Professional Documents
Culture Documents
Họ và tên :
Ngày sinh :
Số báo danh :
Lớp :
3. Hỏi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị Thoa
- Bà có biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa 496 hay không?
- Việc vợ chồng chị Nguyệt - Hảo xây nhà trên đất sô 496 bà có ý kiến gì
không?
- Từ lúc vợ chồng anh chị Nguyệt - Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trước khi ly thân, bà có ý kiến gì không?
- Từ năm 1999 đến nay, bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với thửa đất
này hay không?
- Tại sao thời điểm anh Nguyệt và chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, bà không có ý kiến gì mà đến hôm nay bà lại phản đối?
IV. LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN
Thứ hai, về yêu cầu nuôi con của bà Nguyễn Thị Hảo:
Bà Hảo và ông Nguyệt có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn
Đức Anh. Khi ly hôn bà Hảo yêu cầu được nuôi hai cháu mà không yêu cầu ông
Nguyệt thực hiện cấp dưỡng. Cả hai cháu đã trên 07 tuổi cho nên căn cứ vào khoản
2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014, phải xem xét nguyện vọng của các cháu là
muốn ở với bố hay mẹ sau khi ly hôn. Cụ thể,
- Đối với cháu Nguyễn Thị Nhi, trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyệt
và chị Hảo đã thoả thuận được về việc chị Hảo sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhi,
thể hiện qua các bút lục 115 - 118, 138 – 142; 175 – 177. Ngoài ra, tại Đơn đề nghị
ngày 20/01/2016 của cháu Nhi (Bút lục số 30) gửi cho Quý Toà, cháu Nhi có
nguyện vọng được ở với mẹ.
- Đối với cháu Nguyễn Đức Anh: Căn cứ vào Đơn đề nghị ngày 22/01/2016
của cháu Đức Anh (Bút lục số 31) và Biên bản lấy lời khai cháu Đứa Anh vào ngày
05/7/2016 (Bút lục số 166) gửi cho Quý Tòa, cháu Đức Anh đều có nguyện vọng
được ở với mẹ sau khi bố mẹ ly hôn. Cháu Đức Anh (10 tuổi) hiện đang học tiểu
học, đang trong tuổi ăn, tuổi lớn và dần định hình nhân cách nên cần có sự quan
tâm chăm sóc của gia đình, đặc biệt là bàn tay quan tâm của người mẹ. Hiện nay
cháu chỉ đang ở với ông Nguyệt, người cha hằng ngày vẫn phải lao động sáng tối
để kiếm thu nhập nên không thể chăm sóc chu đáo cho cháu Đức Anh. Cháu Đức
Anh đã có đơn yêu cầu được ở với mẹ như nêu trên. Dù mong muốn của cháu Đức
Anh là được ở với mẹ, nhưng anh Nguyệt vẫn cố tình gây cản trở, có tác động, ép
buộc cháu Đức Anh viết một lá đơn khác, với nội dung đề nghị cho cháu Đức Anh
được ở với cha, đề ngày 25/01/2016 và nộp cho Quý Tòa ngày 26/01/2016. Thử
hỏi rằng, nếu phải chung sống với cha một cách ép buộc và áp đặt như vậy, cháu
Đức Anh liệu có được thoải mái và hạnh phúc hay không? Ngoài ra, qua lời khai
của cháu Đức Anh, của bà Hảo (Bút lục 61) và cán bộ Tư pháp xã Thượng Đạt
(Bút lục 73), ông Nguyệt không cho cháu Đức Anh và bà Hảo gặp nhau. Nên hai
mẹ con phải lén lút gặp nhau, nếu ông Nguyệt biết thì sẽ đánh đập, hành hạ cháu.
Như vậy, trên quan điểm tôn trọng sự lựa chọn và quyết định của cháu Đức Anh và
quan hệ tình cảm gia đình, tôi nhận thấy rằng việc giao cháu Đức Anh cho thân chủ
tôi chăm sóc là hoàn toàn có căn cứ
- Trên thực tế, nguyên đơn hiện là công nhân đang làm việc tại công ty Trấn
An, mức thu nhập ổn định hàng tháng là 5-6 triệu đồng/tháng. Nguyên đơn hiện
đang ở với mẹ, tức bà ngoại của các cháu, bà có thế hỗ trợ chăm sóc và đưa đón
các cháu đến trường trong lúc thân chủ tôi phải đi làm việc, cháu Nhi cũng có thể
chăm sóc cháu Đức Anh tốt hơn. Bà ngoại của các cháu hiện sức khỏe hoàn toàn
tốt, vẫn còn minh mẫn, thực hiện các công việc nhà cửa hàng ngày mà không gặp
khó khăn gì. Ngoài ra, chị Hảo không cần phải hỗ trợ gì cho mẹ mình mà toàn bộ
thu nhập kiếm được sẽ dùng để chăm sóc cho các con và còn nhận được sự hỗ trợ
kinh tế từ gia đình của chị Hảo. Để thân chủ tôi nhận nuôi cả hai cháu là hoàn toàn
hợp lý hợp tình, chị em không bị chia cắt, các cháu luôn có bà ngoại chăm sóc bên
cạnh. Ngoài ra, thân chủ tôi vẫn sẽ để các cháu gặp cha chứ không có chuyện ngăn
cản thân chủ tôi gặp cháu Đức Anh như anh Nguyệt đã làm trong thời gian qua.
