You are on page 1of 12

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

MÔN KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ


HỒ SƠ LS.DS 06

TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT


Nguyên đơn: Chu Thị Thanh, Chu Văn Sinh

Bị đơn: Đinh Thị Tám

Họ và tên : PHAN THỊ KHÁNH HUYỀN

Ngày sinh : 20/05/1998

Số báo danh : 128

Lớp Luật sư : 22.2D2 HN

Hà Nội, tháng 07 năm 2021


TÓM TẮT
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN................................................................................1
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG............................................................................1
III. PHẦN TRÌNH BÀY YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN..................3
IV. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỚI TƯ CÁCH LUẬT SƯ CỦA
NGUYÊN ĐƠN............................................................................................................... 4
IV. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN......................................................................6
V. NHẬN XÉT BUỔI DIỄN ÁN....................................................................................9
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Vụ việc bà Thanh, ông Sinh, bà The, bà Loan tranh chấp đòi quyền sử dụng đất diện
tích 777m2 tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị đơn là bà Đinh Thị Tám.
Về nguồn gốc đất:
Ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc có 4 người con là Chu Thị Hồng Thanh
(sinh năm 1930), Chu Thị Loan (sinh năm 1934), Chu Khắc Sinh (sinh năm 1936) và Bà
Chu Thị The (sinh năm 1944). Ông Trường mất năm 1945, năm 1990 bà Cúc mất không để
lại di chúc, để lại mảnh đất diện tích 777m 2 tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 lập năm 1998
tại thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Ngày 20/01/1994 ông Chu Khắc Sinh tự ý lập giấy chuyển nhượng mảnh đất nói trên
cho vợ chồng ông Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám giá trị là 1,500,000 (Một triệu năm
trăm nghìn) mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế khác.
Ngày 10/04/1944, UBND xã Phù Vân ra thông báo số 05/ TB-UB về việc tạm đình
chỉ việc chuyển nhượng nói trên giữa ông Sinh và vợ chồng ông Thuyên.
Ngày 15/04/1994, chị em bà Thanh, bà Loan, bà The và ông Sinh đã thống nhất giao
mảnh đất cho ông Thuyên để trông nomvới nội dung: Để có nơi hương khói thờ phụng ông
bà, cha mẹ và cũng là nơi anh chị em gặp mặt trong những ngày giỗ, tết hàng năm. Sau khi
đươc sự đồng ý nội, ngoại ông bà nhất chí làm giấy ủy quyền giao cho ông Chu Khắc
Thuyên, thời hạn giao là 05 năm bắt đầu từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999. Người
được sử dụng phải có giao ước sau: Nhà cửa tu sửa giữ để ở, không để dột nát, đất đai tự sản
xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ đối với nhà nước (trồng cây ngắn ngày). Không
được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét,
cây cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hằng năm phải có
sự chứng kiến của 2 bên nội, ngoại. Số tiền đó ông Thuyên được hưởng 50% phần còn lại 4
chị em bà Thanh sử dụng. Mảnh đất trên vợ chồng ông Thuyên, bà Tám quản lý và sử dụng,
nộp thuế từ năm 1990 đến nay.
Tháng 5/2016 bà Tám xây dựng 01 căn nhà cấp 4 khoảng 100m 2 trên mảnh đất kể
trên. Không đồng ý với việc xây cất trên bà Thanh đã có đơn gửi UBND xã Phù Vân đền
nghị giải quyết tranh chấp đất đai giữa 4 chị em bà với bà Đinh Thị Tám. UBND xã Phù Vân
đã tiến hành 02 lần hòa giải ngày 19/6/2016 và 25/10/2016 nhưng không có kết quả.
Ngày 5/11/2016 bà Thanh và ông Sinh cùng đứng tên trong đơn khởi kiện đến Toà án
nhân dân thành phố Phủ Lý đòi quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với mảnh đất đang tranh
chấp nói trên đối với bà Đinh Thị Tám với yêu cầu như sau:
- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại tài sản là mảnh đất diện tích 777 m 2 thuộc thửa đất
số 40 tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6 xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam.
- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám tháo dỡ toàn bộ tài sản, nhà cửa trên đất mà bà Tám đã tự ý
xây cất trái phép và thanh toán 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày
15/04/1994 – 15/04/1999.
Tòa án nhân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã thụ lý vụ án và ra thông báo số
20/TB-TLVA ngày 09/11/2016.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG

