You are on page 1of 266

Tài liệu cho bài tập tuần thứ ba

129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
Tài liệu cho bài tập tuần thứ tư

178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
196
197
198
199
200
201
202
Tài liệu cho bài tập tuần thứ năm

203
204
205
206
207
208
209
210
211
212
213
214
215
216
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SƠN LA Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 11/2020/DS-PT


Ngày: 10 - 6 - 2020
V/v: Tranh chấp quyền quản lý di sản
thừa kế.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Quản Hữu Chiến.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Tuấn Minh.
Ông Đỗ Tuấn Long.
- Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thu Phương – Thư ký Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên toà: Ông
Hà Văn Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 10tháng6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 24/TLDS-PT ngày 16 tháng 01 năm
2020 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa
án nhân dân huyện M bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐ-PT ngày 02 tháng
03 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La; giữa các Đ sự:
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H;Địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông trường
M, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N;Địa chỉ: Tiểu khu C, thị trấn Nông trường M,
huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Dương Thị H; Luật
sư thuộc Công ty Luật Quốc tế BA – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Tiến T; Địa chỉ: Tiểu
khu C, thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La.Hiện đang chấp hành án
tại: Trại giam Y, huyện P tỉnh Sơn La; vắng mặt.
Bà Phạm Thị H; địa chỉ: Tiểu khu C, TTNT M, huyện M, tỉnh Sơn La; có
mặt.
Bà Phạm Thị L; địa chỉ: Tiểu khu 40, thị trấn nông trường M, huyện M,
tỉnh Sơn La;
Bà Phạm Thị N; địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện Ch, thành phố Hà Nội;

217
Bà Phạm Thị Nh; địa chỉ; Số nhà 19, ngõ 34A, đường L, quận H, thành phố
Hà Nội;
Bà Phạm Thị H; địa chỉ: Thôn T, xóm 5, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.
Đều xin xét xử vắng mặt và có văn bản ủy quyền cho nguyên đơn anh
Phạm Tiến H có mặt tại phiên tòa.
Người kháng cáo: Bị đơn anh Phạm Tiến N.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai tại phiên tòa và các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án, Nguyên đơn anh Phạm Tiến H trình bày:
Giữa anh và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với nhau,
anh Thiện là anh trai ruột của anh Hiệu và cháu Nghĩa là con trai của anh Phạm
Tiến T. Trước đây anh Phạm Tiến T có vợ là chị Dương Thị Hường nhưng hai
anh chị đã ly hôn từ năm 1997.
Nguyên nhân khởi kiện đòi lại nhà đất của bố mẹ, cũng như nguyên nhân
khởi kiện cháu Nghĩa đến Tòa án với nội dung như sau:
Bố đẻ anh là Phạm Tiến Đ, mẹ đẻ anh là Đoàn Thị T, bố mẹ anh sinh
được 07 anh chị em gồm bà Phạm Thị L, sinh năm 1940, bà Phạm Thị N, sinh
năm 1944, bà Phạm Thị Nh, sinh năm 1949, bà Phạm Thị H, sinh năm 1954, bà
Phạm Thị H sinh năm 1956, Phạm Tiến T, sinh năm 1959 và anh là Phạm Tiến
H, sinh năm 1963, khi bố mẹ anh còn sống bố mẹ anh có một ngôi nhà gỗ 04
gian lợp ngói nằm trên diện tích đất 311m2 (Đất đã có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T).
Đến năm 1994 ông Phạm Tiến Đ chết, đến năm 2012 bà Đoàn Thị T chết.
Khi chết bố, mẹ anh không để lại di chúc giao cho con cái nào trong gia đình
được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do đó ngôi nhà và diện
tích đất trên để nguyên không có ai quản lý vì các anh chị đã đi xây dựng gia
đình hết không có ai ở trông nom ngôi nhà đó, bản thân anh Hiệu và anh Thiện
đều phải đi chấp hành án nên ngôi nhà không có ai trông coi quản lý đã xuống
cấp trầm trọng, nay anh Hiệu đã đi chấp hành án xong trở về, bản thân anh cũng
đã có nhà ở không liên quan đến nhà của bố mẹ anh, còn anh Thiện vẫn đang
chấp hành án nên nguyện vọng của các anh chị em trong nhà là giao cho anh
Hiệu tu sửa lại ngôi nhà và quản lý đất đai của bố mẹ để lại để làm nơi thờ cúng
bố mẹ chứ không phân chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu Nghĩa cản
trở không cho xuất trình một giấy ủy quyền của anh Thiện có nội dung là ủy
quyền cho cháu Nghĩa trông coi ngôi nhà đến khi anh Thiện chấp hành án trở về.
Với những lý do trên, anh Hiệu đề nghị Tòa án giải quyết buộc cháu
Nghĩa và anh Thiện không được cản trở việc anh tu sửa ngôi nhà, cháu Nghĩa
không được xâm phạm đến tài sản của bố, mẹ anh, bàn giao lại nhà và đất của
bố mẹ anh để lại cho anh tu sửa trông coi, quản lý để làm nơi thờ cúng bố mẹ
anh.

2
218
Theo Bản tự khai, trình bày tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, Bị đơnanh Phạm Tiến N trình bày:
Anh không tự xâm chiếm nhà cửa của ông bà nội anh là ông Đ và bà T mà
do bố anh có viết giấy ủy quyền cho anh trông coi quản lý vì bố anh đang đi
chấp hành án.
Tuy bố mẹ anh đã ly hôn nhưng do không có ai hương khói cho ông bà
ngày giỗ nên bố anh đã bàn bạc với các bác trong gia đình mang bát hương của
ông Đ bà T về nhà mẹ anh và anh đang ở để thờ cúng, các bác đã đồng ý và từ
đó mỗi lần giỗ là lại làm tại nhà anh. Xuất phát từ việc đó mà bố anh là Phạm
Tiến T có giấy ủy quyền giao cho anh trông coi, chăm sóc cây cối, quản lý ngôi
nhà. Kể từ đó đến nay, anh vẫn thực hiện đúng việc bố anh ủy quyền.
Hiện nay anh sinh sống cùng với mẹ anh, anh chỉ thực hiện việc ủy quyền
của bố anh là trông coi quản lý, chờ bố anh chấp hành án về còn bản thân anh
cũng không có tranh chấp tranh dành gì ngôi nhà và đất để ở cho bản thân anh.
Theo các văn bản ghi ý kiến và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Tiến T trình bày:
Anh là anh trai của anh Phạm Tiến H, bố mẹ anh là ông Phạm Tiến Đ, mẹ
là Đoàn Thị T, bố mẹ anh chết đi để lại một ngôi nhà và đất, cây cối ăn quả, khi
chết ông bà không để lại di chúc. Anh là con trai trưởng trong gia đình nên anh
có trách N hương khói cho ông bà.
Trong lúc anh đi chấp hành án, anh có ủy quyền cho con trai là Phạm Tiến
N trông coi ngôi nhà và đất của ông bà. Nay anh Hiệu và anh chị em trong nhà
có nguyện vọng giao cho anh Hiệu tu sửa quản lý anh không nhất trí đề nghị Tòa
án xem xét giao cho cháu Phạm Tiến N quản lý.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa
án nhân dân huyện M đã quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật
tố tụng dân sự; các Điều 166, 169, 181, 207, 208, 209, 212, 217, 218 Bộ luật dân
sự năm 2015; khoản 9 Điều 6 Luật Nhà ở:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H.
Xử tạm giao cho anh Phạm Tiến H quản lý tài sản của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất, anh Hiệu có trách N sửa chữa
những phần ngôi nhà bị hư hỏng, nghiêm cấm việc anh Phạm Tiến H không
được tự ý phá dỡ xây mới ngôi nhà khi chưa có sự đồng ý của các chị em trong
gia đình.
Được quyền quản lý nhà, tài sản trên đất và diện tích đất theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do
UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004.
Trong quá trình được tạm giao quản lý nhà, đất của ông Phạm Tiến Đ, bà
Đoàn Thị T, anh Phạm Tiến H không được sử dụng sai mục đích như cho thuê,
cho mượn hoặc tự ý thực hiện các giao dịch như mua bán, chuyển nhượng khối
tài sản của ông Đ, bà N cho người khác. Khối tài sản của ông Phạm Tiến Đ và

