Professional Documents
Culture Documents
cho Ông Chu Khắc Thuyên gồm: đất thổ diện tích 502 m2, một
nhà hai gian mái ngói
vách đất, ao cùng toàn bộ cây cối lưu niên trong vườn. Việc
chuyển quyền này đã được
trưởng tộc họ – ông Chu Khắc, trưởng thôn 6 – ông Chu Hải
Nông, ông Chu Khắc Chinh
và UBND xã Phù Vân xác nhận. Ông Thuyên có đưa cho ông Sinh
500.000 đồng hỗ trợ
cho ông Sinh lên vùng kinh tế mới làm ăn.
Tháng 4/1994, bà Chu Thị Thanh và bà Chu Thị The về quê thì
biết việc ông Sinh
chuyển quyền thừa kế cho ông Thuyên nên đã làm đơn khiếu nại
đến UBND xã Phù Vân.
Ngày 10/4/1994, UBND xã Phù Vân ra thông báo số 05/TB-UB về
việc tạm đình chỉ việc
chuyển quyền thừa kế.
Ngày 15/04/1994, bốn chị em bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà
The đã thống nhất
giao mảnh đất trên cho ông Thuyên, bà Tám trong nom, quản lý,
với nội dung: giao quyền
sử dụng đất và nhà trên đất và các cây cối lưu niên cho ông
Thuyên sử dụng và thu hoạch,
thời hạn giao là 5 năm kể từ ngày 15/4/1994 đến ngày 15/4/1999.
Việc giao quyền trông
nom này có sự chứng kiến của đại diện họ nội, họ ngoại và xác
nhận của chính quyền địa
phương.
Đầu tháng 5/2012, bà Đinh Thị Tám tiến hành xây dựng nhà trên
mảnh đất diện tích
nói trên. Cuối tháng 5/2012, bà Thanh biết được việc xây dựng
nhà của bà Tám nên đã trở
về quê ngăn cản và thông báo cho chính quyền địa phương.
UBND xã Phù Vân đã tiến
hành 2 phiên hòa giải ngày 19/06/2012 và ngày 25/10/2012 nhưng
không có kết quả. Việc
hòa giải được lập thành văn bản (BL 25-29).
3
Ngày 05/11/2012, bà Thanh và ông Sinh gửi đơn khởi kiện đến
TAND thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để yêu cầu bà Tám trả đất, trả nhà, cây cối
trên đất và 50% tổng giá
trị thu nhập cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994.
Ngày 09/11/2012, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra thông
báo số 20/TBTLVA về việc thụ lý vụ án. Ngày 23/02/2013, TAND
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tiến
hành hòa giải lần 1 cho các đương sự.
Ngày 23/02/2013, ông Chu Văn Sinh làm đơn yêu cầu định giá tài
sản, với tài sản
định giá là: thửa đất số 2 tờ bản đồ số 40 lập năm 1998, diện tích
777,4 m2, nhà cửa vật
kiến trúc, cây cối và hoa màu trên đất. TAND thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam ra quyết
định số 02/2012/QĐ-ĐG quyết định định giá tài sản. Ngày
01/3/2013, TAND thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã tiến hành định giá tài sản tranh chấp.
Ngày 03/8/2013, TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ra quyết
định số
65/2012/QĐST-DS đưa vụ án ra xét xử.
1.3. Yêu cầu của nguyên đơn
Nguyên đơn bà Chu Thị Hồng Thanh (Chu Thị Thanh), ông Chu
Văn Sinh yêu cầu
bà Đinh Thị Tám phải:
1- Trả lại diện tích 777m2 đất tại thửa số 40 lập năm 1998, địa chỉ:
thôn 6, xã Phù
Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho bà Chu Thị Thanh, ông
Chu Văn Sinh, bà Chu
Thị Loan và bà Chu Thị The.
2- Tháo dỡ nhà và các công trình đã xây dựng trái phép trên thửa
đất.