1
2.1. Đương sự
Nguyên đơn
- Bà Chu Thị Hồng Thanh Sinh năm 1930 (Tên khác: Chu Thị Thanh)
Địa chỉ: nhà 12 phố 16, phường Nam Thanh, TP Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm sinh năm 1970.
Địa chỉ: nhà 61 phố 16 phường Nam Thanh, TP Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Ông Chu Khắc Sinh Sinh năm 1936 (Tên khác: Chu Văn Sinh)
Địa chỉ: Thôn Vạn Thắng, xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Bị đơn
- Bà Đinh Thị Tám Sinh năm 1930
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Bà Chu Thị Loan Sinh năm 1934
Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết Sinh năm 1952.
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Bà Chu Thị The Sinh năm 1944.
Địa chỉ: Đội 1, thôn Diên Điền, xã Binh Hòa, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết Sinh năm 1952.
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Ông Chu Khắc Hồng Sinh năm 1956
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Bà Trần Thị Đắc Sinh năm 1957
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Bà Chu Thị Mai Sinh năm 1952
Địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Người làm chứng
- Ông Phạm Trường Sinh - trưởng thôn 6, xã Phù Vân, TP Phủ Lý, Hà Nam
2.2. Thẩm quyền giải quyết
- Thẩm quyền của Toà án: Theo khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đây là
tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Thẩm quyền theo cấp xét xử: Theo điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự
2015quy định thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện: “Tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy
định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;” Do đó tranh chấp trên thuộc thẩm quyền
tòa án nhân dân cấp huyện.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ: Theo điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015
thì: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền giải quyết”. Thửa đất tranh chấp diện tích 777m 2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số
02 lập năm 1998 thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (nay là thành phố
Phủ Lý, Hà Nam).
Do đó thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Toà án nhân dân TP Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam.
2.3. Thời hiệu khởi kiện

