vì
không biết thương xót người khác như đức vua đã thương xót ông. Quả thật, ông là đầy tớ của
vua, nhưng lại là chủ nợ của đồng bạn. Đáng lẽ, tình yêu của đức vua phải được chia sẻ và lan tỏa
tới đồng bạn của ông. Tuy nhiên, vì nhỏ nhen ích kỷ, ông đã đối xử tàn nhẫn với đồng bạn mình
và phải gánh lấy hậu quả xứng hợp.

Trong xã hội Do-thái thời Đức Giê-su, những người lãnh đạo, chẳng hạn như các luật sĩ, biệt
phái không bao giờ quan tâm đến vai trò tôi tớ, vai trò phục vụ của mình. Họ xem mình là những
người được Thiên Chúa tuyển chọn, được sinh ra để ăn trên ngồi trốc. Não trạng của họ luôn là
não trạng 'kẻ cả' như thể họ được sinh ra là để được tôn vinh chứ không tôn vinh ai, để lãnh đạo
chứ không phục vụ ai, để ra lệnh chứ không vâng lời ai, để giảng dạy chứ không học hỏi ai, để lên
tiếng chứ không lắng nghe ai. Họ luôn 'giữ khoảng cách' với những người thuộc các tầng lớp thấp
kém hơn mình, nhất là những người mà họ xem là ngoại bang, tội lỗi. Hình ảnh của họ hoàn toàn
trái ngược với hình ảnh Đức Giê-su, Người Tôi Tớ. Trong thời gian ba năm Người rao giảng Tin

66
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Mừng cách công khai cũng là thời gian Người dấn thân thi hành vai trò tôi tớ phục vụ, đặc biệt,
lời nói và việc làm của Người luôn đi đôi với nhau.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ mình.
Đối với các nền văn hóa trên thế giới, đặc biệt vùng Pa-lét-tin, vua rửa chân cho dân, thầy rửa
chân cho trò, chủ rửa chân cho tớ là điều không thể tưởng được. Tuy nhiên, với Đức Giê-su, điều
khó tin đã trở thành hiện thực. Chúng ta biết rằng thời Đức Giê-su, đường sá bụi bặm, thông
thường khi chủ nhà đi đâu về thì tôi tớ rửa chân cho chủ nhà hay khi chủ nhà mời bạn bè tới dự
tiệc, thì chủ nhà cũng sai tôi tớ rửa chân cho họ để tỏ lòng hiếu khách. Trong bối cảnh Đức Giê-
su và các môn đệ mừng Lễ Vượt Qua, không có ai là tôi tớ cả và Đức Giê-su đã tự mình trở thành
tôi tớ rửa chân cho các môn đệ. Với Đức Giê-su, trật tự vua - dân, thầy - trò, chủ - tớ đã hoàn
toàn thay đổi.

Việc Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ diễn tả sự gần gũi của Thiên Chúa với con người.
Điều này có nghĩa rằng Thiên Chúa không còn ở xa con người nữa, Thiên Chúa không chỉ giam
hãm mình trong thế giới linh tượng như một số triết gia Hy-lạp chủ trương. Thiên Chúa đích thật
là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa ở gần
con người hơn con người có thể tưởng nghĩ, bởi vì, qua việc rửa chân, Thiên Chúa đã đụng chạm
đến da thịt con người. Thiên Chúa gần gũi con người hơn con người gần gũi anh chị em thân
thuộc. Theo ngôn ngữ của thánh Au-gút-ti-nô, Thiên Chúa ở gần con người hơn con người với
chính mình.

Việc Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ diễn ra trong bối cảnh Người chuẩn bị bước vào
cuộc khổ nạn. Thông thường, trước cảnh bi thương sắp xảy đến, ai cũng lo lắng, buồn sầu và có
những hành xử tiêu cực. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho chúng ta thấy rằng Người không hành xử
theo cách đó. Trái lại, Người diễn tả tình yêu phục vụ của Người ở mức độ cao cả nhất. Cũng
trong biến cố này, Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể và công bố Giới Răn Mới, Giới Răn
Yêu Thương, yêu thương đến nỗi gọi các môn đệ của mình là bạn, yêu thương đến nỗi chết cho
bạn hữu của mình (Ga 15,13-15).

Đức Giê-su không chỉ rửa chân cho 'các môn đệ tốt lành', mà còn rửa chân cho Giu-đa Ít-ca-ri-
ốt, môn đệ phản bội. Người ta tranh luận nhiều về mục đích Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Đức Giê-su. Có
người cho rằng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Đức Giê-su vì mục đích tốt là để Đức Giê-su sớm ra tay
quyền lực tiêu diệt mọi quân thù. Nhờ đó, Ít-ra-en sẽ trở nên hùng cường với Đức Giê-su là Vua,
còn các môn đệ trở thành những bậc vị vọng trong đất nước. Tuy nhiên, cho dù là mục đích tốt
thì việc Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Thầy mình là không thể chấp nhận được, bởi vì 'mục đích tốt không
biện minh cho phương tiện xấu'. Đức Giê-su đã cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt cơ hội để hoán cải nhưng
Giu-đa Ít-ca-ri-ốt vẫn cố chấp theo chương trình mà bản thân định sẵn. Việc Đức Giê-su rửa chân
cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là bài học quý giá cho chúng ta, bởi vì, chúng ta thường yêu thương, phục

67
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

vụ những người đối xử tốt với chúng ta, chứ không yêu thương, phục vụ những người đối xử xấu
với chúng ta.

Phao-lô là khuôn mặt phản diện của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Sau khi gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh,
ngài được biến đổi hoàn toàn. Ngài đã nhận thức được bổn phận của mình trong việc loan báo
Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Với Phao-lô, Đức Giê-su không chỉ
là Người Tôi Tớ mà còn là Người Nô Lệ. Đức Giê-su mang lấy thân phận nô lệ để giải phóng con
người khỏi các hình thức nô lệ, đặc biệt, nô lệ tội lỗi và sự chết. Hơn ai hết, Phao-lô là người diễn
tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su cách ngắn gọn và đầy đủ nhất: "Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự" (Pl 2,6-8). Hai động từ rất quan trọng trong trích đoạn này là 'trút bỏ' và 'mặc lấy'. Đây
là hai động từ chính yếu diễn tả chương trình Đức Giê-su giữa lòng thế giới. Trong nhãn quan của
Phao-lô, Đức Giê-su vừa 'trút bỏ vinh quang', vừa 'mặc lấy thân nô lệ' nữa. Những tôi tớ hay nô
lệ khác trong xã hội loài người không 'trút bỏ', không 'mặc lấy', không phải tự mình trở thành tôi
tớ hay nô lệ như Đức Giê-su.

Chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su có thể 'trút bỏ vinh quang' và 'mặc lấy thân phận' của
bất cứ hạng người nào đó trong môi trường nhân loại, chẳng hạn như một vị vua, một vị hoàng
tử, một vị tướng lãnh, một vị tư tế hay một thường dân. Câu hỏi đặt ra là 'tại sao Đức Giê-su lại
mặc lấy thân nô lệ?'. Thưa, tại vì con người trở thành nô lệ của tội lỗi và sự chết, do đó, Đức Giê-
su mặc lấy thân nô lệ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết, không chỉ là sự chết thể lý
(chết tự nhiên) hay sự chết luân lý (phạm tội trọng) mà còn là sự chết vĩnh cửu. Điều này diễn tả
tình yêu vô bờ của Thiên Chúa và đường lối đặc biệt của Người đối với tất cả mọi người. Đức
Giê-su vô tội, nhưng đã mang lấy thân phận tôi tớ, thân phận nô lệ để liên đới với con người
trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt trong đau khổ và sự chết.

Những diễn tả của thánh Phao-lô về Đức Giê-su giúp chúng ta nhớ lại câu chuyện Giu-se, một
trong mười hai người con trai của Gia-cóp trong Cựu Ước. Giu-se bị các anh mình bán sang Ai-
cập như một nô lệ (St 37,1-36). Tuy nhiên, Thiên Chúa đã biến sự dữ thành sự lành, Giu-se đã
được trọng dụng và trở nên người quan trọng của triều đình Ai-cập. Trong cảnh đói kém, dân
Do-thái đã tới tận Ai-cập tìm kiếm lương thực, thực phẩm để nuôi sống các thành viên trong đại
gia đình. Tương tự như vậy, nhưng với mức độ kỳ diệu và huyền nhiệm hơn, Đức Giê-su đến trần
gian, Người đã mặc lấy thân phận nô lệ (Pl 2,7). Người đã bị Giu-đa bán với giá ba mươi đồng bạc
(Mt 26,15). Nhờ Giu-se, con cháu nhà Gia-cóp được cứu khỏi cảnh chết đói, nhờ Đức Giê-su,
toàn thể nhân loại được cứu khỏi cảnh chết đời đời. Như vậy, 'Giu-se, Giê-su' là hình ảnh và thực
tại, hình ảnh Giu-se tiên báo thực tại Giê-su, Đấng thực hiện chương trình tình yêu của Thiên
Chúa.

68
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Trong tư cách là Tôi Tớ của con người, Đức Giê-su đã phục vụ con người, đem lại cho con
người niềm vui, hạnh phúc và bình an. Nếu không có sự phục vụ của Đức Giê-su, con người
không thể nào đạt được niềm vui, hạnh phúc và bình an đích thực. Đức Giê-su thể hiện mình là
Người Tôi Tớ cho đến tận cùng, không chỉ tận cùng hành trình trần thế của Người, mà còn tận
cùng hành trình trần thế của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại cũng như muôn vật muôn
loài. Người nói: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và
hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45). Hiệu quả của chương trình Thiên Chúa
được Đức Giê-su thực hiện vẫn tiếp tục lan rộng trong môi trường nhân loại và toàn thể thế giới
thụ tạo.