3- Trả lại nhà và cây cối trên diện tích đất 777m2 tại thửa đất số
40 lập năm 1998
của gia đình và hoa màu trên đất với 50% tổng giá trị thu nhập cây
lưu niên kể từ ngày
15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi UBND xã Phù Vân, thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam (15/4/1994).
1.4. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Các chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
có căn cứ và hợp
pháp bao gồm:
1- Giấy CMND của ông Chu Văn Sinh (bản photo) - chứng minh tư
cách đương sự;
Giấy CMND của bà Chu Thị Thanh (bản photo) - chứng minh tư
cách đương sự.
2- Giấy xác nhận ông Chu Khắc Trường đã chết (BL 16) - chứng
minh thời điểm mở
di sản thừa kế;
Giấy chứng tử của bà Chu Thị Cúc (bản chính) (BL 17) - chứng
minh thời điểm
mở di sản thừa kế;
2.2.
4) Hiện nay nguyện vọng của bà như thế nào đối với việc giải
quyết vụ án?
2.3.2. Hỏi bà Chu Thị Mai
1) Tài sản trên đất mà ông Sinh, bà Thanh đang kiện đòi mẹ đẻ bà
(mẹ con bà đang
ở) là của ai?
2) Phần nghĩa vụ tài chính và thuế đối với thửa đất này từ trước
đến nay ai nộp?
3.
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa:
Tôi là luật sư
– Thuộc văn phòng Luật sư AN thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hà Nội. Tôi tham gia phiên toà hôm nay với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn
Sinh trong vụ án “tranh
chấp quyền sử dụng đất” với bị đơn là bà Đinh Thị Tám, được đưa
ra xét xử ngày hôm
nay.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, trao đổi với các đương sự và theo
dõi diễn biến phiên
tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng, hợp
pháp cho nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh.
Chúng tôi xin khẳng
định, các yêu cầu bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh đưa ra
là hoàn toàn có căn cứ
và hợp pháp.
I.
Ông Trường chết năm 1945, bà Cúc chết năm 1990, hai ông bà có
bốn người con là
Thanh, Sinh, Loan, The. Di sản để lại gồm mảnh đất diện tích 777
m 2 thuộc thửa số 2, tờ
bản đồ số 40 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam.
Theo khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990, Mục 1 Nghị
quyết số
02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài
sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác,
quyền về tài sản do người
chết để lại.”
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Pháp lệnh về thừa kế
năm 1990, Mục
4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 thì hàng thừa kế thứ
nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990
quy định:
“Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng
nhau”.
Từ các căn cứ nêu trên, khẳng định bốn người con của ông
Trường, bà Cúc thuộc
hàng thừa kế thứ nhất, và di sản là mảnh đất 777m2 được chia
làm bốn phần bằng nhau.
Thửa đất (bao gồm cả hoa lợi, lợi tức có được, phát sinh từ tài sản
đó) là tài sản thừa
kế của bốn người con gồm Thanh, Sinh, The, Loan nên quyền sở
hữu được xác lập chung
giữa bốn người.
Thứ hai, việc chuyển nhượng di sản thừa kế do ông Sinh tự mình
định đoạt, không
được sự chấp thuận của các đồng thừa kế.
Căn cứ vào biên bản lấy lời khai của bà Đinh Thị Tám ngày
21/11/2012 (BL 38-40),
bà Tám thừa nhận rằng việc chuyển quyền thừa kế toàn bộ đất
đai, nhà cửa và cây cối trên
thửa đất trên chỉ do ông Sinh chuyển cho vợ chồng bà Tám. Bà
Thanh, bà Loan và bà The
không hề biết sự việc trên.
Ngoài ra, theo nội dung thỏa thuận ngày 15/04/1994 (BL 10-11)
của bốn chị em bà
Chu Thị Thanh về việc giao quyền trông nom di sản thừa kế cho
vợ chồng ông Thuyên,
bà Tám, thì vợ chồng ông bà Thuyên - Tám chỉ thực hiện việc
trôm nom quản lý, không
được làm thay đổi hiện trạng và thực hiện bất kỳ công việc gì
ngoài việc trông nom, quản
lý và thu hoạch cây trái.