2
Theo điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012 hướng d n thi hành một số quy định trong Phần
thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về những tranh chấp
dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện: “Tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác
quản lý, chiếm hữu là tranh chấp về tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp
của mình nhưng do người khác quản lý, chiếm hữu tài sản đó”. Do đó tranh chấp quyền sử
dụng diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù
Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
III. PHẦN TRÌNH BÀY YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN
3.1. Yêu cầu khởi kiện
Kính thưa Hội đồng xét xử, tôi là Phan Thị Khánh Huyền là luật sư thuộc văn phòng
luật sư Huyền Phan và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Hôm nay tôi tham dự phiên
tòa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là bà Chu Thị
Loan và ông Chu Khắc Sinh
Thay mặt cho thân chủ tôi xin trình bày nội dung vụ việc và yêu cầu của thân chủ
tôi như sau:
Ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc có 4 người con là bà Thanh, bà Loan, bà
The và ông Sinh. Ông Trường mất năm 1945, năm 1990 bà Cúc chết không để lại di chúc,
để lại mảnh đất diện tích 777m2 tại thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6,
xã Phù Vân, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Ngày 20/01/1994 ông Chu Khắc Sinh tự ý lập giấy quyền thừa kế mảnh đất nói trên
cho vợ chồng ông Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám mà không có sự đồng ý của các
đồng thừa kế khác. Nên ngày 10/04/1944, UBND xã Phù Vân ra thông báo số 05/ TB-UB về
việc tạm đình chỉ việc chuyển nhượng nói trên.
Ngày 15/04/1994, 4 chị em bà Thanh, bà Loan, bà The và ông Sinh đã giao mảnh đất
cho ông Thuyên để trông nom, quản lý với thời hạn giao là 05 năm từ ngày 15/4/1994 đến
ngày 15/4/1999 với giao ước nhà cửa tu sửa giữ để ở, không để dột nát, đất đại tự sản xuất
ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ đối với nhà nước (trồng cây ngắn ngày). Không được
xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét, cây cối
lưu niên không được chặt pháp. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hằng năm phải có sự
chứng kiến của 2 bên nội, ngoại. Số tiền đó ông Thuyên được hưởng 50% (năm mươi phần
trăm) phần còn lại 4 chị em bà Thanh sử dụng
Tháng 5/2016 bà Tám tự ý xây dựng trên mảnh đất kể trên. Không đồng ý với việc xây
dựng trên bà Thanh đã có đơn gửi UBND xã Phù Vân đền nghị giải quyết tranh chấp đất đai
giữa 4 chị em bà với bà Đinh Thị Tám. UBND xã Phù Vân đã tiến hành 02 lần hòa giải ngày
19/6/2016 và 25/10/2016 nhưng không có kết quả.
Ngày 5/11/2016 bà Thanh và ông Sinh gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân TP Phủ
Lý để đòi quyền sử dụng đối với mảnh đất trên đối với bà Đinh Thị Tám với yêu cầu:
Thứ nhất, yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại tài sản là mảnh đất diện tích 777 m 2 thuộc
thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6 xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, Hà Nam.
Thứ hai, yêu cầu bà Tám tháo dỡ toàn bộ nhà cửa và tài sản trên đất mà bà Tám đã tự ý
xây cất và thanh toán 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/04/1994 –
15/04/1999.
3
3.2. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Giấy chứng tử của bà Chu Thị Cúc
- Giấy xác nhận ông Chu Khắc Trường mất năm 1945
- Tờ bản đồ hiện trạng năm 1998 và tờ bản đồ năm 1990
- Bản sao sổ hộ khẩu gia đình
- Thông báo tạm đình chỉ việc chuyển quyền sử dụng đất của UBND xã Phù Vân ngày
10/4/1994
- Biên giao quyền trông nom ngày 15/4/1994
- Đơn đề nghị UBND xã Phù Vân can thiệp giải quyết
- Biên bản hòa giải của UBND xã Phù Vân ngày 19/6/2016, ngày 25/10/2016
3.3. Văn bản pháp luật áp dụng.
- Bộ luật dân sự 2005
- Pháp lệnh về thừa kế 1990
- Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC
- Thông tư số 03/TTLN ngày 10/8/1996 của liên ngành TANDTC, VKSNDTC
- Nghị quyết số 02/2004/NQ - HĐTP của HĐTP TANDTC
- Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
03/12/2012
IV. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỚI TƯ CÁCH LUẬT SƯ CỦA
NGUYÊN ĐƠN
4.1. Hỏi nguyên đơn
4.1.1. Hỏi nguyên đơn bà Chu Thị Thanh
- Bà Thanh cho biết hiện tại ai là người đứng tên trên sổ quản lý đất đai của xã đối với
mảnh đất diện tích 777 m 2 thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2, tại thôn 6 xã Phù Vân, huyện
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam?
- Bà Thanh, bà The, bà Loan, ông Sinh đã thỏa thuận chia di sản thừa kế bà Cúc để
chưa?
- Bà cho biết mối quan hệ giữa bà và bà Đinh Thị Tám cùng con gái bà Tám?
- Bà đã không sinh sống tại quê nhà bao nhiêu năm rồi?
- Bà Thanh có được ông Sinh thông báo trước khi ký ông Sinh lập “đơn chuyển quyền
thừa kế” ngày 20 tháng 01 năm 1994 cho ông Thuyên và bà Tám không?
- Bà Thanh cho biết nội dung thỏa thuận trong giấy giao quyền trông nom cho ông Chu
Khắc Thuyên vào ngày 15/04/1994?
- Bà Thanh có nhận được lợi tức từ cây lưu niên hàng năm trên thửa đất từ khi giao cho
ông Thuyên trông nom ngày 15 tháng 04 năm 1994 không?
- Sau năm 1999 ai là người chịu trách nhiệm nộp thuế đất?
- Khi làm đơn khởi kiện, bà có nguyện vọng gì về mảnh đất?
4.1.2. Hỏi nguyên đơn ông Chu Khắc Sinh
- Bà Thanh, bà Loan, bà The có đồng ý cho ông được chuyển quyền thừa kế mảnh đất
diện tích 777 m2 cho ông Thuyên và bà Tám không?
- Khi nhận số tiền 500.000 đồng từ ông Thuyên và bà Tám, ông có chia cho các chị em
là bà Thanh, bà Loan, bà The không?