3
219
bà Đoàn Thị N gồm đất và tài sản trên đất tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường
M, huyện M, tỉnh Sơn La.
2. Buộc anh Phạm Tiến N có trách N bàn giao lại cho anh Phạm Tiến H
toàn bộ nhà và đất của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T đang quản lý cho
anh Phạm Tiến H. Nghiêm cấm anh Phạm Tiến N có hành vi cản trở anh Phạm
Tiến H trong quá trình sửa chữa ngôi nhà , phá hủy tài sản của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T, tự ý xâm phạm vào nhà, đất của ông Phạm Tiên Đ và bà
Đoàn Thị T khi chưa có sự đồng ý của anh Phạm Tiến H trong thời gian anh
Phạm Tiến H được tạm giao quản lý ngôi nhà của ông Đ, bà T.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các
Đ sự.
Do không nhất trí với Bản án sơ thẩm, ngày 20 tháng 11 năm 2019 bị đơn
anh Phạm Tiến N có đơn kháng cáo, không nhất trí với bản án sơ thẩm do xác
định sai quan hệ pháp luật, phải là Tranh chấp về chia di sản thừa kế; nguyên
đơn anh Phạm Tiến H không có quyền khởi kiện; anh Nghĩa nhận trông coi tài
sản của ông Đ bà T thông qua ủy quyền của bố đẻ là ông Phạm Tiến T nên đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, để anh Nghĩa tiếp tục trông coi tài sản cho
đến khi ông Thiện chấp hành án trở về.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn anh Phạm Tiến H không nhất trí kháng cáo của bị đơn anh
Phạm Tiến N, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn anh Phạm Tiến N và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp luật sư
Dương Thị Hương giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm hoặc sửa bản án sơ thẩm theo hướngbác yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phạm Tiến H; để anh Phạm Tiến N được tiếp
tục trông coi, quản lý di sản cho đến khi ông Phạm Tiến T chấp hành án trở về.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến như sau: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội
đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, phần trình bày của các Đ sự tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến N,
sửa bản án sơ thẩm về phần quan hệ pháp luật; không chấp nhận kháng cáo của
anh Nghĩa về việc nhận trông coi, quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ
và bà Đoàn Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


* Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà, xem xét nội dung kháng cáo và ý kiến trình bày của các Đ sự tại phiên
toà. Tòa án nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật:

4
220
Bố mẹ của Nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T
khi còn sống có tạo dựng được một khối tài sản gồm diện tích 311m2 đất và 01
ngôi nhà gỗ 4 gian; diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên bà Đoàn Thị T tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường M, huyện M,
tỉnh Sơn La.
Năm 1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà đều không
để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên và không giao quyền quản lý
di sản thừa kế cho ai. Các thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý
khối di sản của ông Đ, bà T.
Khi anh Hiệu được sự ủy quyền của các chị em trong gia đình, đãtiến
hành sửa chữa, tôn tạo lại ngôi nhà trên đất; thì bị đơn anh Phạm Tiến N là cháu
của ông Đ, bà T ngăn cản, không cho làm với lý do; trước khi đi chấp hành án,
anh Nghĩa đã được bố đẻ là ông Phạm Tiến T giao cho quản lý khối di sản của
ông bà Đ T, nên anh Nghĩa có trách N trông coi, quản lý khối di sản này.
Cả anh Hiệu và anh Nghĩa đều không có yêu cầu chia di sản thừa kế của
ông bà Đ, T; mà chỉ tranh chấp về quyền quản lý khối di sản của ông bà. Do đó,
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất là chưa chính xác; cần xác định quan hệ pháp luật là
“Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế” để đảm bảo giải quyết đúng nội dung
tranh chấp của các bên.
Ông Đ chết năm 1994, bà T chết năm 2012; tính đến thời điểm anh Hiệu
khởi kiện ra Tòa án (ngày 15/8/2019) vẫn chưa hết thời hiệu khởi kiện liên quan
đến di sản thừa kế của ông bà. Do đó, anh Hiệu vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết về tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ, bà T.
[2] Về những người tham gia tố tụng
Đối tượng tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế giữa anh Phạm Tiến H
và anh Phạm Tiến Nlà khối di sản của ông Đ, bà T. Liên quan đến khối di sản
này, ngoài ông Phạm Tiến T, còn có các bà Phạm Thị L, Phạm Thị N, Phạm Thị
Nh, Phạm Thị H, Phạm Thị H đều là con gái của ông Đ, bà T cũng có quyền
được quản lý khối di sản thừa kế. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa những người
này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan là
thiếu sót.
Tuy nhiên, qua xác minh với các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều
xác nhận, đã ủy quyền toàn bộ cho anh Hiệu giải quyết vụ án tại Tòa án; nhất trí
với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu trông coi, quản lý; việc Tòa án cấp sơ
thẩm không đưa các bà vào tham gia tố tụng, các bà không có ý kiến gì, không
bị ảnh hưởng vì quyền và lợi ích của các bà đã đồng nhất với anh Hiệu; đồng
thời xin vắng mặt trong các buổi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm. Do đó, xét
thấy thiếu sót nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm chưa đến mức vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và đã được Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục.
[3] Về nội dung kháng cáo
[3.1] Về việc xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp di sản thừa kế”:

5
221
Theo nội dung đơn khởi kiện của anh Phạm Tiến H, anh được các đồng
thừa kế bao gồm các bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đồng ý ủy quyền cho anh,
đứng ra trông coi, quản lý, sửa chữa và tôn tạo lại đất, tài sản trên đất tại Tiểu
khu C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Toàn bộ nhà và đất là di
sản thừa kế do bố mẹ anh để lại.
Cháu Nghĩa là con trai của anh Phạm Tiến T đã ngăn cản, không cho anh
Hiệu tiến hành việc tôn tạo, tu sửa lại di sản thừa kế. Do đó, anh Hiệu đã khởi
kiện ra Tòa án, yêu cầu giải quyết về tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế;
không yêu cầu Tòa án giải quyết về chia di sản thừa kế.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Tiến T là một trong các
đồng thừa kế cũng không có yêu cầu độc lập về chia di sản thừa kế. Do đó, yêu
cầu kháng cáo của anh Nghĩa đề nghị xác định quan hệ pháp luật của vụ án là
“Tranh chấp di sản thừa kế” là không có căn cứ chấp nhận.
[3.2] Về quyền khởi kiện của anh Phạm Tiến H:
Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, các Đ sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến
H thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ, bà T; ông Đ chết năm 1994, bà T chết
năm 2012 không để lại di chúc; anh Hiệu có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó
có quyền quản lý di sản thừa kế theo quy định tại các Điều 638, 640 của Bộ luật
Dân sự 2005(nay được quy định tại các Điều 614 và các Điều 616, 618 Bộ luật
dân sự năm 2015).
Anh Phạm Tiến N cho rằng, anh được giao quản lý khối di sản của ông Đ,
bà T nên đã có hành vi ngăn cản việc quản lý di sản thừa kế của anh Phạm Tiến
H. Theo quy định của pháp luật, anh Hiệu có quyền khởi kiện vụ án về tranh
chấp quyền quản lý di sản thừa kế để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của anh Nghĩa về nội dung này.
[3.3] Về việc ông Phạm Tiến T ủy quyền cho anh Phạm Tiến N trông coi,
quản lý di sản của ông Đ, bà T:
Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống
tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Khi ông Thiện đi chấp
hành án, có giao lại cho anh Nghĩa trông coi di sản của ông bà. Tuy nhiên, theo
quy định tại Điều 616 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Người quản lý di sản là
người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra”. Ông Đ bà T chết, không để lại di chúc; việc quản lý di sản của ông Thiện
không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ông Thiện
không có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di sản
của ông bà Đ T.
Giấy ủy quyền cho con trai Phạm Tiến N đề ngày 15/8/2013 của ông
Phạm Tiến T không có giá trị pháp lý; không phải là cơ sở để phát sinh quyền
quản lý di sản của anh Phạm Tiến N đối với di sản của ông bà Đ T.
[3.4] Về quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ, bà T:

6
222
Kể từ thời điểm năm 2013, khi anh Thiện đi chấp hành án; anh Nghĩa có
qua lại trông coi, nhưng không ở trực tiếp tại nhà và đất của ông bà Đ, T mà ở
một vị trí đất khác. Ngoài ra, còn có bà Phạm Thị H (con gái của ông Đ bà T) ở
liền kề và trông coi khối di sản này. Do đó, xác định từ năm 2012 đến nay, di
sản của ông Đ, bà T chưa giao cho ai quản lý.
Qúa trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng
thừa kế thứ nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của
ông Đ, bà T. Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ
năng lực hành vi dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không
bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo
đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh
Phạm Tiến H là phù hợp.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên; xét thấy,có cơ sở chấp nhận một
phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến N; sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Mvề việc xác định
quan hệ pháp luật và đưa bổ sung những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng; không chấp nhận kháng cáo của anh Nghĩa về việc bác quyền
khởi kiện và quyền quản lý di sản thừa kế của anh Phạm Tiến H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí:
Anh Phạm Tiến N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do một phần
yêu cầu kháng cáo được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309; khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của UBTVQH về định mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh Phạm Tiến
N; sửaBản án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án
nhân dân huyện M như sau:
1. Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Tiến H
và bị đơn Phạm Tiến N là: “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế”.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh
Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà
Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số
0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu
C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng
khu đất kèm theo).
Anh Hiệu có các quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy
định tại các Điều 617, Điều 618 của Bộ luật Dân sự 2015 và có quyền yêu cầu C
7
223
Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền quản lý di sản khi bị người khác xâm
phạm theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí:
Anh Phạm Tiến N không phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc
thẩm, được trả lại 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số AA/2016/0003509
nộp ngày 20/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 26
của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7ª, 7b và 9
của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dược thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật thi hành án.”
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày
10/6/2020).

