You are on page 1of 15

1

lOMoARcPSD|35149022

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN DÂN SỰ HỒ SƠ 7 LY HÔN


HẢO
NGUYỆT DONE
Luật Dân sự (Trường Đại học Luật Hà Nội)

Scan to open on Studocu


Studocu is not sponsored or endorsed by any college or university
Downloaded by Kiet Le (tuankiet3008@gmail.com)
lOMoARcPSD|35149022

BỘ TƯ PHÁP
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
---o0o---

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

MÔN: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA


GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

LS.DS 07 – TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN


Mã hồ sơ :
– HOÀNG THỊ HẢO – NGUYỄN VĂN NGUYỆT
Diễn lần : 01
Ngày diễn : 07/01/2023
Vai diễn : Ông Nguyễn Văn Chuyển – em trai của Ông Nguyễn Văn Nguyệt

Họ và tên : An Thị Hồng


Chuyên
Lớp : LS 24.1 H tại Hà Nội
SBD : 326
Ngày sinh : 01/01/1988
Hà Nội, Ngày 07 tháng 01 năm 2023
MỤC LỤC

1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU, TRÌNH BÀY CỦA CÁC
ĐƯƠNG SỰ..................................................................................................................................1

Downloaded by Kiet Le (tuankiet3008@gmail.com)


lOMoARcPSD|35149022

1.1. Tư cách đương sự...............................................................................................................1


1.2. Tóm tắt nội dung tranh chấp............................................................................................1
1.3. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn...................................................................................2
1.4. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn............................................3
1.5. Ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn........................................3
2. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA......................................................................................4
Hỏi với vai trò luật sư của nguyên đơn.......................................................................................4
2.1. Hỏi nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị Hảo............................................................................4
2.2. Hỏi bị đơn – Ông Nguyễn Văn Nguyệt.............................................................................4
2.3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Thoa...............................................5
2.4. Hỏi người làm chứng.........................................................................................................5
3. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN............................................................................6

Downloaded by Kiet Le (tuankiet3008@gmail.com)


1. TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP VÀ YÊU CẦU, TRÌNH BÀY CỦA CÁC
ĐƯƠNG SỰ
1.1. Tư cách đương sự
- Nguyên Đơn: Chị Nguyễn Thị Hảo. Sinh năm 1978. ĐKHKTT: Thôn Thượng Triệt I, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Hiện trú tại: Thôn Nam Giàng, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
- Bị Đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt. Sinh năm 1976. ĐKHKTT: Thôn Thượng Triệt I, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thoa và Ông Nguyễn Văn
Cang – có tài sản liên quan. Đều trú tại: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt I, xã Thượng
Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
1.2. Tóm tắt nội dung tranh chấp
• Ngày 26/03/1999, chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn
tại UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách (nay là thành phố Hải Dương), tỉnh Hải
Dương. Việc kết hôn này dựa trên sự tự nguyện của 2 người.
• Sau khi kết hôn và chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn: i) Theo chị Hảo thì là do tính tình không hợp, anh Nguyệt
hay đi chơi, về nhà lại chửi đánh vợ con; ii) Theo anh Nguyệt thì là do chị Hảo hay
ghen, vợ chồng cãi nhau là chị Hảo bỏ về nhà mẹ đẻ nhiều lần.
• Hai người sống ly thân hơn 01 năm kể từ năm 2014, không còn quan tâm đến nhau.
Chị Hảo và anh Nguyệt đều xác định tình cảm vợ chồng không còn.
• Chị Hảo xin ly hôn anh Nguyệt, anh Nguyệt đồng ý ly hôn.
Các vấn đề của vụ ly hôn:
• Các nội dung đã thỏa thuận được:
- Về tình cảm: Nguyên đơn và bị đơn thuận tình ly hôn.
- Về nợ chung: Khoản nợ đối với ngân hàng Agribank: nợ gốc 20.000.000 và số tiền
lãi phát sinh cho đến khi tất toán hợp đồng. Đã hoàn thành trả vào 28/06/2016 và ngân
hàng Agribank đã hoàn trả lại GCNQSDĐ đối với thửa đất 496 (BL 148-154).
- Về tài sản chung: 1965m2 đất ruộng, ao khoán có địa chỉ tại: Bãi Nam, khu 02
Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, Tp. Hải Dương để sử dụng vào mục đích chuyển đổi
cơ cấu cây trồng. Lúc đầu, chị Hảo đề nghị được sử dụng ½ diện tích được khoán và