4
- Bà Thanh, bà Loan, bà The có văn bản ủy quyền cho ông thực hiện chuyển quyền thừa
kế mảnh đất diện tích 777 m2 cho ông Thuyên và bà Tám không?
- Ông Sinh cho biết nội dung thỏa thuận trong giấy giao quyền trông nom cho ông Chu
Khắc Thuyên vào ngày 15/04/1994?
4.2. Hỏi bị đơn bà Đinh Thị Tám
- Tại các biên bản lấy lời khai và bản tố cáo, bà cho rằng bà Thanh, Bà Loan, Bà The,
ông Sinh không làm tròn nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ là bà Chu Thị Cúc, bà có
căn cứ gì chứng minh cho việc này?
- Bà Thanh, bà Loan, bà The có biết việc ông Chu Khắc Sinh chuyển quyền thừa kế
mảnh đất diện tích 777 m2 cho vợ chồng bà không?
- Bà Tám cho biết nội dung thỏa thuận trong giấy giao quyền trông nom cho ông Chu
Khắc Thuyên vào ngày 15/04/1994?
- Bà có nhận được thu nhập từ cây lưu niên trên mảnh đất diện tích 777 m 2 từ ngày
15/04/1994 đến nay không?
- Tại sao khi đã đồng ý ký vào “giấy giao quyền trông nom” ngày 15 tháng 04 năm
1994, sau khi ông Thuyên chết, bà lại không thực hiện theo đúng thỏa thuận?
- Bà có căn cứ chứng minh đã nộp tiền thuế đất từ năm 1994 đến nay không?
- Bà xây căn nhà trên thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 vào thời gian nào? bà Thanh, Bà
Loan, Bà The, ông Sinh có biết việc xây nhà của bà không?
- Việc ông Phạm Trường Sinh đề nghị chính quyền thôn đình chỉ việc xây dựng, cử 01
công an viên thôn đến đình chỉ nhưng bà không hợp tác và v n tiếp tục hành vi này
đúng không? Tại sao bà lại có hành vi chống đối quyết định của chính quyền địa
phương?
- Ngoài căn nhà trên thửa đất số 40 bà còn tài sản là nhà đất nào khác không?
4.3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
4.3.1. Hỏi bà Chu Thị The và Chu Thị Loan.
- Bà The và bà Loan có biết việc ông Sinh giao quyền thừa kế mảnh đất diện tích 777 m 2
ngày 20 tháng 01 năm 1994 cho ông Thuyên và bà Tám không?
- Bà The và bà Loan có nhận được lợi tức từ cây lưu niên hàng năm trên thửa đất từ khi
giao cho ông Thuyên trông nom ngày 15 tháng 04 năm 1994 không?
4.3.2. Hỏi bà Trần Thị Đắc - con dâu bà Tám
- Khi bà Cúc ốm mất, chị và chồng chị là anh Chu Khắc Hồng là người thường xuyên
qua lại chăm sóc bà Cúc, lo ma chay cúng cơm 100 ngày cho bà Cúc đúng không?
Việc này có ai chứng kiến không?
- Việc vợ chồng chị nộp tiền thuế đất đối với thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 từ năm
1990-1993 theo lời bà Tám khai có đúng không? Chị có căn cứ chứng minh không?
4.4. Hỏi người làm chứng Ông Phạm Trường Sinh - trưởng thôn 6, xã Phù Vân
- Ông làm trưởng thôn từ năm nào?
- Căn cứ nào để ông xác nhận việc nộp thuế đất đối với thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02
của chị Trần Thị Đắc, anh Chu Khắc Hồng, bà Đinh Thị Tám tại giấy biên nhận ngày
25/06/2016.
- Khi ông xuống nhắc nhở và cử công an viên xuống để đình chỉ việc xây dựng nhà trái
phép của bà Tám trên mảnh đất 777 m2 bà Tám thái độ bà Tám như thế sao?