Chính vì lẽ trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được
nuôi cả hai con của bà Nguyễn Thị Hảo để phù hợp với nguyện vọng cũng như vì
lợi ích của hai cháu.
Thứ ba, về yêu cầu phân chia tài sản chung của hai vợ chồng:
Tôi xác định rằng những tài sản tôi liệt kê dưới đây là tài sản chung của vợ
chồng anh Nguyệt và chị Hảo:
- Thứ nhất, liên quan đến thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m2
tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, trên đất có một căn nhà
cấp 4 và công trình phụ. Đất hiện tại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên anh Nguyệt và chị Hảo.;
- Thứ hai, tài sản trên đất và thửa đất mà anh Nguyệt, chị Hảo đã ký hợp
đồng thầu khoán với UBND xã Thượng Đạt, có diện tích 1.962 m2 theo hợp đồng
khoán đất công điền chuyển đổi ngày 01/01/2013. Thời hạn của Hợp đồng là đến
hết ngày 31/12/2016.
Những tài sản chung nêu trên phải được chia đôi vì những lý do sau:
- Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất được cấp cho nguyên đơn và bị
đơn là hợp pháp và có căn cứ, cụ thể:
- Theo quy định tại Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004,
có hiệu lực từ ngày 16/11/2004, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhu cầu
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải nộp Đơn xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại UBND cấp xã nơi có đất kèm theo giấy tờ về quyền sử dụng
đất luật định. UBND cấp xã có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và
thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp
với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở UBND cấp xã và gửi hồ sơ đến
UBND cấp huyện xem xét, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và phần xét hỏi các đương sự tại
phiên tòa hôm nay cho thấy rằng vào năm 1999, nguyên đơn cùng chồng bắt đầu
trực tiếp sinh sống và sử dụng thửa đất số 496 được tặng cho hai vợ chồng từ gia
đình chồng của nguyên đơn. Theo xác minh của UBND xã Thượng Đạt thì ngày
21/7/2001, xã tổ chức lập biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất và đã có sơ đồ
ký giáp ranh mảnh đất này của gia đình anh Nguyệt, chị Hảo. Ngày 25/10/ 2001,
các hộ dân, trong đó có hộ anh Nguyệt, chị Hảo đã có đơn đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (dù sau đó đã bị lạc mất). Ngày 01/11/2001, UBND huyện
Nam Sách ra quyết định số 563/2002/QĐ-UB về việc giao đất cho 30 hộ dân và
niêm yết công khai tại UBND xã Thượng Đạt. Vào ngày 31/12/2005, gia đình
nguyên đơn đã được cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất.
Như vậy, việc hợp pháp hóa quyền sử dụng đất được diễn ra đồng loạt cho
cả 30 hộ dân và công khai, minh bạch. Do đó, chắc chắn rằng gia đình của anh
Nguyệt cũng đã biết đến việc triển khai cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất
này. Bà Thoa và ông Cang là chủ đất nhưng không đi kê khai do đó anh Nguyệt
đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Việc anh
Nguyệt nói không hề đi kê khai nhưng lại được UBND cấp giấy chứng nhận là
không hợp lý, bởi nếu không có đơn yêu cầu, không có căn cứ thì UBND biết cấp
giấy chứng nhận cho ai, và cũng không biết thông tin trên giấy là gì. Do đó, để có
đầy đủ thông tin trên Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất này, anh Nguyệt đã
đề nghị với UBND về việc cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất.
Đồng thời, thửa đất 496 là do bố mẹ bị đơn (Bà Thoa, ông Cang) tặng cho
vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo, bởi vì:
Qua các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và việc xét hỏi đương sự tại phiên tòa, tôi
nhận thấy việc bà Thoa, ông Cang giao đất cho vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo vào
năm 1999 thực chất là tặng cho chung cho cả 02 vợ chồng thân chủ tôi. Bởi lẽ, sau
khi nhận mảnh đất từ năm 1999, thì vợ chồng thân chủ tôi đã cùng nhau cải tạo
vùng đất trũng bằng việc xây nhà vào năm 1999, phun cát vào thửa đất vào năm
2002, đắp thêm nền vào năm 2004 và xây dựng các công trình phụ cũng như trồng
trọt quanh nhà. Bà Thoa, ông Cang và các anh em trong gia đình anh Nguyệt đều
biết việc xây dựng trên của vợ chồng thân chủ tôi, nhưng cũng không ai có ý kiến
phản đối.