Nơi nhận: T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND huyện M;
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Sơn La;
- Chi cục THADS huyện M;
- Đ sự;
- Lưu. (đã ký)

Quản Hữu Chiến

8
224
9
225
226
227
228
229
230
Tài liệu cho bài tập tuần thứ sáu

231
232
233
234
235
236
237
238
239
240
241
242
243
244
245
246
247
248
249
250
251
252
253
254
255
256
257
258
259
260
261
262
263
264
265
266
267
268
269
270
271
Tài liệu cho bài tập tuần thứ bảy

272
273
274
275
276
277
278
279
280
281
282
283
284
285
286
287
288
289
290
291
292
293
294
295
296
297
Tài liệu cho bài tập tháng thứ nhất

298
299
300
301
302
303
304
305
306
307
308
-1-
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN C Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH A

Quyết định số: 02/2020/QĐST-DS


Ngày: 13/01/2020.
QUYẾT ĐỊNH
SƠ THẨM GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
V/v: “Yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết”
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C TỈNH A
Thành phần giải quyết việc dân sự gồm có:
Thẩm phán - Chuû toïa phieân hoïp: Ông Huỳnh Văn Quân.
Thö kyù phieân hoïp: Bà Trần Thị Út – Thư ký Tòa án nhân dân huyện C,
tỉnh A.
Ñaïi dieän Vieän kieåm saùt nhân dân huyện C tham gia phiên họp: Bà Phan
Thị Thơ – Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C mở phiên
họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số: 684/2019/TLST-DS ngày
25 tháng 12 năm 2019. Về việc: “Yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là
đã chết” theo Quyết định mở phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự số:
02/2020/QĐST/VDS ngày 02 tháng 01 năm 2020, gồm những người tham gia tố
tụng sau đây:

Người yêu cầu giải quyết việc dân sự:


Ông Đ H, sinh năm: 1968;
Địa chỉ: A, xã L, huyện C, tỉnh A..
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Bà N T, sinh năm: 1967;
Địa chỉ: Ấp 1A, xã Tân Trạch, huyện C, tỉnh A.
NỘI DUNG VIỆC DÂN SỰ

Trong đơn yêu cầu ngày 17 tháng 12 năm 2019 và tại phiên họp Ông Đ H
là người yêu cầu trình bày: Từ năm 2008 do vợ chồng có mâu thuẩn nên Ông
Hoàng đến tỉnh Lâm Đồng sinh sống không liên lạc với gia đình. Tại quyết định
số: 01/2011/QĐ-MPH ngày 02/3/2011Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố mất
tích. Tại quyết định số: 01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân
huyện C đã tuyên bố Đ H đã chết và tại bản án số: 28/2011/HNST ngày
14/6/2011 Tòa án nhân dân huyện C đã cho ly hôn giữa Bà N T và Ông Đ H.
Ngày 20/11/2019 Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có đơn
yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết.

309
-2-
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bà N T trình bày: Thừa nhận
Ông Đ H vẫn còn sống và đồng ý yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là
đã chết.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan
điểm: Quá trình giải quyết việc dân sự Tòa án đã tuân thủ đúng qui định tố tụng
dân sự. Đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết đối với Ông Đ H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự được
thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên
họp, Tòa án nhân dân huyện C.nhận định:
[1] Về tố tụng: Ông Đ H yeâu caàu hủy quyết định tuyên bố một người là đã
chết là việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại ñieàu
361 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Sau khi thụ lý giải quyết Ông Đ H đã cung cấp đơn xin
xác nhận còn sống tại A, xã L, huyện C có xác nhận của UBND xã L ngày
09/12/2019. Qua đối chiếu kết quả tra cứu hồ sơ hộ khẩu và chứng minh nhân dân
đã có đủ căn cứ để xác định Ông Đ H vẫn còn sống. Tòa án nhân dân huyện C có
đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của Ông Đ H hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết theo Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C là có căn cứ, đúng
pháp luật.
[3] Về lệ phí: Ông Đ H phải chịu 300.000đ lệ phí việc dân sự sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
- Caên cöù Ñieàu 361; Điều 367; Điều 370; Điều 395 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng Điều 73 Bộ luật dân sự;
- Áp dụng Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận đơn yêu cầu cuûa Ông Đ H về việc yêu cầu hủy bỏ quyết định
tuyên bố một người là đã chết.
- Hủy bỏ quyết định yêu cầu tuyên bố một người là đã chết đối với Ông Đ
H, sinh năm: 1968. Địa chỉ: A, xã L, huyện C, tỉnh A.
- Ông Đ H được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để xác lập lại các thủ
tục về nhân thân và hộ tịch.

310
-3-
- Hậu quả pháp lý: Ông Đ H xác định không có tài sản nên không yêu cầu
giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến quyết định tuyên bố một người là đã
chết.
- Về lệ phí: Ông Đ H phaûi chòu 300.000ñ leä phí vieäc daân söï, ñöôïc khaáu
tröø taïm öùng leä phí 300.000đ bieân lai soá 0008104 ngaøy 24/12/2019 cuûa Chi cục
thi haønh aùn dân sự huyeän Caàn Ñöôùc, Ông Hoàng ñaõ noäp ñuû lệ phí.
- Quyền kháng cáo, kháng nghị: Người yêu cầu có mặt được quyền kháng
cáo quyết định naøy trong thôøi haïn 10 ngaøy keå töø ngaøy Tòa án ra quyeát ñònh.
Viện kiểm sát nhân dân huyện C có quyền kháng nghị Quyết định giải quyết việc
dân sự trong thời hạn 10 ngày. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng
nghị trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
Nơi nhận: THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
- TAND tỉnh A.
- VKSND huyện C.
- CC thi hành án dân sự huyện C.
- UBND xã L;
- Đương sự.
- Lưu hồ sơ, lưu án văn.

Huỳnh Văn Quân

311
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK NÔNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 02/2021/DS-PT