1
anh Nguyệt không đồng ý do: anh Nguyệt là người trực tiếp ký hợp đồng thuê khoán
với UBND xã Thượng Đạt, quá trình sử dụng canh tác và hoàn thành các nghĩa vụ
nộp tiền thuê, tiền thuế đều do anh Nguyệt thực hiện; chị Hảo chỉ đóng góp công sức
không đáng kể trên diện tích đất này. Tuy nhiên, khi hòa giải, hai bên thống nhất
không yêu cầu tòa án giải quyết nội dung này nữa.

 Các nội dung chưa thỏa thuận được:

- Về con chung: Có 2 con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh 04/01/2000) và Nguyễn Đức
Anh (sinh 13/06/2007). Kể từ khi ly thân, cháu Nhi đang sống cùng chị Hảo, cháu
Đức Anh sống cùng anh Nguyệt. Chị Hảo yêu cầu nuôi cả 2 con chung. Anh Nguyệt
không đồng ý cho chị Hảo nuôi cả 2 con chung, anh Nguyệt đề nghị anh Nguyệt nuôi
bé Đức Anh, chị Hảo nuôi bé Nhi. Cả hai bên không yêu cầu bên kia phải cấp dưỡng
nuôi con.
- Về tài sản chung:
+ Chị Hảo xác định: Tài sản chung là nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Tài sản gắn liền trên đất bao gồm:
01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m 2, 1 giếng khơi, 1 bể
xây gạch xi măng khoảng 1,6m 3. Đất đã được cấp GCN QSDĐ mang tên anh Nguyệt
và chị Hảo. Chị Hảo yêu cầu được chia ½ diện tích đất, lấy phần không có tài sản, tài
sản trên đất không yêu cầu chia.
+ Anh Nguyệt xác định:
Không có tài sản chung là thửa đất số 496. Anh Nguyệt không đồng ý chia cho chị
Hảo.
Tài sản chung chỉ bao gồm 01 ngôi nhà 18m 2 lợp ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh
khoảng 10m2, 1 giếng khơi, 1 bể xây gạch xi măng khoẳng 1,6m 3. Anh Nguyệt đồng ý
chia đôi tài sản chung này, anh đề nghị nhận hiện vật, trả tiền cho chị Hảo.
1.3. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
i) Ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt;
ii) Nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng;
iii) Chia đôi tài sản chung là nhà, đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 1, diện tích 216m2 tại
xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Tại đơn khởi kiện, chị Hảo có yêu cầu chia đôi
nhà đất nhưng sau đó, tại Biên bản hòa giải ngày 12/07/2016, chị Hảo thay đổi yêu
cầu: không yêu cầu chia tài sản trên đất mà chỉ yêu cầu chia ½ diện tích đất và xin
được lấy phần không có tài sản.

2
1.4. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Các chứng cứ ban đầu chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp
pháp bao gồm:

 Tài liệu chứng minh tư cách đương sự:

- Chứng minh nhân dân, Bản sao sổ hộ khẩu gia đình số 270056469.

 Tài liệu chứng minh quan hệ tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn:

- Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/03/1999 – Hôn nhân giữa anh Nguyệt và
chị Hảo là tự nguyện và đúng pháp luật;
- Bản sao Giấy khai sinh cháu Nhi số 73 quyển số 2014 và cháu Nguyễn Đức Anh số
38 quyển số 2007 – chứng minh về con chung;

 Tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện có căn cứ hợp pháp:

- Bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 vào sổ H497 ngày
31/12/2005, đứng tên anh Nguyễn Văn Nguyệt và chị Nguyễn Thị Hảo – chứng minh
về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
1.5. Ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
• Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyệt đồng ý ly hôn với chị Hảo.
• Về con chung: Anh Nguyệt không đồng ý việc chị Hảo nuôi 02 con, anh yêu cầu
được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đức Anh, giao cháu Nhi cho chị Hảo nuôi dưỡng,
những lý do sau: i) Chị Hảo không đủ điều kiện chăm sóc cả 2 con, bằng chứng là chị
đã cho bé Nhi hiện đang ở cùng mẹ phải nghỉ học. Cháu Đức Anh ở với anh Nguyệt
đã có Đơn đề nghị xin tiếp tục ở với bố; ii) Anh Nguyệt đảm bảo có thể lo được cho
cháu Đức Anh. Đồng thời, nhà anh Nguyệt gần trường học rất tiện lợi cho cháu Đức
Anh đi học, có ông bà nội đưa đón đi học.
• Về tài sản chung, anh Nguyệt có các ý kiến như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng chỉ có duy nhất 01 ngôi nhà 18 m² lợp ngói, 01 gian bếp
và nhà vệ sinh khoảng 10 m² , 01 giếng khơi, 01 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6 m³,
ngoài ra không có gì nữa. Anh Nguyệt đồng ý chia tài sản này, anh nhận hiện vật, trả
tiền cho chị Hảo.
- Về thửa đất 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương theo GCN QSD Đất H497 được UBND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cấp
cho cả 02 vợ chồng ngày 31/12/2005: Không phải là tài sản chung của vợ. Anh
Nguyệt không đồng ý chia đất, yêu cầu hủy GCN QSDĐ của thửa đất 496 đã cấp cho
anh Nguyệt chị Hảo. Lý do anh Nguyệt đưa ra: i) Nguồn gốc đất là của mẹ anh

3
Nguyệt là bà Nguyễn Thị Thoa đã mua với giá 1.550.000 đồng, trong đó có 1.000.000
đồng là của anh trai anh Nguyệt là anh Nguyễn Văn Quyết, 550.000 đồng là của em
trai anh Nguyệt là anh Nguyễn Văn Chuyển, mẹ anh Nguyệt đứng ra thực hiện giao
dịch. Năm 1999 bố mẹ anh Nguyệt cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo xây dựng công
trình nhà ở trên đất để tách ra ở riêng; ii) Năm 2005, UBND xã Thượng Đạt và
UBND huyện Nam Sách đã tự làm GCN QSDĐ cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo,
anh Nguyệt không đứng ra kê khai để được cấp GCN QSDĐ này. Gia đình không ai
biết nên không ai có ý kiến. Sau này, anh Nguyệt đã thế chấp QSDĐ cho Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn để vay tiền.
2. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
Hỏi với vai trò luật sư của nguyên đơn
2.1. Hỏi nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị Hảo
Mục đích hỏi: Làm rõ vụ việc, chứng minh các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ
cụ thể: làm rõ khả năng nuôi con của nguyên đơn, chứng minh nguồn gốc tài sản chung và công
sức đóng góp của chị Hảo vào tài sản trên.
- Chị Hảo cho biết, tại sao chị lại quyết định ly hôn?
- Hiện tại chị đang làm công việc gì? Ở đâu? Mức thu nhập là bao nhiêu?
- Kể từ khi ly thân, chị sống ở đâu? Cùng với ai?
- Kể từ khi ly thân, chị có được gặp cháu Đức Anh không?
- Anh Chị ở trên thửa đất số 496 từ khi nào?
- Ai là người kê khai để cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496?
- Kể từ khi biết anh chị được cấp GCNQSDĐ, có ai trong gia đình anh Nguyệt có ý
kiến gì không? Có tranh chấp gì không?
- Ai là người thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đất cho Nhà nước từ năm 1999 cho đến
nay?
- Trong quá trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tôn tạo và xây dựng những gì? Có ai
trong gia đình có ý kiến gì không?
2.2. Hỏi bị đơn – Ông Nguyễn Văn Nguyệt
Mục đích hỏi: Tập trung vào những điểm yếu của bị đơn trong việc chăm sóc con cái, yêu cầu
chứng minh tài sản không phải tài sản chung.
- Anh Nguyệt cho biết, anh có thường xuyên chơi bài, uống rượu không?
- Trong thời gian hôn nhân, anh có chửi bới, đánh đập chị Hảo không?