Vợ chồng thân chủ tôi đã quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất trong 16 năm
liên tục nhưng bà Thoa, ông Cang và các anh em trong gia đình anh Nguyệt đều
mặc nhiên đồng ý việc này và không có tranh chấp, khiếu kiện gì về việc sử dụng,
quản lý đất của thân chủ tôi.
Từ khi được cấp giấy chứng nhận vào năm 2005 cho đến khi có việc ly hôn
của anh Nguyệt và thân chủ tôi, gia đình bà Thoa cũng không ai có khiếu nại gì về
việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình bà Thoa là đã cho
anh Nguyệt và chị Hảo phần đất tại thửa đất 496. Do đó, việc bà Thoa và anh
Nguyệt khai rằng anh Nguyệt không hề đăng ký kê khai giấy tờ đất mà lại được
UBND cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất và bà Thoa không biết gì về
giấy chứng nhận này là không có cơ sở để chấp nhận. Hơn nữa, việc bố mẹ tặng
cho đất cho con cái sau khi kết hôn là phổ biến trong xã hội Việt Nam và phù hợp
với đạo đức xã hội, phong tục, tập quán địa phương đã có từ lâu.
Việc yêu cầu hủy Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất của bị đơn là
không có căn cứ, cụ thể:
Theo quy định tại điểm d, khoản 2 và khoản 3 điều 106 Luật Đất Đai 2013
và điểm c, khoản 4, điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết
một số điều của Luật Đất Đai, có hiệu lực từ ngày 01/ 7/2014, Nhà nước thu hồi
Giấy chứng nhận đã cấp trong trường hợp Giấy chứng nhận đã cấp không đúng
thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không
đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng
đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Việc thu hồi
sẽ cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận thực hiện sau khi đã có kết luận
của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về giải quyết tranh chấp đất đai. Đồng thời, người sử dụng đất gửi kiến nghị,
phát hiện đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận để xem xét,
giải quyết.
Theo nội dung Công văn ngày 10/6/2016 của Phòng Tài nguyên và Môi
trường TP. Hải Dương gửi cho Quý Tòa (bút lục số số 133); Biên bản hòa giải
ngày 17/6/2016 (bút lục số 138 – 142) và ý kiến của đại diện UBND TP. Hải
Dương tại phiên tòa, UBND TP. Hải Dương, qua xem xét hồ sơ, đã khẳng định
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Nguyệt, chị Hảo là đúng
theo quy định của pháp luật và không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nêu trên của anh Nguyệt. Đối chiếu với các lý do nêu trên, kết
luận giải quyết vụ việc của UBND TP. Hải Dương là có căn cứ và hợp pháp, phù
hợp với sự thật khách quan của vụ án.
Yêu cầu về việc hủy GCNQSDĐ của bị đơn không phù hợp với trình tự
phản tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự: Theo quy định tại Điều 200,
Bộ luật Tố tụng dân sự bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn
và yêu cầu phản tố này phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại Điều 202. Theo hồ sơ
vụ án, bị đơn đưa ra ý kiến về việc hủy GCNQSDĐ lần đầu tiên tại Biên bản lấy
lời khai ngày 23/02/2016 và từ đó đến khi vụ án đưa ra xét xử, bị đơn không hề
đưa ra bất kỳ một đơn yêu cầu phản tố nào về việc hủy GCNQSDĐ gửi đến Toàn
án. Do vậy yêu cầu trên không đảm bảo về mặt tố tụng đối với một yêu cầu phản
tố, kính đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết yêu cầu hủy GCNQSDĐ của bị
đơn trong vụ án này.
Căn cứ vào án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-
CA ngày 06/4/2016 thì “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện
tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để
làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác
trong gia đình không có ý kiến phản đối gì, vợ chồng người con đã sử dụng nhà,
đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng
cho quyền sử dụng đất”. Từ những căn cứ nêu trên có thể khẳng định thửa đất 496
đã được bố mẹ ông Nguyệt tặng cho hai vợ chồng. Căn cứ Điều 33 Luật hôn nhân
gia đình năm 2014 thì đây là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Do đó, tôi kính đề nghị Quý Tòa xem xét công nhận thửa đất số 496 nói trên
là tài sản chung của vợ chồng thân chủ tôi và phân chia tài sản chung sau khi ly
hôn theo đúng quy định của pháp luật và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để
chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho thân chủ tôi.
Về mảnh đất thuê khoán, thời gian thuê đã hết từ cuối năm 2016 nên thân
chủ tôi không có yêu cầu gì đối với mảnh đất này.
7. Nguyên đơn –
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................