Ngày 11-01-2021
V/v tranh chấp hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Thông;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Chiến;
Bà Bùi Thị Ngọc.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Trang, là Thư ký viên của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Nông.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tham gia phiên tòa:
Ông Dương Phúc Trường – Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 53/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 10
năm 2020 về việc“Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2020
của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 68/2020/QĐ-PT ngày
13 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế Th ; địa chỉ: Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh
Đắk Nông – Có mặt.
- Bị đơn: Tổ trưởng Tổ hợp tác X, xã N: Ông Nguyễn Thăng L; địa chỉ:
Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Bùi Vĩnh H; đị a chỉ: Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Bà Bùi Thị H; đị a chỉ: Thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Phạm Hùng V; đị a chỉ: Tổ 05, phường M, thành phố G, tỉnh Đắk
Nông – Vắng mặt.
Ông Nguyễn T; đị a chỉ: Thôn 07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Bà Nhan Thị L, ông Trương Ch, ông Nguyễn Trọng L; cùng địa chỉ: Thôn
07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Nguyễn Thành Ch, ông Lê Văn H, ông Cù Bá L; cùng địa chỉ: Thôn
02, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Lê Văn H, ông Trần H, ông Nguyễn Văn Kh, ông Lê Trọng L, ông 312
Lều Văn M, ông Nguyễn Thành N, ông Cù Bá Ng; cùng địa chỉ: Thôn 03, xã N,
huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
Ông Nguyễn H, ông Cao Quang T, ông Ngô Văn M, ông Bùi Văn V, ông
Bùi Tấn Tr, ông Hoàng Đình C, ông Nguyễn Văn Ph, ông Nguyễn Xuân B, ông
Nguyễn Ngọc L, ông Trần Viết Th, ông Lê Quý T, ông Trần Viết Q, ông Trần
Đình T, ông Võ Văn H, bà Phạm Thị Th, ông Lê Quyết Ch, ông Lê Xuân Ph,
ông Trương Văn D, ông Nguyễn Văn D, ông Trần Văn M, ông Nguyễn Văn Ch,
ông Trương Đức T, bà Vũ Thị T, ông Lê Tiến S, ông Đoàn Thanh T, ông Đường
Văn H, ông Nguyễn H, ông Nguyễn Văn Kh, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn
Thế Th, ông Trần Hoàng S, ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Thăng L, ông
Phạm Thế N, ông Huỳnh Cao T, ông Lê Văn H, ông Trương Đức H, ông
Trương Đức Kh, ông Hồ Chí T, ông Phạm Văn Th, ông Hồ Sỹ S, ông Vũ Hữu
Đ, bà Trần Thị Đ, ông Nguyễn Đức Ng, ông Hồ Ngọc Đ, ông Phan Văn C, ông
Võ Văn Th, ông Lê Hồng Kh, ông Vũ Văn Th, ông Nguyễn T, ông Ngô Đình Q,
ông Trần Đình D, ông Nguyễn Tấn S, ông Trương Công H, ông Nguyễn Đ, bà
Trần Thị V, ông Ngô Văn Tr, ông Trần Đình L, ông Trần Viết T, ông Mai Thế
T, ông Bùi Quốc Th, ông Bùi Vĩnh U, ông Bùi Quang H, ông Bùi Vĩnh M, ông
Nguyễn Đình M, ông Lê Quý D, ông Bùi Vĩnh C; cùng địa chỉ: Thôn 06, xã N,
huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Thế Th – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 25/3/2019 của ông Nguyễn Thế Th và trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2
đất tọa lạc tại thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho
cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số
50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông
Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Vị trí đất cho thuê có tứ cận: Phía Đông giáp
đường bê tông; phía Tây giáp đất ông Nguyễn Thế Th; phía Nam giáp đường
đất; phía Bắc giáp đất ông Nguyễn Hữu H.
Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã N, ông đã
tiến hành phá bỏ 56 trụ tiêu trị giá 600.000 đồng/trụ; 06 cây sầu riêng trị giá
800.000 đồng/cây, 02 cây dừa trị giá 500.000 đồng/cây, 01 cây chôm chôm trị
giá 500.000 đồng/cây, 01 cây ổi không hạt trị giá 500.000 đồng/cây, 01 cây mít
ghép vàng trị giá 500.000 đồng/cây, tất cả trồng năm 2017; 01 cây mít 10 năm
tuổi trị giá 1.000.000 đồng/cây; 05 cây sao trồng bờ rào chắn gió trị giá 200.000
đồng/1 cây; 01 cây xoan lấy gỗ trị giá 500.000 đồng/cây; 01 chuồng gà rộng
06m2 trị giá 3.000.000 đồng; 01 bụi chuối trị giá 500.000 đồng; 45m hàng rào
B40 trị giá 4.000.000 đồng.
Đến ngày 11/01/2019, ông nhận được Thông báo số: 01/TB-THT của Tổ
hợp tác, nội dung thể hiện do hoàn cảnh thay đổi nên hợp đồng thuê đất được
chấm dứt theo Điều 420 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngày 14/01/2019, ông
đã làm văn bản thông báo cho Tổ hợp tác biết ông không đồng ý chấm dứt hợp
313
2
đồng thuê quyền sử dụng đất ký ngày 13/9/2018. Ông cho rằng việc chấm dứt
hợp đồng là không đúng với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của gia đình ông, nên ông khởi kiện yêu cầu Tổ hợp tác phải
bồi thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng với số tiền
50.400.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện của Tổ hợp tác X, xã N trình
bày: Ngày 13/9/2018, ông Bùi Vĩnh H đại diện cho Tổ hợp tác thuê 500m2 đất
của ông Th để làm nhà kho theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất số:
61/SCT/HĐ-GD. Sau khi ký hợp đồng , Tổ hợp tác nhận thấy đường giao thông
yếu kém, cách xa trung tâm , không thuận lợi cho việc chở nông sản nên đã gửi
giấy mời ông Th họp để thương lượng về việc hủy hợp đồng nhưng ông Th
không tham gia. Thông qua ba lần họp, Tổ hợp tác đã hủy hợp đồng thuê đất và
nhờ Công an xã, địa chính xã vào đất nhà ông Th để xác minh nhưng không có
thiệt hại về hoa màu. Mặt khác, ông Th chưa bàn giao đất cho Tổ hợp tác, Tổ
hợp tác cũng không yêu cầu ông Th chặt cây, múc đất và thực tế không có tài
sản trên đất bị thiệt hại , do đó , Tổ hợp tác không chấp nhận yêu cầu bồi thường
thiệt hại của ông Th.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H trình bày: Bà thống
nhất với lời trình bày của ông Th, yêu cầu Tòa án buộc Tổ hợp tác phải bồi
thường thiệt hại về cây cối trước và sau khi giải phóng mặt bằng cho vợ chồng
bà số tiền 50.400.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Vĩnh H trình bày: Thời
điểm ký kết hợp đồng , ông đang làm Tổ trưởng Tổ hợp tác, đến tháng 01/2019
ông Nguyễn Thăng L thay ông làm Tổ trưởng. Ông không đồng ý với yêu cầ u
bồi thường thiệt hại của ông Th vì chưa phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn T trình bày: Ông là
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã N nhiệm kỳ 2016-2021. Ngày 13/9/2018, ông
chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với ông H
là đại diện của Tổ hợp tác, mục đích thuê đất để làm nhà kho theo chủ trương
của dự án Z. Với vai trò là người đứng đầu địa phương, ông đã gọi điện cho ông
Th đôn đốc, nhắc nhở bàn giao mặt bằng để thi công đúng thời hạn. Ông không
yêu cầu ông Th chặt cây, múc đất để bàn giao mặt bằng, cũng không biết trên
đất của ông Th có tài sản gì . Ông và ông Phạm Hùng V có đến nhà ông Th để
yêu cầu nộp tiền đối ứng số tiền 65.000.000 đồng nhưng ông Th không nộp. Đối
với yêu cầu khởi kiện của ông Th , ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hùng V trình bày: Ngày
24/5/2017, Ban quản lý dự án Z tiến hành họp tham vấn chính quyền địa phương
và Tổ hợp tác, thống nhất Tổ hợp tác sẽ thuê đất để xây dựng nhà kho. Theo quy
định của dự án, Tổ hợp tác phải chuẩn bị mặt bằng; dự án chỉ thi công khi nhận
mặt bằng đủ điều kiện thi công công trình. Sau khi nhận được hợp đồng thuê đất
giữa Tổ hợp tác với ông Th, Ban quản lý dự án đã kiểm tra thực địa và thấy mặt
bằng là sân đất, đã được san gạt từ trước để phơi nông sản. Tuy nhiên, do là đất
nông nghiệp chưa đủ điều kiện thi công nên Ban quản lý dự án đã đề nghị Tổ
công tác cấp huyện hỗ trợ pháp lý cho Tổ hợp tác để chuyển đổi mục đích sử
dụng đất. Ngày 25/10/2018, Ban quản lý dự án có Công văn đề nghị phối hợp 314
3
triển khai các nội dung liên quan đến việc thi công công trình tại Tổ hợp tác, sau
đó yêu cầu Tổ hợp tác bàn giao mặt bằng để thi công nhà kho. Do vướng mắc về
việc đóng góp vốn đối ứng, thời gian của hợp đồng thuê đất và giá trị sử dụng
công trình nên Ban quản lý dự án đã gặp Tổ hợp tác và ông Th để giải thích các
chính sách hỗ trợ và quy định của dự án. Trường hợp Tổ hợp tác không bàn giao
mặt bằng thì Ban quản lý dự án sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền và không hỗ trợ
xây dựng nhà kho, cắt giảm khối lượng thi công đoạn đường giao thông do thiếu
phần vốn đối ứng của hợp phần nhà kho dẫn đến không đảm bảo tỷ lệ vốn đối
ứng của Tổ hợp tác trong toàn bộ công trình. Ông không yêu cầu ông Th chặt cây
trên đất vì chưa có biên bản bàn giao mặt bằng, ông chỉ yêu cầu Tổ hợp tác huy
động vốn đối ứng trước khi thi công theo đúng quy định. Đối với yêu cầu khởi
kiện của ông Th, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 420, Điều 422, Điều 428 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Th.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và
thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/7/2020, ông Nguyễn Thế Th kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo và
trình bày những nội dung như trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông:
- Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng Dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308,
Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Thế Th, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa
án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th nộp trong thời hạn
luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng pháp luật.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th, căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ lưu trong hồ sơ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét
xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm và thiếu sót cụ thể như sau:
[2.1]. Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/9/2018 được ký kết giữa
ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H với Tổ trưởng Tổ hợp tác là ông Bùi Vĩnh H.
Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể xác lập,
thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc
315
4
các thành viên ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao
dịch và việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của
Tổ hợp tác không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì
thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc ông H ký kết hợp đồng
thuê đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không; trong hồ sơ
không có văn bản uỷ quyền của các thành viên Tổ hợp tác.
[2.2]. Thửa đất số 50, tờ bản đồ số 03 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Y được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006 cho hộ ông
Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ tại
thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ ông Th, bà H gồm
những ai, việc ký kết hợp đồng có được các thành viên trong hộ gia đình đồng ý
hoặc có văn bản ủy quyền cho ông Th tham gia giao kết hợp đồng hay không;
không đưa các thành viên trong hộ gia đình vào tham gia tố tụng trong vụ án để
làm rõ nội dung này là có phần thiếu sót.
[2.3]. Tại Điều 2 của Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất thể hiện thời hạn
thuê quyền sử dụng đất là 20 năm kể từ ngày 13/9/2018. Ngày 09/01/2019, Tổ
hợp tác ban hành Thông báo số: 01/TB-THT về việc chấm dứt hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất giữa Tổ hợp tác với ông Nguyễn Thế Th với các lý do quy
định tại Điều 420 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BL 06, 07). Ngày 11/01/2019,
ông Th nhận được Thông báo số : 01/TB-THT của Tổ hợp tác về việc chấm dứt
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với ông Th, bà H. Ngày 14/01/2019, ông Th
làm văn bản thông báo cho Tổ hợp tác biết gia đình ông không đồng ý chấm dứt
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ký ngày 13/9/2018 (BL 92). Như vậy, hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà H với Tổ hợp tác vẫn còn tồn tại trên thực
tế. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất, nhưng quá trình giải quyết không xem xét đến hợp đồng có
hiệu lực hay bị vô hiệu. Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu thì phải xác định lỗi dẫn
đến hợp đồng bị vô hiệu mới có căn cứ giải quyết về bồi thường thiệt hại.
[3]. Tại Đơn khởi kiện ngày 25/3/2019, ông Th khởi kiện bị đơn là Tổ hợp
tác X xã N, người đại diện: Ông Bùi Vĩnh H, chức vụ: Tổ trưởng. Lẽ ra, cấp sơ
thẩm phải hướng dẫn ông Th sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện đối với bị đơn là
ông Bùi Vĩnh H, chứ không phải là Tổ hợp tác, bởi vì ông H là người trực tiếp
ký kết hợp đồng là bị đơn trong vụ án, còn các thành viên trong tổ hợp tác tại
thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tổ hợp tác
không có tư cách pháp nhân nên ông Bùi Vĩnh H không phải là người đại diện
cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn là Tổ
hợp tác X xã N, người đại diện ông Bùi Vĩnh H, nhưng tại bản án sơ thẩm lại
xác định bị đơn là Tổ trưởng Tổ hợp tác ông Nguyễn Thăng L là không đúng,
bởi vì ông Bùi Vĩnh H là người ký kết hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, nên
ông H là bị đơn trong vụ án.
[5]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định các thành viên của Tổ hợp tác là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng Toà án không thông báo thụ lý vụ án cho họ
biết, trong hồ sơ không có bản tự khai hoặc biên bản lấy lời khai của những
người này. Tại Biên bản xác minh ngày 05/10/2019 thể hiện tất cả các thành 316
5
viên của Tổ hợp tác vẫn sinh sống và có hộ khẩu thường trú tại địa phương
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tiến hành niêm yết văn bản tố tụng đối với họ là
không đúng quy định tại khoản 5 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Mặt
khác, các thành viên của Tổ hợp tác có hộ khẩu thường trú ở các thôn khác nhau
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại lập biên bản niêm yết chung tại thôn 02, 03, 06,
07, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông là không đúng theo quy định Điều 179 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[6]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc xác minh, thu
thập chứng cứ của cấp sơ thẩm là chưa đầy đủ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng; cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận kháng
cáo của ông Nguyễn Thế Th và quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát,
hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết
lại theo quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên ông
Nguyễn Thế Th không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; trả lại cho ông
Nguyễn Thế Th 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng
khoản 3 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thế Th.
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2020/DS-ST ngày 27/7/2020 của Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông để giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho ông Nguyễn Thế Th 300.000đ
(ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0002791 ngày 11/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Đ, tỉnh Đắk Nông.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- TAND cấp cao tại TPHCM; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Nông;
- TAND huyện Đắk R’Lấp;
- Chi cục THADS huyện Đ;
- Các đương sự; (Đã ký tên, đóng dấu)
- Lưu: Tòa dân sự; Tổ hành chính
tư pháp; hồ sơ vụ án.