5
IV. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN

ĐOÀN LUẬT SƯ T.P HÀ HÀ NỘI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
HUYỀN PHAN VÀ CỘNG SỰ

Tp. Phủ Lý, ngày 09 tháng 07 năm 2021

BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN
CHU THỊ THANH VÀ CHU VĂN SINH TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM

Kính thưa: - Hội đồng xét xử;


- Vị đại diện Viện kiếm sát;
- Vị Luật sư đồng nghiệp cùng toàn thể quý vị có mặt tại phiên tòa;

Tôi là Luật sư Phan Thị Khánh Huyền luật sư Văn phòng luật sư Huyền Phan và cộng
sự - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh -
nguyên đơn của vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” được đưa ra xét xử tại Tòa án
nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày hôm nay.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và theo dõi diễn biến tại phiên tòa ngày hôm nay. Tôi
xin trình bày quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng nguyên đơn trong
vụ án này như sau:
1. Về yêu cầu bà Thanh trả lại diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02
lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho các nguyên
đơn là hợp lý vì:
Thứ nhất, về nguồn gốc của thửa đất có diện tích 777 m 2 đang tranh chấp về
quyền sử dụng giữa nguyên đơn và bị đơn.
Tại các biên bản lấy lời khai của các đương sự gồm bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn
Sinh, bà Đinh Thị Tám, bà Chu Thị Loan, ông Chu Khắc Hồng (bút lục 35, 38, 57, 60,
68,71) đều thừa nhận rằng, thửa đất trên có từ đời ông Chu Khắc Yến là bố của ông Chu
Khắc Trường và ông Chu Khắc Chiến. Sau khi ông Yến mất đã để lại đất cho ông Chu Khắc
Trường và vợ là bà Chu Thị Cúc. Gia đình ông Trường bà Cúc cùng các con là bà Thanh, bà
The, bà Loan, ông Sinh đã sống ổn định lâu dài trên thửa đất này. ông Phạm Trường Sinh –
trưởng thôn 6, xã Phù Vân, bà Nguyễn Thị Thùy Ngân – Phó chủ tịch UBND xã Phù Vân
(bút lục 62) và hàng xóm và ông Lại Hồng Minh cán bộ địa chính xã (bút lục 16, 25) cũng
công nhận gia đình ông Trường đã sống ổn định lâu dài trên thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02.
Sau này ông Trường mất năm 1945, bà Cúc tiếp tục sử dụng đến khi bà Cúc mất vào năm
1990. Bà Chu Thị Cúc đứng tên trong sổ quản lý đất đai của UBND xã Phù Vân. Bà Cúc
chết không để lại di chúc. Do các con của ông Trường, bà Cúc là bà Thanh, bà The, bà Loan,
ông Sinh đi làm ăn xa nên hiện nay, thửa đất đang được bà Đinh Thị Tám quản lý, sử dụng,
xây dựng trái phép trên đất.