4
- Kể từ khi ly thân, cháu Đức Anh có được gặp mẹ không? Cháu được gặp mẹ mấy lần?
- Việc anh chị được cấp GCNQSDĐ, có ai có ý kiến phản đối hay tranh chấp gì không?
2.3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – bà Thoa
Mục đích hỏi: Làm rõ ý thức của bà Thoa khi nào biết anh Nguyệt chị Hảo được cấp GCN
QSDĐ thửa đất 496.
- Bà có biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSDĐ thửa đất số 496 không?
- Khi biết anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSDĐ cho đến trước khi anh chị ly
thân bà có ý kiến phản đối không?
- Việc vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo xây nhà trên thửa đất số 496, bà có ý kiến gì
không?
- Từ năm 1999 đến nay, bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất đối với thửa đất này
không?
2.4. Hỏi người làm chứng
i) Hỏi Ông Chuyển – Em trai của Ông Nguyệt
Mục đích hỏi: Làm rõ công sức tôn tạo thửa đất của vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo và
trong gia đình không ai phản đối việc xây dựng của vợ chồng anh chị.
- Anh cho biết, kể từ khi chuyển về thửa đất 496 sinh sống, anh Nguyệt chị Hảo đã tôn
tạo xây dựng những gì?
- Anh và các thành viên trong gia đình có ý kiến gì với việc xây dựng này không?
ii) Hỏi Ông Bích – Công chức địa chính xã Thượng Đạt
Mục đích hỏi: Làm rõ quy trình cấp GCN QSDĐ là hợp pháp, không có tranh chấp,
khiếu nại.
- Quy trình cấp GCN QSDĐ cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo được thực hiện như
nào? Có đúng thủ tục pháp luật không?
- Sau khi vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo được cấp GCNQSDĐ, UBND xã có nhận được
bất kỳ ý kiến, đơn thư khiếu nại nào không?
- Từ trước đến nay có tranh chấp gì đối với thửa đất số 496 không?
iii) Hỏi Ông Tư – Cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt
Mục đích hỏi: Làm rõ việc anh Nguyệt không cho cháu Đức Anh gặp mẹ.
- Anh cho biết, việc anh Nguyệt không cho cháu Đức Anh gặp chị Hảo và đánh cháu
khi gặp mẹ có được nhiều người biết không?

5
3. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát!
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp và toàn thể quý vị đang có mặt tại phiên tòa ngày hôm
nay!
Tôi là luật sư… – thuộc Công ty luật… thuộc Đoàn Luật sư... Tôi tham gia phiên toà hôm
nay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là chị Nguyễn Thị
Hảo trong vụ án dân sự “Tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản”.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, tài liệu chứng cứ có trong vụ án và diễn biến phiên tòa ngày
hôm nay, tôi xin đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho nguyên
đơn là bà Nguyễn Thị Hảo. Tôi xin khẳng định, các yêu cầu khởi kiện chị Nguyễn Thị Hảo đưa
ra là hoàn toàn có căn cứ và hợp pháp.
1. Về yêu cầu ly hôn
Chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn hợp pháp với nhau
trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 26/03/1999.
Theo như lời trình bày của cả hai bên thì quan hệ hôn nhân của vợ chồng anh Nguyệt và
chị Hảo đã mâu thuẫn đến mức đỉnh điểm, không thể hòa giải được. Cụ thể thì sau khi cưới được
khoảng thời gian 02 năm thì anh Nguyệt và chị Hảo bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh Nguyệt
chơi bời, về nhà đánh chửi mẹ con chị Hảo. Gia đình anh Nguyệt biết mâu thuẫn này đã nhiều
lần khuyên can anh Nguyệt và hòa giải mối quan hệ vợ chồng nhưng không thành.
Đỉnh điểm mâu thuẫn, anh chị đã ly thân từ năm 2014, chị Hảo về sống tại nhà mẹ đẻ. Từ
đó đến nay, chị Hảo xác định tình cảm vợ chồng không còn, hai vợ chồng không còn quan tâm
đến nhau nữa. Vì vậy, chị Hảo xin ly hôn với anh Nguyệt. Anh Nguyệt cũng xác nhận không còn
tình cảm vợ chồng và đồng ý yêu cầu ly hôn của chị Hảo.
Do vậy, có thể khẳng định rằng cả hai bên không thể tiếp tục sống chung, hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, tôi kính đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 và các chứng cứ tại hồ
sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyệt và chị Hảo.
2. Về việc nuôi con chung
i) Về việc nuôi dưỡng cháu Nhi
Cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04/01/2000, là con chung của anh Nguyệt và chị Hảo
trong thời kỳ hôn nhân. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyệt và chị Hảo đã đạt được
thỏa thuận về việc chị Hảo sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhi, thể hiện tại biên bản hòa giải ngày
12/07/2016. Đồng thời, cháu Nhi cũng có đề nghị được ở với mẹ thông qua Đơn đề nghị ngày