Phạm Thị Thông


317
6
Tài liệu cho bài tập tháng thứ hai

318
319
320
321
322
Tài liệu cho bài tập lớn học kỳ

323
Quyết định số 09/2022/KDTM-GĐT ngày 24/8/2022
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2014 và các lời khai trong quá trình tố
tụng, nguyên đơn là bà Đinh Thị T trình bày:
Ngày 20/7/2011, bà và Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển M.N (viết tắt là
Công ty M.N) ký kết Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-
2011/HĐVT. Theo hợp đồng, Công ty M.N vay bà số tiền 7.000.000.000 đồng,
thời hạn vay 06 tháng, lãi suất 13,5%/năm. Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền
vay và tiền lãi vay theo hợp đồng, Công ty M.N đề nghị Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H phát hành Thư bảo lãnh thanh toán cho bà (Đinh Thị T) số tiền 7.483.000.000
đồng.
Ngày 21/7/2011, Giám đốc A – Chi nhánh T.H phát hành Thư bảo lãnh
thanh toán số 1480 VSB 201100217 có nội dung: Căn cứ hồ sơ đề nghị bảo lãnh
thanh toán của Công ty M.N, A - Chi nhánh T.H chấp thuận cung cấp 01 bảo lãnh
thanh toán để hoàn trả tiền vay với tiền lãi vay cho người thụ hưởng là bà Đinh Thị
T – sinh năm 1974, CMND số 011689781 do Công an thành phố H cấp ngày
13/5/2005 với số tiền là 7.483.000.000 đồng để bảo lãnh cho Công ty M.N thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và tiền lãi vay theo Hợp đồng vay tiền số
02/07-2011/HĐTV. Ngân hàng cam kết vô điều kiện, không hủy ngang và không
yêu cầu Công ty M.N phải xem xét trước, thanh toán cho bà Đinh Thị T số tiền
7.483.000.000 đồng trong vòng 05 ngày sau khi nhận được thông báo bằng văn
bản của bà Đinh Thị T và chỉ cần nêu số tiền phải thanh toán mà không cần phải
nêu bất cứ lý do nào khác. Mọi sửa đổi, bổ sung, thay thế, điều chỉnh hợp đồng đ
ược ký kết sau ngày Thư bảo lãnh thanh toán này có hiệu lực cũng không làm thay
đổi nghĩa vụ của Ngân hàng theo Thư bảo lãnh thanh toán này. Bảo lãnh có hiệu
lực kể từ khi Công ty M.N thanh toán đầy đủ tiền vay và tiền lãi vay theo quy đ
ịnh tại hợp đồng cho bà Đinh Thị T.
Ngày 21/7/2011, Giám đốc A – Chi nhánh T.H có Văn bản số 217 xác nhận
việc phát hành Thư bảo lãnh thanh toán là có thực và đúng thẩm quyền của Giám
đốc A – Chi nhánh T.H.
Ngày 26/7/2011, do đã có sự bảo lãnh của Ngân hàng A nên bà chuyển số
tiền 7.000.000.000 đồng bằng Ủy nhiệm chi vào tài khoản của Công ty M.N mở
tại A – Chi nhánh T.H. Cùng ngày, Công ty M.N có văn bản xác nhận đã nhận đủ
số tiền vay 7.000.000.000 đồng. Hết thời hạn vay, Công ty M.N không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán như thỏa thuận tại Hợp đồng số 02/07-2011/HĐVT ngày
20/7/2011. Bà đã nhiều lần yêu cầu A – Chi nhánh T.H thực hiện nghĩa vụ trả nợ
thay theo Thư bảo lãnh thanh toán số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011. Tuy
nhiên, đến nay bà không nhận được bất kỳ khoản tiền nào theo nội dung Thư bảo
lãnh thanh toán số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011. Như vậy, Ngân hàng A
1
324
– Chi nhánh T.H đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản tiền bảo lãnh
thanh toán như đã cam kết. Do đó, bà đề nghị Tòa án buộc Ngân hàng A – Chi
nhánh T.H phải trả bà số tiền 7.483.000.000 đồng cộng với lãi suất quá hạn do
chậm trả theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và quy định của pháp luật.
Tại Bản tự khai ngày 10/8/2015 và các lời khai trong quá trình tố tụng, bị
đơn là Ngân hàng A – do bà Hoàng Lan H là đại diện theo ủy quyền - trình bày:
Qua kiểm tra trên hệ thống sổ sách và phần mềm lưu trữ thông tin của Ngân
hàng A thì Thư bảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011 do bà T cung
cấp cho Tòa án không có trong hồ sơ, sổ sách và không được hạch toán trên IPCAS
(Phần mềm lưu trữ thông tin) của Ngân hàng. Ngân hàng A không biết và không
được thông báo về Thư bảo lãnh nêu trên. Chỉ sau khi Ngân hàng A được Tòa án
thông báo thụ lý vụ án do bà T khởi kiện, liên quan đến việc phát hành Thư bảo
lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011 do ông Nguyễn Hữu H1 – nguyên
Giám đốc Chi nhánh T.H ký thì Ngân hàng A mới biết về Thư bảo lãnh này.
Theo nội dung Thư bão lãnh do bà T xuất trình (có chữ ký của ông H1) thì
đây là Thư bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh này (nếu có) đã được phát hành trái thẩm
quyền, người phát hành bảo lãnh không có quyền và không được ủy quyền phát
hành bảo lãnh vay vốn. Thư bảo lãnh do ông H ký và phát hành là trái pháp luật,
vi phạm quy định về ủy quyền thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước, của Ngân
hàng A và của pháp luật; đồng thời vi phạm Điều 14 Quyết định 26/2006/QĐ-
NHNN ngày 26/6/2006 về việc Ban hành Quy chế bảo lãnh Ngân hàng quy định
về thẩm quyền ký bảo lãnh, vi phạm Điều 21 Quyết định 398/QĐ-HĐQT-TD ngày
29/5/2007 ban hành quy định bảo lãnh Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng A
quy định về thẩm quyền ký bảo lãnh. Ngoài ra, theo quy định tại Văn bản số
1477/NHNo-TD ngày 29/5/2007 của Ngân hàng A quy định về thẩm quyền ký
bảo lãnh (là văn bản ủy quyền của Ngân hàng A cho các Chi nhánh) thì ông H1
với chức danh Giám đốc A – Chi nhánh T.H không được Ngân hàng A ủy quyền
để ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong nước. Việc ông H1 ký phát hành Thư bảo
lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011 để bảo lãnh vay vốn là trái pháp
luật, vi phạm các quy định về ủy quyền thường xuyên (vượt quá phạm vi được ủy
quyền và đã thực hiện công việc không được ủy quyền).
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, Ngân hàng A không đồng ý thực hiện
trách nhiệm bảo lãnh theo Thư bảo lãnh số 1480 VSB 201100217 ngày 21/7/2011
vì đây là bảo lãnh vay vốn và Thư bảo lãnh này đã được phát hành trái thẩm quyền.
Do đó, Thư bảo lãnh do bà T xuất trình không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa Ngân hàng với bà T. Đề nghị Tòa án đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, buộc ông H1 phải thực hiện nghĩa
vụ đối với bà T theo đúng quy định về xử lý hậu quả của giao dịch dân sự do ngư
ời không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc xác lập, thực hiện vượt quá