Theo quy định tại Điều 681 BLDS năm 2005 về Họp mặt những
người thừa kế: Sau
khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố,
những người thừa kế có
thể họp mặt để thoả thuận bao gồm nhưng không giới hạn về: Cử
người quản lý di sản,
xác định quyền, nghĩa vụ của những người này và mọi thỏa thuận
của các đồng thừa kế
đều phải lập thành văn bản.
Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định việc ông Sinh tự ý chuyển
nhượng lại toàn bộ di
sản thừa kế cho ông Thuyên mà không hỏi ý kiến và chưa có sự
đồng ý của các anh chị
em khác với tư cách là các đồng thừa là trái quy định pháp luật, dù
có sự đồng ý của
8
trưởng thôn, trưởng tộc, xác nhận của UBND xã nhưng đều là
không phù hợp với pháp
luật nên không có giá trị pháp lý.
Theo đó, vợ chồng ông bà Thuyên – Tám chỉ có quyền trông nom,
quản lý và được
phép khai thác hoa màu từ diện tích đất trên theo thỏa thuận của
các bên trong biên bản
giao quyền trông nom (BL 10-11).
2. Hành vi chiếm hữu và xây dựng nhà trái phép trên đất Nguyên
đơn của Bị đơn
Việc bốn người con của ông Trường và bà Cúc ký thỏa thuận giao
cho ông Thuyên
quyền quản lý, trông nom di sản thừa kế, căn cứ theo quy định tại
Điều 638 BLDS năm
2005 thì ông Thuyên chính là người quản lý phần di sản đó. Ông
Thuyên có các quyền và
nghĩa vụ theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005 về Nghĩa vụ
của người quản lý di
sản và Điều 640 BLDS năm 2005 Quyền của người quản lý di sản.
Theo quy định tại Điều 639 BLDS năm 2005, người quản lý di sản
không được bán,
tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình
thức khác nếu không được
những người đồng thừa kế đồng ý bằng văn bản.
Đến ngày 3/3/1999 thì ông Thuyên mất, các đồng thừa kế vì ở xa
nên chưa có điều
kiện để về chia di sản nên việc trông nom di sản do vợ ông
Thuyên là bà Tám tiếp tục
thực hiện. Bà Tám có nghĩa vụ phải giao lại di sản theo yêu cầu
của người thừa kế là phù
hợp theo quy định của pháp luật.
Đến tháng 6/2012, bà Tám thực hiện việc xây dựng trái phép trên
mảnh đất di sản.
Ngày 19/6/2012, trong biên bản hòa giải tranh chấp đất đai giữa
bà Thanh và bà Tám tại
UBND xã Phù Vân (BL 25-26) đã kết luận:
1- Việc bà Tám xây dựng là xây dựng trái phép;
2- Đất đang tranh chấp là đất của bà Chu Thị Cúc chứ không phải
là đất của bà Tám;
3- Việc xây dựng của gia đình bà Tám yêu cầu giữ nguyên hiện
trạng.
Tuy nhiên bà Tám không chịu ký vào văn bản và vẫn tiếp tục hành
vi xây dựng trái
phép.
Đến ngày 25/10/2012 theo đơn yêu cầu của ông Sinh về việc giải
quyết tranh chấp
đất đai và hành vi xây dựng trái phép của bà Tám, UBND xã đã
tiến hành mời hai bên lên
hòa giải lần hai, nhưng bà Tám cố tình vắng mặt mà không có lý
do chính đáng. Hành vi
của Tám cho thấy sự bất chấp trước pháp luật, cố tình trì hoãn
việc trả lại đất cho các
đồng thời kế.