6
Thứ hai, về đơn chuyển quyền thừa kế của ông Chu Khắc Sinh cho ông Chu Khắc
Thuyên và bà Định Thị Tám vào ngày 20 tháng 01 năm 1994 là không hợp pháp.
-
Bà Thanh, bà The, bà Loan, ông Sinh thuộc hàng thừa kế thứ nhất và bốn người là sở
hữu chung của thửa đất 777 m2
Ông Chu Khắc Trường mất năm 1945, bà Cúc mất 29/08/1990. Hai ông bà có 4 người
con là Chu Thị Thanh, Chu Thị Loan, Chu Thị The, Chu Khắc Sinh. Khi bà Cúc mất
không có di chúc và để lại tài sản là thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại
thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với diện tích 777m2
Theo khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế 1990 và Mục 1 Nghị quyết số 02/HĐTP
ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài
sản do người chết để lại”. Do đó di sản thừa kế mà bà Cúc để lại diện tích đất 777 m 2
tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam.
Theo điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế 1990 và Mục 4 Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC quy định: “Hàng thứ nhất: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Theo khoản 2
Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế 1990 quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản ngang nhau”.
Vì vậy, bà Thanh, bà The, bà Loan, ông Sinh thuộc hàng thừa kế thứ nhất và bốn ông
bà được hưởng phần di sản ngang nhau. Quyền sở hữu với thửa đất 777 m 2 được xác
lập chung giữa bốn ông bà.
- Việc chuyển quyền thừa kế của ông Chu Khắc Sinh cho ông Chu Khắc Thuyên và bà
Đinh Thị Tám không được sự đồng ý của bà Chu Thị Thanh, bà Chu Thị Loan, bà Chu
Thị The.
Qua biên bản lấy lời khai của bà Thanh, bà Loan, bà The đều khẳng định việc ông Chu
Khắc Sinh chuyển nhượng di sản cả ba bà đều không biết cũng không được sông Sinh
bàn bạc và thông báo (bút lục 35, 57, 60). Tại biên bản lấy lời khai ông Chu Khắc Sinh
cũng khẳng định ông tự ý chuyển nhượng thửa đất này cho ông Chu Khắc Thuyên
nhưng không được các chị em ruột đồng ý (bút lục 71). Ngoài ra bà Đinh Thị Tám
cũng thừa nhận tại biên bản lấy lời khai khi ông Sinh chuyển quyền thừa kế bà Thanh,
bà Loan, bà The không biết (bút lục 39). Do đó ông Sinh đã tự ý chuyển lại di sản thừa
kế mà không hỏi ý kiến và chưa có sự đồng ý của những người đồng thừa kế. Việc tự ý
chuyển di sản thừa kế là trái quy định của pháp luật.
- Việc chuyển quyền thừa kế của ông Chu Khắc Sinh cho ông Chu Khắc Thuyên và bà
Đinh Thị Tám đã bị tạm đình chỉ.
Vì ông Sinh tự ý chuyển quyền thừa kế cho ông Thuyên và bà Tám nên khi biết sự việc
trên ngày 04/04/1994 bà Thanh và bà The đã làm đơn khiếu nại gửi đến ủy ban nhân
dân xã Phù Vân. Sau khi nghiên cứu sự việc nhận thấy hành vi vi phạm của ông Sinh,
Ủy ban nhân dân xã Phù Vân đã ra thông báo số 05/TB-UB về việc tạm đình chỉ việc
chuyển quyền thừa kế giữa ông Sinh và ông Thuyên (bút lục 09).
Dựa vào những căn cứ trên, tôi khẳng định giấy chuyển quyền thừa kế giữa ông Chu
Khắc Sinh và ông Chu Khắc Thuyên, bà Đinh Thị Tám không có giá trị pháp lý. Thửa đất số
7
40, tờ bản đồ số 02 v n thuộc quyền sử dụng của các nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh, Chu
Thị Loan, Chu Thị The và ông Chu Khắc Sinh.
Thứ ba, bà Đinh Thị Tám tiếp tục quản lý, trông nom thửa đất là không có sự ủy
quyền của bà Thanh, bà Loan, bà The, ông Sinh sau khi ông Chu Khắc Thuyên mất là
không hợp pháp
Ngày 15 tháng 04 năm 1994 bà Thanh, bà The, bà Loan và ông Sinh đã làm Đơn giao
quyền trông nom cho ông Thuyên với thời hạn giao đất là 05 năm kể từ ngày 15 tháng 04
năm 1994 đến ngày 15 tháng 04 năm 1999 đã được các bên ký và UBND xã Phù Vân xác
nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự 2005 quy định về người quản lý di sản:
“Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thoả thuận cử ra” Như vậy, xác định ông Thuyên là người quản lý di sản đối với thửa đất số
40, tờ bản đồ số 02.
Tại khoản 8 Điều 374 Bộ luật dân sự 2005 quy định về nghĩa vụ dân sự chấm dứt khi:
“Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ
phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện”. Do đó khi ông Thuyên mất quyền
và nghĩa vụ của ông với thửa đất chấm dứt theo quy định. Ông Thuyên mất bà Tám là vợ
tiếp tục quản lý, trông nom thửa đất là không có sự ủy quyền của bà Thanh, bà Loan, bà The,
ông Sinh.
Căn cứ điểm b, mục 2.4 Nghị Quyết số 02/2004/NQ - HĐTP của Hội đồng thẩm phán
tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế
nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm
hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi
kiện người khác đó để đòi lại di sản.”. Vì vậy Việc bà Tám hiện nay quản lý sử dụng diện
tích 777 m2 thửa đất số 40, tờ bản đồ số 02 thuộc quyền thừa kế của các thân chủ tôi là việc
quản lý không có uỷ quyền, và thân chủ tôi có quyền khởi kiện đòi lại di sản.
Như vậy, với những căn cứ chứng minh trên thân chủ tôi yêu cầu bà Thanh trả lại
diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù
Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho các nguyên đơn là hợp lý.
2. Yêu cầu bà Tám tháo dỡ toàn bộ nhà cửa và tài sản trên đất mà bà Tám đã tự ý
xây cất và thanh toán 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên từ ngày 15/04/1994 –
15/04/1999.
Theo những chứng minh trên thửa đất là thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998
tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với diện tích 777m 2 là thuộc quyền sở
hữu của bà Thanh, bà Loan, bà The và ông Sinh. Khi ông Thuyên mất, bà Tám là vợ ông
Thuyên tiếp tục quản lý, trông nom thửa đất là không có sự ủy quyền của bà Thanh, bà
Loan, bà The và ông Sinh và tháng 05 năm 2016, bà Tám cùng con gái là Chu Thị Mai đã tự
ý phá một số tài sản trên đất và cây lưu niên để xây nhà cấp bốn trên thửa đất số 40, tờ bản
đồ số 02 và sinh sống tại ngôi nhà đó cho đến nay mà không thông báo cho bà Thanh, bà
Loan, bà The và ông Sinh. Hành vi xây nhà trái phép của bà Tám đã được đại diện chính
quyền thôn là ông Phạm Trường Sinh nhắc nhở, cử công an viên xuống để đình chỉ việc xây
dựng nhưng bà Tám v n cố tình tiếp tục xây dựng nhà và sinh sống đến ngày hôm nay.
Căn cứ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 639 Bộ luật dân sự 2005 về nghĩa vụ của
người quản lý di sản: “ Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của