2
325
phạm vi đại diện; buộc ông H1 liên đới cùng Công ty M.N thực hiện nghĩa vụ trả
tiền cho bà T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đầu tư Phát
triển M.N (do ông Mai Thanh P là đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Ngày 20/7/2011, Công ty M.N ký Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh
doanh số 02/07-2011/HĐVT với bà T, số tiền vay là 7.000.000.000 đồng, thời hạn
vay 06 tháng, lãi suất vay 13,5%/năm. Công ty đã nhận đủ số tiền vay do bà T
chuyển vào tài khoản của Công ty tại Ngân hàng A – Chi nhánh T.H. Bà T đồng
ý cho Công ty vay tiền trên cơ sở Thư bảo lãnh thanh toán hoàn trả tiền vay và tiền
lãi vay do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H đứng ra bảo lãnh cho Công ty. Thực tế,
Công ty là khách hàng thường xuyên, có đề nghị bảo lãnh, có dư nợ và có tài sản
thế chấp tại Ngân hàng A – Chi nhánh T.H tại thời điểm ký kết Hợp đồng số 02/07-
2011/HĐTV. Hiện nay, tình hình hoạt động của Công ty gặp nhiều khó khăn nên
Công ty chưa trả được số tiền vay 7.000.000.000 đồng và tiền lãi theo thỏa thuận
là 483.000.000 đồng, tổng số tiền là 7.483.000.000 đồng. Vì vậy, Công ty đề nghị
Tòa án buộc Ngân hàng A phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho Công ty, thanh
toán cho bà T số tiền 7.483.000.000 đồng theo Thư bảo lãnh thanh toán. Sau đó,
Công ty sẽ có trách nhiệm thanh toán với Ngân hàng A số tiền nêu trên.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày 21,
24/11/2017, Tòa án nhân dân quận B, thành phố H quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị T “Yêu
cầu Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán theo Thư bảo lãnh thanh
toán số 1480VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H
và trả tiền lãi quá hạn do vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền”.
Buộc bị đơn Ngân hàng A phải trả nguyên đơn bà Đinh Thị T khoản tiền
7.483.000.000 đồng theo cam kết bảo lãnh cho Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N tại Thư bảo lãnh thanh toán số 1480 VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của
Ngân hàng A – Chi nhánh T.H và khoản tiền lãi quá hạn 4.293.372.000 đồng do
vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền. Tổng cộng hai khoản tiền Ngân hàng A phải trả
nguyên đơn bà Đinh Thị T là 11.776.372.000 đồng.
Ngân hàng A có quyền khởi kiện đối với Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N khi có yêu cầu.
Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn Ngân hàng A có đơn kháng cáo Bản án sơ
thẩm nêu trên.
Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT ngày
02/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố H quyết định:
Sửa một phần Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 24/2017/KDTM-
ST ngày 21, 24/11/2017 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H và xử như sau:

3
326
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị T:
"Yêu cầu Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán theo Thư bảo lãnh
thanh toán số 201100217 ngày 27/7/2011 của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H và
trả tiền lãi quá hạn do vi phạm nghĩa vụ chậm trả tiền”.
- Buộc bị đơn Ngân hàng A phải trả cho bà Đinh Thị Tâm số tiền
7.483.000.000 đồng tiền cam kết bảo lãnh cho Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N tại Thư bảo lãnh thanh toán số 1480 VBS 201100217 ngày 27/7/2011 của
Ngân hàng A – Chi nhánh T.H và 4.287.759.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng là
11.770.759.000 đồng.
Ngân hàng A có quyền khởi kiện đối với Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N khi có yêu cầu.
Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bị đơn Ngân hàng A có đơn đề nghị xem xét lại vụ án
theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/QĐKNGĐT-VC1-KDTM ngày
22/11/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại H.N kháng nghị đối với Bản
án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT ngày 02/5/2019 của Tòa án
nhân dân thành phố H; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N xét
xử giám đốc thẩm, hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh
doanh thương mại sơthẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày 21, 24/11/2017 của Tòa án nhân
dân quận B, thành phố H; giao hồ sơvụ án cho Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xét
xử sơthẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày 17/02/2020, Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N quyết định:
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT ngày
02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm
số 24/2017/KDTM-ST ngày 21, 24/11/2017 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H
về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị T với bị đơn là
Ngân hàng A; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đầu tưPhát triển
M.N.
Giao hồ sơvụ án cho Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xét xử lại sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử giám đốc thẩm, nguyên đơn bà Đinh Thị T đề nghị Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên theo
thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2022/KN-KDTM ngày
30/5/2022, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm đối với
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày 17/02/2020 của Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên

4
327
và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT
ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất
trí với Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo Hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-2011/H
ĐVT ngày 20/7/2011, bà Nguyễn Thị T cho Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N vay số tiền 7.000.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng, lãi suất 13,5%/năm,
việc cho vay có đảm bảo bằng bảo lãnh của Ngân hàng A. Ngày 21/7/2011, Ngân
hàng A – Chi nhánh Tây Hà Nội đã phát hành Thư bảo lãnh thanh toán số 1480
VBS 201100217 (viết tắt là Thưbảo lãnh) có nội dung: “Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H … chấp thuận cung cấp một bảo lãnh thanh toán để hoàn trả tiền vay cộng
với tiền lãi vay cho người thụ hưởng là bà Đinh Thị T… với số tiền là 7.483.000.000
đồng … để bảo lãnh cho Công ty Cổ phần Đầu Tư Phát triển M.N thực hiện đầy đ
ủ nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và tiền lãi vay cho bà Đinh Thị T theo Hợp đồng vay
tiền phục vụ sản xuất kinh doanh số 02/07-2011/HĐVT ký ngày 20/07/2011 giữa
Công ty Cổ phần Đầu Tư Phát triển M.N và bà Đinh Thị T ... Trong văn bản của
bà Đinh Thị T gửi Ngân hàng chỉ cần nêu số tiền mà Ngân hàng phải thanh toán
thay cho Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển M.N, tài khoản chuyển tiền mà không
cần phải nêu bất cứ lý do nào khác … Bảo lãnh thanh toán này có hiệu lực từ khi
Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển M.N nhận được đầy đủ tiền vay (Bảy tỷ đồng
chẵn) theo quy định tại Hợp đồng cho đến khi Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển
M.N thanh toán đầy đủ tiền vay và tiền lãi vay theo quy định tại hợp đồng cho bà
Đinh Thị T”. Agribank – Chi nhánh T.H cũng có Văn bản số 217 ngày 21/7/2011
xác nhận việc phát hành Thư bảo lãnh nêu trên là có thực và đúng thẩm quyền của
Giám đốc A. Ngày 26/7/2011, bà T đã chuyển số tiền 7.000.000.000 đồng bằng
Ủy nhiệm chi vào tài khoản của Công ty M.N mở tại Ngân hàng A – Chi nhánh
Tây Hà Nội trên cơ sở Thư bảo lãnh do Ngân hàng A phát hành. Sau đó, Công ty
M.N có Văn bản số 0207/2011 ngày 26/7/2011 xác nhận đã nhận đủ tiền vay. Tuy
nhiên, do Công ty M.N không thanh toán đúng hạn số tiền vay nêu trên cho bà T;
Ngân hàng A – Chi nhánh Tây Hà Nội cũng không đồng ý thanh toán tiền vay và
tiền lãi theo Thư bảo lãnh nên bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng A
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
[2] Ngân hàng A không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T vì cho rằng
Thư bảo lãnh vô hiệu. Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng A xác định ông H1
(nguyên Giám đốc Ngân hàng A - Chi nhánh T.H) không có quyền đại diện cho
Ngân hàng A ký phát hành bảo lãnh vay vốn trong nước theo quy định tại Điều 21
Quyết định 398/QĐ-HĐQT-TD ngày 02/5/2007 về bảo lãnh Ngân hàng trong hệ
thống Ngân hàng A. Tuy nhiên, quy định nêu trên là quy định nội bộ của Ngân
hàng A, có giá trị ràng buộc nghĩa vụ của người đứng đầu Chi nhánh Ngân hàng