6
20/01/2016. Khả năng kinh tế cũng như các yếu tố khác của chị Hảo có thể đáp ứng tốt việc nuôi
dạy cháu Nhi.
ii) Về việc nuôi dưỡng cháu Đức Anh
Cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007, là con chung của anh Nguyệt và chị Hảo
trong thời kỳ hôn nhân, tính đến thời điểm hiện tại cháu Đức Anh đã trên 07 tuổi.
Thứ nhất, về nguyện vọng của cháu Đức Anh. Theo Đơn đề nghị ngày 22/01/2016 và Biên
bản lấy lời khai ngày 05/07/2016 (có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu)
thì nguyện vọng của cháu Đức Anh là cháu muốn ở với mẹ nếu bố mẹ cháu ly hôn.
Thứ hai, về vấn đề tinh thần và tâm lý. Hiện nay cháu Đức Anh đã được 10 tuổi. Đây là độ
tuổi dễ bị ảnh hưởng về tâm lý, đang trong giai đoạn phát triển nhận thức và nhân cách; cháu rất
cần sự chăm sóc, tình yêu thương của người mẹ. Trong bối cảnh cha mẹ ly hôn, việc cháu được
ở cùng với mẹ và chị gái sẽ dễ dàng chia sẻ tình cảm sẽ tốt hơn cho sự phát triển của cháu.
Trong khi đó anh Nguyệt thường xuyên tụ tập ăn chơi, không chăm lo cho con cái, có
những hành động bạo lực trong suốt quá trình hôn nhân như đánh đập, chửi bới vợ con. Khi chị
Hảo đến thăm cháu Đức Anh thì anh Nguyệt đánh cả cháu.Với cách hành xử thô bạo như vậy
cháu Đức Anh rất dễ bị ảnh hưởng tâm sinh lý và khả năng phát triển bình thường của cháu.
Thứ ba, về vấn đề kinh tế và khả năng nuôi dưỡng. Hiện nay, chị Hảo có nơi ở ổn định, chị
đang sống ở nhà mẹ đẻ, có công việc ổn định với mức lương khá, cùng với đó là sự giúp đỡ của
mẹ ruôt chị trong việ c nuôi dạy các cháu, đưa đón cháu đi học. Điều này thể hiện ở phần xét hỏị
tại phiên tòa ngày hôm nay, các biên bản lấy lời khai của chị Hảo. Trong khi đó thu nhập của anh
Nguyệt không ổn định phụ thuộc vào chăn nuôi. Chị Hảo hoàn toàn có đủ điều kiện để nuôi
dưỡng cháu Đức Anh tốt hơn anh Nguyệt.
Ngoài ra, trong thời gian qua khi cháu Đức Anh ở với bố, anh Nguyệt đã không cho chị
Hảo gặp cháu, nếu chị Hảo gặp thì anh Nguyệt sẽ đánh cháu. Điều này chính quyền và bà con
hàng xóm láng giềng đều biết và ông Đỗ Văn Tư - cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt cũng đã xác
nhận thực tế này thông qua biên bản xác minh ngày 09/03/2016. Như vậy, nếu như anh Nguyệt
được giao nuôi cháu Đức Anh thì sau khi ly hôn, quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục cháu Đức Anh của chị Hảo theo Khoản 2 Điều 83 Luật HNGĐ 2014 không được bảo
đảm.
Như vậy, việc chị Hảo yêu cầu nuôi cả 2 con chung là cháu Nhi và cháu Đức Anh và
không cần cấp dưỡng là hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật cũng như thực tế hiện tại
và mong muốn của cháu Đức Anh và cháu Nhi.