Như đã được trình bày ở trên, thánh Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả là người đầu tiên dùng tước
hiệu Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ (Servus Servorum Dei) để nói về vai trò của ngài đối với Giáo Hội.
Trong Kinh Thánh, Đức Giê-su không nói rằng Người là Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ. Tuy nhiên, căn
tính, đời sống và sứ mệnh của Người diễn tả điều đó. Tước hiệu 'Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ' mà thánh
Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô Cả  dùng có thể xem như là kết quả việc ngài suy niệm về Đức Giê-su. Bởi
vì, hơn tất cả mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, Đức Giê-su
là Người Tôi Tớ Của Các Tôi Tớ, bởi vì Người đã phục vụ những người nghèo nhất trong số các
người nghèo, những người bất hạnh nhất trong số các người bất hạnh, những người tội lỗi nhất
trong số con cháu A-đam và E-và.

Đức Giê-su có nhiều tước hiệu và đa số là những tước hiệu cao quý. Những tước hiệu này
thường được dùng cho những bậc vị vọng trong xã hội loài người, chẳng hạn như 'vua', 'hoàng
tử', 'đấng giải phóng'. Thật là khập khiễng khi con người dùng các tước hiệu như thế để diễn tả
Đức Giê-su, bởi vì Người là Vua, Hoàng Tử, Đấng Giải Phóng nhưng Người không giống bất cứ vị
vua, hoàng tử, hay đấng giải phóng nào đó trong dòng lịch sử nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng
các tước hiệu để diễn tả Đức Giê-su cần phải là 'các tước hiệu kép’. Chẳng hạn, Đức Giê-su là Vua
nhưng là Vua Tôi Tớ (Servant King). Đức Giê-su là Hoàng Tử nhưng Hoàng Tử Tôi Tớ (Servant
Prince). Đức Giê-su là Đấng Giải Phóng nhưng là Đấng Giải Phóng Tôi Tớ (Servant Liberator). Có
như vậy, chúng ta mới có thể hiểu được đầy đủ hơn căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người
trong chương trình Thiên Chúa, bởi vì trong mọi hoàn cảnh Đức Giê-su đều diễn tả mình là Người
Tôi Tớ phục vụ mọi người, phục vụ cho đến tận cùng.

Noi gương Đức Giê-su, các môn đệ của Người qua muôn thế hệ không ngừng suy niệm, học
hỏi và thực thi tác vụ tôi tớ của Đức Giê-su. Chẳng hạn, Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta minh định rằng
'hoa trái của tình yêu là phục vụ'. Mẹ đã thực hiện điều đó bằng cuộc đời hy sinh phục vụ theo
mẫu gương Đức Giê-su. Mẹ ít khi loan báo Tin Mừng bằng lời nói nhưng bằng việc làm. Nhiều
người theo Đạo Hin-du (Hinduism, Ấn Độ Giáo) làm chứng rằng Mẹ không bao giờ nói với họ hãy
trở về với niềm tin Ki-tô Giáo. Tuy nhiên, những công việc Mẹ làm đã giúp họ hiểu biết hơn về
Đức Giê-su và giáo huấn của Người. Chính hành động tôi tớ, hành động phục vụ những người

69
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

nghèo nhất trong những người nghèo của Mẹ đã nói lên tất cả. Như thế, ai phục vụ người khác
theo gương Đức Giê-su như Mẹ Tê-rê-xa, người đó đã thực sự sống trong tình yêu của Đức Giê-
su và sự phục vụ đó chính là 'tình yêu được diễn tả qua hành động'. Theo Mẹ Tê-rê-xa, cách thức
phục vụ của Mẹ có thể thực hiện trong bất cứ không gian, thời gian hay hoàn cảnh nào của xã
hội loài người.

Trong những thập niên gần đây, môn học hay triết lý Lãnh Đạo Phục Vụ (Servant Leadership)
đang được giảng dạy khá phổ biến ở nhiều trường học trên thế giới. Người ta tranh luận với
nhau xem ai là người khởi xướng môn học này. Quả thật, hơn ai hết, Đức Giê-su đã mặc lấy và
diễn tả thân phận tôi tớ, thân phận nô lệ cách đầy đủ nhất. Hơn nữa, Người đã dạy các môn
đệ: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy
quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì
phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em"  (Mt
20,25-27). Trong Bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giê-su nói: "Anh em gọi
Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là
Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã
nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" (Ga 13,13-15). Đức
Giê-su đã để lại cho các môn đệ thân thương của mình cũng như tất cả mọi người trong gia đình
nhân loại môn học hay triết lý Lãnh Đạo Phục Vụ cách thiết thực nhất.

Chúng ta biết rằng mô hình ‘lãnh đạo chuyên quyền’ là mô hình lãnh đạo khá phổ biến trong
xã hội loài người từ trước tới nay. Mô hình này đem lại một số hiệu quả nhất định, chẳng hạn
như duy trì tôn ti trật tự hay bảo đảm sự ổn định trong các hình thái xã hội. Tuy nhiên, mô hình
này dễ bị lạm dụng và hậu quả là phẩm giá con người bị vi phạm, sự tự do và sáng tạo của con
người bị kìm hãm. Với mô hình này, người hay nhóm người lãnh đạo khó nhận ra mình hay nhận
ra những người khác để biến đổi bản thân và giúp người khác biến đổi nhằm tạo tiền đề cho sự
phát triển toàn diện. Mô hình ‘lãnh đạo phục vụ’ đòi hỏi người hay nhóm người đứng đầu luôn
quan tâm, chăm sóc, phục vụ mọi người. Nhờ đó, người hay nhóm người đứng đầu thấu hiểu,
cảm thông và làm quen với những người dưới quyền mình, đồng thời, khuyến khích họ phát huy
tiềm năng bản thân cũng như tinh thần sáng tạo nhằm đem lại lợi ích cho bản thân và cộng
đồng.

Chúng ta đang sống trong 'thế giới phẳng', thế giới mà mọi người đều có cơ hội để học hỏi
lẫn nhau, bổ sung cho nhau và cùng nhau chia sẻ những hoa trái chung của toàn thể gia đình
nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta thấy 'nhiều sự không phẳng' trong thế giới phẳng, chẳng hạn như
sự không phẳng về phẩm giá con người, về điều kiện sinh hoạt, về đời sống kinh tế, về an sinh xã
hội và về vô số lĩnh vực khác nữa. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại có nhiều sự không phẳng trong thế
giới phẳng? Thưa, tại vì các hình thức chủ nghĩa, chẳng hạn như chủ nghĩa ích kỷ, chủ nghĩa tiêu
thụ, chủ nghĩa lãnh đạm, chủ nghĩa tương đối đang hoành hành trong gia đình nhân loại. Não

70
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

trạng 'ăn trên ngồi trốc' vẫn luôn bám chặt vào tâm trí con người. Đặc biệt, con người không ý
thức đủ rằng mình là tôi tớ của nhau để yêu thương và phục vụ lẫn nhau.

Con cháu A-đam và E-và không thích 'thân phận tôi tớ' nhưng thích 'thân phận ông chủ'.
Chẳng hạn, nhiều vị tướng lãnh hay vua chúa trong dòng lịch sử nhân loại từng nuôi hoài bão
rằng mọi người, mọi dân tộc trên thế giới sẽ là nô lệ của mình, của dân tộc mình. Tuy nhiên, họ
đã lìa trần và hoài bão không bao giờ trở thành hiện thực. Trong bối cảnh hiện tại cũng thế, một
số vị lãnh đạo không ngừng cố gắng tìm cách để bản thân mình và quốc gia mình trở thành 'chủ'
chứ không phải 'tớ' của các quốc gia khác. Não trạng cạnh tranh để phân định vai trò 'chủ-tớ' đã
dẫn đến biết bao hệ lụy tàn khốc cho gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nhận định rằng bao lâu
các thành viên trong gia đình nhân loại không trở thành tôi tớ của nhau thì bấy lâu những bất
công, bất hòa trong gia đình nhân loại vẫn còn tiếp diễn.

Câu chuyện ‘chủ - tớ’ không phải là câu chuyện xa xưa, câu chuyện đã đi vào dĩ vãng mà là
câu chuyện của thế giới đương đại. Sự phân biệt sắc tộc, màu da, tôn giáo, chính kiến đang là
thách đố lớn lao cho hầu hết các nước trên thế giới. Ai cũng nhận thức và biết rõ rằng con người
bình đẳng về phẩm giá. Thế nhưng, thông thường ai cũng muốn mình có địa vị cao hơn, đáng tôn
trọng hơn, đáng sống hơn người khác. Nhiều người mang trong mình những não trạng như thể
'họ đáng hiện hữu hơn người khác', 'hồn họ lớn hơn hồn người khác', 'họ đáng sở hữu nhiều hơn
người khác'. Chính những não trạng như thế dẫn tới nhiều hậu quả tai hại và đẩy hàng triệu
người vào các hình thức nô lệ mới.

Chúng ta nhận thức rằng trong cuộc sống hằng ngày, tùy từng khoảng không gian và thời
gian, mỗi người đều là tôi tớ của ai đó, của hiện tượng hay biến cố nào đó. Chúng ta có thể là tôi
tớ của Thiên Chúa trong hoàn cảnh này, nhưng lại là tôi tớ của tội lỗi trong hoàn cảnh khác; tôi
tớ phục vụ mọi người trong lúc này, nhưng lại là tôi tớ những tính hư nết xấu trong lúc khác. Mỗi
người hãy tự đặt câu hỏi 'mình đang là tôi tớ của ai?' Tôi tớ của Thiên Chúa theo khuôn mẫu Đức
Giê-su hay tôi tớ của ma quỉ, thế gian, xác thịt? Tôi tớ của sự thật, sự lành hay tôi tớ của bóng
đêm sự dữ và các thế lực phản nghịch lại chương trình tình yêu Thiên Chúa? Chắc chắn rằng
người môn đệ Đức Giê-su không thể 'làm tôi hai chủ' nên chúng ta cần thường xuyên suy ngẫm
và trả lời cho những câu hỏi đó trong hành trình sống của mình.

Là môn đệ của Đức Giê-su, chúng ta luôn được mời gọi trở nên những chứng nhân của Đức
Giê-su, Đường Tôi Tớ. Câu hỏi đặt ra là 'bằng cách nào?' Thưa, bằng cách suy niệm và thực thi
giáo huấn của Đức Giê-su trong đời sống mình. Kinh nghiệm cho biết chúng ta không gặp khó
khăn trong sự nhận thức rằng, vì yêu thương, Đức Giê-su đã đi Đường Tôi Tớ để cứu độ chúng
ta. Tuy nhiên, chúng ta lại gặp muôn vàn khó khăn trong hành trình theo Đường Tôi Tớ của
Người để đến với Thiên Chúa và đến với mọi người. Bởi vì, theo Đường Tôi Tớ đồng nghĩa với

71
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

việc chúng ta 'trút bỏ chính mình' và ‘mang lấy thân phận tôi tớ' để phục vụ Thiên Chúa qua việc
phục vụ mọi người, nhất là những người yếu đuối mọn hèn mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.