5
328
A (ông H1) phải biết và thực hiện. Việc ký Thư bảo lãnh vượt quá phạm vi ủy
quyền của Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H là lỗi của Ngân hàng A và
Chi nhánh Ngân hàng A nên không thuộc trường hợp Ngân hàng A được miễn
hoặc chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định tại Điều 28, Điều 29 Quy định bảo
lãnh Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng A (ban hành kèm theo Quyết định số
398/QĐ-HĐQT-TD ngày 02/5/2007 của Hội đồng quản trị Ngân hàng A). Mặt
khác, khi giao dịch với Ngân hàng A, khách hàng như Công ty M.N và bà T không
thể biết và không buộc phải biết các quy định nội bộ nêu trên, họ cũng không phải
là đối tượng điều chỉnh của các quy định đó.
[3] Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định bà T buộc phải biết việc ông H1
(Giám đốc Ngân hàng A – Chi nhánh T.H) ký Thư bảo lãnh có thuộc phạm vi ủy
quyền hay không khi tham gia giao dịch với Ngân hàng A và do bà T không thực
hiện quyền của mình mà vẫn chuyển tiền cho Công ty M.N nên không thể buộc
Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ theo Thư bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy định của
Ngân hàng thì Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của Ngân hàng
về việc Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Việc kiểm tra, thẩm định hồ sơ xem khách hàng có đủ điều kiện đư
ợc bảo lãnh hay không, có hồ sơ bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh để từ đó
chấp nhận hay từ chối bảo lãnh là nghĩa vụ của Chi nhánh Ngân hàng A khi thực
hiện thủ tục bảo lãnh. Bà T là người có quyền thụ hưởng bảo lãnh của Ngân hàng
A; bà T không liên quan đến việc lập hồ sơ, thẩm định, xét duyệt và ký Thư bảo
lãnh của Ngân hàng A là thật hay giả, đúng phạm vi ủy quyền hay không. Thực
tế, để có cơ sở tin tưởng thực hiện hợp đồng vay tiền phục vụ sản xuất kinh doanh
và chuyển tiền vào tài khoản của Công ty M.N mở tại Ngân hàng A – Chi nhánh
T.H nên khi nhận được Thư bảo lãnh bà T đã kiểm tra bằng cách yêu cầu Ngân
hàng A - Chi nhánh T.H xác nhận Thư bảo lãnh mà Chi nhánh Ngân hàng A đã
phát hành. Vì vậy, nhận định nêu trên của Tòa án cấp giám đốc thẩm là không có
cơ sở, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
[4] Ngân hàng A không công nhận giá trị pháp lý của Thư bảo lãnh vì cho
rằng ông H1 vi phạm các quy định của Ngân hàng A trong quá trình phát hành Th
ư bảo lãnh, nhưng đây là trách nhiệm giữa cá nhân ông H với pháp nhân là Ngân
hàng A. Theo quy định về Chi nhánh tại Điều 92 Bộ luật dân sự năm 2005 thì
Ngân hàng A – Chi nhánh T.H là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng A, có nhiệm vụ
thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân là Ngân hàng A; khi
Chi nhánh Ngân hàng A xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì sẽ phát sinh quyền
và nghĩa vụ của Ngân hàng A. Do đó, trong trường hợp này Ngân hàng A phải có
trách nhiệm thực hiện cam kết bảo lãnh tại Thư bảo lãnh do Ngân hàng A – Chi
nhánh T.H phát hành theo quy định tại Điều 93 Bộ luật dân sự năm 2005. Tòa án
cấp giám đốc thẩm nhận định không thể buộc Ngân hàng A thực hiện nghĩa vụ tại

6
329
Thư bảo lãnh do Ngân hàng A – Chi nhánh T.H phát hành là không phù hợp với
các quy định pháp luật nêu trên và không đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp
của bà T.
[5] Ngân hàng A còn cho rằng Thư bảo lãnh không có trong hồ sơ, sổ sách
theo dõi, không thu phí bảo lãnh, không được hạch toán trên IPCAS (phần mềm l
ưu trữ thông tin) của Ngân hàng A. Tuy nhiên, các vấn đề này thuộc về trách nhiệm
của Ngân hàng A khi quản lý, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về bảo
lãnh.
[6] Thư bảo lãnh do ông H ký với tư cách là Giám đốc Ngân hàng A - Chi
nhánh T.H, có đóng dấu của Ngân hàng A – Chi nhánh T.H nên Thư bảo lãnh là
văn bản do Ngân hàng A phát hành, trong đó ông H1 chỉ ký với tư cách là người đ
ại diện của Ngân hàng A. Do đó, Tòa án cấp giám đốc thẩm nhận định việc giải
quyết yêu cầu khởi kiện của bà T có liên quan đến trách nhiệm của ông H1 trong
việc ký Thư bảo lãnh nên cần thiết đưa ông H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không phù hợp với các quy
định của pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 337, Điều 342, Khoản 2 Điều 343, Điều 344
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2022/KN-
KDTM ngày 30/5/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số 04/2020/KDTM-GĐT ngày
17/02/2020 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại H.N về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh” giữa nguyên đơn là bà Đinh Thị T với bị đơn là
Ngân hàng A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần Đầu tư
Phát triển M.N.
3. Giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 41/2019/KDTM-PT
ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H.

7
330
Quyết định số 44/2018/KDTM-GĐT ngày 10/9/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 10/9/2010 Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai có ký hợp đồng tín
dụng với Công ty TNHH N với nội dung cơ bản như sau:
- Công ty TNHH N vay số tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
- Mục đích vay bổ sung vốn công trình xây dụng.
- Thời hạn vay 08 tháng tính từ ngày giải ngân vay vốn đầu tiên.
- Lãi suất linh hoạt.
- Tài sản thế chấp gồm: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường
A, thành phố B và công trình xây dựng trên đất do bà Nguyễn Thị T đứng tên trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng và quyền sở hữu nhà; quyền sử dụng thửa đất số
313, tờ bản đồ 42 phường C, thành phố B và công trình xây dựng trên đất do bà
Phạm Thị D đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà để bảo đảm thanh toán cho Ngân hàng.
Ngoài ra còn một số thỏa thuận khác đã ghi trong hợp đồng.
Ngày 14/9/2010, Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai đã giao Công
ty TNHH N số tiền 02 tỷ đồng, sau đó Công ty TNHH N vi phạm nghĩa vụ thanh
toán, Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai đã nhiều lần yêu cầu Công ty
TNHH N thanh toán nợ, nhưng vẫn không thực hiện.
Trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ Công ty TNHH N đã thanh toán số
tiền lãi là 77.613.890 đồng. Ngày 14/12/2010 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số
tiền vốn vay thành khoản nợ quá hạn với mức lãi của 150% lãi trong hạn là
13,15%. Nay Ngân hàng TMCP K yêu cầu Công ty TNHH N phải thanh toán số
tiền gốc 2.000.000.000 đồng (Hai tỷ đồng); tiền lãi gồm lãi suất quá hạn và lãi phạt
tổng tính tới hết ngày 27/09/2016 là 2.890.456.069 đồng; nếu Công ty TNHH N
không có tài sản thanh toán thì yêu cầu các tài sản thế chấp dùng bảo đảm thanh
toán số tiền cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai.
Theo bản tự khai và nhữmg lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện
của Công ty TNHH N trình bày:
Hợp đồng tín dụng, thế chấp tài sản đúng như đại diện nguyên đơn nêu, số
tiền vốn và tiền lãi mà Công ty TNHH N còn thiếu Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh
Đồng Nai đúng như đại diện Ngân hàng nêu. Nay Công ty TNHH N không có ý
kiến gì, nhất trí thanh toán tiền cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà có ký hợp đồng dùng quyền sử dụng thửa
đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và công trình xây dựng trên đất,
do bà đứng tên bảo lãnh cho Công ty TNHH N vay tiền là đúng sự thật. Nay bà
không có ý kiến gì.
+ Bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn Thị N1 và Nguyễn Thị H1
trình bày: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B do
bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của chung các bà với bà
T. Thửa đất có nguồn gốc do cha các bà là ông Nguyễn Văn T1 để lại (ông T1
chết ngày 12/05/1990), nên là tài sản chung của các bà với bà T. Việc bà T dùng
quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B bảo lãnh cho