Do đó, việc bà Tám tự ý xây dựng các công trình trên đất là vi
phạm quy định của
pháp luật vì bản thân bà Tám không có quyền sử dụng đối với
thửa đất trên.
Căn cứ theo quy định tại Điều 255 BLDS năm 2005 về Các biện
pháp bảo vệ quyền
sở hữu thì “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu
cầu Toà án, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền
sở hữu, quyền chiếm
hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Căn cứ tại Điều 256 BLDS năm 2005 về Quyền đòi lại tài sản thì
“Chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu,
người sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó”.
Theo quy định tại Điều 599 BLDS năm 2005 về nghĩa vụ hoàn trả
thì “Người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có
căn cứ pháp luật thì phải
hoàn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó”.
Mặt khác theo quy định tại điểm b, mục 2.4 Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP
TANDTC, trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế,
nhưng các thừa kế không
trực tiếp sử dụng quản lý, mà di sản đó đang do người khác chiếm
hữu, quản lý theo ủy
quyền thì các thừa kế có quyền kiện đòi tài sản.
Từ những căn cứ trên, kết luận việc chiếm hữu và xây dựng của
bà Tám là không có
căn cứ pháp luật nên thân chủ tôi và các anh chị em của thân chủ
tôi hoàn toàn có quyền
yêu cầu bà Tám phải trả lại tài sản và tháo dỡ toàn bộ nhà và
công trình xây dựng trái
phép trên thửa đất.
3. Bị đơn vi phạm thỏa thuận trông nom, quản lý di sản và thu hoa
lợi, lợi tức
Theo thỏa thuận giao quyền trông nom, quản lý di sản ngày
15/4/1994 (BL 10-11)
có sự đồng tình của bên giao là bốn người con của bà Cúc và ông
Thuyên là bên nhận.
Căn cứ thỏa thuận thì “Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng
4 năm 1994 đến tháng
15 tháng 4 năm 1999, với nội dung thỏa thuận: giao quyền trông
nom, quản lý cho người
nhận trong nom, nhà cửa tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất
đai tự sản xuất ra sản
phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn
ngày) không được xây
dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không
được đào khoét, các cây
cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu
niên hàng năm phải có
sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ông Chu Khắc
Thuyên được hưởng 50%
(năm mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà Thanh sử
dụng – mở tài khoản ở
ngân hàng do bà Chu Thị Thanh đứng tên)”.
Nhưng trong thời gian trông nom, gia đình ông Thuyên dù có thực
hiện việc thu
hoạch hoa lợi trên đất của bà Cúc nhưng cho đến nay ông Thuyên
không hề trích 50% thu
10
nhập từ hoa lợi trên đất cho bốn chị em bà Thanh và việc Nguyên
đơn kiện đòi Bị đơn
phải thanh toán số tiền trên là có căn cứ.
Từ những phân tích và dẫn chứng nêu trên, cho thấy các yêu cầu
của nguyên đơn
hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, kính đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét:
1- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại diện tích 777m2 đất tại thửa số
40 lập năm 1998,
địa chỉ: thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam cho
bà Chu Thị Thanh, ông
Chu Văn Sinh, bà Chu Thị Loan và bà Chu Thị The.
2- Yêu cầu bà Đinh Thị Tám tháo dỡ nhà và các công trình đã xây
dựng trái phép
trên thửa đất.
3- Buộc bà Đinh Thị Tám phải trả lại nhà và cây cối trên diện tích
777m2 đất tại
thửa số 40 lập năm 1998 của gia đình và hoa màu trên đất với
50% tổng giá trị thu nhập
cây lưu niên kể từ ngày 15/4/1994 đến 15/4/1999 theo giấy gửi
UBND xã Phù Vân, thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (15/4/1994).
Trên đây là toàn bộ luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho thân chủ tôi –
Bà Nguyễn Thị Tuyết. Tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử, những
người tham gia tố tụng và
tham gia phiên tòa đã chú ý lắng nghe ý kiến của tôi.