7
3. Về tài sản chung
3.1. Thửa đất số 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của anh Nguyệt và chị Hảo
Thứ nhất, vợ chồng anh Nguyệt – chị Hảo được ông Cang – bà Thoa cho thửa đất số
496 để xây nhà và sinh sống lâu dài, công khai, ổn định trên thửa đất này từ năm 1999.
Chị Hảo, anh Nguyệt, các thành viên trong gia đình anh Nguyệt đều thống nhất rằng anh
chị đã được bố mẹ chồng là bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang cho vợ chồng anh
chị xây dựng nhà và công trình phụ để ra ở riêng từ năm 1999 sau khi kết hôn. Điều này cũng đã
được thể hiện qua Biên bản lấy lời khai của ông Ông Đỗ Văn Tỏ, Biên bản lấy lời khai của ông
Nguyễn Văn Giới và một số thợ khác đã xây nhà và công trình phụ cho hai vợ chồng năm 1999.
Thứ hai, thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt
từ năm 2005 một cách hợp pháp, đúng thủ tục pháp luật:
 Ngày 31/12/2005, UBND huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đã cấp cho ông Nguyễn
Văn Nguyệt và bà Nguyễn Thị Hảo GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1,
diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt.

 Công văn ngày 10/6/2016 của Phòng Tài nguyên và Môi trường UBND TP. Hải Dương
đã xác nhận về việc cấp GCNQSDĐ cho thửa số 496 nói trên cho anh Nguyệt và chị
Hảo trong khuôn khổ cấp đồng loạt cho cả 30 hộ dân trong xã Thượng Đạt, bảo đảm
đúng quy định của pháp luật và không chấp nhận yêu cầu hủy GCNQSDĐ này của anh
Nguyệt, bà Thoa và ông Cang.
Thứ ba, trong suốt thời gian sinh sống, cũng như từ khi anh Nguyệt chị Hảo được cấp
GCN QSDĐ đến nay không phát sinh bất kỳ tranh chấp, khiếu nại nào.
 Trong Công văn 10/6/2016 của Phòng Tài nguyên và Môi trường UBND TP. Hải
Dương nêu rõ: ông Cang, bà Thoa đã biết việc anh Nguyệt chị Hảo được cấp
GCNQSDĐ nhưng tất cả đều không có ý kiến về việc cấp GCNQSDĐ nêu trên; đồng
thời các thành viên trong gia đình ông Cang, bà Thoa không ai có tranh chấp hay ý kiến
phản đối gì.

 Tại buổi hòa giải ngày 19/5/2016, bà Thoa nêu rằng đã biết việc anh Nguyệt và chị Hảo
được cấp GCNQSĐ và bà Thoa và mọi người trong gia đình không ai có ý kiến phản
đối hay thắc mắc gì, không ai tranh chấp gì.

 Tại biên bản xác minh ngày 23/6/2016, ông Bích cán bộ địa chính xã Thượng Đạt xác
nhận kể từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay anh Nguyệt và chị Hảo sử dụng đất ổn
định không có tranh chấp với các hộ giáp ranh cũng như với ông Cang, bà Thoa và các
thành viên khác trong gia đình anh Nguyệt.