Ai không trở thành tôi tớ của Thiên Chúa theo khuôn mẫu Đức Giê-su thì cũng không được
chia sẻ tình yêu, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Thời cánh chung, Thiên Chúa phán
xét mỗi người không dựa trên kiến thức, sự nổi tiếng hay những việc lớn lao mà mỗi người hoàn
thành trong hành trình dương thế, nhưng dựa trên tình yêu thương và sự quan tâm phục vụ của
mỗi người đối với anh chị em đồng loại. Đức Giê-su liệt kê những công việc cụ thể mà ai cũng có
thể làm được, chẳng hạn như 'cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng
thăm người tù tội'. Trong hình thức xã hội nào, chúng ta cũng có thể gặp gỡ những người như
thế. Chúng ta giúp họ chỉ vì họ cần giúp đỡ, chứ không phải giúp họ để được thưởng công mai
ngày. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho chúng ta biết rằng khi chúng ta giúp đỡ những người như vậy là
giúp đỡ chính Người (Mt 25,31-46). Thông thường, chúng ta hay để ý đến những người quan
trọng, nổi tiếng và đóng góp nhiều cho những người đó hơn là chia sẻ cho những người yếu thế,
đơn côi, nghèo khổ. Như vậy, theo Đường Tôi Tớ của Đức Giê-su, chúng ta hãy quan tâm phục vụ
'những người rốt hết', 'những người không tên' trong môi trường sống của chúng ta.

Từ những xem xét, đánh giá và khai triển trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng Đức Giê-
su đã đi Đường Tôi Tớ để đến với thế giới thụ tạo, đến với tất cả mọi người trong gia đình nhân
loại. Là Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su đã hạ mình trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ để phục vụ
con người. Những ai nhận Đức Giê-su là Thầy, là Bạn của mình luôn được mời gọi đi Đường Tôi
Tớ để phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ anh chị em mình. Hơn nữa, trong mọi hoàn cảnh,
Đường Tôi Tớ cần phải được loan báo và làm chứng bởi các môn đệ trung tín của Đức Giê-su.
Chúng ta xác quyết rằng 'nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống' mà nhân loại đang đồng
tâm hiệp lực xây dựng chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả mọi người luôn ý thức mình là tôi
tớ của Thiên Chúa và tôi tớ của nhau theo khuôn mẫu Đức Giê-su trong hành trình dương thế
này.

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: ĐƯỜNG ÁNH SÁNG


Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 12 năm 2020
Các bạn trẻ thân mến,

Tháng Mười Một vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Tôi
Tớ. Tháng Mười Hai này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Ánh
Sáng. Theo Kinh Tin Kính, Đức Giê-su là 'Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh
Sáng'. Người đã đi Đường Ánh Sáng đến với thế gian để giải phóng con người khỏi cảnh tối tăm,

72
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

đau khổ cũng như sự chết đời đời và dẫn đưa con người về với Quê Hương Ánh Sáng Vĩnh Cửu là
Nước Thiên Chúa.  

Từ 'ánh sáng' thường được hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ánh sáng theo nghĩa đen là
ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng vật lý (ánh sáng có tính chất sóng và hạt), còn ánh sáng theo
nghĩa bóng là ánh sáng siêu nhiên hay ánh sáng hướng con người về thế giới chân, thiện, mỹ.
Chúng ta không thể liệt kê đầy đủ tác dụng của ánh sáng tự nhiên đối với con người và muôn vật
muôn loài. Ánh sáng tự nhiên cần thiết cho sự sống của thực vật, động vật và con người. Hơn
nữa, ánh sáng tự nhiên không chỉ giúp con người nhìn thấy và phân biệt những gì chung quanh
mình, mà còn giúp con người thiết lập các mối liên hệ với vạn vật. Trong khi đó, ánh sáng siêu
nhiên giúp con người ý thức hơn về phẩm giá của mình giữa muôn vật muôn loài trong thế giới
thụ tạo, đồng thời, giúp con người biết phân định và sống theo những giá trị cốt lõi của môi
trường chân, thiện, mỹ. Là con người, ai cũng ý thức rằng càng gần ánh sáng siêu nhiên càng hay,
càng xa bóng tối sự dữ càng tốt. Nhờ ánh sáng siêu nhiên soi dẫn, con người được hiện diện,
hoạt động và hy vọng về tương lai tốt đẹp hơn, đồng thời, giúp con người giảm thiểu những nỗi
sợ hãi và muôn hình thức ám ảnh của thế giới bóng tối.

Theo nội dung đức tin Ki-tô Giáo, ánh sáng và bóng tối là hai chủ đề đối ngược nhau. Ánh
sáng là hình ảnh của sự sống, chân thật, thánh thiện, trật tự, vinh quang, tốt đẹp, tỏ hiện, minh
bạch, thanh sạch, thành công, hy vọng, thông suốt, niềm vui. Ánh sáng là hình ảnh của những gì
thuộc về Môi Trường Thiên Chúa hoặc giúp con người hướng về Môi Trường Thiên Chúa. Ngược
lại, bóng tối là hình ảnh của sự chết, giả dối, tội lỗi, hỗn loạn, đau khổ, xấu xa, ẩn giấu, u ám, nhơ
bẩn, thất bại, vô vọng, bế tắc, buồn sầu. Bóng tối là hình ảnh của những gì thuộc về ma quỷ, sự
dữ và dẫn xuất của chúng. Tuy nhiên, ánh sáng và bóng tối không phải là hai nguồn lực cùng tồn
tại song song. Trong nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, sở dĩ có bóng tối là vì thiếu ánh sáng, sở dĩ
có sự ác là vì thiếu sự thiện từ phía con người. Còn về phía Thiên Chúa, tối tăm không thể loại trừ
được ánh sáng của Người (Tv 139,12).

Ánh sáng là yếu tố đầu tiên trong công trình Thiên Chúa sáng tạo: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa
sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần
khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng.
Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối"  (St 1,1-4).
Trích đoạn này giúp chúng ta nhận thức rằng khi ánh sáng xuất hiện, hỗn mang, tăm tối nhường
chỗ cho trật tự, lớp lang. Ánh sáng tốt đẹp vì là 'sản phẩm đầu tay của Thiên Chúa', được Thiên
Chúa cho xuất hiện trước vạn vật, đồng thời, ánh sáng tham dự vào sự hình thành và phát triển
của muôn vật muôn loài. Đó là lý do giải thích tại sao muôn vật muôn loài có tương quan mật
thiết với ánh sáng. Kinh nghiệm cho chúng ta nhận thức rằng nếu thiếu ánh sáng, muôn vật
muôn loài sẽ không được nhìn thấy, không được nhận diện, không được định dạng. Nếu không
có ánh sáng thì tất cả chỉ là tối tăm, hư vô, trống rỗng, không có hình dạng (St 1,2). Không có ánh
sáng cũng đồng nghĩa với không có gì chân thật, hài hòa, tiến triển. Trong Cựu Ước, tác giả Thánh
Vịnh đã diễn tả rất sâu sắc chân lý này: "Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng
con được nhìn thấy ánh sáng" (Tv 36,10).

73
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Chủ đề ánh sáng được đề cập và khai triển khá nhiều trong các bản văn Kinh Thánh Cựu Ước,
chẳng hạn: "Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa làm cho ngọn đèn của con sáng tỏ, Ngài soi
chiếu vào đời con tăm tối mịt mù" (Tv 18,29); "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh
sáng chỉ đường con đi" (Tv 119,105); "Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng
ngời" (Tv 19,9); "Huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng" (Cn 6,23); "Đức Khôn Ngoan
phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa" (Kn
7,26). Đặc biệt, Lời Chúa trong Cựu Ước đã loan báo về Đức Giê-su là Ánh Sáng của thế gian (φώς
τοῦ κόσμου), chẳng hạn: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Is 9,1); "Mặt trời
công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh" (Ml 3,20).

Trong Tân Ước, hơn ai hết, thánh Gio-an Tông Đồ cho chúng ta những ý tưởng chính yếu về
chủ đề ánh sáng như sau: (1) Thiên Chúa là Ánh Sáng: "Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không
có một chút bóng tối nào" (1 Ga 1,5); (2) Ai hiệp thông với Thiên Chúa thì không đi trong bóng
tối: "Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói
dối" (1 Ga 1,6); (3) Ai đi trong ánh sáng thì hiệp thông với nhau và được máu Đức Giê-su thanh
tẩy tội lỗi: "Nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì
chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giê-su, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch
hết mọi tội lỗi"  (1 Ga 1,7); (4) Khi chương trình cứu độ đến thời viên mãn, thì “chính vinh quang
Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” và “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu
sáng trên họ” (Kh 21,23; 22,5). Như vậy, Ánh Sáng của Thiên Chúa là Ánh Sáng được Đức Giê-su
thực hiện và diễn tả nhằm thiết lập mối hiệp thông trường cửu giữa Thiên Chúa với con người và
giữa con người với nhau. Ánh Sáng đó là khởi điểm và cũng là cùng đích cho những ai được cứu
độ.

Thánh Gio-an không chỉ cho chúng ta biết Thiên Chúa là Ánh Sáng, mà còn cho chúng ta biết
Đức Giê-su là Ánh Sáng: "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi
Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo
thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người
là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại" (Ga 1,1-4). Những câu đầu tiên của Lời Tựa Tin
Mừng này gợi lên trong chúng ta những câu đầu tiên của bộ Kinh Thánh (St 1,1-4). Theo thánh
Gio-an, Đức Giê-su là Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Nhờ Người, muôn vật
muôn loài được tạo thành. Đặc biệt, Người là Ánh Sáng cho nhân loại, nhờ Người, muôn người
được Ánh Sáng Thiên Chúa soi dẫn.