8
Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây; đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế” Do
đó bà Tám tháo dỡ toàn bộ nhà cửa và tài sản trên đất mà bà Tám đã tự ý xây cất.
Giấy giao quyền trông nom của bà Chu Thị Thanh, Chu Thị Loan, Chu Thị The, Chu
Khắc Sinh cho ông Chu Khắc Thuyên vào ngày 15/04/1994. Đơn giao quyền trông nom ghi
nhận rằng: Thời hạn giao đất là 05 năm kể từ ngày 15 tháng 04 năm 1994 đến ngày 15 tháng
04 năm 1999. Người được sử dụng phải tu sửa nhà cửa, giữ không để dột nát, không được
xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng, không được đào khoét. Cây
cối lưu niên không được chặt phá. Giá trị thu nhập từ cây lưu niên ông Thuyên trích 50%
cho chị em bà Thanh sử dụng (bút lục 10). Tuy nhiên, căn cứ tài liệu vụ án, lời khai của các
đương sự ngày hôm nay cho thấy, ông Thuyên, bà Tám đã vi phạm nghiêm trọng những
nghĩa vụ đã cam kết tại văn bản này. Cụ thể: trong khoảng thời gian 05 năm kể từ ngày được
giao đất, ông Thuyên chưa thanh toán bất kỳ lợi tức nào có được từ cây lưu niên trên đất cho
thân chủ chúng tôi. Vì vậy yêu cầu bà Tám thanh toán 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu
niên kể từ ngày 15/04/1994 – 15/04/1999.
Trên cơ sở lập luận nêu trên và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tôi kính đề nghị
HĐXX xem xét yêu cầu:
1. Công nhận quyền sở hữu chung toàn bộ diện tích đất tranh chấp cho các đồng nguyên
đơn. Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại toàn bộ diện tích đất 777m2 tại thửa đất số 40 tờ
bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đang
quản lý cho các đồng nguyên đơn.
2. Buộc bà Tám tháo dỡ toàn bộ nhà cửa và tài sản trên đất và chịu mọi chi phí tháo dỡ do
bà Tám đã tự ý xây cất.
3. Buộc bà Tám thanh toán 50% tổng giá trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/04/1994
đến 15/04/1999.
Trên đây là quan điểm của tôi với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho nguyên đơn kính mong Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận đề nghị của luật sư.
Trân trọng cám ơn Hội đồng xét xử đã chú ý lắng nghe !