8
Thứ ba, trong thời gian sống trên thửa đất số 496, chị Hảo góp công cùng anh Nguyệt
tôn tạo cho thửa đất để biến thửa đất từ đất thùng vũng thành đất ở như hiện nay.
Lúc ban đầu thửa đất này là đất thùng vũng sâu (đất ao) mới chỉ được san lấp được một
phần để xây nhà và công trình phụ. Hai vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt hàng năm đã bỏ công
sức và tiền ra tôn tạo mảnh đất mới được như hiện nay.
 Tại bản xác minh ngày 09/03/2016, ông Nguyễn Văn Bích, là cán bộ địa chính xã
Thượng Đạt đã xác nhận rằng thửa đất này trước đây là thùng vũng.
 Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/03/2016, ông Đỗ Văn Tạo, là hàng xóm của hai vợ
chồng, đã nêu rõ tại thời điểm năm 2002 chị Nguyệt và anh Hảo đã ở trên thửa đất được
một thời gian và khi đó diện tích thùng vũng chiếm khoảng ¾ thửa đất, ông Tạo đã giúp
phun bùn bồi lắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp tục đắp thêm cho thửa đất
thùng vũng này.
Như vậy, các tài liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy rõ ràng rằng bà Thoa và ông Cang đã
giao lại toàn bộ thửa đất số 496 cho vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt sau khi hai người kết hôn
năm 1999. Hai vợ chồng đã xây dựng một nhà để ở trên diện tích đất này. Bà Thoa, ông Cang và
các thành viên trong gia đình anh Nguyệt đều biết việc xây dựng này và không ai có ý kiến hay
phản đối. Kể từ khi được cấp GCNQSDĐ năm 2005 đến khi có việc ly hôn của chị Hảo và anh
Nguyệt đã hơn 10 năm, vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai,
ổn định, gia đình bà Thoa, ông Cang cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này.
Điều đó thể hiện ý chí của gia đình bà Thoa, ông Cang là đã cho vợ chồng chị Hảo anh Nguyệt
diện tích đất nêu trên.
Trường hợp này, việc phân định thửa đất số 496 có thể được dẫn chiếu theo Án lệ số
03/2016/AL: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng
người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người
con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối
gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc
kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người
con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”
Như vậy, theo án lệ số 03/2016/AL, vợ chồng anh Nguyệt – chị Hảo được coi là được
tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất 496.
Theo Khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ 2014:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của
Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản
khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

9
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Như vậy, thửa đất số 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của anh Nguyệt và
chị Hảo.
3.2. Yêu cầu chia đôi thửa đất 496 của chị Hảo là hợp pháp và hợp lý
Về công sức đóng góp, tôn tạo thửa đất, tại các Biên bản ghi lời khai của anh Quyết, anh
Cương, anh Chuyển đều khẳng định thửa đất 496 khi mới mua về là vùng trũng, chị Hảo đã có
công sức cùng chồng lấp đất để san phẳng mặt bằng như hiện nay. Cùng với đó các lời khai cũng
khẳng định chị Hảo là người phụ nữ tần tảo, lo toan, vun vén cho gia đình. Vì vậy có thể khẳng
định tài sản trên hình thành dựa trên công sức đóng góp của chị Hảo trong thời kỳ hôn nhân.
Theo Khoản 2, 3 Điều 59 Luật HNGĐ 2014:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết
tài sảndo các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này
và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để
các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện
vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình
được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.”
Vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo khi kết hôn không có bất cứ thỏa thuận này về chế độ tài
sản của vợ chồng trong hôn nhân, cũng như không thể thỏa thuận được việc phân chia tài sản
thông qua hòa giải. Như vậy đối với tài sản chung là thửa đất số 496, căn cứ theo quy định tịa
Luật hôn nhân gia đình năm 2014, có tính đến các yếu tố hoàn cảnh của gia đình và của vợ,
chồng, công sức đóng góp của vợ chồng trong việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung, yêu
cầu chia đôi thửa đất bằng hiện vật của chị Hảo là hoàn toàn hợp pháp và hợp lý.
Từ những phân tích nêu trên, toàn bộ yêu cầu của chị Hảo, cụ thể là: i) Ly hôn anh
Nguyễn Văn Nguyệt; ii) Nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng; iii)

10
Chia đôi tài sản chung là thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, có địa chỉ tại xã
Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương bằng hiện vật là hoàn toàn hợp pháp và hợp
lý.
Vì vậy, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết và chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Hảo.
Trên đây là phần trình bày quan điểm của tôi đối với vụ án, kính mong Hội đồng xét xử
xem xét, giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn. Tôi xin cảm ơn
Hội đồng xét xử, những người tham gia tố tụng và tham gia phiên tòa đã chú ý lắng nghe ý kiến
của tôi.

11

You might also like