Theo thánh Lu-ca, được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, Da-ca-ri-a đã nói về Đức Giê-su khi
Người đang trong lòng mẹ: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời
viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường
nẻo bình an" (Lc 1,78-79). Trong biến cố Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se dâng Đức Giê-su vào Đền
Thánh, khi bồng ẵm Đức Giê-su, cụ Si-mê-ôn đã cảm nhận được hơi ấm cứu độ và cuộc đời cụ
như vậy là mãn nguyện: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an
bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh
sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài" (Lc 2,29-32).

74
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su nói rằng Thiên Chúa là Ánh Sáng (1 Ga 1,5).
Người cũng nói rằng Người là Ánh Sáng (Ga 8,12; 9,5; 12,46). Như vậy, cách gián tiếp, Đức Giê-su
cho chúng ta biết Người là Thiên Chúa. Dầu là Ánh Sáng, nhưng Người đã được sinh ra trong
đêm tối. Điều này có ý nghĩa quan trọng, bởi vì, Người không chỉ được sinh ra trong đêm tối theo
nghĩa tự nhiên mà còn theo nghĩa siêu nhiên: Người được sinh trong đêm tối của thế gian
nhuốm màu tội lỗi. Hành trình trần thế của Người là hành trình nối kết tất cả mọi người đang lần
bước trong đêm tối. Đặc biệt, Người đã trừ quỷ, tha tội, chữa bệnh, hồi sinh kẻ chết và nâng đỡ
những người bị loại trừ trong xã hội. Nói cách khác, Người đã xua đuổi các hình thức bóng tối
nhằm đem lại ánh sáng hy vọng cho tất cả mọi người.

Đức Giê-su mở ra viễn cảnh tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại. Người không chỉ khẳng định rằng Người là Ánh Sáng,
mà còn minh chứng điều đó bằng những hành động cụ thể. Lời nói, việc làm của Người diễn tả
quyền năng, danh dự và vinh quang của Thiên Chúa. Đặc biệt, Người có sức lôi cuốn lớn lao đối
với những ai lòng ngay thiện chí.

Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đề cập đến chủ đề ánh sáng (Ga 3,1-21).
Chúng ta biết rằng Ni-cô-đê-mô là người thuộc phái Pha-ri-sêu, người học cao, hiểu rộng. Hình
ảnh ông đến với Đức Giê-su ban đêm cho phép chúng ta suy luận rằng ông sáng về tri thức, sáng
về địa vị xã hội, sáng về sự giàu có, nhưng lại tối về đời sống nội tâm, tối về thế giới siêu nghiệm,
đặc biệt, tối về chương trình của Thiên Chúa đối với nhân loại. Dù sao, việc ông đến với Đức Giê-
su cũng diễn tả tâm hồn thiện chí và nỗi khao khát chân lý của ông. Sau khi được Đức Giê-su khai
thông, tâm trí ông đã sáng ra và ông đã dõi theo Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người.
Các sách Tin Mừng không cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về Ni-cô-đê-mô, tuy nhiên,
chúng ta có thể nhận định rằng, sau cuộc gặp gỡ Đức Giê-su, Ni-cô-đê-mô hằng dõi theo Người
(Ga 7,50-51; Ga 19,39-42). Ni-cô-đê-mô rất quảng đại, hào phóng, khi an táng Đức Giê-su, ông
đã "mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương" (Ga 19,39). Như vậy, sau
khi gặp gỡ Đức Giê-su là Ánh Sáng, ông đã không rời Đức Giê-su ngay cả khi Người đối diện với
cái chết, bởi vì ông tin tưởng và hy vọng vào những lời của Đức Giê-su trong cuộc nói
chuyện: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời" (Ga 3,14-16).

Khi gặp người mù từ thuở mới sinh, các môn đệ hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội
khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Đức Giê-su trả
lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để
thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công
trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu
Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,3-5). Sau đó, Đức Giê-su làm cho người mù
được sáng mắt. Chúng ta biết rằng về mặt y khoa, chữa cho người mù từ thuở mới sinh được
sáng mắt là chuyện vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, trong câu chuyện này, Đức Giê-su không chỉ
chữa lành, Người còn giúp anh nhận ra Người là Ánh Sáng cho thế gian. Với cuộc gặp gỡ Đức Giê-
su, anh không chỉ được sáng mắt mà còn 'sáng lòng', anh đã tin tưởng vào Đức Giê-su và trở nên

75
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

nhân chứng của Người cho những người xung quanh. Trong khi đó, những người Pha-ri-sêu sáng
mắt nhưng lại 'tối lòng', bởi vì họ không nhận ra Đức Giê-su là Ánh Sáng thật cho thế gian, Đấng
mà họ luôn mong đợi và rao giảng.

Theo thánh Gio-an, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn là
cho La-da-rô hồi sinh (Ga 11,1-44). Đây là dấu lạ quan trọng vì La-da-rô đã ở trong bóng tối tử
thần bốn ngày, đã nặng mùi rồi (Ga 11,39). Tuy nhiên, Đức Giê-su cho La-da-rô hồi sinh trước sự
ngỡ ngàng của chị em Mác-ta, Ma-ri-a, các môn đệ Đức Giê-su và nhiều người khác. Ánh Sáng
Đức Giê-su đã chiếu tỏa vào bóng tối của La-da-rô, thức tỉnh La-da-rô và cho La-da-rô được sống.
Hồi sinh La-da-rô là dấu lạ lớn lao nhằm gia tăng niềm tin cho các môn đệ cũng như những người
khác theo Đức Giê-su. Qua biến cố này, Đức Giê-su hướng tất cả mọi người về sự đau khổ, sự
chết và phục sinh của Người nhằm hoàn tất chương trình của Thiên Chúa là đem lại sự sống vĩnh
cửu cho tất cả mọi người.    

Nhiều lần trong Tin Mừng, Đức Giê-su đề cập đến sự liên kết hai chủ đề quan trọng là sự sống
và niềm tin với chủ đề ánh sáng. Chẳng hạn, Người nói với những người Do-thái: "Tôi là ánh
sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại
sự sống" (Ga 8,12); "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi;
ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không
ở lại trong bóng tối" (Ga 12,44-46). Những lời của Đức Giê-su cho chúng ta thấy sự liên kết mật
thiết giữa Người là Ánh Sáng và niềm tin cũng như sự sống đích thật của các tín hữu. Nói cách
khác, Đức Giê-su là Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, yêu mến và thực
thi thánh ý Người.

Đức Giê-su là Ánh Sáng thật. Thánh Gio-an khẳng định: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng
đến thế gian và chiếu soi mọi người" (Ga 1,9). Ánh Sáng Đức Giê-su chiếu soi mọi người, tuy
nhiên, không phải tất cả mọi người đều nhận ra điều đó: "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã
nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,10-11). Đức Giê-su giải thích tại sao người ta không chấp nhận ánh
sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc
họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để
các việc họ làm khỏi bị chê trách"  (Ga 3,19-20). Như vậy, để có thể nhận ra Đức Giê-su là Ánh
Sáng, con người cần phải từ bỏ môi trường bóng tối, môi trường tội lỗi, môi trường sự dữ.

Nội dung đức tin Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng ai không hoán cải, ai không từ bỏ
môi trường bóng tối, môi trường sự dữ thì không thể nhận ra Ánh Sáng Đức Giê-su. Ai tự cho
mình là tiêu chuẩn, thì không thể tiếp cận Ánh Sáng Đức Giê-su. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su được
sinh ra ở Bê-lem, các mục đồng và các đạo sĩ nhận ra Ánh Sáng của Người, trong khi những người
am hiểu Kinh Thánh, giảng dạy Kinh Thánh và trung thành với truyền thống Do-thái Giáo cách
nghiêm ngặt nhất lại không nhận ra. Như thế, việc nhận ra Đức Giê-su là Ánh Sáng thật không lệ
thuộc vào danh hiệu, công việc hay gia sản truyền thống mà lệ thuộc vào tâm trí lành mạnh và
cảm thức bén nhạy trước các dấu chỉ xuất hiện hằng ngày trong đời sống mình.

76
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Theo thánh Gio-an, người đi trong bóng tối là người ghét anh chị em mình, còn người đi
trong ánh sáng là người yêu thương anh chị em mình: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại
ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối; Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh
sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm" (1 Ga 2,9-10). Như vậy, đối với thánh Gio-an
'đi trong ánh sáng' hay 'đi trong bóng tối' không còn là những ý tưởng trừu tượng nữa, mà là
những thực hành cụ thể mà ai cũng có thể làm được. Thánh nhân khẳng định: "Bóng tối đang
qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng" (1 Ga 2,8). Đồng thời, theo thánh nhân: "Thế gian đang qua
đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi"  (1 Ga
2,17).

Trong gia đình nhân loại, không ai 'tối' đến mức không thể biến đổi được, cũng không ai
'sáng' đến mức không cần được Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn. Tất cả mọi người được mời gọi
hướng về Đức Giê-su, Ánh Sáng đích thật. Tất cả mọi người được mời gọi hướng về Đức Giê-su
luôn mãi, bởi vì, vẫn còn đó vô số hình thức bóng tối đang hoành hành giữa lòng thế giới. Nếu
chúng ta không hướng về Đức Giê-su như cây cối hướng về ánh mặt trời thì chúng ta không thể
có được sự sống xứng với phẩm giá của mình và không thể đi đường chính trực để đến với Thiên
Chúa. Nếu chúng ta không nhìn nhận bóng tối của lòng trí chúng ta, nếu chúng ta không nhìn
nhận có nhiều hình thức bóng tối trong môi trường sống của chúng ta, thì chắc chắn rằng chúng
ta đang rơi vào cạm bẫy của thế giới bóng tối và vẫn đắm mình trong thế giới này.