Luật sư
Phan Thị Khánh Huyền

V. NHẬN XÉT BUỔI DIỄN ÁN

Do khách quan, việc diễn án online nhóm không ghi rõ tên hai nguyên đơn, tên của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để việc theo dõi dễ dàng hơn.
1. Nhận xét về Hội đồng xét xử
1.1. Vai chủ tọa phiên Tòa
- Đã điều hành khá tốt phiên tòa, giọng nói rõng rạc, chủ toạ biết ngắt khi luật sư bị đơn
hỏi lặp câu hỏi. Tuy nhiên việc điều hành còn dài dòng
- Chủ toạ hỏi nguyên đơn, bị đơn trình bày đầu tiên là không cần thiết vì có luật sư nên
luật sư sẽ trình bày
- Chủ toạ hỏi bị đơn có yêu cầu phản tố là không đúng, vì bị đơn không có yêu cầu phản
tố
9
- Phần bắt đầu phiên toà: Chủ toạ phiên toà không kiểm tra căn cước đương sự
- Chủ toạ phiên toà đọc sai “Viện kiểm sát” -> “Viện kiểm soát”
1.2. Hội Thẩm
- Hội thẩm có tham gia hỏi để làm rõ nội dung vụ án
2. Thư kí phiên tòa
Nắm bắt được trình tự phiên toà
3. Nhận xét vai Kiểm sát viên
- Kiểm sát viên đã thực hiện tốt vai diễn, kiểm sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật của
Hội đồng xét xử, thư ký và đương sự. Tuy nhiên Kiểm sát viên chưa đưa ra một số sai
phạm trong quá trình tố tụng và biện pháp khắc phục, sai phạm
4. Nhận xét vai Luật sư
4.1. Luật sư bên nguyên đơn
- Luật sư hỏi phù hợp với định hướng bảo vệ cho nguyên đơn, tuy nhiên câu hỏi chưa
làm rõ hết được vấn đề tranh chấp
- Luật sư Linh dùng thuật ngữ pháp lý sai “Hội đồng xét xử”-> “Hội đồng thẩm phán
- Luật sư đưa ra quan điểm yêu cầu bị đơn trả 55.000.000 hoa lợi không có căn cứ chứng
minh số tiền hoa lợi
- Luật sư chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên luận cứ bảo vệ chưa làm rõ được nội dung
tranh chấp, quan điểm bảo vệ bị đơn chưa rõ ràng, trình bày phạm vi yêu cầu chưa đầy
đủ, chính xác
- Luật sư nguyên đơn nhầm l n giữa trình bày và tranh luận
4.2. Luật sư bên bị đơn
- Luật sư bị đơn trình bày là luật sư bảo vệ cho bị đơn Chu Văn Sinh, nhưng Chu Văn
Sinh là nguyên đơn
- Luận cứ bảo vệ chưa làm rõ được nội dung tranh chấp, quan điểm bảo vệ bị đơn chưa
rõ ràng
- Phần trình bày về vụ việc hơi dài cần nói ngắn gọn xúc tích hơn
- Luật sư bị đơn và bị đơn chưa thống nhất được định hướng bảo vệ, trái với ý chí bị
đơn. Luật sư bị đơn đưa ra những lập luận chống lại bị đơn: phân tích hợp đồng vô hiệu
- Luật sư Quang nói nhỏ, nhanh và không rõ ràng, hỏi nhiều ý trong một câu khiến
đương sự không trả lời được hết ý.
- Luật sư bị đơn bị nhầm l n giữa lập luận và trình bày
- Nên trao đổi với bị đơn để chuyển hướng bảo vệ, vì bà Tám có công sức lớn khi ma
chay, chăm sóc và quản lý đất đai. Bà Tám là người già nên áp dụng luật người cao
tuổi. Yêu cầu công nhận ¼ mảnh đất.
 Bị đơn chỉ trả lại tài sản khi đã công nhận công sức và ¼ hợp đồng
5. Nhận xét các vai diễn khác
- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã nắm
rõ hồ sơ, hiểu về quyền và lợi ích hợp pháp của vai diễn để hoàn thành tốt

10

You might also like