1 331
Công ty TNHH N vay tiền khi không có ý kiến của các bà là không đúng. Nay
các bà yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ
bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất này.
+ Ông Nguyễn Ngọc T2 trình bày: quyền sử dụng thửa đất số 85, tờ bản đồ
21, phường A, thành phố B này là chung của ông với bà T và các bà Nguyễn Thị
H, Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn Thị N1, Nguyễn Thị H1 vì của cha ông để lại.
Do đó, ông cùng vợ và các con bà T vẫn sống trên nhà, đất này. Năm 2006 ông
và vợ là bà Lê Thị H2 đầu tư tiền sửa nhà trên đất này. Mẹ ông là bà T tự động
đem thế chấp bảo lãnh cho Công ty TNHH N vay tiền là không đúng. Nay ông
không đồng ý với yêu cầu của Ngân hàng TMCP K là dùng quyền sử dụng thửa
đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất này
bảo đảm thanh toán tiền thay cho Công ty TNHH N đối với Ngân hàng TMCP K.
+ Bà Lê Thị H2 trình bày: Năm 2006 bà và chồng là ông T2 đầu tư tiền sửa
sang lại nhà trên thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B nhưng để
bà T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu. Bà cùng chồng và một số người
con bà T vẫn sinh sống trên nhà, đất này. Bà T đem thế chấp bảo lãnh cho Công
ty TNHH N vay tiền khi không có ý kiến của vợ chồng bà và các người con của
bà T đang sống trên đất là không đúng. Nay bà không đồng ý với yêu cầu của
Ngân hàng TMCP K.
+ Bà Phạm Thị D trình bày: Bà có ký vào giấy thế chấp quyền sử dụng thửa
đất số 313, tờ bản đồ 42, phường C, thành phố B và công trình xây dựng trên đất
do bà đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà vay tiền giùm cho bà Nguyễn Thị Thanh T3 và ông Nguyễn Phạm
Quang M, thực sự bà không nhận tiền của Ngân hàng. Nay bà cũng nhất trí dùng
nhà đất đã thế chấp để thanh toán tiền cho Ngân hàng TMCP K thay cho Công ty
TNHH N. Còn tiền bà đã thanh toán cho Ngân hàng bà sẽ yêu cầu giải quyết sa:
+ Các anh, chị Nguyễn Phạm Thị Thủy T4; Nguyễn Phạm Thị Thùy T5;
Nguyễn Đắc Thiện T6 và Nguyễn Đắc Thanh T7 vắng mặt trong suốt quá trình
thụ lý giải quyết vụ án, nên không có ý kiến trình bày.
+ Bà Nguyễn Thị Thanh T3 và ông Nguyễn Phạm Quang M vắng mặt trong
suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án nên không có ý kiến trình bày.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày 27/9/2016 của Tòa
án nhân dân huyện Trảng Bom, quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu của Ngân hàng TMCP K. Buộc Công ty
TNHH N có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai
số tiền vốn 02 tỷ đồng và số tiền đến hết ngày 27/9/2016 là 2.270.757.010 đồng.
Kể từ ngày 28/9/2016, nếu Công ty TNHH N chưa thanh toán số tiền vốn
trên thì phải trả thêm tiền lãi theo mức lãi đã ký kết trên hợp đồng tín dụng số
25/HĐTD/NH-PN/TCB-BHA ký ngày 10/9/2010.
Nếu Công ty TNHH N không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng TMCP K
được quyền yêu cầu phát mãi quyền sử dụng đất thửa 313, tờ bản đồ 42, phường C,
thành phố B và quyền sở hữu nhà trên đất để thanh toán cho Ngân hàng TMCP K
- Chi nhánh Đồng Nai.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1,
Nguyễn Thị N1 và Nguyễn Thị H1. Tuyên bố hợp đồng thế chấp bảo lãnh quyền
sử dụng thửa số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B và quyền sở hữu nhà

2 332
trên đất này giữa Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai với bà Nguyễn Thị T
vào ngày 13/9/2010 bị vô hiệu.
Buộc Ngân hàng TMCP K - Chi nhánh Đồng Nai trả lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A,
thành phố B cho bà Nguyễn Thị T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của đương sự.
Tại bản án dân sự phúc phẩm số 07/2017/KDTM-PT ngày 07/4/2017 của
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, quyết định: sửa một phần bản án dân sự sợ thẩm
về án phí, các phần khác giữ nguyên.
Ngoài ra, bản án phúc thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án.
Ngày 10/10/2017, Ngân hàng TMCP K đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
đối với bản án phúc thẩm trên với lý do yêu cầu xác định hợp đồng thế chấp bảo
lãnh của cụ Nguyễn Thị T là hợp pháp.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 72/2018/KN-KDTM ngày
06/4/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-PT
ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai theo thủ tục giám đốc thẩm.
Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám
đốc thẩm hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số
07/2017/KDTM-PT ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và một
phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày
27/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về phần thế
chấp bảo đảm nhà đất tại địa chỉ 12/1, đường E, phường A, thành phố B, tỉnh
Đồng Nai của cụ Nguyễn Thị T đối với Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương
- Chi nhánh Đồng Nai.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số
4701051315 do Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai cấp vào ngày 06/9/2002 thì cụ
Nguyễn Thị T là người đứng tên chủ sở hữu căn nhà số 12/1, đường E tọa lạc trên
thửa đất số 85, tờ bản đồ 21, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Ngày
13/9/2010, cụ Nguyễn Thị T thế chấp toàn bộ nhà đất trên để đảm bảo cho khoản
vay 1.646.260.000 đồng của Công ty TNHH N đối với Ngân hàng TMCP K - Chi
nhánh Đồng Nai theo hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba số 25-02/HĐTC-
BĐS/TCB-BHA ngày 10/9/2010. Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất ở nêu trên thì cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu hợp pháp đối
với nhà đất tại địa chỉ 12/1, đường E, phường Quyết Thắng. Vì vậy, cụ Nguyễn
Thị T có quyền ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh theo đúng quy định pháp luật.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng nhà đất trên là tài sản chung
của cụ Nguyễn Thị T và các con là các ông, bà Nguyễn Thị Kim D1, Nguyễn
Ngọc T2, Nguyễn Thị N1, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Kim D1 nên việc cụ T một
mình tự ý ký kết hợp đồng thế chấp tài sản bảo lãnh là không đúng pháp luật. Tuy
nhiên, hồ sơ vụ án không thể hiện có bất cứ tài liệu chứng cứ gì chứng minh đây

3 333
là tài sản chung của cụ T và các con của cụ T. Do đó, nhận định này của Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm là không có cơ sở pháp lý.
[3] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn nhận định rằng vào ngày
09/9/2010, cụ Nguyễn Thị T đã lập hợp đồng ủy quyền cho ông T2 toàn quyền sử
dụng nhà đất với thời hạn 05 năm, trong khi hợp đồng ủy quyền chưa chấm dứt
thì cụ Nguyễn Thị T đã ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh là không đúng với Điều
122 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự. Do cụ Nguyễn Thị T là chủ sở hữu nhà đất nêu trên nên dù cụ T có ủy quyền
cho ông T2 toàn quyền sử dụng thì cũng không làm hạn chế hoặc làm mất đi
quyền về tài sản theo quy định của pháp luật của cụ T. Do đó, nhận định của Tòa
án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng là không chính xác.
[4] Mặt khác, khi ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh, cụ Nguyễn Thị T đã 84
tuổi (sinh năm 1926). Theo quy định của pháp luật thì cụ T là người già yếu. Vì
vậy, cần xem xét, đánh giá lại việc cụ T ký hợp đồng thế chấp bảo lãnh có hoàn
toàn tự nguyện hay không; tình trạng sức khỏe, tinh thần của cụ T có đảm bảo để
tự mình xác lập các giao dịch dân sự trên hay không, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm chưa làm rõ nên chưa có đủ cơ sở để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng
thế chấp bảo lãnh mà cụ T đã ký kết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 72/2018/KN-KDTM ngày
04/6/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2017/KDTM-PT
ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và một phần Bản án kinh
doanh thương mại sơ thẩm số 06/2016/KDTM-ST ngày 27/9/2016 của Tòa án
nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng và hợp đồng thế chấp tài sản” giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ
phần Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Đồng Nai với bị đơn là Công ty trách
nhiệm hữu hạn N - Đ - C cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác
trong vụ án, về phần xử lý tài sản thế chấp bảo đảm nhà đất tại địa chỉ số 12/1,
đường E, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai của cụ Nguyễn Thị T đối với
Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương - Chi nhánh Đồng Nai.
Giao hồ sơ vụ án nêu trên cho Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng
Nai giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật./.

4 334
335
336
337
338
339
340
341
342
343
344
345
346
347
348
349
350
351
352
353
354
355
356
357
358
359
360
361
362
363
364
365
366
367
368
369
370
371
372
373
374
375
376
377
378
379
380
381
382
383
384
385
386
387
388
389
390
391
392
393
394

You might also like