Chúng ta có thể so sánh tâm hồn mỗi người với căn phòng mình ở. Bình thường, chúng ta
thấy căn phòng sạch sẽ. Tuy nhiên, khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào, chúng ta thấy căn phòng
đầy dẫy những hạt bụi li ti bay lượn khắp nơi. Tâm hồn chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta
nghĩ rằng mình thanh sạch, bởi vì mình luôn tuân giữ lề luật Thiên Chúa và không làm hại ai, tuy
nhiên, điều đó chưa đủ. Chẳng hạn, nếu chúng ta chỉ biết tuân giữ lề luật mà không biết làm điều
tốt để giúp đỡ anh chị em mình thì chúng ta cũng đang ở trong bóng tối vậy (Mt 25,31-46). Nhờ
Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn, chúng ta sẽ thấy rõ tâm hồn mình nhiều bụi bặm, nhiều sự xấu xa
hơn mình tưởng. Đó là lý do giải thích tại sao chúng ta cần phải mở lòng đón nhận Ánh Sáng Đức
Giê-su để chúng ta biết rõ tình trạng tâm hồn mình nhiều hơn, từ đó, chúng ta biết cộng tác với
Người trong việc biến đổi tâm hồn mình sao cho ngày càng phù hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn
nữa.

Với trình độ khoa học kỹ thuật hôm nay, con người hầu như có đủ ánh sáng cho đời sống thể
lý. Tuy nhiên, xem ra con người đang thiếu thốn ánh sáng siêu nhiên, ánh sáng cho phép con
người hiệp thông với Thiên Chúa, với anh chị em mình và với muôn vật muôn loài trong thế giới
thụ tạo cách phù hợp nhất. Quả thật, con người cần ánh sáng tự nhiên cho đời sống thể xác thế
nào thì cũng cần ánh sáng siêu nhiên cho đời sống tâm hồn như vậy. Khi nào con người có được
sự hòa hợp giữa đời sống thể xác và đời sống tâm hồn, khi đó con người mới thực sự sống xứng
đáng với phẩm giá của mình là thụ tạo được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời
gọi trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1,12).

Vì là con cháu của Nguyên Tổ sa ngã, chúng ta trở thành con cái bóng tối. Từ đó, có lời hứa về
ánh sáng của ngày kỳ diệu (Is 30,26). Trong ngày đó, con cái ánh sáng sẽ “Đứng lên, bừng sáng
lên. Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên

77
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ngươi” (Is 60,1); “Đức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là
Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 60,19). Ngày đó chính là ngày Đức Giê-su xuất hiện. Chúng ta biết
rằng, tự thân, chúng ta không thể giải thoát mình khỏi thân phận 'con cái bóng tối', nhưng nhờ
Đức Giê-su là Ánh Sáng, chúng ta trở thành 'con cái Ánh Sáng'. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn,
Đức Giê-su nói: "Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các
ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết
mình đi đâu. Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh
sáng" (Ga 12,35-36). Còn thánh Phao-lô minh định: "Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ,
trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng
đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật"  (Ep 5,8-9). Cũng theo thánh
nhân: "Tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm,
cũng không thuộc về bóng tối" (1 Tx 5,5).

Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói với các môn đệ và những người đang lắng
nghe: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5,14). Đồng thời, Người cũng nói: "Ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà
tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Điều Đức Giê-su muốn diễn tả về những
người sống Tám Mối Phúc chính là những người đón nhận Ánh Sáng Đức Giê-su, sống theo Ánh
Sáng Đức Giê-su và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su cho mọi người. Đây là bài học lớn cho mỗi
người chúng ta, bởi vì, là Ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi trở thành con cái Ánh Sáng, nhưng
lắm lúc chúng ta đắm mình trong thế giới bóng tối. Hơn nữa, chúng ta cần ý thức rằng nếu chúng
ta không có khả năng đón nhận, sống và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su cho người khác thì ít ra
chúng ta đừng trở thành vật cản Ánh Sáng Đức Giê-su đến với họ.

Đức Giê-su là Ánh Sáng thế gian, do đó, Tin Mừng của Đức Giê-su chính là Tin Mừng Ánh Sáng
cho mọi người. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã khiêm tốn làm chứng cho Đức Giê-su và Tin Mừng Ánh
Sáng của Người cách hữu hiệu và triệt để nhất: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là
Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông
không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1,6-9). Với kinh nghiệm
gặp gỡ và được Ánh Sáng Đức Giê-su soi dẫn, hai thánh Phao-lô và Ba-na-ba đã trở nên khí cụ
hữu hiệu của Người. Các ngài khẳng định: "Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi
làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất"  (Cv 13,47). Trong diễn
từ trước mặt vua Ác-ríp-pa, thánh Phao-lô quả quyết:  "Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người
đầu tiên sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân
ngoại" (Cv 26,23). Tiếp tục gia sản các tông đồ để lại và ý thức về căn tính, đời sống và sứ mệnh
của Giáo Hội giữa lòng thế giới, Công Đồng Vatican II tuyên bố: "Ánh sáng muôn dân chính là
Chúa Kitô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi
dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao
truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật" (LG 1). Như thế, Ánh Sáng Đức Giê-su là Ánh Sáng cần được
loan báo, cần được chia sẻ, cần được trao ban cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.

Hơn nữa, Ánh Sáng Thiên Chúa, Ánh Sáng Đức Giê-su cũng là Ánh Sáng xét xử mọi người. Tư
tưởng này đã được diễn tả trong Cựu Ước, chẳng hạn: "Đức Chúa là thẩm phán công minh đã
phơi bày ra ánh sáng những điều bí ẩn" (2 Mcb 12,41);  "Thiên Chúa vạch trần những tối tăm bí

78
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

ẩn, phơi bày bóng tối tử thần ra ánh sáng" (G 12,22); "Người [Đức Chúa] mặc khải điều thẳm sâu
và bí ẩn: Người biết những gì ở trong cõi tối tăm, và ánh sáng ở với Người"  (Đn 2,22). Trong Tân
Ước, được Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Giê-su biến đổi, thánh Phao-lô viết: "Tất cả những gì bị
vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng" (Ep 5,13-14).
Ngài cũng viết: "Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính
Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong
thâm tâm con người" (1 Cr 4,5). Chúng ta cần để tâm suy niệm giáo lý này và áp dụng vào đời
sống bằng cách luôn ý thức rằng khi chúng ta không có đủ ánh sáng cần thiết, chúng ta đừng
phán xét người khác. Thông thường, chúng ta hay phán xét người khác dựa trên cảm tính bất ổn
của chúng ta hay dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng. Hậu quả là chúng ta gây tổn
thương lớn cho người khác và nhiều khi không thể bù đắp được. Do đó, cách tốt nhất và duy
nhất để chúng ta có được sự hiểu biết đúng đắn về con người hay sự vật, hiện tượng nào đó là
chúng ta hãy đi Đường Ánh Sáng Đức Giê-su và nhìn nhận mọi sự dưới Lăng Kính Ánh Sáng này.

Như đã được trình bày ở trên, theo mặc khải Kinh Thánh, ánh sáng và bóng tối không phải là
hai 'quyền lực' cân tài ngang sức, hai quyền lực tương đương hay bằng nhau. Ánh Sáng Đức Giê-
su là Ánh Sáng Vĩnh Cửu. Ánh Sáng Đức Giê-su luôn mạnh mẽ hơn các hình thức bóng tối của ma
quỷ, thế gian, xác thịt. Tiếng nói cuối cùng của nhân loại, của toàn thể thế giới thụ tạo không phải
là tiếng nói của bóng tối, nhưng là tiếng nói của Ánh Sáng. Theo thánh Gio-an: "Ánh sáng chiếu
soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng" (Ga 1,5). Các Ki-tô hữu được mời
gọi cộng tác với Đức Giê-su và với nhau để thanh tẩy muôn hình thức bóng tối trong cộng đoàn
mình, chẳng hạn, bóng tối của sự chia rẽ lòng người, bóng tối của sự hận thù ghen ghét, bóng tối
của sự giấu mặt vu oan, bóng tối của sự phổ biến thông tin nặc danh gây phương hại cho người
khác, bóng tối của sự đồng lõa trong việc làm cho sự dữ lan truyền.

Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, thời cánh chung đã bắt
đầu: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng" (Mc 1,15). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: "Đêm sắp tàn, ngày gần đến.
Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.
Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày"  (Rm 13,12-13). Quả thật,
càng ngày chúng ta càng gần với cánh chung của đời mình hơn, nghĩa là càng ngày chúng ta càng
gần hơn với biến cố kết thúc hành trình trần thế của mình. Đức Giê-su là Ánh Sáng, là 'Ngày' của
chúng ta. Do đó, như lời thánh Phao-lô, chúng ta hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy Khí Giới Ánh
Sáng Đức Giê-su để luôn được biến đổi, được tỏa sáng và cộng tác với Người trong việc chiếu rọi
Ánh Sáng vào chốn tối tăm ở bất cứ nơi đâu chúng ta hiện diện và hoạt động (Rm 13,11-14).

Chương trình Thiên Chúa đối với nhân loại được thực hiện nhờ Đức Giê-su có thể tóm lược
vào ba điểm chính: (1) Đức Giê-su là Ánh Sáng, Người đã đi Đường Ánh Sáng để đến với nhân
loại; (2) Các Ki-tô hữu được mời gọi sống theo Đường Ánh Sáng của Người; (3) Các Ki-tô hữu
được mời gọi phản chiếu Ánh Sáng của Người trong môi trường sống của mình. Viễn cảnh cánh
chung của những ai đi Đường Ánh Sáng và phản chiếu Ánh Sáng Đức Giê-su được tác giả sách
Khải Huyền (cuốn sách cuối cùng và cũng là chương cuối cùng của Bộ Kinh Thánh) diễn tả: "Các
tôi tớ Thiên Chúa sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ
không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì

79
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời"  (Kh
22,4-5).

Những điểm được trình bày trên đây giúp chúng ta có được nhận thức tổng quát rằng Thiên
Chúa hằng yêu thương nhân loại. Người đã sai Con của Người là Đức Giê-su đi Đường Ánh Sáng
để đến với mọi người. Biến Cố Đức Giê-su hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế, đặc biệt,
việc mạc khải Người là Ánh Sáng thế gian làm nổi bật cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối
trên phương diện luân lý: Ánh sáng xác định phẩm tính các lãnh vực thuộc về Thiên Chúa và Đức
Giê-su, trong khi đó bóng tối xác định phẩm tính các lãnh vực thuộc về ma quỷ và sự dữ. Con
người bị giằng co giữa hai thái cực phải chọn lựa để trở thành 'con cái ánh sáng' hoặc 'con cái
bóng tối'. Nhờ Đức Giê-su chiếu rọi, chúng ta trở thành con cái Ánh Sáng. Do đó, chúng ta hãy
sống sao cho xứng đáng với phẩm giá của mình. Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su đã tới
thung lũng tối tăm nhất của thân phận con người là thung lũng sự chết. Nhờ đó, chúng ta được
Thiên Chúa “gọi ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2,9) và được “chung
hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng” là “vương quốc Thánh Tử chí
ái” (Cl 1,12-13).

+ Pet. Nguyễn Văn Viên

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: ĐƯỜNG BÌNH AN


Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 01 năm 2021
Các bạn trẻ thân mến,
Năm 2020, chúng ta đã suy niệm 12 chủ đề về hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su. Đặc biệt,
tháng Mười Hai vừa qua, mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô -
Đường Ánh Sáng. Với Giáo Hội Công Giáo, ngày đầu tiên của Năm Mới Dương Lịch là ngày cầu
nguyện cho hòa bình (bình an) trên toàn thế giới. Vì thế, trong tháng này, chúng ta cùng nhau
suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Bình An. Người đã đi đường bình an để đến với nhân
loại ngõ hầu dẫn đưa tất cả mọi người về với Thiên Chúa là Nguồn Mạch Bình An Vĩnh Cửu.
Trong văn hóa Do-thái, từ 'bình an' đồng nghĩa với ‘hòa bình' (‫ׁשלום‬, shalom) được sử dụng rất
nhiều. Người Do-thái chào chúc 'bình an' mỗi khi gặp gỡ hoặc chia tay nhau. Ngoài nghĩa thông
thường, ‘bình an’ còn mang một số nghĩa khác nữa, chẳng hạn như 'hoàn thành', 'toàn thể, 'hòa
hợp', 'viên mãn'. Đối với văn hóa Việt Nam, 'bình an' cũng có nghĩa là 'hòa bình'. Tuy nhiên,
thông thường 'bình an' được sử dụng để diễn tả tình trạng nội tâm cá nhân, còn 'hòa bình' diễn
tả tương quan giữa người với người cũng như các hình thức tập thể khác. 'Xin cho hai chữ bình
an' là câu nói khá phổ biến nơi cửa miệng nhiều người. Từ người trẻ đến người già cả ai cũng
muốn được bình an. Hơn nữa, không chỉ người sống muốn được bình an, người chết cũng cần
bình an. Trên nhiều bia mộ của người Ki-tô hữu, chúng ta thường thấy ba ký tự ‘RIP’, viết tắt của
‘Requiescat in Pace’ trong tiếng La-tinh, nghĩa là ‘hãy nghỉ ngơi bình an’. Trong nhãn quan mặc
khải Ki-tô Giáo, bình an là trạng thái của con người dồi dào ân sủng Thiên Chúa và bình an đáng
mong đợi nhất là ơn cứu độ vĩnh cửu của Người.

80
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Khi nói ‘bình an’, chúng ta quan tâm đến tình trạng ‘tĩnh’, tình trạng trật tự, tình trạng vắng
bóng sợ hãi hay uẩn khúc nào đó của bản thân. Tuy nhiên, trong bối cảnh Kinh Thánh, bình an
không chỉ có nghĩa 'tĩnh' mà còn mang nghĩa 'động', nghĩa là con người vẫn được bình an đích
thực giữa những lo toan, xáo trộn, đau khổ của cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, trong bối cảnh
Kinh Thánh, bình an còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nữa của thế giới hữu hình và vô hình.
Trong tất cả hình thức bình an thì bình an nội tâm, bình an của mỗi cá nhân đóng vai trò chủ đạo.
Khi không có bình an nội tâm, con người không thể góp phần mình cách hữu hiệu để xây dựng
các mối tương quan của cộng đoàn.
Những trang đầu sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa sáng tạo con người trong
'cảnh bình an'. Tuy nhiên, con người đã bất tuân mệnh lệnh Thiên Chúa, đã lạm dụng tự do của
mình để phá vỡ 'cảnh bình an'. Khi tội lỗi xâm nhập tâm hồn con người cũng là khi sự xáo trộn,
bất an, lo lắng nảy sinh. Theo sách Sáng Thế, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa gọi và hỏi
con người: "Ngươi ở đâu? Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì
con trần truồng, nên con lẩn trốn" (St 3,10). Thiên Chúa tiếp tục hỏi về nguyên nhân của sự bất
tuân thì con người đổ tội cho vợ mình, còn bà thì đổ tội cho con rắn (St 3,11-14). Sự bất an nơi
mỗi cá nhân cũng như các hình thức tập thể và các tương quan của con người là hậu quả của sự
phá vỡ 'cảnh bình an', phá vỡ 'giao ước bình an' giữa Thiên Chúa và con người thuở ban đầu.
Lịch sử Cựu Ước là lịch sử của sự chuẩn bị cho việc Thiên Chúa gửi Đức Giê-su, Hoàng Tử Bình
An của Người đến cho nhân loại hầu thiết lập Giao Ước Bình An Vĩnh Cửu (Ds 25,12; Hc 45,24; Ed
34,25; Ml 2,5). Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: "Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa
Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giê-su là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là
Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu" (Dt 13,20). Nhằm thực thi điều đó,
Thiên Chúa đã tuyển chọn những khuôn mặt điển hình như Nô-ê, Áp-ra-ham, Gia-cóp, Mô-sê,
Đa-vít để họ cộng tác trong việc diễn tả bình an của Người.
Vào khoảng thế kỷ VIII trước Công Nguyên, ngôn sứ I-sai-a đã nói về Hoàng Tử Bình An, Đấng
thiết lập Vương Quốc Bình An của Thiên Chúa trên mặt đất này. Hoàng Tử Bình An giải phóng
mọi người khỏi ách tù tội, sự hà hiếp của kẻ áp bức (Is 61,1-3). Hơn nữa, Hoàng Tử Bình An sẽ
dẫn đưa Dân Thiên Chúa tới cảnh bình an vô tận (Is 9,5-6). Viễn cảnh bình an được diễn tả như
sau: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với
nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung
một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa
cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang"  (Is 11,6-8). Như thế, ‘thời bình an’ là ‘thời cánh chung' được
Hoàng Tử Bình An thiết lập.
Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Giê-su là Bình An của Thiên Chúa và chúng ta có thể diễn tả
Đức Giê-su qua nhiều hình ảnh hay tước hiệu liên quan đến căn tính của Người. Chẳng hạn, Đức
Giê-su là Ánh Sáng Bình An (Light of Peace); Đức Giê-su là Người Bình An (Person of Peace); Đức
Giê-su là người mang đến cho nhân loại Bình An của Thiên Chúa (Bringer of Peace); Đức Giê-su là
Đấng Xức Dầu Bình An (Christ of Peace), và Đức Giê-su là Người Tôi Tớ Đau Khổ Bình An
(Suffering Servant of Peace); Đức Giê-su là Mục Tử Bình An (Shepherd of Peace), Đức Giê-su là
Lời Bình An (Word of Peace), Đức Giê-su là Người Bạn Bình An (Friend of Peace), Đức Giê-su là
Hoàng Tử Bình An (Prince of Peace). Chúng ta có thể nhận định rằng bất cứ hình ảnh hay tước
hiệu nào của Đức Giê-su cũng có thể gắn liền với 'bình an'.

81
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Trớ trêu thay, cuộc đời Đức Giê-su, Hoàng Tử Bình An, lại diễn ra trong cảnh bất an. Người
được sinh ra trong cảnh nghèo hèn. Tuổi ấu thơ, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải đem người
trốn sang Ai Cập để tránh sự truy lùng, bắt bớ của vua Hê-rô-đê. Trong ba năm rao giảng công
khai, Người sống trong cảnh khó khăn, thiếu thốn. Đặc biệt, Người phải đối diện với muôn hình
thức kỳ thị từ những người lãnh đạo tôn giáo và dân sự Do-thái. Hơn nữa, Người gặp không ít rắc
rối từ những người Rô-ma đang kiểm soát miền đất Pa-lét-tin. Người trải qua muôn vàn đau khổ
và chịu cái chết đau đớn trên thập giá. Theo thánh Phê-rô, Người mang vào mình những bất an,
đau khổ, chết chóc của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại (Is 53,11; Mt 8,17).
Các tác giả Tin Mừng đều trình thuật và khai triển chủ đề bình an liên quan đến cuộc đời Đức
Giê-su. Chẳng hạn, sau Lời Tựa Tin Mừng, thánh Lu-ca đã trình thuật câu chuyện truyền tin cho
Da-ca-ri-a. Câu chuyện cho chúng ta biết rằng vì nghi ngờ tình yêu và quyền năng Thiên Chúa khi
Người ban tặng cho hai vợ chồng ông (son sẻ và già cả) một người con trai, ông đã bị câm cho
đến khi con ông ra đời và ông đặt tên là Gio-an. Trong biến cố này, tâm hồn ông tràn ngập ơn
Chúa Thánh Thần và miệng lưỡi ông được mở ra. Ông cất lên bài ca 'Chúc Tụng' (Benedictus), với
câu đầu tiên là: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân
Người" (Lc 1,68); còn hai câu cuối cùng là: "Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự
chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta
bước vào đường nẻo bình an" (Lc 1,78-79). Với Da-ca-ri-a, Đức Giê-su chính là Vầng Đông và là
Bình An được Thiên Chúa gửi đến trần gian để tất cả mọi người trong gia đình nhân loại có được
ánh sáng cần thiết cho cuộc lữ hành trần gian tăm tối, đồng thời, dẫn đưa mọi người đi trên
Đường Bình An. Với Da-ca-ri-a, trần gian có vô số đường để con người tiến bước. Tuy nhiên,
Đường Bình An là Đường quan trọng nhất, bởi vì Đường Bình An cho phép con người đến với
Quê Hương Bình An đích thực là Nước Thiên Chúa.
'Bình an' là từ xuất hiện ngay trong Biến Cố Giáng Sinh. Khi Đức Giê-su được sinh ra thì vô số
thiên binh đồng thanh cùng sứ thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế
cho loài người Chúa thương"  (Lc 2,14). Vinh quang Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho
con người được nối kết với nhau nhờ sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giê-su, Hoàng
Tử Bình An. Không có bình an sao được khi Thiên Chúa mang lấy thân phận con người? Không có
bình an sao được khi vĩnh cửu hiện diện trong thời gian? Không có bình an sao được khi bản tính
Thiên Chúa nối kết với bản tính con người? Không có bình an sao được khi Môi Trường Thiên
Chúa hòa quyện với môi trường con người? Không có bình an sao được khi tội lỗi, sự chết bị diệt
trừ và tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa? Câu hỏi được đặt ra: Tại sao
là 'bình an' mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác? Thưa, vì nếu con
người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã đem lại bình an cho tất cả mọi người.
Chẳng hạn, khi người phụ nữ sờ vào áo Người và được khỏi bệnh, Đức Giê-su nói với bà: "Này
con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh"  (Mc 5,34). Người
căn dặn các môn đệ trước khi ra đi loan báo Tin Mừng: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc
bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12). Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, tới gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu,
những người theo Đức Giê-su tung hô: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!
Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời" (Lc 19,38). Những trích đoạn này cho
chúng ta biết rằng Đức Giê-su không chỉ 'chúc bình an' mà còn căn dặn các môn đệ của mình

82
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

đem bình an tới cho mọi người. Đặc biệt, Người đã thực thi những hành động cụ thể như chữa
bệnh, trừ quỉ, an ủi những người ưu phiền nhằm đem lại bình an cho họ.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su thổ lộ tâm tình sâu nặng với các môn đệ thân
thương của mình: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1).
Người cũng nói với họ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.
Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi" (Ga
14,27). Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Tại sao bình an
của Đức Giê-su thế gian không thể ban tặng? Thưa, vì Đức Giê-su chính là Bình An đích thực. Có
bình an của Đức Giê-su đồng nghĩa với có Đức Giê-su. Như thế, đối với chúng ta là những Ki-tô
hữu, câu hỏi đặt ra không phải 'bình an là cái gì?' mà ‘bình an là ai?'.
Đức Giê-su là Bình An! Đây thật là mặc khải quan trọng cho tất cả mọi người trong gia đình
nhân loại, bởi vì, bình an của Thiên Chúa không còn là điều gì đó mông lung, trừu tượng nữa mà
chính Đức Giê-su là Bình An. Với sự hiện diện và hoạt động của Người trong hành trình dương
thế, bình an ‘có hình có dạng’, bởi vì, Ngôi Hai Thiên Chúa là Bình An. Đức Giê-su đã minh chứng
điều đó bằng chính đời sống và sứ mệnh bình an của mình hầu nâng đỡ con người trong hành
trình trần thế đầy bất an, giải thoát con người khỏi ách tội lỗi và dẫn đưa con người về với Thiên
Chúa, Nguồn Mạch Bình An (Rm 15,33).
Sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã gặp gỡ và trao ban bình an cho các môn đệ thân tín
của Người. Thánh Gio-an trình thuật: "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn
đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và
nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui
mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em"  (Ga 20,19-21). Nhờ bình an của Đức Giê-su, các môn đệ Người
nguyên là những người nhát đảm, yếu đuối, giới hạn trăm chiều đã trở thành những chứng nhân
can trường, mạnh mẽ trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng Bình An của Người cho anh
chị em đồng loại.
Hơn ai hết, thánh Phao-lô hiểu rõ rằng Đức Giê-su là Bình An, Người nối kết mọi người, mọi
dân tộc trên khắp hoàn cầu. Viết thư cho các tín hữu ở Ê-phê-xô, ngài khẳng định: "Chính Đức
Giê-su là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một;
Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ
Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên
thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người" (Ep 2,14-15). Chúng ta có thể diễn đạt
tư tưởng của thánh Phao-lô như sau: Đức Giê-su là Bình An biến đổi thân phận con người từ tình
trạng nô lệ vì tội lỗi sang tình trạng được giải phóng nhờ ân sủng của Người. Đức Giê-su là Bình
An cho phép liên kết những gì khác biệt và hiệp nhất những gì phân cách. Chẳng hạn, trong quá
khứ, dân Do-thái và dân ngoại thường chống đối nhau, với Đức Giê-su là Bình An, họ trở thành
anh chị em của nhau. Đức Giê-su là Bình An hòa giải những xung khắc giữa 'Luật Cũ' và 'Luật Mới'
ngõ hầu tất cả mọi người cảm nhận được tính liên tục của chương trình Thiên Chúa cứu độ mà
đỉnh cao là sự hiện diện của Người giữa lòng nhân loại.
Thời thơ ấu, khi Đức Giê-su được dâng vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, ông Si-mê-on đã nói với
Đức Ma-ri-a: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống
hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng"  (Lc 2,34). Điều này được ứng

83
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

nghiệm trong cuộc đời Đức Giê-su: Người là Bình An giữa cảnh gian nan khốn khó. Trước khi
bước vào cuộc khổ nạn, Người nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều và Người kết luận: "Thầy nói với
anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian
nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Đức Giê-su không nói với
họ rằng với bình an của Người, họ không còn phải đương đầu với những khó khăn nữa hay
Người sẽ cất hết mọi hình thức bất an cho họ. Người cũng không nói với họ rằng Tội Nguyên Tổ
và hậu quả của Tội này không còn chút ảnh hưởng trên họ và họ sẽ được miễn nhiễm mọi khổ
đau trong hành trình trần thế này. Nhưng, Người cho họ biết rằng với bình an của Người, họ có
khả năng chịu đựng những nghịch cảnh của cuộc sống, kể cả sự chết và họ sẽ được chung hưởng
Bình An Vĩnh Cửu với Người.
Đối với các môn đệ Đức Giê-su, trong hành trình theo Người, ban đầu họ không hiểu rõ căn
tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Như bao người khác, các môn đệ cũng thích những gì dễ
dãi, không cần vất vả, không tốn công vun đắp, không cần hy sinh. Dần dần, họ hiểu ra rằng theo
Đức Giê-su đòi hỏi phải từ bỏ những thói quen xấu, từ bỏ sự dữ, từ bỏ thế giới bóng tối, từ bỏ sự
tự do lăng loàn, ích kỷ, ngạo mạn. Theo Đức Giê-su đồng nghĩa với 'vác thập giá mình mà theo'
(Mc 8,34). Càng gắn bó với Đức Giê-su, họ càng nhận ra rằng bình an mà Người mang đến cho
nhân loại không như họ tưởng tượng hay mong đợi.
Đức Giê-su là Thiên Chúa và là Đấng Bình An, tuy nhiên, bình an của Thiên Chúa, bình an của
Đức Giê-su vượt quá những lượng định hay hiểu biết của con người. Thánh Phao-lô khẳng
định: "Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em
được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 4,7). Trong bài giảng về sứ mệnh loan báo Tin Mừng, Đức
Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến
không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa
con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người
nhà" (Mt 10,34-36). Đức Giê-su nói vậy không có nghĩa rằng Người đến để gây bất hòa, chia rẽ,
nhưng có nghĩa rằng những ai theo Người cần đón nhận những giá trị Người giới thiệu (1 Cr
14,33). Điều này có nghĩa là bình an Người mang tới là bình an ngang qua thập giá. Bình an được
diễn tả bởi sự hy sinh, quên mình, từ bỏ (Dt 13,20). Minh định của thánh Phao-lô giúp chúng ta
hiểu rõ hơn: "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một
thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng
bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ
Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa
Cha" (Ep 2,16-17). Tương tự như thế, trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Ước gì
ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã
được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3,15).
Với Đức Giê-su, hòa giải cũng chính là bình an hay ngược lại. Sau khi sống lại, Đức Giê-su nói
với các môn đệ 'bình an cho anh em', đồng thời, Người cũng trao ban Chúa Thánh Thần và sai
các môn đệ ra đi thực thi sứ mệnh hòa giải (Ga 20,22-23). Thánh Phao-lô hiểu rõ Biến Cố Đức
Giê-su là Biến Cố Hòa Giải để đem lại bình an cho thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa là sự hòa
giải của Đức Giê-su vừa mang chiều kích cá nhân, vừa mang chiều kích tập thể, vừa mang chiều
kích hoàn vũ. Chẳng hạn, với người phụ nữ tội lỗi sám hối ăn năn, Đức Giê-su nói với chị : "Lòng
tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an" (Lc 7,50). Còn thánh Phao-lô thì quả quyết: "Thiên
Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà

84
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã
đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1,19-20).
Đối với chúng ta, khi mọi chuyện xảy ra như ý muốn, chúng ta cảm thấy bình an. Tuy nhiên,
đây chỉ là 'bình an sở hữu', 'bình an vị kỷ', 'bình an hướng tâm'. Bình an đích thực mà Đức Giê-su
ban tặng là 'bình an trút bỏ', 'bình an vị tha', 'bình an hướng ngoại'. Bình an Đức Giê-su cho phép
chúng ta hướng về phía trước với niềm tin yêu và hy vọng sâu thẳm. Bình an Đức Giê-su cho
phép chúng ta vượt qua muôn sóng gió của biển đời, chẳng hạn như đau khổ, mất mát, bị hiểu
nhầm, thậm chí cả hy sinh mạng sống. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội, nhất là các thánh tử đạo,
đã cảm nhận được bình an Đức Giê-su trong đời mình. Đó là lý do giải thích tại sao các ngài sẵn
sàng chịu đựng tất cả cực hình để trở nên chứng nhân của Đức Giê-su và Tin Mừng Bình An của
Người cho anh chị em đồng loại.
Đức Giê-su đã đi Đường Bình An đến với tất cả mọi người, tuy nhiên, không phải tất cả mọi
người đều nhìn nhận Đức Giê-su và Đường Bình An của Người. Chẳng hạn, trong hành trình lên
Giê-ru-sa-lem, khi đến gần thành, Đức Giê-su đã khóc thương Giê-ru-sa-lem vì dân thành này
không nhận ra Người. Thánh Lu-ca trình thuật: "Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành,
Đức Giê-su khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại
bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được" (Lc
19,41-42). Dân thành Giê-ru-sa-lem hằng đợi trông Đấng Mê-si-a, Đấng Xức Dầu Bình An đến với
họ, tuy nhiên, khi Người đến, họ đã không nhận ra, bởi vì, Người không giống Đấng Mê-si-a theo
tâm trí của họ.
Bình an của Đức Giê-su vừa là món quà cho chúng ta, vừa là tác vụ của chúng ta. Thánh Phao-
lô nhắn nhủ các tín hữu ở Phi-líp-phê: "Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã
thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em" (Pl
4,9). Điều này có nghĩa là bình an Đức Giê-su để lại không phải là di sản để chúng ta khóa kín
trong viện bảo tàng tâm hồn mình. Những môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su được mời gọi trao
ban bình an của Người cho anh chị em đồng loại. Nói cách khác, bình an của Đức Giê-su cần
được loan báo, cần được chia sẻ, cần được thẩm thấu mọi chiều kích của đời sống con người.
Đồng thời, bình an Đức Giê-su cần trở thành yếu tố nền tảng để con người xây dựng, phát triển
và điều chỉnh các tương quan trong xã hội.
Sứ mệnh làm cho Tin Mừng Bình An đến với mọi người đã được các ngôn sứ loan báo từ xưa.
Chẳng hạn, ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ VIII trước Công Nguyên) viết: “Đẹp thay trên đồi núi bước
chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và
nói với Xi-on rằng: Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị”  (Is 52,7). Còn ngôn sứ Na-khum (thế kỷ VII
trước Công Nguyên) thì diễn tả như sau: “Kìa, trên các đồi núi xuất hiện người đi loan báo Tin
Mừng, và công bố bình an” (Nk 2,1). Khi giảng dạy tại nhà ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô
nói: "Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-
su Ki-tô, là Chúa của mọi người” (Cv 10,36). Viết thư cho tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyến
khích họ: "Hãy đứng vững: Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi
giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an" (Ep 6,14-15). Do đó, các môn đệ Đức Giê-su
được mời gọi luôn ở lại với Đức Giê-su, học hỏi từ Đức Giê-su và đem bình an của Đức Giê-su
đến cho mọi người (Lc 10,5-6).

85
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Chúng ta có thể khẳng định rằng bình an không phải là một lựa chọn giữa các lựa chọn khác
trong cuộc sống con người mà là điều kiện thiết yếu để con người hướng tới sự phát triển toàn
diện. Làm sao các cá nhân có thể phát triển toàn diện được nếu không có bình an? Làm sao các
cộng đoàn có thể phát triển được nếu không có bình an? Có gì có thể thay thế bình an chăng?
Thái độ thù địch hoặc chiến tranh có thể thay thế bình an sao? Quả thật, không có bình an, con
người sẽ lâm vào cảnh mù mịt, bế tắc, không lối thoát.
Ngạn ngữ La-tinh có câu: "Si vis pacem, para bellum" (nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị
cho chiến tranh). Lịch sử nhân loại từ cổ chí kim luôn có những người chủ trương như vậy. Thực
ra, đây là quan điểm sai lầm mà chúng ta cần cùng nhau góp sức loại trừ, bởi vì, chiến tranh chỉ
gây nên chiến tranh, hận thù chỉ gây nên hận thù, chia rẽ chỉ gây nên chia rẽ. Người đi Đường
Bình An của Đức Giê-su là Người biết nói ‘không’ với chiến tranh, súng đạn hay các hình thức bạo
lực. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là người nói ‘lời yêu thương’ với tất cả mọi người,
ngay cả những người làm hại mình. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là người ý thức
được thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình giữa lòng nhân thế và tin tưởng, cậy trông vào sức
mạnh của tình yêu Thiên Chúa được diễn tả qua Đức Giê-su. Người đi Đường Bình An của Đức
Giê-su là người ý thức rằng mình được mời gọi trở thành khí cụ bình an của Người ở bất cứ nơi
đâu mình hiện diện và hoạt động.
Chúng ta biết rằng hành trình trần thế của Đức Giê-su không chỉ khôi phục phẩm giá con
người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà còn mời gọi con người trở thành con Thiên
Chúa (1 Ga 3,1). Câu hỏi được đặt ra: Làm sao con người có thể trở thành con Thiên Chúa? Thưa,
trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su cho chúng ta câu trả lời: "Phúc thay ai xây dựng hòa
bình [bình an], vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Sứ mệnh Đức Giê-su giao phó cho
các môn đệ và tông đồ của Người xưa kia cũng như hôm nay là cộng tác với Người để làm cho
tất cả mọi người trong gia đình nhân loại trở thành 'những người kiến tạo bình an'
(peacemakers). Thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu Rô-ma: “Chúng ta hãy theo đuổi những gì
đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau”  (Rm 14,19).
Trong hành trình trần thế, bình an là công trình dang dở hơn là công trình hoàn thành, là
hướng đi hơn là đích đến, là tiến trình vượt không gian, thời gian hơn là tiến trình bị giới hạn
trong thế giới thụ tạo. Nói cách khác, trên bình diện cá nhân cũng như tập thể, con người không
bao giờ đạt được bình an trọn vẹn trong hành trình trần thế này. Bởi vì, bao lâu còn trong hành
trình trần thế, bấy lâu mãnh lực của ma quỉ, của dối trá, của bất an vẫn còn hoành hành. Những
đe dọa xói mòn bình an, những nguy cơ bất an hay những kẻ thù của bình an vẫn còn đó. Tuy
nhiên, những người đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giê-su, Đường Bình An, luôn có đủ sức mạnh
cần thiết để vượt qua những chướng ngại trong cuộc sống với con mắt tâm hồn không ngừng
hướng về Người.
Là con người, ai cũng muốn bình an (Gaudium et Spes 78). Đáng buồn thay, nhiều người
muốn bình an với thiên kiến cá nhân. Theo họ, để có bình an, mọi người phải thế này, thế kia
như thể họ là 'tiêu chuẩn' của bình an vậy. Quả thật, không ai trong gia đình nhân loại xứng đáng
là tiêu chuẩn của bình an, bởi vì, theo mặc khải Ki-tô Giáo, tất cả mọi người trong gia đình nhân
loại đều là những người tội lỗi (Tv 51,7; 1 Ga 1,8). Do đó, tất cả mọi người hãy 'nhìn lên' Đức Giê-
su là Đường Bình An. Mọi người hãy đến với Người để có được tâm hồn bình an và nhờ đó trở
thành người kiến tạo bình an trong môi trường sống của mình. Ai không nhận ra Đức Giê-su là

86
Tổng Hợp Các Bài Viết Của Đức Cha Pet. Nguyễn Văn Viên - Về Chủ Đề Giới Trẻ

Đường Bình An thì khó có thể đóng góp phần mình cho bình an đích thực trong gia đình nhân
loại.
Trong thông điệp truyền thông qua Radio gửi các nguyên thủ quốc gia và các dân tộc trên thế
giới ngày 24/8/1939, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII nói: "Không gì mất mát bởi hòa bình [bình an]; mọi
thứ có thể mất mát vì chiến tranh". Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng gia đình nhân loại luôn
vận động và phát triển. Đường hướng vận động và phát triển tốt đẹp hơn nhờ sự cộng tác giữa
con người với Thiên Chúa, với Đức Giê-su, ngõ hầu bình an được hiện diện nơi mỗi cá nhân và
các hình thức cộng đoàn. Trong nhãn quan của thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, phát triển có nghĩa
là hòa bình [bình an] hay tên mới của 'hòa bình' [bình an] là 'phát triển' (Populorum
Progressio  87). Theo ngài, bình an là điều kiện cho phát triển và phát triển là hoa trái của bình
an. Nói cách khác, bình an và phát triển đi đôi với nhau và trở thành nền tảng cho việc nâng cao
phẩm giá con người trong các hình thái xã hội.
Gia đình nhân loại có nhiều nền văn hóa, tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng 'nền văn
hóa bình an' chính là nền văn hóa chung của tất cả mọi người. Nền văn hóa này được xây dựng
khi mỗi người ý thức tầm quan trọng của bình an trong đời sống cá nhân cũng như các hình thức
tập thể, đồng thời, ý thức rằng mình không phải là tiêu chuẩn bình an cho tất cả mọi người. Đặc
biệt, nền văn hóa bình an được xây dựng khi mỗi người ý thức rằng tất cả mọi người là anh chị
em của nhau trong gia đình nhân loại, đồng thời, nhiệt tâm cổ vũ tình liên đới, sự hiểu biết và
tôn trọng lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Nền văn hóa bình an cũng giúp con người quan tâm
hơn đến muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và luôn ý thức rằng mình không chỉ là 'ông
chủ' mà còn là 'nhà quản lý' muôn vật muôn loài. Đặc biệt, nền văn hóa bình an giúp con người
nhận ra thân phận bất an của mình và biết thành tâm quy hướng về Thiên Chúa, Nguồn Mạch
Bình An, và Đức Giê-su là Đường Bình An cho tất cả mọi người.
Chúng ta có thể kết luận rằng bình an chính là nền tảng để con người xây dựng cuộc sống sao
cho xứng đáng với phẩm giá mình. Theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa sáng tạo con người và
muôn vật muôn loài trong 'cảnh bình an', nhưng con người đã ‘sa chước cám dỗ’, đã gây nên
'cảnh bất an'. Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người, đặc biệt, Người đã gửi Đức
Giê-su là Hoàng Tử Bình An đến với con người và chia sẻ 'cảnh bất an' với tất cả mọi người. Hơn
nữa, Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sống lại để minh chứng Người là Bình An
của Thiên Chúa. Trong hành trình trần thế, Người luôn mời gọi mọi người 'hãy đi Đường Bình An'
của Người để có được bình an trong tâm hồn, bình an với anh chị em đồng loại, bình an với
muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, đặc biệt, bình an với Thiên Chúa. Ước gì tâm tình của
thánh Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê đối với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca trong Giáo Hội sơ khai
cách đây gần hai ngàn năm trở nên hiện thực đối với tất cả chúng ta: "Nguyện chính Thiên Chúa
là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác
anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
quang lâm" (1 Tx 5,23). Nhờ đó, chúng ta thực sự trở thành công dân Nước Thiên Chúa Viên
Mãn, Nước của "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17).

87

You might also like